Tp chí Khoa hc S 76/Tháng 9(2023)
5
SC SNG CA DI SẢN VĂN HÓA TỪ TRUYN THNG
ĐẾN ĐƯƠNG ĐẠI: TRƯỜNG HP NGH RÈN CA
NGƯỜI NÙNG AN XÓM PÁC RNG, XÃ PHÚC SEN,
HUYN QUNG HÒA, TNH CAO BNG
1
Hoàng Th Lê Tho
Vin Hàn lâm Khoa hc xã hi Vit Nam
Tóm tt: Ngh n ca người ng An (xã Phúc Sen) đã được ng nhn di sản n a phi vật
th cp quốc gia năm 2019. Một trong nhng nét đặc bit ca di sn y là đã nh thành, tồn ti
t trong lch s hàng trămm vn duy tpt trin trong ngày nay. Tc là, di sn kng ch
thuc v quá kh, mà có s tiếp ni đến hin ti và tương lai. Đó sức sngnh lit t truyn
thng đến đương đại. Trên sở liu thc địa tháng 6-7/2022, bài viết y trình y nhng
thăng trầm ca ngh n ni Nùng An ti m c Rng (xã Phúc Sen) và đ cp, phân ch mt
s yếu t gii sc sngnh lit ca di sn văn hóa phi vt th y.
T khóa: di sản văn hóa, làng nghề, Nùng, phát trin, Cao Bng.
Nhn bài ngày 5.8.2023; gi phn bin, chnh sa, duyt đăng ngày 25.9.2023
Liên h tác gi: Hoàng Th Lê Tho; Email: nungathao@yahoo.com
1. M ĐẦU
1.1. Khái quát xóm Pác Rng
Pác Rng nm v trí Đông Nam của Phúc Sen, đối din vi hai xóm Phia Chang
Đâư Cọ, cách trung tâm huyện hơn 3 km. Từ quc l 3 đến trung tâm xóm là 0.5 km. Pác Rng
mt trong bn làng ngh rèn ca Phúc Sen
2
, được gi chung làng ngh rèn Phúc Sen.
Tng s h ca xóm hin nay có 65 h vi 283 nhân khu (UBND xã Phúc Sen 2022b), trong
đó 44 hộ làm ngh rèn (UBND xã Phúc Sen 2021). Nằm trong vùng III đặc biệt khó khăn,
1
Bài viết kết qu ca D án: Bo tn pt trin ngh th công truyn thng gn vi du lch vùng Công
viên đa cht non nưc Cao Bng (2021-2023), s: VINIF09 2021.VHLS 04, do TS. Bùi Th ch Lan
Ch nhim, Vin Dân tc hc là t chc ch trì. D án này được i tr bi Vingroup và h tr bi Qu Đi
mi, sáng to Vingroup (VINIF), Vin Nghn cu d liu ln.
2
Phúc Sen nm Tây Nam ca huyn Qung Hòa, cách trung tâm huyn khong 3 km, trên trc Quc l 3
chy qua t thành ph Cao Bằng đi Cửa khu Lùng, thun tin cho việc giao lưu văn hóa, phát trin kinh tế -
xã hi. Xã thuc vùng III, có 11 xóm, 4.175 nhân khẩu (năm 2022) với cơ cấu dân tc tuyệt đại đa số ngưi Nùng
An (tr mt s ít người Tày v làm dâu). ngh rèn th ng truyn thng, tp trung các xóm Pác Rng,
Phia Chang, Tiến Minh, Đâư Cọ.
Trường Đại hc Th đô Hà Nội
6
nhưng Pác Rằng có t l h nghèo thp 7,7% (5 h), cn nghèo 3 hộ, trong đó chỉ có 1 h làm
ngh rèn (tho lun nhóm vi cán b xóm Pác Rằng). Dân xóm 100% người Nùng An
(ch có 3 cô gái Tày v làm dâu).
1.2. Khái quát nhóm Nùng An và làng ngh rèn của người Nùng An
Dân tc Nùng thuc nhóm các dân tc nói ngôn ng Tày - Thái Kađai. Địa bàn t truyền
thng của người Nùng các tnh min núi Đông Bắc như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang,
Thái Nguyên,… Dân tộc Nùng có dân s chiếm 31,08% toàn tnh Cao Bng (Ban dân tc tnh
Cao Bằng 2019), tương đương 27% so vi tng dân s dân tc Nùng toàn quc (Tng cc thng
2020). Người Nùng Vit Nam nhiều nhóm địa phương như Nùng Inh, Nùng Cháo, Nùng
An, Nùng Phàn Slình.
Theo báo cáo biến động dân s ca y ban dân s tnh Cao Bằng năm 2009, nhóm Nùng
An chiếm 23,35% trong tng s dân tc Nùng ca tnh, phân b tp trung huyn Qung Hòa,
Phc Hòa (Hoàng Th Nhun, Nguyn Th Yên 2005). Báo cáo ca UBND Phúc Sen cho
biết nhóm Nùng An chiếm tuyệt đại đa số dân cư ở các làng ngh ca xã Phúc Sen.
Các nghiên cu cho rng tên gọi các nhóm Nùng được lấy theo địa danh xuất cư hoặc đặc
điểm trang phục. Theo đó, nhóm Nùng An lấy tên gi t địa danh nơi xuất Long An
(Qung Tây, Trung Quc) (Hoàng Nam 1992). Hi c của ông Hoàng Văn M. (1950, xóm Phia
Thp, xã Phúc Sen) cho biết: người Nùng An đến t mảnh đất Phúc Sen được khong 300
năm, từ 3 h gc lp nghiệp khai hoang nơi đây.
Đặc điểm trú ca nhóm Nùng An khu vc chuyn tiếp gia vùng thp vùng cao,
thường là thung lũng, nên họ làm ruộng nước ít, canh tác nước ry ch yếu (Hoàng Th Nhun,
Nguyn Th Yên 2005). Các gia đình có hoạt động chăn nuôi nhỏ lẻ, đa phần th rông gia súc,
gia cm. Bên cạnh đó, họ có các ngh th công đem lại ngun thu nhập đáng kể, như nghề rèn
đúc, làm ngói, làm hương, đan lát mây tre, làm giy bản, Họ thc s những người th
khéo léo, chăm chỉ sáng to. Các sn phm t ngh th công của người Nùng An đã được
đưa vào giao thương và nổi tiếng trong vùng.
Theo hi c của người già, làng ngh rèn Nùng An đã t thế k th XI, ban đầu nơi
sn xuất khí cho Nùng Tôn Phúc Nùng Trí Cao chng li quân Tng. Sau chiến tranh,
người dân đây đã chuyn sang rèn công c phc v sn xut nông nghip và sinh hot. Hin
nay, Phúc Sen đã trở thành “xưởng rèn th công” ln nht min Bc Vit Nam (S Công thương,
Đại hc Bách khoa 2022).
Các gia đình làm nghề theo cách thc cha truyn con nối đã hàng chục đời, sn phm rèn
ca làng làm ra luôn ni tiếng v độ sắc và độ bn. Thống đến tháng 6/2022 ca UNBD
Phúc Sen, tng s lò rèn trong xã 145
3
(trong đó xóm Pác Rằng 44 lò) gần 300 người
thường xuyên tham gia sn xut nh theo h gia đình hoặc liên kết mt vài nhân, mt
công ty và mt hp tác xã hoạt động ngh rèn.
3
Phân b 4 xóm ngh rèn.
Tp chí Khoa hc S 76/Tháng 9(2023)
7
Vi giá tr tiêu biu, ngh rèn của người Nùng An đưc B trưởng B n hóa, Thể thao
và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật th quc gia
4
theo Quyết định s 446/QĐ-
BVHTTDL ngày 29/01/2019. Đây là sự tôn vinh ngh rèn truyn thng của người Nùng An và
ghi nhn nhng giá tr ca làng ngh đóng góp cho khẳng định bn sắc văn hóa tộc người và s
phát trin ca cộng đồng nói chung.
2. NI DUNG
2.1. Những thăng trầm ca làng ngh rèn của người Nùng An Pác Rng
2.1.1. Giai đoạn trước những năm 1990: Tiếng vang t lch s
Trước năm 1945, nghề rèn chỉ được coi là nghề phụ của hộ gia đình, đáp ứng nhu cầu sản
xuất dụng cụ lao động sản xuất (lưỡi cày, cuốc, dao, cưa, liềm…). Tính chất thời kỳ này tự
túc tự cấp trong nội bộ gia đình, làng bản. Khi đó, dân còn thưa thớt, các sản phẩm rèn chưa
có sự được trao đổi với các dân tộc khác, chủ yếu phục vụ trong cộng đồng người Nùng An.
Sau năm 1945, sản phẩm nghề rèn ở xã Phúc Sen đã được nhiều địa phương biết đến thông
qua việc phát triển giao thương. Sản phẩm rèn của người Nùng An được tín nhiệm trong vùng,
nên người dân đưa sản phẩm ra chợ đổi lấy dầu, muối và các nhu yếu phẩm khác phục vụ cuộc
sống hàng ngày. Đặc biệt, năm 1950 giải phóng tỉnh Cao Bằng là một sự kiện có ý nghĩa chính
trị hội, đồng thời ảnh hưởng nhất định trong lịch sử nghề rèn của người Nùng An. Bởi
sau đó, các phế liệu sắt thép, khung xe ô tô cháy hỏng,… trở thành nguồn nguyên liệu dồi dào
để các lò rèn có cơ hội phát triển (PVS ông Lương Văn T., 1944, xóm Pác Rằng).
Những năm 1960, các bản người Nùng An đã thành lập các hợp tác tiểu thủ công nghiệp
rèn sắt. Đến năm 1975, 8 bản 7 hợp tác rèn thủ công được tập hợp lại thành Hợp tác
rèn thủ công Phúc Sen. Sản phẩm của nghề rèn Phúc Sen được bà con trong tỉnh ưa chuộng và
đã vượt ra khỏi phạm vi của tỉnh đến với đồng bào các tỉnh lân cận như Bắc Kạn, Tuyên Quang,
Lạng Sơn (UBND xã Phúc Sen 2021).
“Ông lấy vợ năm 1963, nhập ngũ tay bị tai nạn lao động nên không đi bộ đội được.
Ông làm tiếp nghề rèn của nhà, năm 24 tuổi ông đã là thợ rèn chính rồi. Ngày xưa làm vất vả
lắm, không có máy móc như bây giờ. Nhưng thu nhập cũng tốt. Ngày ấy mọi người thường rèn
cuốc bướm, liềm, móng ngựa, lưỡi cưa gỗ, xẻ gỗ … Đến ngày phiên chợ thì mình mang ra chợ
bán. Ông hay đi chợ Quảng Yên, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hạ Lang, Nguyên Bình. Những năm
1964-1965, mỗi lần đi chợ, ông mang 8 lưỡi cưa đi bán. Mỗi lưỡi cưa dài khoảng sải tay (1m6-
1m8), làm hết 1 ngày công. Ông đi từ sáng sớm, đến chợ làm một bát phở to, bán đến tầm trưa
hết hàng thì về. Tiền n mỗi lưỡi cưa mua được 15-16 bát phở.” (PVS ông Lương Văn T.,
1944, xóm Pác Rằng).
thể thấy, những năm 1960-1970 giai đoạn rất phát triển của nghề rèn người Nùng
An. Điều đó thể hiện ở việc tăng số lượng rèn gấp ba; sự tồn tại, phát triển song song của các
sản phẩm rèn thủ công Phúc Sen với các sản phẩm rèn của Nhà máy kCao Bằng; sự
tồn tại hai hình thức sản xuất song song là sản xuất hợp tác xã và sản xuất tư nhân tại gia đình
4
Theo thng kê ca Cc Di sản Văn hóa, cho đến năm 2023, Việt Nam hin có 64.000 di sản văn hóa phi vt th,
trong đó 14 di sản được UNESCO vinh danh, 396 di sản được ghi vào danh mc di sn phi vt th cp quc
gia.
Trường Đại hc Th đô Hà Nội
8
(Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn Thị Yên, 2005). Còn đối với mỗi người dân, thu nhập từ nghề rèn
đã giúp họ có điều kiện kinh tế tốt hơn và gắn bó với nghề.
Tháng 2 năm 1979 chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra, đã tàn phá sở vật chất của
nhiều địa phương. Trong bối cảnh đấy, các hợp tác Phúc Sen không còn hoạt động nữa.
Các thợ rèn lại tập trung khôi phục lại các lò rèn của gia đình mình.
2.1.2. Giai đoạn cui những năm 1980 đến đầu những năm 2000: Trầm lng những suy tư
Sau s kin 1979, kinh tế của địa phương và khu vực min núi phía Bc nói chung rt khó
khăn. Từ khong những năm 1985-1986, sn phm rèn của người Nùng An hầu như không tiêu
th được. Vì lý do đó, nhiều người Nùng An đã lựa chn ri bản để di cư mưu sinh. Một lượng
lớn người dân xóm Pác Rằng đã di cư tự do vào khu vực Tây Nguyên. Sơ bộ s h di cư vào
các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước, Lâm Đồng còn đông hơn số dân xóm Pác Rng
hin nay (Tho luận nhóm người dân xóm Pác Rng). Nguyên nhân do thiếu đất sn xut,
khó khăn trong tiêu th sn phm rèn. H di để tìm kiếm hội làm ăn, khai phá vùng đt
mới. Nhà anh 3 ch gái 1 anh trai vẫn đang H’Leo (Đắk Lawsk). Còn anh vào Tây
Nguyên t năm 1994. Lúc đầu ch đi mỗi đợt vài tháng, làm dao mang đi để vào đó đổi ly go,
muối, đủ cho sinh hoạt. Năm 1996 anh về nhà ly v và sinh hai con rồi năm 2004 cả nhà anh,
v chồng con cái cùng vào Đắk Lắk. Đến năm 2007, anh quay lại Pác Rằng. Suy nghĩ lúc đó
nh quê lm, mun v quê để chăm sóc bố mẹ, để gi cho dòng h mình(PVS Sạch Văn
V., 1976, xóm Pác Rng).
Sau khoảng năm 1998, không còn làn sóng di khi Pác Rng na. Lúc này, khát vng
khôi phc ngh rèn ca cha ông vn luôn nung nu trong mỗi người dân Pác Rng. H không
còn ri bản đi làm ăn xa. Đã có những người tr về. Nhưng còn nhiều khó khăn, sản xut rèn
giai đoạn này ch đáp ng nhu cu nh trong huyn, tỉnh, chưa mở rộng đến các tnh xung
quanh.
2.1.3. Giai đoạn t 2010 đến nay: Thích ứng để phát trin
Năm 2010 đánh dấu mc v s tái khởi động, tiếp tc phát trin ngh rèn Pác Rng bng
vic thành lp hp tác xã Long Chiến. Có tay ngh, có kinh nghim sn xut và gii thiu sn
phẩm, nhưng người dân vn thy rng cn thành lp hợp c đ bo v thương hiệu truyn
thng của mình (PVS Long Văn C., 1962, xóm Pác Rằng). Tn ti khoảng 10 năm, hợp tác xã
Long Chiến, hp tác Minh Chiến đã giải th vì khó khăn nguồn vốn đầu công ngh, k
thuật cũng như khả năng cạnh tranh vi th trường trong bi cnh mi. Tuy nhiên, s phát trin
s tiếp ni không ngng. Các hp tác xã, công ty v sn phm rèn Pác Rng nói riêng
Phúc Sen vn tiếp tục được thành lập. Các đơn v này liên tc có s cp nhật, điều chnh v t
chc, v sn phm, v loại hình kinh doanh để thích nghi vi s đổi mi ca th trường.
Theo cách sn xut truyn thống, công đoạn quai búa nng nhc, phải huy động sc ca
đàn ông từ 2-3 h. T năm 2013, người dân xóm Pác Rằng đã bắt đầu đầu máy dập, máy
ct v plasma thì đỡ phn sc lc. Vì vy, ph n mi có th tham gia vào nhiều công đoạn ca
ngh rèn hơn mỗi gia đình thể t sn xut riêng. (Tho luận nhóm người dân xóm Pác
Rằng). “Máy ct v hình dao plasma giá hơn 20 triu. C Pác Rng gikhong 35 cái ri.
Tp chí Khoa hc S 76/Tháng 9(2023)
9
S dng máy ct plasma thì sn phm không phi qua lửa, đỡ tn sc, li không cn th ph
(PVS Lương Văn H., 1986, xóm Pác Rằng).
Hin nay, xóm Pác Rng còn hợp tác xã Hà Khiêm đang hoạt động. Hp tác xã này thành
lập năm 2019 với s tham gia ca 7 h gia đình. Trong đó, mỗi h gia đình đảm nhim mt
hoc mt vài loi hình sn phẩm, như: chuyên rèn dao thái, hoặc dao qum, dao cht gà, dao
chặt xương, hoặc rèn tng hp mi loi mt ít. Khi hợp tác có đơn hàng, các rèn cùng dồn
sn xuất cho đủ yêu cu v s ng chng loi, mu mã sn phẩm cho đơn hàng đó. Cách
t chc hoạt động như thế này vừa đảm bo chuyên sâu sn phm ca mi rèn, va to uy
tín chất lượng và s ng sn phm, to quan h tt với đại lý/khách hàng.
Thu nhập từ làm rèn chiếm khoảng 70% tổng thu nhập của hộ gia đình, trung bình 30-40
triệu/năm/người lao động, nhiều hộ thu nhập hàng năm trên 90 triệu đồng/năm. (thảo luận
nhóm với người dân xóm Pác Rằng). Từ làm rèn, các hộ dân có thêm nguồn thu nhập ổn định,
kinh tế gia đình phát triển. T năm 2020 đến nay, thc hin Chương trình "Mỗi mt sn
phm" (OCOP), dao Phúc Sen
5
đã trở thành mt trong 11 sn phm ca huyn Quảng Hòa được
công nhn OCOP 3 sao cp tnh. Đây được coi động lc quan trọng thúc đẩy s phát trin
ca ngh, to thêm thế mnh và kh năng cạnh tranh trên th trường (Lê Ngc Huynh 2023).
Có th thy rng, trong lch s làng ngh Pác Rng t gia thế k trước đến nay, lúc thăng
lúc trầm. Nhưng dòng chảy tri thc vi ngh, tâm huyết vi ngh luôn bn b như mạch ngm
thm sâu trong mỗi người dân xóm Pác Rằng để khi có cơ hội, h cùng nhau góp thành dòng
nước lớn để ngh rèn do cha ông truyn li tiếp tục được duy trì và phát trin.
2.2. Mt s yếu t duy trì sc sng mãnh lit ca ngh rèn Nùng An
ngh rèn của người Nùng An xóm Pác Rằng đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiu biến c.
những lúc đỉnh cao vang di. nhng lúc tưởng ngui la, b ngh cuc sống mưu
sinh, vì s thay đổi kinh tế-xã hi chung của đất nước. Nhưng sau đó, người Nùng An đã vượt
qua khó khăn (trầm) để tiếp tc phát triển (thăng). Đó chính sức sng mãnh lit ca ngh
rèn Nùng An xóm Pác Rng.
Ngh rèn của người Nùng An nhận được các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nưc
t góc độ văn hóa dân tộc cần được bo tồn và phát huy. Điều đó củng cố, gia tăng niềm t
hào, giúp các cng dng nhn thc mi v giá tr di sn h đang nắm gi thc hành
(Nguyn Th Phương Châm, Hoàng Cầm 2022). Tuy nhiên, đ gii v sc sng mãnh lit
ca ngh rèn của người Nùng An xóm Pác Rằng, trước hết cn xem xét các yếu t ch quan,
tc là xut phát t ch th, ch nhân làng ngh. Bi di sn ch sống được khi chính nhng ch
th hiu và n lc bo tn, ch động phát huy di sản trong đời sống đương đại.
Mt s yếu t ch quan được rút ra t quá trình thực địa ti làng ngh rèn Nùng An xóm
Pác Rng là:
Th nht, người Nùng An nim t hào dân tc và t giác bo tồn văn hóa dân tc mt
cách đậm nét. “Một điều đáng ngc nhiên tri qua nhiu biến thiên ca cuc sng s tác
động ca các yếu t lch s hội nhưng văn hóa truyn thng của người Nùng An hầu như
5
Dao Minh Tuấn Phúc Sen, dao Nông Sơn Phúc Sen.