1
UBND THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HC SÀI GÒN
BÀI TẬP QUÁ TRÌNH CHUYÊN Đ
NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Học viên: Lê Thị
Khoá: 24.2; Lớp: Lịch Sử Vit Nam
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Phúc Vĩnh
Tp Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2025
1
Câu 1. Quá trình khai thác xác lập chủ quyn Nam Bộ ới thời các chúa
Nguyễn (thế kỉ XVII – XVIII)
Thế kỉ XVI XVIII hai thế kỉ đầy biến động nhưng cũng đạt được số thành
quphát triển của lịch sử dân tộc. Kế thừa thành quả gigìn và phát triển lãnh thổ của
các triều đại Lý,Trần, Hồ trước đó cùng sự biến động của cuộc xung đột Trịnh
– Nguyễn đã mở ra một chương mới trong việc mở mang bờ cõi dân tộc về phía Nam.
Ngoài yếu tố mở rộng diện tích lãnh thổ, đó còn là quá trình thực thi chủ quyền, tiếp
biến văn hoá, đẩy mạnh nền kinh tế ớng biển. lịch sử dân tộc giai đoạn này bị
chia cắt đầy đau đớn từ Trnh Nguyễn phân tranh, sự nổi dậy như phong trào Tây Sơn
cùng việc tiêu diệt các tập đoàn phong kiến, hay các cuộc xâm ợc từ Xiêm, Thanh
…Dù nhiều mất mát nhưng những thành quả về lãnh thổ, văn hoá, kinh tế sự
đóng góp công lao rất lớn của các chúa Nguyễn nhân dân khai phá những thành
qurất to lớn để lại cho chúng ta đến ngày nay. Trong nội dung bài viết này em xin
trình bày về quá trình khai thác xác lập chủ quyn Nam Bộ ới thời các chúa
Nguyễn từ thế kỉ XVII -XVIII.
1. Quá trình tiếp nhận vùng đất Nam Bộ trong công cuộc Nam tiến của các
chúa Nguyễn thế kỉ XVII -XVIII.
Cho đến trước thế kỷ XVII, vùng đất Nam Bộ ngày nay vẫn trong tình trạng
“gần nvô chủ". Dựa trên những bằng chứng của lịch sử, vùng đất Nam Bộ thời gian
đầu không thuộc về Chân Lạp vốn của ơng quốc Phù Nam, do người Nam
Đảo làm chủ nhân. Trong thời kỳ phát triển thịnh đạt, đế chế Phù Nam có phạm vi lãnh
thổ mở rộng trên một địa bàn to lớn của vùng Đông Nam Á lục địa, trong đó, cơ sở và
trung tâm vẫn là vương quốc Phù Nam nằm trên đất hạ lưu sông Mekong. Đô thị cảng
Óc Eo giữ vai trò trung tâm kinh tế - văn hóa quan trọng trung tâm mậu dịch quốc
tế lớn của Phù Nam. Nam Bộ hiện nay vẫn còn lưu dấu những di tích Bưng Bạc,
Bưng Thơm, Giồng Lớn vốn thuộc nền văn hóa Óc Eo. Nhưng từ cuối thế kỷ V trở đi,
Phù Nam ngày càng suy yếu, dẫn đến trong các “chư hầu” bấy giờ có Chân Lạp mạnh
lên, tấn công tiêu diệt Phù Nam - quc gia tôn chủ bấy lâu của mình, qua đó đã nghiễm
2
nhiên sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ của mình. Thời gian hậu Phù Nam, tác động
của đợt biển tiến Holocène IV (khoảng từ gia thế kỷ IV đến giữa thế kỷ XII) làm cho
Phù Nam bị ngập chìm dưới nước. Như vậy, cho đến thế kỷ XIII, Nam Bộ vẫn còn là
mảnh đất hoang vu. Bên cạnh đó, tại đây đã diễn ra nhiều cuộc giao tranh giữa các thế
lực khu vực và là nơi họp tụ của nhiều lớp người, nhiều thành phần xã hội phức tạp.
tưởng hướng biển của các chúa Nguyễn đã bắt đầu từ thời Nguyễn Hoàng
khi bắt đầu hành trình khai phá lãnh thổ về phía nam. Nguyễn Hoàng là người đã bền
chí, dũng cảm đẩy mạnh công cuộc khai phá vùng châu thổ sông Thu Bồn, sông Côn,
Đồng Nai, Cửu Long... và xác lập chủ quyền biển đảo phía tây nam với Chân Lạp,
Xiêm La nhiều quốc gia láng giềng Đông Nam Á hải đảo. Tiếp đó, các chúa Nguyễn
đã hình thành và thực thi chính sách mở cửa, tiếp nhận những di sản truyền thống
tiêu biểu bản tính hướng biển của dân Champa. Tiến trình sáp nhập vùng đất Nam
Bộ vào lãnh thổ Việt Nam thời các chúa Nguyễn được bắt đầu với cuộc hôn nhân chính
trgiữa Công nữ Ngọc Vạn - con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên với vua Chân Lạp
lúc bấy giờ là Chey Chettha II năm 1620. Cuộc hôn nhân này đánh dấu một bước phát
triển tốt đẹp trong quan hệ giữa chúa Nguyễn chính quyền Đàng Trong) và Chân Lạp.
Cuộc hôn nhân này cũng đã mđầu cho tiến trình chuyển giao chủ quyển vùng đất
Nam Bộ giữa các vương triều Chân Lạp với các chúa Nguyễn Đàng Trong. Sử
cho biết, sau hôn lễ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho gửi quân lính, chiến thuyển
khí giúp Chân Lạp chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm. Đổi lại, vua Chân
Lạp cho phép lưu n người Việt tới lập nghiệp tại một số địa điểm thưa dân phía
đông nam vương quốc. Đàng Trong) và Chân Lạp.
Cuộc hôn nhân này cũng đã mở đầu cho tiến trình chuyển giao chủ quyển vùng
đất Nam Bộ giữa các vương triều Chân Lạp với các chúa Nguyễn Đàng Trong. Sử
cho biết, sau hôn lễ, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho gửi quân lính, chiến thuyển
khí giúp Chân Lạp chống lại các cuộc xâm lấn của quân Xiêm. Đổi lại, vua Chân
Lạp cho phép lưu n người Việt tới lập nghiệp tại một số địa điểm thưa dân phía
đông nam vương quốc (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé) để thể quản lực
3
ợng lưu dân Việt đã hiện diện khá nhiều vùng này. Do muốn duy trì quan hệ tốt vi
chính quyền Đàng Trong nên “sau khi tham khảo ý kiến các quan thượng thư, ông
(Chey Chettha II] thuận theo để nghị của vua An Nam (chúa Nguyễn] gửi cho vị
vua này một bức thư cho biết ông chấp nhận điều mà vị vua đó yêu cầu”. Đây là cơ sở
pháp quan trọng khẳng định chủ quyền hợp pháp của chúa Nguyễn đối với những
vùng đất đầu tiên của Nam Bộ ngày nay. Nơi chúa Nguyễn đặt các sở thuế vùng rừng
rậm, hoang vắng nhưng cũng là điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam
đi Campuchia Xiêm La. Chẳng bao u, hai đồn thu thuế trthành thtứ, trên bến
ới thuyền, cảnh tượng mua bán sầm uất. Trên sở này, công cuộc Nam tiến, tiếp
nhận vùng đất Nam Bộ của các chúa Nguyễn diễn ra một cách mạnh mẽ.
Năm 1674, chúa Nguyễn Phúc Tần đã sai đạo dình Thái Khang Nguyn
Dương Lâm đem quân sang Chân Lạp giảng hòa các phe, qua đó phong Nặc Thu làm
vua chính đóng kinh thành Udong, Nặc Nộn làm vua thđóng vùng đất Sài Gòn
ngày nay hai tiểu quốc hằng năm nghĩa vtriều cống chúa Nguyễn. Như vậy,
mối quan hgiữa Chân Lạp và Đàng Trong bắt đầu có sự thay đổi quan trọng: từ quan
hệ bình đẳng [liên minh) chuyển sang quan hệ thần thuộc. Điều này đã tạo điều kiện
lớn cho các luồng lưu dân Việt di chuyển mạnh vào các vùng đất còn lại của Chân Lạp,
trong đó chủ yếu là vùng Mô Xoài, Gia Định, Đồng Nai.
Năm 1679, một lực lượng lớn người Hoa được chúa Nguyễn giúp đỡ đã xuất
hin vùng đất Nam Bộ ngày nay. trong năm 1679, chúa Nguyễn đã thông qua Phó
vương Chân Lạp cho phép lực lượng người Hoa này vào khai phá những vùng đất còn
hoang vu Nam Bộ ngày nay. Trong đó, Trần Thượng Xuyên dẫn đầu một nhóm người
Hoa đến vùng đất Biên Hòa ngày nay khai phá lập nghiệp; còn Dương Ngạn Địch dẫn
đầu nhóm người Hoa còn lại đến định Mỹ Tho. Sau một thời gian, hai nhóm người
Hoa này đã biến hai khu vực này thành hai trung tâm đô thị sầm uất bậc nhất Đàng
Trong: Nông Nại Đại Phố (Cù Lao Phố) và Mỹ Tho Đại Phố.
Với những vùng đất đã được bảo hộ khai phá nêu trên, số ợng lưu dân người
Việt di vào vùng này tăng dần lên theo năm tháng đến cuối thế kỷ XVII, đã lên
4
đến con số 40.000 hộ. Tuy nhiên, quá trình khai khẩn đt Nam Bộ của các Chúa
Nguyễn diễn ra muộn hơn so với quá trình di dân tự phát của người dân.
Trên sở số dân đó, năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai. Tại đây, Nguyễn Hữu Cảnh tiến
hành "Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ),
dựng dĩnh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện n Bình
(nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dính đều đặt
các chức Lưu thủ, Cai bạ, Klục và các đội thuyền thủy bộ tỉnh bình thuộc binh.
Mở rộng đất được nghìn dặm, đượcn 4 vạn hộ, bèn chiêu mnhững dân xiêu dạt từ
Bố Chính trở về Nam đến cho đông. Thiết lập thôn, phường ấp, chia cắt giới phận,
khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sđịnh điền. Cụ thnhư sau: sở
hữu tư nhân của các nông dân được thiết lập thông qua việc lựa chọn đất đai canh tác.
Nông dân phải đóng thuế cho công tác trị an của nhà nước. nhân có quyền sở hữu
mảnh đất thtrao đổi, mua bán. Sự kiện chúa Nguyễn cử Chưởng Lễ thành
hầu Nguyễn Hữu Cảnh lập ra chính quyn Nam vào năm 1698 được coi một sự
kiện tất yếu, công nhận một thực tế “dân mở đất trước, nhà nước cai trị sau". Đến nay,
gần như toàn bộ vùng đất Đông Nam Bộ ngày nay cùng một phần tỉnh Tiền Giang ngày
nay đã thuộc về chủ quyền của các chúa Nguyễn.
Sau khi tiếp nhận vùng đất Đông Nam Bộ, việc tiếp nhận vùng Tiên do Mạc
Cửu dâng năm 1708 được xem sự kiện quan trọng mở đầu cho quá trình sáp nhp
vùng đất Tây Nam B ồng bằng sông Cửu Long) vào lãnh thổ của Đại Việt.
Trong bối cảnh đó, vùng đất Gia Định lại đang phát triển hết sức nhanh chóng
ới sự tổ chức và quản lý của chúa Nguyễn, do đó Mạc Cửu đã quyết dựa vào chính
quyền Đàng Trong và đem toàn bvùng đất đang cai quản dâng cho chúa Nguyễn để
có thể bảo toàn được vị trí của dòng họ mình, đồng thời tiếp tục xây dựng phát triển
Tiên. Chúa Nguyễn chấp thuận, lập ra trấn Tiên, phong Mạc Cửu làm Tổng binh
để gitrn y.