
22 NGUYỄ N XUÂN KÍNH
NET THANH LỊ CH CUA
NGƯ Ờ I HÀ NỘ I THÊ HIỆ N
QUA NHỮ NG TRANG VIÊT
VÀ CON NGƯ Ờ I NHÀ VĂN
VŨ NGỌ C PHAN
____
■
_____________
NGUYỄ N XUÂN KÍNHr)
Nhà văn Vũ N gọ c Phan
(1902 - 1987) anh chụ p
năm 1981
I. C u ộ c đ ờ i
n h à v ă n
Vũ Ngọ c Ph an
sinh ngày 8 thá n g
9 năm 1902 tạ i phô'
H àng Đào, H à Nộ i.
Quê m ẹ ông ở làng
Đông Ngạ c, tứ c
làng Vẽ , nay thuộ c
huy ệ n Từ Liêm ,
H à N ộ i. D òng họ
ông vố n là dân
tỉ n h Bắ c Ninh,
sau có m ộ t n h á n h
chuyế n ra H à Nộ i, đế n đờ i Vũ Ngọ c P h a n là
năm đờ i.
Vũ Ngọ c P h an x u ấ t th â n tro n g m ộ t gia
đình Nho họ c. Ông nộ i đỗ Cử nh â n, từ n g
làm T u ầ n p hủ N inh B ình, rồ i Đố c họ c tỉ n h
Bắ c Ninh, họ c trò r ấ t đông, tro n g đó có
nhiề u ngư ờ i đỗ đạ i khoa. Ô ng ngoạ i đỗ Tú
tà i. B à n g o ạ i là m n g h ề b u ô n sơ n b á n c h o
ngư ờ i T rung Quố c, có h ai cái n h à lớ n ồ phô'
H àng G ai và phô' H àn g Bồ . Bà nộ i vôn là
m ộ t cô gái x in h đẹ p b á n sách H án Nôm ở
phô' H àng Gai, con cụ T ú (tứ c đỗ tú tà i -
N.X.K) phô' H àn g Q u ạ t; sau khi lấ y chồ ng
thì làm nghề nhuộ m và sau th ì chỉ chuyên
GS. TS, Việ n Nghiên cứ u văn hoá (thuộ c
Việ n Khoa họ c xã hộ i Việ t Nam)
b án vả i lụ a ỏ phô H àng Đào. Bác ru ộ t đỗ
Cử n h ân ; cha đỗ T ú tài, dạ y chữ H án và là
m ộ t vị H uấ n đạ o m ẫ u mự c. T huở nhỏ , Vũ
Ngọ c P h a n th eo cha đế n H ư ng Yên và theo
họ c chữ H án. Từ n ăm 1920 đế n năm 1927,
ông chuyể n sang họ c chữ P h á p tạ i Hà Nộ i.
Đỗ T ú tà i Tây ở tuổ i 27, ông có th ể đi làm
tron g bộ m áy công chứ c lúc đó (làm th a m tá
ở ph ủ Toàn quy ề n ch ẳ ng hạ n). N h ư ng vớ i
nă n g kh iế u văn họ c n ả y sinh từ sớ m, vớ i tư
tư ở ng tự do khôn g th íc h gò m ìn h vào cuộ c
sông công chứ c, ông đã chọ n n ghê dạ y họ c
tư và nghề v iế t báo, viế t vă n và dị ch sách.
K hông chỉ cộ ng tác vớ i nh iêu tờ báo, tạ p
chí, ông còn là chủ b ú t tờ tu ầ n báo Hà Nộ i
tâ n v ăn và ch ủ trư ơ n g lậ p N hà x u ấ t bả n
H à Nộ i. Ngoài h à n g trăm b ài báo, ông đã
dị ch, phóng tác nh iề u tru y ệ n ngắ n, tiể u
th u y ê t từ tiế n g A nh và tiế n g P háp ; ông còn
viêt, biên soạ n các cuô'n sách: N hìn sang
láng giề ng (1941, tậ p b ú t kí), Thi sĩ Trung
N am (1942, viế t về 25 n h à th ơ thờ i kì cậ n
dạ i ở T ru n g Bộ và N am Bộ ), Con đư ờ ng mớ i
củ a thanh niên (1944, sách ngh iên cứ u xã
hộ i, giáo dụ c), Chuyệ n Hà Nộ i (1944, tậ p
b ú t kí). T ừ nãm 1938 đế n năm 1942, Vũ
Ngọ c P h a n viế t xong bả n th ả o bộ sách Nhà
văn hiệ n đạ i. T ừ cuô'i nă m 1942 cho đế n
th á n g 10 năm 1945, bộ sách này đã đư ợ c
x u ấ t bả n. Nó gồ m bố n tậ p , n ăm quyể n (tậ p
4 chia làm 2 quyể n), dày 1500 tran g , bao
q u át m ộ t thờ i kì văn họ c sôi độ ng, phong
phú, p h á t triể n m ạ n h từ đ ầ u th ế kỉ XX đế n
năm 1942. T rong bộ sách, Vũ Ngọ c P h an
viêt về 79 tác giả ở đủ các th ể loạ i: thơ trữ
tình , thơ trà o p hú ng , tiể u th u y ế t, phóng sự ,
ngh iên cứ u phê b ình văn họ c, tu ỳ bút,...
O ng p h â n tích, đ ị nh giá và "hư ố ng d ẫ n
ngư ờ i ham chuộ ng v ăn chư ơ ng” thư ở ng
thứ c tác phẩ m .
Vũ Ngọ c P h a n là ngư ờ i cầ m b ú t có tinh
th ầ n dân tộ c cho n ên th ậ t là dễ hiể u, trư ớ c
ngày tổ ng khở i ng h ĩa g ià n h chính quyề n
(1945), ông đã tha m gia và làm Chủ tị ch
u ỷ b an V ăn hoá Bắ c Bộ . Sau C ách m ạ ng

NGHIÊN CỨ U TRAO Đổ i 23
th á ng Tám, V ũ Ngọ c P h a n là u ỷ viên báo
Tiên phong, cơ q u an ngôn luậ n củ a Hộ i
Văn hoá cứ u quố c. Trong thờ i gian k h án g
chiế n chông P h áp , ông là u ỷ viên thư ờ ng
trự c Đ oàn V ăn hoá k h á n g chiế n Liên khu
bố n; đế n cuô'i n ăm 1953, ông đư ợ c mờ i ra
V iệ t Bắ c làm u ỷ viên B an V ăn sử Đị a, mộ t
Ban khoa họ c củ a Đ ả ng, trự c thuộ c B an Bí
thư T rung ư ơ ng Đ ả ng. N ăm 1959, khi Việ n
Văn họ c đư ợ c th à n h lậ p, ông về công tác tạ i
dây. N ăm 1966, tạ i Đ ạ i hộ i Hộ i V ăn nghệ
dân gian V iệ t N am lầ n th ứ nh ấ t, Vũ Ngọ c
P h an đư ợ c b ầ u làm Tổ ng T hư kí, phụ trác h
cơ qua n Hộ i.
N ế u n h ư trư óc Cách m ạ ng th á n g Tám ,
Vũ Ngọ c P h a n nổ i tiế n g vớ i việ c n ghiên
cứ u, phê b ìn h vãn họ c viế t, th ì sau năm
1945, ông đ ã có nh iề u th à n h tự u tron g việ c
sư u tầ m , ng h iên cứ u tru y ệ n cổ và thơ ca
dân gian. Vớ i cư ơ ng vị là Tổ trư ở ng Tổ Văn
họ c dân gian củ a V iệ n V ăn họ c, Vũ Ngọ c
P h an cùng các bạ n đồ ng nghiệ p sư u tầ m và
chỉ nh lí, biên soạ n truy ệ n cô d ân gian. Từ
năm 1963 đế n nă m 1967, bôn tậ p sách đư ợ c
in, h ai tậ p đ ầ u tên là Truyệ n cô dân gian
Việ t Nam , h ai tậ p sa u tê n là Truyệ n cổ dân
gian củ a các dân tộ c Việ t N am . Đư ợ c bỉ êt
đế n nh iề u hơ n cả là công trìn h sư u tầ m ,
biên soạ n, n gh iên cứ u về tụ c ngữ , ca dao,
dân ca củ a V ũ Ngọ c P h an . Đ ây là công
trìn h chiế m kỉ lụ c về số lầ n x u ấ t bả n: chỉ
tín h từ năm 1956 đế n nă m 2000, đư ợ c xu ấ t
bả n 12 lầ n. T rong sáu lầ n in đầ u, sách có
tên gọ i Tụ c ngữ và dân ca Việ t Nam . T rong
nhữ ng lầ n in sau , tê n sách là Tụ c ngữ ca
dao dân ca Việ t N am . Chỉ tín h tron g tám
lầ n x u ấ t b ả n đ ầ u, sách đã đư ợ c in 17 vạ n
bả n. Đ ây là công trìn h công phu, nộ i dung
phong phú. C uố n sách gồ m n hiề u p hầ n ,
trong mỗ i p h ầ n có n h iề u mụ c, mỗ i m ụ c có
khi là m ộ t bài tiể u luậ n, có khi gồ m cả bài
tiể u lu ậ n và m ộ t sô' tr a n g tu y ể n chọ n tác
phẩ m ca dao, tụ c ngữ . N h ư vậ y tron g công
trìn h này, Vũ Ngọ c P h a n vừ a có đóng góp
về m ặ t sư u tầ m , b iên soạ n, vừ a trự c tiế p
ng hiên cứ u tụ c ngữ , ca dao, d ân ca.
Ngoài r a ông còn là soạ n giả , tác giả
các cuôn sách: Truyệ n cổ Việ t N am (1955),
Sơ thả o lị ch sử văn họ c Việ t N am , tậ p 1
(đồ ng tác giả , 1957), Ca dao Việ t N am trư ớ c
Cách m ạ ng (đồ ng soạ n giả , 1963), Tấ m
lòng hậ u phư ơ ng (sư u tầ m ca dao mớ i,
1968), Hợ p tuyế n thơ văn Việ t Nam. Tậ p I:
Văn họ c dàn gian (đồ ng soạ n giả , 1972),
Qua nhữ ng trang văn (tậ p tiể u luậ n, phê
bình văn họ c, 1976), N hữ ng năm tháng ấ y
(hồ i kí, 1987).
N gày 25 th á n g 12 n ăm 1925, tạ i H à
Nộ i, Vũ Ngọ c P h a n k ế t hôn vớ i n h à thơ Lê
H ằ ng P hư ơ ng. Bà là ngư ờ i Q uả ng Nam ,
x u ấ t th â n tron g m ộ t gia đình n h à Nho
th a n h bạ ch. H ai ông b à sinh đư ợ c mư ờ i
ngư ờ i con. Có ba ngư ờ i qu a đờ i lúc còn nhỏ .
Bả y ngư ờ i còn lạ i sau nà y đề u trư ở ng
th à n h : có m ộ t ngư ờ i là sĩ q u a n q u ân độ i; có
ha i ngư ờ i đư ợ c pho ng chứ c d an h giáo sư
(trong đó có m ộ t ngư ờ i đư ợ c tặ ng G iả i
thư ở ng Hồ C hí M inh về khoa họ c và công
nghệ , năm 1996); có m ộ t ngư ờ i là họ a sĩ,
phó giáo sư ; m ộ t ngư ờ i là giả ng viên văn
họ c ở đạ i họ c; m ộ t ngư ờ i là k iế n trúc sư ;
m ộ t ngư ờ i là kĩ sư cơ khí. K hi đã cao tuổ i,
Vũ Ngọ c P h a n từ n g nói vố i m ộ t ngư ờ i con
rằ ng: “C ha sẽ kh ôn g th ể sông mãi, vì th ế
sau này các con p h ả i b iế t th ư ơ ng yêu n hau ,
cha mẹ kh ông có tài sả n gì để lạ i cho các
con, n hư ng n ế u các con biế t khiêm tô'n họ c
tậ p và lấ y công việ c chuyên m ôn củ a m ình
để p hụ c vụ đ ấ t nư ớ c, trở th à n h nhữ n g
ngư ờ i có chu yên môn giỏ i th ì đó sẽ là tài
s ả n q u ý n h ấ t m à c h a m ẹ đ ể l ạ i ” . 1 V ậ y là
các con ông đã thự c hiệ n đư ợ c điề u tâm
niệ m củ a ông.
Ô ng bà có ngư ờ i con tra i Vũ H oài T uân
và ngư ờ i con rể Võ Tê là liệ t sĩ.
N gày 2 th á n g 2 n ăm 1983, n h à thơ
H ằ ng Phư ơ ng m ấ t tạ i H à Nộ i. N gày 14

24 NGUYỄ N XUÂN KÍNH
th á n g 6 năm 1987, nh à vă n Vũ Ngọ c Ph an
m ấ t tạ i Bệ nh việ n Hữ u Nghị V iệ t Xô, Hà
Nộ i. Ngày nay trê n sư ờ n đồ i T h an h Tư ớ c
(thuộ c tỉ n h V ĩnh Phúc), ha i ngôi mộ củ a
hai ông hà “n ằ m c ạ n h nh a u , hư ớ ng vê ph ía
tây, vê cõi vĩnh h ằ n g củ a b ầ u trờ i. Nơ i ấ y
ngàn năm rự c sán g nh ữ n g buổ i hoàng hôn
dẹ p tu y ệ t vờ i” m à họ “đã từ ng lặ n g ngắ m ,
khi bên nh a u qu a n h ữ n g n ăm thá n g trên
cuộ c đờ i n ày ”. 1
N ăm 1996, Vũ Ngọ c P h an đư ợ c C hủ
tị ch Nư ớ c tru y tặ n g G iả i thư ở n g Hồ Chí
Minh vê' văn họ c nghệ th u ậ t cho hai tác
phàm Truyệ n cô Việ t N am và Tụ c ngữ ca
dao dàn ca Việ t Nam.
H iệ n nay, ở Hà Nộ i có m ộ t đư ờ ng phô’
m ang tên Vũ Ngọ c P han .
II. N é t t h a n h l ị c h c ủ a n g ư ờ i H à N ộ i
đ ư ợ c p h ả n á n h t r o n g n h ữ n g t r a n g v i ế t
c ủ a V ũ N g ọ c P h a n
1. Có hai lờ i ca dao sau:
+ Chắ ng thơ m củ ng thê hoa nhài
Dầ u không lị ch sự cũng ngư ờ i
Tràng An.
+ Chang thanh củ ng thê hoa mai
Chang lị ch củ ng thê con ngư ờ i
Thư ợ ng Kinh.
ơ đâv, ngư ờ i T rà n g An hay ngư ờ i
Thư ợ ng K inh tứ c là ngư ờ i T h ă n g Long - H à
Nộ i. Vũ Ngọ c P h a n giả i thích: "Lị ch và lị ch
sự ở dây có n hiề u nghĩa: đẹ p, th a n h tú lạ i
có nghĩa là lị ch thiệ p, n h ã nh ặ n , từ tôn, lỗ
độ ; lạ i còn có ngh ĩa n ữ a là lị ch lãm , lị ch
duyệ t, khôn ngo an ”.(3)
2. Sự th a n h lị ch củ a ngư ờ i Hà Nộ i đư ợ c
thể h iệ n qu a n hữ n g sin h h o ạ t v ăn hoá.
N hữ ng sinh h oạ t ấ y d iễ n ra từ n hữ ng năm
dầ u củ a th ậ p kỉ th ứ tư củ a thê kỉ XX trở vô
trư ớ c. P h ầ n lớ n nh ữ n g sinh ho ạ t văn hoá
dó dư ợ c Vũ Ngọ c P h an trự c tiế p qua n sát,
ghi n h ậ n từ th uở ông còn niên th iêu cho
đế n lúc trư ở ng th à n h . C ũng có nh ữ ng câu
chuyệ n, nhữ ng sự việ c th uộ c về quá kh u xa
xư a, ông k hôn g đư ợ c chứ n g kiế n m à chỉ
biế t qua sách vở , qu a lờ i kế củ a bà nộ i, bà
ngoạ i,...
3. Ngư ờ i H à Nộ i th a n h lị ch trư ớ c h ế t là
ngư ờ i hiêu họ c, trọ n g đạ o lí. C h úng ta hãy
nghe Vũ Ngọ c P h a n kể : “H à Nộ i xư a còn
nồ i tiế ng là có n h ữ ng trư ờ ng m à thầ y dạ y
là các vị d anh nho n h ư trư ờ n g họ c ông
Phư ơ ng Đ ình (tứ c N guyễ n Siêu), trư ờ ng
họ c củ a ông cử K im Cô (tứ c Ngô V ăn Hạ ng),
trư ờ ng họ c ông ng hè Đ ông Tác... N hữ ng
trư ờ ng ấ y, đư ơ ng thờ i, ngư ờ i ta gọ i là
trư ờ ng “đạ i tậ p ”: nh ữ ng ngày bình văn,
nh iêu nho sĩ xứ Bắ c, xứ Đông, xứ Đoài, xứ
N ghệ đề u về dự . T ro ng sô’ họ c trò các
trư ờ ng ấ y, có n h iề u ngư ờ i đỗ tiế n sĩ, làm
qu a n to nh ư ng khi đ ế n n h à thầ y, vẫ n trụ t
giầ y ngoài thề m . Do trọ ng đạ o lí nên có thờ i
th ủ đô H à Nộ i đã gây đư ợ c họ c phong sĩ
khí, làm cho các nơ i ngư ỡ ng m ộ ”.(l)
Cho đên nh ữ ng n ăm trư ố c Cách m ạ ng
th á n g Tám , H à Nộ i vẫ n là nơ i tậ p tru n g
tinh hoa củ a trí thứ c. T ro ng b ú t kí Ngư ờ i
Hà Nộ i (xuấ t bả n lầ n đ ầ u vào th á n g ba
năm 1944), Vũ Ngọ c P h an viế t nh ư sau:
“N h ữ ng ngư ờ i ở H uế , ỏ Sài Gòn ra chơ i Hà
Nộ i đêu th á n phụ c H à Nộ i vê nh ữ ng cử a
hà n g sách (...)”.
“Ngư ờ i ta kh en: H à Nộ i là m ộ t nơ i mà
mộ t ngư ờ i thiế u n iên ham m ế n quô’c văn
rấ t dễ họ c, dễ khả o cứ u, dễ tìm tòi, cho nên
từ xư a đế n nay, Hà Nộ i đã sả n xu ấ t dư ợ c
nh iề u văn sĩ hơ n n h ữ n g nơ i đô thị khác
trê n đ ấ t V iệ t N am . N gư ờ i ta đặ t hi vọ ng
vào Hà Nộ i nh iề u quá. M à điể u ấ y cũng
không lấ y gì làm lạ kh i ngư ờ i ta nhở lạ i
rằ n g nế u ở nư ớ c N am có cái th à n h p h ố nào
cô n h ấ t va n còn tư ơ i sáng dư ớ i án h m ặ t trờ i
th ì Hà Nộ i p h ả i là ngư ờ i an h cả ”.151

NGHIÊN CỨ U TRAO ĐÓI 25
5. Ngư ờ i Hà Nộ i th a n h lị ch tron g cách
ứ ng XU, nói năng. T rong nh ữ n g năm đầ u
củ a th ậ p kỉ th ứ tám th ê kỉ XX. Vũ Ngọ c
Phan nhó lạ i: ‘‘Theo tụ c xư a, tro n g gia đình
Việ t N am, không riêng gì H à Nộ i, ngồ i vào
m âm cơ m, ngư ờ i lở n chư a cam đũa, trẻ con
chư a đư ợ c ăn. Trư ớ c kh i ăn, trẻ con phả i
mờ i ông bà, cha mẹ và các a nh , các chị rồ i
mó'i cầ m đũa. D ân H à Nộ i xư a cũng có
ngư ờ i đẹ p, ngư ờ i xấ u, ngư ờ i tra n g nhã,
ngư ờ i thô tụ c n hư các nơ i k hác thờ i bấ y giờ .
N hư ng ngư ờ i ta n h ậ n thấ y rằ ng , tron g sự
tiêp xúc giữ a con ngư ờ i vớ i con ngư ờ i, ít khi
ngư ờ i Hà Nộ i xư a có n hữ n g thói thô bạ o,
tụ c tằ n ”.(G)
“Ngư ờ i H à Nộ i xư a dư ợ c quý m ế n n hư
thố , nên ngay khi dem b án rau , đ ậ u cho
ngư ờ i Hà Nộ i, cô gái kẻ L án g cũng muôn
sắ m sử a qu an g g ánh cho tra n g trọ ng và
“muỢ n ngư ờ i lị ch sự " gánh đi:
Anh 'giúp em đôi quang tám dẻ cho bề n
Mư ợ n ngư ờ i lị ch sự gánh lên
Kinh K ỳ m
6 . Ngư ờ i H à Nộ i th a n h lị ch cũng là
ngư ờ i khéo tay hay nghề . N h à văn Vũ Ngọ c
Phan cho biế t: “H à Nộ i xua là nơ i có nhiêu
ngư ờ i khéo tay, giỏ i n hiề u ngh ề nh ư dệ t,
thêu, khả m , đ an lát, chạ m trổ , v.v... N hiề u
tay thợ khéo đ ã tậ p tru n g ở m ộ t sô phư ờ ng
Hà Nộ i n hư thợ kim hoàn, làm các đồ nữ
tran g ở phô H àng Bạ c, thợ thê u rồ ng
phư ơ ng, hoa điể u trê n sa ta n h m àu vàng,
màu dỏ , trên áo gố ì, trên đệ m, trê n các bứ c
trư ó ng ở H àng T rố ng (vào thờ i 1920 trở lạ i
dây, chỉ còn d ăm nhà h án trông); ở p h ố này
còn có n h u n g cử a h àn g bá n “đăng te n ”.
Ngư ờ i ta dã có câu: Khéo tay, hay nghề , đấ t
lề Ké Chợ """
Không ph ả i chí’ có n hữ ng ngư ờ i thợ Hà
Nộ i mớ i khéo tay, n h ữ n g cô gái củ a n hiề u
gia dinh khác cũng có nh ữ ng đôi tay tà i
khéo. Hồ i còn nhỏ tuổ i, Vũ Ngọ c P h a n đã
từ n g chứ ng kiế n cả n h “đêm tru n g th u, có
cái th ú th a n h lị ch củ a tra i gái H à Nộ i là đi
xem cỗ . Ngư ờ i bày cỗ bao giờ cũng là cô gái
khéo ta y và duy ên dáng, còn ngư ờ i di xem
cỗ p hầ n dông là con tra i. Có n hữ ng cô gái
sử a soạ n cỗ th á n g tám r ấ t công phu, bánh
m ứ t và hoa do chính các cô làm ra, chứ
không p hả i m ua ở các hiệ u. Các cô gọ t du
đủ Vcà nhuộ m th à n h n h ữ n g bông hoa trà
m àu hồ ng đào, m àu đỏ th ẫ m , gắ n lên cây
trà trông n hư hoa th ậ t, họ c ắ t bí thà nh
chữ , xế p th à n h câu đôi hoặ c th ơ và làm
th à n h m ộ t th ứ m ứ t thơ m ngon. Gà mổ moi,
luộ c chín, buộ c gậ p mỏ vào cô và dính bông
làm râu, tô vẽ m ặ t m ày th à n h ông Lã Vọ ng
ngồ i câư , mê gà gọ t th à n h cái giỏ , trái tim
gà bổ th à n h con cá và m iế ng tiế t luộ c là cái
nón”.(i” Ngư ờ i cô họ củ a tác giả “vừ a đẹ p,
vừ a khéo tay, cô đán h p h ấ n, bôi môi son, kẻ
lông mày tran g diêm r ấ t kĩ, ă n m ặ c rấ t
sang, đi ra, đi vào, trả lờ i nhữ ng câu hỏ i
củ a k hách vào xem vê n h ữ ng th ứ bán h m ứ t
cầ u kì, làm cho các c hà ng tra i H à Nộ i hồ i
bấ y giờ ngắ m cô nh iê u hơ n là xem cỗ . ơ
H àng Gai, có cỗ th á n g tá m n h à bà An Sơ n
củ ng to lắ m . Cỗ m à dư ợ c coi là to, chỉ khéo
không thôi k hông đủ , p hả i có ngư ờ i đẹ p
làm ra cỗ mói đư ợ c h à n g phô' đế n xem đông.
N h ân có cỗ th á n g tá m , n h iê u cô đư ợ c
nhữ ng chàn g tra i tu â n tú chú ý, chắ p mố i
lư ơ ng duyên, n ên vợ , nên chồ ng”.<l0)
7. Ngư ờ i H à Nộ i th a n h lị ch cũng là
nh ữ n g ngư ờ i có v ăn hoá ẩ m thự c cao.
Hà Nộ i có m ón q u à nôi tiê ng là côm
Vòng. “T hứ nế p non ở làng Vòng m à ngư ờ i
ta g ặ t về , đem ra ng, đem giã và sàn g sẩ y kĩ
gọ i là côm b án ở H à Nộ i trong m ùa th u, là
m ộ t th ứ ăn đặ c biệ t, cung cấ p riên g cho Hà
Nộ i. Côm Vòng đ ầ u nia h ay cố m giót, vừ a
dẻ o, vừ a ngọ t, vừ a thơ m . M à hễ cứ có corn
là có chuôi tiêu trứ n g cuố c dể ăn cùng, gây
m ộ t hư ơ ng vị đặ c biệ t, làm cho n hiề u ngư ờ i
nghiệ n, coi đó là m ón quà sáng Ton lành

26 NGUYỄ N XUÂN KÍNH
trong nh ữ n g ngày th u m á t m ẻ . N hữ ng
ngư ờ i th ích củ a ngọ t th ư ờ ng đem xào cố m
vố i đư ờ ng, vẩ y ít nư ớ c ho a nh ài, trộ n thêm
ít dừ a thá i nhỏ rồ i đổ vào đĩa để ăn trá n g
m iệ ng sau bữ a cơ m. G iả n dị hơ n, ngư ờ i ta
trộ n ngay côm sông vở i đư ờ ng bộ t trắ ng và
đậ u nắ m , rồ i gói lạ i, đ ặ t dư ớ i bàn nén, chỉ
sau vài ba giờ đem corn ra ăn, côm đậ u
đư ờ ng quyệ n c h ặ t vói n h au , ăn vừ a ngọ t,
vừ a dẻ o, vừ a bùi, lạ i hơ i dai dai, ăn xong
uố ng chén nư ớ c trà m ạ n ư ớ p sen thì cả m
th ấ y các vị ngọ t thơ m đọ ng lạ i r ấ t lâu trong
cổ họ ng. Chè côm cũng là m ộ t th ứ trán g
m iệ ng rấ t th a n h và m át sau bữ a cơ m trư a.
N hiề u n h à sấ y cố m cho khô rồ i bỏ vào vò,
đế n m ùa hạ , tron g nh ữ ng lúc tiế t trờ i oi ả ,
đem ra n ấ u chè vố i bộ t sắ n dây, để cho th ậ t
nguộ i mớ i ăn, m át lạ n h đế n ch ân răng,
chẳ ng khác nào ãn “kem ” m à lạ i đư ợ c nêm
cái hư ơ ng vị trá i m ùa, có tác dụ ng hạ
nh iệ t”.(11) “B ánh côm m à làm khéo, xư a chỉ
có b ả n h côm H àng T h a n và b án h côm H àng
Bạ c, hai n h à làm bán h côm có tiế n g từ lâu,
cũng như ngư ờ i ta nói b á n h đ ậ u bà Chê
(H àng Bạ c) và bá n h đ ậ u H ả i Dư ơ ng vậ y.
Chỉ nhắ c đế n tê n là ngư ờ i ta đủ tin cậ y và
cho là ngon rồ i”.(12)
Ngoài b á n h cố m, ngư ờ i H à Nộ i còn
dùng b án h bò, bá n h quế , b á n h bẻ , b án h củ
cả i, bá n h th ạ ch (nhữ n g th ứ b á nh đặ c biệ t)
và bán h cuố n T h a n h Trì, bá nh dày Q uán
G ánh, b án h rá n c ầ u K h âu (n hữ n g th ứ
bả n h bìn h d ân, ngư ờ i giàu, ngư ờ i nghèo
đề u đã ăn qua).
Vũ Ngọ c P h a n cho biế t: “Còn m ộ t thứ
mà m ùa rét cũn g n h ư m ùa nóng, dân H à
Nộ i tiêu th ụ r ấ t n hiề u là bún . B ún thì
không đâu ngon bằ n g b ú n Đ ông M ác, sợ i
vừ a nhỏ vừ a dẻ o, lạ i săn sợ i, k hôn g bế t. Chỉ
mộ t th ứ bún m à sả n ra r ấ t n hiề u món ăn
ngon làn h, lạ i rấ t rẻ , nế u đem so vớ i các
món ăn T àu h a y Tây. N ào b ú n ố c, b ún
sư ờ n, bú n riêu , b ú n bò, bú n th a ng , b ún chả ,
” (13)
v.v... .
Có k hi ngư ờ i H à Nộ i ăn chả cá vớ i bún
ở n h à h àn g Lã Vọ ng. B ình d ân hơ n, có lúc
họ thư ở ng thứ c “b ú n cá b án ro ng cũ ng ngon
tu y ệ t”. H ãy nghe V ũ Ngọ c P h a n kể lạ i: "Ba
xu hoặ c năm xu m ộ t m ẹ t. C ái m ẹ t đư ờ ng
kính chỉ 25cm , lở n hơ n cái đĩa tâ y trên lót
m ấ y chiế c lá dong, ngư ờ i ta đ ặ t lên m ấ y lá
bú n nhỏ sợ i, trắ n g m uố t, m ấ y lá rau sông,
diế p tây và thơ m m ùi, m ộ t cái chén xinh
xẻ o, n h ỉ n h hơ n cái chén đong rư ợ u nế p mộ t
tí, tro n g có nư ớ c m ắ m ch an h đư ờ ng, ớ t, pha
rấ t khéo và chả m iế ng hoặ c ch ả băm tuỳ
theo sở th ích ngư ờ i ăn. H àng b ú n chả đỗ
đâu là thơ m nứ c ở đó, cô h à ng b án chả q u ạ t
chả trê n th a n hồ ng đự n g tro n g cái hộ p sắ t
tây, chả cháy xèo xèo, khói b ay ngh i ngút...
Có ba xu hoặ c n ăm xu là đã đư ợ c ă n bún
chả thơ m ngon, n h à làm th ì tố n hơ n và
kề nh càng lắ m ”.<14)
N h à v ăn n h ậ n ra rằ n g, ngư ờ i H à Nộ i
không chỉ biế t chọ n n h ữ ng th ứ c ăn ngon,
m à còn b iế t dù n g phôi hợ p giữ a chúng. Cá
rô Đ ầ m Sét ăn vớ i nư ớ c m ắ m Vạ n V ân th ì
ngon tu y ệ t. T h ị t q uay m ua ở phô' H àng
Buồ m đư ợ c ă n c ùng vớ i dư a vùng T ây Hồ .
D ư a T ây Hồ q u ấ n trò n lạ i từ n g lá, thả
tron g nư ở c dư a tron g v ắ t hơ i chua chua,
đự ng tron g cái nồ i đ â t sâu , g án h đi b án
rong. Ngự ờ i ta nói “th ị t sơ n son dư a cuộ n
trò n ” là vì thế . “M ấ y ông ở là ng Vẽ (Đông
Ngạ c) thích ă n n h ữ ng món cầ u kì, thư ờ ng
nói: Thị t mỡ ăn cặ p vớ i cà, lá mơ tam thê
ăn vớ i thị t gà chăm tư ơ ng”.(15)
Vũ Ngọ c P h a n cũn g viế t k h á chi tiế t vê
việ c ngư ờ i H à Nộ i xư a ch u ẩ n bị và làm các
món ă n tron g n h ữ ng ng ày T ế t N guyên dán.
Về n h ữ n g thứ c uố n g củ a ngư ờ i H à Nộ i,
n h à văn n hắ c đế n chè ư ớ p h ạ t hoa ngâu,
chè m ạ n ư ở p sen, chè T àu ư ớ p thu ỷ tiên,
đế n rư ợ u trắ n g làn g H oàng M ai.