Tên học viên: Lê Thị Hà
Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam. Khoá 24.2
BÀI TẬP QUÁ TRÌNH
CHUYÊN ĐỀ
TRIỀU NGUYỄN TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
Chính sách đối với Công giáo từ Gia Long đến Tự Đức.
Tóm tắt: Bài viết được bắt đầu từ việc khái lược quá trình du nhập của đạo
Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỉ XVI. Sau đó tập trung làm chính sách
với công giáo của bốn vị vuatầm ảnh hưởng nhất của triều Nguyễn Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, mỗi giai đoạn các vị vua đều có những
chính sách khác nhau nhưng tựu chung lại là sự bài xích của hệ tư tưởng Nho
Giáo được các vua triều Nguyễn dành cho đạo Thiên Chúa. Qua từng giai
đoạn ta đều thấy có sự liên quan ít nhiều của các giáo sĩ thừa sai với quá trình
thực dân phương Tây (cụ thể là Pháp) xâm nhập, tìm hiểu và nghe ngóng tình
hình Việt Nam. Về sau này vấn đề công giáo một trong những do để
Thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Bài
viết cũng đưa ra nhận xét về các chính sách cũng như trách nhiệm của triều
Nguyễn trong việc bảo vệ đất nước.
Từ khoá: công giáo, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cấm đạo, chỉ
dụ, cấm đạo…
1
1. Mở đầu.
Trước khi tìm hiểu về chính sách về công giáo của các vua Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức ta cần khái niệm “Thừa sai” khái quát lịch sử du nhập
của đạo Thiên chúa vào nước ta trước khi các vua trên xác lập quyền lực.
Thừa sai một cụm từ Hán Việt, trong lịch sử Công giáo Việt Nam thừa
sai”\- nhà truyền giáo - người được Giáo hội sai đi rao giảng Phúc Âm cho
những ai chưa nhận biết Chúa Kitô. Những vị này thường thuộc về một tổ chức
truyền giáo nào đó của Giáo hội.
Theo Khâm định Việt Sử thông giám cương mục xác định đạo Thiên Chúa du
nhập vào Việt Nam từ năm 1533 (Quốc Sử Quán triều Nguyễn, 1998) . Trong thế kỉ
XVI, các thừa sai dòng Tên (Dòng Chúa Giêsu), Hội truyền giáo nước ngoài Paris
(Mission Ettrangere de Paris), dòng Đa Minh (Dominican) dòng Phanxico
(Franxisco) tiếp tục đến Việt Nam. Nếu như các thừa sai Dòng Tên đóng vai trò xây
dựng nền móng cho giáo hội Công giáo Việt Nam thì Hội truyền giáo hải ngoại Pari
dòng Đa Minh đã làm cho giáo hội này được hoàn thiện đạt tới sự cường
thịnh (Nguyễn Quang Hưng, 2007).
Trong tiến trình phát triển của lịch sử Công giáo Việt Nam rất nhiều nhân
vật nổi bật nhưng hai nhân vật có vai trò to lớn đối với sự phát triển Công giáo, văn
hoá cũng như tác động ít nhiều đến dòng chảy lịch sử dân tộc thì phải nói đến
giáo Alaxandre de Rhodes (1591 1660) Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc,
1741-1799). Nói đến Alaxandre de Rhodes thì thể coi ông người sáng lập ra
Giáo hội Công giáo Việt Nam, công lao của ông đối với Giáo hội Công giáo Việt
Nam điều không thể phủ nhận được. Đối với dân tộc Việt Nam, tên tuổi của ông
gắn liền với sự ra đời của chữ quốc ngữ. Việc ra đời chữ quốc ngữ trước hết một
phương tiện thuận lợi cho việc truyền Công giáo vào Việt Nam, đồng thời người
Việt Nam điều kiện trong giao lưu văn hoá với thế giới phương Tây. Nhưng mặt
khác cũng phải thấy rằng chữ quốc ngữ làm cho tiền trình phát triển văn hoá dân tộc
ngôn ngữ Việt Nam ít nhiều bị gián đoạn…nên thế hệ người Việt hiện nay ít
2
điều kiện tiếp cận với kho tàng văn hoá Hán Nôm của cha ông ta. Tấm huy chương
nào cũng mặt trái của (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 51). Nhân vật thứ hai
không thể không nhắc đến Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), một nhân vật gây
nhiều tranh cãi vì quá trình hoạt động của ông có nhiều biến động. Trước năm 1787
ông hoạt động như một nhà truyền giáo mối quan hệ mật thiết với Nguyễn Ánh,
nhiều lần giúp Nguyễn Ánh thoát nạn trước các cuộc tấn công của quân Tây Sơn, J.
Buttinger nhận xét: “Pigneau đã trở thành một chính trị gia, điều đưa ông trở
thành một nhân vật nổi tiếng. Kể từ ngày gặp Nguyễn Ánh, ông không còn hăng hái
trong việc truyền đạo như những năm trước đó” (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p.
68). Sau năm 1787, ông hoạt động như một chính trị gia hỗ trợ rất nhiều cho
Nguyễn Ánh trong việc giành lại chính quyền từ tay Tây Sơn giữ một chức vụ
quan trọng trong triều Nguyễn khi Nguyễn Ánh (vua Gia Long) lên nắm chính
quyền, được phong tước Quận công (người ta vẫn gọi ông là Bi nhu quận công), trở
thành nhân vật thứ hai trong triều đình chỉ sau nhà vua (Nguyễn Quang Hưng,
2007, p. 181). luận thế nào, những hoạt động chính trị của Giám mục Pigneau
cũng đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn kết duyên giữa truyền giáo với hoạt động
thương mại, khởi đầu cho giai đoạn truyền giáo gắn liền với chủ nghĩa thực dân
Việt Nam (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 76).
Từ những ghi nhận trên thể thấy được đạo Công giáo tác động ít nhiều
đến sự xác lập chính quyền nhà Nguyễn tạo nên những biến động to lớn trong
đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX. Sự khác
biệt về xuất xứ, lễ nghi tôn giáo khác biệt của đạo Thiên Chúa xuất hiện một đất
nước Á Đông truyền thống Nho học, lấy Nho giáo làm nền tảng bảo vệ vương
quyền, nền tảng cai trị xã hội, ngoài ra Việt Nam còn là quốc gia có tín ngưỡng tâm
linh thờ cúng gia tiên mạnh mẽ, chính điều ấy đã gây những tranh cãi, xung đột
không ít giữa chính quyền đạo Công giáo. Sự khác biệt lớn cùng việc khó dung
hoà từ cả phía chính quyền nhà Nguyễn bản thân đạo Công giáo (không đồng
tính với các tín ngưỡng tâm linh bản địa như thờ cúng gia tiên…) ngày càng sâu sắc
3
dẫn đến hàng loạt biện pháp cấm đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của bốn vị vua Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đây một trong những xung đột khó dung
hoà càng về sau càng gay gắt. Trong bối cảnh thế kỉ XX, khi chủ nghĩa thực dân
đang đe doạ độc lập dân tộc các nước Phương Đông, thứ tôn giáo đưa vào đang
xâm hại một cách nghiêm trọng ý thức hệ phong kiến văn hoá dân tộc, tiếp tay,
mở đường cho công cuộc xâm lược của thì trong nhận thức của triều Nguyễn,
cấm đạo một trong những biện pháp để tránh khỏi nguy xâm lược (Hội khoa
học lịch sử Việt Nam, 2008, p. 625).
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Triều vua Gia Long (1802-1819)
Vua Gia Long thi hành chính sách 2 mặt với vấn đề Công giáo, việc này cũng
điều dễ hiểu ông bất đồng với công giáo trong vấn đề nghi lễ cũng nhìn ra
nguy cơ mất chủ quyền khi có cơ hội đến với phương Tây thông qua con đường bảo
vệ đạo Thiên chúa, nhưng lại chịu ơn Giám mục Pigneau và tín hữu công giáo trong
việc đánh bại Tây Sơn cũng như giành lại vương quyền.do này nên Gia Long
không thể thực hiện cấm đạo, chính sách hai mặt thể hiện chỗ “Gia Long không
có thiện cảm với Công giáo, nhưng vì những lí do chính trị nên ông khoan dung với
tôn giáo này, chừng nào ông còn cần đến những người Pháp hợp tác với ông…”
(Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 164).
“Vấn đề nghi lễ” là một trong những nguyên nhân chính. Nguyễn Ánh và sau
này vua Gia Long đã sinh trưởng được nuôi nấng trong một tinh thần thấm
đẫm Khổng giáo, cùng đó bản thân ông cũng người rất coi trọng tín ngưỡng dân
tộc đề cao cội nguồn, gia tiên. Ngay từ khi còn chống Tây Sơn đã nhiều cuộc
tranh luận giữa Nguyễn Ánh Pigneau về vấn đề nghi lễ. Các thừa sai châu Âu
không hài lòng với việc nhà Nguyễn tỏ ra hàm ơn người Công giáo, nhưng trong
thâm tâm vẫn không thiện cảm với tôn giáo này. lần ông nói các thừa sai:
“Đạo của các Cha hay lắm, nhưng khắt khe quá nên chả ai theo được. Tôi không thể
chỉ lấy mỗi một vợ” (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 165). Một trong những bất
4
đồng chính kiến của Nguyễn Ánh với Công giáo thể hiện trong việc thờ cúng tổ
tiên, Pigneau cho rằng tổ tiên thực tế không tồn tại nên không cần thờ cúng. Nguyễn
Ánh thì nói bản thân ông không tổ tiên tồn tại hay không nhưng thờ cúng tổ
tiên biểu thị s tôn kính, hiếu thảo của con cháu với ông bà. Nếu không họ thì
cũng không thế hệ hôm nay (Nguyễn Quang Hưng, 2007, pp. 165-166). Bất
đồng của Nguyễn Ánh với Công giáo càng nên căng thẳng khi Hoàng tử Cảnh từ
Pháp về năm 1792, Hoàng tử đã không chịu cúi lạy trước bàn thờ gia tiên nhà
Nguyễn. Trước mặt vua cha các quan, hoàng tử nói rằng thà chịu chém đầu hơn
vâng lời vua cha quỳ lạy trước bàn thờ tổ tiên, mặc dầu vẫn tỏ sự tôn kinh với tổ
tiên. Điều này làm cho Nguyễn Ánh tổn thương nghiêm trọng, cho thấy quan
niệm Nho giáo với tinh thần trung quân với nhà vua lòng hiếu thảo của con cái
với cha mẹ bị đe doạ trước sự truyền bá của Công giáo. Nguyễn Ánh không quên sự
kiện này và nhận ra con trai cả của ông do ảnh hưởng của Công giáo và văn hoá Âu
Châu đã giữ một khoảng cách với gia tộc nhà Nguyễn. Việc này làm tăng thêm bất
đồng của Nguyễn Ánh với Công giáo (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 169). Điều
Gia Long lo ngại chính sự cách li của công dân công giáo với cộng đồng Việt
Nam còn lại. Ông lo cộng đồng người công giáo được tổ chức theo kiểu giáo xứ,
giáo phận, quy tụ với nhau tồn tại chả khác một “quốc gia riêng” trong lòng
hội Việt Nam. Đây thể mầm mống gây bất ổn chính trị. Cùng với sự du nhập
của công giáo, quan hệ giữa nhà ớc giáo hội giờ đây trở thành quan hệ giữa
hai tổ chức. Điều này hoàn toàn xa lạ với quan hệ giữa nhà nước tôn giáo trong
hội Việt Nam truyền thống (Nguyễn Quang Hưng, 2007, p. 170). Như vậy, ngay
cả khi còn cần đến sự giúp đỡ của Pigneau người công giáo trong cuộc chiến
giành lại vương quyền, tức khi địa vị số phận còn rất mong manh thì lập
trường của Nguyễn Ánh trong vấn đề này dứt khoát, không thoả hiệp. thể
trở thành ngòi nổ gây xung đột của vương triều Nguyễn với giáo hội Công giáo bất
cứ lúc nào. Về phía giáo hội, bản thân Pigneau cũng nhận thấy vấn đề đã trở nên rất
nghiêm trọng. Ông đã xin T thánh cho phép giáo dân thờ cúng gia tiên, coi đây
5