
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN KHẢO CỔ
Câu 1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành trong khoa học lịch sử.
a. Khái niệm phương pháp liên ngành
Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội nói chung và khoa học lịch sử nói riêng
là một xu thế mới tất yếu và cần thiết nhằm làm tăng tính hiệu quả của hoạt động nghiên
cứu.
Dưới góc độ tổng quan, Nguyễn Văn Kim và Phạm Hồng Trung (2018) cho rằng:
“Khoa học lịch sử ngay từ rất sớm đã là một khoa học liên ngành, nhận thức lịch sử muốn
đạt đến sự toàn diện, thực chứng, khách quan và chân thực thì phải dựa trên hệ phương
pháp nghiên cứu và cách tiếp cận liên ngành, đa diện và đa chiều . Vậy, nghiên cứu liên
ngành là gì ?.
Theo Nguyễn Quang Ngọc (2009), nghiên cứu liên ngành nói giản đơn là: Sử dụng
đồng thời, thực sự khách quan và bình đẳng nhiều phương pháp chuyên ngành, nói chính
xác ra là từ hai phương pháp chuyên ngành trở lên, cho nhận thức về một sự vật hay một
hiện tượng nào đó" và “cái khó của phương pháp liên ngành là ở chỗ nó đòi hỏi người ta
sử dụng cùng lúc nhiều phương pháp khác nhau, nhưng lại không được coi phương pháp
nào là chính, phương pháp nào chỉ là bổ trợ.
** Một ví dụ điển hình của nghiên cứu liên ngành: Khi nghiên cứu về thành Thăng Long
(Hà Nội) theo phương pháp Sử học truyền thống, chúng ta chỉ cần khai thác và hệ thống
các nguồn thư tịch cổ chép về tòa thành này, rồi mô tả và nhận xét về quy mô, cấu trúc,
vai trò và vị trí của nó trong lịch sử. Nếu chỉ dùng lại ở đây thì nhận thức của chúng tôi
về tòa thành Thăng Long không tránh khỏi còn mơ hồ và thậm chí có khi sai lệch. Từ khi
tiến hành khai quật Khảo cổ học ở 18 Hoàng Diệu, khu phía tây Cấm thành Thăng Long
được phát lộ, giới Sử học có cơ hội được hợp tác cùng với giới Khảo cổ học, Văn hóa
học, giới nghiên cứu Kiến trúc, Cổ Sinh học, Cổ Địa lý... cùng nhau thảo luận, so sánh,
đối chiếu với các tòa thành cùng loại ở trong nước và trên thế giới,... đã xác định được
một cách chính xác, toàn diện, không chỉ vị trí, quy mô, cấu trúc của tòa thành, các giá trị
đặc trưng và giá trị nổi bật toàn cầu của nó. Thành tựu khoa học mới về tòa thành Thăng
Long là sản phẩm tiêu biểu của nghiên cứu liên ngành, mà chỉ mấy năm trước thôi, không

một nhà khoa học nào có thể hình dung ra được. Có thể nói rằng chỉ khi những nhận thức
chuyên ngành được hòa quyện với nhau để tạo ra những sự thay đổi về chất trong nhận
thức khoa học thì đó mới là liên ngành thực sự.
Dưới góc độ tâm lí học, Nguyễn Hữu Thụ (2009) định nghĩa: Tiếp cận liên ngành
trong khoa học là cách thức tổ chức, tiến hành nghiên cứu có sử dụng quan điểm, tri thức
và phương pháp nghiên cứu của một nhóm chuyên gia thuộc các chuyên ngành khác nhau
để giải quyết vấn đề một cách toàn diện, khách quan và hiệu quả nhất.
Từ những định nghĩa trên, Đặng Văn Thắng (2011) đưa ra định nghĩa về nghiên
cứu liên ngành trong nghiên cứu lịch sử như sau: “sử dụng quan điểm, tri thức và phương
pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu
một cách toàn diện và hiệu quả, là xu hướng và ưu thế trong nghiên cứu khoa học lịch
sử”.
Trong thực tế nghiên cứu khoa học lịch sử, việc sử dụng quan điểm, tri thức và
phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác diễn ra khá phổ biến. Cụ thể như
ngành sử liệu học luôn đồng hành với các nhà sử học trong quá trình nghiên cứu, giúp
các nhà sử học thẩm định, phê bình, đánh giá độ chân thực của sử liệu trước khi sử dụng.
Các ngành: Khảo cổ học, Cổ tự học, Bì kí học, Lịch pháp học, Địa danh học, Nhân học...
là những ngành khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu lịch sử thời kì chưa có chữ
viết của các nhà sử học.
Chẳng hạn như để tìm hiểu lịch sử Việt Nam thời cổ, trung đại, trong điều kiện sử
liệu chữ viết không có hoặc có không đầy đủ, nhà sử học cần phải nắm những kiến thức
cơ bản của khảo cổ học, bị kí học, về phương pháp nghiên cứu, đánh giá và thẩm định cổ
vật, văn bia,... để khai thác những sử liệu của các lĩnh vực này cho quá trình nghiên cứu
của mình.
Đối với những công trình nghiên cứu có tính chất giao thoa giữa sử học với các
ngành khoa học khác như: quan hệ quốc tế, kinh tế, văn hóa, chính trị học, nhân học,
khoa học kĩ thuật,... thì việc sử dụng quan điểm, tri thức và phương pháp nghiên cứu của
các ngành khoa học này trong quá trình nghiên cứu lịch sử được thể hiện rất rõ nét. Chỉ

có như vậy, nhà sử học mới có thể có được những phương tiện để khám phá, giải quyết
vấn đề một cách toàn diện, khách quan và hiệu quả nhất.
Chẳng hạn như đối với một đề tài về lịch sử quan hệ giữa Việt Nam với một quốc
gia, một khu vực hay một tổ chức quốc tế cụ thể nào đó, để nghiên cứu các mối quan hệ
trong lĩnh vực kinh tế, nhà sử học phải có tư liệu, số liệu và vận dụng các phương pháp
nghiên cứu của ngành kinh tế học như thống kế, phân tích, tổng hợp... để đánh giá, rút ra
đặc điểm, quy luật của hoạt động quan hệ hợp tác này.
B. Vận dụng phương pháp phỏng vấn trong nghiên cứu lịch sử
Phỏng vấn là một hoạt động thu thập thông tin bằng hình thức hỏi - đáp, chuyện
trò, trao đổi giữa người nghiên cứu với những người có liên quan đến đối tượng nghiên
cứu. Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu xã hội
học, dân tộc học, văn hoá học…
Trong nghiên cứu những vấn đề lịch sử gần với hiện tại, bên cạnh việc thu thập
những thông tin từ các nguồn tư liệu thành văn, các bằng chứng lịch sử, người nghiên
cứu còn sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập thông tin về các sự kiện, hiện tượng
lịch sử từ các nhân chứng - những người đã trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia vào các
sự kiện lịch sử.
Phỏng vấn trong nghiên cứu có hai cách: cách thứ nhất, người phỏng vấn được ví
như thợ mỏ (miner), dùng phỏng vấn để khai thác “mỏ” hiểu biết sẵn có; cách thứ hai,
người phỏng vấn được ví như nhà du hành (traveller) chu du cùng người được phỏng vấn,
cùng họ sáng tạo ra và diễn giải những hiểu biết. Quan điểm này phù hợp với đặc điểm
của phỏng vấn trong nghiên cứu lịch sử.
Quan điểm coi phỏng vấn như một cuộc cùng “du hành” của người phỏng vấn và
người được phỏng vấn được sử dụng trong trường hợp nhà sử học đã có những hiểu biết
khá sâu về vấn đề cần phỏng vấn nhưng những thông tin thể hiện trong các sử liệu thành
văn mà họ có được chưa đủ sức thuyết phục để đi đến kết luận hoặc có sự mâu thuẫn giữa
các nguồn thông tin đó. Người nghiên cứu sẽ tiến hành phỏng vấn các nhân chứng lịch sử
để thu thập thêm thông tin nhằm củng cố vững chắc cho những kiến giải của mình, loại
bỏ những thông tin sai lệch.

Quan niệm coi phỏng vấn như quá trình khai thác “mỏ” được sử dụng trong trường
hợp nhà sử học chưa có nhiều hiểu biết về đối tượng nghiên cứu. Mục tiêu của cuộc
phỏng vấn là nhằm “thu thập lời kể chủ yếu dựa vào ký ức và chú trọng khai thác những
tác động của lịch sử lên suy nghĩ và hành động của người được phỏng vấn. Người nghiên
cứu (người nghiên cứu) sẽ dẫn dắt nhân chứng lịch sử(người trả lời phỏng vấn) tái hiện
“những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời cùng với những kinh nghiệm, suy nghĩ, cảm xúc
của mình".
Như vậy, mục tiêu của phỏng vấn là nhằm tìm kiếm, bổ sung sử liệu hoặc thẩm
định thông tin. Ưu điểm của phương pháp phòng vẫn trong nghiên cứu lịch sửlà người
nghiên cứu có thể thu thập được những thông tin trực tiếp mà mình muốn biết, tìm kiếm
được những lí giải về các sự kiện, hiện tượng lịch sử từ phía người trong cuộc mà nhiều
khi nó không được phản ánh trong các nguồn sử liệu thành văn. Tuy nhiên, do trí nhớ,
năng lực và ý chí chủ quan của nhân chứng nên nguồn thông tin thu thập được từ phương
pháp phỏng vấn cũng có những hạn chế về tính chính xác. Chính vì vậy, khi sử dụng
những thông tin thu thập được từ phòng vấn, người nghiên cứu cần phải tiến hành phê
bình sử liệu, so sánh đối chiếu với các nguồn sử liệu khác để xác định tỉnh chân xác của
thông tin.
C. Vận dụng nghiên cứu định lượng trong nghiên cứu lịch sử
Nghiên cứu định lượng là “phương pháp sử dụng những kỹ thuật nghiên cứu để thu
thập dữ liệu định lượng – thông tin có thể biểu hiện bằng các con số và bất cứ gì có thể
đo lường được". Trên cơ sở các dữ liệu đó, người nghiên cứu sẽ tổng hợp, phân tích để
đưa ra kết luận cuối cùng. Các dữ liệu trong nghiên cứu định lượng sẽ được tổng hợp
thành các bảng biểu thống kê, tỉnh toán tần số, tỉ lệ tương quan, giá trị trung bình,... dùng
đồ họa như đồ thị, biểu đồ, sơ đồ để thể hiện những đặc điểm, xu hướng vận động và phát
triển của đối tượng nghiên cứu.
Trong nghiên cứu về lịch sử kinh tế, văn hóa – xã hội và giáo dục,... nhà sử học
phải mô tả và phân tích các số liệu cụ thể để chứng minh hay bác bỏ một giả thuyết, mô
tả để làm rõ quy mô, đặc điểm, quy luật vận động, phát triển,... của các lĩnh vực này. Để
đảm bảo hiệu quả và tính khoa học, nhà sử học thường vận dụng một số phương pháp và

kĩ thuật thông kể, tính toán của phương pháp nghiên cứu định lượng trong quá trình
nghiên cứu. Cụ thể là cách lập các bảng thông kê, kĩ thuật tỉnh toán tổng giá trị, giá trị
trung bình, tỉ số phần trăm, tỉ lệ tăng trưởng theo từng năm, tỉ lệ tăng trưởng trung bình
trong từng giai đoạn lịch sử,…
Ví dụ: Nghiên cứu về thực trạng xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Việt -
Trung từ 2000 đến 2010, nhà sử học sẽ lập bảng thống kê và tính toán như sau: