
BÀN THÊM VỀ CHẾ ĐỘ NHÀ LANG TRONG
XÃ HỘI MƯỜNG CỔ TRUYỀN
(QUA NGHIÊN CỨU ĐIỀN DÃ TẠI THANH SƠN – PHÚ THỌ)
CN. Dương Hà Hiếu
Khoa Sử - Địa
Abstract. The relationship between NHA LANG and Muong people in the age-old society is strongly
democratic. NHA LANG ruling classes themselves have limited rights but also obligations to people in the place
they control. In comparison with essence of the Viet (Kinh) feudal landlord class, NHA LANG has more
progressive factors because it represents the rights of not only its classes but also Muong people. NHA LANG
has to help Muong people in special situations such as drought, crop faiture, famine and other important work as
well. In addition, they are responsible for holding significant ceremonies of this race. NHA LANG is also
suffered fine rules of Muong people if they don’t do their work well. The NHA LANG regime is one of original
features of rich practice, rituals and customs of this race.
1. Mở đầu. Quan hệ xã hội trong một cộng đồng phản ánh khách quan, rõ nét về văn hoá ứng
xử cũng như mối quan hệ của các cá nhân trong cộng đồng xã hội, phản ánh những tục lệ
truyền thống dân tộc, vai trò của từng tầng lớp người trong xã hội. Từ đó, chúng ta thấy được
trình độ phát triển của cả một cộng đồng tộc người. Do địa thế tự nhiên rừng núi chia cắt,
người Mường Thanh Sơn quần tụ bên nhau, hình thành nên vùng mường – bản mường. Mỗi
vùng mường, bản mường không liền sát cạnh nhau mà cách xa nhau hàng cây số, đôi khi cả
chục cây số. Chính với đặc thù này mà đồng bào có câu nói cửa miệng “khắc đi khắc đến”
không việc gì phải vội vã cứ “ngày lui tháng tới”.
Người Mường sống trong quan hệ cộng đồng làng bản, xã hội khá chặt chẽ với những
mối quan hệ ràng buộc nhau. Quan hệ trong làng bản của họ thân thiết và gắn bó tương trợ
nhau. Người già cả được mọi người kính trọng. Trẻ em được cả cộng đồng quan tâm chăm
sóc, yêu quý. Nổi lên trên hết trong cuộc sống giao tiếp truyền thống của tộc người này là
quan hệ DÂN MƯỜNG và NHÀ LANG.
Tuy vậy cho đến ngày nay, khi nhắc đến tầng lớp NHÀ LANG cũng như nói đến sự
cai trị của nhà lang chúng ta còn có những quan niệm và cách gọi nhầm lẫn về tầng lớp này.
Chúng tôi cho rằng ngay tên thuật ngữ dùng để chỉ tầng lớp này cần phải có sự thống nhất và
chính xác. Trước đây, khi nghiên cứu về xã hội mường cổ truyền, nhiều nhà nghiên cứu đã
gọi tầng lớp NHÀ LANG với những thuật ngữ khác nhau, có thể kể ra như sau:
1.1. Theo Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu thì “Trước Cách mạng tháng
Tám, xã hội Mường được đặc trưng bằng chế độ lang đạo (TG nhấn mạnh). Đó là những
chúa đất nắm quyền cai quản dân trong vùng, bọn lang đạo theo các dòng họ có thế lực và
được thế tập, chúng thay nhau cai quản các mường và làng xóm…”1.
1.2. Theo nhà nghiên cứu Pháp Ta – rô trong cuốn “Những tỉnh Bắc Kỳ – Hưng Hoá. Dân tộc
học” cho rằng: “Về tổ chức làng xóm, người Mường sống dưới chế độ dường như là Tiền
Phong Kiến, mỗi làng có một Thổ tù, mỗi xóm có một Thổ lang. Những người này có thể coi
1 Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu: Văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nxb GD, 1998, Tr40

như những chúa đất địa phương. Họ còn được gọi là quan lang. Quyền hành của họ cha
truyền con nối…”2.
1.3. Tác giả Jeanne Cuisinier trong toàn bộ tác phẩm nổi tiếng “Người Mường địa lý nhân văn
và xã hội” – một công trình đồ sộ về người Mường - đã dùng thuật ngữ “thổ lang” để chỉ tầng
lớp thống trị trong xã hội Mường cổ truyền. Bà chỉ rõ: “ Đối với thổ lang, quyền trưởng bảo
đảm cho người con trai cả chức thổ lang và quyền sở hữu ngôi nhà của người cha. Do chức
thổ lang, người ta công nhận cho anh quyền cai trị lãnh địa, nhưng tư cách trưởng nam của
anh không boả đảm cho anh sự toàn vẹn lãnh địa; người ta cắt các thái ấp chia cho các em trai
của anh, những người, cũng như anh, đều là con trai của người vợ chính. Các em anh ta trở
thành các thổ lang (hay thổ tạo trong vùng Mãn Đức)”3.
1.4. Giáo sư Phan Hữu Dật thì lại không chỉ hẳn ra tên gọi cho chế độ cai trị trong xã hội
Mường cổ truyền mà mới chỉ dừng lại ở: “Với xã hội Mường, đó là thiết chế làng – chiềng
với các chức lang đạo, lang cun – nhưng có thể nói đặc điểm thiết chế xã hội Mường cổ
truyền là vai trò của dòng họ với chế độ thế tập cha truyền con nối, trong việc cai quản xã
hội.”4. Cùng hướng quan điểm này, Giáo sư Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Cảnh Minh trong
“Lịch sử Việt Nam từ nguyên thuỷ đến 1858” cũng chỉ nêu lên: “Người Mường trở thành một
tộc người sống ở miền thượng du. Họ vẫn tiếp tục giữ những nét văn hoá nguyên thuỷ, sống
theo bản mường dưới sự cai quản của các lang cun, lang đạo”5. Giáo sư Trần Quốc Vượng
thì đưa ra: “Vùng Mường trước Cách Mạng, có lang, có nàng. Lang có lang đạo, lang cun
(cun - kun). Đạo (con trưởng ngành thứ nhà lang) cai quản một xóm, cun (con trưởng ngành
trưởng nhà lang) cai quản một mường”1.
1.5. Có lẽ xác đáng nhất, hợp lý nhất phải kể đến quan điểm của nhà Dân tộc học nổi tiếng và
là bậc thầy trong nghiên cứu về người Mường, đó là Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi) khi
ông đưa ra nhận định: “xứ Mường trước Cách mạng tháng Tám 1945, ít nhất cũng trong phạm
vi tỉnh Hoà Bình, vẫn trình ra khắp mọi nơi một cơ cấu xã hội – chính trị đồng nhất. Cơ cấu
đó không được chỉ định bằng từ Mường nào cả. Nhưng để tiện trình bày, tôi cứ tạm vay một
từ kép có sẵn trong ngôn ngữ của tộc người, để gọi cơ cấu nói trên là chế độ NHA LANG
(nhà lang)”2.
Từ những nhận định, quan điểm trên về tên gọi của tầng lớp này, tôi thấy cần thiết
phải có một thuật ngữ chính xác dùng để chỉ tầng lớp cai trị này trong xã hội Mường truyền
thống cũng như bản chất của nó. Bài nghiên cứu này dựa trên các tư liệu nghiên cứu điền dã
tại vùng mường Thanh Sơn (Phú Thọ) chỉ nhằm mục đích như vậy.
2. NHÀ LANG và quyền lợi – nghĩa vụ trong cuộc sống người Mường.
2.1. Vị trí NHÀ LANG trong xã hội Mường.
Điều đầu tiên có thể khẳng định, NHÀ LANG là tầng lớp quý tộc cai trị cả vùng
mường đến từng bản, làng một cách khá chặt chẽ. Tầng lớp dân Mường là lực lượng đông đảo
nhất. Bên cạnh đó, một bộ phận rất nhỏ bé những người phục dịch cho cuộc sống của NHÀ
2 Trích theo Nguyễn Dương Bình: Một vài nét về tình hình xã hội vùng mường Vĩnh Phú trước cách mạng tháng Tám.
Tạp chí Dân tộc học số 4, 1974, Tr35.
3 Sách đã dẫn. Nxb Lao Động, 1995, Tr383.
4 Phan Hữu Dật: Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam. Nxb ĐHQG HN, 1999, Tr225.
5 Sách đã dẫn. Nxb ĐHQG HN, 1999, Tr257.
1 Trần Quốc Vượng: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm. Nxb VHDT – Tạp chí VHNT. HN, 2000, Tr629.
2 Trần Từ: Người Mường ở Hoà Bình. Hội KHLSVN. HN, 1996, Tr3 – 4.

LANG. Trước đây, các nhà nghiên cứu gọi tầng lớp này là “Lang đạo”. Tuy vậy, thuật ngữ
này trở nên xa lạ đối với người Mường nói chung và người Mường Thanh Sơn nói riêng. Họ
không gọi tầng lớp thống trị mình là “Lang đạo” mà gọi là NHÀ LANG. Và bản thân những
người thuộc tầng lớp này cũng tự xưng mình thuộc NHÀ LANG. Còn “Lang đạo” chính là
cách người Mường gọi Lang Tạo. Ông này thuộc NHÀ LANG nhưng quyền lực và địa bàn
cai trị kém hơn Lang Cun rất nhiều.
NHÀ LANG có vị trí đặc biệt quan trọng trong cộng đồng xã hội của người Mường
nói chung và người Mường Thanh Sơn nói riêng. Người Mường có câu:
“Mường có LANG, làng có TẠO ”.
“Tạo” tức là “đạo” theo cách gọi của người Việt sau này, và, cũng có thể trong quá
trình tiếp xúc tìm hiểu, nghiên cứu mà người ta đã ghép LANG với TẠO thành LANG ĐẠO
và được dùng để chỉ cho toàn bộ chế độ NHÀ LANG.
Chúng ta có thể hiểu một cách rõ ràng rằng NHÀ LANG là cách người Mường dùng
để gọi tất cả những người trong họ làm Lang cai trị mình, mà, đứng đầu NHÀ LANG là Lang
Cun. Mỗi một vùng mường đặt dưới sự cai quản của một họ Lang. Đối với người Mường,
những họ làm Lang chủ yếu là họ Đinh, họ Hà, họ Quách, họ Hoàng, họ Bạch… Đây là tầng
lớp quý tộc nắm quyền cai trị cha truyền con nối. Trong NHÀ LANG có nhiều hạng với địa vị
khác nhau.
Lang Cun (có nơi gọi là Lang Ngài) là tên gọi người đứng đầu cả vùng mường mà
mình cai trị với nhiều bản mường. Lang Cun sống ở trung tâm của vùng mường của mình gọi
là Chiêng (Chiềng). Ông này chia các con thứ hoặc nam giới họ hàng thuộc chi thứ đi cai trị
các bản trong vùng mường. Riêng mường trung tâm có bản Chiềng sẽ được chuyển cho con
trai trưởng của Lang Cun khi ông này chết. Và đương nhiên, người con trai trưởng của ông
sau này cũng được dân Mường gọi là Lang Cun. Tất cả những người đàn ông trong NHÀ
LANG được Lang Cun chia cho cai trị các bản mường trong quyền cai quản đều phải có nghĩa
vụ nộp lễ vật hàng năm cho Lang Cun và theo quy định của ông này. Như vậy, Lang Cun
không phải là tên riêng mà là danh từ chung dùng để chỉ người đứng đầu họ Lang cai trị cả
vùng mường.
Vùng mường, bản mường nào cũng bắt buộc phải có tầng lớp này để làm chỗ dựa cho
toàn bộ đời sống kinh tế vật chất và đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. NHÀ LANG
đứng đầu cả một vùng mường rộng lớn, chủ trì các hoạt động lễ nghi, tết lễ hội hè cho đến
phát động mọi người tham gia cấy hái mùa vụ nên được mọi người kính nể. Nếu bản mường
nào mà dòng họ NHÀ LANG tuyệt tự, tức là không có con nối dõi hoặc vì một biến cố nào đó
mà không còn Lang thì dân bản đó phải làm lễ đi đến các vùng mường khác xin NHÀ LANG
ở đó cử con trai của họ đến làm Lang cho vùng mường của mình.
NHÀ LANG thường xác lập quyền cai trị của mình với tư cách là người có công tìm
ra đất đai, gây dựng bản mường, bỏ giống, trâu bò cho toàn dân Mường khai hoang sản xuất.
Các dòng họ làm Lang ở vùng mường Thanh Sơn chủ yếu là các họ Đinh (ở Giáp Lai, Tất
Thắng, Võ Miếu, Cự Đồng, Thạch Khoán….), họ Hà (Lai Đồng, Đồng Sơn, Thạch Kiệt…).
Bên cạnh còn một số họ làm Lang khác. Trong các họ này, họ Đinh mạnh và đông nhất, được
người Mường Thanh Sơn coi là họ làm Lang.

Ví dụ như ở Tất Thắng, dòng Lang họ Đinh cai trị cả vùng mường gồm các mường
nhỏ như mường Xem, mường Tế, mường Khang, mường Bãi…và mường Chiềng là mường
sầm uất, trù phú nhất. Còn ở Lai Đồng, có mường Vường, mường Phắt, mường Đồng, mường
Lòn, mường Kết… với trung tâm là mường Chiềng, nơi nhà Lang ở. Bên cạnh Chiềng là nơi
Lang Ngài sống còn có các mường nhỏ trong vùng, nhà Lang chia các mường nhỏ đó cho con
trai thứ hoặc anh em mình cai trị.
Dân Mường gọi những Lang này là Lang Tạo1 hoặc Quan Lang2. Những làng bản ít
dân chưa đủ để lập Lang thì người mà nhà Lang cử đến được gọi là Quan. Tuy vậy, tầng lớp
nhà lang chiếm số lượng rất ít ỏi.
Bên cạnh NHÀ LANG còn có một bộ phận nhỏ những người hoạt động cúng tế, xem
bói và tiến hành các hình thức chữa bệnh mà dân Mường gọi là ông Mo. Có thể nói, ông mo
đóng một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của người Mường Thanh Sơn. Ông này
tham gia vào các nghi lễ quan trọng của đồng bào. tầng lớp đông đảo, chiếm đa số trong xã
hội mường cổ truyền là người dân lao động Mường.
Như vậy về danh nghĩa, Lang Cun (tức Lang Ngài) cai trị cả vùng mường rộng lớn với
nhiều bản làng mường nhỏ nhưng trên tực tế ông ta chỉ cai trị một mường to nhất, đông dân
cư nhất mà người Mường gọi là Chiềng. Những mường nhỏ Lang Cun chia cho người thân
trong gia đình cai trị. Những Lang nhỏ này phải có nghĩa vụ nộp vật phẩm cho Lang Ngài
hàng năm theo quy định riêng của Lang Cun ở mỗi vùng khác nhau.
2.2.Quyền lợi và nghĩa vụ của NHÀ LANG đối với dân Mường.
NHÀ LANG có quyền lợi rất lớn về kinh tế, độc quyền phân chia ruộng đất trong
vùng. Ruộng NHÀ LANG là những phần đất tốt, gần sông suối và thuận lợi cho lao động.
Loại ruộng này đồng bào quen gọi là Na Lang (ruộng của nhà Lang) với diện tích lớn hơn
nhiều so với ruộng của dân Mường và liền bờ. Tuy nhiên, ruộng của NHÀ LANG so với
ruộng công của bản Chiềng chỉ chiếm một phần tương đối, không quá lớn để choáng hết
ruộng dân. Ngoài ra, NHÀ LANG còn có quyền được hưởng một phần ruộng công để dành
cho chi phí tiếp khách và một mảnh ruộng khác phục vụ cho việc cúng tế lễ tết, hội hè. Vào
ngày mùa, dân bản phải làm hai phần ruộng này cho NHÀ LANG mà đại diện cho tầng lớp
này là Lang Cun.
Ngoài quyền lợi về ruộng đất là quyền lợi cao nhất mà NHÀ LANG được hưởng thì
NHÀ LANG còn có quyền nhận sự phục dịch, cúng tế của dân bản trong những dịp lễ hội
trọng đại trong năm cũng như công việc gia đình như cưới xin cho con cái, ma chay và cày
cấy (phần này được đề câph rõ hơn ở phần các lễ nghi trong lao động sản xuất và lễ tết hội
hè). Đối với tài sản chung của cả vùng mường như ao hồ, suối, ngòi, đầm hồ hoặc rừng rú thì
NHÀ LANG cũng được hưởng một khoảnh nhỏ để sử dụng riêng và người dân không được
phép xâm phạm.
Nhờ có những đặc quyền kinh tế đó mà NHÀ LANG có cuộc sống khá giả hơn so với
nhân dân trong vùng. Đặc biệt đối với người Mường Thanh Sơn thì trống đồng là vật mà chỉ
1 Lang Tạo (sau được dịch ra tiếng Việt là Lang Đạo):Đây là tên gọi chức của người đứng đầu một vùng, bản mường
nhỏ nằm trong vùng mường của nhà Lang do Lang Cun quản lý. Lang Tạo phải là người trong dòng họ nhà Lang, có
thể là con cái của Lang Cun hoặc anh em họ hàng Lang Cun.
2 Quan Lang: là tên gọi người đứng đầu một mường nhỏ hơn các bản mường khác. Theo người Mường Thanh Sơn thì
Quan Lang cai trị những bản mường dân cư thưa thớt chưa đủ giàu có để lập Lang.

NHÀ LANG mới có quyền sở hữu và dùng vào những việc trọng đại của bản mường. Người
dân dù khá giả đến đâu cũng không ai được có quyền này. NHÀ LANG phải cất giữ trống
đồng cẩn thận vì nó được coi là bảo vật linh thiêng của mỗi dòng Lang.
Sơ đồ địa vị trong NHÀ LANG trong một vùng mường.
Lang Cun
(Lang Ngài)
cai trị cả vùng mường và trực tiếp cai trị mường
chính: Chiềng.
Lang Tạo
Cai trị mường nhỏ trong vùng
do Lang Cun phân cho.
Quan Lang
Cai trị mường nhỏ trong vùng do Lang Cun phân cho
nhưng nhỏ hơn Lang Tạo.
Quan
Cai trị mường nhỏ trên dưới 10 hộ gia
đình dân.
Sự khác biệt về kinh tế đưa đến sự phân biệt giữa NHÀ LANG với dân thường trong
quan hệ xã hội. Mọi người từ già đến trẻ trong gia đình, dòng họ NHÀ LANG được mọi
người dân kính nể, mến trọng. Một cụ già phải gọi một đứa trẻ là Nàng hoặc là Chàng nếu
chúng là con cái của NHÀ LANG.
Trong hôn nhân, con dân Mường không có quyền lấy con cái của NHÀ LANG. Sự
phân biệt này có khác biệt đối với con trai và con gái. Con gái Lang không được lấy con trai
của người dân mà chỉ được tìm hiểu và lấy con trai dòng Lang ở vùng mường khác, tức là
cùng tầng lớp. Con trai Lang có thể yêu và cưới con gái dân mường nhưng con gái dân dù có
cưới trước thì cũng chỉ là vợ lẽ hoặc nàng hai. Vai trò, địa vị dâu cả phải nhường cho con gái
thuộc dòng Lang mà chàng trai sẽ tìm hiểu và lấy sau này.
Ngày lễ tết, ngoài quà biếu của dân bản, NHÀ LANG còn được ngồi mâm trên. Tuy
nhiên trong vui chơi sinh hoạt hàng ngày, con Lang không có khác biệt gì đáng kể so với
người dân. Họ chỉ có thể kết bạn với nhau mà thôi. Phải chăng chính vì những cấm đoán này
mà trong cuộc sống của mình, người Mường có rất nhiều những áng mo (truyện thơ) nổi tiếng
phản ánh sự khát khao được yêu thương giữa chàng trai con Lang và cô gái con dân và ngược
lại như “Nàng Nghi Nga và chàng Hai Mối”, “Nàng con Thờm và chàng Bồng Hương”, “Vần
Va”…
Mặc dù có nhiều quyền lợi và được dân Mường quý nể nhưng NHÀ LANG cũng phải
có nghĩa vụ đối với nhân dân trong vùng mình cai trị như chủ trì mọi lễ nghi quan trọng của
lao động sản xuất, lễ tết như nghi lễ đóng – mở cửa rừng, lễ rước vía lúa, lễ khai canh xuống
đồng đầu năm, lễ treo hái… NHÀ LANG phải quyết định những việc trọng đại và bảo vệ

