BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đề bài: Các phương thức tuyển chọn quan lại ở Việt Nam thời phong kiến
và những bài học kinh nghiệm
Trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi lại lịch sử
khoa thi năm 1442 khắc ghi những dòng chữ: Hiền tài nguyên khí của quốc
gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước
yếu thấp hèn. thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc
giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần
thiết...”. Người soạn ra những câu nổi tiếng đó là Tiến sĩ triều Lê, Thân Nhân Trung.
Cho đến tận ngày nay, câu nói ấy vẫn còn nguyên giá trị. Trong dòng chảy lịch sử,
nhận được tầm quan trọng được vai trò của chủ thể công vụ, những người cai trị
luôn chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức tuyển chọn đặt ra những
nguyên tắc, quy chế để quản lý và sử dụng đội ngũ công chức nhằm đạt được những
mục tiêu trong quá trình dựng nước và giữ nước.
I. CÁC KHÁI NIỆM VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUAN LẠI
Theo từ điển Luật học, Tuyển dụng: lựa chọn thu nhận người vào làm
việc tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất”.
Thời phong kiến thời Pháp thuộc, quan lại thuật ngữ chỉ cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước. Quan lại một danh từ ghép, bao gồm quan lại.
Theo Từ điển Hán Việt, Quan “người làm việc cho nhà nước, làm chủ trong
một công việc”. Lại là “người làm việc công, chức phụ thuộc trong nha môn”.
Như vậy, quan lại là những người giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước,
nhiệm vụ quyền hạn khi tham gia hoạt động quản nhà nước hoạt động
chuyên môn. Quan lại kết thành một khối thống nhất giúp vua quản đất ớc,
giữ vị trí bản lề trong bộ máy nhà nước với danh xưng “phụ mẫu chi dân” do đó việc
tuyển chọn rất được đề cao. Trong Quốc triều hình luật, chương Vi chế còn quy định
rất rõ ràng những yêu cầu, mức phạt cụ thể trong quá trình tuyển, bổ, thừa hành đối
với quan lại. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn người tài một vị trí nhiệm vụ
quan trọng trong việc xây dựng đất nước. Đặc điểm này cũng dễ hiểu bởi từ thế kỉ
XI XIX, nhà nước phong kiến Việt Nam luôn được tổ chức theo hình thức chính
thể quân chủ chuyên chế, toàn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về vua. Tuy nhiên,
nhà vua không thể tự mình triển khai thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước. Với
cương vị điều hành trong quan nhà nước, quan lại giữ vai trò quan trọng trong
việc vấn, giúp việc cho nhà vua trong việc xây dựng các chính sách ban hành
pháp luật đồng thời triển khai quyền lực nhà nước. Do đó, trong thời phong kiến,
quan lại đã được chia theo các ngạch sắp xếp theo các tiêu chí khác nhau:
- Theo vị trí vai trò trong bộ máy nhà nước: Quan lại được phân chia thành hai
ngạch quan và lại
- Theo địa bàn làm việc: Quan được phân thành quan trong và quan ngoài
- Theo lĩnh vực quản lý: Quan được phân thành bốn ngạch: quan văn, quan võ, tăng
quan và nội quan.
Chính việc phân loại này ý nghĩa rất lớn đối với việc hoạch định chính sách,
quyết định phương thức tuyển dụng và chế độ đãi ngộ với quan lại.
II. CÁC PHƯƠNG THỨC TUYỂN CHỌN QUAN LẠI
1. Phương thức tuyển dụng quan
1.1. Phương thức nhiệm tử (tập ấm, ấm sung)
Là phương thức tuyển dụng con cháu của quý tộc công thần và quan chức dựa
trên ân trạch của ông cha. Đây phương thức tuyển dụng quan chức chủ yếu thời
Trần. Theo ghi chép của “Đại Việt sử toàn thư”, đối tượng được hưởng l
nhiệm tử khá rộng bao gồm con cháu những người đã được nhà nước phong quan
tước. Thông qua lệ nhiệm tử, các chức vụ trong chính quyền trung ương địa
phương được trao cho người trong hoàng tộc. L nhiệm tử thời Hậu thời
Nguyễn được quy định chặt chẽ về đối tượng, thể lệ phạm vi tuyển dụng được
gọi là lệ Ấm sung.g
Tùy từng giai đoạn từng triều đại, đối tượng được hưởng lệ Ấm sung rộng
hẹp khác nhau. Thời Lê, đối tượng được hưởng Ấm sung bao gồm: Các concháu
trưởng các tước công, hầu, bá; con trai của các quan nhất nhị phẩm con trưởng
các quan từ tam phẩm tới bát phẩm. Thời Nguyễn đối tượng được hưởng ấm phong
đã được thu hẹp đáng kể về phạm vi, chỉ còn con của các quan hàm từ tứ phẩm
trở lên. Để được tuyển dụng vào các chức vụ nhà nước với phẩm hàm không cao (từ
ngũ phẩm trở xuống), các đối tượng được hưởng lệ Ấm sung thời này buộc phải
sung vào ngạch Nho sinh để học tập, cứ 3 năm nhà nước sẽ tổ chức khảo hạch 1 lần.
Chức vụ phẩm hàm của đối tượng được ấm sung lệ thuộc vào kết quả thi khảo
hạch và dựa trên tước phẩm của ông cha.
Phương thức nhiệm tử ý nghĩa lớn trong việc thực hiện chính sách đãi ngộ
đối với quan lại trong bộ máy nhà nước, tận dụng được một nguồn nhân lực tài năng
xuất phát điểm cao, truyền thống tốt, bởi thực tế những gia đình quan chức
thường những người điều kiện kinh tế khá giả hơn gia đình thường dân. Họ
điều kiện mời thầy giỏi về tư thất dạy cho con cháu hoặc gửi con tới khóa học tập, tu
rèn những trường các bậc thầy danh vọng cao nhất. Con cháu của họ ngay từ
nhỏ đã quen với môi trường quan nha, thể học tập được những năng cai trị,
hành chính cốt yếu. Đồng thời quan cai trị đương triều thường những bề tôi trung
thành của triều đình, danh dự lợi ích gia tộc nên con cháu họ cũng theo truyền
thống. Tuy nhiên, biện pháp này cũng hạn chế bởi không phải lúc nào “hổ phụ”
cũng sinh “hổ tử” hệ luỵ “một người làm quan cả họ được nhờ”, quan cai trị
luôn tìm cách luồn lót để đưa người con kém tài, kém đức vào hàng ngũ cai trị. Hậu
quả tính nhân hại đến đất nước lâu dài. Người làm quan kém năng lực,
khó bề được dân tôn kính, trọng vọng.
1.2. Phương thức đề cử (tiến cử, bảo cử)
Đây là hai phương thức tuyển dụng thông qua giới thiệu, đề nghị của các quan
chức cao cấp trong triều đình. Phép tiến cử bảo cử (thời Trần còn gọi
tuyển cử) được áp dụng khá nhiều dưới thời Hậu Lê thời Nguyễn. Phép bảo cử
thường áp dụng khi lựa chọn quan chức các quan quản việc quân, việc dân
địa phương như quan huyện, quan thừa ti, quan tổng binh hoặc các quan chức
năng kiểm tra giám sát như quan Hình bộ, quan Hiến ty. Đối tượng được bảo cử
những người đang làm quan có uy tín và tài năng. Phép tiến cử thưởng được áp dụng
đối với những người tài năng và đức hạnh nhưng chưa từng làm quan. Tiến cử và
bảo cử giúp nhà vua lựa chọn được các quan chức thực tài bởi thủ tục được quy định
khá chặt chẽ.
+ Phải được giới thiệu bởi các quan chức nhà nước (thời Hậu Lê, Tây Sơn chấp
nhận tự tiến cử)
+ Trước khi bổ nhiệm phải qua kì sát cử của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
+ Người tiến cử phải chịu trách nhiệm về cách năng lực của người mình
tiến cử. (Những người làm nhiệm vụ cử người không cử được người giỏi thì bị
biếm hoặc phạt theo luật nặng nhẹ; nếu tình riêng hoặc lấy tiền thì xử tội nặng
thêm hai bậc – Điều 174 - Quốc triều hình luật)
Trong lịch sử nhiều người thực tài xuất thân theo lối tự tiến cử như
Thường Kiệt (thời Lý), Phạm Ngũ Lão (thời Trần), Mạc Đĩnh Chi, Đào Duy Từ
(thời Nguyễn).
Đề cử một phương thức ý nghĩa lớn trong việc phát hiện ra nhân tài sung bổ
vào bộ máy nhà ớc, đồng thời cũng hình thức để tuyển sử dụng lại quan
chức đời nhưng bên cạnh đó phương thức này cũng lại đưa đến hệ luỵ đó sự
kéo bè, kết đảng, tham nhũng nếu không kiểm soát tốt.
1.3. Phương thức tuyển chọn qua khoa cử
phương thức lựa chọn quan chức thông qua việc tổ chức các thi. Khoa
cử bắt đầu được thực hiện vào năm 1075 dưới triều nhà Lý, tuy nhiên khoa cử dưới
thời chưa được coi trọng. Từ thời nhà Trần, khoa cử dần trở thành thông lệ, tới
thời Hậu thời Nguyễn, khoa cử phương thức tuyển chọn quan lại chủ yếu.
Khoa cử không chỉ áp dụng để tuyển quan văn còn áp dụng để tuyển quan võ,
thậm chí cả tăng quan. Nhà nước phong kiến mở nhiều khoa thi để lựa chọn nhân tài,
ngoài Thưởng khoa còn Ân khoa, Chế khoa khoa thi Bác cử (chỉ dành riêng
cho tuyển quan võ), song Thưởng khoa là khoa thi tuyển quan chủ yếu.
g g gg g gVề thủ tục, Thưởng khoa t thời nhà Trần được tổ chức qua 3 thi: Thi
Hương, thi Hội, thi Đình. Theo quy định cứ 3 năm mở một khoa thi Hương với
nguyên tắc dự thi: đỗ thi Hương sẽ thi Hội chỉ khi đỗ thi Hội mới bước vào Đình
thí. Những người đỗ các thi được gọi Cử nhân, Hương cống (thi Hương), Phó
bảng (thi Hội), Tiến (thi Đình). Riêng danh hiệu Tiến được chia tiến đệ nhất
giáp, tiến đệ nhị giáp tiến đệ tam giáp. Ba chức danh cao nhất của chế độ
khoa cử Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dành cho những
người đạt điểm cao nhất của kỳ thi Đình với các ứng viên là Tiến sĩ. Một số cơ quan
chỉ lựa chọn quan chức là tiến sĩ: Hàn lâm viện, Hiến ty, Nội các.
Điều kiện tham gia khoa cử ngày càng chặt chẽ. Thời Trần, Nhà nước
phong kiến Việt Nam chưa quy định điều kiện tham gia khoa cử nhưng tới thời Hậu
Lê, điều kiện tham gia khoa cử đã được quy định rõ ràng:
+ Phải là dân Đại Việt
+ hạnh kiểm tốt thông qua giấy xác nhận cách đạo đức của quan. Những
người con cháu những người bất mục, bất hiếu, loạn luân, làm nghề hát xướng
không được tham gia khoa cử.
Thời Nguyễn, nhà nước loại trừ các đối tượng sau đây không được tham gia khoa
cử: những người làm nghề chủ chứa, cai ngục đầy tớ, phu thuyền phu khiêng
kiệu.
Quy định trên cho thấy các Hoàng đế Việt Nam đề cao các tiêu chí đạo đức Nho
giáo, bởi hiếu trung hai đức tính cần thiết của người quân tử; nếu không làm
tròn đạo con trong gia đình thì không thể trọn nghĩa vua tôi.