NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
33
VĂN BẢN XƯA NHẤT
VỀ TRUYỀN THUYẾT
TRONG CÓ BÀI THƠ
NAM QUỐC SƠN HÀ
NGUYÊN THỊ OANHf)
hư chúng ta đã biết, bài thơ mà
mọi người quen gọi )ưm quốc sơn
hà nằm trong truyền thuyết Trương
Hống, Trương Hát?”, loại truyền thuyết
anh hùng thường thấy trong lịch sử dân
tộc. Truyền thuyết này được văn bản
hóa dầu tiên ở sách Việt điện u lĩnh
(VĐUL) (13399). Ngoài ra, truyền thuyết
còn được ghi lại trong các bộ sử lớn như
Đại Việt sử bí toàn thư (ĐVSKTT) và
các sách sử khác như Việt sử tiêu án
(VSTA), Việt sử tiệp hính (VSTE), trong
các bộ sách khác như Lịch triều hiến
chương loại chí (LTHCLC), Đạt Nam
nhất thống chí (ĐNNTC)... Mặt khác,
truyền thuyết này cũng sớm được lấy
lại trong Lĩnh Nam chích quát (LNCQ)
(tương truyền của Trần Thế Pháp, biên
soạn ở thời Trần) và các sưu tập truyện
cổ dân gian khác như: Thiên Nam uân
lục liệt truyện (TNVLLT), Mã lân dậit
sử (MLDS)), các sách sử như: Đại Việt
sử kí tiên biên (ĐVSKTPB), Việt sử diện
âm (VSDA), Việt sử quốc âm (VSQA),
Thiên Nam ngữ lục (TNNL) uà các bộ
sách khác như ÐWN7C và các bản thần
tích sưu tầm trước đây và hiện nay. Với
t? Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
một khối lượng văn bản khá phong phú
có thể thấy truyền thuyết có sức hấp
dẫn mạnh mẽ nhiều thế hệ độc giả. Ở
các văn bản, truyền thuyết luôn được
trình bày với tư cách là truyền thuyết
dân gian thành văn. Tuy mang mầu sắc
thần quái nhưng lại được hư cấu dựa
trên các chi tiết lịch sử có thật nên
truyền thuyết mang tính chất của loại
hình tự sự dân gian sơ khai. Vì vậy,
ngay ca khi đã được định hình, nghĩa là
đã bị đóng khung trong một nội dung cố
định thì tính linh động do bản chất là
truyền khẩu dân gian vẫn làm cho
truyền thuyết không ngừng vận động
và phát triển, do đó tính đa dị là phổ
biến. Để có thể trở lại bản xưa nhất,
tìm về "bản lai diện mục" của truyền
thuyết, việc thống kê, phân loại và xác
định nguồn tư liệu gốc (đối tượng khảo
sát của chúng tôi là tư liệu thành văn)
là rất cần thiết. Nếu không giải quyết
tốt vấn đề trên thì mọi sự phân tích,
đánh giá đều khó tiếp cận sự thật.
Theo thống kê ban đầu, có khoảng
35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích”
về truyền thuyết trong có bài thơ được
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm hiện còn
lưu trữ tại các thư viện ở Hà Nội. Dựa
vào sự thay đổi về nội dung truyền
thuyết cũng như thời điểm và bối cảnh
ra đời của bài thơ, chúng tôi chia nguồn
tư liệu trên thành hai nhóm”. Hai
nhóm này gắn với hai giả thiết khác
nhau về truyền thuyết trong có bài thơ
Nam quốc sơn hà. Giả thiết thứ nhất
(nhóm Một): Truyền thuyết về hai vị
thần Trương Hống, Trương Hát phù
giúp Ngô Nam Tấn chống giặc nội
34
phản. Sau đó lại hiển linh, phù giúp Lí
Thường Kiệt đọc bài thơ Nam quốc sơn
hà để cổ vũ tỉnh thần binh sĩ đánh giặc
Tống trên sông Như Nguyệt vào năm
1076. Giả thiết thứ hai (nhóm Hai):
Truyền thuyết về hai vị thần Trương
Hống, Trương Hát, đọc thơ Nam quốc
sơn hà ngầm giúp Lê Đại Hành trong
cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ
nhất của dân tộc vào năm 981.
Để có thể tìm về bản xưa nhất ghi
chép truyền thuyết qua hai nhóm tư
liệu trên, việc xác định bản gốc, bản có
đủ độ tin cậy về mặt văn bản là thao
tác không thể thiếu trước khi đi vào
nghiên cứu tư liệu.
Trong nguồn tư liệu thuộc nhóm
Một, chúng tôi chọn bản VĐUT., ki hiểu
A.7T51 của thư viện Viện Hán Nôm
(VHN) làm bản nền. Xem lại truyền
thuyết trong có bài thơ ở các dị bản của
sách VĐUL, chúng tôi thấy không có sự
khác nhau giữa chúng. Do truyền
thuyết được chép tương đối thống nhất
nên việc tìm ra bản nào là bản cổ nhất
của sách này là hết sức khó khăn. Sở đĩ
chúng tôi chọn bản trên bởi bản này
chép truyền thuyết tương đối thống
nhất (tỉ lệ tương đồng có xê xích) với
sách ĐVSKTT, bản Chính Hòa 18
(1697), Ngoài ra, trong nhóm Hai,
chúng tôi cũng chọn bản WŒ@ A.2914
(VHN)?” làm bản gốc. Bản này được sao
lại từ bản có niên đại khá sớm (1554),
do Đoàn Vĩnh Phúc sưu tầm từ bản
hiệu chỉnh của Vũ Quỳnh và là bản
không có gì thay đổi nhiều so với cuốn
Lĩnh Nam chích quái lục của Trần Thế
Pháp. Đây cũng là bản được Phan Huy
NGUYÊN THỊ OANH
Chú mô tả trong LTHCLC®), và là bản
được Quốc sử quán triều Nguyễn sử
dụng khi biên soạn ĐWN7C°” và Ngô
Thì Sĩ giới thiệu trong ĐVSKTB”. Với
hai bản VĐUL và bản UỨNCQ trên,
(trong khi chưa tìm được tư liệu đáng
tin cậy hơn) có thể coi đây là tư liệu ghi
chép xưa nhất về truyền thuyết Trương
Hống, Trương Hát trong có bài thơ
Nam quốc sơn hà.
Theo sách VĐUL, kí hiệu A.7ỗ1,
truyền thuyết Trương Hống, Trương
Hát ra đời gắn với nhân vật lịch sử Ngô
Nam Tấn. Truyền thuyết tóm tắt như
sau: Theo Sử kí của Đỗ Thiện, Ngô
Nam Tấn đánh giặc Lí Huy ở Long
Châu đóng quân ở cửa sông Phù Lan
nằm mộng thấy thần nhân. Thần nhân
đến trước vua bái lạy và thưa rằng họ
là hai anh em, anh là Trương Hống, em
là Trương Hát là tướng của Triệu Việt
Vương. Sau Triệu Việt Vương bị Lí
Nam đế cướp ngôi, Nam đế cho vời ra
làm quan, hai anh em không theo, ẩn
vào núi Phù Long. Nam đế thuê người
lùng bắt, hai anh em uống thuốc độc
chết. Thượng đế cho hai người làm thủy
thần, xin được giúp vua phá giặc. Sau
đó quả nhiên giặc tan. Sau khi Long
Châu được đẹp yên, vua Nam Tấn cho
lập đền thờ và phong thưởng cho hai
thần: Một là Đại đương giang đô hộ
quốc thần vương; Một là Tiểu đương
giang đô hộ quốc thần vương.
Thơi vua Lí Nhân Tông (1072-
1127) quân Tống sang xâm lấn. Vua sai
Lí thường Kiệt lập trại ở ven sông để
chống giữ. Một đêm thần hiển hiện đọc
bài thơ Nam quốc sơn hà:
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành bhan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam đã có vua nước
Nam Ở,
Tại sổ trời đã ghi địa phận rõ ràng,
Sao bọn giặc kia lại xâm phạm,
Chúng bay sẽ thấy bị thua to).
Quả nhiên quân Tống bị thua, phải
+ * - (9)
rút VỀ nước `“.
Theo LWC, bản A.2914, truyền
thuyết Trương Hống, Trương Hát (với
tiêu để truyện là Long Nhãn Như
Nguyệt nhị thần truyện-Truyện hai vị
thần Long Nhãn và Như Nguyệt) và bài
thơ Nam quốc sơn hà ra đời gắn với vua
Lê Đại Hành và cuộc kháng chiến
chống quân Tống của quân dân nước ta
vào cuối thế kỉ X [năm Tân TÌị, niên
hiệu Thiên Phúc (981)].
Truyền thuyết tóm tắt như sau:
Năm Tân TỊ niên hiệu Thiên Phúc,
triể¬u Lê, Tống Thái Tông sai tướng
quân Nhân Bảo, Tôn Toàn đem binh
xâm lược phương Nam đến cửa biển Đại
Than. Vua Đại Hành cùng tướng quân
Phạm Cự Lượng dựng lũy, cầm cự với
giặc ở sông Đồ Lỗ. Lê Đại Hành đêm
canh ba năm mộng thấy thần nhân tới
bái lạy trên sông. Thưa rằng: "Hai anh
em thần, một người là Trương Hống
(10), một người là Trương Hát, trước
theo vua Ngô dẹp nghịch tặc bình định
được thiên hạ, đến đời hậu chúa Nam
Tấn thì mất nước. Họ Định nghe tiếng
anh em thần bèn triệu về, bọn thần vì
nghĩa không theo bèn uống rượu độc
mà chết. Thượng đế thương tình ban
3Ð
tên cho là Thần bộ quan, thống lĩnh
tướng các âm bình. Nay giặc Tống sang
xâm phạm bở cõi, xin được cùng hoàng
đế đánh giặc Bắc Tống để cứu sinh
dân".
Vua tỉnh dậy, lập tức thắp hương
khấn vái xin được thần nhân trợ giúp,
sau đó giết súc vật, đốt vàng mã làm lễ
cúng tế. Đêm ấy, Đại Hành lại mộng
thấy thần nhân thống lĩnh âm bình
tiến đánh giặc.
Canh Ba, đêm thắng Mười, trời đất
tối đen, mưa to gió lớn đùng dùng, quân
Tống kinh hoàng, tháo chạy tán loạn,
thần nhân ẩn mình trên không trung
lớn tiếng ngâm thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư,
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm,
Hội biến thịnh trần tận tảo trừ.
(Núi sông nước Nam vua Nam ở,
Trời xanh đã định trong sách trời,
Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm,
Sẽ gặp cuồng phong đánh tơi bời).
Quân Tống nghe bài thơ đó dẫm
đạp, tháo chạy, đánh giết lẫn nhau rồi
mạnh ai người nấy chạy tháo thân về
nước. Vua phong thưởng tướng sĩ rồi
truy phong công lao hai thần. Một là
Khước Địch đại vương, lập đền ở ngã ba
sông Long Nhãn. Một là Ủy Linh dại
vương, lập đền ở ven sông Như Nguyệt.
Thử so sánh truyền thuyết này trong
LNC với truyền thuyết trong VĐUL thì
thấy giữa chúng có chung một môtïp nội
dung, bao gồm các yếu tố:
- Thần báo mộng: gắn với nhân vật
lịch sử và sự kiện lịch sử.
36
- Hành trạng của thần: đều là bậc
trung thần, có công trong việc giúp
nước giúp dân, lại là bậc trung trinh,
tuân tiết vì điều nghĩa.
- Công tích của thần: Sau khi mất,
hiển ứng giúp vua chống giặc nội phản
và giặc ngoại xâm.
- Sự phong thưởng của triều đình
phong kiến: Sau khi phù giúp được vua
bao phong, lập đền thờ cúng.
Bên cạnh cái chung, sự khác nhau
trong các tình tiết cụ thể giữa hai
truyền thuyết cũng là điều dễ nhận
thấy. Nếu truyền thuyết trong LNCQ
gắn với nhân vật lịch sử Lê Đại Hành
thì truyền thuyết trong VĐUL gắn với
nhân vật lịch sử Ngô Nam Tấn. Nếu bài
thơ trong UNCŒQ là thành phần hữu cơ
của truyền thuyết thì bài thơ trong
VĐUL là sự chép tiếp nối sau khi
truyền thuyết kết thúc. Sự khác nhau
trong câu chữ của bài thơ Nam quốc
sơn hà cũng là điều dễ nhận ra. Ngoài
ra, việc phong thưởng của nhà nước
phong kiến không có trong sự kiện thần
phù giúp Lí Thường Kiệt.
Như vậy, truyền thuyết có trước
hay bài thơ có trước? Bài thơ gắn với
truyền thuyết về Lê Đại Hành hay Lí
Thường Kiệt?
Theo bản ULNC@ A.2914 (VHN), bài
thơ Nam quốc sơn hà ra đời gắn với
truyền thuyết Trương Hống, Trương
Hát phù giúp Lê Đại Hành trong cuộc
kháng chiến chống quân Tống xâm
lược. Thử so sánh bài thơ này với bài
thơ trong sách VĐUL, [chúng tôi lấy
bài thơ trong LNCQ A.2914 và VĐUŨL
A.751 (VHN) đã nêu phía trên để đối
chiếu]!'”, thì thấy chúng được thay đổi
NGUYỄN THỊ OANH
như sau. Câu thơ thứ nhất "Nam quốc
sơn hà Nam đế cư" không thay đổi
trong hai dị bản. Câu thứ hai: "Hoàng
thiên dĩ định tại thiên thư”, câu này
thay đổi ở các từ : "Hoàng thiên" (Trời
xanh) thành "ðệt nhiên" (rõ ràng); "đi
định " (đã định) thành "phận định" (địa
phận đã định). Nếu đọc lướt qua thì có
lẽ giữa hai dị bản của câu thơ này
không khác nhau về ý nghĩa, nhưng
thực ra chúng khác nhau về sắc thái tu
từ. Dùng "Tiệt nhiên" có lẽ "dứt khoát,
rành mạch, đúng với đạo lí hơn" và
cũng mới thấy cái ngang ngược, bất
chấp đạo lí của bọn giặc xâm lược. Nếu
so với câu: "Tệt nhiên phận định tại
thiên thư" (Tại số trời đã ghi địa phận
rõ ràng) thì câu "Hoàng thiên di định
tại thiên thư" (Trời xanh đã định trong
sách trời) thì có thể thấy rõ tư tưởng
"thiên mệnh" bao trùm tâm thức của
người dân thời bấy giờ. Câu tiếp theo:
"Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm", trong
câu này từ "Bắc iố" (giặc Bắc) được thay
bằng "nghịch tặc" (bọn giặc). Từ
"nghịch tặc" là chỉ chung bọn giặc,
chẳng kể giặc Bắc, giặc Chiêm Thành
và những bọn giặc ngoại xâm khác. Còn
"Bắc lố" thì chỉ có một ý nghĩa là "giặc
Bắc" "giặc Tống" mà thôi. Vì vậy bài
thơ có từ "Bắc /Ø" là bài thơ nói về cuộc
kháng chiến chống giặc Bắc (ở đây là
giặc Tống) mà không phải chiến trận
nào khác. Câu cuối cùng: "Hội hiến
thịnh trần tận tảo trù" (Sẽ bị cuỗng
phong đánh tơi bời), câu này được thay
hết bằng "Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư" (Chúng bay sẽ thấy bị thua to). Câu
thơ: "Hội biến thịnh trần tận tảo trừ")?
so với câu thứ hai khác ở chỗ nó được
gắn với khung cảnh thiên nhiên cụ thể,
trong một chiến trận cụ thể. Còn "Nhữ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2É
đẳng hành bhan thủ bại hư" gắn kết có
tính biện chứng với câu trước nó " Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm", (Sao bọn
giặc kia lại đám xâm phạm, chúng bay
sẽ thấy bị thua to), ý nghĩa của hai câu
thơ đã được mở rộng không chỉ trong
khung cảnh một trận đánh, với một đối
tượng là giặc Bắc mà chỉ chung cho mọi
nơi, mọi lúc, với mọi đối tượng là giặc
ngoa! xâm.
Phải chăng từ bài thơ có tính cụ thể
đã được thay đổi bằng bài thơ mang
tính khái quát. Bài thơ đã được thay
đổi từ bao giờ?
Trở lại sách VĐUL, tập sách sớm
nhất ghi chép về truyền thuyết Trương
Hống, Trương Hát, bài thơ xuất hiện
gắn với công cuộc kháng chiến chống
quân Tống của Lí Thường Kiệt vào thời
vua Lí Nhân Tông (1072-1127).
Sách VĐUL được Lí Tế Xuyên biên
soạn từ cuối đời Trần Minh Tông (1314-
1329) và đầu đời Trần Hiến Tông
(1329-1341). Sách này hiện còn bài tựa
của ông viết năm 1329, có lẽ đây là thời
điểm bộ sách hoàn thành. Theo cách
ghi chép ở hầu hết các dị bản của bộ
sách và sự khẳng định của Lê Quý Đôn
và Phan Huy Chú thì Lí Tế Xuyên được
coi là người khởi đầu biên soạn bộ sách
nói trên. Nhưng ở thế kỉ XVIII, đã có ý
kiến khác về tác giả của bộ sách, đó là
Chư Cát thị. Trong sách Tân đính hiệu
bình Việt điện u linh tập, ông cho rằng:
"Tập sách này làm ra từ đời Lí, có trước
ngòi bút của Lê Văn Hưu"?#” Chưa rõ
Chư Cát thị là ai, theo bài Tựa dẫn của
ông, được biết ông giữ chức Chủ bạ
Bộ Lễ.
Như vậy, theo Chư Cát thị, trước
VĐUL của Lí Tế Xuyên đã có VĐUL
của tác gia nào đó thời Lí. Chúng ta đã
biết, LNŒQ là sưu tập những câu
chuyện dã sử có tính chất dân gian
được sưu tâm ở cõi Lĩnh Nam (tức nước
ta) thời cổ. Trong số các truyện của
ÙLNCQ@, chí ít cũng có 4 truyện được lấy
từ VĐUL, trong đó có truyện Trương
Hống, Trương Hát”. Trong 4 truyện
trên, trừ truyện Trương Hống, Trương
Hát, 3 truyện còn lại có nội dung tương
đồng với các truyện của VĐUL. Vì sao
lại có sự khác nhau về truyền thuyết
Trương Hống, Trương Hát giữa VĐUL
và E”NCQ_ trong khi LENCŒQ lấy lại
truyện này từ VĐUL? Vì sao trong các
sách chính thống của nhà nước phong
kiến hiện còn tới nay như VĐŨL và các
sách khác như VSKTT' không chép
truyền thuyết trong có bài thơ Nưm
quốc sơn hà gắn với vua Lê Đại Hành.
Phan Huy Lê khi khao cứu tác
phẩm ÐĐVSKTT' đã cho rằng "Các tác
giả Đại Việt sử bí toàn thư đã đứng
trên quan điểm chính thống, đạo trung
quân cùng với những nguyên tắc của
tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức
để viết sử, để khen chê, để đánh giá và
bình luận các nhân vật lịch sử"? Vì
vậy khi đánh giá về Lê Hoàn (Lê Đại
Hành), người sáng lập ra nhà Tiền Lê
(980-1009), một vị anh hùng dân tộc có
công lớn trong việc tổ chức và lãnh đạo
công cuộc kháng chiến chống quân
Tống lần thứ nhất, người đã được nhà
viết sử Lê Văn Hưu hết lòng ca ngợi
"Lê Đại Hành giết Định Điền, bắt
Nguyễn Bặc, trói Quân Biện, Phụng
Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ,
chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên,
công đánh dẹp chiến thắng dẫu là các
vua Hán, Đường cũng không hơn được"
ủdö
thì ngòi bút của Ngô 51 Liên lại phê
phán gay gắt Lê Đại Hành về "tội"
không hết lòng phò tá con vua Đỉnh,
lập Dương thị làm Hoàng hậu. Ông
viết: "Đạo vợ chồng là đầu của nhân
luân, mối của vương hóa...Đại Hành
thông dâm với vợ vua rồi nghiễm nhiên
lập làm Hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ
thẹn vậy". Nếu đã đánh giá Lê Đại
Hành như vậy thì dễ gì lại đem truyền
thuyết trong có bài thơ như một bản
"tuyên ngôn độc lập" đó của đân tộc gắn
cho Lê Hoàn được. Vì vậy có lẽ đến thời
điểm biên soạn bộ ĐVSKTT, các tác giả
đã gắn bài thơ đó cho Lí Thường Kiệt.
Có thể ban đầu sách VĐDŨL trước đó
và Lí Tế Xuyên soạn lại sau này ở thời
Trần đã chép truyền thuyết Trương
Hống, Trương Hát gắn với vua Lê Đại
Hành và cuộc kháng chiến chống giặc
Tống xâm lược theo đúng hào khí lịch
sử thời bấy giờ. Nhưng do quan điểm
coi trọng chính thống như đã phân tích,
người biên soạn VĐUL sau này và các
tác giả của ĐVSKTT có thể thay đổi nội
dung của truyền thuyết. Khi đã thay
đổi nội dung của truyền thuyết, thì bài
thơ vốn có trong truyền thuyết sẽ gắn
cho nhân vật lịch sử nào? Không phải
vua Ngô Nam Tấn bởi vua Nam Tấn
không đánh giặc ngoại xâm. Lí Thường
Kiệt, vị anh hùng dân tộc đã đánh tan
quân Tống trên sông Như Nguyệt có lẽ
là người xứng đáng nhất để cho thần
hiển hiện đọc bài thơ để cổ vũ binh sĩ.
Nếu được thần ngầm giúp thì sau khi
chiến thắng vua Lí Nhân Tông phải
phong thưởng, ban thêm mĩ tự cho
thần, nhưng không thấy VĐUŨL ghi
chép gì về điều này. Ngay trong tự điển
các thân, tức các bản thần tích, thần
NGUYÊN THỊ OANH
phả được lưu giữ nhiều đời ở các đền họ
Trương và trong hồ sơ gia phong tước
hiệu các thần ở triều đình cũng không
thấy ghi chép gì việc vua Lí Nhân Tông
phong tước hiệu cho thần sau cuộc
kháng chiến chống quân Tống thắng
lợi. Việc phong thưởng phải chờ đến 300
năm sau, tức năm Trùng Hưng 1 (1285)
hai thần mới được phong là Như nguyệt
hhước địch và Ủy địch đại uương. Việc
không được đình phong kiến
phong thưởng chẳng phải nói lên sự
kiện "Lí Thường Kiệt" chỉ là sự "tái tạo"
truyền thuyết Trương Hống, Trương
Hát về sau này của các sử gia phong
kiến sao? Cũng có thể đến thời Lí Nhân
Tông, Lí Thường Kiệt đã mượn danh
thần, cho người nấp vào đền ngâm bài
triều
thơ để cổ vũ quân sĩ, làm tiêu tan ý chí
và tỉnh thần của kẻ địch. Việc mượn uy
thần trong chiến trận cũng là một điều
dễ hiểu, nhưng việc thần không được
triều đình phong kiến nhà Lí phong
thưởng sau khi thắng trận lại không
theo lệ thường. Không lẽ vua Lí Nhân
Tông "quên" không phong thưởng cho
thần hay VĐUL "bồ sót" không chép ?
Có lẽ truyền thuyết ban đầu của
VĐUL dã bị các sử gia phong kiến sau
này sửa chữa cho phù hợp với nhãn
quan Nho giáo, và như vậy, phải chăng
truyền thuyết trong có bài thơ của
LNCQ cổ nói trên là dạng ban đầu, xưa
nhất của sách VĐUL mà nay chúng ta
mới tìm thấy?
Một điều đáng chú ý khác, trong các
thần tích sưu tầm ở đền họ Trương các
vùng ven sông Cầu, truyền thuyết
trong có bài thơ Nam quốc sơn hà phần
nhiều được chép gắn với Lê Đại Hành
và công cuộc kháng chiến chống giặc
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Tống năm 981 như bản UWNC@Q A.2914.
Còn bài thơ, tuy có thay đổi một vài từ
ở câu cuối cùng, nhưng vẫn có nghĩa là
mây mưa gió bão, gắn với khung cảnh
thiên nhiên bài thơ ra đời”. Mặc dù
bài thơ gắn với Lí Thường Kiệt đã được
các sử gia phong kiến chính thức chép
vào quốc sử (ÐVSKTT), nhưng ở những
nơi thờ hai vị thần họ Trương có công
ngầm giúp Lê Đại Hành trong cuộc
chiến với quân Tống, nhân dân vẫn giữ
lại truyền thuyết trong có bài thơ trên,
giống như người dân Hoa Lư vẫn lập
đền thờ, tô tượng hai vua Tiên Hoàng,
Đại Hành và tượng Dương Hậu cùng
ngôi như ĐVSKTT' đã ghi lại"””. Thái
độ của nhân dân ta thật rõ ràng, công
mình, tôn kính những người có công với
nước với dân, cho dù các sử gia phong
kiến có lên án, buộc tội oan uống.
LJ w
Truyền thuyết trong có bài thơ Nam
quốc sơn hà ra đời gắn bó mật thiết với
sự kiện lịch sử đương thời được các thế
hệ truyền tiếp nhau cho đến ngày nay.
Trong khoảng thời gian dằng dặc 10 thế
kỉ, truyền thuyết đã có sự biến động.
Rất may là chúng ta còn giữ được
những tư liệu đáng tin cậy, xuất hiện
tương đối sớm, cho phép so sánh, đối
chiếu để tìm ra diện mạo ban đầu của
truyền thuyết. Chúng tôi cho rằng,
truyền thuyết xưa nhất trong có bài thơ
Nam quốc sơn hè là truyền thuyết gắn
với Lê Đại Hành và cuộc kháng chiến
lần thứ nhất chống giặc Tống xâm lược.
Không phải ngẫu nhiên truyền thuyết
này được gắn với Lê Đại Hành. Có đặt
truyền thuyết trong bối cảnh lịch sử
39
thời Lê Đại Hành mới thấy hết ý nghĩa
của câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế
cư", có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong buổi ban đầu của công cuộc phục
hưng vĩ đại của dân tộc. Truyền thuyết
trong có bài thơ được gắn với hình
tượng thần Trương Hống, Trương Hát
còn mang ý nghĩa ca ngợi bậc trung
thần, những người có công với dân với
nước. Hai vị đó không đơn thuần là
những vị thần nơi sông nước mà đã trở
thành người phát ngôn cho tỉnh thần tự
chủ và ý chí chống ngoại xâm của dân
tộc Câu chuyện về Trương Hống,
Trương Hát phù giúp Lâ Đại Hành, dọc
bài thơ để cổ vũ tỉnh thần binh sĩ còn
như một sự khẳng định dòng mạch tỉnh
thần dân tộc không ngừng vận động,
hậu thế và tiền nhân hòa hợp trong một
cuộc chiến với kẻ thù xâm lược. Cho dù
truyền thuyết và bài thơ sau này đã
được thay đổi cho phù hợp với tư tưởng
chính thống và nhãn quan Nho giáo,
nhưng truyền thuyết về một bài thơ
Nam quốc sơn hà xưa nhất gắn với
nhân vật lịch sử Lê Đại Hành và cuộc
kháng chiến chống giặc Tống năm 981
là phù hợp với tình hình phân hóa của
chúng trong thực tế lịch sử”.
N.T.O
(1) Cách gọi tên thần ở nhiều dị bản
khác nhau, chúng tôi theo cách gọi của sách
VĐUL. Xem VĐUL. Trịnh Đình Rư dịch
theo bản A.751, Thư viện Khoa học.
Nxb.Văn hóa, 1960.
(3) Về số lượng các dị bản của bài thơ,
theo Trần Nghĩa, VHN và VSH hiện lưu trữ
26 dị bản. (Xem Trần Nghĩa: Thử xác lập
Uuăn bản bài thơ "Nam quốc sơn hà”. Tạp chí
Hán Nôm, số 1.1986, tr.24-32.). Theo Bùi
40
Duy Tân, ngoài 26 dị bản nói trên còn tìm
thêm được 4 đị bản nữa, cộng là 30 đị bản.
(Xem Bùi Duy Tân: Truyền thuyết uề một
bài thơ Nam quốc sơn hà là uô danh không
phái của Lí Thường Kiệt. Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 4 (72), 2000, tr.32-42). Chu
Thanh Nga trong Khóa luận" Bước đầu
bhdo sát Trương Tôn thần sự tích" (tr.18)
cũng tìm ra 13 đị bản truyền thuyết hiện
lưu trữ tại VHN.
(3) Căn cứ vào sự thay đổi về nội dung
truyền thuyết và thời điểm ra đời của bài
thơ chúng tôi tạm chia làm 2 nhóm sau.
1/ Nhóm Một: gồm các bản: Việt điện
u linh: A.47, A.1919, A.2879, VHv.1385/1-2,
VHwg.1503, A.751, A.335 (VHN); Lĩnh Nam
chích quái: A.2107, A.750 (Bản thành Ba-
lê) (VHN), R.6 (Thư viện Quốc gia -TVQG);
Đại Việt sử bí toàn thư: A.3 (VHN); Việt sử
tiêu dứn: A.11(VHN), Việt sử tiệp kính:
A.1493 (VHN); Lịch triều hiến chương loại
chí: A.1551 (VHN); Bằng trình thản bộ:
A.802 (VHN); Đại Nam nhất thống chỉ:
A.69 (VHN); Thần tích xã Vịnh Kiều tổng
Tam Sơn huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh. AB a7/8. (VHN): Thần tích
xã Cấm Hoàng, tổng Cẩm Bào, huyện Hiệp
Hòa, tỉnh Bắc Giang. AE a 14/1 (VHNI):
Thần tích xã Thống Hạ, tổng Khắc Niệm,
huyện Võ Giang, tỉnh Bắc Ninh. AE a7!30
(VHN);
2/ Nhóm Hai : gồm các bản: Lĩnh Nam
chích quái: A.2914 (VHN), R.1607 (TVQG) :
HV.486 (VSH), VHv.1473, A.1300, A.7B0
(Bản Nguyễn Hữu Kinh), VHv.1266, A.33,
VHv.1200, A.1752 (VHN); Đại Nam nhất
thông chí: A.69 (VHN); Mã lân dật sử:
A.1516 (VHN); Thiên Nam uêân lục liệt
truyện: A.1442 (VHN); Đại Việt sử bí tiền
biên: A.2/1-7 (VHN); Việt sử diễn âm:
AB.110 (VHN); Việt sử quốc âm: AB.308
(VHN); Thiên Nam ngữ lục: AB.478 (VHN):
Bản Thần pha ở thôn Quả Cảm, xã Hòa
Long, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc của
Dương Thái Minh, (VHN); Trương Tôn thần
sự tích. VHv.1986 (VHN): Thần tích thôn
Đồ Thị, xa Phù Lưu, tổng Phù Lưu, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
AE a 7/6 (VHN); Thần tích xã Đào Thục,
NGUYÊN THỊ OANH
tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc
Yên. AB a11/4 (VHN); Thần tích xã Phượng
Nhãn, tổng Trí An, huyện Phượng Nhãn,
tỉnh Bắc Giang. AE a14/16 (VHN): Thần
tích xã Xuân Nộn, tổng Xuân Nộn, huyện
Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. AE. a111!4 (VHN).
[Trong 13 bản thần tích hiện lưu trữ ở
VHN, chỉ có 8 bản chép truyền thuyết trong
có bài thơ. Có bản còn gộp ca hai giả thiết
vào một bản như Trương Tôn thần sự tích,
kí hiệu VHv.1986. Các bản thần tích đều có
niên đại khá muộn, chúng tôi chỉ tham
khảo khi thấy cần thiết]
(4) Đại Việt sử kí toàn thư. Bàn 1n Nội
các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính
Hòa thứ 18 (1697). Lời giới thiệu: Gs.Viện
sĩ Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác
giả, văn bản, tác phẩm: Gs.Phan Huy Lê.
Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính:
Gs. Hà Văn Tấn. Nxb.KHXH, Hà Nội, 1993,
(5) Xem thêm: Nguyễn Thị Oanh: Về
quá trình lưu truyền uăn bản Lĩnh Nam
chích quái. Tạp chí Hán Nôm, số 3 (48),
2001, tr.34-45. Nguyễn Thị Oanh: Một số
uấn đề liên quan đến uăn bản Lĩnh Nam
chích quái. Hội nghị Thông báo Hán Nôm
năm 2001.
(6) Lịch triều hiến chương loại chí, bản
chữ Hán, kí hiệu A.1551/1-6 (VHN), phần
Dư địa chí, tỉnh Bắc Ninh.
(7) Đại Nam nhất thống chí, tập IV.
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
Phạm Trọng Điểm phiên dịch, Đào Duy
Anh hiệu đính. Nxb.KHXH, Hà Nội, 1971,
tr.104.
(8) Đại Việt sử kí tiền biên. Lê Văn Bẩy,
Nguyễn Thị Thảo, Dương Thị The, Phạm
Thị Thoa (dịch, chú thích), Lê Duy Chưởng
(hiệu đính). Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997,
tr,
(9) Chúng tôi dựa vào bản dịch VĐUL
do Trịnh Đình Rư dịch theo bản A.7ð1 của
Thư viện Khoa học, Sdd, để tóm tắt.
(10) Nguyên văn là Trương Bạn. Xem
thêm chú 1.
(11) Bài thơ có rất nhiều dị bản, ở đây
chúng tôi chỉ lấy 2 dị bản đại diện cho hai
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
sách ghi chép xưa nhất về truyền thuyết
trong có bài thơ để so sánh. Sở đĩ chúng tôi
chọn bản VĐUL A.7B1 bởi đây là bản có
cách ghi chép thống nhất với ÐĐVSKTT, bản
Chính Hòa 18 (1697). Tuy nhiên ở câu thơ
thứ hai "Tiệt nhiên phân (phận) định tại
thiên thư", chữ Hán "phân" có hai cách đọc
nên dịch giả của ĐVSKTT dịch là "Rõ ràng
phân định tại sách trời". Để thống nhất với
bản VĐUL đã chọn làm bản đối chiếu,
chúng tôi lấy lại đúng bản dịch của ông
Trịnh Đình Rư.
(19) Bài thơ Nam quốc sơn hà, trong
bản EWMCŒQ A.2914, (VHN) còn có dị bản của
hai câu thơ cuối như sau: "Như him nghịch
tặc lai công bích, Nhữ đẳng hồi ? bhan tặc
chúng hư”. Tạm dịch: Như nay nghịch tặc
tới công kích, Quân sĩ lại có thể thấy quân
giặc sẽ bị thua to.
(13) Trong lời Tựa sách Tân đính hiệu
bình Việt điện u linh, viết năm 1774 (bản
chữ Hán, kí hiệu A.335, VHN) có viết: "Tư
tập chi tác xuất tự Lí triều tiên tự Lê Văn
Hưu chì bút".
(14) Bốn truyện được lấy từ VĐUL là:
Lí Ông Trọng, Tân Viên, Tô Lịch và Long
Nhãn Như Nguyệt (tức hai vị thần Trương
Hống, Trương Hát).
(15) Phan Huy Lê: Đại Việt sử bí toàn
thư, tập I, Sdd, tr.73.
(16) Trong bài: Thử xác lập uăn bản bài
thơ "Nam quốc sơn hà”, Trần Nghĩa đã
dùng phương pháp định lượng để chọn cho
bài thơ những chữ có tần số xuất hiện lớn
nhất, kết quả là văn bản khả dĩ do ông xác
lập cũng có nội dung gần với bài thơ được
chép xưa nhất trong LNGQ. Xem Trần
Nghĩa: Thử xác lập uăn ban bài thơ "Nam
quốc sơn hà”, Bảd, tr.24-32.
(17) Phan Huy Lê: Đại Việt sử kí toàn
thư, tập I, 5đd, tr.738.
(18) Sách ĐVSKTT, Kí nhà Lê, Đại
Hành Hoàng đế, chép: "Năm Tân TỊ, [Thiên
Phúc] năm thứ 2 [Tống Thái Bình Hưng
Quốc năm thứ 6]. Mùa xuân, tháng 3, Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn,
Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến
sông Bạch Đằng. Vua tự làm tướng đi chặn
41
giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông. Quân
Tống lui, lại đến sông Chi Lăng. Vua sai
quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, nhân đó
bắt được Nhân Bảo đem chém. Bọn Khâm
Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân
về. Vua đem các tướng đánh, quân của
Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây
chất đây đồng, bắt được tướng giặc là
Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân
đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên"
(VSKTT.Sdd,tr.330-221).
Từ cách ghi chép trên của ØÐVSKTT
cũng có nhà nghiên cứu cho rằng "Lê Hoàn
(Lê Đại Hành) có đánh nhau với quân Tống
năm 981, dụ bắt được tướng Tống là Hầu
Nhân Bảo, nhưng sự việc này xảy ra ở sông
Chi Lăng (Lạng Sơn) chứ không phải ở sông
Cầu (Hà Bắc), nơi có đền thờ Trương Hống
được gán cho là tác gia của bài thở Nam
quốc sơn hà (Trần Nghĩa: Thử xác lập uăn
ban bài thơ "Nam quốc sơn hà”. Bảa, tr.32).
Theo bản A.2914, Lê Đại Hành dựng lũy
chống cự với địch ở sông Đồ Lỗ. Hiện nay
chúng tôi chưa tìm được tư liệu nào nói về
con sông này, dựa vào sự thay đổi tên sông
này thành địa danh Phù Lã trong truyền
thuyết Trương Hống, Trương Hát ở sách
VSDA : "Đến thành Phù Lỗ đóng vây, quân
ta quân nó đôi bên ngất trời" chúng tôi cho
rằng sông Phù Lỗ (bắt giặc) có thể lúc nào
đó đã được gọi là sông Đồ Lỗ (giết giặc)
chăng. Có lẽ còn phải tra cứu thêm, nhưng
theo ĐVM7C, sông Nguyệt Đức (tức sông
Cầu) có một nhánh "bắt nguồn từ sông
Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây, chia ra chảy qua
địa phận các huyện Yên Lãng và Yên Lạc
(Xem Sơn Tây tính chí) vào địa phận huyện
Kim Anh, rồi chảy về phía đông 43 dặm
làm sông Phù Lai, sông Hương Da, sông
Phù Lỗ, lại chảy 53 dặm, đến sông Lương
Phúc, huyện Thiên Phúc, hợp với sông
Hương La, đấy là ngã ba, lại chảy qua địa
phận các huyện Hiệp Hòa, Yên Phong, Việt
Yên và Võ Giàng, gồm 119 dặm, đến sông
Phả Lại huyện Quế Dương, vào sông Đại
Than, huyện Gia Bình, hợp với sông Thiên
Đức suốt đến sông Phao tỉnh Hải Dương,
đấy là một nhánh của sông Lục Đầu"
(ĐNNTC. 5dd, tr.78). Như vậy từ sông Phù
42
Lỗ có thể ra đến cửa biển Đại Than, là địa
điểm có trong truyền thuyết khi quân Tống
đặt chân sang nước ta.
Dựa vào nguồn sử liệu thời Tống như
Tổng sử bản khỉ, Tục tư trị thông giám
trường biên, Tống sử, Tống sử liệt truyện...
cũng như nguồn sử liệu nước ta như VSL,
ĐNNTC gần đây các nhà nghiên cứu sử học
Việt Nam đã đi đến kết luận: "Hầu Nhân
Bảo bị bắt và giết trên sông Bạch Đằng,
không phải ở sông Chị Lăng như Toàn thư
ghi chép" (Nguyễn Minh Tường: Trận Bạch
Đăng năm 981. Hội khoa học lịch sử Việt
Nam, Tạp chí Xưa nay, số 86/2001; Trần Bá
Chí: Cuộc kháng chiến chống Tổng lần thứ
nhất. Nxb.Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
1992, tr.37). Và năm 981, cũng có một trận
Đồ Lỗ "là nơi gần gũi với sông Cầu và sông
Cà Lồ, vì Bình Giang chính là sông Cầu,
còn Như Nguyệt là chỗ sông Cà Lồ đổ vào
sông Cầu) (Nguyễn Vinh Phúc: Có một trận
Bình Lỗ năm 981. Hội khoa học lịch sử Việt
Nam, Tạp chí Xưa nay, số 86/2001). Còn địa
điểm Đại Than là "bãi giữa sông Thiên Đức
(sông Đuống) với ở xã Đại Than, huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay là Xã Cao Đức,
huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, gần chỗ
tiếp giáp với sông Lục Đầu (là khúc sông
giáp giới hai tỉnh Hà Bắc và Hải Dương, nơi
tập trung của ba con sông: sông Đuống
(Thiên Đức), sông Cầu (Nguyệt Đức) và
sông Thương (Nhật Đức). Đây là địa điểm
mà tất ca các bàn UENC@Q nhóm Hai đã ghi
chép khi quân Tổng sang xâm lược nước ta.
Cũng theo các nhà nghiên cứu sử học thì
đại bản doanh của Lê Đại Hành có thể ở
vùng Chí Linh, Hải Dương. Nếu đúng như
nhận định trên thì có thể từ sông Đô Lỗ
(tức từ đoạn sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu)
cho đến sông Đại Than là phòng tuyến
chống giặc Tống của quân ta thời đó.
Như vậy, thời gian, địa điểm xẩy ra
chiến trận trong truyền thuyết Trương
Hồng, Trương Hát trong bản EWC@Q A.2914
xưa nhất đều phù hợp với sự thật lịch sử và
đã được các nhà nghiên cứu lịch sử xác
nhận.
NGUYÊN THỊ OANH