TRẦN CAO SƠN 52

TRUVỂN THUYỂT M m HN

th u y ết, nguôi xưa đã cưng cấp cho chúng ta nhữ ng cứ liệu th a m chiếu vế một thoi dại rất đán g q u a n tâm ; Thqi dại Hồng B àng - N hà nưốc V ăn L ang của các V ua Hùng.

ĩiêNi - ọ u n D ư n H ấ u

Núi Mai An Tiêm

TỪ GÓC NHÌN XÃ HỘI

HỌC LỊCH SỬ

•______ •_______________________________

TRẦN CAO SƠNn

LTS: Theo nguyện vọng của tác giả, chúng tôi công bô bài nghiên cúu này. Điều dó không có nghĩa chúng tôi chia sẻ vói tác giả về quan niệm vế quan hệ giũa vàn học dân gian và lịch sử, về quan niệm nhà nuóc và quan hệ xà hội thòi Hùng Vương.

Trong kho tà n g văn hoá, tru y ề n th u y ế t

giữ một vị trí q u a n trọng, kích thích năng lực suy tưởng, m ột vỏ bọc n h â n ái, Trước h ế t k h a n g đ ịn h d ú a h ấu có 0 nhiều nơi trê n th ê giới, kể cả ch âu Au, châu Phi, châu Mĩ. Đây là loại qua dược sàn xuất và sử dụng r a t sốm của loài nguôi. Trong tru y ề n th u y ế t cùng không k h ẳ n g định. Chi’ từ khi M ai An Tiêm p h á t hiện ra giống quả quý này thì nó moi được dư a vào đời sông và con người mói b iế t đôn d ú a h ấu . N hư vậy d ú a h ấu vùng N ga Sơn của M ai An Tiêm chỉ là m ột nơi có x u ấ t xú' sốm, và dặc h iệt O chỗ nó gắn vối tru y ề n th u y ế t về cuộc dời chủ n h â n của nó. Q uả dua ở dây dược coi nhu' một nguyên n h â n , một giá trị liên quan dôn việc làm th ay dổi sô p h ậ n một con nguôi tiêu hiểu tro n g hoàn cảnh hi thương và nh ậy cảm.

mềm m ại m à vô cùng bển c h ặ t q u a n niệm tượng tự của người xưa trước các hiện nhiên, xã hội.

T ruyền th u y ế t “M ai An Tiêm - Q uả dua h ấ u '’ có ch u n g giá trị đó. Nó góp p h a n lí giải vì sao N ga Sơn có quả dua dỏ nối tiêng và có dòng họ M ai co cụm dông đúc; tại sao có hòn núi m ang tên M ai An Tiêm và nh ữ n g môi liên hệ xã hội liên qu an đến sô ph ận của ch àn g hoàng tu thời sơ sử.

Nêu ai ch ú a m ục kích sỏ thị n úi Mai An Tiêm m à chỉ dược nghe qua tru y ền th u y ê t thì sẽ có m ột hình dung, một ý niệm khác về nó. Có th ể nghĩ ràn g dây là một q u ả núi rộng lởn, dồ sộ, cây cô’i rậm rạp, có nước suôi tro n g v ắ t chay qua, hoặc chí ít cũng phải có n h u n g giếng nước ngọt dê sin h sông, ch ă n nuôi và ca n h tác. N húng thực sự không ph ải như vậy. N úi M ai An Tiêm - hòn núi duy n h ấ t m ang tên M ai An Tiêm , nằm trê n vùng giáp ra n h giữa hai xã Nga An và Nga P h ú - chỉ là một hòn núi trọc rấ t nhỏ, với diện tích khoáng vài ha sào T ru n g Bộ, có độ cao vài chục mét.

Bên cạnh cái m ẫu sô* chung: M ai An Tiêm và sự tích Q uả dưa h ấ u củng chỉ là tru y ề n thuyôt, tru y ệ n dân gian nhu' ngàn vạn câu chuyện d â n g ian và sự tích khác, thì ỏ đây nó còn có một dặc tru n g rấ t riêng, dó là vì nó gắn với m ảnh đ ất, ngọn núi, tên người và một dòng họ M ai có thực. M ảnh d â t N ga Sơn dược hiểu tượng như

th á n h dịa của dòng họ này. Nó vừa là tru y ề n thu y ết, vừa là dã sử, lại cũng vừa là hình hóng của lịch sử. Từ chính tru y ề n

1 1 PGS. TS. Viện Xà hội học. Quả núi này x u ất hiện cùng niên dại tạo soil cùa hệ Tam Điệp hùng vĩ, vì có cùng một loại trầm tích khoáng thạch, nhung nằm hiệt lập về phía nam khoảng ha hôn trăm mét. Xem xét kĩ không ai có the nghĩ rằng dây là nơi m à vua Hùng dám dem dứa con tra i và gia quyến của nó vượt hiển cả sóng to gió lon dên đê’ dầy ải. Thời gian tuy có phôi pha, nhiều cái th ay dổi, nhúng chí ít

NGHIÊN CƯU - TRAO ĐỐI

chưa có của cải, chư a có p h â n tầ n g xã hội kẻ giàu và người nghèo. V ua chưa có bổng T ruyền th u y ế t M ai An Tiêm và Quả d u a đỏ vãn tồn tạ i tro n g lòng n h â n gian

lộc và quyển uy gì lớn nên việc thực hiện dân chủ, gần dân, k h u y ến nông, cùng dân

không p h a i mờ. T hông qua n h ữ n g h ạ t n h â n lịch sử hiện hữ u tro n g tru y ề n th u y ế t giúp ch ú n g ta tiếp cận từ n g bước việc nghiên cứu, tìm hiểu xã hội V iệt N am và cơ cấu

N hà nước Việt cổ.

T h ứ nhất'. T hông q u a tru y ề n th u y ết, cày ruộng và nhường ngôi là chuyện không lón. Có người nghĩ k hác hơn, cho rằ n g thời ấy chưa có sử gia ghi chép, to àn nghe theo tru y ề n k h ẩ u vối sự ca tụ n g xằng bậy, sự th ậ t chắc không p h ả i n h ư vạy V.V.. và v.v...

cho phép ch ú n g ta h ìn h d u n g về lãn h thổ quôc gia V iệt cổ trước công nguyên, đã theo Các tà i liệu chính sử T ru n g Quốc vê thời này cũng hiếm .

hướng bô dọc xuống phương N am . Từ tru y ệ n M ai An Tiêm ở Nga Sơn đến tru y ện

Thục P h á n An Dương Vương đua Mỵ C hâu chạy n ạn ra tậ n bờ biên N ghệ An rồi tu ẫ n tiế t ỏ đó cho phép ưóc đoán vê một nước

V iệt rộng lởn, có th ê kéo dài đến tậ n đèo Tôi nhơ hồi nhỏ cha tôi có đọc cho tôi nghe một câu đôi liên q u a n đến hai vị vua T àu vừa nêu trê n do m ột nho sĩ nào đó viết ra thời trước. C ha tôi nói tên nh ư n g tôi dã quên. Câu dôi vừa được hiểu theo nghĩa chữ Nôm, vừa được h iểu theo ng h ĩa chữ N gang, đèo H ải V ân và xa hơn nữa. Hán, hiểu theo cách nào cũng có lí, mặc

dầu nghĩa của nó lại đối nghịch n hau. T h ứ hai: T riế t lí trị nước, ch ăn dân, qu an hệ q u â n - th ẩ n - p h ụ - tử kiểu Khổng Thượng ung tai hạ ung tai ỉa đ ầ u lại vương N ghiêu chí đức giáo dã có ngay tro n g lòng thòi đại vua H ùng, nó được sin h th à n h và tồn tại tự Q uân tắc cô th ầ n tắc cô đ á i h ù m quan

đê T h u ấ n m in h công n h iên tro n g nền chuyên ch ín h tậ p quyền. C hẳng cần ph ải chờ đến T ứ T hư - Ngũ

K inh từ T ru n g Quốc trà n vào mới có. Cơ N ghĩa Nôm của h ai câu đôi thì độc giả chắc dã hiểu, vừa tục vừa tin h , tỏ ý k h in h chê xã hội sả n sin h ra triế t lí tương xung,

đồng th u ậ n .

Một nhà nước tập quyền sơ khai

bỉ bọn vua q u an , không loại trừ cả ông N ghiêu, ông T h u ấ n thời xưa. Theo nghĩa H án thì được h iểu ngược lại, tức là cả quan N hà nước thời H ùng Vương là th iế t chê

của nhà nước tậ p quyền sơ khai. V ua là kẻ thông trị m uôn d ân. Tư tưởng m ang hình

bóng tam cương, ngũ thư ờ ng cũng từ dó

mọc ra, lớn m ạn h và dầy sức kiêm toả

tro n g lòng xã hội. V ua b ắ t chết, th ẩ n phải

chết. Dù là cha con n h ư n g với vua H ùng thì M ai An T iêm là đ ạo q u â n th ầ n , k h ô n g th e chông lệnh. Vua b ắ t di day, p h ải di; vua cho gọi về, p h ải về. trên , qu an dưới, cả q u â n cả th ầ n đêu phải hướng vê các tấm gương của người xu'a m à học tập , m à noi gương, đặc b iệt là chí đức công m inh của h a i vị N ghiêu - T h u ấ n siêu phàm . Thê mới b iết cái th â m th u ý của chữ nghĩa. Mục đích cơ b ả n của câu dôi là ử chỗ thời N ghiêu - T h u ấ n xa vòi, k h en củng dược mà chê cũng c h a n g sao, nó (’b à có căn cứ nào cho sự đ á n h giá. Người ta mượn hai cụ xài chơi, cùng h ai cụ chửi lũ th a m quan ô lại dương thoi.

Cách n h ìn về N ghiêu - T h u ấ n đã vậy, cách nhìn về thoi vua H ù n g cũng nên th ấ u

dáo hơn. Song n h à nước chuyên chê thời kì này ch u a đ ạ t đến độ ho àn ch ỉnh, chưa có sự th ố n g n h ấ t từ trê n xuống dưới và p h ủ kín mọi vùng m iền. M ột sự hỗn dung các hình

TRẤN CAO SƠN 54

N ga Sơn là h u y ệ n n ằ m tiế p giáp vói dồng b ằ n g Bắc Bộ. Đ ứ n g ở vị tr í b ả n lề của hệ th ố n g đê đ iêu sông H ồng và sông T h ái B ình vữ ng chắc, tạ o cho đòng ch ả y đưa

th a n g p h ù sa xuống cửa b iên tạo n ên các vùng đ ấ t bồi k h ô n g lồ này.

hai tiêu v ù n g văn h o á sông M ã và sòng Hồng, N ga Sơn m an g d ậ m n é t dịa v ăn hoá sông Hồng. Người N ga Sơn h ầ u h ế t là từ p h ía bắc c h u y ể n vào lập cư tro n g n h ữ n g V ùng đ ấ t th u ộ c trầ m tích p h ù sa m uộn m ằn n h ữ n g th ê kỉ gần đ ây củ a N ga Sơn

th ế kỉ trước, tr ừ m ột sô' dóng họ có m ặ t lâu đời. T iến g nói củ a người N ga Sơn không m an g âm sắc dạc tr ù n g c h u n g của người

T h a n h Hoá - sông M ã, m à n g h iên g vê âm sắc Bắc Bộ. C ái tê n N ga Sơn lịch lãm cũng

dược x u ấ t p h á t từ m ột n g h ĩa nôm r ấ t mộc m ạc, tức là v ù n g đ ấ t có n ú i sông kì vĩ, cùng thời với v ù n g p h ù sa củ a T iến H ải - T h ái B ình và K im Sơn - N in h B ình. Ho h ai vùng đ ấ t trê n ở g ần cửa sông n ên lượng p h ù sa lón, diện tích p h ù sa rộng. N ăm 1829, đại d a n h đ iền N gu y ền C ông T rứ cho d ân khai h o an g lập ấp. O ng đã lảm b ản tâ u trìn h và được v u a M in h M ạn g kí sắc lệnh n h iề u chim m uông và th iê n nga di trú .

th à n h lập h ai h u y ệ n nói tr ê n cho h ai tỉn h . Nga Sơn ở duôi d ải p h ù sa, d iện tích bồi dắp không n h iều , k h o ả n g m ấy chục cây sô vuông. Cư d â n p h ía bắc xuông k h a i k h ẩ n

th à n h các xã N ga T h á i, N ga P hú, Nga Điền, N ga L iên, N ga T h a n h , N ga T h u ỷ vởi nghê' trồ n g cói và d ệ t ch iế u là c h ín h tro n g M ột câu hỏi đ ặ t ra là: N ếu to àn th ê dòng họ M ai dược s ả n sin h tù' N ga Sơn đều là con ch á u nôi dời củ a m ột d iện hạ M ai An T iêm với người vợ m à ông m an g theo thì sao lại đông đ èn vậy. T ừ m ột ông th u ỷ tê, r ấ t n h iều chi n h á n h được h ìn h th à n h : M ai

vài tră m n ã m trở lại. C â u thơ "Chiếu N ga sơn gạch B á t T r à n g ” là nói đ ế n chiếu của các xã này. Cuộc bồi đ ắ p p h ù sa vẫn tiếp V ăn, M ai Đ ình, M ai Đức, M ai Ngọc v.v... H à n g chục k iêu họ M ai. Ngược lại chưa th ấ y dòng họ M ai A n nào cả, có th ể họ

diễn, N ga Sơn có hệ rừ n g n g ậ p m ặn phong phú, đa d ạ n g vê' sin h th á i biển. Do th iế u

d ấ t ở và ca n h tác, từ th ậ p n iên sá u mươi trá n h đi dê khỏi p h ạ m h u ý với ông tổ tôn k ín h chăng? Cả sô' sở tạ i lẫ n sô' c h u y ển cư đi nơi k h á c sin h sông có thổ đến h à n g chục

của th ê kỉ trư ớc người d â n N ga Sơn d ã ra đ ịn h cư, th à n h lập hai xã mối là N ga T ân và N ga Tiến. Đ ây là d â n tổ n g hợp của

v ạn người. N êu d ù n g p hư ơ ng p h á p to á n học dê tín h tầ n sô' gia tă n g n h â n k h ấ u như n g à n h d â n sô' học v ẫ n th ư ờ n g làm thì sa u lìơn h ai n g h ìn n ăm , từ m ột ông M ai /\n T iêm cư t r ú n g ắ n ngủi khó có th ể b ù n g nổ nhiều là n g n h iề u xã tro n g v ù n g đ ấ t cũ m à th à n h , tro n g dó cũ n g có râ't n h iều người thuộc dòng họ M ai. R ừ n g n g ậ p m ặn biên

m ất trước sức tấ n công c ủ a con người. m ột quy mô h ậ u d u ệ k h ổ n g lồ n h ư vậy. Đó là ch ư a kê hộ sô' tử vong các kiểu thời xưa

r ấ t cao. T h êm n ữ a, c h a n g lẽ sa u khi dược v u a cha cho gọi về, vợ chồng M ai An Tiêm k h ô n g m an g theo d ứ a con nào hoặc không sin h th ê m n ữ a ch ăn g . Có bao n h iê u con tr a i đều v ú t lại nơi góc b iển c h â n troi này k h i vợ chồng ông bưốc x u ố n g th u y ề n lai kin h ? ơ P h o n g Ch âu c ũ n g không th à y sự q u ầ n cư củ a dòng họ M ai tiê u biêu n h ư ỏ

N ga Sơn, th ậ m chí k h ô n g có. Trước dây có m ột n h à d â n tộc học k h ô n g d a n h tiế n g lắm T ro n g ba hệ q u ầ n th ể trầ m tích nói trê n th ì trầ m tích đại dươ ng là ch ủ dạo n h á t, tức là hệ trầ m tích được tạ o ra do q u á trìn h biên lùi. D iện tích c h ín h củ a N ga Sơn là vùng d ấ t c á t p h a . Cư d â n sin h sông d ầ u tiên cũng nhờ có biên lùi m à có đ ấ t ở. Dòng họ M ai củ a M ai A n T iêm cư' tr ú ch ủ yếu trê n đ ấ t của hộ trầ m tích này. Họ vừa trồ n g cấy lú a nưốc vừ a c a n h tác hoa m àu đủ loại, tro n g đó có d u a h â u .

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 55

có nói một cách hồn n h iên rằ n g sự th ậ t họ

M ai chính là từ chữ họ M a gọi lái di, một bộ tộc th iểu sô phía Bắc chuyên xuống cu' trú

ngọn núi có tên M ai An Tiêm , vì sao Nga Sơn có dưa đỏ ngon làn h , và vì sao có nhiêu cư dân m ang dòng họ M ai n h ư vậv. Câu chuyện còn n h ằ m ca ngợi tín h lao dộng cần

m à th à n h dòng họ M ai đông đúc. Đấy chỉ là cách nói, bởi nếu đ ú n g n h ư lời n h à d ân tộc học kia để hợp lí vởi sự hiện diện các dòng

họ M a phô biến dọc vùng núi và tru n g du phía bắc h iện nay theo cái logích khách

cù của m ột điện h ạ nguôi Việt xa xua. Cái triế t lí tròi có m ắt, ở h iền gặp làn h , có công m ài s ắ t có ngày nên kim . lao dộng là vinh qu an g v.v... cũng rậm rịch váy q u an h cốt tru y ện .

qu an thì sự tích M ai An Tiêm - Vua H ùng - Q uả dưa đỏ tương tru y ề n n h iêu đời nay sẽ chang còn giá trị nào hết, kể cả n h ữ n g giá

trị về tư tưởng, triế t học và đạo lí.

Đạo nghĩa Quân thần - Phụ tử

N hưng, b ả n c h ấ t tư tưở ng của tru y ề n th u y ế t không dừ ng lại ở đó, nó cao cả và sâu sắc hơn n h iều . R ất có th ể chúng ta đã không hiểu đ ú n g th â m ý sâu xa m à người

xua m uốn n h ắ n n h ủ ch ú n g ta thông qua câu tru y ệ n đầy bi th ư ơ n g này.

Thời đại các vua H ùng tồn tạ i bao nhiêu năm , có m ây chục triề u vua, chăn

dân, trị nước ra sao... th ậ t sự chưa ai biết Trong tru y ề n th u y ế t M ai An Tiêm - Q uả dưa h ấ u lưu tru y ề n h ế t dời này đến doi khác đều có ch u n g m ột nội dung: Mai An Tiêm là con tra i vua H ù n g th ứ tư, là một người th ô n g m inh, cần cù và cương nghị. Một lần vô tìn h nói với v u a cha "Của

biếu là của lo; của cho là của nợ" đã bị vua cha b ắ t đi đầy ngoài hoan g đảo vì tội b ất chính xác. Chi’ b iết cách đây m ấy nghìn năm , khi T ru n g Quô’c có th ầ n Nông, Phục Hy, N ghiêu Vương, T h u ấ n Đế, có Ân - Hạ

kính, k h in h quân. S au n h iều ngày lênh đênh trê n biển, sóng to gió lớn, M ai An Tiêm đã đến m ột hoang đảo đầy chim m uông và th ú dữ. Ô ng và gia quyến đã bị - Thương - C hu, X uân T hu, C hiến Quốc... thì ở V iệt N am đ ã có v u a H ùng cai quản, giang sơn riên g bờ cõi. B ằn g sự th ấ t bại của An Dương Vương T hục P h á n gắn với oan

tìn h Mỵ C hâu - T rọng T huỷ, nước Văn L ang - Âu Lạc m ấ t vào tay ngoại bang. Thô

giam cầm ở đây không hẹn ngày về, không có môi liên hệ với d ấ t liền và quê n h à. Vôìì là người b ản lĩnh, ông đã cùng vọ' lao động cần cù, vượt q u a hiểm nguy dể tồn tại. M ay có nghĩa là, trước đó, tro n g tâm linh người Việt, các vua H ù n g gắn với giang sơn cẩm

tú đã được m inh đ ịnh rạc h ròi. Đó là chân lí vĩnh h à n g của n h â n gian. có con chim đ á n h rơi m ản h dưa h ấ u ă n dở, ông p h á t h iện ra đó là giống quả quý nên dã trồ n g nó và th ả vào đ ấ t liền đê mọi

T ru y ền th u y ế t đã làm chúng ta chạnh lòng về tìn h người, về dạo q u â n th ần , phụ

tử thuở b ình m inh của d â n tộc, n h ấ t là nó

lại diễn ra chôn cung đ ình vối bậc chí tôn c ủ a m u ô n d â n b á c h tín h .

người biết và ch u n g hương. C ủng tìn h cờ nhờ quả dưa có dấư tích đến được ta y vua cha do dân sở tạ i cung tiến, vua cha mới khen công trạ n g và cho th u y ề n đón M ai An Tiêm trỏ về triề u đình. T h ế rồi ngọn núi ấy m ang tên M ai An T iêm của ông, vùng đất ấy có con ch á u họ M ai dầy đ àn, có nghề trồng dua đỏ nổi tiến g m uôn phương.

Người dời saư

Của biếu là của lo, của cho là của nợ. G iả th iế t, nếu đây t h ậ t sự là câu nói của hoàng tử M ai An Tiêm với vua cha như tro n g tru y ề n th u y ế t thì cũng có nghĩa là ngay từ thuở H ồng B àng đã có sự biêu - cho - lo - nợ vây rá p lan n h a u . G iả th iết, thư ờ ng h ay lướt qưa nhữ ng chi tiế t tưởng n h ư vụn v ặt đê tiếp cận cải bề m ặ t của cốt tru y ệ n , đó là vì sao