
Truyền thống pháp điển hóa qua các triều đại phong kiến Việt Nam
Hiện nay, khi Chương trình xây dựng pháp luật của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đã là
con số gồm 3 chữ số...
Hiện nay, khi Chương trình xây dựng pháp luật của mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đã
là con số gồm 3 chữ số, vấn đề bảo đảm tính đồng bộ giữa số lượng và chất lượng
văn bản luật được ban hành phải được đặt ra nghiêm túc. Một trong những hướng
nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp, nâng cao hiệu quả của từng văn bản luật
được ban hành là tăng số lượng các bộ luật có tính chuyên ngành về từng lĩnh vực
của đời sống xã hội, từng bước đưa các bộ luật này trở thành hình thức văn bản
chủ yếu của hệ thống pháp luật nước nhà. Với tinh thần đó, điều quan trọng là
phải thấy được quá trình ra đời, phát triển, trở thành truyền thống của hoạt động
pháp điển hóa pháp luật trong lịch sử xã hội Việt Nam.
1. Hình thư đời Lý - Bộ luật pháp điển hóa đầu tiên của Việt Nam
1.1. Xã hội Việt Nam trong suốt một giai đoạn dài hơn mười thế kỷ đã rơi vào
nạn Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc từ Hán đến Đường lần lượt
chiếm đoạt, nô dịch đất nước và con người Việt Nam. Năm 938, khi Ngô Quyền
đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân tộc Việt Nam mới bắt đầu thời
kỳ độc lập lâu dài.
Ngô, Đinh, Lê là ba triều đại độc lập, tự chủ đầu tiên, nhưng chỉ tồn tại được
trong thời gian rất ngắn: nhà Ngô 5 năm (939-944); nhà Đinh 12 năm (968-980);
còn nhà Tiền Lê là 19 năm (981-1009). Tuy về công việc lập pháp chưa làm được
gì nhiều, nhưng chắc chắn trong việc điều hành, quản lý xã hội, các triều đại này
cũng đã dùng đến pháp luật, nhưng đó chủ yếu chỉ là những quy định có tính nhất
thời, tình thế.

1.2. Hình thư đời Lý - Bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam, đã mở ra thời
kỳ trở thành truyền thống pháp điển hóa pháp luật Việt Nam.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra triều Lý (1009-1225). “Sang đời
Lý, nhất là trong khoảng thế kỷ XI, công việc xây dựng đất nước bước vào quy mô
lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc
gia phong kiến độc lập”[1]. Chính quyền trung ương tập quyền được củng cố; kinh
tế phát triển, địa vị của nước Đại Việt so với các quốc gia láng giềng được nâng
cao; hoạt động lập pháp của triều Lý bắt đầu được đẩy mạnh.
Năm 1042 (Minh Đạo nguyên triều), vua Lý Thái Tông - đời vua thứ hai - thấy
“buổi đầu trong nước việc hình ngục kiện cáo phiền nhiễu, pháp quan câu nệ luật
văn, chuộng xử nghiêm khắc, phần nhiều oan uổng sai lầm...”. Vua lấy làm thương
dân mới sai quan Trung thư san định luật lệnh[2] “châm chước cho thích dụng với
thời thế, chia ra loại bài, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư cho một
triều đại, để cho người xem dễ hiểu, sách làm xong cho xuống chiếu ban hành, dân
lấy làm tiện”[3].
Đáng tiếc là, bộ Hình thư của triều Lý đã không còn. Theo Phan Huy Chú, tác
giả Lịch triều hiến chương loại chí, trong phần “Văn tịch chí” thì, khi xâm lăng
nhằm đặt trở lại ách đô hộ lên dân tộc Việt, triều đại nhà Minh tiếp tục thực hiện
dã tâm đồng hóa người Việt, đã cho tịch thu hết các văn thư, sách vở của dân ta
mang về Kim Lăng tiêu hủy. Tuy Bộ luật không còn, nhưng những thông tin về bộ
luật vẫn được ghi chép trong nhiều bộ sử, tiêu biểu là Lịch triều hiến chương loại
chí, phần Hình luật chí của Phan Huy Chú. Ngoài ra, nó còn được ghi chép trong
Đại Việt sử ký toàn thư của Lê Văn Hưu hoặc một số bộ sử khác.
Có nhiều phán đoán về sự tiếp thu của Hình thư đời Lý đối với nhiều quy định,
chế định của pháp luật nhà Đường. Điều đó có thể xảy ra và không có gì đáng
ngạc nhiên. Xét theo tính chất của hai triều đại nhà Đường, nhà Lý đều là những

nhà nước phong kiến quân chủ có tính tập quyền cao nhưng xã hội đời Đường có
trình độ phát triển cao hơn. Ngay cả trong trường hợp triều đại nhà Đường chưa
từng xâm lược, đô hộ Việt Nam và thực thi chính sách ngu dân, đồng hóa tàn bạo
nhưng là quốc gia phong kiến láng giềng, nói chung có trình độ phát triển cao hơn
và trong lĩnh vực pháp luật có một bộ luật thể hiện trình độ pháp điển hóa cao thì
đến lượt mình, triều đại nhà Lý khi có nhu cầu ban hành bộ Hình thư chắc chắn
phải tìm đến bộ luật của nhà Đường để tham khảo và có thể tiếp thu, vận dụng
những chế định pháp luật có tính phổ biến, phù hợp. Đây là hiện tượng mang tính
quy luật trong mối quan hệ giữa các quốc gia, xã hội.
Nhưng nhà Đường cũng đô hộ Âu Lạc đến 300 năm và đương nhiên, khi xem
“An Nam đô hộ phủ” là thuộc quốc của mình thì với dã tâm đồng hóa cả dân tộc
Việt, nhà Đường nhất định mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật của triều đại mình
đến cả xứ “man di” này. Vấn đề đặt ra ở đây là pháp luật của nhà Đường và của
các triều đại trước đó, tiêu biểu là Hán, Tùy đã bám được vào đời sống của dân tộc
Việt đến mức nào và các triều đại tự chủ đầu tiên có thái độ như thế nào đối với
các hệ thống pháp luật đô hộ này.
Các nhà Ngô - Đinh - Lê với thời gian tồn tại rất ngắn, lại trong buổi đầu tự
chủ, có thể thấy ảnh hưởng của pháp luật nhà Đường nói chung, của cả thời Bắc
thuộc đối với pháp luật các triều đại trên là điều không thể tránh khỏi, nhưng
không có gì đáng kể.
Đến triều đại nhà Lý, cũng phải ở năm thứ 33 của bản triều, tức năm 1042 và
đến đời vua thứ hai - Lý Thái Tông mới sai Trung thư xây dựng Hình thư - bộ luật
thành văn đầu tiên mà lịch sử biết đến của nước ta. Trong khi xây dựng bộ luật,
việc tham khảo, tiếp thu các chế định pháp luật ra đời trước đó nhiều thế kỷ (ban
bố năm 653 của nhà Đường[4]) và vẫn đang có ảnh hưởng lớn đối với các triều đại
về sau ở ngay Trung Quốc, là điều dễ hiểu và cần thiết. Điều đó không phụ thuộc
vào việc trước đó luật nhà Đường đã có ảnh hưởng ở Việt Nam như thế nào.

Trong chỉ dụ của mình, Lý Thái Tông chỉ ra một cách khái quát về nguồn pháp
luật cần được xem xét, san định là “luật lệnh” và trước hết phải là “luật lệnh” của
bản thân triều Lý. Đó chỉ là những luật lệnh có tính đơn hành. Chính vì những
luật, lệnh ấy chỉ ở dạng đơn hành nên mới cần san định, châm chước cho thích
dụng với thời thế, chia ra loại bài, biến thành điều khoản để ban hành thành sách
(bộ luật). Đúng như Phan Huy Chú đã chỉ rõ: “Nước Việt ta, các triều dựng nước
đều định hình chương, nhà Lý có ban Hình thư, nhà Trần có định hình luật đều đã
tham chước xưa nay, để nêu thành phép tắc lâu dài”[5].
Nói là “tham chước xưa nay” thì có thể hiểu rất rộng, vừa của trong nước, vừa
của nước ngoài, vừa từ thời Bắc thuộc hoặc các vương triều Hán, Tùy, Đường của
Trung Hoa. Dù là “san định luật lệ” hoặc “tham chước xưa nay” thì vua Lý Thái
Tông cũng chỉ đề cập đến nội dung của vấn đề có tính nguyên tắc, dành cho người
được giao việc vừa là một địa bàn rất rộng để lựa chọn, cân nhắc, vừa không yêu
cầu phải đặc biệt lưu ý đến một chủ thể cần được ưu tiên đặt lên hàng đầu nào.
Sau khi Hình thư được ban bố, các đời vua Lý sau có bổ sung. Chẳng hạn, năm
1125, vua Nhân Tông có chiếu: “Phàm kẻ đánh người đến chết thì đày làm khao
giáp, đánh 100 trượng, thích 50 chữ vào mặt”[6]. Năm 1139, vua Anh Tông định
phép chuộc ruộng, nhận ruộng, trong đó có ý “có kẻ tranh nhau ruộng ao, dùng khí
giới đánh người chết hay bị thương thì bị 80 trượng, xử tội đồ lấy ruộng ao trả lại
cho người chết hoặc bị thương”. Giết người hoặc làm chết người mà chỉ bị những
hình phạt như trên đã bị Ngô Thì Sỹ, nhà sử học thế kỷ 18 phê phán: “sát nhân giả
tử” là phép cổ. Nay tội giết người mà cũng xử phạt như tội đánh người bị thương,
thật là không có thứ bực, mất cả sự cân nhắc nặng nhẹ…[7].
Xét từ góc nhìn pháp điển hóa, pháp luật đời Lý nói chung và Hình thư nói
riêng, trực tiếp là chỉ dụ của vua Lý Thái Tông sai Trung thư san định luật lệnh
phải được xem là một sự kiện đặc sắc. Đáng chú ý, lý do của việc san định luật
lệnh, ban bố Hình thư là tình trạng việc kiện tụng trong nước nhiều phiền nhiễu,

khắc nghiệt đối với dân, thậm chí còn gây oan uổng đối với dân và đây không phải
là sự oan sai thông thường mà là một sự oan sai quá đáng và vua lấy làm thương
dân. Điều này nói lên đầy đủ đạo lý của chủ trương san định luật lệ, ban bố Hình
thư, một chủ trương thấm đậm tình người của người đứng đầu triều đại. Vua
không ra chỉ dụ chung chung thuần túy đạo lý mà cùng với chủ trương san định
luật lệ, nhà vua còn chỉ rõ cách thức phải theo để đạt được mục đích: san định luật
lệnh - tham chước[8] cho thích dụng với thời thế - chia ra loại bài - biên thành điều
khoản - làm thành sách hình thư - của một triều đại - để cho người xem dễ hiểu.
Một chỉ dụ hoàn chỉnh về nội dung và nói theo ngôn ngữ ngày nay, đây là một
chỉ dụ thật đặc sắc về pháp điển hóa. Nhìn bằng con mắt đời nay cũng thấy khó mà
bổ sung, thêm bớt gì vào đây, từ phương diện đạo lý đến từng bước đi, quy trình
phải thực hiện và kết quả phải đạt tới[9].
Theo quan điểm này, việc làm đầu tiên là phải san định luật lệ. “San định luật
lệ” là “sửa chữa cho gọn và quy định cho nhất trí”[10]. Một định nghĩa khác coi
“san định là sửa sang lại một văn bản cổ bằng cách bỏ đi những đoạn cho là không
hợp, xác định lại những chỗ còn nghi ngờ, sắp xếp lại”[11]. Riêng từ “san” được
Đào Duy Anh định nghĩa: “dọn bớt đi cho gọn”[12]. Tìm thuật ngữ tương đồng
trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2002) thì đó là “rà soát”, “chỉnh lý”... (các điều 8, 26, 45a). Một công
việc quan trọng được tiến hành song song với việc “san định” luật lệnh là “tham
chước xưa nay”, nghĩa là “thêm bớt cho vừa”[13]. Trên cơ sở xem xét, tham khảo,
so sánh, tra cứu các thông tin đủ loại cần thiết nhằm làm sao cho “thích dụng” với
thời thế. Thuật ngữ “thích dụng” ở đây được dùng thật “đắc địa”, tức phải phù
hợp, đáp ứng được yêu cầu của công việc thực tại, thi hành, áp dụng pháp luật.
Từng thuật ngữ, từng từ được dùng, được đặt rất đúng chỗ với sự diễn đạt cô đọng,
súc tích, chứng tỏ nhận thức về pháp điển hóa của nhà vua, của triều đình nhà Lý

