62
NGUYÊN VĂN HOÀN
LTS. Vừa qua ở Milano (Ý) đã xuất
bản cuốn 1 Ca dao del Vietnam (Nhà
xuất bản ObarraO, Milano, 2000, 151
trang) do Nguyên Văn Hoàn uà Pino
Tagliazucchi tuyển chọn uò dịch sang
tiếng Ÿ. Tuyển tập gồm gần 400 bài ca
dao 0à một số tục ngữ, bao quát từ ca dao
cổ cho đến ca dao bháng chiến chống
Pháp uà chống Mỹ.
Ông Pino Tagliazcchi là nhà báo uà
nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, Uỷ
uiên Đoàn Chủ tịch Hội hữu nghị Italia -
Việt Nam, tác giả cuốn Điện Biên Phủ
ba ngàn ngày (Torino, 1969). Hiện nay
ông đang nghiên cứu Tiểu sử Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong thời gian Người hoạt
động ở châu Âu.
Dưới đây, chúng tôi đăng bài của
Nguyễn Văn Hoàn giới thiệu Ca dao Việt
Nam uới bạn đọc Ÿ, in trong tuyển tập nói
trên.
THÔN CA SƠ HỌC TẠNG MA NGỮ?'
(Thanh mình ngâu hứng)
Dịch: Câu thơ thôn dã giúp ta học
được ngôn ngữ người trồng dâu, trồng
đay.
Nguyễn Du (1765 - 1820), nhà thơ
lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam -
mà có nhà nghiên cứu văn học người Ý
mệnh danh là “Homère hiện đại của Việt
Nam” thừa nhận rằng: ông đã qua
trường học thơ ca trong thế giới văn học
dân gian, trong biển cả ca dao và dân ca.
VAI TRÒ CỦA CA DAO TRONG
TIÊN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
VĂN HỌC VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN HOÀN?)
Một giai thoại kể lại rằng: nhà thơ
mê săn bắn, mê câu cá này cũng là người
say mê các hội hè đình đám, các cuộc hát
đối đáp dân ca ở nông thôn. Gần quê nội
của Nguyễn Du có hội : hứt phường uải.
Những đêm trăng sáng, trai gái các làng
lân cận thưởng tụ tập, vừa kéo xa quấn
sợi, vừa hát đối đáp những câu hát ân
tình. Hát hò nhưng đồng thời cũng kín
đáo giãi bầy, ước hẹn. Có lần, trong một
đêm hát, Nguyễn Du đã gặp phải một đối
thủ đáng gờm, tên là Cúc - người đẹp, hát
hay, lại cu tài bẻ lời hát, nhưng cô ta đã
hơi luống tuổi mà vẫn chưa chồng. Nhằm
vào "điểm yếu” tế nhị đó, Nguyễn Du hát
ghẹo rằng:
Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao Cúc lại muộn màn uê thu?
Cô Cúc hiểu ý, đáp lại một cách kín
đáo, nhưng lý lẽ không kém phần cứng
CỎI:
Vì chưng tham chút nhuy uùàng,
Cho nên Cúc phải muộn màng uề thu!
Những đêm trăng gặp gỡ đó là cơ hội
thuận lợi kết giao nhiều lứa đôi hạnh
phúc, hoặc gây nên nhiều hận tình oan
trái Giai thoại cũng kế lại rằng, có
trường hợp Nguyễn Du đã là nạn nhân
của phái đẹp, nhưng ngược lại, có trường
hợp, ông đã để lại đau khổ, tuyệt vọng
cho một cô gái.
(*⁄)PGS, Viện Văn học.
TƯ LIỆU FOLKLORE
63
“=—————==— Ẫ Ẫ——————
Quê mẹ Nguyễn Du ở Bắc Ninh là
nơi có hội hát quan họ nổi tiếng. Giai
thoại kế rằng: những lần qua lại bến đò
sông Hồng của Thăng Long (Hà Nội ngày
nay), Nguyễn Du đã dan díu với một cô
lái đò ngang xinh đẹp. Nhưng trong
khuôn khổ khắc nghiệt của lễ giáo phong
kiến, một chàng trai quý tộc khó có thể
kết duyên cùng một cô gái bình dân
nghèo nàn. Ít lâu sau, Nguyễn Du trở lại
chốn cũ thì người yêu đã đi lấy chồng.
Nơi kỳ ngộ ngày xưa chỉ còn là dòng nước
chảy xuôi lạnh lùng! Nguyễn Du buồn
rầu ứng khẩu mấy câu thơ:
Yêu nhau những muốn gần nhau,
Bề sâu trăm trượng tình sâu gấp mười!
Vì đâu xa cách đôi nơi?
Bến nay còn đó, nào người năm xưa?
Tứ thơ khiến người đọc liên tưởng
đến những hình tượng quen thuộc trong
bài ca dao đẹp, rất phổ biến ở Việt Nam:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa!
Cây đa, bến cũ còn lưa,
Con đò đã khác năm xưa đi rồi!
Chúng tôi nghĩ không cần thiết phải
dẫn lại xuất xứ tư liệu của giai thoại phổ
biến rất rộng, được kể trên đây. Các giai
thoại có thể không có thật, nhưng chúng
vẫn nói lên được một cái gì đó có ý nghĩa.
Trước hết chúng chứng tỏ rằng giữa dòng
văn học bác học, thành văn của các tác
giả trí thức phong kiến và dòng văn học
dân gian truyền miệng của quần chúng
lao động ít học, vẫn luôn có sự giao lưu
trao đổi và tác động lẫn nhau. Nếu như
nhà thơ cổ điển Nguyễn Du đã học tập lời
ăn tiếng nói của “người trồng dâu, trồng
øgœi”, và đã học tập sáng tác thơ ca dân
gian để viết nên kiệt tác của mình thì
ngược lại, đến lượt kiệt tác của ông lại
thành lời hát của các sinh hoạt dân ca ở
hầu hết các miền đất nước, từ đồng bằng
lên miền núi, từ miền Bắc xuống miền
Nam của một đất nước mà hình thể địa
lý, cũng giống như Italia, trải dài theo
chiều Bắc - Nam. Ngày nay, có trường
hợp thật khó phân biệt cái gì vốn là của
ca dao, đã được nhà thơ thiên tài của dân
tộc tái tạo, nâng cao, với cái gì vốn là
sáng tạo của Nguyễn Du đã được quần
chúng tiếp nhận, vay mượn để biến thành
lời hát của dân ca.
# #
Văn học của bất kỳ dân tộc nào, dù ở
phương Đông hay phương Tây, cũng đều
bắt nguồn từ văn học dân gian. Những ca
khúc 1⁄zđởe và Odyssée thường được gán
cho Homère, những truyện ngụ ngôn
Esope, trước khi được ghi lại thành văn
bản viết, cũng đã được lưu hành truyền
miệng trong dân gian. Người ta cũng tìm
thấy ảnh hưởng của văn học truyền
miệng trong các bộ sử thì Mfahabharata
và lamayana của Ấn Độ cổ đại. Đó là
một quá trình tiến hoá tự nhiên mà bất
kỳ một nền văn học dân tộc nào trên thế
giới cũng phải trải qua, có điều là quá
trình đó điễn ra mỗi nơi một khác, tuỳ
khác, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử,
xã hội riêng biệt.
Ở Việt Nam, nền văn minh nông
nghiệp - mà hoạt động chính là nghề
trồng lúa nước - phát triển sớm, đã tạo
điều kiện sống định cư cho một bộ tộc có
gốc bản địa - bộ tộc Việt - bộ tộc chủ thể,
có khả năng thu hút và tập hợp những bộ
tộc láng giềng, để sớm hình thành một
cộng đồng bộ tộc, từ thuở xa xưa đã định
cư trên lưu vực sông Hồng. Cộng đồng đó
đã sáng tạo được những nền tảng đầu
tiên của một nền văn hoá dân tộc tương
lai, với chứng tích tiêu biểu là bộ sưu tập
trống đồng Đông Sơn nổi tiếng, mà kết
quả khai quật khảo cổ học trong mấy
thập niên vừa qua đã bổ sung thêm hiện
vật, tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh.
Nhưng điều không may là ngay từ buổi
bình minh lịch sử của mình, cộng đồng đó
đã sớm rơi vào ách xâm lược của ngoại
tộc (111 trước CN), đông hơn về số lượng,
cao hơn về trình độ phát triển xã hội: đế
quốc Hán. Tuy vậy tham vọng đồng hoá
của lực lượng xâm lược cũng không tiêu
diệt được nền văn hoá Việt mới hình
thành. Trước hết cộng đồng dân tộc Việt
vân bảo vệ và sử dụng ngôn ngữ riêng
của mình: ứiếng Việt. Nhưng ở thời điểm
bắt đầu ngoại thuộc thì tiếng Việt chưa
phát triển đến trình độ có được một văn
tự riêng, tương ứng với nó. Trong hoàn
cảnh đó, các quan cai trị người Hán đã du
nhập, truyền bá chữ Hán vào Việt Nam.
Kết quả họ thu được rất hạn chế. Một số
rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay, được
bọn quan đô hộ tuyển lựa, đưa sang học ở
Trung Quốc, rồi đỗ đạt, làm quan ở đấy
và trở thành một số nhân vật lưu đanh
trong sử sách. Nhưng những cái họ viết
ra không có giá trị gì nhiều, nhất là xét
về phương diện ảnh hưởng đối với vận
mệnh cộng đồng dân tộc Việt. Từ đầu thế
ký X, người Việt chấm dứt được sự thống
trị của người Hán, lập nên chính quyền
Nhà nước độc lập của mình và tích cực
xây dựng nền tảng kinh tế, chính trị,
quân sự, cho một vương triều độc lập.
Trong lĩnh vực văn hoá, một hiện tượng
có vẻ ngược đời nhưng lại là sự thật, đó là
một khi người Việt đã trở thành người
chủ đất nước và có thể quyết định
phương hướng phát triển tương lai của
văn hoá dân tộc thì việc phổ cập chữ Hán
- vốn do thế lực ngoại xâm áp đặt, với âm
mưu đổng hoá cộng đổng Việt - chẳng
những không bị bãi bỏ, mà ngược lại,
NGUYỄN VĂN HOÀN
được chính những người chủ mới của đất
nước duy trì, tổ chức, với một quy mô
rộng lớn và có hiệu quả hơn trước.
Năm 1070, nhà Văn Miếu được xây
dựng giữa kinh đô Thăng Long. Năm
1075, định lệ biểu đương những người đỗ
Tiến sĩ, bằng hình thức cho khắc họ tên,
quê quán vào bia đá, đặt ở Văn Miếu.
Hiện nay ở Văn Miếu Hà Nội còn lưu lại
89 tấm bia ghi tên những người đỗ Tiến
s1, từ khoa thi 1442. Những sự kiện trên
đây chứng tỏ Nhà nước phong kiến Việt
Nam rất coi trọng việc truyền bá Hán và
Hán học vào Việt Nam. Lý do cũng dễ
hiểu, giai cấp phong kiến thống trị Việt
Nam đã sớm nhận ra rằng Nho giáo, với
tư tưởng cốt lõi để cao quân quyền, là
một lợi khí rất hiệu nghiệm để củng cố
chế độ phong kiến. Hơn nữa, chế độ
phong kiến Trung Hoa đã chế định sẵn cả
một hệ thống điển lệ, pháp luật, nghi lễ
có thể dùng làm chuẩn mực cho các chế
độ phong kiến phương Đông. Trong hoàn
cảnh đất nước Việt Nam chưa có một văn
tự dân tộc riêng thì đành tiếp tục sử
dụng chữ Hán làm chuyển ngữ. Thế là
trong suốt 10 thế kỷ, chữ Hán đã được sử
dụng một cách chính thức trong học hành
thi cử, trong các giấy tờ, công văn hành
chính của triều đình và cả trong lĩnh vực
trước thuật và sáng tác thơ văn. Những
kỳ thi chữ Hán chỉ bị bãi bỏ vào đầu thế
kỹ XX, khi chính quyền thực dân Pháp đã
được thiết lập ổn định ở Việt Nam và
quyết định đẩy lùi ảnh hưởng văn hoá
Trung Quốc ở thuộc địa mới của mình.
Trong thời gian đó đã nẩy sinh hai sự
kiện đáng chú ý:
1. Vào khoảng thế kỷ thứ X, người
Việt Nam đã phỏng theo cách cấu tạo chữ
Hán để sáng chế cho mình một văn tự
dân tộc: chữ Nôm. Không được triều đình
khuyến khích, chữ Nôm chưa tiến triển
LIỆU FOLKLORE
tới trình độ hoàn bị và thống nhất cao
giữa các địa phương, nhưng cũng đã ghi
lại được nhiều sáng tác bằng tiếng Việt,
như: Quốc âm thi tộp của Nguyễn Trãi
(1380 - 1442), Bạch uân am quốc ngữ thi
tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 -
1585), Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765
- 1820).
2. Từ thế ký XVII, các nhà truyền
đạo Thiên chúa đến Việt Nam, đã dùng
mẫu tự La tỉnh để ghi âm tiếng Việt, dần
dân đã sáng chế ra chữ quốc ngữ. Thứ
chữ này, thời gian đầu chỉ được sử dụng
trong một phạm vi hẹp: các trưởng đạo
Thiên chúa, nhằm phục vụ một mục đích
chật hẹp: truyền bá các kinh bổn đạo
Thiên Chúa. Còn nhân dân Việt Nam
đông đảo thì lạnh nhạt, xa lánh nó. Mãi
đến đầu thế kỷ XX, khi các nhà ái quốc
Việt Nam phát hiện ra tính tiện lợi thực
tiễn của chữ quốc ngữ trong việc phổ cập
văn hoá mới cho quần chúng, liền cổ vũ
mạnh mẽ việc sử dụng quốc ngữ, từ đó,
dần dần, chữ quốc ngữ đã trở thành văn
tự chính thức của Việt Nam.
Như vậy, trong lịch sử trên hai ngàn
năm của mình, người Việt, trước sau, chỉ
nói một ngôn ngữ duy nhất, nhưng về
chữ viết thì đã lần lượt sử dụng, hoặc có
thời kỳ đã đồng thời sử dụng, chữ Hán,
chữ Nôm, và chữ quốc ngữ; trong đó, suốt
thời Trung đại, chữ Hán đã giữ vai trò
chủ yếu trong hoạt động văn hoá và cho
đến nay còn lưu lại một số lượng lón thư
tịch về các môn văn học, sử học, triết
học...
Có ý kiến cho rằng: hiện tượng chữ
Hán được sử dụng ở nước Việt Nam trung
đại cũng giống như hiện tượng chữ La
tỉnh được sử dụng ở châu Âu thời Phục
hưng. Nhưng nếu khảo sát vấn đề một
cách cụ thể hơn thì không hắn như vậy.
Các ngôn ngữ Rôman đều nảy sinh từ
tiếng La tỉnh và cùng thuộc một họ lớn về
————-=z——
65
ngôn ngữ: họ Ấn - Âu. Lấy ví dụ tiếng Ý
chẳng hạn. Từ vựng tiếng Ý gốc gác từ
tiếng La t.nh; những đặc điểm hình thái
và cú pháp của tiếng Ý là của tiếng La
tỉnh thông tục. Trong lúc đó thì tiếng
Việt không phải nảy sinh từ tiếng Trung
Quốc. Cấu trúc hai thứ tiếng này rất
khác nhau. Nói một cách khác, giữa tiếng
Hán và tiếng Việt không có quan hệ
“ngôn ngữ mẹ - ngôn ngữ con” như giữa
tiếng La tỉnh và các tiếng Rô man. Đây
chỉ là trường hợp một dân tộc vì chưa có
văn tự riêng đã mượn văn tự của một dân
tộc láng giềng, đồng thời là văn tự được
sử dụng rộng rãi trong toàn khu vực, làm
lợi khí biểu đạt trong hoạt động văn hoá.
Ö Á đông, không phải duy nhất chỉ
có người Việt Nam đã sử dụng chữ Hán.
Người Nhật, người Triều Tiên, từ rất sớm
và trong thời gian nhiều thế kỷ, cũng đã
sử dụng văn tự này. Nếu như chữ Hán,
được du nhập vào Nhật Bản từ trước thời
Nara (701 - 794), chỉ là kết quả của một
quan hệ giao lưu văn hoá bình thường, do
lòng ham thích của học giới Nhật đối với
cổ văn Trung Hoa thì trường hợp chữ
Hán du nhập vào Triều Tiên từ thế kỷ I
trước công nguyên, cũng giống như
trường hợp Việt Nam, đó là hậu quả của
một cuộc chỉnh phục. Cũng giống như
người Việt Nam, người Triều Tiên vẫn
nói tiếng Triều Tiên, nhưng đọc và uiết
chữ Hán.
Trong suốt lịch sử trung đại của
mình, người Việt Nam không nói tiếng
Trung Hoa trong hoạt động giao tiếp
hàng ngày, nhưng trong sinh hoạt văn
hoá thì lại »¿ế? và đọc chữ Hán. Cách đọc
đó, thường được gọi là cách đọc Hán -
Việt, khác rất nhiều với cách phát âm
tiếng Trung Quốc. Theo các nhà nghiên
cứu ngữ âm lịch sử thì cách đọc Hán -
Việt phản ánh cách phát âm tiếng Hán cổ
đời Đường (thế ký VIII) đã bị biến tướng
theo quy luật phát âm của tiếng Việt, sau
hàng chục thế kỷ chữ Hán được sử dụng
ở Việt Nam, tách lìa với tiếng Hán ở
Trung Quốc vẫn tiến triển một cách tự
nhiên theo quy luật phát âm của tiếng
Trung Quốc. Chính với cách phát âm
Hán - Việt mà nhiều từ Hán đã gia nhập
vào kho từ vị của tiếng Việt, làm phong
phú thêm tiếng Việt, nhưng tiếng Việt
vẫn không bị đồng hoá, mà trái lại, vẫn
giữ vững những đặc tính dân tộc về ngữ
pháp và cú pháp cơ bản.
Việc sử dụng chữ Hán trong một thời
gian đài, ngót 10 thế kỷ, đã dẫn đến kết
quả là trong đi sẵn văn học của Việt Nam
có một số lượng khá lớn tác phẩm được
viết bằng chữ Hán và được đọc theo cách
phát âm Hán - Việt. Trong lĩnh vực này,
các nhà sáng tác Việt Nam đã có thể tiếp
nhận kho kinh nghiệm phong phú của
nền văn học cổ điển đồ sộ của Trung
Quốc, từ cẩm hứng, đề tài cho đến phong
cách suy tưởng, việc xây dựng hình tượng
và sử dụng các quy tắc thi pháp. Một
điều đặc biệt là với cách đọc Hán - Việt,
thơ văn cổ Việt Nam vẫn giữ được đầy đủ
tiết tấu và nhạc điệu nhịp nhàng của nó.
Không thể nói là văn học Trung Quốc
không có cống hiến gì tích cực trong việc
hình thành nền văn học chữ Hán của
Việt Nam. Tuy vậy việc sử dựng chữ Hán
trong lĩnh vực sáng tạo văn chương Việt
Nam, cũng không thể nói là một điều
thuận lợi cho sự phát triển tự nhiên của
văn học Việt Nam. Người sáng tác Việt
Nam, trong khi sử dụng văn tự của dân
tộc láng giềng để làm thơ theo luật
Đường, viết truyện theo thể chương hồi...
không phải là dễ dàng, thuận lợi trong
việc phô diễn điệu cảm nghĩ riêng của
dân tộc mình, cũng như trong việc diễn
đạt mọi tình ý tế nhị, tỉnh vi của cá tính
sáng tạo. Và nhất là - điều này còn quan
trọng hơn - các tác phẩm văn học Việt
Nam viết bằng chữ Hán không tìm ngay
NGUYỄN VĂN HOÀN
được sự thông hiểu, đồng cảm của đông
đảo người đọc Việt Nam không đọc được
chữ Hán, một thứ văn tự khó học, mà Ít
nhất phải bỏ ra khoảng 10 năm rèn tập
học hành thì mới có thể đọc được tương
đối trôi chảy. Chúng ta có thể hình dung
rằng khi vị Tổng chỉ huy Trần Hưng Đạo
(2-1300) công bố Hịch tướng sĩ (1285) kêu
gọi quân sĩ quyết tâm đánh thắng quân
xâm lược Nguyên - Mông hùng mạnh VẠ,
hay khi vua Lê Lợi hạ Bình Ngô đại cáo
(1248) tuyên bố nền đại định đã được tái
lập sau 10 năm kháng chiến gian khổ thì
chắc phải có người phiên dịch bình giảng
để quân lính và dân thường có thể hiểu
được. Trái lại, Truyện Kiều của Nguyễn
Du (1765 - 1820), Truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888)
chẳng hạn, một khi được một người nào
đó biết chữ Nôm đọc lên, thì tức khắc mọi
người dân Việt Nam bình thường, tuy
không biết chữ vẫn hiểu và thông cảm
được ngay, vì các tác phẩm đó được viết
bằng ngôn ngữ dân tộc, bằng tiếng Việt.
Hơn thế nữa, người đọc Việt Nam đều có
thể thuộc lòng một phần, hay toàn bộ các
tác phẩm đó, lưu truyền nó bằng miệng
và sử dụng chúng trong các sinh hoạt hội
hè dân ca. Các tác phẩm như Truyền
Kiều, Lục Vân Tiên, Truyện Kiểu, Lục
Vân. Tiên, mặc dầu có bản khắc gỗ, hay
bản chép tay bằng chữ Nôm, trong thời
trung đại vẫn được lưu hành hết sức rộng
rãi trong công chúng bằng hình thức
truyền miệng.
W kưi
Đến đây chúng ta có thể thấy vị trí,
tầm quan trọng của ca dao nói riêng, văn
học dân gian truyền miệng nói chung,
trong tiến trình phát triển của văn học
Việt Nam, một dân tộc mà trong trường
TƯ LIỆU FOLKLORE
67
—==—------= —————ẻ
kỳ lịch sử của mình, thường xuyên phải
đấu tranh chống lại những lực lượng
ngoại xâm mạnh hơn mình rất nhiều lần,
để bảo vệ nền độc lập và văn hoá dân tộc.
Và người ta biết rằng “khi một dân tộc rơi
Uuòèo thân phận nô lệ mà còn bảo lưu được
ngôn ngữ dân tộc của mình thì dân tộc đó
uẫn còn giữ được chiếc chìa bhoá của sự
giải phóng” như Alphonse Daudet đã viết
trong Buổi học cuối cùng của tác phẩm
nổi tiếng “Những chuyện kể của ngày thứ
hai” (1783). Ca dao là sáng tác thơ bằng
ngôn ngữ dân tộc của quần chúng lao
động Việt Nam, và chính quần chúng
cũng là lực lượng tham gia vào việc sáng
tạo, bằng cách sửa chữa, gọt rũa và nhất
là phổ biến, lưu truyền ca dao từ địa
phương này qua địa phương khác, giữ gìn
và bảo tồn ca dao từ thế hệ này qua thế
hệ khác. Chính vì vậy ca dao là tiếng nói
phát ngôn trực tiếp nhất, trung thành
nhất tình cảm, tâm tư, ước nguyện của
quần chúng. Ca dao là nơi rèn rũa, tôi
luyện ngôn ngữ văn học, để chuẩn bị cho
những thành tựu của nền văn học viết.
Có thể xem sự biến chuyển từ ngôn ngữ
văn học của đòng văn học thành văn
bằng chữ Hán, mà đông đảo nhân dân
Việt Nam không hiểu được, đến ngôn ngữ
văn học trong ca dao, trong các tác phẩm
cổ điển bằng tiếng Việt của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du có tính phổ cập toàn dân, là
một biểu hiện hùng hồn của sự phát
triển, sự trưởng thành của ý thức dân tộc
Việt Nam. Cuộc đấu tranh để bảo tên
tiếng Việt, cuộc đấu tranh cho một ngôn
ngữ văn học dễ hiểu đối với quảng đại
quần chúng ở Việt Nam, đã trở thành vấn
đề trung tâm của nhiều thời đại, biểu
hiện cuộc đấu tranh giữa đân tộc - phản.
đân tộc, giữa mới - cũ, được diễn ra dưới
ngọn cờ của lực lượng tiến bộ của các
phong trào giải phóng. Đó là cuộc đấu
tranh có ý nghĩa rất lớn đối với vận mệnh
các dân tộc có số phận không may là rơi
vào ách cai trị của nước ngoài. Trải qua
cuộc đấu tranh đó, mỗi dân tộc sẽ tìm
thấy Dante của mình, người sẽ giành lấy
quyền sống cho ngôn ngữ dân tộc thân
yêu bằng những sáng tác văn học độc
đáo. Đối với văn học Việt Nam, trước khi
có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, thì ca dao
đã đảm nhiệm trước lịch sử, sứ mệnh giữ
gìn và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc. Cø đao là
uiện báo tùng ngôn ngữ của tiếng Việt.
Đứng về phương diện thể loại, thì
đại bộ phận ca đao được viết theo thể lục
bát. Thể thơ này không có trong văn học
Trung Quốc nhưng lại rất phổ biến trong
văn học của dân tộc Việt, dân tộc chủ thể
trong cộng đông dân tộc Việt Nam hiện
nay và trong văn học của một số dân tộc
ít người sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam, như dân tộc Mường, dân tộc Thái,
dân tộc Chăm. Nhìn rộng ra ngoài đất
nước Việt Nam thì còn có thể nhận thấy
thể lục bát là thể thơ chung của nhiều
đân tộc ở Đông Nam Á như Indonesia,
Mã Lai...
Nảy sinh từ trong dòng văn học dân
gian, thể lục bát đã được sử dụng trong
các truyện thơ của dòng văn học viết của
Việt Nam như: Truyện Kiều của Nguyễn
Du, Lực Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu. Trong dòng thơ Việt Nam biện
đại, thể lục bát được sử dụng rộng rãi, với
hình thức cổ điển của nó, hoặc với ít
nhiều sáng tạo đổi mới.
Với nội dung phát ngôn tình cảm,
nguyện vọng của quần chúng, với việc sử
dụng ngôn ngữ dân tộc và thể thơ dân tộc
lục bát, ca đao là bộ phận văn học có tính
dân tộc sâu sắc, biểu hiện nỗ lực kiên trì
của dân tộc Việt Nam trải qua quá trình
lịch sử lâu dài phấn đấu xây dựng một
nền văn học dân tộc độc đáo, thoát ly mọi
ảnh hưởng lệ thuộc văn học nước ngoài.
Trong sinh hoạt văn hoá hiện nay ở
Việt Nam, ca dao vẫn tiếp tục sống, vẫn
68
hiện diện trong chuyện trò, lời ăn tiếng
nói hàng ngày của nhân dân Việt Nam
như một sản phẩm văn chương không bị
thời gian đào thải. Trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua,
những người dân công tải gạo, tải đạn ra
tiền tuyến, những chiến sĩ “hò béo pháo”,
những dân quân “zực chiến” chờ bắn
máy bay siêu âm của Mỹ... đều tiếp tục
sáng tác ca dao.
Ca dao có khi còn xuất hiện cả trong
các diễn từ, các lời kêu gọi của lãnh tụ.
Đầu năm 1965, những đơn vị lính thuỷ
đánh bộ Mỹ đầu tiên, hùng hùng hổ hổ,
đổ bộ vào cửa biển Đà Nẵng, nơi mà trước
đó một thế ký, lính thuỷ Pháp cũng đã
từng đổ bộ để mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam. Mùa thu năm đó,
trận đấu diễn ra đẫm máu tại một làng
nhỏ ven biển ở phía Nam Đà Nẵng, mà
tên làng sẽ trở nên nổi tiếng thế giới: Vạn
Tường. Đến đầu năm 1969, ba tháng sau
khi Nixon trở thành Tổng thống Mỹ, số
quân Mỹ ở Việt Nam lên tới mức cao
nhất: trên nửa triệu người! Dư luận thế
giới hướng về Việt Nam, lòng đây lo ngại.
Vì so với Mỹ, điển hình của sự giàu có và
phát triển cao nhất về khoa học kỹ thuật
thì Việt Nam là một nước nhỏ, điển hình
cho sự nghèo nàn về kinh tế và lạc hậu về
khoa học kỹ thuật. Cuộc đấu thật không
ngang sức! Một luật gia Ấn Độ nói: Đó là
“cuộc chiến tranh giữa một con ruồi uà
một con uoi”. Báo chí phương Tây thì ví
với cuộc đấu giữa chú bé Dauid uà người
khổng lô Goliath. Trong lúc đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh lại dùng một hình tượng
quen thuộc của ca dao cổ Việt Nam, mà
Người cũng đã từng dùng trước đó, khi
nói về cuộc kháng chiến chống Pháp.
Con sắt đập ngã ông Đùng,
Đắp mười chiếc chiếu hông cùng bàn tay!
Các nhà nghiên cứu còn có ý kiến
khác nhau về điểm giải thích “con sắt
NGUYÊN VĂN HOÀN
đích xác là con gì, nhưng đều nhất trí đây
là một con vật cực kỳ bé nhỏ, còn “ông
Đùng” thuộc hàng những nhân vật khổng
lồ của thần thoại Việt Nam, từng tham
gia vào công trình “gạo thiên lập địd”,
như một bài ca dao cổ đã kể:
Nhất ông đếm cát,
Nhì ông tát bế,
Ba ông kể sao,
Bốn ông đào sông,
Năm ông trồng cây,
Sáu ông xây rú,
Bảy ông trụ Trời...
Nói đến cuộc kháng chiến hiện tại
của dân tộc mình, có khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại nhắc đến một câu ca dao cổ
khác:
Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!
Và Người đã “cải biên” lại chút ít câu
ca dao đó cho phù hợp với ý mình muốn
nói:
Nay tuy châu chấu đó uoi,
Nhưng mai 0oi sẽ bị lòi ruột ra.
Một nhà báo Pháp đã dựa theo ý này
để đặt tên cho tác phẩm của mình: Việi
Nam: bộ dạ dày", Nhưng phải chăng
người nước ngoài cũng khó cảm nhận cho
thật đầy đủ, thật sâu sắc, thấm thía cái
âm vang tâm lý mà câu ca dao cổ ấy, vốn
được truyền miệng từ thế hệ này qua thế
hệ khác, đã để lại trong tâm hồn mỗi
người Việt, nhất là khi chúng được dẫn
lại miệng một người đứng đầu Nhà nước,
trước một tình huống thử thách nghiêm
trọng của vận mệnh đất nước. Không
phải chỉ một cái ý so sánh đơn giản - một
con vật nhỏ bé đánh thắng một ông
khổng lồ - do lời của văn bản đem lại, hay
như một =ự kiện liên tưởng tâm lý, mà
TƯ LIỆU FOLKLORE
69
—==——=========—ễẦễEEEEE—TE
ngay cả cái tập quán vận dụng lời xưa để
giải thích chuyện nay, lấy những lời lẽ
quen thuộc, đơn giản để giải thích những
chuyện phức tạp và phong thái điềm tĩnh
dị thường của người lãnh tụ..., tất cả
những nhân tố đó đã tạo nên một không
gian xã hội mới, trong đó câu ca dao cổ
được sống lại, cũng đã góp phần tạo nên
cái âm vang sâu sắc, thấm thía trong tâm
hồn người nghe.
Trong khối lượng đồ sộ, nội dung
phong phú và đa dạng của ca dao Việt
Nam, chúng tôi đã tuyển chọn khoảng
gần 4000 bài nói về tình yêu, hôn nhân
và gia đình để dịch sang tiếng Ý. Đây
cũng là một bộ phận rất đáng chú ý của
ca đao.
Trong xã hội phong kiến xưa kia,
phụ nữ là người chịu nhiều sự áp bức bất
công nhất của xã hội. Kế từ khi còn là
con gái, với thân phận bấp bênh “thân em
như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết
Đào tay di” trải qua yêu đương, thương
nhớ, sầu muộn, rồi những bước đường đời
trắc trở, gian truân, bất bình đăng, làm
đâu, làm vợ, hạnh phúc gia đình có thể
không êm đẹp, hoặc rồi chẳng may goá
chồng, thủ tiết nuôi con v.v..., hạnh phúc
người phụ nữ luôn luôn bị thử thách qua
nhiều bước đường đời gập nghềnh. Bạn
đọc Italia, nhất là phụ nữ Italia, chắc
chắn sẽ thông cảm một cách sâu sắc với
thân phận của người phụ nữ Việt Nam
trong ca dao. Vì tình cảnh cụ thể có thể
khác nhau, nhưng niềm đau khổ thì vẫn
là một.
Tuy vậy người phụ nữ Việt Nam
trong ca dao không hề chịu lép một bể,
nhẫn nhục chịu đựng mọi thiệt thòi, bất
công giáng xuống đầu mình, mà đã mạnh
dạn đứng lên bảo vệ quyền sống, quyền
được hưởng hạnh phúc chính đáng của
mình. Bạn đọc có thể tìm thấy ở đây cả
những bài ca dao trào phúng châm biếm,
thể hiện một thái độ phản kháng kiên
quyết, bất chấp mọi điều răn đe, cấm ky
của Nho giáo. Cái khuynh hướng này của
ca dao cũng nằm trong một truyền thống
nổi bật của văn học Việt Nam; dùng cái
cười để đả kích mọi cái xấu xa, đê tiện và
đạo đức giả trong xã hội. Đó cũng là điểm
tâm đắc gặp gỡ khiến bạn đọc Việt Nam
đón nhận một cách nồng nhiệt, vui vẻ
bản dịch Mười ngày của Boccace.
Tôi không dám nói dài hơn trong
lĩnh vực thưởng thức văn chương cũng
như giới thiệu những khó khăn của công
việc dịch thuật. Bằng cách trực tiếp đọc
bản dịch, các bạn đọc Ý sẽ tự mình
thưởng thức và phẩm bình hương sắc của
bó hoa đồng nội Việt Nam, sẽ tự mình
thẩm định khả năng và những khó khăn
của người dịch. Tôi tin rằng điều vui
sướng chung của tất cả chúng ta là nỗ lực
này sẽ góp phần thắt chặt hơn nữa sự
hiểu biết và tình thông cảm hữu nghị
giữa hai dân tộc Việt Nam - Italia.
N.V.H
(1) Nguyễn du, Thơ chữ Hán, Nxb Văn
học, 1965, tr. 147.
(2) Giannl Toti, Lời giới thiệu bản dịch
Kim Vân Kiều, do Jole Tognelli dịch sang
tiếng Y, Nxb Officina, Roma, 1968.
(3) Ở Việt Nam hoa cúc thường nở
muộn về mùa thu.
(4) Quân Mông Cổ đã đánh Việt Nam
ba lần, vào các năm 1258, 128ã và 1287.
(5) Alain Wasmes, Viefnam: la pequ
đụ pachyderme, Paris, Nxb Xã hội, 1976.