LUẬN VĂN:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của
vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta
Mở đầu
I- Tính cấp bách của đề tài:
Công nghiệp hoá không phải một chủ trương mới của Đảng ngay từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960). Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá
nhiệm vụ trung m của thời quá độ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công
nghiệp, hẳn trước đây do nhiều nguyên nhân chủ quan có, khách quan trong
đó nổi lên do chủ quan, nóng vội, dập khuôn máy móc chúng ta đã mắc một s
sai lầm, khuyết điểm Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI VII đã chỉ rõ. Tại
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986). Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội Việt
Nam. Trong đó công nghiệp hoá hiện đại hoá được coi là một mục quan trọng để
xây dựng tiền đề vật chất cho hội mới, hội chủ nghĩa. Trải qua 12 năm đổi
mới, nước ta đã thu được những thành tựu ban đầu vtất cả mọi mặt kinh tế, chính
trị, hội bước đầu đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái. Điều này
chứng tỏ chủ trương của Đảng ta là đúng đắn.
Nước ta phải chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh dành lại độc lập
nên nền kinh tế lớn tàn phá. Do tàn dư của chế độ cũ, những sai lầm trước đây để lại
cho nên nước ta vẫn còn nghèo lạc hậu thuộc loại thấp nhất thế giới. Chúng ta tiến
lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ bản chủ nghĩa cho nên thiếu cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại. Mặt khác theo thuyết của kinh tế chính trị, mỗi phương thức
sản xuất hội đều dựa trên một sở vật chất, kỹ thuật tương ứng do đó chúng ta
cần tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đối với nước phát triển đã hoàn thành cách mng kỹ thuật lần
Thế giới đã tiến hành song cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất chuyển từ lao
động thủ công lên cơ giới. Ngày nay thế giới đang tiến hành cách mạng kỹ thuật lần
thứ hai. Các nước phát triển đã tiến hành xong công nghiệp hoá từ lâu. Chúng ta
một số nước đang phát triển khác trên thế giới phải tiến hành công nghiệp hoá kết
hợp với hiện đại hoá nếu không sẽ ngày càng bị bỏ xa. Nước ta giờ vẫn mang nặng
nước nông nghiệp lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng do đó chậm vậy cần công
nghiệp hoá nông thôn. Như vậy tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta
đặt ra như là một nhiệm vụ có tính chất thời đại.
II- Mục đích, nhim vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Mục đích của đề cương làm sở luận thực tiễn của vấn đề công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta nhằm những giải pháp, những hướng
đi thích hợp, đáp ng những đòi hỏi của qtrình đi lên chủ nghĩa hội
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Để thực hiện mục tiêu trên, đề án nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu một số vấn đề lí luận về nội dung, bản chất chung của công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Hai là, phân tích, tổng hợp, tìm kiếm những khó khăn ng như những thuận
lợi khi tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Ba là, hiện trạng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta thông
qua “5 hoá”.
Bốn là, các giải pháp, hướng đi bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay.
Bằng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng H
Chí Minh những thành tựu của khoa học hội, đồng thời coi trọng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê để m rõ nội dung nghiên
cứu của đề án, đưa ra những kiến nghị về phương hướng giải pháp đổi mới
hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hợp với điều kiện thực
tế của nước ta.
Chương I
Công nghiệp hoá hiện đại hoá
những vấn đề về quan điểm
I- Quan điểm về công nghiệp hoá hiện đại hoá:
1. Mt số quan điểm về công nghiệp hoá ở một s nước trên thế giới:
Thực tiễn lịch sử đã chỉ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế hội,
khai thác tối ưu các nguồn lực lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn
định, mỗi nước phải xác định cấu kinh tế hợp lý, trang bị kĩ thuật ngày càng hiện
đại cho các ngành kinh tế. các nước đang phát triển quá trình ấy gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá. Trong thực tiễn đến nay vẫn còn tồn tài nhiều quan điểm
khác nhau về phạm trù “công nghiệp hoá”.
Quan điểm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng “công nghiệp hoá là
đưa đặc tính công nghiệp cho mt hoạt động: Trang bị (cho một vùng, một nước)
các nhà máy, các ngành công nghiệp ...”. Quan điểm mang tính “triệt tự” này được
hình thành trên sở khái quát quá trình công nghiệp hoá các nước Tây Âu
Bắc Mỹ. Trong quá trình dài thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chủ yếu tập
trung vào phát triển các ngành ng nghiệp, schuyển biến của các hoạt động kinh
tế - hội khác chỉ một hệ quả của quá trình công nghiệp hoá chứ không phải
đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan điểm đơn giản này những mặt
chưa hợp cũng như chỉ được sdụng rất hạn chế trong thực tiễn. như vậy
bởi vì quan điểm này không thấy mục tiêu của quá trình thực hiện, đồng nhất
quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghệ và đồng thời cũng
không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
Ngoài ra trong sách báo Liên (trước đây) tồn tại một định nghĩa phổ biến
cho rằng “công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí khả
năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung
tâm chế tạo máy”. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn: khi công nghiệp hoá đã
phát triển đến một trình độ nhất định thì bị đế quốc bao vây, nội chiến thì th
trường trong nước nền tảng cho phát triển kinh tế. Hơn nữa quan điểm này chỉ
được cho là hợp trong điều kiện Liên Xô thời kì đó. Nhưng sẽ là sai nếu coi đó là
quan điểm phổ biến để áp dụng cho tất cả các nước trong điều kiện hiện nay.
2. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta:
Việt Nam đang hướng tới một nền kinh tế thị trường theo hướng hội chủ
nghĩa, sự quản của nhà nước với mục tiêu đảm bảo cho dân giàu nước
mạnh, hội công bằng, văn minh, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi
trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu
quả kinh tế hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên scông nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nước
ta thành nước công nghiệp có sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Dựa vào
nguồn lực trong nước chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất
hiệu quả. Khoa học công nghệ động lực của công nghiệp hoá. Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam là nhân tố quyết định cho
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
II- Thực chất, nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Thực chất của nền công nghiệp hoá sự phát triển công nghệ, quá trình
chuyển nền sản xuất hội công nghiệp, ng nghiệp, dịch vụ ttrình độ công
nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích