Lời nói đầu
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là đòi hỏi tất yếu của các quốc gia đang
phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay nhưng phát
triển một nền nông nghiệp vững mạnh và ổn định là không thể thiếu được. Nước
Việt Nam chúng ta có truyền thống về nông nghiệp thì để tiến hành công nghiệp hoá
- hiện đại hoá chỉ thu được thành công khi chúng ta đã đảm bảo an toàn về lương
thực thực phẩm- tức có ngành nông nghiệp phát triển.
Như vậy đối với một tỉnh nông nghiệp như Hà Tây, bên cạnh việc chú ý phát triển
các ngành công nghiệp và dịch vụ , phát triển nông nghiệp vẫn là ưu tiên số một
trong quá trình phát kinh tế xã hội của mình. Do vậy đầu tư sẽ là nhân tố cực kì quan
trọng tạo nên sự phát triển mạnh ngành nông nghiệp . Vì thế ,có thể nói trong thời
gian vừa qua ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây nhờ có sự đầu tư mạnh mẽ của nhà
nước ,của toàn tỉnh nên có sự phát triển vượt bậc. Bởi vì đầu tư không những tạo ra
cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp mà còn giúp nông nghiệp có những giống
mới ,những phương tiện sản xuất mới tiên tiến và các phương thức sản xuât mới.
Nghiên cứu về đầu tư và tìm ra những giải pháp để thu hút vốn đầu tư ,nâng cao
hiệu quả đầu tư là một trong những vấn đề trọng tâm của tỉnh Hà Tây và luôn được
quan tâm chú ý. Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình đầu tư nông nghiệp Hà Tây trong
giai đoạn 1996 -2000,về những phương hướng và giải pháp cho đầu tư trong thời
gian tới, cũng như muốn đóng góp một phần vào công cuộc đầu tư ngành nông
nghiệp ; tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:
"Đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây”
Nội dung chính gồm các phần chủ yếu sau :
Chương I. Những vấn đề lí luận chung
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây
ChươngIII. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
Do trình độ còn hạn chế cũng như tài liệu thu thập còn chưa đầy đủ nên trong quá
trình viết bài sẽ không tránh khỏi những thiếu xót hạn chế . Tôi mong nhận được sự
góp ý của thầy cô cũng như bạn đọc để giúp tôi hoàn thiện hơn nữa
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo : Nguyễn Thị Thu Hà đã tận tình giúp đỡ
trong quá trình hoàn thiện đề tài
Cháu cũng xin chân thành cảm ơn các bác ,các cô chú và các anh chị phòng Thẩm
định- Xây dựng cơ bản và phòng Tổng hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây đã
cung cấp tài liệu và tận tình hướng dẫn.
Sinh viên thực hiện: Trương Bá Hiển
Chương I. Những vấn đề về lí luận chung
I. Bản chất và vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
1. Các khái niệm.
*Khái niệm chung về đầu tư
+Xét trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu
được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai
+Xét trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ
đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Khái niệm trình bày ở trên về đầu tư được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau, do
vậy rất khó cho việc nghiên cứu và hiểu chính xác về nó . Chính vì vậy, các nhà kinh
tế đã đưa ra khái niệm trung nhất về đầu tư.
Đầu tư : là sự bỏ vốn ra cùng với các nguồn lực khác( như tiền của, sức lao động,
trí tuệ...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra hay khai thác
sử dụng một tài sản nào đó ngằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
*Khái niệm đầu tư phát triển:
Trong đầu tư thì người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau:
+ Đầu tư thương mại
+Đầu tư tài chính
+Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến hành các
hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuấ kinh
doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng
cao đời sống của người dân trong xã hội.
*Khái niệm vốn đầu tư.
Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây chính là
yếu tố quyết định tính chất qui mô của dự án.
+ Dưới hình thái tiền tệ : Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội ,của các cơ
sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ; là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn
khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì các tiềm
lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nền kinh tế.
+ Dưới hình thái vật chất : Vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà
xưởng ,các công trình hạ tầng cơ sở, các loại nguyên liệu ,vật liệu,các sản phẩm trung
gian khác...
Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư.Trong nền
kinh tế phát triển , vai trò của vốn đầu tư là tối quan trọng, nó góp phần tạo sự phát
triển mạnh cho nền kinh tế
*Khái niệm hoạt động đầu tư :là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản
xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài sản
phục vụ cho quá trình sản xuất.
2.Phân loại hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể được phân chia theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc
vào mục đích của người nghiên cứu và các nhà quản lí đầu tư. Sau đây là một số cách
phân loại chính:
Theo đối tượng đầu tư :
+ Đầu tư vật chất ( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng ,máy móc
thiết bị...)
+ Đầu tư tài chính :
Theo cơ cấu sản xuất :
+ Đầu tư chiều rộng: nhằm mở rộng sản xuất ,đòi hỏi lượng vốn lớn có tính chất kĩ
thuât phức tạp trong thời gian dài
+ Đầu tư chiều sâu : nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, lượng vốn không
lớn và tính chất kĩ thuật không phức tạp, và thời gian không dài...
Theo phân cấp quản lí
+ Dự án nhómA do thủ tướng quản lí
+Dự án nhóm B,C do bộ ,cơ quan ngang bộ hoặc UBND các tỉnh, thành phố quản lí
Theo nguồn vốn huy động
+ Vốn huy động trong nước
+Vốn huy động từ nước ngoài.
Theo thời gian :
+ Đầu tư ngắn hạn
+ Đầu tư trung hạn
+ Đầu tư dài hạn
Theo vùng lãnh thổ: phản ánh tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng tỉnh
Ngoài các hình thức phân loại trên , còn có các hình thức phân loại khác mà
không được nêu trong bài này. Do vậy tuỳ theo mục đích mà người ta có thể lựa chọn
sử dụng từng cách phân loại cho phù hợp.
3.Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế
Từ trước tới nay khi nói về đầu tư, không một nhà kinh tế học nào và
không một lí thuyết kinh tế nào lại không nói đến vai trò to lớn của đầu tư đối với
nền kinh tế . Có thể nói rằng đầu tư là cốt lõi là động lực cho sự tăng truởng và phát
triển nền kinh tế
3.1 Tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư tác động mạnh tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Mức độ tác
động cũng như thời gian ảnh hưởng là khác nhau.
Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố cực kì quan trọng cấu thành tổng cầu. Bởi
vì , đầu tư một mặt tạo ra các sản phẩm mới cho nền kinh tế mặt khác nó lại tiêu thụ
và sử dụng một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong quá trình thực hiện đầu tư.
Do vậy, xét về mặt ngắn hạn đầu tư tác động trực tiếp tới tổng cầu theo một tỉ lệ
thuận- Mỗi sự thay đổi của đầu tư đều ảnh hưởng tới ổn định của tổng cầu nền kinh
tế.
Đối với tổng cung: Ta biết rằng,tiến hành một công cuộc đầu tư đòi hỏi một
nguồn lực, một khối lượng vốn lớn , thành quả (hay các sản phẩm và dịch vụ mới của
nền kinh tế) của các công cuộc đầu tư đòi hỏi một thời gian khá dài mới có thể phát
huy tác dụng . Do vậy, khi các thành quả này phát huy tác dụng làm cho sản lượng
của nền kinh tế tăng lên. Như vậy , đầu tư có tính chất lâu dài và nó sẽ làm cho
đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tăng lên .
Qua sự phân tích trên ta thầy rằng , đầu tư ảnh hưởng mạnh tới cả tổng cung và
tổng cầu. Bởi vì, xét về mặt cầu thì đầu tư tiêu thụ một khối lượng lớn hàng hoá và
dịch vụ cho nền kinh tế nhưng đứng về mặt cung thì nó làm cho sản xuất gia tăng,
giả cả giảm, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập từ đó kích thích tiêu dùng.
Mà sản xuất phát triển chính là nguồn gốc của phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện
để cải thiện đời sống con người.Như vậy đầu tư là nhân tố cho sự tăng trưởng và
phát triển một nền kinh tế.
3.2 ảnh hưởng hai mặt tới sự ổn định nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về đầu tư ai cũng hiểu rằng đầu tư luôn có một độ trễ nhất định, tức
là "đầu tư hôm nay , thành quả mai sau”. Ngoài ra do đầu tư có ảnh hưởng tới tổng
cung và tổng cầu của nền kinh tế không ăn khớp về thời gian do vậy nó có thể phá vỡ
sự ổn định của một nền kinh tế.Nếu đầu tư tốt nó có thể giúp cho nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển . Ví dụ như các nước NICs, do có đầu tư hiệu quả nên từ những
nước còn nghèo đã trở thành những nước công nghiệp với nền kinh tế công nghiệp
tương đối phát triển.
Giả sử bây giờ ta tăng đầu tư trong nước, khi đó làm cho nhu cầu tiêu thụ hàng
hoá và dịch vụ liên quan đến công cuộc đầu tư như máy móc , thiết bị sức lao động,
nguyên vật liệu... tăng theo . Điều đó làm cho tổng cầu của nền kinh tế của những
loại hàng hoá này tăng lên, theo qui luật cung cầu của kinh tế dẫn đến giả cả của
những hàng hoá này cũng tăng lên một cách mạnh mẽ, và đến một mức độ nào đó có
thì dẫn tới lạm phát ,với tỷ lệ có thể là rất cao. Khi lạm phát xảy ra, giá cả tăng vọt,
dẫn đến các chi phí đầu vào cho sản xuất tăng lên dấn đến sản xuất bị đình trệ, và
người lao động thất nghiệp , nền kinh tế bị giảm thu nhập và đời sống của các tầng
lớp dân cư bị gảm sút. Tất cả những điều đó làm cho nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng trì trệ và làm giảm tốc độ phát triển. Tuy nhiên nếu các quốc gia điều tiết đầu
tư thì không những khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực mà còn làm cho nó trở
thành động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế .
Ta thấy rõ rằng đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu và tác động đến
sự ổn định của nền kinh tế . Như vậy, sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế sẽ
chịu ảnh hưởng rất lớn của đầu tư .
Để xem xét cụ thể ta có thể sử dụng hàm Harrod- Domar để minh hoạ mối quan
hệ giữa tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư
Như vậy, nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP hoàn toàn phụ thuộc
vào vốn đầu tư hay nói cách khác đầu tư quyết định sự tăng truởng của nền kinh tế.
Đối với mỗi quốc gia khác nhau ICOR cũng khác nhau ,nó tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ chế chính sách của nhà nước .Đối với các
nước đang phát triển có ICOR thấp còn các nước phát triển ngược lại . Đồng thời chỉ
số ICOR của nhiều ngành kinh tế là khác nhau , trong đó ICOR trong nông nghiệp
thường là rất thấp tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp cũng không cao.
Ngoài ra đầu tư còn làm tăng năng suất lao động,chất lượng sản phẩm ,năng lực
sản xuất do vậy thay đổi tốc độ phát triển kinh tế . Vì vậy đối với mỗi quốc gia cần
có một chính sách thích hợp để huy động vốn và đầu tư có hiệu quả nhằm nâng cao
tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nước mình .
3.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp -dịch
vụ -nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ cao trong GDP của
nước đó . Bởi vì nông nghiệp do nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên và khả năng
sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng trưởng tối đa từ 5-6% .Do vậy
khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao , nó có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước đó lên cao 9-10% năm . Muốn vậy chúng ta phải chính sách đầu tư
thoả đáng .Mỗi nước cần tăng cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịch vụ và có
nhiều chính sách phát huy hiệu quả của đầu tư có vậy thì mới có công nghiệp và dịch
vụ phát triển .
Trong nông nghiệp ta cũng nên đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi chăn nuôi
thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trồng trọt .
Còn đối với cơ cấu vùng lãnh thổ một quốc gia phát triển thường có cơ cấu kinh
tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước .Do vậy bên cạnh việc
đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và các vùng đồng bằng chúng ta cũng cần có
chính sách để đầu tư phát triển kinh tế các vùng núi và nông thôn để vừa phát triển
kinh tế xã hội vừa tạo sự cân bằng ổn định trong nước.
3.5. Đầu tư góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ :
Ta biết rằng khoa học công nghệ là trung tâm của đời sống kinh tế xã hội hiện
đại. Một đất nước, một quốc gia chỉ phát triển được khi có khoa học công nghệ tiên
tiến và hiện đại. ở các nước phát triển, họ có mức đầu tư lớn, có quá trình phát triển
lâu dài nên trình độ khoa học công nghệ của họ hơn hẳn các nước khác trên thế giới.
Khi họ áp dụng các thành tựu này làm cho nền kinh tế có mức độ tăng trưởng mạnh
mẽ, đời sống nhân dân nâng cao. Còn đối với các nước đang phát triển, do công nghệ
nghèo làn, lạc hậu lại không có điều kiện để nghiên cứu phát triển khoa học kĩ thuật
nền kinh tế phát triển rất thấp, sản xuất kém phát triển và bị phụ thuộc vào các nước
công nghiệp . Muốn thoát khỏi tình trạng này thì các nước phải tăng cường đầu tư và
tìm cách thu hút đầu tư từ bên ngoài vào trong nền kinh tế. Đầu tư ở đây được hiểu là
các nước này thu hút công nghệ hiện đại bên ngoài phù hợp đồng thời tổ chức nghiên
cứu để phát minh ra các công nghệ mới hiện đại hơn. Quá trình công nghiệp hoá
hiện đại của các nước này có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu
tư phát triển khoa học công nghệ.Có thể khẳng định rằng đầu tư khoa học công nghệ
là một chính sách cực kì quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài các vai trò chính yếu trên,đầu tư còn có một vài vai trò khác như làm tăng
ngân sách cho chính phủ, góp phần làm ổn định đất nước, mở rộng ảnh hưởng của
quốc gia...
Qua việc phân tích trên ta có thể khẳng định rằng đầu tư là chìa khoá cho sự phát
triển của mỗi quốc gia và cho toàn thế giới.
4.Quản lí đầu tư.
Đây là hoạt động có ảnh hưởng rất mạnh tới kết quả và hiệu quả đầu tư của một đất
nước nói chung, của một ngành kinh tế nói riêng
4.1 Khái niệm
Quản lí đầu tư chính là sự tác động liên tục , có tổ chức, có định hướng quá
trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả
đầu tư cho đến khi thanh lí tài sản do đầu tư tạo ra ) bằng một hệ thống đồng bộ các
biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kĩ thuật cùng các biện pháp khác nhằm đạt được
hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiên cụ thể và trên cơ sở vận dụng sáng
tạo những qui luật kinh tế.
4.2 Mục tiêu của quản lí đầu tư : được xem xét dưới hai góc độ
Vĩ mô:
+ Đáp úng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển ngành trong
từng thời kì nhất định
+ Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước
+ Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các công trình theo đúng qui hoạch,
kiến trúc định ra
Vi mô
Đó là việc đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất
trong một giai đoạn nhất định. Mục tiêu này được cụ thể trong từng giai đoạn của quá
trình đầu tư . Mục tiêu này ở các cơ sở, nếu thực hiện tốt sẽ làm cho các công cuộc
đầu tư của nó đạt kết quả cao và thúc đẩy cơ sở đó đi lên
4.3 Các nguyên tắc
Thống nhất giữa lãnh đạo chính trị, kinh tế; kết hợp hài hoà giữa hai mặt kinh tế và
xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi ngành kinh tế vừa phải phát triển nhưng mặt khác nó
phải theo định hướng chung của Đảng và nhà nước và tạo công ăn việc làm , tăng thu
nhập cho người lao động
Tập trung dân chủ:Đòi hỏi mỗi ngành kinh tế phải được đạt dưới một sự lãnh đạo
thống nhất của nhà nước nhưng những ddịnh hướng , chiến lược chúng phải nhận
được sự đóng góp của cấp dưới. Bên cạnh hướng phát triển chung thì mỗi ngành kinh
tế ở mỗi địa phương có thể tuỳ theo đặc điểm của mình mà có những chính sách phát
triển phù hợp
Quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo địa phương , vùng lãnh thổ.
Đòi hỏi tại mỗi địa phương , từng ngành phải phát triển trong tổng thể chung của địa
phương đó, dảm bảo sự phát triển toàn diện các ngành kinh tế ở địa phương.
Kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích : nó đòi hỏi mỗi công cuộc đầu tư không chỉ
đáp ứng đơn thuần là lợi ích tài chính mà còn phải đáp ứng cả lợi ích xã hôi, lợi ích
cộng đồng.
Tiết kiệm và hiệu quả: đòi hỏi một ngành với vốn đầu tư nhất định, ít các chi phí mà
thu được hiệu quả cac nhất
Phải đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng
Quản lí hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự thanh công của các công
cuộc đầu tư ở mỗi ngành, mỗi địa phương và trên cả đất nước.
5. Kế hoạch hoá đầu tư :
Nó vừa là nội dung, vừa là một công cụ để quản lí hoạt động đầu tư. Công tác kế
hoạch hoá đầu tư có tính chất hướng dẫn ,địn hướng cho việc thực hiện đầu tư sau đó.
5.1 Các nguyên tắc
+ Kế hoạch đầu tư của ngành phải xuất phát từ yêu cầu chung của đường lối phát
triển ngành đó, của cả nền kinh tế và nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
+ Phải đảm bảo qui luật khách quan, khoa học và tính hiện thực của các phương án.
+ Kết hợp tốt về các mặt trong ngành kinh tế đó: tạo điều kiện khai thác hết các tiềm
năng của ngành, để nó phát triển toàn diện hơn
+Kế hoạch hoá ở cấp cao sẽ mang tính định hướng, kế hoạch ở các địa phương sẽ cụ
thể hoá , thực hiện đường lối đó: Điều này sẽ bảo đảm kế hoạch được thực hiện thống
nhất từ trên xuống và không bị chồng chéo
+ Phải có độ tin cậy cao va tối ưu
5.2 .Trình tự lập kế hoạch đầu tư:
Kế hoạch đầu tư ở đây được lập chủ yếu cho ngân sách nhà nước đầu tư vào ngành
kinh tế; theo trình tự sau
-Xác định nhu cầu về chủng loại và khối lượng sản phẩm . dịch vụ cho sản xuất và
tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà ngành kinh tế phải đảm nhiệm
- Xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của với các điều kiện hiện có ở đầu kì kế
hoạch để xem khả năng của ngành đó ra sao
- Xác định các năng lực và dịch vụ mới cần tăng thêm trong kì
- Tiến hành lập kế họch đầu tư để đáp ứng năng lực mới tăng thêm cho kì kế hoạch
thông qua các dự án đầu tư. Việc lập kế hoạch đầu tư theo dự án lại được tiến hành
theo các bước sau đây:
+ Kế hoạch cho điều tra, khảo sát
+ Kế hoạch chuẩn bị đầu tư
+ Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư
+ Kế hoạch thực hiện dự án.
5.3 Các điều kiện được ghi dự án vào kế hoạch đầu tư:
+ Phải nằm trong qui hoạch ngành
+ phải có quyết định đầu tư ( mới được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án)
+ Phải có thiết kế kĩ thuật và tổng dự toán hay thiết kế kĩ thuât và dự toán cho các
giai đoạn đầu tư đối với các công trình lớn.
II. Đầu tư- nhân tố quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp
1. Giới thiệu về nông nghiệp
1.1 Khái niệm.
Con người sinh ra trên đời không thể không ăn mà vẫn có thể tồn tại và phát
triển được,cho nên nhu cầu về lương thực thực phẩm là nhu cầu cấp thiết của loài
người. Muốn có lương thực và thực phẩm phải hình thành và phát triển ngành nông
nghiệp.Do vậy mà nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống loài người. Trong
suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông cũng như phươngTây,nông
nghiệp là một ngành cực kì quan trọng, không một ngành nào có thể sánh được. Ngày
nay, nông nghiệp không còn có được vị trí như trước nữa và cũng là ngành có trình
độ phát triển thấp kém hơn so với các ngành khác trong nền kinh tế vì vậy phát triển
nền nông nghiệp mạnh vẫn là đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm nông - lâm- ngư nghiệp, phát
triển nông nghiệp cũng có nghĩa là phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Ngoài ra phát
triển nông nghiệp còn gắn liền với phát triển nông thôn và nâng cao các điều kiện
sinh hoạt ở nông thôn. Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hai
nghành trồng trọt và chăn nuôi.
Việt Nam chúng ta là một nông nghiệp lâu đời với truyền thống hàng nghìn
năm trồng lúa nước .Có thể nói nước ta có nhiều điều kiện về tự nhiên và con người
rất thuân lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh.. Tuy rằng, nông
nghiệp chiếm một vị trí ngày càng thấp kém trong nền kinh tế nhưng trong giai đoạn
này nó vẫn là một ngành kinh tế quan trọng , góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện đời sống nhân dân... Phát triển nông
nghiệp là yêu cầu cấp thiết của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
1.2 Đặc điểm của nông nghiệp nói chung
Từ việc nghiên cứu tình hình thực tế và những kinh nghiệm của người đi trước,
người ta thấy rằng ngành nông nghiệp có một vài đặc điểm sau:
a.Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là một đặc điểm cực kì quan trọng và khác biệt của nông nghiệp. Trong
nông nghiệp, đặt biệt trong trồng trọt thì đất là một yếu tố sản xuất không thể thiếu
được, đất vừa là nơi sản xuất cũng chính là yếu tố quyết định cho sự sinh tồn của cây
trồng , như vậy đất là không thể thiếu cho nông nghiệp. Cùng với các yếu tố khác
như sự chăm sóc của con người, tưới tiêu và thời tiết, chất lượng đất đai có ảnh
hưởng mạnh tới năng suất chất lượng sản phẩm nông nghiệp và thành quả lao động
của người nông dân, Vì thế , muốn nông nhgiệp đạt kết quả cao thì phải có những
biện pháp tác động và đất đai.Tuy nhiên đất là do tự nhiên tạo ra cho nên ta không
thể thay đổi hoàn toàn những điều kiện của đất. Do đặc điểm này mà mức độ tác
động của con người trong sản xuất nông nghiệp là rất hạn chế, mức độ áp dụng tiến
bộ khoa học cũng không thật nhiều nên nông nghiệp là ngành có tốc độ phát triển
không cao và nhanh như các ngành kinh tế khác.Tuy vậy, đối với một số lĩnh vực
chăn nuôi đất đai cũng chỉ là mặt bằng để tiến hành sản xuất như các ngành kinh tế
khác và nó không chịu nhiều ảnh hưởng của đất.
b.Đối tượng sản suất là những cơ thể sống
Một đặc điểm khác nữa của nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác là đối
với các ngành này thì đối tượng sản xuất là những sản phẩm hàng hoá còn đối tượng
sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống , đó là nhưng cây trồng vật nuôi có sẵn
trong tự nhiên được con người đem về thuần dưỡng. Những đối tượng này thường có
những qui luật tăng trưởng và phát triển nhất định, mặc dù đã được con người thay
đổi ít nhiều, chúng cũng chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của các điều kiện tự nhiên và
cũng không thể tăng trưởng quá mức cho phép của qui luật tự nhiên. Vì những đặc
trưng trên mà ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với các ngành
kinh tế khác. Tuy nhiên ,tốc độ tăng trưởng nông nghiệp có thể đạt cao hơn nếu con
người tác động vào các cơ thể sống này thông qua việc phát triển công nghiệp sinh
học để tạo ra những giống cât trồng mới với năng suất và chất lượng sản phẩm cao
hơn. Chúng ta cũng cần tìm hiểu các qui luật phát triển của các đối tượng sống này
để tìm ra các biện pháp chăm sóc kịp thời và có các loại phân bón tốt nhất vào các
thời điểm cụ thể.
c.Nông nghiệp là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng mạnh của các điều kiện tự nhiên.
Do vậy mỗi sự thay đổi nhỏ của tự nhiên đều ảnh hưởng tới nông nghiệp; đối với
các ngành kinh tế khác, thì mức độ phụ thuộc này là không lớn; như công nghiệp,thì
dù trời có đổ mưa hay có gió lớn thì người ta vẫn tiến hành sản xuất bình thường và
sự thay dổi trong kế hoạch sản xuất là không đáng kể. Nhưng đối với ngành nông
nghiệp thì khác hẳn, mọi sự thay đổi đều có ảnh hưởng, như đất tốt hay xấu đều ảnh
hưởng tới năng suất chất lượng sản phẩm. Nếu thời tiết tốt, phù hợp với yêu cầu ,
chúng ta đạt được một vụ mùa bội thu còn nếu thời tiết xấu thì ngược lại. Vì vậy
trong nông nghiệp chúng ta cần hạn chế các ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc
phải có những biện pháp khai thác tự nhiên tốt nhất thì chúng ta với thu được các kết
quả cao và giúp cho sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
d.Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.
Bởi lẽ đối với những loại cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp ,chúng không thể
phát triển quanh năm mà chúng cần có một thời gian phù hợp nhất định trong năm để
sinh trưởng và phát triển tốt. Mặt khác,do trong nông nghiệp thời gian lao động
không hoàn toàn ăn khớp với thời gian sản xuất . Những đặc điểm này làm cho sản
xuất nông nghiệp có tính thời vụ . Để khắc phục được tình trạng này thì chúng ta
cần phải xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận tiện, hiện đại và phù hợp để có
thể phục vụ tốt nhất cho công cuộc sản xuất .
e.Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp
Đây là một thiệt thòi của ngành nông nghiệp có so với các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Người ta thấy rằng dù nông nghiệp có điều kiện sản xuất thuận lợi đến mấy
đi nữa thì nông nghiệp cũng chỉ đạt tốc độ tăng trưởng tối đa từ 5 - 6 % năm trong
khi ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng truởng 10 % trở lên là bình thường. Kết quả
thấp kém của sản xuất nông nghiệp chính là hệ quả tất yếu của những đặc điểm trên
của ngành nông nghiệp.
Dựa trên việc nghiên cứu các đặc điểm trên của ngành nông nghiệp , chúng ta sẽ
có những ý tưởng , những sáng kiến trong việc lập kế hoạch sản xuất, tiến hành đầu
tư và có những biện pháp cần thiết cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
1.3. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam
Dù đang trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhưng Việt
Nam vẫn là một nước nông nghiệp và trình độ phát triển của ngành nông nghiệp vẫn
ở mức rất thấp. Vì thế nghiên cứu rõ đặc điểm của nền nông nghiệp này sẽ giúp cho
chúng ta có những chính sách đầu tư phát triển phù hợp nhằm thúc đẩy nền nông
nghiệp nước ta từng bước đi lên, theo kịp tiến trình phát triển của cả nước. Có thể
nói nền nông nghiệp nước ta ngoài những đặc điểm chung như nêu ở trên thì có
những đặc điểm riêng sau:
Nền nông nghiệp Việt Nam vẫn mang tính truyền thông sâu sắc, chưa có những
thay đổi lớn so với những năm trước đây.Trong suốt thời kì vừa qua , nông nghiệp
được Đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư thoả đáng nên đã có những bước phát
triển mạnh cả về năng suất , chất lượng. Nhưng nhìn chung thì sản xuất nông nghiệp
vẫn mang tính cá thể và đơn lẻ; mức độ áp dụng khoa học kĩ thuật công nghệ vào
nông nghiệp là rất ít, đồng thời mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp là không cao.
Thậm chí ở nhiều vùng quê ,sản xuất nông nghiệp vẫn ở trong tình trạng " con trâu đi
trước, cái cày theo sau”. Còn về vấn đề cây trồng thì trong trồng trọt vẫn ở dạng độc
canh cây lúa, trong khi nhiều nơi thích hợp cho phát triển nhiều loại cây khác lại
chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng. Ngoài ra chăn nuôi là ngành sẽ giúp cho
nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn thì chúng ta vẫn chưa có những chính
sách đầu tư phát triển thích hợp cho nên tỷ lệ chăn nuôi trong toàn ngành nông
nghiệp vẫn ở mức thấp.Trong khi đó hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, một số vùng nếu có thì đã quá lạc hậu hoặc thiếu đồng bộ còn lại là rất
thiếu. Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp
Đất nước ta được chia ra làm 3 miền Bắc - trung - nam với khí hậu và địa hình
rất phức tạp và khác biệt. Nước ta còn có tỉ lệ đồi núi chiếm tới hơn 70 % lãnh thổ,
do vậy mà sản xuất nông nghiệp chỉ ở trong những khoảng không gian nhỏ và khó
cho việc áp dụng máy móc .Các vùng đồng bằng có điều kiện cũng không giống
nhau, như đồng bằng sông Cửu Long có độ phù sa lớn, có thể canh tác 3 - 4 vụ
trong năm lại phải chịu lũ lụt hàng năm ; đồng bằng sông Hồng chỉ có thể sản xuất
hai vụ do có mùa đông giá rét. Khí hậu, thời tiết khát phức tạp; trong khi miền bắc có
mùa đông rét và lạnh, thích hợp cho việc sản xuất một số nông sản mùa đông, ở
Miền nam , gần miền xích đạo nên thời tiết nóng quanh năm nên chỉ cho phép phát
triển những cây mùa hè. Chính sự phức tạp , đa dạng này đã tạo cho sản xuất nông
nghiệp nước ta không không thống nhất và đồng bộ giữa các miền, và khó cho việc
áp dụng những giống cây trồng vật nuôi đại trà trong cả nước. Nhưng lại tạo ra cho
nước ta thuận lợi trong việc phát triển đa dạng những sản phẩm nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta hiện nay được phát triển trong điều kiện đất nước đang tiến
hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy mà nó nhận đước sự
quan tâm lớn của toàn xã hội, mức độ công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn sẽ
được tiến hành nhanh hơn và rộng hơn trên cả nước, đồng thời sự áp dụng những tiến
bộ khoa học kĩ thuất cũng nhiều hơn và tốt hơn. Tuy vậy thì nông nghiệp lại chịu một
sự thiệt thòi lớn là tỷ lệ đầu tư của nhà nước và xã hội cho nông nghiệp sẽ ngày càng
giảm sút
Hiện nay nền nông nghiệp chúng ta đã có một khối lượng rất lớn hàng nông
lâm thuỷ sản xuất khẩu, chiếm một tỉ lệ cao trong giá trị xuất khẩu của cả nước.
Nhưng có một thực tế ngược lại là tuy sản lượng tăng mạnh, năng suất lao động lại
chưa cao , hơn nhiều so với các nước khác. Như ở Thái Lan, năng suât lúa của họ
thường đạt trên 8 tấn / ha tại Việt Nam năng suất chỉ khoảng 6 tấn / ha, như vậy là
rất thấp và không có nhiều tiến bộ so với trước.Chất lượng hàng nông sản của chúng
ta cũng không cao do vậy mà giá trị của chúng trên thị trường cũng thấp.Vì thế ,trong
thời gian tới chúng ta cần có những biện pháp đầu tư để tạo ra những giống mới và
có những cách thức sản xuất mới nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại , ngành nông nghiệp nước ta tuy có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây
vẫn còn yếu kém và lạc hậu ;do vậy cần nhận được sự đầu tư toàn diện và sâu rộng,
của Đảng, của nhà nướcvà của toàn xã hội để nó có thể phát triển tương xứng với
tiềm năng vốn có.
1.4Vai trò của nông nghiệp.
Chưa khi nào trong lịch sử loài người mà nông nghiệp lại không được coi trọng.
Thế giới dù có hiện đại , dù có phát triển đến mấy thì nông nghiệp vẫn giữ những vị
trí hết sức then chốt và cực kì quan trọng.Sở dĩ nông nghiệp có được vị trí như vậy vì
ngành này có những vai trò sau:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực thực phẩm duy nhất cho cả xã
hội loài người. Đây là vai trò nổi bật của nông nghiệp.Với vai trò này nông nghiệp
quyết định sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Khi mỗi con gnười được
sinh ra trên đời thì họ không thể không ăn mà có thể lao động, học tập và cống hiến
tài năng của mình cho xã hội. Bởi vì có ăn , chúng ta mới có thể có đủ năng lượng
cung cấp cho cơ thể hoạt động. Xã hội phát triển càng cao , càng văn minh thì đòi hỏi
của con người về lương thực và thực phẩm ngày cao về lượng và đặc biệt là về chất.
Muốn vậy ,đòi hỏi ngành nông nghiệp phải không ngừng đầu tư phát triển để nâng
cao năng xuất lao động trong sản xuất nông nghiệp và chất lượng của nông sản.
Thứ hai, đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển thì
nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm và
tạo thu nhập cho người dân. Như ở Việt Nam, hiện nay vẫn có tới khoảng 70% dân
số sống ở nông thôn và cũng một tỉ lệ tương tự làm việc trong ngành nông nghiệp.
Tuy nhiên ,lực lượng lao động trong nông nghiệp này có trình độ còn thấp kém và
mức thu nhập của họ cũng rất thấp.Nhưng trong tương lai đây là lượng lao động chủ
yếu cho nền kinh tế . Vì vậy ,để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nói chung ,cũng như
giúp cho nông nghiệp nói riêng thì chúng ta cần có những chính sách về giáo dục và
đào tạo nhằm đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho người nông dân.Với một lượng
lớn dân số sống ở các vùng nông thôn và làm việc trong ngành nông nghiệp nên
những đối tượng này sẽ là lực lượng tiêu dùng rất lớn cho nền kinh tế .Đây là một thị
trường tiêu thụ tiềm năng cho các nhà sản xuất trong nước.Khai thác và sử dụng hiệu
quả thị trường này sẽ giúp cho các nhà sản xuất thu lợi nhuận tăng cường thị trường
của mình và đồng thời góp phần tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba , nông nghiệp còn có vai trò khá quan trọng đối với một số ngành kinh tế
khác như công nghiệp chế biến. Có thể nói ngành công nghiệp chế biến nông sản phụ
thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Bởi nông nghiệp là ngành kinh tế cung cấp đầu vào
cho sản xuất công nghiệp chế biến.Trong các nước đang phát triển thì ngành công
nghiệp chế biến chiếm một vai trò khá quan trọng, nó là lĩnh vực thúc đẩy phát triển
kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Để ngành này muốn hoạt động tốt thì đòi hỏi ngành nông nghiệp phải phát triển ổn
định và thường xuyên cung cấp các đầu vào rẻ và có chất lượng cao. Như vậy nông
nghiệp qui định sự phát triển ngành công nghiệp chế biến. Ngoài ra một số nông sản
còn là những đặc sản trong hoạt động du lịch và dịch vụ ăn uống nhằm thu hút khách
hàng, nên nông nghiệp cũng là nhân tố thúc đẩy du lịch
Thứ tư, đối với các nước đang phát triển , nông nghiệp đóng vai trò cực kì quan
trọng, góp một tỷ lệ lớn vào giá trị hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ cho đất nước
đồng thời cũng chiếm một vị trí khá cao trong GDP của đất nước. Như ở Việt Nam,
xuất khẩu hàng nông sản và sản phẩm chế biến từ nông sản thu được hàng tỷ Đôlla,
chiếm một tỉ lệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu; các mặt hàng như gạo , cà phê.. có
giá trị xuất khẩu lớn.Do vậy mà chúng ta cần tăng cường hơn nữa xuất khẩu loại
hàng hoá này để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và đất nước. Tuy nhiên , các sản
phẩm xuất khẩu lại chủ yếu dưới dạng thô, do vậy giá trị hàng hoá rất thấp ,rất bất lợi
cho người nông dân. Thêm vào nữa là nông nghiệp chiếm tỷ lệ khoảng hơn 30%
GDP của các nước đang phát triển, đây là một tỷ lệ khá cao và cho thấy nông nghiệp
có ảnh hưởng mạnh tới sự tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tuy nhiên đây là
một dấu hiệu không đáng mừng , bởi lẽ một đất nướcđược coi có nền kinh tế phát
triển và hiện đại khi có tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là thấp ( khoảng dưới 15 % ). Vì
thế các nước này cần có những biện pháp đầu tư ,một mặt vẫn giúp cho nông nghiệp
có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mặt khác phải nâng cao tỷ trọng trong GDP của các
ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thứ năm , nông nghiệp là ngành kinh tế đóng vai trò như một nhân tố tạo vốn, lao
động và thị trường cho thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở các
nước đang phát triển. Một nước chỉ có thể tiến hành thành công công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước khi có đủ vốn và các nguồn lực. Trong giai đoạn
đầu này, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa phát triển, thì nông nghiệp với ưu thế là
ngành truyền thống sẽ tạo được một khối lượng lớn nông sản có giá trị cao và có thể
xuất khẩu ;từ đó tạo ra một nguồn vốn khá lớn cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp
cũng là ngành cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến. Với lực lượng lao động
đông đảo trong ngành nông nghiệp sẽ là những công nhân với trình độ tay nghề khá
cao ( nếu được chú ý đào tạo và bồi dưỡng hợp lí ) có sự cần cù chăm chỉ ,giá nhân
công lại rẻ , điều này sẽ tạo thuận lợi lớn cho ngành công nghiệp phát triển. Như vậy
nông nghiệp là ngành kinh tế tạo những tiền đề , cơ sở ban đầu cho sự công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, nông nghiệp đối với những nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng vẫn là ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội . Đầu tư phát triển ngành nông nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế đất nước
hiện nay.
2. Đầu tư - nhân tố quyết định tới sự phát triển nông nghiệp
Có thể khẳng định rằng , tất cả các ngành các lĩnh vực muốn có sự tăng trưởng và
phát triển thì cần phải có đầu tư , không có đầu tư thì không có sự phát triển. Ngành
nông nghiệp cũng không nằm ngoài qui luật này. Chính đầu tư là nhân tố quyết định
những sự biến đổi vượt bậc của ngành nông nghiệp. Đầu tư chính là đòn bẩy, là động
lực cho sự phát triển .
Thứ nhất ,đầu tư tạo cho nông nghiệp một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và
có qui hoạch, tập trung. Ta biết rằng nông nghiệp chỉ có thể tiến hành sản xuất có kết
quả tốt khi được cung cấp các yếu tố đầu vào đầy đủ như : điện ,nước, phân bón, hệ
thống nhà kho...Muốn có được những yếu tố quan trọng này thì chúng ta phải xây
dựng và củng cố các hệ thống trạm bơm, các kênh mương, các mạng lưới điện, phát
triển và nâng cấp hệ thống đường giao thông. Khi những hệ thống này hoạt động tốt
sẽ rất thuận lợi cho sản xuất.Tuy nhiên những cơ sở hạ tầng này không tự nhiên có
mà cần phải có sự đầu tư tiền và các nguồn lực khác . Việc đầu tư này cần phải được
qui hoạch tổng thể , tránh hiện tượng đâu tư dàn trải, không trọng điểm. Khi đã có
đầu tư và đầu tư hiệu quả thì chúng ta sẽ có một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, sẽ
giúp cho nông nghiệp có thể tiến hành những phương thức sản xuất mới, có thể tiễn
hành thâm canh tăng vụ, người nông dân cũng có thể chủ động trong quá trình sản
xuất.. những thuận lợi này sẽ làm cho sản lượng ngành nông nghiệp tăng cao và chất
lượng nông sản cũng tốt hơn.
Thứ hai,trong thế giới hiện nay, một nền nông nghiệp hiện đại , có năng suất ,
hiệu quả cao khi nó được cơ giới hoá , công nghiệp hoá một cách cao độ. Hay nói rõ
hơn là sản xuât nông nghiệp được áp dụng máy móc một cách phổ biến và đại trà
trong mọi khâu và mọi lĩnh vực và góp phần giải phóng sức lao động của con người.
Nhờ có những chính sách hỗ trợ mà đặc biệt là do có các nguồn đầu tư hữu ích của
xã hội mà ngành nông nghiệp có được những loại máy móc hiện đại ,tiên tiến như
máy cày máy kéo, máy gặt đập, máy xay xát, các loại xe chuyên chở ...thay thế cho
sức người và súc vật trong quá trình sản xuất. Do có những loại máy móc này mà sản
xuất nông nghiệp có thể tiến hành trên diện rộng và hàng loạt, đồng thời làm tăng
năng suất cây trồng vật nuôi lên rất nhiều lần so với trước đây. Như vậy đầu tư máy
móc thiết bị nông nghiệp là nhân tố thúc đẩy sản suất nông nghiệp ; vì thế chúng ta
nên quan tâm và coi trọng đầu tư cho nông nghiệp một cách thoả đáng. ở Việt Nam ,
ngành nông nghiệp còn sử dụng sức người và súc vật trong khi làm việc là chủ yếu,
áp dụng máy móc trong sản xuất nông nghiệp còn rất hạn chế và ở qui mô nhỏ. Đầu
tư mua sắm những phương tiện này là đỏi hỏi cấp thiết của nền nông nghiệp. Tuy
nhiên chúng ta phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương ,từng lĩnh vực
mà mua những máy móc cho thích hợp nhất.
Thứ ba , đầu tư vào lĩnh vức khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo ra cho nông
nghiệp những giống cây trồng vật nuôi mới hiệu quả hơn. Mà ta biết giống là một
yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển ngành nông nghiệp .Mỗi người đều
hiểu rằng khoa học công nghệ là động lực cho sự phát triển các ngành kinh tế và no
vẫn là nhân tố quan trọng cho sự phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp. Ngày nay,
công nghệ sinh học đang phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí ngày càng quan
trọng trong đời đời sống kinh tế thế giới. Công nghệ sinh học ngày càng có những
thành công to lớn hơn và là lĩnh vực liên quan khá chặt chẽ với ngành nông
nghiệp.Một phần công nghệ này sẽ được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. ở mức
độ quốc gia chúng ta cần đầu tư mạnh để phát triển công nghệ này , đồng thời cần có
những chính sách khác để khuyến khích động viên những nhà khoa học giỏi nghiên
cứu và từ đó áp dụng triệt để những thành quả của nó.Mặt khác, chúng ta nên xây
dựng những trung tâm giống cây trồng vật nuôi với những cán bộ khoa học giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu ra những giống mới từ kết quả của công nghệ
sinh học . Vì vậy,chúng ta nên có những chính sách để thu hút các nguồn lực trong
và ngoài nước đầu tư vào công nghệ này và thành lập những trung tâm nghiên cứu áp
dụng những kĩ thuật tiên tiến của thế giới và trong nước. Tóm lại , đầu tư góp phần
vào việc tạo ra cho nông nghiệp một sức phát triển mới thông qua đầu tư cho công
nghệ phục vụ sản xuất.
Thứ tư , đầu tư là đã góp phần tạo ra cho nông nghiệp một lực lượng lao động
hùng hậu có tay nghề chuyên môn và trình độ kĩ thuất cao. Dù máy móc có hiện đại
và phù hợp đến đâu, hay một phương thức sản xuât mới có tiên tiến đến mấy nhưng
nếu lao động trong nông nghiệp không có trình độ để nắm bắt và sử dụng thì những
thứ trên đều là vô dụng, bỏ đi. Nhờ có một khối lượng lớn đầu tư vào lĩnh vực giáo
dục đào tạo thông qua việc xây dựng các trung tâm dạy nghề , các chương trình phổ
biến kiến thức nông nghiệp mới cho người nông dân mà họ ngày càng nắm bắt được
những kiến thức mới , thiết thực cho việc trồng trọt và chăn nuôi : biết cách thâm
canh, biết điều khiển máy móc , biết làm kinh tế Vac...Điều này cũng sẽ giúp họ hiểu
rõ hơn về các đặc tính và quá trình sinh trưởng của từng loại cây trồng vật nuôi để họ
có những biện pháp chăm sóc tốt hơn. Khi người nông dân có trình độ càng cao sẽ
càng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp trong việc sử dụng những kĩ thuật mới
và giúp cho ngành này có sự tăng trưởng cao.
Thứ năm , đầu tư góp phần tạo cho nông nghiệp một cơ cấu trồng trọt và chăn
nuôi hợp lí hơn với tỷ trong chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng giá trị ngành
nông nghiêp. Bởi vì, trong nông nghiệp , chăn nuôi là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng
cao hơn nhiều so với trồng trọt, muốn phát triển ngành nông nghiệp thì phải đầu tư
phát triển lĩnh vực chăn nuôi. Như trước đây, trồng trọt chiếm vai trò chủ yếu nên
ngành nông nghiệp có tốc độ phát triẻn không cao, kể từ khi đầu tư mạnh hơn vào
chăn nuôi thì nông nghiệp đã có những sự phát triển vượt bậc. Đây là hướng đi đúng
của nhiều nước đi trước mà những nước đi sau như Việt Nam cần học tập và phát
huy.
Nói chung, đầu tư còn góp phần cải thiện đời sống người nông dân, cải cách
phương thức tổ chức quản lí nông thôn ... Tóm lại, đầu tư có vai trò quyết định sự
tiến bộ đi lên không ngừng của nông nghiệp. Khi nền kinh tế càng hiện đại, nông
nghiệp càng không thể không có đầu tư.
3. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế dặc thù với những đặc điểm riêng biệt, vì vậy
mà đầu tư trong nông nghiệp cũng có những nét đặc trưng riêng, không giống bất cứ
một ngành kinh tế nào trong nền kinh tế.
Đặc trưng thứ nhất là đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình thực hiện
một công cuộc đầu tư cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh huởng
nhiều của các điều kiện tự nhiên. Điều đặc trưng này là do đặc điểm ngành nông
nghiệp chi phối. Đầu tiên, khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, do đất đai là tư liệu
sản xuất chủ yếu nên chúng ta phải nghiên cứu rất kĩ về các điều kiện của đất , chất
lượng và đặc điểm của đất và đặc điểm về địa hình. Bởi vì đất tốt hay xấu ảnh hưởng
rất mạnh tới quá trình thực hiện đầu tư và thành quả thu được. Nếu đất tốt thì cây
trồng phát triển thuận lợi, có xây dựng hạ tầng cơ sở thì cũng giảm chi phí và ngược
lại. Nghiên cứu về đất còn cho chúng ta biết nên trồng loại cây nào, nên nuôi loại
động vật gì, để từ đó có kế hoạch sản xuất.Địa hình cũng có ảnh hưởng tới đầu tư,
nếu địa hình bằng phẳng thì có thể đầu tư nhiều loại cây trồng, vật nuôi thích hợp
cho vùng đồng bằng, đỡ tốn công san lấp và thuận lợi về giao thông do vậy vận
chuyển các nông sản mang ra thị trường nhanh và đảm bảo tươi sống. Khi đầu tư dựa
vào điều kiện của địa hình để có những chính sách đầu tư phù hợp nhất.
Khí hậu cũng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư,khi đầu tư người ta thường phải
nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó có ảnh hưởng mạnh tới kết quả của sản xuất
nông nghiệp hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành đầu tư xây dựng hệ thông
thuỷ lợi thì thường tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi nước lên thì việc xây dựng
rất khó và cực kì tốn kém. Hoặc khi ta đầu tư một loại cây lương thực náo đó, chẳng
hạn như cây lúa, ta không thể trồng lúa vào mùa đông lạnh ,bởi lúa là cây không
thích hợp với điều kiện giá rét , do vậy mà đầu tư không thu được lợi ích tốt. . Do
vậy mà khi đầu tư vào nông nghiệp các nhà đầu tư phải nghiên cứu rất kĩ đặc điểm tự
nhiên của từng vùng để có thể có những công cuộc đầu tư mang hiệu quả cao hoặc có
những biện pháp phòng tránh ảnh hưởng xấu của tự nhiên hữu hiệu.
Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên đầu tư trong nông nghiệp cũng
mang tính thời vụ khá rõ rệt. Rất nhiều hoạt động đầu tư trong nông nghiệp phải
nghiên cứu thời điểm đầu tư và chọn khu vực điểm điểm đầu tư. Bởi vì, trồng trọt và
chăn nuôi không thể tiến hành quanh năm cho nên chọn thời điểm để sản xuất là rất
cần thiết.Do vậy khi đầu tư vào một loại đối tượng nào đó thì ta chỉ có thể bắt đầu
đầu tư tại một thời gian rõ ràng và cố định trong năm, như trồng cây thì thường phải
vào mùa xuân. Tuy nhiên , với trình độ khoa học phát triển chúng ta có thể đầu tư đa
dạng và với khoảng thời gian rộng hơn.
Một đặc trưng nổi rõ của đầu tư trong nông nghiệp đó là nó đỏi hỏi một lượng vốn
đầu tư khá lớn, có độ rủi ro cao nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp hơn nhiều so với các
ngành , lĩnh vực khác.Cụ thể, khi ta tiến hành đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng( như
hệ thống thuỷ lợi ) hay khoa học công nghệ thì lượng vốn đầu tư thất không nhỏ chút
nào. Ví dụ như để phát hiện ra một loại giống mới cho sản xuất nông nghiệp thì
lượng vốn bỏ ra và số nhà khoa học cần cho nghiên cứu không thua kém để cho một
sản phẩm công nghiệp mới ra đời. Hoặc chi phí để xây một hệ thống thuỷ lợi cũng
không kém việc xây dựng một nhà máy hay một khách sạn du lịch. Vì vậy mà khi
đầu tư , đỏi hỏi các nhà đầu tư phải có những chính sách biện pháp huy động đủ vốn
và kịp tiến độ.
Đầu tư trong nông nghiệp có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho nông
nghiệp. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành nông nghiệp một mặt chịu những rủi ro
chung của các công cuộc đầu tư mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh của
những biến đổi tự nhiên xấu. Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế những loại rủi ro
này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của đầu tư là tỷ
suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong nông nghiệp rất thấp thường chỉ vài phần
trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10 % , do nông nghiệp có tốc độ
tăng trưởng không cao.Khi đầu tư thời gian thu hồi vốn cũng rất lâu. Còn một số
công trình đầu tư trong nông là hoà vốn, thậm chí nhiều công trình không thu đủ số
vốn đầu tư ban đầu bỏ ra.
Tóm lại , hoạt động đầu tư trong nông nghiệp có những nét riêng, chính vì những
nét này mà các nhà đầu tư thường không muốn bỏ vốn của mình đầu tư vào ngành
nồng nghiệp, hoặc có thì cũng rất ít. Do vậy để thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển
thì đòi hỏi chính phủ mỗi nước phải có những chính sách khuyến khích , hỗ trợ đầu
tư nhằm thu hút vốn đầu tư và bản thân nhà nước phải bỏ vốn đầu tư xây dựng hạ
tầng cơ sở.
4. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp
Để xem xét thành quả hay mức độ thành công của các công cuộc đầu tư , của
một ngành của một tỉnh hay của cả nước ; ngoài chỉ tiêu kết quả đầu tư người ta còn
phải sử dụng chỉ tiêu hiệu quả đầu tư để tính. Ngành nông nghiệp, do có những đặc
điểm cũng như do đầu tư trong nông nghiệp có các đặc trưng riêng nên trong nông
nghiệp người ta có thể sử dụng những chỉ tiêu hiệu quả sau:
a.Chỉ tiêu :GO tăng thêm/ Vốn đầu tư và GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư
Trong đó :+ GO: giá trị sản xuất
+ GDP : tổng sản phẩm
+ Vốn đầu tư : là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án đầu tư
hay của cả một tỉnh, một nước trong một năm hoặc một thời kì nhất định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì tạo ra bao nhiêu giá trị hàng
hoá và dịnh vụ. Chỉ tiêu này, càng cao thì chứng tỏ công cuộc đầu tư càng thành
công. Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp thì đây là chỉ tiêu dễ
tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi lẽ các số liệu thu thập về GO ,GDP cũng như về
vốn đầu tư là tương đối dễ.
b. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: là thời gian mà các kết quả của quá trình đầu tư cần
hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra từ lợi nhuận thu được.
Thời hạn T thường được tính cho một dự án. Nó phản ánh phần nào mức độ hiệu quả
của dự án. Đối với những dự án tương tự nhau thì dự án có thời gian thu hồi vốn đầu
tư càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên đối với nhiều dự án của một tỉnh, một giai đoạn thì
T rất khó tính, thậm chí là không tính được. Trong nông nghiệp có nhiều dự án khó
tính được thời gian T bởi vì đầu tư trong nông nghiệp mang tính xã hội cao, nhiều
khi không có lợi nhuận, nên nó không được sử dụng nhiều
c. Hệ số hoàn vốn nội bộ: là tỷ suất lợi nhuận mà nếu được sử dụng để tính chuyển
các khoản thu chi của toàn bộ công cuộc đầu tư về mặt bằng thời gian ở hiện tại sẽ
làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Công cuộc đầu tư được coi là có hiệu quả khi
:
IRR < IRR định mức
Trong đó IRR định mức có thể là lãi suất đi vay nếu ta phải vay vốn để đầu tư, có
thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định nếu vốn đầu tư do ngân sách
cấp , có thể là tỷ suât lợi nhuận bình quân hoặc là chi phí cơ hội của vốn tự có...
Để tính IRR của một dự án người ta có thể tình bằng nhiều cách khác nhau: như
bằng máy tính, bằng phương pháp nội suy, ngoại suy... Chỉ tiêu IRR rất quan trọng
trong việc tính hiệu quả dự án đầu tư. Nói chung dự án có IRR càng lớn càng tốt .
Trong ngành nông nghiệp, do dặc trưng của đầu tư trong ngành nên các công cuộc
đầu tư thường có IRR là tương đối thấp. Đây là công thức có thể tính được nếu công
tác thống kê thu thập làm tốt.
d. Chỉ tiêu số lao động tăng thêm từng năm của dự án.
Số lao động tăng thêm nói lên sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế xã hội.
Số lao động tăng thêm nói chung là tương đối dễ tính tuy nhiên trong ngành nông
nghiệp, người nông dân dù có thêm hay giảm đầu tư thì họ vẫn phải làm nông
nghiệp, nên trong nông nghiệp tính không phải là dễ. Còn số lao động tăng thêm càng
nhiều ,dự án đó càng hiệu quả ( nhưng ta còn phải xem xét thêm thu nhập của người
lao động tư dự án như thế nào)
e .Giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm( NVA):
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của đầu tư.
NVA là mức chênh lệnh giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức tính: NVA = O - (MI + Iv)
Trong đó : - NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại
O : là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư ( doanh thu) -
MI: là giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài -
theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây( năng lượng, nhiên liệu, giao thông ...)
Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao -
Trong ngành nông nghiệp ,chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án nông nghiệp
mang tính lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. Nếu tính theo chỉ tiêu này thì mức lợi ích
của đầu tư trong nông nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, đây lại là chỉ tiêu rất khó
tính được chính xác. NVA còn có thể tính cho từng năm hoặc tính cho nhiều dự án
trong một thời kì nhất định
f.Chỉ tiêu GO/GDP
Trong đó: GO giá trị sản xuất của
: GDP = GO - chi phí trung gian
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của vốn đầu tư, nói trung nó có giá trị càng gần 1
càng tốt. Nếu gần 1, tức sẽ giảm tối thiểu các chi phi trung gian không cần thiêt,
những kết quả thu được từ đầu tư chính là sự gia tăng giá trị cho xã hội
g. Chỉ tiêu công bằng xã hội :chỉ tiêu này xem xét mức độ bình đẳng của người dân
trong xã hội, mức độ phân phối thu nhập từ công cuộc đầu tư...
Trên đây là một vài chỉ tiêu tiêu biểu phản ánh hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp.
Muốn tính hiệu quả đầu tư chính xác ta nên kết hợp chúng với nhau.
Chương II. Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
I.Các nguồn lực cho đầu tư phát triển
1. Giới thiệu các nguồn lực Hà Tây
1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí:
Hà Tây là một tỉnh vừa mới tái lập gồm hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây hợp
thành. Hà Tây có diện tích chung là 2147 km2, nằm trong vùng đồng Bằng Bắc Bộ;
phía đông nằm ngay tiếp giáp Thủ đô Hà Nội, phía bắc giáp với Vĩnh Phúc, Phía Tây
và Nam tiếp với hai tỉnh Hải Dương và Hoà Bình. Như vậy, Hà Tây là cửa ngõ nối
Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc và đặc biệt là các tỉnh phía Nam và Hà Tây nằm
trên nhiều đường giao thông quan trọng huyết mạch của đất nước như đường quốc lộ
1, 6 và 32 , đường thuỷ sông Hồng chạy qua nên rất có điều kiện phát triển kinh tế xã
hội.
Hơn nữa , Hà Tây còn nằm gần khu tam giác kinh tế trọng điểm không những
của phía bắc và cả nước: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Như vậy tỉnh sẽ chịu
ảnh hưởng mạnh của sự phát triển của các tỉnh này.
Khí hậu
Có thể nói, Hà Tây nằm ở vùng Đông Bắc nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm
với mùa đông nhiệt độ thấp lạnh, có gió mùa đông bắc rét, hanh khô còn mùa hè
nóng và mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1800 - 2000
mm.Do diện tích không lớn, nên khí hậu Hà Tây không có sự khác biệt lớn giữa các
huyện thị trong tỉnh. Với loại khí hậu này , Hà Tây có thể phát triển đa dạng các loại
cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên , Hà Tây cũng có bất lợi về mùa mưa chịu ảnh hưởng
của lượng mưa lớn còn mùa khô thiếu nước nên đòi hỏi đầu tư lớn cho hệ thống
thuỷ lợi để điều hoà tưới tiêu. Ngoài ra một số vùng Hà Tây còn chịu ảnh hưởng kế
hoạch phân lũ Sông Hồng, nên có thể ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
Địa hình
Hà Tây là một tỉnh với nhiều loại địa hình đa dạng và cũng tương đối phức tạp.
+ Với phía Tây là vùng đồi núi chiếm 1/3 diện tích lãnh thổ toàn tỉnh. với diện tích
vùng núi là 70.400 ha.
+ Vùng đồi với độ cao khoảng dưới 100 m, chủ yếu là đồi thấp với diện tích 53.400
ha
+Phía đông là vùng đồng bằng với diện tích khoảng 144.450 ha, chiếm 2/3 diện
tích toàn tỉnh. Vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng lại ven một số con
sông lớn như sông Hồng, sông Đáy..Trong vùng đồng bằng có hai nơi trũng nhất là
Mỹ Đức và vùng ứng Hoà ,Thường Tín ... Với kiểu địa hình này, Hà Tây có thể
trồng đa dạng các loại cây, đồng thời có thể tiến hành thâm canh tăng vụ hoặc cũng
có thể ứng dụng nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp như VAC hay phát triển kinh tế
trang trại.
Tài nguyên đất
Đây là tỉnh có vùng đồng bằng có diện tích khá lớn, nằm ở một trong những đồng
bằng phì nhiêu và tốt nhất nước. Nên đất ở đây cũng tương đối màu mỡ và phì nhiêu
,giàu chất phù sa. Các vùng đất này có thể nằm trong đê hoặc ngoài đê thường xuyên
được phù sa các con sông bồi đắp.Vì vậy mà đất ngày càng trở nên tốt và hiệu quả
đối với trồng trọt.
Vùng đồng bằng này có các loại đất chủ yếu như sau:
+ Đất phù sa bồi: diện tích 17.038 ha ( chiếm 8 %)
+ Đất phù sa không bồi : diện tích 51.392 ha (chiếm 24%)
+ Đất phù sa Gley : diện tích 51.551 ha ( chiếm 24 % )
Như vậy diện tích đất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của Hà Tây là rất lớn
và khá đa dạng. Tuy vậy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này cũng chưa thật
cao. Thể hiện ,Hà Tây chủ yếu là độc canh cây lúa trong trồng trọt nhưng năng suất
cũng chưa cao và hiệu suất sử dụng đất trong năm khoảng hơn hai lần là tương đối
thấp.
Hà Tây còn có một vùng đồi núi với các loại đất khá phong phú:
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ: diện tích 20. 603 ha ( chiếm 10 % )
+ Đất đỏ vàng trên đá phiến sét : 10.783 ha ( chiếm 5 % )
+ Còn lại là các loại đất khác.
Các loại đất này chủ yếu dùng để phát triển cây lương thực ngắn ngày hoặc thích
hợp cho việc trồng cây công nghiệp, không thật phù hợp cho cây lương thực. Tuy
nhiên trong vùng đất này ta có thể tiến hành chăn nuôi gia súc như trâu bò, dê hoặc
phát triển kinh tế trang trại với các cây ăn quả là rất thích hợp.
Tài nguyên nước
Là một tỉnh có nhiều con sông lớn chảy qua như sông Hồng bao bọc ở phía
Đông, sông Đà ở phía Bắc, Sông Đáy ở phía Nam và còn cả một hệ thống sông nội
địa như sông Nhuệ... Như vậy mật độ nước ở tỉnh Hà Tây là khá dàyvà chiếm một
diện tích không nhỏ. Các con sông này có lưu lượng nước hàng năm là rất lớn, với
lượng nước hàng năm vào khoảng 180 - 200 tỷ m3. Cùng với nước là hàng ngàn tấn
phù sa các loại luôn bồi đắp cho các vùng đồng bằng. ở Hà Tây còn có một trữ lượng
nước ngầm khá lớn chưa được khai thác hiệu quả. Với lượng nước đồi dào nay thì
vấn đề tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp là cực kì thuận lợi; để khai thác tốt lợi thế
này , cần phải xây dựng hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi.
1.2 .Dân số và lao động
Vào năm 1996, dân số Hà Tây là 2328 triệu người; nhưng đến năm 2000 dân số
của tỉnh là 2423 triệu người với tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm trong giai
đoạn 1996- 2000 là 1.1 % năm, là một tỷ lệ tăng khá thấp so với trung bình toàn
quốc.Với diện tích là 2147 km2 , năm 2000 mật độ dân số là 1084 người / km2, trong
đó vùng đồng bằng có mất độ khá cao là 1305 người / km2. Có thể nói mật độ dân số
Hà Tây là rất cao, như vậy đây là một tỉnh đông dân . Trong số dân này, có đến 90%
dân số sồng ở các cùng đồng bằng, trong khi các vùng núi có tiềm năng số dân lại ít
ỏi.Và cũng một tỉ lệ đó dân sô sống ở các vùng nông thôn . Mặc dù là một tỉnh giáp
với thủ đô, một trung tâm lớn của cả nước nhưng số dân thành thị của Hà Tây lại
thấp. Nhìn chung đây vẫn là một tỉnh đông dân, sống phụ thuộc chủ yếu vào nông
nghiệp với dân số lại tương đối trẻ và sung sức.
Với lực lượng lao động là 1276. 3 triệu người ( chiếm 52.6% dân số ), thì Hà Tây
có đội ngũ lao động hùng hậu với tốc độ tăng bình quân là 2% năm . Trong số này thì
hơn 70% laođộng tập trung trong sản xuất nông nghiệp.Người lao động trong nông
nghiệp rất khoẻ, cần cù chịu khó lại có trình độ văn hoá tương đối khá, họ còn là
những người có kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên lực lượng lao
động trong nông nghiệp chủ yếu là thuần nông và thiếu ngành nghề phụ để sinh sống
.Dọ vậy cần phải mở các lớp dạy nghề và nâng cao kiến thức cho người nông dân.
Trong những năm gần đây , lực lượng lao động trí thức của Hà Tây đã có bước
phát triển đáng kể cả về chất lượng và số lượng, nhưng tập trung chủ yếu ở thành thị,
tuy vậy việc làm của họ chưa thật ổn định.
2. Những lợi thế và thách thức.
2.1 Lợi thế.
Nhìn vào các nguồn lực cho phát triển trên ta thấy , Hà Tây có rất nhiều thuận lợi
cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng.
- Gần thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, lên có diện tích
đồng bằng khá lớn, có chất lượng đất tốt nên thuận lợi cho trồng trọt . Ngoài ra , Hà
Tây còn có thể tiếp nhận những giống cây trồng vật nuôi mới được phát triển từ các
trung tâm nghiên cứu ở thủ đô. Sản phẩm nông sản của tỉnh còn có một thị trường
tiêu thụ rộng lớn.Nằm ở vị trí này cũng dễ nhận được sự quan tâm và đầu tư của
Đảng và nhà nước cũng như của nhiều thành phần kinh tế xã hội.
Với lượng mưa lớn, nguồn nước dồi dào, nếu sử dụng tốt ngành nông nghiệp -
sẽ được đảm bảo thuận lợi về tưới tiêu
Hà Tây có lực lượng lao động đông đảo, có nhiều đặc tính nổi bật lại tập trung -
hơn 70 % cho sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh và đang được đầu tư -
Khí hậu đa dạng phong phú và thay đổi giữa các mùa và địa hình thì không -
đồng nhất
- Đất nước đang trong qua trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên toàn dân
hăng hái sản xuất xây dựng đất nước.
2.2 Những thách thức
Bên cạnh những lợi thế ,sự phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng gặp nhiều khó
khăn và thách thức.
+ Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên sự quan tâm và
đầu tư của các cấp chính quyền cũng như của các tầng lớp dân cư cho nông nghiệp sẽ
kém hơn trước, cho nên nhiều yếu tố thuận lợi không còn
+ Mùa mưa với lượng nước lớn thường gây úng ngập ở nhiều vùng trong tỉnh. Một
số huyện nằm trong vùng phân lũ của sông Hồng cho nên gây khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp vào mùa mưa
+ Dân số tăng nhanh trong khi đất nông nghiệp có hạn dẫn đến bình quân m2 đất
trên đầu người giảm, đất nông nghiệp cũng bị thu hẹp để phục vụ cho mục đích khác.
+ Lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ còn thấp , chủ yếu là lao động thuần
nông nên chưa đủ kiến thức để tiếp thu những tiến bộ mới trong nông nghiệp
+ Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp đã quá cũ và hỏng nhiều, tuy có đầu tư những vẫn
chưa khắc phục được
+ ...
Tóm lại , Quá trình phát triển nông nghiệp của toàn tỉnh Hà Tây có nhiều cơ hội
cũng như gặp nhiều thách thức.Do vậy để có được một nền nông nghiệp mạnh thì
toàn tỉnh phải cố gắng nỗ lực phấn đẫu hơn nữa để phát huy hết những lợi thế đồng
thời phải vượt qua những khó khăn thử thách.
II.Tổng quan về tình hình đầu tư Hà Tây trong giai đoan 1996- 2000
Hà Tây là tỉnh nằm ở một vị trí hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế xã
hội lại nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng , nhà nước và các tầng lớp dân cư và
các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh nên kinh tế Hà Tây đã có sự phát triển
mạnh mẽ trong thời gian qua . Cùng với bước phát triển đó, các nguồn vốn đầu tư
vào Hà Tây cũng tăng lớn rất mạnh với nhiều dự án có vốn đầu tư khá lớn và hoạt
động mang lại hiệu quả cao. Nó đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế
tỉnh.
1.Phân theo nguồn vồn đầu tư
Như trên đã trình bày , tổng vốn đầu tư toàn tỉnh Hà Tây không ngừng tăng
lên; theo cơ cấu này các nguồn vốn đầu tư có sự biến đổi khác nhau. Theo bảng trên ,
cơ cấu vốn đầu tư tỉnh Hà Tây có nhiều điểm nổi bật nhưng lại có nhiều điểm chưa
hợp lí.Vốn đầu tư của doanh nghiệp trong giai đoạn này chiếm tỷ trọng khá thấp
trong tổng vốn đầu tư trong khi vốn đầu tư của tư nhân và các tầng lớp dân cư lại
chiếm tỷ lệ cao.
Trong từng năm của giai đoạn 1996- 2000, vốn đầu tư doanh nghiệp chỉ chiếm tỉ lệ
khá nhỏ trong khi vốn đầu tư tư nhân -dân cư chiếm một tỉ lệ rất cao. Điều này
chứng tỏ Hà Tây có nhiều chính sách hợp lí để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân, nhưng
mặt khác cho thấy đầu tư ở Hà Tây chủ yếu vào các dự án có qui mô vốn nhỏ, mang
tính cá thể. Trong khi đó vốn đầu tư doanh nghiệp thấp cho thấy hoạt động của các
doanh nghiệp trên địa bàn là yếu hay thiếu năng động trong việc tìm cơ hội đầu tư.
Không những thế vốn đầu tư của các doanh nghiệp lại giảm như 30.1 tỉ đồng năm
1996 xuống còn 24 tỉ năm 1999 và 25.4 tỉ năm 2000. Có thể giải thích là do xu
hướng chung của nền kinh tế nhưng với một tỉnh giàu tiềm năng như Hà Tây mà tỉ
trọng vốn đầu tư của các doanh nghiệp chiếm tỉ lệ không cao là chưa thật thuyết
phục. Vì vậy tỉnh nên có những biiện pháp cải tổ và khuyến khích đầu tư từ khu vực
này . Bởi vì vốn đầu tư của doanh nghiệp là động lực quan trọng nhất cho sự phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh
Trong bảng cho thấy là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn và tăng
dần theo các năm. Năm 1996 la 96.4 tỉ ; đến năm 1997 là 152.9 tỉ đồng, tăng 58.61%;
Năm 2000 là 500,4 tỉ đồng, thấp hơn năm cao nhất là 536.2 tỉ đồng ( năm 1999 ),
nhưng so với các năm trước là cao hơn nhiều, như so với năm 1996 , nó gấp 5.2
lần.Không những thế, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách còn chiếm vị trí ngày càng
quan trọng trong tổng vốn đầu tư; năm 1999 nguồn vốn này có giá trị cao nhất trong
tổng vốn đầu tư. Điều này chứng tỏ Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền của tỉnh
chú ý tới việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nhằm khuyến khích và thu hút các
nguồn vốn khác phục vụ phát triển kinh tế.
Về nguồn vốn tín dụng cũng có tỷ trọng thấp nhưng điều đáng mừng là khối
lượng vốn nay ngày càng tăng , và năm sau cao hơn năm trước. Năm 1999 là 28 tỉ
đồng tăng 96.97 % so với năm 1996, năm 2000 là 30 tỉ đồng tăng so với năm 1999
là7.14 %. Trong số vốn này đã có một khối lượng vốn cho vay ưu đãi đối với hộ
nông dân để họ xoá đói giảm nghèo và phát triển sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại , nguồn vốn cho đầu tư phát triển của Hà Tây là rất phong phú và đa
dạng, đã góp phần khai thác được các thế mạnh của tỉnh. Tuy vậy, để có một nền
kinh tế mạnh đỏi hỏi tỉnh phải có những biện pháp huy động nhiều hơn nữa mọi
nguồn và cân đối một cách hợp lí.
2.Theo cơ cấu ngành kinh tế
Để phân tích đánh giá vốn đầu tư Hà Tây theo cơ cấu kinh tế, do không có điều
kiện xem xét tổng các nguồn vốn ,ta có thể lấy vốn đầu tư từ ngân sách của tỉnh và từ
nguồn thuế nông nghiệp để xem xét đánh giá. Do Hà Tây là một tỉnh nông nghiệp và
ngành nông nghiệp đóng góp một tỉ trọng cao trong ngân sách tỉnh cho nên vốn đầu
tư cho nông nghiệp của tỉnh cũng chiểm tỉ trọng cao.
Ngoài các ngành trên, vốn ngân sách tỉnh còn phải đầu tư cho nhiều ngành
khác như : giáo dục và đào tạo, y tế, văn hoá xã hội, thể dục thể thao...
Nhìn vào số liệu từ bảng trên ta nhận thấy rằng, vốn đầu tư của tỉnh Hà Tây cho
hai ngành công nghiệp và dịch vụ là tương đối thấp so với vị trí và khả năng của hai
ngành kinh tế này. Như ngành công nghiệp, Hà Tây là tỉnh gần Hà Nội, đây là một
thị trường có sức tiêu thụ lớn, ngày càng phát triển, các sản phẩm công nghiệp của
Hà tây dễ tiêu thụ. Tỉnh chỉ đầu tư rất khiêm tốn cho công nghiệp, năm cao nhất là
năm 1996 với 17.68 tỉ đồng( chiếm tỷ trọng 28.2 %) nhưng về các năm sau sau lại có
xu hướng giảm hơn so với đầu thời kì, năm 1999 là 16 tỉ đồng(chiếm 15%)và năm
2000 là 18 tỉ đồng(chiếm 20.28 %) , nếu chỉ đầu tư nhỏ cho công nghiệp thì khó phát
triển được công nghiệp và khai thác thị trường trên
Trong vùng Đồng Bằng Bắc Bộ , Hà Tây là một vùng có nhiều danh thắng cảnh
nổi tiếng và đẹp, lại có một thị trường rộng lớn cho du lịch như Hà Nội, Hải
Dương...trong khi các công ty ngoài quốc doanh chưa phát triển trong ngành này thì
đầu tư của ngân sách sẽ đóng vai trò quan trọng. Nhưng thực tế thì nguồn vốn này lại
rất thấp, chiếm tỷ trọng chưa đầy 10 % , do đó cần phải khắc phục và điều chỉnh kịp
thời.
Trong giai đoạn này, tín hiệu đáng mừng nhất là đối với ngành nông nghiệp; Vốn
đầu tư cho ngành nông nghiệp có tỷ trọng tương đối cao và về số lượng ngày càng
tăng lên So với năm 1996(vốn đầu tư :13.406 tỉ đồng) năm 1997(với 20.42 tỉ đồng
)tăng 52.3 %, năm 1999 tăng hơn năm 1998 là (84.65% ), năm 2000 là cao nhất với
số vốn đầu tư 29.03 tỉ đồng. Tuy vậy năm 1998 lại thấp hơn năm 1997 với vốn đầu tư
17.55 tỉ đồng.Vốn đầu tư cho nông nghiệp trong giai đoạn này tăng vì tỉnh Hà Tây
tập trung mạnh đầu tư để nâng cấp và hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi: các trạm bơm,
cống... như dự án tưới tiêu Đồng Mô( Sơn Tây), trạm bơm Ngọ Xá ( ứng Hoà) với số
vốn hàng tỷ đồng; hoặc cùng với trung ương đầu tư cho hệ thống đê điều và phân lũ
sông Hồng.
3.Phân theo cấp quản lí.
Xét theo cấp quản lí , vốn đầu tư của Hà Tây được chia theo hai cấp :Cấp
trung ương và cấp địa phương. Cấp trung ương quản lí các dự án có qui mô lớn hoặc
đầu tư hợp tác với nước ngoài; cấp địa phương quản lí các dự án nhỏ hơn.
Qua bảng trên có thể nhận thấy rằng vốn đầu tư do địa phương quản lí luôn
chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư tỉnh Hà Tây trong những năm vừa qua. Theo
qui định ,vốn đầu tư do tỉnh quản lí thường là các dự án nhỏ, vốn đầu tư không cao;
với một tỉnh nhỏ như Hà Tây điều này cũng tương đối hợp lí. Đi vào phân tích kĩ ta
thấy vốn đầu tư của nguồn này là tương đối ổn định, với mức độ tăng giảm không
đáng kể. Năm có giá trị cao nhất là năm 1997 với số vốn đầu tư là 799.3 tỉ đồng
chênh lệch không nhiều so với năm 1996 là 653.1 tỉ đồng ; các năm còn lại tương đối
đồng đều. Nguồn vốn này luôn chiếm tỉ lệ cao cũng chứng tỏ Hà Tây chú trọng tới
việc thu hút các nguồn vốn nhỏ trong tỉnh cho phát triển kinh tế.
Trong khi đó , nguồn vốn do trung ương quản lí có những sự tăng đột ngột và
mạnh mẽ trong hai năm gần đây cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỉ trọng. Cụ thể năm 1997,
vốn đầu tư là 58.3 tỉ đồng( chiếm 6.8% ), năm 1998 là 55.6 tỉ đồng ( chiếm 6.95% ),
đến năm 1999 là 426.9 tỉ đồng( chiếm 36.68%) tăng vọt so với năm 1998 là 668%,
năm 2000 nguồn vốn này cũng cao. Vốn trung ương quản lí các dự án đầu tư vào tỉnh
có qui mô lớn, lượng vốn này tăng cao cho thấy có nhiều dự án lớn : như dự án đầu
tư cải tạo hệ thống đê điều, nước sạch nông thôn , nhà máy xi măng Tiên Sơn, sân
gold Đồng Mô... đầu tư vào Hà Tây .Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với sự phát
triển kinh tế của tỉnh.
Tóm lại, dù có phân chia vốn đầu tư theo cách nào, dựa trên các số liệu ,ta có
thể khẳng định rằng tình hình đầu tư của Hà Tây trong thời gian vừa qua là rất tích
cực và có chiều hướng tăng lên theo thời gian. Từ đó ta thấy kinh tế xã hội của tỉnh
đang trong xu hướng tăng trưởng và phát triển
III.Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp HàTây.giai đoạn 1996- 2000
Hà Tây, như đã nói ở trên là một tỉnh nông nghiêp, ngành nông nghiệp vẫn
chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của tỉnh. Vì vậy phát triển
một ngành nông nghiệp vững mạnh, đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực , thực
phẩm cho người dân và có thể xuất khẩu là một đòi hỏi thiết yếu của tỉnh Hà Tây.Vì
vậy mà trong thời gian qua, ngành nông nghiệp Hà Tây luôn được toàn tỉnh quan tâm
và đầu tư thích đáng và trong các ngành kinh tế thì nông nghiệp có một tỷ trọng khá
cao trong tổng vốn đầu tư.
1.Theo cơ cấu vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp Hà tây là phong phú và đa
dạng,như vốn đầu tư do trung ương cấp, vốn của dân , vốn tín dụng...Cụ thể các
nguồn vốn trong bảng dưới đây.
Nhìn vào tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà Tây, thấy rằng nguồn vốn đầu tư
cho ngành này là khá đa dạng và biến động khá phức tạp. Những nguồn vốn này đầu
tư cho cả nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ta có thể thấy rằng vốn đầu tư cho
nông nghiệp của Hà Tây là tương đối cao và luôn ở một mức độ tương đối ổn định.
So với năm 1996 ,đầu thời kì những năm tiếp theo cao hơn rất nhiều, thậm chí có
năm cao gấp đôi. Trong dòng vốn đầu tư này , ta nhận thấy năm có giá trị vốn đầu tư
cao nhất là năm 1998 với vốn đầu tư 112.48 tỉ đồng, so với năm 1996 với vốn đầu tư
58.839 tỉ đồng tăng 91.16 %. Các năm còn lại đều có vốn đầu tư là khá cao với giá
trị khoảng 100 tỉ đồng. Nhìn vào đây ta cũng thấy là mức độ gia tăng vốn đầu tư là
không đồng đều. Trong khi năm 1998 tăng 1.65% so với năm 1997, năm 1999 lại
giảm 4.5% so với năm 1998, còn năm 2000 cũng giảm đáng kể. Từ tình hình đầu tư
trên ta thấy, nông nghiệp Hà Tây trong giai đoạn vừa qua đã có những tiến bộ trong
việc thu hút vốn đầu tư, để có thể phát triển hơn và thu hút được nhiều lượng vốn đầu
tư ,ngành nông nghiệp cũng như tỉnh Hà Tây phải có những cố gắng nhiều hơn nữa
trong chính sách cũng như chiến lược thu hút vốn đâù tư từ nhiều nguồn khác nhau.
Trên đây là một vài phân tích về tổng vốn đầu tư , nhưng để có thể đánh giá
chính xác và chi tiết về thực trạng đầu tư nông nghiệp Hà Tây , ta còn phải đi sâu hơn
nữa vào các nội dung sau.
1.1 Vốn ngân sách trung ương
Đây là nguồn vốn do nhà nước đầu tư cho tỉnh Hà Tây hoặc bổ sung vào ngân
sách tỉnh để đầu tư nông nghiệp của tỉnh. Giá trị nguồn vốn này phản ánh phần nào
sự quan tâm của Đảng và nhà nước cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành
nông nghiệp nói riêng.
Xem xét cả về tỷ trọng và khối lượng vốn ,ta thấy rằng nguồn vốn này tăng khá
đều qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn này
biến đổi thay đổi khá ổn định. Ta thấy rằng năm 1996, năm đầu của thời kì phát triển
kinh tế 1996 -2000, là năm có giá trị thấp nhất là 20.264 tỉ đồng , nhưng cũng cao
hơn so với giá trị bình quân giai đoạn 1991 -1995. Đến năm 1997 giá trị nguồn vốn
này tăng vọt, với giá trị là 50.84 tỉ đồng , tăng lên 150.8 % so với năm 1996. Đây là
con số rất cao, sở dĩ như vậy vì giai đoạn này nhà nước chú trọng đầu tư cho các
công trình lớn tỉnh Hà Tây nhằm hiện đại hoá cơ cấu hạ tầng nông nghiệp và nông
thôn.Năm 1998 là năm còn có giá trị cao hơn năm 1997 và là năm đạt giá trị cao nhất
trong thời kì này với tỷ trọng 51 % trong tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp. Trong hai
năm tiếp ,nguồn vốn này có xu hướng giảm do các công trình ở Hà Tây xây dựng hạ
tầng đã hoàn thành và ngành nông nghiệp tỉnh đã khá phát triển.
Nguồn vốn trung ương này được chia làm hai phần: nguồn vốn do các bộ quản (
thường với các công trình có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng ...) và nguồn vốn
do tỉnh quản lí ( với các dự án có qui mô nhỏ hơn). Hai nguồn này luôn hỗ trợ và
tương hỗ lẫn nhau trong việc đầu tư cho ngành nông nghiệp nhưng không phải chúng
có xu hướng vận động như nhau mà sự biến động của chúng là khá phức tạp
* Vốn do bộ quản
Nguồn vốn do bộ quản có thể nói luôn chiếm một vị trí cao không những trong
tổng vốn ngân sách trung ương cấp mà còn trong cả vốn đầu tư cho nông nghiệp Hà
Tây. Trong vốn trung ương thường thì nguồn vốn này luôn chiếm khoảng hơn hai
phần ba, và trong thời kì vừa qua nó tăng khá .Năm 1996 là năm có giá trị vốn đầu tư
thấp nhất , nhưng từ năm 1997 trở đi, vốn đầu tư luôn ở mức cao và cao hơn rất
nhiều so với năm 1996, thường gấp từ hai lần trở lên so với năm 1996. Nguồn vốn
này tăng, và chiếm tỷ lệ cao do trong thời kì này nhà nước tập trung đầu tư các dự án
lớn cho tỉnh Hà Tây như dự án đầu tư nâng cấp hệ thống sông Nhuệ với số vốn hàng
chục tỷ đồng , hay dự án cải tạo hồ chứa nước Quan Sơn, dự án cống Bến mắm ở Sơn
Tây với vốn thực hiện là 21 tỉ đồng, hay như dự án bãi Xuân Phú với số vốn đầu tư
19 tỉ đồng ,đều bắt đầu từ năm 1997 và kéo dài trong nhiều năm tiếp theo, như dự án
sông Nhuệ thậm chí còn kéo dài sang cả những năm của thế kỉ 21.Quan trọng trong
nguồn vốn này là nguồn vốn đầu tư cho hệ thống đê điều và dự án phân lũ sông Hồng
vào một số huyện thị của tỉnh Hà Tây. Những năm trong giai đoạn này có vốn đầu tư
thấp bởi lẽ hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông nghiệp Hà Tây như các trạm bơm , các
kênh mương cấp I, nhiều hệ thống tưới tiêu đã cũ và xuống cấp khá trầm trọng cần và
đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn của nhà nước và của tỉnh.
Đi vào phân tích kĩ từng năm, năm 1998 có giá trị cao nhất với số vốn 41 tỉ
đồng, năm này có giá trị cao bởi nhiều dự án bắt đầu từ năm 1997 đi vào thực hiện ở
giai đoạn quan trọng và trọng điểm do vậy đòi hỏi lượng vốn rót cho các công trình
khá lớn ,đồng thời năm 1998 cũng bắt đầu một vài dự án khá quan trọng như trạm
bơm An Vọng( Chương Mĩ ). Đến năm 1999 ,một vài dự án đã hoàn thành do vậy
vốn do bộ quản đã giảm đi chút ít . Còn năm 2000 hàng loạt các công trình hoàn
thành như bãi Xuân phú, bến Mắm ( Sơn Tây )... Trong khi các dự án mới ít và vốn
không lớn do vậy mà năm 2000 vốn giảm sút rất nhiều , so với năm 1999 thì nó giảm
tới 20.1 %. Như vậy nguồn vốn bộ quản trong thời kì vừa qua tăng giảm không đều
nhưng nó góp phần cực kì quan trọng vào quá trình phát triển nông nghiệp Hà Tây.
*Vốn do tỉnh quản
Trong khi nguồn vốn do bộ quản có xu hướng giảm trong thời gian gần đây thì
nguồn vốn ngân sách trung ương do tỉnh quản lại có xu hướng gia tăng. Nguồn vốn
này thể hiện sự quan tâm của trung ương đối với những dự án nhỏ ,các dự án liên
quan hỗ trợ cho các dự án lớn . Như vậy nhà nước không chỉ quan tâm ở tầm vĩ mô
mà còn ở tầm vi mô. Bởi lẽ các dự án nhỏ có qui mô nhỏ , vốn ít đầu tư chi tiết do
vậy mà bộ không thể quan tâm được hết và như vậy lại tốn chi phí quản lí. Trong khi
đó, do nắm vững tình hình phát triển của ngành nông nghiệp do vậy mà chính quyền
địa phương dễ nắm bắt các khu vực nhỏ cần đầu tư ,do vậy giao một phần vốn cho
tỉnh quản là hợp lí ;đồng thời tăng cường tính tự chủ của địa phương. Các dự án đầu
tư thuộc nguồn vốn này chủ yếu để xây dựng và phát triển trạm bơm, kiên cố hoá các
kênh mương cấp II ,phát triển hệ thống giống, bảo vệ thực vật...Nhìn vào vốn đầu tư
ta thấy rằng năm 1996 là năm có giá trị thấp nhất, đến năm 1998 vốn này cũng đạt
giá trị cao, với vốn đầu tư là 16.43 tỉ đồng, tương ứng với mức vốn ngân sách trung
ương đầu tư cho tỉnh ở mức cao.Như vậy bên cạch đầu tư cho các dự án lớn tỉnh cũng
phát triển đồng bộ các dự án nhỏ khác để các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả cao.Đến
năm 2000 , vốn do tỉnh quản cao hơn hẳn và là năm cao nhất với vốn đầu tư 20.44 tỉ
đồng tăng 59.68 % so với năm 1999, do được bổ sung một phần khá lớn vốn đầu tư
trong đợt giữa năm và các dự án nhỏ cần được đầu tư để khai thác các dự án lớn do
trung ương đầu tư đã hoàn thành.Nguồn vốn này tuy không có giá trị cao nhưng nó
góp phần cực kì quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp từng huyện thị xã.
Tóm lại, nguồn vốn ngân sách trung ương đóng vai trò then chốt trong vốn đầu tư
cho nông nghiệp.Các dự án đầu tư của nó không những tạo ra cơ sở hạ tầng cực kì
quan trọng cho phát triển nông nghiệp mà còn góp phần tạo nền tảng ban đầu để thu
hút các nguồn vốn đầu tư khác. Khai thác và sử dụng nguồn vốn này sẽ rất hữu ích
đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây .
1.2 Vốn từ thuế nông nghiệp
Nguồn vốn này có được do việc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp và một số loại
thu khác ... và được nhà nước giao cho tỉnh một phần. Cụ thể, theo qui định của nhà
nước Việt Nam, các tỉnh thành phố trong cả nước có quyền giữ lại một phần hoặc
toàn bộ nguồn thuế nông nghiệp này và năm đầu tiên áp dụng chính sách này là năm
1996. Trong năm 1996, tỉnh Hà Tây được phép giữ lại 45 % thuế nông nghiệp và mỗi
năm có những sự thay đổi khác nhau , riêng năm 1999 ,tỉnh được phép giữ lại toàn bộ
nguồn thuế này phục vụ đầu tư phát triển,năm 2000 có tỷ lệ để lại nhỏ hơn. Với chủ
trương này, nhà nước đã tạo điều kiện cho chính tỉnh đó lấy vốn từ thuế để đầu tư cho
chính mình, như vậy là rất thiết thực đối với người dân.
Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp được trao cho chính địa phương quản lí, do
vậy nó cũng nằm trong ngân sách tỉnh hàng năm . Nhìn vào bảng 4 ,ta thấy rằng
nguồn vốn này không chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư và giá trị cũng tương
đối thấp. Nhưng nó lại tạo ra một khối lượng không nhỏ các dự án đầu tư phát triển
hạ tầng nông nghiệp. Nói chung ,nguồn vốn này thường không hình thành các dự án
đầu tư độc lập mà nó thường kết hợp với vốn ngân sách do địa phương quản lí và vốn
tự cân đối để tiến hành đầu tư.
Xem bảng 4, ta thấy trong thời kì 1996 -2000 nguồn vốn đầu tư từ thuế nông
nghiệp có xu hướng tăng ,phù hợp với xu thế đưa vốn trở lại chính nơi xuất phát để
đầu tư cho hiệu quả. Với năm 1999, là điển hình, giá trị vốn lên đến 20.14 tỉ đồng,
chiếm tới 19,64 % tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp . Năm 1999 có giá trị cao như
vậy bởi năm này theo xu hướng chung là cần đầu tư cho những dự án có vốn nhỏ và
cũng là năm tỉnh được nhà nước cho phép giữ lại 100% thuế nông nghiệp cho đầu
tư.Nếu xét cả quá trình từ năm 1996 -1999, năm 1997 cao hơn năm 1996 là 98.6%,
năm 1998 lại cao hơn năm 1997 là 25.3%, còn năm 1999, cao nhất tăng hơn năm
1998 là 2.6 %, như vậy xu hướng tăng vốn chậm dần. Nguyên nhân vốn tăng chậm
không phải là do nhu cầy đầu tư cho nông nghiệp giảm xuống mà do nguyên nhân
khách quan: đất nông nghiệp thì diện tích luôn cố định nên số thuế không thể tăng
liên tục cao được, do vậy dù nhà nước có để lại cho tỉnh hết cũng không cao hơn
nữa. Riêng năm 2000,ta thấy vốn đầu tư cho nông nghiệp tư thuế nông nghiệp giảm
sút mạnh chỉ có 11tỉ đồng; tuy nhiên lí do giảm không phải là thuế nông nghiệp thu
ít hay nhà nước để lại cho tỉnh không nhiều mà do tỉnh tập trung vốn lớn để đầu tư
cho việc xây dựng hệ thống kênh mương huyện Phúc Thọ dài 73.6 km vào cuối năm
với tổng vốn đầu tư là 11.5 tỉ đồng nhưng chưa được tính vào vốn đầu tư năm 2000.
Nguồn vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp nói chung được sử dụng khá đa dạng trong
việc đầu tư cho nông nghiệp.
Năm 1996 như đã trình bày là năm đầu tiên thực hiện chích sách để tiền thu
được từ thuế nông nghiệp cho công cuộc đầu tư của từng địa phương . Do vậy năm
này, nguồn vốn đầu tư là thấp về cả giá trị và tỷ trọng vốn đầu tư; cho nên nó chỉ góp
phần vào các công cuộc đầu tư thông qua bổ sung và kết hợp với vốn ttừ ngân sách.
Tuy vậy năm 1996 , vốn đầu tư này vẫn đóng góp quan trọng vào sự phát triển nông
nghiệp và sơ sở hạ tầng nông nghiệp. Nguồn vốn này được sử dụng một phần nhằm
kiên cố hoá hệ thống kênh mương, phát triển và nâng cấp hệ thống thú y, hệ thống
giống và bảo vệ thực vật....Năm 1996 cũng có một vài dự án từ nguồn vốn này như
xây dựng trạm bơm tiêu Phụng Châu(Thường Tín ) với vốn đầu tư 1 tỷ đồng.
Sang năm 1997, vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp bắt đầu tăng lên, cơ cấu vốn đã
đa dạng và phức tạp hơn trước. Trong cơ cấu vốn năm 1997, thì vốn đầu tư cho nâng
cấp hệ thống và kiên cố hoá kê mương chiếm một phần khá cao trong tổng vốn đầu
tư. Điều này cho thấy tỉnh đã chú trọng đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng và vào
công nghệ giống, những nhân tố quyết định phần lớn năng xuất của sản xuất nông
nghiệp. Ngoài ra ,các lĩnh vực khác của nguồn này cũng cao hơn so với năm 1996.
Trong năm 1997, số dự án từ nguồn này cũng tăng lên rõ rệt và ngày càng quan trọng
hơn.; như dự án xây dựng hệ thống trạm trại nông nghiệp trên toàn tỉnh với vốn 1.5 tỉ
đồng hoặc góp một phần vốn là 1 tỉ đồng vào dự án trạm bơm tiêu hạ du Đồng Mô.
Như vậy năm 1997 đánh dấu sự biến chuyển tích cực của nguồn vốn đầu tư này.
Trong hai năm tiếp theo, cùng với việc nhà nước trao cho tỉnh nhiều hơn nữa tiền
thu được từ thuế nông nghiệp nên trong hai năm 1998, 1999 tổng vốn đầu tư từ thuế
và tững cơ cấu lĩnh vực đều tăng , trong đó năm 1999 cao hơn năm 1998 về mọi
mặt.Trong hai năm 1998, 1999 vốn đầu tư cho hệ thống giống và cho việc kiên cố
hoá hệ thống kênh mương vẫn tăng và chiểm tỷ lệ cao ( với tỷ trọng tương ứng năm
1998 là 28.75 % và năm 1999: 48.81 % ). So với năm 1997, thì vốn đầu tư năm 1998
cho hệ thống giống tăng 112.96 % , năm 1999 lại tăng so với năm 1998 là 7.8 %
.Việc tăng đầu tư cho giống trong thời gian này là do tỉnh bắt đầu chú trọng hơn đến
các loại giống cho ngành chăn nuôi, dặc biệt là giống về lợn và tỉnh cũng thử nghiệm
các loại cây trái có thể đem lại hiệu quả cao trong mô hình kinh tế trang trại ở các
vùng đồi núi. Cùng với đó là nâng cấp hệ thống thú y và phát triển các chương
khuyến nông cũng nhận được sự đầu tư trợ giúp lớn nhằm đáp ứng chủ trương phát
triên chăn nuôi và khuyến khích làm kinh tế mới. Như vậy trong hai năm này ,nguồn
vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp đạt tới giá trị cao nhất. Trong thời gian này cũng có
nhiều dự án lớn như dự án Hệ thống tưới tiêu đồng Mô, vốn là 1 tỉ đồng năm 1998 và
tiếp tục sang năm 1999 với vốn 1 tỉ đồng , dự án cải tạo bãi Phướn Ba Vì với vốn 1.5
tỉ đồng, hoặc như dự án trại giống lợn Thanh Hưng với vốn đầu tư 2.5 tỉ đồng...Có
thể nói các dự án trên là thiết thực với sự phát triển nông nghiệp Hà Tây.
Năm 2000 tỉnh vẫn được nhà nước cho phép giữ lại phần lớn thuế nông nghiệp.
Nhìn chung năm 2000, tỉnh vẫn tập trung đầu tư mạnh cho hệ thống kênh mương và
các trạm bơm được đầu tư cao hơn trước trong khi đầu tư cho các lĩnh vực khác
giảm hẳn thậm chí chương trình khuyến nông không nhận được vốn đầu tư .Có thể
giải thích cho vốn trong năm này cho các lĩnh vực giảm do các năm trước đã được
đầu tư thích đáng và phần nào đã đáp ứng được nhu cầu của tỉnh.Năm 2000, đầu tư
cho hạ tầng nông nghiệp, qua các dự án như trạm bơm Ngọ Xá 2 với vốn từ thuế
nông nghiệp 2.8 tỉ đồng( trong tổng vốn đầu tư 3.8 tỉ đồng), hay dự án kênh mương
Phúc Thọ(đã trình bày ở trên). Việc đầu tư mạnh này là do chủ chương vừa phát triển
nông nghiệp vừa kích thích đầu tư và tăng tiêu dùng trong nền kinh tế để kích cầu
đầu tư và tiêu dùng của toàn tỉnh.
Có thể khẳng định rằng , vốn đầu tư từ thuế nông nghiệp chiếm một vai trò khá
quan trọng trong vốn đầu tư cho nông nghiệp.Khai thác nguồn vốn này hiệu quả là
yêu cầu cho sự phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
1.3 Vốn tự cân đối
Nguồn vốn này ở đây được hiều là vốn huy động trong nội bộ tỉnh từ các doanh
nghiệp, từ nhân dân...bao gốm một phần thuỷ lợi phí( khác với thuế nông nghiệp) và
vốn do dân đóng góp; nó không thuộc phạm vi quản lí của chính quyền cũng như
phải nộp vào ngân sách theo như những qui định của nhà nước và pháp luật. Ta biết
rằng để phát triển một nền kinh tế, một ngành nhất định thì vốn từ các tầng lớp dân
cư và doanh nghiệp mới là quyết định cho quá trình đầu tư phát triển, trong khi vốn
ngân sách nhà nước và vốn ngân sách địa phương chỉ là nguồn vốn tiền đề ,nền tảng
để từ đó có thể kêu gọi các nguồn vốn đầu tư khác. Như vậy ngành nông nghiệp tỉnh
Hà Tây muốn phát triển thì phải có khối lượng vốn từ các doanh nghiệp của ngành và
từ dân cư phải có giá trị lớn. Tuy nhiên ,đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp có tỷ
suất lợi nhuận thấp có độ rủi ro cao nên ít người dân dám đàu tư ; vì vậy nguồn vốn
đầu tư này khônglớn. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận những đóng góp của nó vào
quá trình phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh .Đây là nguồn vốn rất rải rác ,nhỏ, lẻ
nên việc thu thập số liệu và thống kê là rất khó khăn. Do vậy các con số về đầu tư về
nguồn vốn này chỉ là ước tính bình quân và mang tính tương đối nhưng nó cũng có
thể phản ánh tương đối chính xác về tình hình đầu tư.
Trong tổng vốn đầu tư trong ngành nông nghiệp trong giai đoạn 1996- 2000 thì
nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trong khoảng 20 % và trong đó đầu tư từ thuỷ lợi phí
chiếm 3/4 trong số này.Ta thấy rằng nguồn vốn đầu tư trong thời kì 1996 -2000 là
tương đối ổn định và không có nhiều sự biến động lớn, với số vốn bình quân khoảng
25 tỉ đồng , trong đó năm cao nhất 1997 có giá trị vốn đầu tư 25.85 tỉ đồng tăng hơn
so với năm thấp nhất 1996 ( với vốn đầu tư 24.5 tỉ đồng ) là 5.5 %. Đi vào phân tích
kĩ hơn thì nguồn vốn này được sử dụng tập trung chủ yếu để đầu tư vào hệ thống
thuỷ lợi: như kiên cố hoá kênh mương cấp III( các kênh mương nhỏ ,trong địa bàn
một xã). Nhờ có nguồn vốn này mà nhiều công trình xây dựng được hoàn thành và
hoạt động tốt phục vụ cho sản xuất nông nghiệp . Nhưng kể từ năm 1997 trở về năm
2000 vốn đầu tư có xu hướng giảm, năm sau thấp hơn so với năm trước; điển hình
là năm 2000 có vốn đầu tư thấp nhất. đây là một dấu hiệu không tốt. Việc giảm sút
này do các công trình lớn kêu gọi được nhiều các nguồn vốn đầu tư phù hợp trong
khi các công trình đầu tư nội đồng cũng đã giảm nhiều. Nhưng nguyên nhân giảm
chủ yếu là do công tác thu thuỷ lợi phí và kêu gọi nhân dân đóng góp có nhiều điều
khúc mắc và bất cập khiến cho người dân không đồng tình và họ không chịu góp
vốn.Vì vậy để không ngừng nâng cao khối lượng vốn đầu tư cho những công trình
thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi các cấp chính quyền phải rõ ràng minh
bạch trong quá trình sử dụng vốn và thực hiện đầu tư. Tóm lại đây là một nguồn vốn
đầu tư có nhiều tiềm năng lớn chưa được khám phá và khai thác triệt để. Vì vậy thu
hút và kêu gọi nhiều hơn nữa nguồn vốn này sẽ góp phần không nhỏ vào công cuộc
công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp. Điều này đòi hỏi các cấp chính quyền
tỉnh Hà Tây cần cố gắng và nỗ lực hơn nhằm để cho người dân tin và hiểu như vậy
họ sẽ đóng góp nhiều hơn cho những chương trình đầu tư ở địa phương.
1.4 Vốn tín dụng ưu đãi.
Do đầu tư trong nông nghiệp có lợi nhuận thấp, nên không thu hút được nhiều nhà
đầu tư, mặt khác những người nông dân sống trong khu vực này chủ yếu là những
người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn vì thế họ rất thiếu vốn sản xuất. Trong khi
đó nhiều địa phương như Hà Tây lại không giàu có, cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp
lại đang ở tình trạng xuống cấp. Do vậy bên cạnh nguồn vốn đầu tư của nhà nước thì
rất cần sự trợ giúp của ngân hàng và các tổ chức tín dụng thông qua các chương trình
cho vay vốn với lãi suất ưu đãi cùng các điều kiện vay thuận lợi , dễ dàng. Nếu như
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thực hiện tốt chương trình này sẽ giúp cho
người nông dân gia tăng sản xuất và nâng cao đời sống của họ đồng thời làm cho
những tiềm năng của tỉnh Hà Tây được khai thác phục vụ cho phát triển kinh tế.
Trong tổng vốn đầu tư giai đoạn 1996 -2000 , vốn đầu tư từ tín dụng có giá trị thấp
và chiếm tỷ trọng không lớn. Cụ thể như năm 1997 là năm có khối lượng vốn đầu tư
lớn nhất , với 17.56 tỉ đồng , cũng chỉ chiếm 15.84 % trong tổng vốn đầu tư cùng
năm đó.; các năm khác thấp hơn nhiều.Không những thế nguồn vốn đầu tư này còn
giảm đi trong những năm gần đây, năm 1998 với vốn 9.36 tỉ đồng , năm 1999 với
8.36 tỉ đồng , giảm 11.69 % so với năm 1998, còn năm 2000 thấp hơn nữa với vốn 8
tỉ đồng.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp thấp là do ngân hàng và các tổ chức tín dụng tỉnh chưa
thật sự nhiệt tình trong việc giúp đỡ các hộ nông dân vốn cho sản xuất, đồng thời các
thành phần kinh tế trong tỉnh chưa năng động trong việc tìm kiếm và phát hiện các cơ
hội đầu tư để vay vốn .
Nguồn vốn đầu tư này nói chung không chỉ bao gồm ngành nông nghiệp
thuần tuý mà nó còn tính cả vốn đầu tư cho cả các ngành lâm nghiệp, thuỷ sản. Trong
giai đoạn 1996 -2000 , nguồn vốn này cũng góp phần đáng kể vào việc phát triển
nông nghiệp và nông thôn thông qua các dự án như:dự án chuyển dịch cơ cấu kết hợp
nuôi trồng thuỷ sản du lịch ở Mĩ Đức ( vốn 11.43 tỷ đồng ) , đề án cấp nước và vệ
sinh môi truờng nông thôn (vốn 3.62 tỷ đồng), hay như dự án nâng cấp hệ thống
giống cây trồng Thường tín ( vốn 1.21 tỷ đồng).
Tóm lại , đầu tư đã đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp háo và hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Theo cơ cấu nguồn vốn đầu tư ta thấy vốn từ ngân
sách nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong khi cácnguồn vốn khác chưa thể
hiện được vai trò của mình. Vì vậy trong thời gian, tỉnh một mặt phải nâng cao hơn
nữa hiệu quả vốn đầu tư ngân sách , mặt khác phải có những biện pháp chính sách
nhằm huy động nhiều hơn các nguồn vốn khác phục vụ phát triển.
2.Cơ cầu lĩnh vực đầu tư
Hà Tây là một tỉnh không có tiềm lực kinh tế mạnh, phụ thuộc nhiều vào nông
nghiệp; trong khi đó các điều kiện cho phát triển nông nghiệp như cơ sở hạ tầng,
giống ... yếu kém và chưa đáp ứng được đòi hỏi của sản xuất. Vì vậy để phát triển
một nền nông nghiệp vững mạnh thì tỉnh đã đầu tư nhiều cho nông nghiệp và có
định hướng đầu tư hợp lí cho những lĩnh vực cần thiết.
Trong việc thống kê đầu tư ở Hà Tây còn chưa thật hệ thống và chính xác ,ngoài ra
còn có nhiều dự án của nhiều lĩnh vực chưa được thống kê đầy đủ nên các con số
trên chỉ là tương đối . Các lĩnh vực đầu tư khác bao gồm : đầu tư cho vệ sinh môi
trường ,nước sạch nông thôn . .. trong việc phân tích ta chủ yếu sử dụng số liệu dòng
(1) đến dòng (6) .
Qua bảng 6; ta thấy rằng tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp theo cơ cấu lĩnh vực
đầu tư ở dòng (6) là không ngừng gia tăng và với tốc độ khá cao .Cụ thể năm 1997
cao hơn năm 1996 là 81,6% ,năm 1999 cao hơn năm 1997 và cả năm 1998 , tốc độ
tăng vốn đầu tư 1999 so với 1998 là 5.4%. Còn năm 2000 là năm cao nhất của giai
đoạn 1996 -2000 có tổng vốn đầu tư 93.146 tỉ đồng ,nó cao gấp 1.95 lần năm 1996
và vốn đầu tư tăng hơn năm1999 là 1.11 %. Vốn đầu tư trong thời kỳ này tăng do nhà
nước đầu tư cho hệ thống đê điều trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cấp cải tạo khi chúng
đã có biểu hiện xuống cấp . Đồng thời cùng với tỉnh nhân dân trong các huyện nâng
cấp hệ thống thuỷ lợi : các trạm bơm ,kênh mương ...nhằm đáp ứng tưới tiêu và ổn
định sản xuất nông nghiệp.
Trong các lĩnh vực đầu tư , đầu tư cho đê điều luôn chiếm một vị trí ổn định và
chiếm tỷ trọng cao ,năm cao nhất 1997 chiếm tới 21.87% .Đầu tư cho lĩnh vực đê
điều là ổn định là bởi lẽ tỉnh Hà Tây có nhiều sông ,đặc biệt là sông Hồng ,sông luôn
có lượng nước thất thường và nguy hiểm .Tuy nhiên đầu tư cho đê điều nói chung
không tác động trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp .Đầu tư này góp phần an toàn hệ
thống đê ,để nhân dân trong toàn tỉnh ,các ngành kinh tế, không riêng gì nông nghiệp
được yên tâm sản xuất và kinh doanh .Do vậy mức đóng góp của nó không cao cho
sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn được tính vào đầu tư cho nông nghiệp .
Đáng kể nhất là vốn đầu tư cho hệ thống trạm bơm và kênh mương . Nguồn vốn
đầu tư từ nguồn này khá đa dạng : vốn ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương
,dân góp ,thuỷ lợi phí... Vốn đầu tư cho lĩnh vực này luôn chiếm một tỷ lệ cao thậm
chí là rất cao trong tổng vốn đầu tư ,ví dụ như : năm1996 ( vốn đầu tư 31.449 tỉ
đồng) chiếm 53.45%, năm 1998( vốn 63.07 tỉ đồng) là 56.07% ,năm1999 ( vốn
66.92 tỉ đồng )là 62.33% và đến năm 2000 là năm cao nhất, với vốn đầu tư 74.956 tỉ
đồng, chiếm 78.25%. Qua tỷ lệ trên ta thấy, nó đóng góp vai trò quan trọng vào quá
trình phát triển nông nghiệp .Đầu tư cho hệ thống kênh mương là chính sách khá hợp
lý của tỉnh . Bởi kênh mương các loại :cấp1, cấp 2, cấp 3 ở tỉnh đã xuống cấp .Trong
khi đó đòi hỏi tưới tiêu cho hệ thống nông nghiệp ngày càng cao. Nâng cấp hệ thống
kênh mương là điều tất yếu .
Đi sâu vào các năm ta thấy : năm 1996 vốn đầu tư khá lớn ,đến năm1997 hơn năm
1996 là 74.6% ,năm 1998 tăng 14.86% so với 1997,năm 1999 tăng 6.1% so với năm
1998 và năm 2000 tăng 19.92% so với năm 1999. Như vậy ,giai đoạn 1997 -2000
vốn đầu tư cho trạm bơm và kênh mương tăng mạnh và ở mức cao . Bởi trong giai
đoạn này tỉnh đầu tư mạnh cho hệ thống các trạm bơm Phụng Châu ,Gia Khánh và hệ
thống tưới tiêu Đồng Mô. Và đặc biệt là nhiều công trình do trung ương cấp vốn như
nâng cấp và cải tạo hệ thống sông Nhuệ , công trình hồ Quan Sơn ,cống Bến Mắm
(Sơn Tây)...
Đây là những công trình trọng điểm và liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế-xã hội
của tỉnh ,các trạm bơm còn cần cho sản xuất nông nghiệp...Do vậy đầu tư cho lĩnh
vực này là thích đáng .
Ngoài ra các lĩnh vực khác như giống, thú y ,bảo vệ thực vật cũng được quan tâm
đầu tư nhưng chúng lại có vốn khá nhỏ chiếm tỷ trọng thấp ,vốn đầu tư chủ yếu lấy
từ ngân sách tỉnh và thuế nông nghiệp ... Tuy vậy ta nhận thấy đầu tư cho các lĩnh
vực này là khá ổn định và ít biến động . Đầu tư ít không có nghĩa là có vai trò nhỏ,
mà những lĩnh vực này góp phần tạo ra một nền sản xuất mới với nhiều giống cây
trồng vật nuôi mới với những phương thức sản xuất tiên tiến . Trong khi các lĩnh vực
này chủ yếu từ nguồn thuế nông nghiệp và do đã phân tích ở phần thuế nông nghiệp
nên ta không đi sâu phân tích thêm bởi chúng không có sự khác biệt nhiều .Do nguồn
đầu tư như vậy nên đây là điều đáng lo ngại bởi tỉnh thiếu các các doanh nghiệp đầu
tư cho giống nông nghiệp nhằm đưa giống tư nơi khác về nhằm bán cho người dân
hoặc tự đầu tư cho mình.
Kết Luận, Đầu tư nông nghiệp Hà Tây theo cơ cấu lĩnh vực là tương đối toàn diện
và khá hợp lí nhưng tỉnh cũng đã đầu tư vào nhưng lĩnh vực trọng điểm ,cần thiết
nhất cho nông nghiệp .Trong thời gian tới tỉnh nên có những chính sách để thu hút
đầu tư cho công nghệ sinh học để phát triển những loại giống mới tốt hơn.
3.Theo cơ cấu lãnh thổ.
liên quan chặt chẽ và rất khó phân chia rõ ràng vốn đầu tư cho từng huyện như : dự
án cải tạo sông Nhuệ( đây là con sông chảy qua nhiều vùng trong tỉnh) , hay nhiều
công trình về đê điều; mặt khác việc thống kê và thu thập số liệu về vốn đầu tư của
các nguồn khác nhau cho từng huyện thị là rất khó. Cho nên để có thể tìm hiểu phần
nào về cơ cấu đầu tư của vùng lãnh thổ, nên ta chỉ có thể sư dụng vốn đầu tư ngân
sách địa phương và từ thuế nông nghiệp
( Nguồn: Kế hoạch đầu tư cho các ngành kinh tế hàng năm của tỉnh Hà Tây cho các
ngành kinh tế giai đoạn 1996 - 2000)
Có thể thấy đầu tư của tỉnh Hà Tây cho nông nghiệp phân bố tương đối đồng
đều cho 12 huyện và 2 thị xã. Nguồn vốn này tuỳ theo nhu cầu của ngành nông
nghiệp từng vùng mà có những kế hoạch đầu tư cần thiết. Do vậy vốn đầu tư của
từng năm cho mỗi huyện thị là khá biến động và không ổn định mặt khác tính chất dự
án và kiểu đầu tư cho các vùng không giống nhau.
Hai thị xã Hà Đông và Sơn Tây, các dự án tập trung đầu tư cho xây dựng trụ sở
hoặc cho hệ thống thú y và bảo vệ thực vật( Các trung tâm thú y và bảo vệ thực vật
của tỉnh thường đóng ở hai thị xã này).Hai nơi này chủ yếu phát triển công nghiệp và
dịch vụ trong khi nông nghiệp thì kém phát triển và không được chú trọng đầu tư.
Như Hà Đông , tổng vốn đầu tư cả giai đoạn 1996 -2000 là 4159 triệu đồng. Riêng
Sơn Tây có thêm dự án tưới tiêu hạ du Đồng Mô( tổng
vốn đầu tư 5000triệu đồng ) nên vốn đầu tư cao hơn.
Nhưng có lẽ nơi có được nhiều vốn đầu tư nhất là các huyện nông nghiệp. Bởi
vốn đầu tư cho nông nghiệp của tỉnh lại tập trung nhiều cho hệ thống trạm bơm và
kênh mương để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các huyện như Chương Mĩ , Quốc
Oai, Đan Phượng, Thanh Oai là những vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của
tỉnh . Những huyện này đóng góp không nhỏ vào giá trị sản xuất nông nghiệp . Mặt
khác hệ thống cơ sở hạ tầng ở đây là đã tương đối xuống cấp và lạc hậu ,nên việc
tưới tiêu vẫn chưa chủ động ,do vậy cần phải đầu tư xây dựng cho các trạm bơm
,kênh mương như các dự án : trạm bơm Cộng Hoà ở Quốc Oai có số vốn là 2280
triệu đồng (năm 1997) ; dự án trạm bơm tưới tiêu Phụng Châu ở Chương Mỹ với vốn
1430 triệu đồng (trong 2 năm 1997- 1998 ) ; dự án kênh nội đồng cấp 1 ở Đan
Phượng có vốn 2000 triệu đồng (năm1999) ; dự án trại giống lợn Thanh Hưng ở
Thanh Oai có vốn 2000 triệu đồng (năm 2000) .Đây là các dự án lớn và chủ yếu
.Nguồn vốn của các huyện này sẽ giúp cho sản xuất nông nghiệp phát triển hơn ,năng
suất và chất lượng ở mức cao hơn . Nhưng nhìn chung vốn cho các huyện này thay
đổi ,năm tăng,năm giảm . Và vốn đầu tư không những cho trạm bơm và kênh mương
mà còn cho cả các trạm nhân giống ,để phục vụ chung cho các huyện và cả tỉnh .
Có thể nói huyện được đầu tư nhiều nhất là huyện Thường Tín với vốn đầu tư cả
giai đoạn 1996- 2000 là 8303 triệu đồng. Huyện Thường Tín là một huyện có địa
hình trũng trong tỉnh và có nền nông nghiệp khá phát triển . Do vậy tỉnh tập trung
đầu tư cho hệ thống trạm bơm và kênh mương để phát triển thuỷ lợi và tưới tiêu ,như
dự án : trạm bơm tiêu Gia Khánh với tổng vốn đầu tư 6000 triệu đồng .
Các huyện còn lại như Ba Vì ,Phú Xuyên ... là những huyện có diện tích đồi núi lớn
cho nên nông nghiệp không thể phát triển mạnh được nên nhu cầu về vốn đầu tư rất
thấp .
Xét theo cơ cấu lãnh thổ thì đầu tư của tỉnh là tương đối khoa học và hợp lý . Đầu
tư đã đi vào trọng điểm và từng vùng .
Còn tính theo từng năm ta thấy vốn đầu tư của tỉnh cho nông nghiệp là không
ngừng gia tăng ,năm sau thường cao hơn năm trước . Năm 1996 chỉ là 2948 triệu
đồng thì đến các năm sau đã tăng vọt , như năm 1997 là 13500 triệu đồng ,tăng rất
cao so với năm 1996 ; năm 1998 cao hơn năm1997 và năm 1999 là năm cao nhất với
vốn đầu tư 14980 triệu đồng ,năm này còn đầu tư cho nhiều dự án quan trọng và đầu
tư trên diện rộng . Năm 2000 có giảm đi đôi chút nhưng vẫn ở mức cao .
Tóm lại đầu tư đã góp phần phát triển toàn diện nông nghiệp Hà Tây trên các
huyện thị .
Kết Luận : Đầu tư cho nông nghiệp tỉnh Hà Tây đã có sự phát triển vượt bậc , góp
phần quan trọng vào sự phát triển của ngành và của toàn tỉnh .
IV. Kết quả và hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây
1. Kết quả đầu tư
1.1 Những ảnh hưởng chung tới sự phát triển kinh tế toàn tỉnh
Nhờ những công cuộc đầu tư đạt những thành công trong lĩnh vực nông nghiệp
nên ngành nông nghiệp tỉnh Hà tây có những sự phát triển mạnh mẽ. Trong khi đó,
Hà Tây lại là một tỉnh mà có quá trình phát triển kinh tế xã hội và đời sống của đại bộ
phận lớn dân cư phụ thuộc rất nhiều vào ngành nông nghiệp. Khi ngành nông nghiệp
phát triển thì sẽ đóng vai trò quan trọng đưa nền kinh tế đi lên. Để xem xét ảnh
hưởng của đầu tư nông nghiệp tới kinh tế tỉnh thì ta có thể xét tới chỉ tiêu GDP của
toàn tỉnh và tốc độ tăng trưởng của các tỉnh trong thời gian qua.
Như vậy, Hà Tây có tốc độ tăng giá trị tương đối cao, năm sau luôn giữ một giá trị
cao hơn so với năm trước. Trong đó năm có giá trị GDP cao nhất là năm 2000 với giá
trị 7540 tỉ đồng. Những thành công này là một điều đáng mừng cho toàn tỉnh.Những
dự án đầu tư vào nông nghiệp đúng trọng điểm, đúng nơi và luôn hiệu quả đã tạo ra
cho ngành nông nghiệp một cơ sở hạ tầng hiện đại, những giống cây trồng vật nuôi
mới , những phương thức làm kinh tế hiện đại đã góp phần làm cho ngành nông
nghiệp đi lên, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế toàn tỉnh , Do vậy trong thời kì này
tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao lên đến14.97%, cao hơn nhiều so với tốc độ
tăng trưởng GDP của cả nước khoảng 6%. Như vậy Hà Tây là tỉnh có sự phát triển
kinh tế khá cao trong cả nước. Năm đầu của giai đoạn là năm 1996 có tốc độ tăng
trưởng rất cao với 14,2%. Đến năm 1997 Hà Tây có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp
nhất , với 6.5 %. Năm 1997 mặc dù tỉnh đầu tư khá cao vào nông nghiệp nhưng tỉnh
vẫn có tốc độ tăng trưởng thấp là do ảnh hưởng của tình hình suy giảm kinh tế chung
trong cả nước và những dự án đầu tư trong năm này chưa phát huy tác dụng và mới
đi vào hoạt động. Các năm tiếp theo,đầu tư đều tăng và nhiều thành quả đầu tư bắt
đầu phát huy tác dụng nên có tốc độ tăng trưởng cao năm nào cũng trên 10 % . Cùng
với tăng trưởng GDP cao nên đời sống nhân dân trong tỉnh không ngừng được cải
thiện, giáo dục đào tạo, y tế được nâng lên, đặc biệt là đời sống của những người
nông dân nâng cao rõ rệt, giảm hộ đói nghèo... Như vậy đầu tư trong ngành nông
nghiệp đã góp phần quan trọng cho sự thành công kinh tế tỉnh.
1.2.Đối với sản xuất nông nghiệp
Với sự quan tâm của nhà nước, của tỉnh uỷ , UBND tỉnh và của toàn dân cho
ngành nông nghiệp, nên thời gian này ngành đã phát triển không ngừng và vững
chắc. Tuy nhiên, những thành công của các công cuộc đầu tư: như đầu tư đúng
hướng, đúng trọng điểm, đúng lĩnh vực và có hiệu quả cao... mới chính là nhân tố
quyết định tới ngành công nghiệp, một sự phát triển tương đối toàn diện và với tốc độ
cao. Có thể nói giai đoạn 1996 - 2000 là thời kì mà nông nghiệp tỉnh Hà Tây nhận
được sự đầu tư mạnh nhất và rông nhất của nhà nước , của tỉnh so với các giai đoạn
trước đó. Chính vì vậy mà sản xuất nông nghiệp phát triển, năng suất cây trồng vật
nuôi không ngừng tăng lên , chất lượng nông sản nâng cao rõ rệt...Vì vậy mà ngành
nông nghiệp có những bước tiến vượt bậc. Ta thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp (
GO)theo giá cố định năm 1994 tỉnh là không ngừng gia tăng.
Như vậy , ta thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp trong thời gian những
năm qua là không ngừng tăng lên. Năm nào giá trị sản xuất của nông nghiệp của Hà
Tây cũng cao hơn năm trước nó( chỉ trừ năm 1997 là không tuân theo xu hướng này
).Trong thời kì 1996 - 2000 ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây có tốc đọ tăng trưởng
khá cao với bình quân là 5.5 %. Như vậy ta thấy phần nào được sự ảnh hưởng của
những công cuộc đầu tư tới sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên để thấy rõ hơn nữa hiệu
quả của đầu tư trong nông nghiệp, ngoài chỉ tiêu GO ,ta sử dụng chỉ tiêu GDP
ngành nông nghiệp (theo giá hiện hành) và tỉ trọng của GDP này trong tổng GDP
của toàn tỉnh.
Qua bảng GDP toàn tỉnh và GDP ngành nông nghiệp, ta thấy rằng năm 1997 là
năm mà không chỉ ngành nông nghiệp mà toàn nền kinh tế Hà Tây đều có giá trị thấp
nhất.Đi sâu vào phân tích ngành nông nghiệp,năm 1997 có giá trị thấp thì thấy trong
bảng 4 năm 1997 có vốn đầu tư lớn trong khi đó năm 1996 các năm trước đó giá trị
đầu tư cho nông nghiệp là rất thấp. Như vậy tại năm 1997, vốn đầu tư của năm này
chưa phát huy tác dụng( do đầu tư có độ trễ ), còn các năm trước đó đầu tư kém và
hiệu quả không cao. Các năm sau đó do tỉnh kịp thời có các chính sách và biện pháp
về đầu tư và khuyến khích sản xuất nông nghiệp nên nguồn vốn đầu tư cho nông
nghiệp tăng lên, từ đó làm cho GDP ngành nông nghiệp các năm 1998 ,1999, 2000
tăng lên rõ rệt. Cụ thể ,so với năm 1997; năm 1998 tăng 19.67 %, năm 1999 tăng hơn
năm 1998 là 8.01 %, năm 2000 có tốc độ tăng so với năm 1999 là 10 % và năm có
giá trị cao nhất.
Còn xét về tỉ trọng trong GDP toàn nền kinh tế của tỉnh thì GDP ngành nông
nghiệp luôn chiếm một vị trí quan trọng, và chiếm phần lớn nhất, thể hiện năm nào
cũng chiếm tỉ trọng trên 40%. Tuy nhiên, tỉ trọng này có xu hướng giảm dần theo
thời gian, như năm 2000 có giá trị GDP cao nhất lại có tỉ trọng thấp nhất trong GDP
toàn tỉnh với 41%. Nền kinh tế tỉnh Hà Tây vẫn phụ thuộc vào sản xuât nông nghiệp
và đây vẫn là ngành kinh tế chính nhưng tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển ngành
công nghiệp và dịch vụ để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đây là một tín hiệu không vui
cho ngành nông nghiệp nhưng nếu xét toàn nền kinh tế Hà Tây thì lại đáng mừng.
Tóm lại, nông nghiệp Hà Tây nhờ có những công cuộc đầu tư hiệu quả , kịp thời
nên nó đã có sự phát triển không ngừng trong thời gian qua.
1.3Tác động đến cơ cấu ngành nông nghiệp.
Nhìn vào cấu đầu tư theo lĩnh vực , đầu tư cho nông nghiệp tỉnh Hà Tây ,
đầu tư cho ngành thuỷ lợi chiếm tỉ trọng lớn, thuỷ lợi phát triển thì ngành trồng trọt
sẽ có lợi hơn trong việc phát triển sản xuất. Tuy nhiên ngành chăn nuôi cũng được
đầu tư không kém và được tỉnh định hướng phát triển do nó có tốc độ tăng trưởng
cao nên ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất ngành nông nghiệp. Ta sẽ
biết rõ hơn về kết quả đầu tư thông qua cơ cấu ngành nông nghiệp.
Như đã nói , giá trị sản xuất nông nghiệp tỉnh Hà Tây tăng khá. Trong cả
ngành nông nghiệp thì cả lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi đều có sự tăng trưởng
trong những năm qua. Nếu xét về cơ cấu thì tỉ trọng ngành chăn nuôi có giá trị khá
thấp so với ngành trồng trọt. Nhưng nó lại có vị trí ngày càng cao trong giá trị sản
xuất nông nghiệp. Như năm 1996, mới chiếm có 28.9 %, đến năm 1999 là 32%, năm
2000 chiếm 32.9 %. Chăn nuôi chiếm tỉ trọng cao thể hiện việc chú trọng đầu tư của
tỉnh cho chăn nuôi: như đầu tư cho hệ thống giống lợn, bò sữa, hệ thống bảo vệ thú
y... là thành công cho kết quả tốt, và với cơ cấu này chứng tỏ Hà Tây đang xây dựng
cho mình một nền nông nghiệp ngày càng hiện đại.
Ta sẽ xem xét kết quả cụ thể trong từng ngành
Ngành trồng trọt.
Nhìn chung ngành này có tốc độ tăng trưởng tương đối chậm, nhưng cụ thể
của từng loại cây trồng là khác nhau. Hệ thống kênh mương, trạm bơm, giống những
yếu tố cần thiết cho sản xuất nông nghiệp được tỉnh đầu tư mạnh , sản xuất của
ngành trồng trọt chịu tác động của những dự án đầu tư này nên thu được những thành
tựu khả quan .
Như vậy, sản lượng lương thực qui thóc của ngành là không ngừng tăng lên,
tốc độ tăng khá cao, với giá trị sản lượng lớn.Điều này cho thấy ngành trồng trọt có
một bước tiến khávà đảm bảo được nhu cầu vê lương thực cho toàn tỉnh. Kết quả này
cho thấy cây lúa không còn là cây độc canh mà tỉnh đã đa dạng hoá cây trồng, với
các loại cây khác đã từng bước khởi sắc.Cụ thể các loại cây lương thực chủ yếu của
tỉnh có sự thay đổi sau.
Qua bảng 13, ta thấy là các loại cây như ngô, lạc đậu tương.. đều tăng sản lượng ,
chứng tỏ các công cuộc đầu tư có ảnh hưỏng mạnh tới sản xuất . Để cụ thể hơn ta lấy
cây lúa,sản lượng lúa không ngừng tăng lên; không những thế năng suât lúa cũng
tăng rõ rệt.. Năm 1996 năng suất chỉ là 41.61 tạ/ha, năm 1997 là 41.56 tạ.ha, và đã
tăng lên tới 49.12 tạ/ha năm 1999, còn đến năm 2000 thì lên khá cao với 54.95 tạ/ha.
Như thế , ta thấy hiệu quả lao động của người nông dân tốt hơn trước.Có được kết
quả như vậy là do tỉnh đầu tư cho hệ thống tưới tiêu, cho việc phát hiện những loại
giống mới.
Tóm lại, ngành trông trọt của tỉnh có những bước chuyển biến tích cực, cả năng
suất và chất lượng nhiều cây trồng đều tăng cho thấy đầu tư của tỉnh là khá hiệu quả
Ngành chăn nuôi
Đây là ngành trong tương lai sẽ chiếm một vị trí then chốt trong sự phát triển
ngành nông nghiệp. Chăn nuôi tỉnh Hà Tây có những bước tiến dài và vững chắc.
Số lượng các loại gia súc gia cầm của tỉnh thay đổi hàng năm và có sự biến động
theo xu hướng có lợi cho ngành nông nghiệp. Đàn trâu có số lượng giảm là điều hợp
lí bởi ngành nông nghiệp được cơ giới hoá nên không có nhu cầu dùng sức kéo của
con trâu . Tuy nhiên đàn bò lại thay đổi thất thường, trong khi tỉnh Hà Tây rất thuận
lợi cho chăn nuôi bò sữa, như vậy tỉnh chưa có chính sách đầu tư thoả đáng.Nói
chung, kết quả của đầu tư thể hiện qua đàn lợn của tỉnh, giai đoạn này tỉnh khuyến
khích nông dân nuôi lợn thịt, đồng thời đầu tư cho trại lợn giống Thanh Hưng.. do
vậy mà số lợn tăng, không những thế mà khối lượng thịt xuất chuồng cũng tăng cao
với bình quân là 8%. Tỉnh có đàn lợn phát triển cho thấy nền nghiệp tỉnh có chuyển
biến theo hướng tiến dần tới sản xuất hàng hoá và khai thác hiệu quả những thế mạnh
của mình.Kết quả này chứng minh ngành chăn nuôi của tỉnh đã phát huy tốt vai trò
của mình, là ngành mũi nhọn.
Tóm lại , những tín hiệu đáng mừng của ngành nông nghiệp là minh chứng rõ cho
kết quả của những công cuộc đầu tư. Đầu tư vẫn là nhân tố quyết định cho sự phát
triển ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây
1.4 Đối với hệ thống thuỷ lợi.
Trong thời gian này ,có thể nói hệ thống thuỷ lợi là được tỉnh chú trong đầu tư
nhất . Những kênh mương, trạm bơm không ngừng được nâng cấp và cải thiện. Thuỷ
lợi phát triển sẽ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho các vùng sản xuất đồng thgời cũng giải
quyết tình trạng ngập úng cho nhiều địa phương.Các công cuộc đầu tư đã được thực
hiện tốt và ngày càng hiệu quả đãgiúp cho ngành thuỷ lợi thực hiện được yêu cầu
này.
Trong giai đoạn 1996 -2000, diện tích tưới tiêu chủ động là ngày càng tăng , nó
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích tưới cho ngành nông nghiệp. Trong khi đó
diện tích tưới chưa chủ động giảm đi và càng ngày càng ít những diện tích tưới mà
chưa có công trình .Như vậy ta thấy rõ ảnh hưởng của những công cộng đầu tư tới
sản xuất nông nghiệp thông qua diện tích tưới tiêu.
Trong những năm qua diện tích tưới chủ động tăng khá đều. Năm 1997 tăng 3.69 %
so với 1996, 1998 tăng 1 % so với 1997. Đến năm 2000, diện tích tưới chủ động là
80010 ha, tăng 0.7% so với năm 1999( diện tích tưới :79450 ha ).Như vậy tốc độ tăn
diện tích tưới chủ động giảm dần do diện tích để trồng trọt có hạn không thể tăng cao
được, nhưng bù lại chất lượng tưới tiêu lại rất tốt và kịp thời.
Bên cạnh hệ thống tưới tiêu hệ thống trạm bơm cũng giải quyết nạn ngập úng ở
nhiều vùng thấp trong tỉnh. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt kết quả cao khi
không thiếu nước cũng như không được thừa nước. Các trạm bơm , kênh mương sẽ
góp phần quan trọng trong việc tiêu thoát nước cho các nơi thấp.
Ta thấy rằng tình hình ngập úng của tỉnh Hà Tây được cải thiện đáng kể trong
những năm vừa qua. Dù với lượng mưa nào thì với hệ thống thuỷ lợi tốt và khá hiện
đại ,diện tích bị ngập úng đều giảm đi rõ rệt, từ đó làm tăng diện tích trồng trọt và
góp phần quan trọng cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại, đầu tư đã làm cho hệ thống thuỷ lợi Hà Tây chủ động trong việc tưới tiêu,
ổn định lượng nước của từng vùng từng thời gian.
2. Hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp.
Như đã trình bày, để tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp, ta có thể sử dụng
nhiều chỉ tiêu khác nhau như: GDP /Vốn đầu tư, số việc làm tăng thêm, lợi ích kinh
tế xã hội...Tuy nhiên trong ngành nông nghiệp Hà Tây, việc thu thập số liệu, và thống
kê gặp rất nhiều khó khăn cho nên tính nhiều chỉ tiêu khó thực hiện được hiện .Vì
vậy để tính hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp tỉnh ta sẽ sử dụng một số chỉ tiêu tiêu
biểu sau để xem xét.
2.1 Chỉ tiêu GDP/ GO
Trong đó: + GO: giá trị sản xuât nông nghiệp( theo giá cố định 1994)
+GDP: tổng sản phẩm ngành nông nghiệp( theo giá cố định 1994)
GDP = GO - chi phí trung gian
Ta thấy rằng tỷ lệ GDP/ GO của tỉnh Hà Tây là tương đối cao, với mức bình quân
trên 0.7 lần. Về mặt lí thuyết , tỉ lệ này càng gần một càng tốt( tức chi phí trung gian
giảm tối thiểu), tỉ lệ GDP /GO của nông nghiệp Hà Tây như vậy là rất tốt. Chứng tỏ
các thành quả của công cuộc đầu tư tỉnh Hà Tây đã phục vụ trực tiếp cho sản xuất,
giảm được những chi phí trung gian không cần thiết. Qua đó có thể nói rằng đầu tư
nông nghiệp của tỉnh là khá hiệu quả.
2.2Chỉ tiêu GDP / Vốn đầu tư
Bảng chỉ tiêu GDP/ Vốn đầu tư
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
GDP/ vốn đầu tư 40.08 19.63 23.11 26.15 32.26
Trong đó:
+ GDP ngành nông nghiệp tính theo giá hiện hành
+ vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư ngành nông nghiệp trong từng năm
Qua bảng ta có thể thấy rằng tỉ lệ GDP / vốn đầu tư của nông nghiệp Hà Tây là
tương đối cao . Nó cho biết tỉ lệ tương ứng giữa GDP và vốn đầu tư: GDP gấp bao
nhiêu lần vốn đầu tư của cùng năm đó và cũng cho biết mức độ tiết kiệm của nền
kinh tế và hiệu quả của đồng vốn đầu tư của tỉnh. Nếu tỉ lệ tích luỹ và tiết kiệm của
nền kinh tế cao(tức là mức tiết kiệm của nền kinh tế bằng 30- 35 % GDP,nếu đảo
ngược lại nghĩa là GDP gấp 3,4 lần mức tích luỹ tiết kiệm(hay vốn đầu tư )). Như
vậy ta thấy mức độ tiết kiệm trong nông nghiệp của Hà Tây không cao, rất thấp .
2.3 Chỉ tiêu GDP tăng thêm/ Vốn đầu tư
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
GDP tăng thêm / vốn đầu tư 3.8 -1.9 3.8 1.94 2.94
Trong đó: (GDP nông nghiệp: tính theo giá hiện hành)
GDP tăng thêm = GDP năm sau - GDP năm trước nó
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng GDP. Chỉ tiêu
này của nông nghiệp Hà Tây biến đổi khá thất thường. Năm 1997, do nền kinh tế tỉnh
suy thoái so với năm 1996 nên GDP tăng thêm âm, nên chỉ tiêu trên cũng có giá trị
âm. Hai năm 1996,1998 , chỉ tiêu trên có giá trị khá cao, còn năm 1999, 2000 lại
giảm đi. Thông thường trong nền kinh tế Việt Nam, tỉ lệ này là nhỏ hơn một. Với kết
quả trên cho thấy nông nghiệp tỉnh Hà Tây thiếu vốn đầu tư và thừa nhiều lao động.
Có thể nói vốn đầu tư bỏ ra có hiệu quả lớn , có tác động mạnh tới việc tăng sản
phẩm của nông nghiệp tỉnh.
2.4 Chỉ tiêu: sản lượng lương thực bình quân đầu người qui thóc
Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000
Bình quân đầu người Kg 342 338 387 414 414
( Nguồn: Biểu số liệu kèm theo báo cáo thực hiện kinh tế - xã hội nhiệm kì 1996 -
2000 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 tỉnhHà Tây )
Qua trên ta thấy bình quân sản lượng lương thực đầu người qui thóc của tỉnh Hà
Tây là khá cao, năm thấp nhất 1997, với 338 kg/ người, năm cao nhất 71999,2000
với 414 kg/ người, và ngày càng tăng theo thời gian. Điều này cho thấy nông nghiệp
của tỉnh phần nào đã đáp ứng được sự an toàn về lương thực và thực phẩm cho người
dân tỉnh. Như vậy các công cuộc đầu tư trong nông nghiệp đã thực sự có hiệu quả và
đã có tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp.
2.5 Hiệu quả lao động và thu nhập của nông dân.
Trong tỉnh Hà Tây ,lao động trong nông nghiệp vẫn là chủ yếu, giai đoạn1996 -
2000, lực lượng này nhìn chung không có sự biến đổi lớn về lượng. Các dự án đầu tư
nói chung do có sử dụng lao động địa phương nên đã tạo nhiều việc làm cho người
dân địa phương trong thời gian nhàn rỗi. Nhưng ảnh hưởng quan trọng của các công
cuộc đầu tư là đã làm tăng tính hiệu quả về thời gian lao động cho người nông dân
nghĩa là mức thu nhập của họ trong mộtthời gain lao động là cao hơn trước. Như vậy
có thể coi người nông dân trong nông nghiệp có thêm việc làm. Ngoài ra các công
cuộc đầu tư đã tạo điều kiện cho nhiều người dân làm giàu và thu nhập của họ tăng
thêm rõ rệt. Ngày nay ở nông thôn tỉnh Hà Tây đã có nhiêu gia đình nông dân đã có
những thiết bị sinh hoạt hiện đại như Tivi, Tủ lạnh, xe máy, đài ...Điều này chứng tỏ
đầu tư nông nghiệp đã góp phần tạo không nhỏ công ăn việc làm vạo tăng thu nhập
cho nông dân
Ngoài chỉ tiêu có thể tính rõ này , ta cũng có thể rút ra được những hiệu quả
khác như đầu tư đã làm cho cơ cấu lao động trong nông nghiệp tỉnh thay đổi rất tiến
bộ, giảm sự vất vả cho người nông dân trong sản xuất mang lại hiệu quả cao. Đồng
thời mức thu nhập của người nông dân của tỉnh cũng được nâng cao hơn trước, các
công trình đầu tư còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội khác như góp phần cải
thiện đời sống người dân tỉnh...
Chương III. Phương hướng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
I.Định hướng phát triển ngành nông nghiệp
1. Định hướng chung của Đảng và Nhà nước.
Hà Tây là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, do vậy tuân theo những đường
lối chung của Đảng và nhà nước là một điều tất yếu. Phương hướng phát triển nông
nghiệp tỉnh Hà Tây cũng chịu chi phối bởi các đường lối và chích sách của Đảng và
nhà nước. Trên cơ sở những chích sách của Nhà nước mà trong cả Báo cáo trình đại
hội IX của Đảng vừa qua, phương hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới
là:
Tiếp tục đẩy mạnh và có ưu tiên phát triển ngành nông nghiệp; bên cạnh quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước chúng ta phải tiến hành công nghiệp
hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch lại cơ cấu ngành nghề ,
hình thành nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường và điều
kiện sinh thái từng vùng . Tiếp tục cơ giới hoá nông nghiệp, đưa máy móc áp dụng
đại trà vào ngành nông nghiệp.
Xây dựng một cơ cấu nông nghiệp hợp lí theo đó tiếp tục phát triển ổn định
ngành trồng trọt và đẩy mạnh ngành chăn nuôi để biến ngành chăn nuôi sẽ là ngành
chính trong sản xuất nông nghiệp. Thông qua chúng ta tiếp tục ổn định cây lúa, nâng
cao giá trị và hiệu qua của việc xuất khẩu gạo. Còn trong ngành chăn nuôi , phát triển
và nâng cao chất lượng , hiệu quả chăn nuôi gia súc gia cầm, áp dụng rộng rãi
phương pháp nuôi công nghiệp
Sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm thô chưa qua chế biến do vậy có giá trị
thấp trên thị trường. Mặt khác nhiều vùng có khối lượng nông sản lớn, việc tiêu thụ
khó khăn và khó bảo quản lâu. Vì vậy trong tương lai cần gắn công nghiệp chế biến
đối với từng vùng sản xuất nông nghiệp. Mỗi vùng sẽ có một số nhà máy công
nghiệp chế biến phù hợp nhằm khai thác hết thế mạnh của những nơi này
Tăng cường tiềm lực khoa học kĩ công nghệ cho nông nghiệp, nhất là công nghệ
sinh học trong lai tạo và sản xuất giống. Đây là lĩnh vực quan trọng đối với nông
nghiệp, giống cây trồng ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả sản xuất nông nghiệp.Cùng
với đó ,chúng ta đưa những công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản nông
sản và cả công nghệ sạch vào sản xuất rau quả.
Hoàn thiện và cải tạo hệ thống đê điều, thuỷ lợi ở các vùng kinh tế, đảm bảm ổn
định sản xuất và bảo đảm nước tưới cho các khu vực sản xuất nông nghiệp
Như vậy, định hướng phát triển nông nghiệp của Đảng là rất thiết thực và phù hợp
với ngành nông nghiệp Việt Nam. Điều này cho phép trong tương lai nông nghiệp
nước ta tiếp tục phát triển ổn định và bền vững.
2.Đường lối chính sách của tỉnh.
Trên cơ sở đường lối chung của Đảng và nhà nước,tỉnh uỷ, UBND tỉnh Hà Tây
đã dựa trên tình hình thực tế sản xuất nông nghiệp và điều kiện cụ thể của tỉnh đã
đưa ra phương hướng phát triển nông nghiệp trong thời gian tới.
Không ngừng hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông hiệp như thuỷ
lợi,(trong đó trung tâm là hoàn thành các chương trình kiên cố kênh mương) .Cần
tiếp tục nghiên cứu và áp dụng các giống cây trồng vật nuôi với năng suất và chất
lượng cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh. Tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi
từ 33 % năm 2000 nên tới 40 % năm 2010, đảm bảo dần dần chăn nuôi sẽ là ngành
nông nghiệp chủ yếu.
Đối với ngành trồng trọt
Tiền hành sản xuất tập trung những cây trồng mới theo hướng qui hoạch cụ thể.
Trong đó cây lúa được trồng ở cá huyện như Thường Tín, Chương Mĩ, Thanh Oai...,
còn các cây ăn quả tập trung dọc đường quốc lộ. Mục tiêu là đảm bảo sản lượng
lương thực tiếp tục ở mức trên 1 triệu tấn,bình quân lương thục đầu nguời là 400
kg.Các cây ăn quả sẽ ngày càng chiếm vị trí cao . Cây công nghiệp được ưu tiên phát
triển theo đó tỷ trọng từ 12 % năm 2000 lên 20 % năm 2010.
Đối với ngành chăn nuôi
Không ngừng nâng cao giá trị sản xuất , áp dụng những giống vật nuôi mới và
những kĩ thuật chăn nuôi tiên tiến. Cụ thể tiến hành chăn nuôi trên diện rộng với bò
sữa ở huyện Bà Vì và một số vùng phù hợp; với đàn lợn được chăn nuôi trong mỗi
gia đình, và nâng cao hơn nữa chất luợng thịt.
Cụ thể các chỉ tiêu chăn nuôi của tỉnh năm 2005 như sau:
+ Đàn lợn: 1 300 000 con
+ Đàn trâu: 28 000 con
+ Đàn bò: 95 000 con; trong đó bò sữa 3000 con
+ Đàn gia cầm 10 triệu con
+Sản lượng: 15 000 tấn
Có thể khẳng định rằng phương hướng và mục tiêu của tỉnh đối với sản xuất nông
nghiệp là rất phù hợp với đường lối chung của đất nướcđồng thời lại hợp với khả
năng của tỉnh. Chính điều này sẽ góp phần làm cho nông nghiệp của tỉnh có thể phát
triển hơn trong tương lai.
II. Những vấn đề tồn tại trong thời gian qua
Bên cạnh những thành tựu đạt được, đầu tư nông nghiệp tỉnh Hà Tây trong thời
gian vừa qua vẫn còn một số tồn tại làm giảm kết quả và hiệu quả đầu tư . Cụ thể:
+ Công tác lập kế hoạch đầu tư còn chưa thật sâu sát, chưa đúng hướng, không
sắp xếp một cạh khoa học các vùng các dự án cần ưu tiên đầu tư
+ Đầu tư còn bị dàn trải trên diện rộng, chưa có những trọng điểm trọng tâm , vốn
đầu tư có xu hướng phân bố đều theo vùng với một tỉ lệ nhất định mà chưa chú ý tới
điều kiện cụ thể của những địa điểm hay những nơi nào cần phải đầu tư nhiều hơn ,
chú ý hơn
+Đầu tư mạnh nhằm hiện đại hoá cho hệ thống thuỷ lợi là rất tốt nhưng lại ít chú ý
đầu tư cho hệ thống giống , điều này sẽ tạo ra sự phát triển thiếu toàn diện,
ngành nông nghiệp trong tương lai sẽ khó phát triển mạnh được và khó có thể chuyển
dịch cơ cấu theo mong muốn
+ Đầu tư chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi vẫn chưa đạt được
mục tiêu đề ra
+Việc huy động vốn đầu tư làm chưa thật hiệu quả, nguồn vốn của dân cư , doanh
nghiệp chưa được khai thác sử dụng cho đầu tư một cách triệt để, vốn đầu tư nước
ngoài rất hiếm. Việc sử dụng vốn ngân sách còn nhiều lãng phí, chưa thất hiệu quả
+Công tác quản lí dự án đầu tư còn lỏng lẻo, nhiều cơ quan có nhiệm vụ về quản lí
đầu tư còn có một số sai phạm cần khắc phục
+ Chưa có những chính sách thật phù hợp thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư và
khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp: như chính sách về thuế nông nghiệp, chính
sách ruộng đất , chính sách khuyến nông, chính sách về giáo dục đào tạo kiến thức
cho người nông dân...
Những tồn tại trên đã làm giảm tính hiệu quả của đầu tư phát triển ngành nông
nghiệp; vì vậy để phát huy hơn nữa vai trò của đầu tư , trong thời gian tới cần có
những giải pháp thiết thực.
III. Giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp Hà Tây
Dựa vào những phương hướng phát triển nông nghiệp và trên cơ sở những vấn
đề còn tồn tại trong đầu tư nông nghiệp thời gian qua. Ta có đưa ra một số biện pháp
chủ yếu cho đầu tư nông nghiệp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư nông
nghiệp.
1.Giải pháp về chính sách đầu tư.
1.1.Chính sách của các cấp chính quyền.
* Tiếp tục coi phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nướchiện nay, bên cạnh
việc chú trọng phát triển công nghiệp và dịch vụ , chúng ta không được coi thường
việc phát triển nông nghiệp. Đây là vấn đề hết sức quan trọng cho sự ổn định và phát
triển kinh tế đất nước.Bởi vì hiện nay nông nghiệp vẫn là một ngành kinh tế chủ yếu,
giá trị hàng xuất khẩu nông lâm thuỷ sản chiếm giá trị không nhỏ trong tổng hàng
xuất khẩu Việt Nam.Trong khi đó, nông nghiệp và nông thôn, với hơn 70 % dân số là
một thị trường giàu tiềm năng và chưa được khai thác là mấy. Nước ta xuất khẩu
nhiều nông sản nhưng theo nhiều nhà kinh tế nước ta chưa được an toàn hẳn về
lương thực. Ví dụ như năm 1999, 2000 , tình trạng giảm phát ở nước ta là do một
nguyên nhân khá quan trọng là thu nhập của người nông dân giảm, sức tiêu thụ ở
nông thôn giảm, trong khi dân số nước ta lại có tới 70 % sống ở nông thôn và làm
nông nghiệp, kéo theo thị trường cả nước giảm theo và công nghiệp từ đó trì trệ và
giảm sức sản xuất.Trước tầm quan trọng đó của ngành nông nghiệp mà Đảng và nhà
nước cần tiếp tục chú trọng phát triển nông nghiệp, tiếp tục đầu tư để nhằm thu hút
các nguồn đầu tư khác cho ngành nông nghiệp . Có như vậy, nông nghiệp phát triển
hơn nữa từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế khác đi lên.
Đối với tỉnh Hà Tây, là một tỉnh nông nghiệp nên trong thời gian tới vẫn cần ưu
tiên phát triển cho ngành nông nghiệp, tránh tư tưởng chủ quan do mình đã có thành
tích. Trong các chủ chương chính sách tỉnh cần tiếp tục nêu cao ngọn cờ phát triển
nông nghiệp và nông thôn bên cạnh những chính sách đầu tư phát triển ngành công
nghiệp và dịch vụ. Có như thế một bộ phận dân chúng của tỉnh mới cải thiện đời
sống , nhiều ngành kinh tế và nhiều thành phần kinh tế tăng trưởng theo, làm cho
kinh tế cả tỉnh phát triển. Coi trọng và đầu tư cho nông nghiệp phải năm trong kế
hoạch phát triển tương lai của tỉnh.
* Chính sách đối với vốn đầu tư từ ngân sách.
Nguồn vốn từ ngân sách đóng góp không nhỏ cho sự phát triển nông
nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây nói riêng. Vì thế
trong những năm tới nhà nước và tỉnh cần tiếp tục tăng số vốn đầu tư cho nông
nghiệp ( tỉ trọng có thể giảm). Nguồn vốn này cần đầu tư vào các công trình trọng
điểm hay các công trình có tầm quan trọng để thúc đẩy sản xuất hoặc nhằm thu hút
các nguồn vốn khác đầu tư cho nông nghiệp khi họ thấy nông nghiệp có lợi hoặc nhà
nước góp vốn với các doanh nghiệp hoặc dân cư để đầu tư cho những dự án cần
thiết.Vốn ngân sách tỉnh Hà Tây cũng nên đầu tư mạnh hơn nữa vào việc phát triển
những giống mới , không nên quá chú trọng đầu tư cho thuỷ lợi bởi những công trình
này có thể kêu gọi sự góp vốn của người dân.
* Về thuế nông nghiệp.
Thuế nông nghiệp ở đây gồm thuế đất ,thuế đánh vào kết quả sản xuất nông
nghiệp...có thể nói thuế có ảnh hưởng rất lớn đối với đầu tư và việc sản xuất của
người dân. Đối với thuế sử dụng đất , bên cạnh thuế suất thấp như hiện nay , các cơ
quan chính quyền địa phương nên có mức thuế suất linh hoạt đối với từng loại đất và
tránh tình trạng cứng nhắc: tính chuẩn bình quân cả năm gây cho các loại đất, sẽ gây
thiệt hại cho những người nhân nơi đất xấu.Các cơ quan thu thuế cũng cần ghi rõ
ràng các khoản thu thuế và có hoá đơn đói với người dân để họ có thể nộp thuận lợi ,
không bị gò ép.
Trong mức thuế đánh vào kết quả sản xuất và lao động của người dân, cần giảm bớt
mức thuế đối với những hộ nông dân nghèo. Thuế nông nghiệp nên là công cụ để
phân phối thu nhập chứ không nên là rào cản đối với việc làm giàu của người dân.
Thuế cũng không nên đánh vào những hộ nông dân có thu nhập cao khi họ mới
thành công trong việc sản xuất theo những mô hình kinh tế mới . Ví dụ như thuế
đánh vào các hộ nông dân có thu nhập cao,khi họ tiến hành thành công việc sản xuất
nông nghiệp theo mô hình kinh tế trang trại.
Đối với các miền gặp khó khăn nên có sự miễn giảm thuế nhiều hơn. Nguồn
thuế này nhà nước cũng cần trao lại cho địa phương để tái đầu tư cho ngành nông
nghiệp và nhà nước sẽ quản lí chặt qúa trình sử dụng. Thuế nông nghiệp nên có mức
hợp lí và không nên để nó là công cụ cản trở đối với sản xuât nông nghiệp.
* Chính sách đối với đất nông nghiệp
Ta biết rằng trong sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuât hàng đầu, do vậy
mọi sự thay đổi trong chính sachs của nhà nước về ruộng đất đều ảnh hưởng đến việc
đầu tư và sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn, hiện nay nhà nước có qui định giao đất
cho nông dân với thời hạn 15- 20 năm là hợp lí đối với đất đồng bằng, nhưng đối với
các vùng đất mới khai hoang, nên có thời hạn sử dụng đất lâu hơn. Nhá nước cũng
nên cho phép người nông dân trồng trọt các loại cây nông nghiệp hoặc phát triển
nhiều loại hình khác trên những vùng đất được giao miễn sao có hiệu quả, không
nhất thiết qui định cứng nhắc một loại cây nhất định. Nhưng nhà nước nên cấm các
hộ nông dân , hoặc các gia đình có ý định chuyển đất nông nghiệp thành đất xây
dựng hoặc phục vụ cho mục đích khác.
Tóm lại nếu thực hiện tốt các chính sách ưu tiên trên sẽ thúc đẩy đầu tư vào nông
nghiệp và góp phần nâng cao hiệu quả của nó.
1.2.Qui hoạch đầu tư trong nông nghiệp khoa học và hợp lí.
Qui hoạch tốt sẽ giúp cho đầu tư đúng hướng , đúng khu vực cần thiết và
góp phần thúc đẩy sản xuất.
* Tăng cường đầu tư cho chăn nuôi
Trong thời gian tới , tỉnh Hà Tây nên có cơ cấu ngành nông nghiệp theo đó
ngành chăn nuôi sẽ chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Việc đưa
ra cơ cấu hợp lí này sẽ góp phần đưa nông nghiệp tỉnh đi lên.Việc chọn ngành chăn
nuôi làm trọng điểm sẽ làm nguồn vốn đầu tư của ngân sách cho chăn nuôi sẽ gia
tăng và toàn tỉnh đầu tư nhiều hơn vào giống vật nuôi , giúp cho nông dân có giống
mới, và họ sẽ đầu tư vào chăn nuôi góp phần đưa chăn nuôi tăng trưởng.Bên cạnh
việc phát triển chăn nuôi, tỉnh vẫn cần ổn định phát triển ngành trồng trọt , cần ưu
tiên cho một số cây trồng hỗ trợ chăn nuôi hoặc nên kết hợp cả chăn nuôi và trồng
trọt trong một tổng thể chung cùng phát triển .Việc đầu tư chăn nuôi góp phần đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, cải thiện đời sống cho người nông
dân và ngoài ra có thể giúp cho người dân có thể tiến hành chăn nuôi trên qui mô lớn
được thuận lợi
* Đầu tư theo thứ tự ưu tiên
Tỉnh Hà Tây không phải là một tỉnh giàu có , vốn đầu tư cho nông nghiệp thì
rất ít, trong khi đó nhiều công trình hạ tâng nông nghiệp đã xuống cấp cần đầu tư,
hoặc cần phải đầu tư trước...Vì vậy mà tỉnh nên có kế hoạch thật hợp lí khoa học để
xếp các công trình dự án theo một thứ tự ưu tiên nhất định: công trình nào cần thì đầu
tư trước, ít cần thì đầu tư sau... như vậy không những giảm được nhu cầu vốn đầu tư
quá lớn và tránh được sự lãng phí và hiện tượng đầu tư dàn trải trên diện rộng, đồng
thời cũng nâng hiệu quả của các đồng vốn đầu tư bỏ ra sớm phát huy tác dụng.Như
đầu tư cho hệ thống giống phải song song đi liền với hệ thống thuỷ lợi, và lượng vốn
đầu tư cho giống không nên thấp quá so vơi vốn cho thuỷ lợi . Hoặc như đầu tư vào
hệ thống kênh mương vùng nào còn sử dụng được nên tận dụng. Địa phương nào
cần đầu tư cho thuỷ lợi nên đầu tư cho các kênh chính trước sau đó đầu tư các kênh
phụ như vậy sẽ sử dụng được đồng bộ các công trình. Việc qui hoạch thứ tự các dự
án là rất cần thiết đối với đầu tư trong ngành nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
* Đầu tư theo mô hình kinh tế trang trại
Tỉnh Hà Tây là một địa phương có nhiều thế mạnh mà có khả năng phát triển
hiệu quả mô hình kinh tế trang trại.Bởi lẽ tỉnh có địa hình đa dạng, đồi nui nhiều
chưa được sử dụng, thời tiêt khá ổn định. Mặt khác mô hình kinh tế trang trại còn
giúp cho người dân gia tăng sản xuất , tăng thu nhập vàkhai thác những tiềm năng
của mình. Cho nên tỉnh cần có những chính sách ưu tiên và kêu gọi người dân áp
dụng mô hình này theo định hướng của tỉnh. Như khuyến khích người dân thông qua
việc cho vay vốn ưu đãi, không thu thuế trong thời gian đầu, có thể giúp họ tiêu thụ
nông sản nếu được mùa và trợ cấp khi khó khăn. Hoặc tỉnh có các chương trình phổ
biến kiến thức cho người dân về cách thức làm trang trại và cách chăm sóc các cây
trồng vật nuôi trong những trang trại của mình. Phát triển trang trại là cách đi
đúng,nó sẽ tạo điều kiện cho việc cơ giới hoá nông nghiệp và hướng phát triển của
nông nghiệp trong tương lai.
1.3.Đầu tư nông nghiệp đi liền với đầu tư cho công nghiệp chế biến
Một giải pháp nữa trong chính sách của nhà nước cho nông nghiệp và sẽ làm cho
đầu tư trong nông nghiệp thành công hơn là nó nên kết hợp với đầu tư cho công
nghiệp chế biến.. Ta biết rằng công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản là một lĩnh
vực công nghiệp nhưng nó chính là động lực cho sự phát triển ngành nông nghiệp và
khai thác được những thành quả của đầu tư cho nông nghiệp. Đối với một tỉnh có vị
trí gần thủ đô Hà Nội , lại nằm ở khu vực đông dân cư. Trong khi đó, nông nghiệp
của tỉnh lại có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. do vậy tỉnh nên đầu tư xây dựng một số
nhà máy chế biến qui mô vừa phải nhằm chế biến các nông sản của tỉnh, từ đó nâng
cao giá trị nông sản và dễ dàng manh đi tiêu thụ ở thị trường lớn. Với sự đầu tư này
không những giúp cho nông nghiệp tỉnh phát triển nhanh mà còn kéo theo ngành
công nghiệp phát triển theo góp phần vào việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá quê
nhà.
2.Vấn đề huy động vốn.
Vốn đầu tư là rất cần đối với nông nghiệp, do vậy tỉnh cần phải có những giải
pháp nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn cỏ thể.
Trước hết tỉnh cần xây dựng một chương trình tổng thể để thu hút thu hút mọi
nguồn vốn đầu tư : vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó phối hợp sử
dụng các nguồn vốn này vào các công trình cụ thể. Ngoài ra , đối với các công trình
có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau thì cần phải sử dụng hợp lí các nguồn
này. Còn đối với những nguồn vốn cụ thể cần phải có những chích sách riêng phù
hợp .
2.1 Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong tỉnh:
Đây là nguồn vốn đầu tư có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác cho
đầu tư nông nghiệp là mấy. Đối với vốn đầu tư của các doanh nghiệp và vốn đầu tư
của dân cư thì bên cạnh những chính sách của nhà nước thì tỉnh cũng nên có những
chính sách riêng của mình
* Đối với nguồn vốn từ các doanh nghiệp của tỉnh
Tỉnh nên có những chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp của tỉnh và
các doanh nghiệp trương ương đóng trên địa bàn tỉnh bỏ vốn đầu tư vào ngành nông
nghiệp. Cụ thể tỉnh qui hoạch các cùng nhiều tiềm năng , đồng thời tạo nhiều điều
kiện thuận lợi để họ thấy đầu tư vào các vùng này là có lợi và đem lại hiệu quả cao
hoặc tỉnh có thể đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sở hạ tầng tương đối tốt cho vùng
này.Tỉnh cũng có thể khai phá phần nào hoặc hợp tác với họ đê cùng khai thác như
vây sẽ đảm bảo lợi ích đôi bên . Mặt khác tỉnh cũng nên có chính sách ưu đãi về thuế
như đánh thuế thấp hoặc giảm thuế trong thời gian đầu. Tiến hành lập danh sách các
công trình lĩnh vực ưu tiên đầu tư để họ thấy xem có thể đầu tư được hay không.
Thêm vào đó đối với nhiều công trình dự án như đầu tư vào hệ thống thuỷ lợi tỉnh
kêu gọi họ đầu tư sau đó cho phép họ thu phí sử dụng các công trình này với một tỉ lệ
phù hợp để họ có thể thu được lợi hợp lí. Cũng nên cho họ vay vốn với lãi suất ưu
đãi và điều kiện vay rễ ràng. Chính quyền tỉnh cũng nên chủ động phát triển một số
mô hình kinh tế lớn có lợi cao để thúc đẩy đầu tư của các doanh nghiệp
Tóm lại thu hút được nhiều vốn tư các doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp không
những tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp mà còn làm tăng khả năng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
* Đối với nguồn vốn của dân cư(chủ yếu là nguồn vốn của nông dân.)
Nhưng người nông dân tuy nghèo nhưng họ luôn sẵn sàng tham gia vào quá
trình đầu tư xây dựng những công trình đảm bảo cho sản xuất của họ được thuận lợi:
như thuỷ lợi ,giao thông nông thôn, điện...Để huy động nguồn vốn này ,nên có những
công trình đầu tư thiết thực cho nông nghiệp theo phương thức nhà nước và nhân dân
cùng làm. Theo đó nêu rõ và tuyên truyền ích lợi của công trình cho họ, đồng thời
nêu rõ kế hoạch sử dụng vốn đầu tư cho nông dân.Việc thu tiền góp đầu tư của người
nông dân phải đưoc công bố rõ ràng từ trước, phải do những người có uy tín ở địa
phương tiến hành. Trong quá trình đầu tư nên tổ chức một cơ quan giám sát và có đại
diện của dân tham dự. Đồng thời ,khi công trình hoàn thành nên công bố rõ tài chính
của dự án, chi phí của từng hạng mục công trình cho người dân biết. Đặc biệt là phải
chống sự tham ô tham nhũng của một số cán bộ để dân tin và chính quyền. Có thực
thi những biện pháp như vậy mới có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư từ dân. Còn
đối với những công trình thuỷ lợi do nhà nước làm , khi thu thuỷ lợi phí lên công bố
rõ mức thu , nên thu trong nhiều năm và phải có những kế hoạch sử dụng khoản tiền
này minh bạch rõ ràng. Huy động được lớn nguồn vốn này sẽ góp phần không nhỏ
vào sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.
2.2 Đối với nguồn vốn nước ngoài.
Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ trong nước, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
cũng rất quan trọng.
Đối với vốn FDI, nói chung các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài không có hứng
thú với lĩnh vực nông nghiệp; vì vậy họ thường ít bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp. Do
vậy để thu hút vốn này nhà nước cần có những chính sách đầu tư thông thoáng hơn
nữa:về thủ tục pháp lí, thuế đối với kết quả đầu tư... bên cạnh đó tỉnh nên có những
chính sách thực sự hấp dẫn về đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp ngoài ra tỉnh Hà
Tây nên lập những chương trình chiến lượcđể kêu gọi nguồn vốn đầu tư này như kêu
gọi những nhà đầu tư vào lĩnh vực giống hoặc phân bón, công cụ cho sản xuất nông
nghiệp những lĩnh vực mà nhà đầu tư có thể thu được nhiều lợi nhuận đồng thời
cũng trợ giúp nông nghiệp phát triển .
Nhìn chung vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp tỉnh Hà Tây dưới dạng vốn
ODA(vốn hỗ trợ phát triển). Để thu hút được nhiều nguồn vốn này tỉnh cần qui
hoạch các vùng , các huyện cần hỗ trợ để trình lên chính phủ từ đó nhà nước xem xét
và giới thiệu các nguồn vốn ODA. Thông qua đó tỉnh tiến hành đàm phán thoả thuận
các điều kiện đầu tư để có thể nhận được nguồn vốn này. Đối với một số huyện
trong tỉnh đã được nhận vốn ODA nên sử dụng vốn hiệu quả ,thiết thực để gây uy tín
với các tổ chức quốc tế, các chính phủ các nước để họ tiếp tục đầu tư, viện trợ cho
tỉnh.
Trong quá trình nhận vốn đầu tư nước ngoài tỉnh cần tránh tình trạng bị lệ thuộc
vào nhà đầu tư hoặc chấp nhận mọi giá để có vốn đầu tư. Nếu thu hút được đầu tư
nước ngoài nông nghiệp của tỉnh sẽ có nhiều điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa.
2.3 Có những chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất nông nghiệp
Bên cạnh đó , tỉnh nên có các chính sách ưu tiên cho đầu tư và sản xuất nông
nghiệp. Ta biết rằng ngành nông nghiệp có nhiều thiệt thòi so với các ngành kinh tế
khác như:có ít nguồn vốn đầu tư, đầu tư lại có lợi nhuận thấp , rủi ro cao, có tốc độ
tăng trưởng chậm...Vì vậy đầu tư trong nông nghiệp cần nhận được sự giúp đỡ và hỗ
trợ của nhà nước.
Vốn đầu tư đối với ngành nông nghiệp là rất thiếu , ít không nhận được vốn đầu
tư của các nhà đầu tư. Bởi lẽ như trên là đầu tư cho nông nghiệp nhiều khi là phi lợi
nhuận và thời gian thu hồi vố rất dài: như đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi...Trong những
năm qua, bên cạnh đầu tư cho nông nghiệp ,nhà nước đã giành một phần ngân sách
cũng như các tổ chức ngân hàng cho vay đối với các dự án nông nghiệp. Tuy vậy lãi
suất này vẫn còn khá cao, điều kiện vay đối với các nhà đầu tư khá phức tạp, nhiều
ngân hàng gây khó dễ. Do vậy các nhà đầu tư gặp khó khăn trong vay vốn , đòi hỏi
nhà nước cần có lãi suất ưu đãi thấp hơn và các ngân hàng nên nhiệt tình và tạo thuận
lợi cho nhà đầu tư vay vốn. Còn đối với hộ nông dân vay vốn sản xuất , nhà nước
nên hỗ trợ họ vốn không trả lãi và cho vay một phần với lãi suất thật ưu đãi. Ngoài ra
các ngân hàng nên có chính sách đối với từng loại khách hàng cụ thể, tránh gây khó
cho những người muốn vay vốn ; đối với những người vay vốn lớn cần có sự ưu đãi
hơn về lãi suất và thời gian hoàn vốn .
Tóm lại lãi suất tín dụng ưu đãi dễ dàng sẽ thúc đẩy đầu tư cho ngành nông nghiệp
và cải thiện đời sống nhân dân.
3.Quản lí đầu tư.
Hoạt động quản lí đầu tư sẽ góp phần không nhỏ vào việc thu hút vốn đầu tư từ
các nguồn cho sản xuât nông nghiệp cũng như sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư .Trong
thời gian tới tỉnh nên có những giải pháp cụ thể quản lí chặt chẽ các quá trình của
một công cuộc đầu tư cũng như các đối tượng nhận đầu tư.
* Quản lí chặt công tác thẩm định, thực hiện dự án đầu tư
Luôn quản lí chặt chẽ những khâu, những công đoạn của quá trình đầu tư. Cụ thể
trong việc lập kế hoạch đầu nên do những người có năng lực đảm nhiệm, tỉnh uỷ
,UBND phải luôn sâu xát chỉ đạo kịp thời và theo dõi quá trình thực hiện .Việc lập kế
hoạch đầu tư phải thật khoa học tránh tình trạng đầu tư dàn trải và không có trọng
điểm rõ ràng. Nếu có những điều chưa hợp lí phải sữa chữa ngay để tránh đầu tư vô
tổ chức và kém hiệu quả. Còn đối với công tác thẩm định đầu tư thì luôn phải qua
những bước cụ thể, đơn giản nhưng chặt chẽ ,tránh tình trạng làm qua loa cho xong
việc. Mà việc thẩm định phải thật chính xác để loại bỏ những dự án kém hiệu quả,
lạm dụng vốn ngân sách ( nếu có). Còn trong các dự án trình duyệt càn nhiều chỗ
chưa hợp lí thì cần troa đổi với chủ đầu tư giúp họ sữa chưa để dự án tốt hơn. Cán bộ
làm công tác thẩm định phải có trách nhiệm cao, không được gây phiền hà về thủ tục
cho các nhà đầu tư hoặc cố tình trì hoãn dự án do những lí do không chính đáng. Làm
tốt việc thẩm định dự án sẽ làm tăng vốn cho đầu tư và nâng cao hiệu quả của các dự
án. Việc thực hiện xây dựng các công trình đầu tư phải luôn được theo dõi, mỗi công
đoạn phải có báo cáo với cấp trên( đối với dự án lớn). Các chi phí của từng hạng mục
công trình phải hợp lí, chất lượng công rrình phải đảm bảo so với tiêu chuẩn kĩ thuật
đề ra. Ngoài ra trong việc sử dụng thành quả của đầu tư phải đúng mục đích , đúng
lúc và không làm tổn hại đến sản xuất và do một cơ quan hoặc địa phương đảm
nhiệm.
* Phối kết hợp tốt các cơ quan có liên quan đến đầu tư
Mỗi công cuộc đầu tư trong nông nghiệp không chỉ liên qua đến riêng ngành
nông nghiệp mà quan hệ tới các ngành tài chính, xây dựng, ngân hàng...Vì vậy để các
dự án được thực hiện thuận lợi các ngành nên hợp tác chặt chẽ với nhau và tỉnh cũng
lên chỉ đạo thống nhất và phân phối việc cho từng ngành. Nếu có giai đoạn nào gặp
khó khăn , tỉnh nên giải quyết nhanh chóng để dự án tiến hành thuận lợi. Không
những kết hợp giữa các cơ quan trong tỉnh mà chính quyền tỉnh cần phối hợp chặt
chẽ với các bộ các ngành có liên quan đến đầu tư trong nông nghiệp để giúp cho
nông nghiệp có những dự án lớn hơn. Chẳng hạn như công nghệ về giống thỉ một
mình tỉnh sẽ khong thực hiện được, do vậy nhà nước đầu tư sau đó cho phép tỉnh
mang về áp dụng cho địa phương mình.
*Quản lí chặt chẽ quá trình huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư dân cư:
Đây là điều rất cần thiết đối với các công trình xây dựng trong nông nghiệp .
Tỉnh nên chỉ rõ các công trình nào được phép thu tiền của dân, những công trình nào
không được để tránh tình trạng cán bộ địa phương thu bừa bãi, . Việc thu tiền này
phải được ghi rõ vào những sổ sách nhất định và phải được tỉnh uỷ quyền cho phép.
Trong việc phải nêu rõ số tiền là bao nhiêu và kế hoạch chi tiêu số tiền này như thế
nào. Tỉnh cũng phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thu này và cả qua trình sử
dụng vốn nếu có gì sai phải xử lí kịp thời.
* áp dụng đấu thầu với các dự án đầu tư:
Trong các công cuộc đầu tư của ngành nông nghiệp đôi khi còn xảy râ một số tiêu
cực: như làm thất thoát vốn, tăng chi phí xây dựng, cắt vốn đầu tư...gây ảnh hưởng
đến hiệu quả của đồng vốn đầu tư bỏ ra cũng như giảm sút khả năng phát huy các kết
quả đối với sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, một biện pháp tốt để khắc phục những tiêu
cực này là tỉnh nên có qui định các dự án đầu tư trong nông nghiệp ở một mức vốn
nào đó bắt buộc phải tiến hành đấu thầu.Có đấu thầu thì các dự án sẽ tiết kiệm được
vốn , các công trình sẽ có được nhà thi công xây dựng tốt nhất và giúp các dự phát
huy tác dụng. Đồng thời cùng với đó ,tỉnh quản lí chặt chẽ công tác đấu thầu, để
tránh các hiện tượng gian lận, làm cho công tác đấu thầu đạt hiệu quả cao
*Đào tạo nghề và bồi dưỡng kiến thức cho người nông dân
Người nông dân là những người có trình độ tương đối thấp, họ không ngại khó
khăn , không ngại làm việc nhưng lại không có kiến thức để thực hiện làm giàu.Do
vậy trong công cuộc quản lí đầu tư tỉnh cần phải có những chủ trương nhằm giáo dục
đào tạo toàn diện những kiến thức cho người dân. Tỉnh nên thường xuyên tổ chức các
lớp giảng dạy về kiến thức trồng trọt chăn nuôi, cách thức làm kinh tế . Đồng thời
cũng nên cử một số chuyên gia ,một só cán bộ có trình đọ về giảng cho người dân
những kiến thức mới về nông nghiệp hay cách thức làm các mô hình kinh tế mới.Mặt
khấc nếu không có điều kiện , tỉnh nên tạo điều kiện cho cán bộ ở cấp huyện hay cấp
xã đi học các kiến thức mới về sản xuất nông nghiệp sau đó họ sẽ về hướng dân cho
những người nông dân. Đồng thời các đoàn thể của tỉnh nên có những sự giúp đỡ
những người trong cùng một tập thể hoặc trợ giúp kiến thức cho họ khi cần. Ngoài ra
mỗi địa phương cần có một tổ chức có thể tư vấn kiến thức cho người dân khi cần.
Một chương trình lâu dài hơn là tỉnh cần hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo cho
con em nông dân với những chính sách ưu đãi ,để thế hệ sau có kiến thức và giúp đỡ
cha ông trong việc làm nông nghiệp. Tóm lại, nâng cao trình độ cho người dân sẽ
giúp họ cải thiện đời sống của mình mà còn từ đó thúc đẩy nông nghiệp đi lên.
Những giải pháp trên là chủ yếu và rất cần thiết cho đầu tư phát triển nông nghiệp
Hà Tây, những giải pháp này không thể bao gồm hết các lĩnh vực của đầu tư mà chỉ
là một đóng góp nhỏ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư nông nghiệp trong tương lai
IV.Kiến nghị
Để nhằm nâng cao hơn nưa hiệu quả của những công cuộc đầu tư phát triển nồng
nghiệp Hà Tây, bên cạnh những giải pháp cần thiết trên , tôi xin đưa một vài kiến
nghị đối với nhà nước ta
+ Nhà nước cần bàn hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thuận lợi cho các
nhà đầu tư cũng như tạo ra môi trường thông thoáng để thu hút các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước: giảm bớt các thủ tục phiền hà trong các cơ quan nhà nước.
+ Nhà nước nên có những qui định chặt chẽ trong quá trình thẩm định dự án đầu
tư, những tiêu chuẩn trong việc lập kế hoạch đầu tư cho các cơ quan có thẩm quyền
thực hiện. Hàng năm nên kiểm tra quá trình thực hiện các dự án đầu tư.; đối với các
dự án đầu tư do ngân sách nhà nước cấp thì nhà nước nên có cán bộ của mình theo
dõi kiểm tra xem xét quá trình sử dụng vốn và quá trình lập kế hoạch cũng như thựch
iện đầu tư. Chống lại việc sử dụng sai vốn nhà nước hoặc sự cắt xén tham ô của cán
bộ cấp dưới.
+ Nhà nước nên qui định mức thuế nông nghiệp ở mức hợp lí đối với từng vùng ,
từng địa phương. Bởi thuế nông nghiệp ảnh hưởng rất lớn tới kết quả và hiẹu quả đầu
tư trong nông nghiệp
+Nhà nước nên có các chính sách nhằm trợ giá nông sản cho người nông dân
trong những trường hợp cần thiết để tránh sự thiệt thòi cho họ. Nhà nước cũng nên có
những biện pháp mua nông sản cho người nông dân nếu họ được mùa, trách cho
người nông dân bị ép phải bán nông sản với giá thấp
+ Trích một phần ngân sách nhằm hỗ trợ vốn sản xuất cho những người dân
nghèo vay vốn giúp họ cải thiện đời sống
+ Hàng năm, bộ nông nghiệp và nông thôn nên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức
cho các cán bộ nông nghiệp ở các địa phương
+Nhà nước nên đầu tư cho nhiều hơn cho những trung tâm nghiên cứu giống
nông nghiệp để những trung tâm này vừa có thể tạo ra những giống mới, vừa có thể
nghiên cứu tiếp nhận những giống tốt của nước ngoài nếu phù hợp với nước ta
Kết Luận
Có thể nói trong thời gian vừa qua đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tay đã
đạt nhiều thành công to lớn. Có được kết quả như vậy là do toàn tỉnh Hà Tây thực
hiện tốt các công tác đầu tư phát triển. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đầu tư đã
góp phần cực kì quan trong trong sự đi lên của nông nghiệp tỉnh, đóng góp không
nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong tương lai ,để
ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển chúng ta phải chú trọng đầu tư cho nông nghiệp
và phải có những biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư cho nông
nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp , bài viết này
đưa ra một số giải pháp , ý tưởng nhằm đóng góp phần nào vào việc nâng cao hơn
nữa hiệu quả của đầu tư nông nghiệp tỉnh Hà Tây .Cũng có thể khẳng định rằng, đầu
tư là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tây, không có đầu
tư thì nông nghiệp không thể phát triển.
Danh mục tài liệu tham khảo
Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX của Đảng. 1.
Giáo trình kinh tế đầu tư. PGS . PTS Nguyễn Ngọc Mai. NXB giáo dục 2.
Đầu tư trong nông nghiệp: Thực trạng và triển vọng Nguyễn Sinh Cúc , 3.
Nguyễn Văn .NXB Chính trị quốc gia
Giáo trình kinh tế phát triển. NXB thống kê 4.
Nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn CNH- HĐH. NXB Khoa học xã hội 5.
Chính sách thương mại, đầu tư và sự phát triển một số ngành công nghiệp chủ 6.
lực của Việt Nam.TS Võ Đại Lược. NXB Khoa học xã hội
Tạp chí con số và sự kiện các số :1+2, 4 ( năm 2001) 7.
Tạp chí kinh tế và dự báo 8.
Báo nông nghiệp Việt Nam 9.
10. Báo Tài Chính : Số 5( 1998), 7( 1999)
11. Báo cáo kết qủa thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
!996 - 2000
12. Kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch vốn ngân sách tỉnh Hà Tây 1996 -
2000
13. Báo cáo thực hiện kinh tế xã hội nhiệm kì 1996 - 2000 và phương hướng
nhiệm vụ 5 năm 2001 - 2005 - Đảng bộ tỉnh Hà Tây
14. Chương trình an toàn đê điều và giải quyết úng hạn. Sở nông nghiệp và phát
triển nông thỗn