Đặc điểm cá hệ cơ quan
của Da gai
Hệ tuần hoàn và hệ xoang máu giả: Cùng với hệ
ống dẫn nước, hệ tuần hoàn và hệ xoang máu
giả là đặc điểm rất đặc trưng của động vật da
gai. Điển hình có vòng tuần hoàn quanh miệng,
có 5 ống tuần hoàn phóng xạ. Ngoài ra có vòng
tuần hoàn đối miệng và cấc ống tuần hoàn đi
vào tuyến sinh dục.
Vòng quanh miệng và vòng đối miệng nối với
nhau bằng phức hệ cơ quan trụ. Lưu ý rằng ở
động vật da gai không có mạch máu mà chỉ
khe xoang, do vậy hoạt động tuần hoàn
thực sự không có. Hệ xoang máu giả là một bộ
phận của thể xoang, bao gồm vòng máu giả
quanh miệng, các ống máu giả đi vào các vùng
phóng xạ. Chức phận của hệ máu giả là nuôi
dưỡng hệ thần kinh. Dùng thức ăn có
đánh dấu bằng 14C, có thể theo dõi đường
đi của thức ăn từ ống tiêu hoá đến hệ máu giả
và cuối cùng đến hệ sinh dục.
Phức hệ cơ quan trụ là cơ quan đặc trưng ở
động vật da gai, phát triển mạnh nhất ở các lớp
Sao biển, Cầu gai, Đuôi rắn, nhưng không có ở
Hải sâm, Huệ biển. Cấu tạo gồm có các bô phận
là các ống dẫn nước hình trụ chạy dọc có cấu
tạo xốp, có khả năng tạo ra các tế bào amip,
tham gia bài tiết và các tấm sàng có khả năng
lọc nước.
Hệ thần kinh có 3 bộ phận khác nhau, cấu tạo
đối xứng toả tròn: 1) Bộ phận chủ yếu là mạng
thần kinh miệng hay là hệ thần kinh ngoài
(ectoneural system) nằm ở mặt miệng. Gồm có
vòng thần kinh trung tâm bao quanh hầu, thực
quản và các dây thần kinh phóng xạ nằm ở lớp
biểu mô. Từ các dây phóng xạ có 2 dây thần
kinh đi tới nội quan, chức năng chủ yếu là thụ
cảm. 2) Mạng thần kinh dưới da (hyponeural
system) nằm phía dưới mạng thần kinh
miệng, kém phát triển, điều khiển vận động
của nội quan. 3) Mạng thần kinh đối miệng hay
mạng thần kinh trong (entoneural system) có
mối liên với biểu mô thể xoang.
Cơ quan cảm giác nhìn chung kém phát triển.
Cơ quan thị giác và thăng bằng chuyên hoá ở
dạng đơn giản. Bên cạnh đó có các tế bào cảm
giác như xúc giác, khứu giác và vị giác nằm rải
rác ở chân ống, tua miệng...
Nhìn chung hệ thần kinh của động vật da
gai còn giữ nhiều nét cổ, thể hiện mạng
thần kinh miệng và mạng thần kinh dưới da còn
nằm trong biểu mô hay nằm ngay dưới biểu mô.
Xu hướng tập trung tế bào thần kinh thành hạch
không rõ.
Chỉ có động vật da gai mới có mô liên kết biến
đổi hay được gọi là mô gom (catch tisue). Đặc
tính của mô này là khi bị kích thước thì chúng
thoắt cứng hay thoắt mềm. Khả năng biến đổi
nhanh chóng này giúp cho động vật da gai có
thể bắt mồi, di chuyển và tự cắt phần cơ thể để
thoát thân khi bị kẻ thù tấn công.
Động vật da gai có hệ hô hấp phát triển yếu hay
thiếu, chức phận trao đổi khí được tiến hành
qua da, nhất là qua thành chân ống hay qua
"mang" (là các túi trên các tay thực chất là biến
đổi của các phần xoang cơ thể), phổi hình búi
như ở lớp Hải sâm.
Cơ quan tiêu hoá không có đối xứng toả tròn,
ống tiêu hoá dài, uốn khúc, được dính vào thành
cơ thể nhờ các màng treo ruột. Do lối ăn khác
nhau nên cấu tạo ống tiêu hoá khác nhau. Ví dụ
như ở các lớp Hải sâm, Cầu gai, Huệ biển có
hầu, còn ở các lớp Đuôi rắn và Sao biển không
có hầu. Ở Đuôi rắn không có cả ruột sau và hậu
môn.
Động vật da gai không có cơ quan bài tiết. Sự
bài tiết chủ yếu do các tế bào amip trong xoang
cơ thể đảm nhận.
Hệ sinh dục cấu tạo khá đơn giản, các tuyến
sinh dục thường xếp đối xứng toả tròn hay hình
ống dài như ở lớp Hải sâm. Động vật da gai có
khả năng tái sinh cao, một nửa cơ thể của lớp
Hải sâm hay Đuôi rắn hay thậm chí một cánh
tay của lớp Sao biển cũng có thể tái sinh cho
một cá thể. Khả năng này này ở các lớp Cầu gai
và Huệ biển thì ít hơn.
Hương Thảo