BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
§ÆC §IÓM L¢M SµNG, CËN L¢M SµNG
Vµ MéT Sè YÕU Tè LI£N QUAN CñA §éNG KINH
ë PHô N÷ Cã THAI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
§ÆC §IÓM L¢M SµNG, CËN L¢M SµNG
Vµ MéT Sè YÕU Tè LI£N QUAN CñA §éNG KINH
ë PHô N÷ Cã THAI
Chuyên ngành : Thần kinh
Mã số
: 9720107
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Lê Văn Thính
HÀ NỘI – 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Thanh Bình, nghiên cứu sinh khóa 34 Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành Thần kinh, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của
GS. TS. Lê Văn Thính.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được
công bố trong ngoài nước.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực
và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 07 tháng 07 năm 2022
Người viết cam đoan
Nguyễn Thị Thanh Bình
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN ............................................................................... 3
1.1. Động kinh và chẩn đoán động kinh ở phụ nữ có thai ............................ 3
1.1.1. Cơ sở sinh lý bệnh của cơn động kinh ............................................ 3
1.1.2. Định nghĩa và các khái niệm cơ bản về động kinh ......................... 6
1.1.3. Phân loại động kinh......................................................................... 8
1.1.4. Các thăm dò chức năng dùng trong chẩn đoán động kinh ở phụ nữ
có thai ............................................................................................ 12
1.2. Các nghiên cứu về động kinh ở phụ nữ có thai ................................... 21
1.2.1. Nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ của mẹ và con ........................ 21
1.2.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc điều trị động kinh đối với
thai nhi .......................................................................................... 25
1.2.3. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của các thuốc điều trị động kinh đối với
thai nhi ........................................................................................... 26
1.2.4. Các nghiên cứu về ảnh hưởng lâu dài của thuốc kháng động kinh
đối với trẻ bị phơi nhiễm thuốc thời kỳ bào thai .......................... 32
1.2.5. Nghiên cứu về tính di truyền của bệnh động kinh ........................ 34
1.2.6. Nghiên cứu về tác động của cơn động kinh lên thai nhi ............... 35
1.3. Quản lý và tư vấn bệnh nhân động kinh ở độ tuổi sinh đẻ .................. 36
1.3.1. Quản lý trước mang thai ............................................................... 37
1.3.2. Quản lý trong quá trình mang thai và chuyển dạ .......................... 39
1.3.3. Quản lý giai đoạn sau sinh ở phụ nữ động kinh ........................... 44
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 46
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 46
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân .................................................... 46
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: ....................................................................... 46
2.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 47
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 47
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu ....................................................................... 47
2.2.3. Quy trình nghiên cứu .................................................................... 48
2.2.4. Các biến số trong nghiên cứu ........................................................ 55
2.3. Xử lý số liệu ......................................................................................... 57
2.4. Sơ đồ nghiên cứu .................................................................................. 58
Chương 3. KẾT QUẢ.................................................................................... 59
3.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh động kinh trong
quá trình mang thai ............................................................................. 59
3.1.1. Đặc điểm lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá trình
mang thai ....................................................................................... 59
3.1.2. Đặc điểm cận lâm sàng của người bệnh động kinh khi mang thai 71
3.2. Một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ
và kết cục thai kỳ. ............................................................................... 75
3.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ .. 75
3.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ ............................... 79
Chương 4. BÀN LUẬN ................................................................................. 84
4.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh động kinh trong
quá trình mang thai ............................................................................. 84
4.1.1. Đặc điểm lâm sàng ........................................................................ 84
4.1.2. Đặc điểm cận lâm sàng ............................................................... 108
4.2. Một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ
và kết cục thai kỳ. ............................................................................. 118
4.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ 118
4.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ .................................. 120
KẾT LUẬN .................................................................................................. 125
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 127
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thang điểm Morisky đánh giá sự tuân thủ điều trị thuốc .............. 49
Bảng 2.2. Protocol chụp MRI sọ động kinh ngoài thùy thái dương .............. 54
Bảng 2.3. Protocol chụp MRI sọ động kinh thùy thái dương ........................ 54
Bảng 2.4. Các biến số nghiên cứu đối với mục tiêu 1 .................................... 55
Bảng 2.5. Các biến số nghiên cứu đối với mục tiêu 2 .................................... 56
Bảng 3.1. Phân bố lượt bệnh nhân trong nghiên cứu ...................................... 59
Bảng 3.2. Đặc điểm lâm sàng chung của người bệnh trong nghiên cứu ........ 60
Bảng 3.3. Đặc điểm cơn động kinh trước mang thai ...................................... 61
Bảng 3.4. Đặc điểm về dùng thuốc kiểm soát cơn trước mang thai ............... 62
Bảng 3.5. Đặc điểm lâm sàng của cơn giật trong thai kỳ ............................... 63
Bảng 3.6. Đặc điểm về tần suất có cơn động kinh trong thai kỳ .................... 63
Bảng 3.7. Đặc điểm về hoạt động của cơn giật trong thai kỳ ......................... 64
Bảng 3.8. So sánh hoạt động động kinh trong thai kỳ .................................... 65
Bảng 3.9. Mức độ hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ ....................... 66
Bảng 3.10. Hoạt động của cơn động kinh theo phân loại cơn trên lâm sàng . 66
Bảng 3.11. Đặc điểm về thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ ..................... 67
Bảng 3.12. So sánh sử dụng thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ giữa hai
nhóm người bệnh ........................................................................ 69
Bảng 3.13. Các đặc điểm lâm sàng của mẹ và con trong quá trình chuyển dạ .... 70
Bảng 3.14. Biến cố với mẹ và thai nhi trong quá trình mang thai .................. 70
Bảng 3.15. Đặc điểm trên cộng hưởng từ não và điện não đồ ........................ 71
Bảng 3.16. Các nhóm nguyên nhân tổn thương trên MRI sọ não .................. 72
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa hoạt động cơn động kinh trên lâm sàng và hình
ảnh MRI não ............................................................................... 73
Bảng 3.18. Các bất thường trên điện não đồ ................................................... 74
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa hoạt động cơn động kinh trên lâm sàng và điện
não đồ .......................................................................................... 74
Bảng 3.20. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơn co giật còn hoạt động trong thai kỳ .. 76
Bảng 3.21. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tăng cường cơn giật trong
thai kỳ .......................................................................................... 77
Bảng 3.22. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là cơn giật
còn xuất hiện trong thai kỳ ......................................................... 78
Bảng 3.23. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là cơn giật
tăng cường hoạt động trong thai kỳ ............................................ 79
Bảng 3.24. Phân tích các yếu tố tác động đến biến cố của mẹ và con ............ 80
Bảng 3.25. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là có biến cố
xảy ra với mẹ và con ................................................................... 81
Bảng 3.26. Mối liên quan giữa việc kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân và
phương pháp đẻ ........................................................................... 82
Bảng 3.27. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là mẹ đẻ mổ .. 83
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Số lần mang thai của bệnh nhân trong nghiên cứu..................... 59
Biểu đồ 3.2. Phân bố độ tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu ...................... 60
Biểu đồ 3.3. Diễn biến kết cục sản khoa của bệnh nhân trong nghiên cứu .... 71
Biểu đồ 3.4. Các vị trí não tổn thương trên phim chụp MRI .......................... 72
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Phân loại động kinh của ILAE 2017 ............................................... 12
Hình 1.2. Hình ảnh của 7 loại kịch phát dạng động kinh trên EEG. .............. 14
Hình 1.3. Kịch phát có chu kỳ toàn thể (GPDs) ............................................. 15
Hình 1.4. Kịch phát có chu kỳ một bên ở bên phải (LPDs) ............................ 15
Hình 1.5. Điện não trong cơn động kinh co cứng - co giật toàn thể ............... 16
Hình 1.6. Điện não cơn động kinh cục bộ khởi phát thái dương trán bên phải .... 16
Hình 1.7. Xơ hóa hồi hải mã trái kèm teo thùy thái dương bên trái ............... 18
Hình 1.8. Loạn sản vỏ não khu trú hồi cạnh hải mã và hồi chẩm thái dương
trái ............................................................................................... 18
Hình 1.9. Dị dạng u mạch thể hang tính chất gia đình.................................... 19
Hình 1.10. Tổn thương não sau chấn thương sọ não dạng nang dịch và tăng
sinh thần kinh đệm khu trú ......................................................... 19
Hình 1.11. Tổn thương thùy trán phải trong viêm não Ramussen .................. 19
Hình 1.12. Các tổn thương não trong xơ cứng củ ......................................... 20
Hình 1.13. Tổn thương não trong hội chứng Sturge-Weber ........................... 20
Hình 1.14. Tổn thương não do huyết khối tĩnh mạch não .............................. 21
Hình 4.1. Điện não đồ trong cơn ngưng hành vi ........................................... 109
Hình 4.2. Điện não đồ trong cơn co giật toàn thân ....................................... 110
Hình 4.3. Điện não đồ ngoài cơn .................................................................. 110
Hình 4.4. Điện não đồ ngoài cơn .................................................................. 111
Hình 4.5. Điện não đồ ngoài cơn .................................................................. 113
Hình 4.6. Hình ảnh AVM trán trái ............................................................... 115
Hình 4.7. Khuyết não trán đỉnh bên trái sau chấn thương sọ não ................. 115
Hình 4.8. AVM bán cầu phải sau nút mạch 02 lần ....................................... 116
Hình 4.9. Loạn sản vỏ não thái dương bên phải ........................................... 117
Hình 4.10. Khuyết não thái dương bên phải sau phẫu thuật u não ............... 117
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một bệnh lý thần kinh khá phổ biến ở nước ta và trên thế giới với
tỷ lệ mắc 0,4 - 1% dân số; số trường hợp mới mắc mỗi năm trung bình dao động 49-
139 trường hợp/100.000 dân; đặc biệt có gần 80% số bệnh nhân bị động kinh hiện
sinh sống ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [1],[2].
Lập gia đình là một việc quan trọng trong cuộc đời cũng như mang thai là thời
kỳ cần được chăm sóc kĩ lưỡng về sức khoẻ của người phụ nữ. Tỷ lệ bị động kinh
trong quần thể phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ là 0,5%. Tỷ lệ bị động kinh ở phụ nữ có thai
cũng dao động là 0,5-1% trong các nghiên cứu quần thể, là 0,2-0,4% trong các
nghiên cứu dựa trên số liệu đăng kiểm [3]. Quá trình mang thai của phụ nữ bị động
kinh là giai đoạn có thể xảy ra nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai
nhi, bao gồm: tăng tỷ lệ bệnh tật, tử vong thời kỳ chu sinh; tăng nguy cơ mắc dị tật
bẩm sinh của trẻ được sinh ra có mẹ sử dụng thuốc kháng động kinh; cơn co giật của
mẹ gây thiếu oxy, nhiễm toan lactic có hại cho thai nhi cũng như chấn thương, bỏng
do ngã cho mẹ, thậm chí nghiêm trọng là đột tử do bệnh động kinh (SUDEP); tăng
nguy cơ sản phụ bị mắc các bệnh lý tâm thần phối hợp trong thai kỳ. Đồng thời,
những biến đổi của cơ thể người bệnh trong thai kỳ cũng tác động lên sự phân bố và
chuyển hóa thuốc gây giảm nồng độ thuốc tự do và toàn phần trong máu dẫn tới cơn
giật tăng cường hoạt động. Các yếu tố được cho rằng có tác động đến hoạt động
của cơn giật trong thai kỳ bao gồm: tần suất cơn trước mang thai, cắt cơn tối thiểu
9-12 tháng trước mang thai, loại cơn động kinh, loại thuốc kháng động kinh, sự
tuân thủ điều trị của người bệnh và sự theo dõi định kỳ nồng độ thuốc trong máu
người bệnh [3].
Nhiều nghiên cứu đã công nhận tư vấn và lập kế hoạch trước mang thai có tác
động tích cực đến kiểm soát hoạt động cơn giật tiền thai kỳ từ đó giảm thiểu những
nguy cơ nêu trên cho cả mẹ và thai nhi, giúp người bệnh có một quá trình mang thai
an toàn [3],[4].Tư vấn thần kinh trước mang thai bao gồm cung cấp thông tin đầy đủ
cho người bệnh và người nhà của họ về tình trạng bệnh động kinh, hướng điều trị,
cách dùng thuốc an toàn cũng như lập kế hoạch cụ thể cho quá trình mang thai [3].
2
Cùng với tư vấn trước mang thai, quản lý trong thai kỳ giúp kiểm soát cơn co giật
khi mang thai cũng như giảm thiểu các kết cục xấu liên quan đến thai kỳ cho bệnh
nhân và thai nhi, tuy vậy, khi triển khai trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn [3],[5].
Tư vấn và quản lý người bệnh động kinh trước và trong thai kỳ được tiến hành
tương đối phổ biến tại các nước phát triển, các bệnh nhân được quản lý bởi các bác
sỹ chuyên ngành thần kinh, bác sỹ sản khoa và bác sỹ gia đình; các số liệu của người
bệnh được thu thập theo các chương trình quản lý bệnh tật cấp quốc gia và châu lục
[3],[5],[6],[7]. Tại Việt Nam, việc tư vấn cho nhóm bệnh nhân này mới chỉ đa phần
do các bác sỹ chuyên ngành thần kinh đảm nhiệm, còn thiếu sự đồng thuận và thống
nhất trong cùng chuyên khoa cũng như sự gắn kết với các chuyên ngành khác.
Vì vậy, nhằm bổ sung các thông tin đặc thù về quá trình mang thai của phụ
nữ bị động kinh từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành tư vấn và điều trị
động kinh cho phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, chúng tôi thực hiện đề tài “ Đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan của động kinh ở phụ nữ có
thai” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hai nhóm người bệnh động
kinh được tư vấn và không tư vấn trước, trong quá trình mang thai.
2. Đánh giá một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh và kết
cục thai kỳ của người bệnh động kinh trong quá trình mang thai.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Động kinh và chẩn đoán động kinh ở phụ nữ có thai
1.1.1. Cơ sở sinh lý bệnh của cơn động kinh
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về cơ chế bệnh học của động kinh
nhưng đến nay chúng ta mới chỉ hiểu rõ về các hiện tượng điện sinh lý, sự thay đổi
chuyển hóa xảy ra trong cơn và sau cơn còn bản chất thực sự động kinh là gì vẫn còn
nhiều tranh cãi. Ðặc trưng bệnh lý quan sát được trong cơn động kinh là sự phóng
điện kịch phát, thành từng đợt và lặp đi lặp lại của một quần thể nơron nhờ sự khử
cực mạnh xảy ra ở màng tế bào phát sinh điện thế hoạt động (còn gọi là sự di chuyển
vị trí khử cực) của các nơron trong ổ động kinh [8].
Trong cơn động kinh có nhiều phản ứng chuyển hóa xảy ra tại não gồm tăng
nồng độ ion kali và giảm nồng độ ion canxi ngoài tế bào, giải phóng các chất dẫn
truyền thần kinh và các peptide thần kinh, tăng lưu lượng máu nơi tổn thương, tăng
hấp thụ glucose tại chỗ…Tất cả các hiện tượng chuyển hóa này vừa là hậu quả vừa
là nguyên nhân gây tăng kích thích các nơron góp phần hình thành ổ động kinh và
lan truyền cơn động kinh.
Có nhiều cơ chế khác nhau để gây được cơn động kinh thực nghiệm trên não
bình thường hoặc bệnh lý. Các nghiên cứu cho thấy: quá trình tăng kích thích hay
giảm ức chế đều gây tăng quá mức tính kích thích của nơron dẫn tới một phóng điện
thành ổ. Sự tăng cường tính kích thích của nơron là kết quả của sự phối hợp giữa hai
yếu tố gồm ngưỡng của động kinh mà mức độ di truyền đã được xác định và sự bất
thường về chuyển hóa, tổn thương não... làm ngưỡng nói trên hạ thấp tạm thời hoặc
vĩnh viễn.
Phương pháp thường dùng để gây động kinh thực nghiệm trên động vật là dựa
vào cơ chế làm nghẽn ức chế, ví dụ như dùng chất đối kháng axit gama -
aminobutiric (GABA), là một dẫn truyền thần kinh loại ức chế. Người ta cho rằng
một số thể động kinh toàn thể là do một sự bất thường của hệ thống ức chế GABA
đồng thời cũng chứng minh các thuốc như phenobarbital, benzodiazepine và axit
valproic làm tăng sự ức chế của GABA, do đó có tác dụng chống cơn động kinh.
4
Ngoài ra, cũng có thể gây cơn động kinh bằng phương pháp kích thích hóa lý có sử
dụng một dòng điện với cường độ thích hợp kích thích tại não. Cơn động kinh này có
tính chất tự duy trì ngoài các kích thích ban đầu. Đối với các kích thích dưới ngưỡng
ban đầu không gây động kinh nhưng nếu lặp đi lặp lại, định hình trong khoảng cách
đều, các kích thích này sẽ được tích lũy và đến một lúc nào đó một kích thích tương
tự có thể gây cơn động kinh. Các cơn động kinh tự phát có thể xảy ra mà không cần
có kích thích mới được gọi là sự nhen nhóm [8].
Các hiện tượng về điện sinh lý chuyển hoá xảy ra trong cơn động kinh
Các mạng lưới nơron thần kinh tham gia vào cơ chế động kinh có thể chia làm
3 nhóm: Khởi phát, lan truyền và kiểm soát.
- Mạng lưới khởi phát: Gồm một nhóm các cấu trúc đặc hiệu của vỏ não
và/hoặc dưới vỏ. Hoạt động của các thể động kinh sẽ tùy thuộc vào mạng lưới nơron
nào nằm trong cấu trúc này. Cấu trúc chủ chốt của động kinh thùy thái dương là hồi
hải mã. Mạng lưới khởi phát trong động kinh phản xạ nằm ở thân não hoặc vùng trán
Rolando. Mạng lưới khởi phát trong động kinh cơn vắng là các tiếp nối tương hỗ
giữa vỏ não cảm giác vận động và các nhân bên của đồi thị.
- Mạng lưới lan truyền: Từ vị trí khởi phát, các phóng lực động kinh lan
truyền ra các neuron khác trong cùng một cấu trúc hoặc lan ra các cấu trúc xung
quanh thông qua mạng lưới lan truyền. Trong trường hợp động kinh tiến triển, các
mạng lưới lan truyền này biến đổi liên tục và sự “mềm dẻo” này của hệ thần kinh có
vai trò rất quan trọng trong việc gây động kinh.
- Mạng lưới kiểm soát: Cho đến hiện nay, người ta chưa giải thích được lý do
cơn động kinh dừng lại cũng như tại sao khoảng cách giữa các cơn lại có thể dài như
vậy. Giả thuyết cho rằng có một mạng lưới kiểm soát hoạt động của các cơn động kinh
và khi mạng lưới này không hoạt động sẽ dẫn đến trạng thái động kinh. Một trong
những mạng lưới kiểm soát động kinh được biết đến là các hạch nền [8].
Các phóng lực động kinh
Giả thuyết cho rằng biến đổi bất thường các dòng ion qua màng tế bào và sự
mất cân bằng giữa hệ thống ức chế và hưng phấn của mạng lưới neuron gây ra tăng
hoạt động đồng bộ của một quần thể neuron. Để nghiên cứu cơ chế của động kinh,
người ta tạo ra trên động vật thí nghiệm tình trạng kích thích cấp tính hoặc mạn tính
của não [9]. Đặc trưng của các hoạt động động kinh là các phóng lực kịch phát và
5
đồng bộ của một quần thể nơron. Biểu hiện trên điện não đồ của trạng thái nơron
tăng kích thích là một nhọn (gai). Nhờ việc ghi điện thế tế bào dựa trên công trình
của Matsumoto và Ajmore – Marsan, người ta hiểu được sóng nhọn ghi được trên
điện não đồ chính là hiện tượng khử cực kịch phát ồ ạt trong tế bào (Paroxysmal
Depolarizing Shift:PDS) gây ra các phóng lực của điện thế hoạt động tần số cao (các đợt
bùng phát) [10]. Khi đưa penicillin vào vỏ não hoặc cấu trúc dưới vỏ của chuột cống
trắng, người ta ghi được trên điện não đồ hoặc trên các cấu trúc của hồi hải mã một sóng
nhọn biên độ lớn. Khi ghi điện thế của tế bào, khử cực kịch phát là một loạt các phóng
điện thế hoạt động tần số cao. Khử cực kịch phát xuất hiện đột ngột và có thể ghi được
trên điện não đồ, tuy nhiên lại không có biểu hiện gì trên lâm sàng. Đây chính là hiện
tượng kịch phát tồn tại giữa các cơn động kinh [8],[11],[12],[13].
Ở màng neuron, Hodgkin và Huxley từ lâu đã nói đến vai trò của ion Na+ trong pha khử cực nhanh của điện thế hoạt động. Dòng ion K+ ra khỏi tế bào gây ưu
phân cực màng tế bào, làm giảm tính kích thích của màng tế bào. Các chất ức chế các ion K+ ra khỏi màng tế bào (ví dụ: 4 amino-pyridin hay tetra-ethyl-ammonium)
sẽ làm xuất hiện các khử cực kịch phát. Trên thực nghiệm, người ta đã phát hiện được nhiều dòng K+ và một số dòng ion này lại phụ thuộc vào các ion Ca2+. Các dòng ion K+ đi ra có thể đóng vai trò chủ chốt trong cơ chế hạn chế phóng lực trong không gian và theo thời gian của tế bào. Vai trò của ion Ca2+ khá phức tạp. Ion Ca2+
đi vào trong tế bào có tác dụng làm thay đổi điện thế và truyền các tín hiệu nội bào. Các tín hiệu được hoạt hóa bằng dòng Ca2+ liên quan đến các protein nhận cảm đặc
hiệu như calmodulin và protein kinase C. Các nghiên cứu trước đây trên các mảnh
cắt của tổ chức não bình thường đã cho thấy ở một số tế bào, đặc biệt là vùng hải mã
(vùng C3) có các phóng lực tự phát nhưng không đồng bộ. Về mặt hình thái học, các
tế bào này giống các tế bào thấy được trên các mẫu động vật gây động kinh thực nghiệm bằng penicillin. Người ta đã nhận thấy PDS có liên quan đến ion Ca2+ đổ vào trong neuron và dòng ion K+ đi ra [8],[13],[14].
Lan truyền của các phóng lực động kinh
Theo Prince và Wilder cũng như nhiều tác giả sau này đã phát hiện ổ động
kinh có 3 phần: Các tế bào dễ kích thích là nguồn gốc tạo ra các hiện tượng khử cực
kịch phát quan trọng nằm ở trung tâm của ổ động kinh (ictal core territory), vùng
trung gian (ictal penumbra) và ngoài cùng là một vùng dày đặc các tế bào phân cực,
6
không kích thích được, có vai trò hạn chế các phóng lực trong không gian
(penumbra) [8],[15],[16],[17],[18].
Quá trình chuyển từ trạng thái giữa cơn động kinh thành cơn động kinh phụ
thuộc sự đồng bộ của quần thể neuron. Khi một quần thể các neuron ở tâm của ổ
động kinh khử cực với tần số cao, các neuron bình thường kế cận có thể cũng bị khử
cực và kéo theo lan truyền các hoạt động động kinh ra khắp hệ thần kinh trung ương.
Sự lan truyền các hoạt động động kinh phụ thuộc vị trí ổ động kinh, các đường tham
gia dẫn truyền các xung động động kinh và việc các xung động được diễn ra nhanh
hay chậm [15],[16].
Nếu hoạt động động kinh xảy ra ở vùng vận động, sự lan truyền sẽ xảy ra rất
nhanh theo hệ thống vỏ-tủy hoạt hóa các neuron ở thân não, tủy sống và hệ thần kinh
ngoại vi. Các phóng lực này có thể lan sang bán cầu đối diện. Hoạt động kịch phát ở
thân não sẽ lan tới các trung tâm dưới vỏ điều biến thông qua các hệ thống ức chế.
Lan truyền của các xung động động kinh có thể xảy ra rất nhanh theo các đường đi
xuống, đặc biệt là các đường thuộc hệ lưới hoạt hóa, lúc này tất cả các quần thể
neuron của ổ động kinh đều bị các phóng lực động kinh tác động. Như vậy, sự mất
khả năng ức chế synap sẽ gây ra hiện tượng tăng tính kích thích neuron dẫn đến sự
đồng bộ của hoạt động động kinh [16],[17]. Tuy vậy, các hiểu biết hiện nay về cơ
chế gây đồng bộ này của các neuron vẫn chưa đầy đủ.
Kết thúc các phóng lực động kinh
Các yếu tố hạn chế lan truyền và làm ngừng các hoạt động động kinh bao gồm
sự tích tụ các chuyển hóa trong tế bào sau cơn động kinh, các tế bào thần kinh đệm hình sao tham gia vào thu hồi K+ ngoại bào, vai trò của các chất dẫn truyền thần kinh
ức chế và một số cấu trúc ức chế như tiểu não. Trong cơn động kinh, người ta nhận
thấy ở tế bào có chuyển hóa yếm khí thứ phát do giảm lượng oxy cung cấp gây toan hóa tế bào, giảm hoạt động ATP-ase, nguồn gốc của sự hoạt hóa các dòng K+ tạo nên
ưu phân cực, do đó có tác dụng ức chế các phóng lực kịch phát [8],[15],[19].
1.1.2. Định nghĩa và các khái niệm cơ bản về động kinh
Năm 1993, Liên hội chống động kinh quốc tế (International League Against
Epilepsy-ILAE) đã đưa ra một bản hướng dẫn (có phiên bản cập nhật và bổ sung năm
2017) bao gồm các khái niệm và định nghĩa cơ bản trong nghiên cứu dịch tễ học động
7
kinh nhằm giúp các nghiên cứu có một phương pháp thống nhất cho phép so sánh các
kết quả thu được [20],[21].
Cơn động kinh hay cơn co giật (seizure) là sự xuất hiện thoáng qua của các
dấu hiệu và / hoặc triệu chứng do hoạt động thần kinh đồng bộ hoặc quá mức một
cách bất thường trong não. Biểu hiện trên lâm sàng của cơn là các triệu chứng xảy ra
đột ngột, tạm thời liên quan đến vùng vỏ não bị phóng điện bao gồm biến đổi ý thức,
vận động, cảm giác, tự động hoặc tâm thần mà người bệnh hoặc những người xung
quanh cảm nhận được. Các rối loạn chức năng vỏ não này có thể cấp tính và thường
tạm thời.
Cơn động kinh có thể là biểu hiện của nhiều bệnh não hoặc bệnh hệ thống.
Cần xác định cơn động kinh có phải do tổn thương não hay không. Do đó, người ta
chia thành các cơn động kinh do kích thích hoặc không do kích thích.
Cơn động kinh do kích thích hay cơn động kinh triệu chứng kích thích
Nguyên nhân: liên quan mật thiết về thời gian với một tổn thương cấp tính hoặc
một tình trạng rối loạn chuyển hóa hoặc nhiễm độc, nhiễm khuẩn, khối u, tai biến mạch
não, chấn thương sọ não, chảy máu nội sọ, nhiễm độc cấp tính hoặc cai rượu.
Tính chất: Thường là 1 cơn đơn độc nhưng có thể tái phát hoặc chuyển thành
trạng thái động kinh.
Cơn động kinh không do kích thích: không thấy có sự tham gia của tổn
thương cấp tính, rối loạn chuyển hóa hoặc nhiễm độc. Chia hai nhóm: Cơn động
kinh triệu chứng liên quan xa không do kích thích (liên quan đến các bệnh não đã ổn
định hoặc liên quan đến bệnh lý tiến triển của hệ thần kinh trung ương) và cơn động
kinh không do kích thích không rõ căn nguyên.
Cơn động kinh đơn độc: là tình trạng có một hay nhiều cơn động kinh xảy
ra dưới 24 giờ.
Bệnh động kinh: theo ILAE 2014, động kinh là một bệnh của não được xác
định bởi bất kỳ tiêu chuẩn nào sau đây: (1) Có ít nhất hai cơn tự phát xảy ra cách
nhau >24 giờ; (2) Có một cơn tự phát và khả năng tái phát các cơn tương tự (ít nhất
60%) xảy ra trong 10 năm tới; (3) Được chẩn đoán hội chứng động kinh. Chẩn đoán
bệnh động kinh cần được xem xét lại với những người có hội chứng động kinh phụ
thuộc vào tuổi nhưng đã qua tuổi áp dụng hoặc những người không có cơn động kinh
trong vòng 10 năm qua và không còn sử dụng thuốc chống co giật trong 5 năm.
8
Động kinh hoạt động: động kinh được coi là hoạt động khi bệnh nhân có tiền
sử động kinh hoặc có ít nhất một cơn động kinh trong vòng 5 năm tính từ thời điểm
được chẩn đoán (có hoặc không dùng thuốc kháng động kinh). Một số tác giả rút
ngắn thời gian động kinh hoạt động là 2 năm.
Động kinh lui bệnh: động kinh không có cơn từ 5 năm trở lên (một số tác giả
rút ngắn thời gian này là 2 năm) kể từ khi được xác định chẩn đoán, có hoặc không
điều trị thuốc kháng động kinh.
Trạng thái động kinh: là sự lặp lại của các cơn động kinh với khoảng các
giữa các cơn ngắn, ở giữa các cơn động kinh có biến đổi ý thức và/hoặc có các dấu
hiệu thần kinh nói lên có tổn thương tế bào thần kinh ở vỏ não do phóng điện trong
cơn động kinh gây ra. Trên lâm sàng, trạng thái động kinh là sự tái diễn của các cơn
động kinh đơn độc kéo dài trên 30 phút hoặc các cơn động kinh xảy ra liên tục mà
chức năng vỏ não không hồi phục trong thời gian ít nhất 30 phút.
1.1.3. Phân loại động kinh
Cơ sở phân loại:
Phân loại cơn động kinh dựa trên lâm sàng và điện não đồ. Phân loại cơn động
kinh có vai trò quan trọng trong việc tìm giải pháp tiếp cận nguyên nhân, lựa chọn
thuốc điều trị phù hợp và tiên lượng. Về cơ bản, cơn động kinh được phân loại thành
ba nhóm chính: Cơn động kinh cục bộ (focal seizure), cơn động kinh toàn thể
(generalized seizure) và cơn động kinh không phân loại được.
Nguyên tắc phân loại căn bản: Cơn động kinh cục bộ chỉ xuất phát tại một
vùng nhất định và giới hạn ở một bên bán cầu não, trong khi đó cơn động kinh toàn
bộ lan tỏa cả hai bán cầu. Cơn động kinh cục bộ thường do nguyên nhân bất thường
cấu trúc của não. Ngược lại, cơn động kinh toàn bộ có thể do bất thường tế bào, hóa
sinh hoặc cấu trúc có tính chất lan tỏa hơn, tuy nhiên luôn có những ngoại lệ cho cả
hai tình huống trên.
1.1.3.1. Phân loại Quốc tế về cơn động kinh
Bao gồm: Phân loại Quốc tế về các cơn động kinh năm 1981 (phụ lục 1, bảng
1), phân loại Quốc tế về động kinh và hội chứng động kinh năm 1989 (phụ lục 1,
bảng 2), phân loại Quốc tế về cơn động kinh sửa đổi năm 2010 và gần đây nhất là
phân loại Quốc tế về cơn động kinh sửa đổi năm 2017 của liên hội chống động kinh
Quốc tế (ILAE) (phụ lục 1, bảng 3). Trong đó, bảng phân loại mới nhất về động kinh
9
năm 2017 phản ánh những hiểu biết đầy đủ hơn về các loại động kinh, các cơ chế
tiềm ẩn của chúng nhằm tiến tới thay thế cho bảng phân loại động kinh năm 1989
[8],[20],[21].
Phân loại mới nhất về động kinh được thực hiện ở 3 cấp độ gồm:
- Chẩn đoán dạng cơn động kinh dựa vào bảng phân loại cơn động kinh của
ILAE năm 2017: Những triệu chứng xuất hiện đầu tiên là chìa khoá để phân loại cơn
vì sau đó có thể tiến triển thành những triệu chứng khác. Kiểu khởi phát cần được
xác định là cục bộ (focal onset), toàn thể (generalized onset) hay không rõ khởi phát
(unknown onset). Phân loại tiếp dựa vào mức độ ý thức còn hay suy giảm (sự suy
giảm ý thức có thể xuất hiện ở bất kỳ thời điểm nào của cơn động kinh) đối với các
cơn khởi phát cục bộ. Tiếp đến, phân loại các biểu hiện là vận động (motor) hay không
vận động (non-motor); tính chất lan tỏa hay khu trú của cơn (cơn cục bộ khu trú một
bên hay diễn tiến thành co cứng co giật hai bên). Cuối cùng, với cơn dù không rõ khởi
phát vẫn phân loại tiếp thành nhóm vận động (motor), không vận động (non-motor), co
cứng-co giật (tonic-clonic), co thắt (epileptic spasms), hoặc ngưng hành vi (behavior
arrest).
- Chẩn đoán dạng bệnh động kinh: động kinh khu trú (focal epilepsy), động
kinh toàn thể (generalized epilepsy), động kinh kết hợp (combined generalized and
focal epilepsy) và động kinh không rõ loại (unknown epilepsy).
- Chẩn đoán hội chứng động kinh nhằm định hướng đến các hội chứng động
kinh đặc hiệu: Hiện tại vẫn chưa có bảng phân loại hội chứng động kinh chính thức
theo ILAE, nên các hội chứng động kinh thường gặp vẫn được chấp nhận sử dụng.
1.1.3.2. Nguyên nhân của động kinh
Dựa trên phân loại mới của ILAE năm 2017, nguyên nhân bệnh động kinh
được chia thành sáu phân nhóm: do cấu trúc, di truyền, miễn dịch, chuyển hóa,
nhiễm khuẩn và chưa rõ nguyên nhân để từ đó tiên lượng khả năng điều trị cho từng
trường hợp mắc bệnh [20],[21],[22].
❖ Nguyên nhân do di truyền
Khi động kinh được xác nhận là hậu quả trực tiếp của rối loạn gen đã được biết
đến với cơn động kinh là thành phần triệu chứng chính của rối loạn đó. Tìm nguyên nhân
di truyền chủ yếu dựa vào nghiên cứu phả hệ, song sinh cùng trứng. Nhóm nguyên nhân
này bao gồm các hội chứng điện não-lâm sàng của động kinh toàn thể: động kinh cơn
10
vắng trẻ em, động kinh cơn vắng thiếu niên, động kinh giật cơ thiếu niên và động kinh với
các cơn co cứng-co giật toàn thể.
Các nguyên nhân do di truyền khác thường kèm theo biểu hiện suy giảm trí
tuệ và bệnh thường kháng thuốc điều trị: hội chứng Dravet, hội chứng Down; động
kinh do đột biến gen Protocadherin 19 trên nhiễm sắc thể X ở nữ giới (X-linked
protocadherin 19 mutations cause female-limited epilepsy)…
❖ Nguyên nhân do cấu trúc
Các bệnh chuyển hóa hoặc cấu trúc của não làm gia tăng đáng kể nguy cơ
tiến triển thành động kinh bao gồm nguyên nhân cấu trúc do bẩm sinh (loạn sản vỏ
não, xơ cứng củ) và nguyên nhân cấu trúc do mắc phải (đột quỵ não, chấn thương sọ
não, nhiễm trùng hay viêm miễn dịch).
❖ Nguyên nhân do chuyển hóa
Do các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh: thường có các đặc điểm của bệnh não
động kinh với cơn động kinh khởi phát sớm, kháng thuốc điều trị và kèm suy giảm
nặng nhận thức, cảm giác và/hoặc vận động. Hầu hết động kinh chuyển hóa được
cho là có bất thường nền ở gen, được phân nhóm đặc trưng theo con đường sinh hóa
liên quan và tuổi khởi phát. Cần nghĩ đến nhóm nguyên nhân chuyển hóa khi bệnh
nhân có các bất thường thần kinh khác như rối loạn vận động và thất điều, triệu
chứng toàn thân, quan hệ huyết thống cha mẹ và tiền sử gia đình dương tính với
bệnh lý tương tự. Khám tổng thể cần tìm kiếm các đặc điểm dị hình và bất thường
của chu vi vòng đầu. Các bất thường da và tóc có thể định hướng hội chứng
Menkes hoặc thiếu biotinidase. Khám mắt giúp phát hiện các dấu hiệu của bệnh
võng mạc sắc tố (neuronal ceroid lipofuscinosis, các bệnh ty thể), các chấm đỏ anh
đào ở điểm mù (gangliosidosis, bệnh Niemann-Pick), di lệch thủy tinh thể (thiếu
sulfide oxidase) và đục thủy tinh thể (khiếm khuyết sinh tổng hợp serine). Một vài
trường hợp đặc biệt bệnh biểu hiện muộn hơn ở thời kỳ thanh thiếu niên và trưởng
thành, khi đó cần đánh giá bệnh nhân một cách hệ thống để phát hiện các bất
thường về sinh hóa và gen.
❖ Nguyên nhân do nhiễm trùng
Ở giai đoạn đầu bị nhiễm trùng, người bệnh có thể có các cơn động kinh triệu
chứng cấp tính, ngoài ra các nhiễm trùng còn là nguyên nhân của các cơn động kinh
muộn cách xa thời điểm khởi phát đòi hỏi điều trị thuốc kháng động kinh lâu dài cho
11
người bệnh. Các tác nhân gây bệnh hay gặp gồm: sán não, viêm não virus, viêm
màng não (do vi khuẩn, nấm, lao), toxoplasma, sốt rét, và HIV.
Tỷ lệ bệnh nhân có động kinh muộn sau viêm màng não do vi khuẩn là 5-10%,
sau viêm não do virus Herpes simplex type 1 là 50%. Trẻ bị nhiễm cytomegalovirus
bẩm sinh có thể mắc dị tật về phát triển vỏ não và canxi hóa vỏ não kèm theo các
cơn động kinh xuất hiện ngay trong tháng đầu đời. Trẻ bị nhiễm virus Zika bẩm sinh
cũng có thể mắc động kinh ngay từ những tháng đầu đời (gặp ở 50% số bệnh nhân).
Trẻ bị nhiễm sởi lần đầu trước 2 tuổi cũng có thể mắc viêm não toàn bộ xơ cứng
bán cấp (SSPE: Subacute sclerosing panencephalitis) gây động kinh giật cơ và
chậm phát triển tâm thần. Viêm mạch do lao và u lao vỏ não cũng có thể gây ra
động kinh ở người bệnh. Các cơn động kinh trong nhiễm toxoplasma não ở bệnh
nhân có tình trạng suy giảm miễn dịch thường gắn với sự tái phát một bệnh nhiễm
trùng tiềm tàng. Ngoài ra, có thể gặp các cơn động kinh triệu chứng cấp tính ở bệnh
❖ Nguyên nhân do miễn dịch
nhân nhiễm cúm B, varicella, sởi, quai bị, rubella và virus West Nile.
Các hội chứng kháng thể tự miễn đã được công nhận là một nguyên nhân của bệnh
động kinh. Thông qua cơ chế trung gian miễn dịch, các kháng thể được hình thành
và trực tiếp chống lại các kháng nguyên trên bề mặt màng tế bào neuron (các
receptor dẫn truyền thần kinh qua synap, các kênh ion hoặc các protein có liên quan).
Nhóm nhỏ còn lại là các kháng thể đặc hiệu cho các kháng nguyên của nhân neuron
hoặc bào tương tế bào. Cả hai nhóm thường có mối liên quan với nguy cơ mắc ung
thư của bệnh nhân, đặc biệt cao tới 90% ở nhóm có kháng thể kháng nhân hoặc
kháng bào tương. Bệnh nhân biểu hiện thường có nhiều cơn động kinh và/hoặc trạng
thái động kinh kháng trị kèm các rối loạn tâm thần tiến triển, rối loạn thần kinh tự
động và các rối loạn vận động (loạn động vùng mặt hoặc mặt-cánh tay).
Các bệnh lý miễn dịch gây bệnh động kinh gồm: viêm não Ramussen, viêm não
kháng thể kháng thụ thể NMDA, kháng thể anti-LGI1, kháng thể anti Caspr2, kháng
thể anti-AMPAR, kháng thể anti-Hu, kháng thể anti-Ma2, kháng thể anti-CRMP5…
❖ Chưa rõ nguyên nhân (unknown)
Bao gồm tất cả các loại động kinh có hình ảnh học não tiêu chuẩn bình thường,
chưa phát hiện được yếu tố bất thường về di truyền, cấu trúc, chuyển hóa, nhiễm
trùng hay miễn dịch. Thuật ngữ “unknown” thay thế thuật ngữ “không xác định–
12
cryptogenic”, mang ý nghĩa là bản chất nguyên nhân của động kinh đến nay vẫn
chưa được biết.
Nhóm động kinh khu trú vô căn (idiopathic focal epilepsy) gồm động kinh lành
tính trẻ em với các nhọn thái dương đỉnh (benign epilepsy of childhood with
centrotemporal spikes) và hội chứng Panayiotopoulos tuy có một vài yếu tố gen liên
quan nhưng vẫn được xếp vào nhóm này.
Hình 1.1. Phân loại động kinh của ILAE 2017
Nguồn trích dẫn: Fisher RS et al. Epilepsia. 2017;58(4):522[21]
1.1.4. Các thăm dò chức năng dùng trong chẩn đoán động kinh ở phụ nữ có thai
Giống như các nhóm người bệnh động kinh khác, việc chẩn đoán cơn động
kinh ở phụ nữ có thai dựa vào việc chứng kiến chi tiết cơn xảy ra dù điều này không
phải lúc nào cũng thực hiện được. Các thăm dò chức năng được dùng trong chẩn
đoán động kinh bao gồm điện não đồ và các thăm dò hình ảnh học (cắt lớp vi tính sọ
não, cộng hưởng từ sọ não). Điện não đồ (Electroencephalography - EEG) là một
công cụ chẩn đoán quan trọng giúp đánh giá các bệnh nhân nghi ngờ mắc động kinh.
Điện não đồ cung cấp bằng chứng hỗ trợ chẩn đoán; giúp phân loại hội chứng động
kinh. Bên cạnh đó, các thăm dò hình ảnh học thần kinh có vai trò then chốt để phát
hiện tổn thương não gây cơn động kinh từ đó có kế hoạch điều trị thích hợp, đặc biệt
ở những trường hợp động kinh kháng trị có chỉ định phẫu thuật. Phần lớn các sản
13
phụ mắc động kinh đã được chẩn đoán và điều trị trước mang thai nên các thăm dò
chức năng được sử dụng không có sự khác biệt so với nhóm người bệnh động kinh
khác.Tuy nhiên, do tính an toàn đối với sản phụ và thai nhi, cộng hưởng từ sọ não sẽ
được ưu tiên sử dụng cho phụ nữ xuất hiện cơn động kinh đầu tiên trong thai kỳ.
1.1.4.1. Điện não đồ
❖ Điện não đồ thường quy
Điện não đồ giúp đánh giá những bệnh nhân nghi ngờ động kinh, cung cấp
bằng chứng hỗ trợ chẩn đoán và phân loại hội chứng động kinh để từ đó có điều
trị phù hợp.
❖ Điện não đồ video (video electroencephalography)
Điện não đồ video cho phép ghi liên tục, hiển thị đồng thời sóng điện não và
biểu hiện lâm sàng trong cơn của bệnh nhân. Có thể ghi điện não video trong thời gian
ngắn vài giờ tại phòng khám hoặc lâu hơn 24 giờ trong bệnh viện. Thời gian theo dõi
bệnh nhân thường trên 3 ngày, khi cần thiết có thể kéo dài hàng tuần.
❖ Biến đổi điện não đồ trong bệnh lý động kinh
Trong bệnh cảnh động kinh, các bất thường trên điện não đồ rất đa dạng;
được chia làm 2 nhóm: bất thường dạng động kinh (epileptiform) và bất thường dạng
không động kinh (non-epileptiform). Các hoạt động dạng động kinh bao gồm: kịch phát
dạng động kinh giữa cơn (interictal eileptiform discharges:IEDs); kịch phát có chu kỳ
chuyển đạo bên (lateral periodic discharges:LPDs) và kịch phát có chu kỳ toàn thể hóa
(generalized periodic discharges:GPDs). Những bất thường không phải dạng động
kinh gồm: sóng chậm (có thể lan toả, từng vùng hoặc khu trú, biên độ thay đổi hoặc
mất đối xứng) hoặc biến đổi của các hoạt động bình thường [23].
Biểu hiện của cơn động kinh trên điện não đồ là những loạt hoạt động kịch phát
xuất hiện đột ngột, đồng thì trên một số kênh hoặc trên tất cả các kênh rồi biến mất
đột ngột, phân biệt rõ với hoạt động nền. Các loại kịch phát này có thể được ghi trên
điện não đồ của bệnh nhân trong cơn (ictal) và giữa các cơn lâm sàng (interictal).
Hoạt động kịch phát là hoạt động của nhiều dạng sóng điện não, có thể gặp: gai sóng
(spike wave), phức hợp gai-sóng chậm (spike and slow wave complex), sóng nhọn
(sharp wave), phức hợp nhọn và sóng chậm (sharp and slow wave complex), phức
hợp đa gai (polyspike complex), phức hợp đa gai và sóng chậm (polyspike and slow
wave complex), kịch phát gai thành nhịp (spike rhythm discharge).
14
Hình 1.2. Hình ảnh của 7 loại kịch phát dạng động kinh trên EEG.
A: gai (nhọn) , B: phức hợp gai và sóng chậm, C: sóng nhọn, D: phức hợp nhọn và
sóng chậm, E: phức hợp đa gai, F: phức hợp đa gai và sóng chậm, G: kịch phát đa
gai thành nhịp. Nguồn trích dẫn: Chong DJ, Hirsch LJ. J Clin Neurophysiol.
2005;22:79[24]
15
Hình 1.3. Kịch phát có chu kỳ toàn thể (GPDs)
Nguồn trích dẫn: Chong DJ, Hirsch LJ. J Clin Neurophysiol. 2005;22:79[24]
Hình 1.4. Kịch phát có chu kỳ một bên ở bên phải (LPDs)
Nguồn trích dẫn: Chong DJ, Hirsch LJ. J Clin Neurophysiol. 2005;22:79[24]
16
Hình 1.5. Điện não trong cơn động kinh co cứng - co giật toàn thể
Nguồn trích dẫn: Chong DJ, Hirsch LJ. J Clin Neurophysiol. 2005;22:79[24]
Hình 1.6. Điện não cơn động kinh cục bộ khởi phát thái dương trán bên phải
Nguồn trích dẫn: Chong DJ, Hirsch LJ. J Clin Neurophysiol. 2005;22:79[24]
17
1.1.4.2. Các thăm dò hình ảnh học thần kinh dùng trong chẩn đoán động kinh ở phụ
nữ có thai
Rất nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã có các hướng dẫn riêng về chẩn đoán
hình ảnh học cho đối tượng bệnh nhân mang thai. Năm 2017, Hiệp hội bác sỹ sản
phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG)
đã xuất bản "Các hướng dẫn về thăm dò chẩn đoán hình ảnh học cho phụ nữ trong
thai kỳ và giai đoạn cho con bú” [25]. Mặc dù còn một số nghi ngại về tác động
không mong muốn của chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging-MRI) với
sản phụ và thai nhi (do cảm ứng điện trường khu trú và dòng điện từ trong từ trường
tĩnh hay từ trường thay đổi theo thời gian; do tác dụng làm nóng mô của bức xạ tần
số vô tuyến) nhưng thực tế chưa có báo cáo nào ghi nhận về ảnh hưởng nghiêm trọng
do chụp MRI trong thai kỳ [25]. Nghiên cứu được tiến hành trên 1737 lần mang thai
có thực hiện MRI trong thai kỳ (có so sánh với nhóm chứng gồm 1.418.451 ca sinh
không chụp MRI) cho thấy: chụp MRI cho sản phụ trong ba tháng đầu không gây
tăng đáng kể nguy cơ thai chết lưu, tử vong sơ sinh, dị tật bẩm sinh, ung thư, mất thị
lực hoặc thính giác ở trẻ (được theo dõi từ lúc sinh ra đến khi trẻ lên bốn tuổi) [26].
Mặt khác, các nghiên cứu về sự an toàn của MRI đối với sản phụ và thai nhi phần
lớn mới được thực hiện ở cường độ từ trường ≤ 1,5 Tesla. Nghiên cứu trên động vật
mang thai ở từ trường 3 Tesla, hiệu ứng đốt nóng tăng rõ rệt trong cả nước ối và mô
thai nhi [27]. Tuy nhiên, một nghiên cứu hồi cứu của 81 trẻ sơ sinh có mẹ chụp MRI
3 Tesla trong thai kỳ cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về trọng lượng sơ sinh
trung bình hoặc tỷ lệ suy giảm thính lực khi trẻ 12 tháng tuổi giữa nhóm tiếp xúc và
nhóm chứng [28]. Tóm lại, chụp MRI vùng đầu mặt cổ từ trường ≤ 3 Tesla được cho
là an toàn cho cả mẹ và thai nhi, mang lại nhiều lợi ích về chất lượng chẩn đoán, tuy
vậy chỉ nên thực hiện khi có chỉ định của bác sĩ thần kinh [25].
Chụp MRI não có tính an toàn và độ nhạy cao hơn chụp cắt lớp vi tính não đối
với bệnh động kinh. Chụp MRI não giúp phát hiện được hầu hết các tổn thương gây
động kinh cũng như cung cấp hình ảnh của cấu trúc não thông thường, ngoài ra còn cho
phép dựng hình ảnh não đa chiều và đánh giá chức năng não bộ với nhiều kỹ thuật
18
chụp khác nhau. Vì vậy, chụp cộng hưởng từ sọ não là thăm dò hình ảnh học thần
kinh được ưu tiên lựa chọn cho bệnh nhân mang thai bị động kinh.
Những nguyên nhân động kinh có liên quan đến bất thường cấu trúc não có thể
phát hiện trên MRI bao gồm: Xơ hoá hồi hải mã, bất thường phát triển của vỏ não, u
não, dị dạng mạch não; nhồi máu não, chảy máu não; huyết khối tĩnh mạch não; chấn
thương sọ não; viêm nhiễm hệ thần kinh trung ương bao gồm: viêm não, abcès não,
kén sán não [29],[30],[31].
❖ Một vài hình ảnh bất thường được phát hiện trên MRI não
Hình 1.7. Xơ hóa hồi hải mã trái kèm teo thùy thái dương bên trái
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040 [29].
Hình 1.8. Loạn sản vỏ não khu trú hồi cạnh hải mã và hồi chẩm thái dương trái
19
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040 [29].
Hình 1.9. Dị dạng u mạch thể hang tính chất gia đình
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040 [29].
Hình 1.10. Tổn thương não sau chấn thương sọ não dạng nang dịch và tăng sinh
thần kinh đệm khu trú
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040 [29].
Hình 1.11. Tổn thương thùy trán phải trong viêm não Ramussen
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040[29].
20
Hình 1.12. Các tổn thương não trong xơ cứng củ (Tuberous sclerosis)
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040 [29].
Hình 1.13. Tổn thương não trong hội chứng Sturge-Weber
Nguồn trích dẫn: Hiba AH, Lawrence JH. Uptodate. 2018; Topic 14040[29].
21
Hình 1.14. Tổn thương não do huyết khối tĩnh mạch não
(Hình ảnh do người viết cung cấp)
1.2. Các nghiên cứu về động kinh ở phụ nữ có thai
1.2.1. Nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ của mẹ và con
1.2.1.1. Bệnh tật và tử vong thời kỳ chu sinh
Dựa trên số liệu thu thập tại các bệnh viện Hoa Kỳ (trong khoảng thời gian từ
2007-2011 với nhóm bệnh là 69.383 sản phụ bị động kinh và nhóm chứng là 20 triệu
sản phụ không bị động kinh) cũng như kết quả đa phân tích được tổng hợp từ nhiều
nghiên cứu khác nhau cho thấy: Phụ nữ bị động kinh có tỷ lệ bệnh tật và tử vong thời
kỳ chu sinh cao hơn so với quần thể chung [32],[33],[34],[35]. Các biến cố y khoa từ
mức độ trung bình đến nặng xảy ra trong thời kỳ này bao gồm tiền sản giật, đẻ non,
chảy máu sau sinh, thai lưu, thai kém phát triển và tử vong mẹ [32],[33],[34],[36].
Thông thường tần số xuất hiện mỗi biến cố tăng gấp 1,1-1,5 lần so với quần thể, đặc
biệt tỷ lệ tử vong của sản phụ trong quá trình chuyển dạ cao hơn gấp 10 lần so với
quần thể [33],[34]. Các yếu tố nguy cơ tăng cao hơn rõ ràng của sản phụ bị động
kinh trong thời kỳ chu sinh bao gồm:
- Tử vong mẹ: có 80 trường hợp tử vong trên 100,000 sản phụ bị động kinh so
với 6 trường hợp tử vong trên 100,000 sản phụ không bị động kinh(OR hiệu chỉnh
11,5; 95% CI: 8,6-15,1).
- Tỷ lệ mổ đẻ ở nhóm sản phụ bị động kinh là 41% so với tỷ lệ của quần thể là
33% (OR 2,5).
22
- Tỷ lệ có tăng huyết áp liên quan tới thai kỳ (11% với 8%; OR 1,3) và tiền sản
giật (7% với 4 %; OR 1,6).
- Chảy máu trước sinh (Antepartum hemorrhage) (2,1% với 1,5 %; OR 1,4) chảy
máu sau sinh bao gồm cả chảy máu sau sinh mức độ nặng (0,7 % với 0,4%; OR 1,8).
- Đẻ non (11% với 7% ; OR 1,5).
- Thai kém phát triển (4% với 2%; OR 1,7).
- Thai lưu (0.8% với 0.6% ; OR 1.3).
Về nguyên nhân tử vong của sản phụ bị động kinh, một vài khả năng được đưa ra
bao gồm: nguy cơ tăng mắc các bệnh phối hợp, tăng mắc các biến chứng de dọa tính
mạng do quá trình mang thai và các biến chứng liên quan đến cơn động kinh bao gồm
cả đột tử (SUDEP: sudden unexpected death in epilepsy) [35]. Nghiên cứu tại Anh dựa
trên số liệu quần thể 2 triệu sản phụ từ năm 2006-2008 phát hiện có 14 trường hợp tử
vong trong thai kỳ có mắc bệnh động kinh trước đó và 11/14 ca (chiếm tỷ lệ 80%)
được cho là SUDEP. Các tác giả ước tính tỷ lệ tử vong trong nhóm phụ nữ bị động
kinh là 1/1000, cao gấp 10 lần so với tỷ lệ tử vong ước tính trong quần thể nghiên
cứu (11/100,000) [35]. Tuy nhiên, tỷ lệ này chỉ tương đương với tỷ lệ tử vong do
SUDEP trong quần thể mắc động kinh mạn tính, do đó khả năng tăng nguy cơ
SUDEP trong quá trình mang thai là không rõ ràng. Ngoài ra, trong nghiên cứu này,
2/3 số ca tử vong có sử dụng lamotrigine; tuy vậy, việc kiểm soát cơn co giật hay các
yếu tố nội sinh tăng nguy cơ xảy ra SUDEP không được đưa ra bàn luận.
Nguy cơ thai lưu trong quần thể bệnh nhân bị động kinh có tăng nhẹ. Một số
nghiên cứu nhận thấy nhóm dùng thuốc kháng động kinh có nguy cơ bị đẻ non và
thai lưu cao hơn so với nhóm không dùng thuốc, tuy nhiên việc bệnh nhân phải dùng
thuốc để điều trị chỉ cho thấy mức độ nặng của các cơn giật mà không thể kết luận
dùng thuốc gây tăng nguy cơ tử vong thai nhi [32], [33], [37],[38],[39]. Ngoài ra,
nghiên cứu EURAP còn cho thấy chỉ có 1/165 trường hợp bị sảy thai hoặc thai lưu
có liên quan đến co giật hoặc trạng thái động kinh (SE: status epilepticus) [40]. Như
vậy, nguồn gốc của việc tăng nguy cơ thai lưu ở sản phụ mắc động kinh vẫn chưa rõ
ràng.
Về vấn đề thuốc động kinh làm tăng nguy cơn sảy thai tự nhiên, các dữ liệu
được công bố rất đa dạng nhưng kết quả có ý nghĩa còn hạn chế [32],[33],[38],[39].
Theo nghiên cứu quan sát trong quần thể có gần 1 triệu sản phụ, nhóm mắc động
23
kinh dùng thuốc điều trị khi mang thai có tăng nhẹ nguy cơ sảy thai tự nhiên so với
nhóm còn lại (tỷ số nguy cơ hiệu chỉnh [aRR] 1,13; 95% CI 1,04-1,24); tuy nhiên,
khi đánh giá nguy cơ sảy thai riêng trong nhóm động kinh, việc sử dụng thuốc kháng
động kinh không có mối liên quan chặt chẽ với sự tăng nguy cơ này (aRR 0,98; 95%
CI 0,87-1,09) [38],[39].
1.2.1.2. Tác động của quá trình mang thai đối với cơn động kinh
Ở phần lớn sản phụ mắc động kinh, tần suất cơn co giật không tăng trong thai
kỳ [3],[37],[40],[41],[42],[43],[44]. Số liệu thống kê tổng hợp từ các nghiên cứu có
liên quan đến việc kiểm soát cơn co giật trong thời kỳ mang thai của EURAP
(European Registry of Antiepileptic Drugs and Pregnancy-Ban đăng kiểm Châu Âu
về thuốc kháng động kinh và thai kỳ) cho thấy: gần 2/3 số bệnh nhân bị động kinh
(62-64%) có tần số cơn co giật, liều dùng và loại thuốc điều trị động kinh không thay
đổi; cũng như có tới 58% số bệnh nhân không có cơn giật trong thai kỳ. Các yếu tố
nguy cơ tác động đến tăng hoạt động cơn trong thai kỳ gồm: cơn động kinh cục bộ
(focal epilepsy) và đa trị liệu. Tỷ lệ bệnh nhân có trạng thái động kinh là 1,8% với
2/3 số bệnh nhân có dạng cơn kèm theo rối loạn ý thức nhưng chưa phát hiện được
yếu tố nguy cơ đối với trạng thái động kinh [40]. Trong nghiên cứu hồi cứu khác ở
1297 thai phụ bị động kinh, ngoài hai yếu tố tiên lượng độc lập đối với hoạt động
của cơn giật trong quá trình mang thai là cơn cục bộ (so với cơn toàn thể) và đa trị
liệu; việc cơn giật còn xuất hiện trong tháng ngay trước khi mang thai được cho là
yếu tố tiên lượng xấu quan trọng nhất [43].
Nghiên cứu quan sát năm 2020 của nhóm nghiên cứu MONEAD (Maternal
and Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs Study-Nghiên cứu về tác
động của thuốc chống động kinh đối với mẹ và phát triển thần kinh của trẻ) cho thấy:
có thể dự phòng hiệu quả hoạt động của cơn giật trong thai kỳ bằng kiểm soát cẩn
thận thuốc điều trị động kinh và theo dõi nồng độ thuốc trong thai kỳ [44]. Số liệu
được thu thập và so sánh giữa nhóm bệnh có 299 sản phụ bị động kinh và nhóm
chứng gồm 93 phụ nữ bị động kinh nhưng không mang thai, các bệnh nhân đều có
cơn động kinh có kèm suy giảm nhận thức. Tần suất cơn co giật tăng lên trong thai
kỳ ở 23 % số phụ nữ của nhóm bệnh (cũng tương tự như nhóm chứng là 25%; OR =
0,93; 95% CI: 0,54-1,60) nhưng tỷ lệ bệnh nhân cần phải chỉnh thuốc trong thai kỳ là
24
74 % (so với nhóm chứng là 31%; OR= 6,36, 95% CI 3,82-10,59). Các thuốc kháng
động kinh được tăng liều phù hợp trong thai kỳ cho người bệnh dựa trên sự thay đổi
mức độ thanh thải của từng thuốc và được chỉnh giảm một lần nữa sau sinh. Từ kết
quả của nghiên cứu này, các bác sĩ lâm sàng có thể tư vấn cho phụ nữ bị động kinh
tin tưởng vào khả năng kiểm soát tốt được cơn co giật khi mang thai.
Đối với động kinh có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, số cơn giật trong thai
kỳ có thể giảm nhờ sự tăng nồng độ progesteron và sự vắng mặt của chu kỳ kinh
trong thai kỳ. Trong nghiên cứu tiến cứu ở 274 thai bị động kinh, có 59 bệnh nhân
được chẩn đoán động kinh có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt, tỷ lệ bệnh nhân
không có cơn giật trong thai kỳ của nhóm này cao hơn khác biệt so với nhóm bệnh
nhân còn lại (80% so với 22%) [45].
Tần suất cơn co giật cũng có thể tăng thêm trong thai kỳ do nguyên nhân mất
ngủ hoặc không tuân thủ điều trị (vì bệnh nhân lo sợ thuốc gây ảnh thưởng có hại
đến thai nhi). Ngoài ra, sự thay đổi về dược động học của các thuốc kháng động kinh
trong quá trình mang thai cũng góp phần làm biến đổi tần số xuất hiện cơn giật trong quá
trình mang thai [46],[47].
Cơn động kinh hiếm khi xuất hiện trong quá trình chuyển dạ (tỷ lệ khoảng
3,5%) cũng như ít có tính chất nặng hơn trong giai đoạn này [3],[32],[36],[40].
1.2.1.3. Các yếu tố nguy cơ khác đối với mẹ
Phụ nữ bị động kinh có tỷ lệ mắc các bệnh trầm cảm và lo âu kèm theo cao hơn
so với người bình thường, các triệu chứng càng rõ hơn ở giai đoạn mang thai và sau
sinh. Tỷ lệ trầm cảm sau sinh ở nhóm bị động kinh là 27%; ở nhóm mắc các bệnh lý
mạn tính không phải động kinh là 23 % và ở nhóm không bị động kinh là 19% (kết
quả từ nghiên cứu quần thể sản phụ gồm hơn 100,000 người bình thường và 706
bệnh nhân bị động kinh) [46]. Tỷ lệ mắc chứng lo âu cũng tăng hơn ở nhóm bệnh
nhân bị động kinh so với nhóm còn lại (22% so với 15 %). Các yếu tố nguy cơ có
khả năng tác động gây trầm cảm và lo âu cho sản phụ động kinh gồm: tần suất cơn
co giật xuất hiện cao, tiền sử bị lạm dụng tình dục, tình trạng kinh tế xã hội khó
khăn, tiền sử hiếm muộn hoặc mất con trước đó, có sử dụng thuốc kháng động kinh,
có thai ngoài ý muốn, đã bị trầm cảm hoặc lo âu trước mang thai.
25
Trầm cảm trong thai kỳ nếu không được điều trị có thể gây hậu quả cho cả mẹ
và con, vì vậy cần được phát hiện và điều trị sớm. Các liệu pháp điều trị (gồm dùng
thuốc và không dùng thuốc) sẽ được lựa chọn để phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Một vài nghiên cứu cho rằng nên sử dụng các liệu pháp không dùng thuốc để kiểm
soát trầm cảm và lo âu ở nhóm bệnh nhân bị động kinh cũng như nhấn mạnh tầm
quan trọng của khám sàng lọc nhằm phát hiện sớm và điều trị thích hợp bệnh lý tâm
thần phối hợp cho người bệnh [46],[47].
1.2.2. Nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc điều trị động kinh đối với thai nhi
Các yếu tố nguy cơ khi sử dụng thuốc kháng động kinh
Có sự tăng nguy cơ thai nhi mắc các dị tật bẩm sinh khi mẹ sử dụng thuốc kháng
động kinh trong thai kỳ. Tỷ lệ mắc dị tật của thai nhi có mẹ điều trị thuốc kháng
động kinh là 4-6% (trong quần thể chung tỷ lệ là 2-3%) [41], [48], [49], [50], [51],
[52].
Các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng (major congenital malformations - MCMs)
thường gặp nhất liên quan đến các thuốc chống động kinh gồm dị tật sứt môi hở hàm
ếch, dị dạng tim mạch, dị tật ống thần kinh, tật lỗ niệu lệch dưới và dị dạng cột sống
[48],[49],[50]. Ngoài ra, các bất thường phát triển khác (minor malformation-
dysmophic features) có thể gặp nhưng tần suất thấp hơn như : chứng doãng rộng góc
trong hai mắt; thiểu sản ngón chân, ngón tay; dị dạng sọ mặt (anticonvulsant face với
thiểu sản mũi: mũi tẹt, mũi ngắn với lỗ mũi hếch, thiểu sản xương hàm trên và chứng
doãng rộng góc trong hai mắt), biến đổi kín đáo hệ xương và chứng chậm lớn [48],
[50]. Tuy nhiên, cơ chế gây ra các bất thường phát triển này có mối liên quan đến
các thuốc kháng động kinh chưa thực sự rõ ràng [51].
Nguy cơ dị tật thai nhi tăng cao với một số thuốc điều trị động kinh, đặc biệt là
valproate. Phenytoin, carbamazepine, phenobarbital, topiramate cũng là những thuốc
có thể gây nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh ở thai nhi cao hơn so với quần thể chung; còn
lại levetiracetam và lamotrigine gây nguy cơ mắc dị tật thấp nhất [3],[52].
Kết quả phân tích của các nghiên cứu hồi cứu và các trung tâm dữ liệu cho
thấy: đa trị liệu là yếu tố nguy cơ gây tăng cao tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh ở trẻ bị phơi
nhiễm thời kỳ bào thai (tỷ lệ 6-8,6% so với quần thể chung là 2-3%) [53],[54]. Trong
đó, nguy cơ mắc sẽ tăng đặc biệt khi thành phần thuốc dùng có valproate hoặc
topiramate [55],[56]. Ngược lại, một số kết hợp dùng thuốc đa trị liệu như:
26
lamotrigine và levetiracetam; lacosamide và levetiracetam; lamotrigine và zonisamide
đều gây tăng không đáng kể nguy cơ trẻ mắc dị tật bẩm sinh và được sử dụng thay
thế cho valproate khi mang thai, đặc biệt ở phụ nữ mắc các hội chứng động kinh co
giật toàn thể [57].
Ngoài loại thuốc, liều lượng của thuốc động kinh được sử dụng đơn độc hay kết
hợp cũng rất quan trọng, ảnh hưởng đến tác động của thuốc đối với thai nhi, đặc biệt
là khi các kết hợp có valproate [50],[52],[56],[58],[59].
Về lâu dài, nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh còn tăng lên ở các lần mang thai sau của
sản phụ có sử dụng thuốc kháng động kinh trong thai kỳ. Nguy cơ này tăng cao đặc
biệt khi thuốc là valproate hoặc topiramate, tăng nhẹ khi là các loại thuốc khác đơn
trị liệu và tăng rõ khi dùng đa trị liệu. Theo kết quả của hai nghiên cứu thuộc hai
trung tâm khác nhau, tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh ở lần mang thai sau của nhóm phụ nữ
tiếp tục dùng valproate dù đã có con bị dị tật bẩm sinh là 50% [60],[61].
Một vài nghiên cứu còn bổ sung các yếu tố làm tăng nguy cơ trẻ mắc dị tật bẩm
sinh bao gồm: tiền sử gia đình đã có trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, mẹ có nồng độ folate
thấp trong máu và trình độ học vấn thấp [4],[54],[58]
Tuy vậy, cơ chế gây tăng nguy cơ quái thai của các thuốc động kinh hiện vẫn
chưa được xác định rõ. Một giả thiết cho rằng hoạt động thủy phân epoxide ở một số
thai nhi khi phơi nhiễm trực tiếp với các thuốc kháng động kinh sẽ bị giảm hoặc bị bất
hoạt từ đó làm tăng nồng độ của các chất chuyển hóa trung gian có tính oxy hóa gây ra
quái thai [62]. Một cơ chế khác là do quá trình tổng hợp hoạt tính sinh học của các thuốc
kháng động kinh tác động lên các gốc trung gian được sản xuất bởi prostaglandin H có
khả năng tổn thương quá trình oxi hóa DNA của thai nhi [63]. Ngoài ra, một số thuốc
kháng động kinh là tác nhân đối kháng acid folic nên khi sản phụ dùng thuốc sẽ bị thiếu
hụt acid folic và dẫn đến tăng nguy cơ thai nhi bị quái thai [49].
1.2.3. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của các thuốc điều trị động kinh đối với thai nhi
1.2.3.1. Valproate
Các dị tật bẩm sinh hay gặp ở trẻ khi có tiếp xúc với valproat ở quý đầu của
thai kỳ gồm dị tật hàm ếch, dị tật tim mạch, dị tật niệu-sinh dục cũng như đa dị tật.
Ngoài ra, một số dị tật bẩm sinh khác có thể gặp như các bất thường cấu trúc như tật
sọ mặt nhỏ, dị tật cột sống và các bất thường sinh dục [52],[64]. Đặc biệt, tỷ lệ mắc
các dị tật bẩm sinh ống thần kinh (nứt đốt sống, thoát vị màng tủy mở) ở trẻ có tiếp
27
xúc với valproate thời kỳ bào thai là 1-2%, cao gấp 10-20 lần so với tỷ lệ mắc trung
bình của quần thể [52],[65].
Việc sản phụ có dùng valproat ở quý đầu của thai kỳ làm tăng nguy cơ mắc
các dị tật bẩm sinh ở trẻ được sinh ra và điều này hoàn toàn độc lập với các hội
chứng động kinh là bệnh của bà mẹ đang mắc [4],[66],[67]. Kết quả trong nghiên
cứu của Ban đăng kiểm về thuốc kháng động kinh và thai sản của Bắc Mỹ (North
American Anti-epileptic Drug Pregnancy Registry - NAAPR) cho thấy tỷ lệ thai mắc
dị tật bẩm sinh nghiêm trọng trong nhóm mẹ sử dụng đơn trị liệu valproate là 9,3%,
tỷ lệ này ở nhóm có mẹ dùng các thuốc kháng động kinh khác là 2.9 % và ở nhóm
chứng có mẹ không dùng thuốc là 1.1 %. Do đó, nguy cơ tương đối của dị tật nặng
của nhóm có mẹ dùng valproate là 9.0 (95% CI 3.4-23.3) [68]. Tăng liều dùng
valproate trong thời kỳ mang thai cũng tác động làm tăng nguy cơ mắc các dị tật này
(OR=3.7 khi dùng valproate ≤1500 mg/ngày so với OR=10.9 khi dùng valproate
>1500 mg/ngày), ở một vài nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự
[35],[50],[52].
Nghiên cứu bệnh chứng sử dụng cơ sở dữ liệu của Ban giám sát các bất thường
bẩm sinh tại châu Âu (European Surveillance of Congenital Anomalies) phát hiện
trên tổng số 98,075 ca dị tật bẩm sinh nghiêm trọng: valproate có kết hợp với tăng
nguy cơ ở một số dị tật bẩm sinh nặng [69]. Tỷ suất chênh đã hiệu chỉnh OR cho các
dị tật khi so sánh giữa valproate với các thuốc không phải thuốc kháng động kinh
như sau: tật nứt đốt sống (12,7), dị tật vách liên nhĩ (2,5), hở hàm ếch (5,2), tật lỗ đái
thấp (4,8), dị tật thừa ngón (2,2), hẹp hộp sọ (6,8). Ngoài ra, tỷ suất chênh cho các dị
tật cũng tăng khi so sánh giữa valproate với các nhóm thuốc chống động kinh khác.
Tác động của valproate đối với nguy cơ dị tật phụ thuộc liều dùng, nhưng liều
an toàn thấp nhất chưa được xác định [50],[52],[67],[68]. Theo số liệu của Ban đăng
kiểm châu Úc về thuốc chống động kinh trong thai kỳ (The Australian Registry of
Anti-epileptic drugs in Pregnancy): liều valproate ≤1400 mg/ngày có liên kết với tỷ
lệ thấp hơn của các dị tật bẩm sinh so với liều cao >1400mg/ngày (OR = 0,109; 95%
CI 0,04-0,3) [70]. Số liệu từ cùng trung tâm cũng giả thiết nguy cơ dị tật nứt đốt
sống và lỗ niệu thấp giảm đi với liều thuốc thấp hơn, còn các nguy cơ các dị tật khác
thì không phụ thuộc liều dùng (ví dụ dị tật sứt môi hở hàm ếch, dị tật vách liên nhĩ)
[70].
28
1.2.3.2. Phenytoin
Theo số liệu ghi nhận của NAAPR (North American Antiepileptic Drug
Pregnancy Registry) và EURAP (the European Registry of Antiepileptic Drugs and
Pregnancy), tỷ lệ mắc các dị tật bẩm sinh nặng trong nhóm sản phụ có dùng
phenytoin đơn trị liệu là 2,9% và 6,4% [52],[68]. Các dị tật nặng hay gặp là sứt môi
hở hàm ếch, dị tật tim bẩm sinh và dị tật niệu-sinh dục [4],[49],[56],[57],[64].
Một vài báo cáo còn ghi nhận các trường hợp trẻ mắc u nguyên bào thần kinh
(neuroblastoma) khi tiếp xúc với phenytoin thời kỳ bào thai [4].
1.2.3.3. Phenobarbital
Sứt môi hở hàm ếch, dị tật tim bẩm sinh và dị tật niệu-sinh dục là những bất
thường bẩm sinh có tần số xuất hiện tăng khi trẻ có tiếp xúc với phenobarbital thời
kỳ bào thai [4],[49],[64].
Số liệu ghi nhận của NAAPR cho thấy tỷ lệ bị dị tật bẩm sinh ở trẻ có mẹ dùng
phenobarbital trong thai kỳ là 5,5% (có 199 thai phụ) và tỷ lệ này cao gấp 3 lần so
với nhóm bệnh nhân không dùng thuốc và nhóm dùng lamotrigine [68].
1.2.3.4. Carbamazepine
Carbamazepine có kết hợp với nguy cơ mắc trung bình các dị tật bẩm sinh ở
trẻ, đặc biệt cao là tật nứt đốt sống [4],[71]. Tỷ lệ trẻ sơ sinh bị dị tật thoát vị não tủy
ở nhóm tiếp xúc carbamazepine thời kỳ bào thai là 0,95 % (cao gấp 7 lần so với tỷ lệ
mắc của quần thể) [49]. Ngược lại, số liệu của Ban đăng kiểm bệnh động kinh và
thai kỳ tại Anh Quốc (UK Epilepsy and Pregnancy Registry/UK-EPR) lại cho thấy tỷ
lệ trẻ mắc dị tật bẩm sinh nặng khi mẹ dùng đơn trị liệu carbamazepine là thấp nhất
khi so sánh với các thuốc kháng động kinh khác [2,2%]. Thêm nữa, tỷ lệ trẻ mắc các
khuyết tật ống thần kinh khi mẹ dùng carbamazepine chỉ là 0.2% ở nghiên cứu này
[54].
Cũng tương tự, tỷ lệ mắc dị tật thai nhi liên kết với điều trị đơn trị liệu
carbamazepine dựa trên cơ sở dữ liệu của NAAPR, EUROCAT (European
Registration of Congenital Anomalies and Twins) và EURAP lần lượt là 2.9%, 3.3%
và 5,5% [52],[55],[68],[71]. Nguy cơ mắc các dị tật tiết niệu-sinh dục, dị tật tim
mạch và dị tật hàm ếch cũng đều cao hơn khi so sánh với tỷ lệ mắc trong quần thể
chung, đặc biệt một vài nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ dị tật niệu sinh dục ở trẻ sơ sinh có
mẹ dùng đơn trị liệu carbamazepine lên tới 4,5% [64].
29
1.2.3.5. Topiramate
Tỷ lệ mắc dị tật hàm ếch ở trẻ có mẹ dùng topiramate dao động là 4-29/1000
trẻ (tỷ lệ trong quần thể chung chỉ là 1-2/1000 trẻ) [68],[72],[73]. Số liệu thu thập từ
nghiên cứu quốc gia về phòng chống dị tật bẩm sinh của Hoa Kỳ (National Birth
Defects Prevention Study - NBDPS) và UK-EPR đều chỉ ra rằng topiramate có liên
quan đến tăng nguy cơ trẻ mắc tật sứt môi hở hàm ếch [73]. Cụ thể, nguy cơ mắc dị
tật hàm ếch ở trẻ có mẹ dùng topiramate cao gấp 2,9 lần so với quần thể chung
(4,1/1000 so với 1,1/1000; RR=2,9; 95% CI=1,56-5,40) [72]. Nguy cơ mắc dị tật
tăng rõ rệt khi dùng thuốc ở giai đoạn đầu của thai kỳ và dùng liều cao. Trong
một nghiên cứu khác tại Bắc Mỹ, tỷ lệ dị tật sứt môi hở hàm ếch ở nhóm có tiếp
xúc topiramate lúc bào thai là 1,4%, cao gấp 21,3 lần so với nhóm không tiếp xúc
(RR=21,3; 95% CI=7,9-57,1) [68]. Tương tự, trong nghiên cứu quần thể tại Anh
Quốc; tỷ lệ dị tật này ở trẻ có mẹ dùng topiramate là 2,2%, cao gấp 11 lần so với
tỷ lệ trong cộng đồng[73].
Điều trị đa trị liệu có topiramate cũng làm tăng nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh ở
trẻ. Trong nghiên cứu tại Úc, tỷ lệ dị tật ở thai nhi mà mẹ dùng đa trị liệu có
topiramate cao gấp 2 lần so với nhóm đa trị liệu không có topiramate (14.9% so với
6.6%) [74]. Ngoài ra, sử dụng topiramate trong thai kỳ làm tăng nguy cơ trẻ đẻ ra
thấp cân. Theo NAAPR, tỷ lệ trẻ có tuổi thai nhỏ (SGA: small-for-gestational-age)
trong nhóm có tiếp xúc với topiramate thai kỳ là 18% (63/347), ở nhóm có tiếp xúc
zonisamide trong thai kỳ là 12% (12/98), ở nhóm có tiếp xúc với lamotrigine trong
thai kỳ là 7% và ở nhóm chứng không dùng thuốc là 5%. Như vậy, nguy cơ SGA
tăng rõ ở nhóm dùng topiramate (RR 3.5, 95% CI 2.1-5.7) cũng như ở nhóm dùng
zonisamide (RR 2.2, 95% CI 1.1-4.4) khi so sánh với nhóm chứng sau khi đã hiệu
chỉnh các yếu tố khác gồm: tuổi mẹ, ghép cặp, tình trạng hút thuốc, học vấn và có bổ
sung acid folic trước mang thai [75],[76].
1.2.3.6. Lamotrigine
Nghiên cứu về tác dụng của lamotrigine đối với thai nhi có số lượng tương đối
nhiều và có tính đồng thuận cao về độ an toàn của thuốc. Tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh
nghiêm trọng của trẻ có mẹ dùng đơn độc lamotrigine từ đầu thai kỳ là 1,9-3,2%,
không tăng hơn khi so sánh với nhóm chứng không dùng thuốc và gần như tương
đương với tỷ lệ mắc dị tật của trẻ trong quần thể [54],[55],[64],[68],[77]. Thật vậy,
30
kết quả của nghiên cứu đoàn hệ tại Hoa Kỳ (1,3 triệu thai phụ trong đó có 1946 thai
phụ bị động kinh sử dụng lamotrigine trong quí đầu của thai kỳ) cho thấy: không có
sự tăng tỷ lệ mắc các dị tật bẩm sinh tại tim, ngoài tim, cũng như toàn bộ các dị tật ở
trẻ có tiếp xúc với lamotrigine khi so sánh với nhóm không phơi nhiễm thuốc [55].
Tuy nhiên, liều dùng lamotrigine hàng ngày của bệnh nhân trong nghiên cứu này khá
thấp (78% chỉ dùng liều <200mg/ngày), ngoài điều trị động kinh, thuốc còn được chỉ
định cho các mặt bệnh khác (rối loạn lưỡng cực, đau…)
Về mối liên quan giữa nguy cơ và liều dùng của thuốc, kết quả thu được của
các nghiên cứu còn nhiều bất đồng. Nghiên cứu của Ban đăng kiểm Quốc tế về
lamotrigine trong thai kỳ (International Lamotrigine Pregnancy Registry) ghi nhận
liều lamotrigine trên 400 mg/ngày không gây tăng nguy cơ bị dị tật bẩm sinh, nhưng
nghiên cứu của UK-EPR lại cho thấy có mối liên quan giữa liều dùng của thuốc với
nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh; đặc biệt khi liều lamotrigine lớn hơn 200 mg/ngày có
thể gây tăng nguy cơ giống như dùng valproate [54], [78], [79]. Ngoài ra, nghiên cứu
của EURAP cũng cho thấy tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ có mẹ dùng lamotrigine tuy
thấp nhưng sẽ tăng cao hơn đáng kể nếu liều dùng trên 300mg/ngày (2.0 % so với
4.5% ) [52]. Tuy vậy, các nghiên cứu trên đều không có dữ liệu về liều lượng của
thuốc cũng như nồng độ thuốc trong máu ở ba tháng đầu thai kỳ.
Theo số liệu thống kê quốc tế công bố tháng 1/2008 về nguy cơ gây dị tật bẩm
sinh của lamotrigine, việc dùng thuốc này trong đa trị liệu không có valproate sẽ có
nguy cơ trẻ mắc dị tật bẩm sinh cao tương đương so với dùng đơn trị liệu. Ngược lại,
khi phối hợp lamotrigine và valproate trong thai kỳ, tỷ lệ trẻ mắc dị tật bẩm sinh đặc
biệt cao, lên đến 11,2% (16/143 thai phụ) [80]. Báo cáo mới nhất của Ban đăng kiểm
quốc tế về thuốc lamotrigine trong thai kỳ cũng ghi nhận kết quả tương tự [78].
Theo báo cáo của NAAPR, nguy cơ mắc dị tật hàm ếch và/hoặc sứt môi ở trẻ
có mẹ dùng lamotrigine trong quí đầu tăng nhẹ (0,89% so với tỷ lệ 0,07%-0,25% của
quần thể)[81]. Ngược lại, nghiên cứu của Ban đăng ký châu Âu về dị tật bẩm sinh và
sinh đôi (EUROCAT) cho thấy đơn trị liệu lamotrigine không kết hợp với tăng nguy
cơ mắc tật sứt môi hở hàm ếch so với nguy cơ mắc các dị tật khác [82]. Nhược điểm
chung của các nghiên cứu này là không thiết kế để đánh giá nguy cơ mắc chung các
dị tật bẩm sinh của lamotrigine, do đó không thể xác định được các đa dị tật phối
hợp.
31
1.2.3.7. Levetiracetam
Dùng levetiracetam đơn độc trong thai kỳ thường kết hợp với nguy cơ thấp trẻ
mắc các dị tật bẩm sinh nặng. Tỷ lệ trẻ mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng khi mẹ
dùng đơn trị liệu levetiracetam trong nghiên cứu của EURAP chỉ là 2,8% (17/599
trẻ), nghiên cứu tại Anh và Ireland là 0,7% (2/314 trẻ), nghiên cứu của NAAPR là
2,4% (11/450 trẻ) và là tương đương so với tỷ lệ trong quần thể sản phụ khỏe mạnh
[52],[68],[83]. Các nghiên cứu trên cũng đều ghi nhận nguy cơ mắc dị tật ở thai nhi
tăng lên khi mẹ dùng levetiracetam trong đa trị liệu. Kết quả các nghiên cứu khác
còn cho thấy levetiracetam không gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm thần ở
trẻ, tuy vậy, số lượng các nghiên cứu còn ít và cỡ mẫu còn khiêm tốn [84].
1.2.3.8. Pregabalin
Theo các nghiên cứu trên động vật và một nghiên cứu hồi cứu đoàn hệ,
pregabalin có khả năng tăng nguy cơ gây dị tật bẩm sinh cho trẻ khi mẹ sử dụng
thuốc trong 3 tháng đầu của thai kỳ [85]. Tỷ lệ mắc dị tật ở nhóm phơi nhiễm với
thuốc cao hơn nhóm không tiếp xúc với pregabalin (6% so với 2%) [85]. Những hạn
chế của nghiên cứu gồm: cỡ mẫu nhỏ (chỉ có 164 bệnh nhân dùng pregabalin trong
nhóm bệnh), số bệnh nhân dùng đa trị liệu và có nghiện thuốc lá chiếm tỷ lệ cao, các
bệnh nhân ở cả nhóm bệnh và chứng đều mắc nhiều bệnh lý phối hợp, pregabalin
được chỉ định dùng cho nhiều bệnh khác ngoài bệnh động kinh. Ngoài ra, nghiên cứu
hồi cứu 1 năm sau đó cho thấy sự kết hợp giữa phơi nhiễm pregabalin với các dị tật
bẩm sinh không còn rõ ràng sau khi sử dụng phương pháp điểm xu hướng
(propensity score matching) để kiểm soát các khả năng gây nhiễu (có 477 trẻ em bị
phơi nhiễm pregabalin thời kỳ bào thai trong quần thể 1,3 triệu lần mang thai với RR
1.18, 95% CI= 0.81-1.67) [86].
1.2.3.9. Oxcarbazepine
Trong nghiên cứu tại Đan Mạch, oxcarbazepine không làm tăng nguy cơ mắc
dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở trẻ bị phơi nhiễm thuốc thời kỳ bào thai so với nhóm
chứng không phơi nhiễm (tỷ lệ mắc các dị tật nghiêm trọng là 2,8% ở nhóm bệnh)
[77].Tương tự, theo nghiên cứu của EURAP, tỷ lệ này ở trẻ có mẹ dùng đơn trị liệu
oxcarbazepine chỉ là 3% (10/333 trẻ) [52].
1.2.3.10. Các thuốc khác
32
Tuy các thông tin về nguy cơ do thuốc đối với thai nhi của các thuốc kháng
động kinh khác (gabapentin, felbamate, tiagabine) còn rất hạn chế nhưng kết quả
nghiên cứu cho thấy phần lớn các rủi ro của thuốc là không rõ ràng.
Do các nghiên cứu được tiến hành đều có số lượng bệnh nhân dùng gabapentin
còn ít nên không tìm thấy được sự kết hợp giữa gabapentin và nguy cơ mắc các dị tật
bẩm sinh nghiêm trọng, tuy vậy nhóm tiếp xúc với gabapentin có tỷ lệ cao hơn về
sinh non và cân nặng trẻ thấp dưới 2500 g. Thêm vào đó, tỷ lệ trẻ sơ sinh phải nhập
viện điều trị tại đơn vị chăm sóc đặc biệt ở nhóm mẹ sử dụng gabapentin cao hơn
nhiều so với nhóm so sánh (38% so với 3%; p <0.001) [68],[77],[87].
Đối với zonisamide, tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng của trẻ khi mẹ sử
dụng đơn độc trong thai kỳ là 1,5% (2/136 trẻ) [88]. Ngoài ra, nguy cơ trẻ đẻ ra bị thấp cân
cũng tăng cao hơn khi mẹ dùng zonisamide [75],[76].
Bảng tóm tắt tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng (Major Congenital
Malformations-MCM) ở trẻ có phơi nhiễm thuốc động kinh đơn trị liệu thời kỳ
bào thai của 3 trung tâm đăng kiểm quốc tế
EURAP NAAPR UKEPR
Thuốc Tỷ lệ mắc (%) Tỷ lệ mắc (%) Tỷ lệ mắc (%)
(95%CIs) (95%CIs) (95%CIs)
Carbamazepine 5.5 (4.5 - 6.6) (2,1-4,2) 3,0 2,6 (1,9-3,5)
Lamotrigine 2.9 (2.3 - 3.7) (1,4-2,8) 1,9 2,3 (1,8-3,1)
Levetiracetam 2.8 (1.7 - 4.5) (1,4-4,3) 2,4 0,7 (0,2-2,4)
Oxcarbazepine 3.0 (1.4 - 5.4) (0,9-5,5) 2,2
Phenobarbital 6.5 (4.2 - 9.9) (3,1-9,6) 5,5
Phenytoin 6.4 (2.8 - 12.2) (1,7-5,0) 2,9 3,7 (1,2-10,2)
Topiramate 3.9 (1.5 - 8.4) (2,5-6,8) 4,2 4,3 (1,5-11,9)
Nguồn trích dẫn: Tomson T et al. Epileptic Disord 2019;21(6): 497-517[3].
9,3 6,7 (5,4-8,3) Valproate 10.3 (8.8 - 2.0) (6,6-12,9)
1.2.4. Các nghiên cứu về ảnh hưởng lâu dài của thuốc kháng động kinh đối với
trẻ bị phơi nhiễm thuốc thời kỳ bào thai
Tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu quan sát cho thấy việc điều trị bằng các
thuốc kháng động kinh trong thai kỳ có thể gây ảnh hưởng trên nhận thức và các
chức năng thần kinh của trẻ về lâu dài [3],[48].
33
1.2.4.1. Ảnh hưởng lâu dài của valproate
Valproate có tác động nguy hại rõ ràng đối với nhận thức và sự phát triển tâm
thần của trẻ [3],[4],[84],[89]. Một số nghiên cứu minh họa rõ các nguy cơ đó:
Trong nghiên cứu hồi cứu tại Hoa Kỳ về các tác dụng lên sự phát triển tâm thần
kinh của thuốc kháng động kinh (Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs
study - NEAD) ở 309 trẻ có tiếp xúc với valproate thời kỳ bào thai tại thời điểm trẻ
3 tuổi: điểm trung bình IQ của nhóm valproate thấp hơn 6 đến 9 điểm so với điểm IQ
của nhóm có mẹ dùng lamotrigine, phenytoin và carbamazepine trong thai kỳ [90].
Kết quả cũng tương tự khi đánh giá tại thời điểm trẻ 6 tuổi [92]. Ngoài ra, nghiên
cứu cũng phát hiện có mối tương quan chặt chẽ giữa điểm IQ của trẻ và liều
valproate mà mẹ sử dụng. Điểm IQ của trẻ có liên quan đến điểm IQ của mẹ ở tất cả
các nhóm tiếp xúc với thuốc kháng động kinh trừ nhóm tiếp xúc valproate, từ đó
giúp khẳng định mối liên quan chặt chẽ của valproate và điểm trung bình IQ của trẻ
[91].
Kết qủa trong nghiên cứu tiến cứu mù đơn tiến hành theo dõi 182 trẻ có mẹ bị
động kinh và nhóm chứng gồm 142 trẻ cho thấy có sự kết hợp đáng kể giữa chậm trí
tuệ ngôn ngữ ở trẻ và tình trạng tiếp xúc với valproate hoặc nhiều loại thuốc kháng
động kinh ở thời kỳ bào thai. Ngược lại, không có mối liên quan giữa tình trạng
chậm trí tuệ ngôn ngữ của trẻ với việc phơi nhiễm carbamazepine [93]. Trong một
nghiên cứu khác dựa trên hồ sơ đăng ký (registry-based study) tiến hành đánh giá mù
đơn ở 102 trẻ tuổi đi học có tiền sử phơi nhiễm valproate thời kỳ bào thai, kết quả
điểm trung bình bài test ngôn ngữ của nhóm này thấp hơn nhóm chứng [94]. Tương
tự như vậy, nghiên cứu tiến cứu thực hiện ở 172 trẻ nhỏ (trung bình 15 tháng tuổi) có
tiền sử tiếp xúc với valproate đơn trị liệu thời kỳ bào thai cũng nhận thấy trẻ có biểu
hiện chậm phát triển tâm thần và vận động hơn so với nhóm có mẹ dùng
carbamazepine đơn trị liệu trong thai kỳ [95].
Phơi nhiễm valproate thời kỳ bào thai còn làm tăng nguy cơ mắc các chứng
bệnh tự kỷ ở trẻ [3],[96],[97].Trong nghiên cứu quần thể tại Đan Mạch, nhóm 508
trẻ có mẹ dùng valproate trong thai kỳ có nguy cơ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ
(autism spectrum disorder) (tỷ số nguy hiểm HR 2,9; 95% CI 1,7-4,9; nguy cơ tuyệt
đối (AR) absolute risk là 4,42%) tăng hơn so với quần thể chung (HR 1,7, 95% CI
0,9-3,2; AR= 4,15%). Đối với chứng tự kỷ trẻ em, nguy cơ tương đối mắc cũng tăng
34
gấp 5 lần bình thường (với nguy cơ tuyệt đối AR 2,5 %). Các phân tích còn điều
chỉnh với các biến số như tuổi bố mẹ khi có thai, tiền sử tâm thần của bố mẹ, tuổi
thai, cân nặng lúc sinh, giới tính của trẻ, dị tật bẩm sinh mắc phải, chia cặp tương
đương. Kết quả khẳng định nguy cơ mắc các rối loạn phổ tự kỷ tăng rõ ràng ở nhóm
trẻ có mẹ dùng valproate trong thai kỳ để điều trị các bệnh khác ngoài động kinh
nhưng không tăng ở nhóm có dùng valproate nhưng đã dừng thuốc trước khi mang
thai ít nhất một tháng [96]. Nguy cơ này không tăng ở nhóm trẻ tiếp xúc với các
thuốc kháng động kinh khác (carbamazepine, oxcarbazepine, lamotrigine,
clonazepam); tuy vậy, số lượng bệnh nhân dùng các thuốc này trong nghiên cứu còn
ít [96].
1.2.4.2. Ảnh hưởng lâu dài của các thuốc kháng động kinh khác
Không giống như valproate, các số liệu hiện thời chỉ ra rằng nguy cơ gây ra các
rối loạn hành vi và tâm thần kinh của carbamazepine và lamotrigine là rất thấp [3].
Phần lớn các nghiên cứu cho rằng trẻ có phơi nhiễm carbamazepine thời kỳ bào thai
khi đẻ ra có biểu hiện nhận thức bình thường [4], [91]. Các kết quả từ các nghiên cứu
nhỏ cũng cho thấy việc phơi nhiễm đơn độc levetirecetam thời kỳ bào thai không ảnh
hưởng đến chức năng nhận thức sau này của trẻ [84].
Một vài nghiên cứu cho thấy phenytoin, primidone và phenobarbital làm tăng
nguy cơ biểu hiện suy giảm nhận thức hành vi khi trẻ trưởng thành [4],[98]. Ngược lại,
nghiên cứu NEAD kết luận trẻ bị phơi nhiễm đơn độc phenytoin thời kỳ bào thai có biểu
hiện tâm thần kinh hoàn toàn bình thường [91]. Ngoài ra, phơi nhiễm với đa trị liệu gây
nguy cơ suy giảm nhận thức hành vi cao hơn so với đơn trị liệu trong đó sự suy giảm khả
năng ngôn ngữ bị tác động rõ nhất [4],[91]. Một vài nghiên cứu phát hiện nguy cơ mắc
chứng suy giảm nhận thức tăng cao nhất ở trẻ đã có một hoặc nhiều dị tật nặng khi sinh ra
(nứt đốt sống, dị dạng tim mạch, dị tật sinh dục-tiết niệu) [99],[100],[101]. Trong một
nghiên cứu tiến cứu cho thấy giá trị trung bình chỉ số IQ lúc 4,5 tuổi của nhóm trẻ có tiếp
xúc với valproate thời kỳ bào thai thấp hơn so với nhóm tiếp xúc với carbamazepine,
phenytoin hoặc lamotrigine, đặc biệt trẻ bị khiếm khuyết ở cả bốn nhóm trong kỹ năng
ngôn ngữ và khiếm khuyết nhiều hơn so với các kỹ năng phi ngôn ngữ [91].
Các số liệu đánh giá về chức năng nhận thức của trẻ có mẹ dùng topiramate còn
ít, nhưng sơ bộ cho thấy phần lớn các rủi ro là không rõ ràng [3].
1.2.5. Nghiên cứu về tính di truyền của bệnh động kinh
35
Các nghiên cứu lớn dựa trên quần thể cho thấy tỷ lệ mắc bệnh động kinh là
0,5-1%; nguy cơ mắc động kinh cao hơn ở nhóm trẻ em đã có bố mẹ bị động kinh và
mức độ của các nguy cơ này biến đổi tùy theo các hội chứng động kinh bố mẹ của
trẻ mắc phải [102]. Khả năng phân tầng rủi ro dựa trên các phát hiện di truyền đặc
hiệu chỉ mới được áp dụng trong thực hành lâm sàng ở một nhóm rất nhỏ các gia
đình bị động kinh. Trong vòng khoảng 10 năm tới, những thành quả trong lĩnh vực
mới mẻ này sẽ giúp ích cho quá trình tư vấn trước mang thai về các rối loạn di truyền
trẻ có thể mắc phải có liên quan đến các hội chứng động kinh của bố mẹ.
Nghiên cứu dựa trên quần thể tại Bắc Mỹ nhằm ước tính nguy cơ gia đình của
660 bệnh nhân bị động kinh và 2500 người có quan hệ huyết thống mức độ một với
nhóm bệnh nhân bị động kinh (là cha mẹ hoặc là con cái của bệnh nhân) [102].Tỷ lệ
cộng dồn của các dạng cơn động kinh xuất hiện trước tuổi 40 trong nhóm quan hệ
huyết thống bậc một với bệnh nhân bị động kinh là 4,5%, cao gấp 3 lần so với tỷ lệ
chung trong quần thể. Nguy cơ mắc động kinh cao nhất cho nhóm là người thân của
bệnh nhân có cơn động kinh toàn thể (standardized incidence ratio [SIR] 8.3) và thấp
nhất ở nhóm là người thân của bệnh nhân động kinh cục bộ (SIR 2.6).
1.2.6. Nghiên cứu về tác động của cơn động kinh lên thai nhi
Cơn co giật trong thai kỳ và tình trạng bệnh động kinh của mẹ là những yếu tố
có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Đặc biệt, cơn co giật co cứng toàn thể hóa có thể dẫn
đến tình trạng mẹ bị thiếu oxy và nhiễm toan lactic gây hại cho thai nhi thông qua
nhau thai [3]. Hiện có rất ít nghiên cứu được thiết kế nhằm đánh giá trực tiếp cơn co
giật của mẹ đối với thai nhi.Tình trạng thai thiếu oxy có thể xuất hiện và là hậu quả
của quá trình giảm dòng máu đến rau thai và tình trạng ngừng thở sau cơn co giật
của mẹ; tuy vậy chưa xác định chính xác được số lượng cơn giật và thời gian kéo dài
cơn là bao nhiêu để có thể gây nguy hiểm với thai nhi. Trong một nghiên cứu theo
dõi nhịp tim thai khi mẹ lên cơn co giật toàn thể co cứng-co giật (cơn kéo dài 2,5
phút) phát hiện thấy sau khi cơn giật của mẹ kết thúc, hiện tượng nhịp tim thai bị
giảm tần số còn kéo dài thêm 30 phút [103]. Mặc dù một báo cáo vẫn ghi nhận thai
nhi có giảm nhịp tim kéo dài 1 phút đối với cơn động kinh cục bộ phức tạp nhưng
nhìn chung các cơn động kinh không co giật được cho là ít nguy hiểm hơn [3], [104].
Các nguy cơ đối với thai nhi có xuất phát từ cơn co giật của mẹ bao gồm chấn
thương cho thai, thai lưu hoặc đẻ non do mẹ bị ngã trong quá trình lên cơn giật.
36
Nghiên cứu dựa trên số liệu của quần thể tiến hành tại Đài Loan cho thấy cơn
co giật động kinh trong thai kỳ của sản phụ có kết hợp tăng nhẹ nguy cơ thai có tuổi
thai nhỏ so với nhóm không có cơn giật trong thai kỳ (OR 1.37; 95% CI 1.01-1.84)
nhưng không tăng nguy cơ đẻ non (OR 1.12, 95% CI 0.73-1.71) [105]. Một nghiên
cứu khác ở Vương quốc Anh kết luận: số lượng cơn co giật toàn thể của mẹ khi
mang thai là một yếu tố tiên lượng xấu về chỉ số trí thông minh bằng lời nói (IQ) ở
trẻ em; đặc biệt, khi mẹ có nhiều hơn 5 cơn co giật toàn thể trong thai kỳ sẽ tăng
nguy cơ trẻ sinh ra bị chậm phát triển tâm thần [106].
Các nguy cơ gây hại đối với thai nhi khi mẹ có trạng thái động kinh cũng không
rõ ràng. Kết quả của nghiên cứu lớn tại Châu Âu với 1956 lần mang thai của 1882 sản
phụ bị động kinh cho thấy, tỷ lệ xuất hiện trạng thái động kinh là 1,8%; chỉ có một
trường hợp có trạng thái động kinh bị đẻ non, các ca còn lại không tìm thấy mối liên hệ
ảnh hưởng đến thai nhi và mẹ [107].
Ngoài ra, một nghiên cứu tiến cứu phát hiện không có mối liên quan giữa cơn
co giật trong 3 tháng đầu của thai kỳ và các dị tật bẩm sinh với khoảng tin cậy rất
rộng (OR 0,6; 95% CI 0,1-2,9) [57]. Một nghiên cứu khác trong quần thể có 63 bệnh
nhân bị động kinh ghi nhận: sự xuất hiện của một hoặc nhiều cơn co giật trước sinh
không làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng sản khoa trước sinh, các bất thường
nhận thức của mẹ, thai lưu, thai chậm phát triển, tật đầu nhỏ ở trẻ được sinh ra [107].
1.3. Quản lý và tư vấn bệnh nhân động kinh ở độ tuổi sinh đẻ
Phụ nữ bị bệnh động kinh có khả năng mắc cao hơn các biến chứng khi mang
thai so với sản phụ bình thường. Do vậy, chúng ta cần lập kế hoạch và quản lý bệnh
trong thai kỳ một cách cẩn thận để đem lại kết quả mang thai thuận lợi cho cả mẹ và
con.
Những vấn đề cơ bản mà bác sỹ và bệnh nhân bị động kinh cần phải thống nhất giải
quyết trước khi lập kế hoạch mang thai bao gồm:
- Có cần thiết dùng thuốc kháng động kinh
- Tác động có thể có của thuốc động kinh đối với thai
- Những tác động lên thai nhi khi cơn động kinh của mẹ xảy ra
- Quá trình mang thai tác động lên hoạt động động kinh như thế nào
- Làm thế nào để quản lý bệnh nhân trong suốt quá trình mang thai và chuyển dạ
- Làm thế nào để quản lý bệnh nhân trong thời kỳ hậu sản
37
1.3.1. Quản lý trước mang thai
Việc tư vấn trước mang thai cho phụ nữ bị động kinh là nhiệm vụ quan trọng
và cần thiết. Tư vấn bao gồm cung cấp cho người bệnh và gia đình các thông tin
liên quan đến các yếu tố nguy cơ của bệnh động kinh và mang thai, tương tác thuốc
động kinh với liệu pháp tránh thai, chuẩn bị cho quá trình mang thai và việc bổ
sung sớm folate.
1.3.1.1. Tránh thai
Phụ nữ bị động kinh có khả năng mang thai ngoài ý muốn khi dùng thuốc
tránh thai đường uống cùng với thuốc kháng động kinh gây cảm ứng men
cytochrome P450 tại gan (carbamazepine, phenytoin, phenobarbital, primidone,
topiramate và oxcarbazepine). Ngược lại, các biện pháp tránh thai đảo ngược có tác
dụng kéo dài (Long-acting reversible contraceptives) bao gồm đặt vòng, dùng
hormon đặt buồng tử cung, cấy hormon etonogestrel dưới da giúp tránh thai hiệu quả
và ít gây tương tác thuốc [108].
1.3.1.2. Bổ sung acid folic
Bổ sung acid folic trước mang thai liều 0,4-0,8 mg/ngày đã được khuyến cáo
cho tất cả các phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ để giảm thiểu nguy cơ dị tật ống sống.
Liều cao acid folic 4 mg/ngày được đề nghị cho phụ nữ có nguy cơ cao đối với dị tật
này (ví dụ có con bị dị tật ống sống, sử dụng thuốc kháng động kinh như
carbamazepine hay valproate). Tuy nhiên, việc dùng acid folic liều cao chưa được
khẳng định chắc chắn mang lại lợi ích bảo vệ nhiều hơn cho thai nhi khi so sánh với liều
thấp [109],[110]. Thật vậy, Hiệp hội bác sỹ sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo
bổ sung axit folic 4 mg mỗi ngày cho phụ nữ có nguy cơ cao (có con bị khuyết tật ống
thần kinh) nhưng chỉ đề nghị liều 0,4 mg cho phụ nữ dùng thuốc kháng động kinh [111];
cũng như chưa có khuyến cáo dùng liều cao acid folic trong hướng dẫn của Hiệp hội
Thần kinh Hoa Kỳ (American Academy of Neurology-AAN) [109]. Ngoài ra, báo cáo
năm 2019 của ILAE cũng chỉ kết luận phụ nữ có dùng thuốc kháng động kinh nên uống
ít nhất 0,4 mg folate mỗi ngày trong quá trình chuẩn bị mang thai tối thiểu 3 tháng [3].
Nồng độ folate trong huyết thanh thấp ở phụ nữ bị động kinh có liên quan độc
lập đến tăng nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Các nghiên cứu trên động vật
cho thấy valproate và phenytoin làm giảm nồng độ của một số dạng folate nhất định,
do đó có khả năng gây ra khiếm khuyết ống thần kinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu
38
trên người chưa khẳng định được mối liên quan rõ ràng giữa việc bổ sung acid folic
trong giai đoạn sớm của quá trình mang thai và giảm nguy cơ mắc dị tật ống thần
kinh [112],[113]. Dẫu vậy, bổ sung axit folic trước và trong khi mang thai cho phụ
nữ bị động kinh có dùng thuốc kháng động kinh được chứng minh đem lại lợi ích về
nhận thức và hành vi của trẻ được sinh ra. Trong nghiên cứu NEAD (the
Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs), các chỉ số trí thông minh
(Intelligent Quotients-IQs) ở nhóm trẻ sáu tuổi có mẹ bổ sung axit folic trước thai kỳ
cao hơn so với nhóm có mẹ chỉ bổ sung axit folic trong thai kỳ [92],[114]. Một nghiên
cứu tiến cứu trong quần thể ở Na Uy cho thấy nguy cơ trẻ mắc các đặc điểm tự kỷ cao
hơn đáng kể tại thời điểm 18 tháng tuổi (OR= 5,9, 95% CI: 2,2-15,8) và 36 tháng tuổi
(OR= 7,9; 95% CI: 2,5-24,9) ở nhóm trẻ có mẹ không dùng axit folic so với nhóm có
mẹ bổ sung axit folic [115]. Mức độ tự kỷ còn có mối tương quan tỷ lệ nghịch với liều
axit folic bổ sung. Những phát hiện này là tiền đề cho việc áp dụng mô hình sử dụng
axit folic trước khi mang thai và trong thai kỳ. Bằng chứng quan trọng này còn cho thấy
tác dụng có lợi của việc bổ sung axit folic trước và sớm trong thai kỳ ở phụ nữ dùng
thuốc kháng động kinh, đồng thời nó cũng hỗ trợ khuyến nghị rằng tất cả phụ nữ bị
động kinh trong độ tuổi sinh sản nên bổ sung axit folic, đặc biệt ở nhóm có khả năng
cao mang thai ngoài ý muốn.
1.3.1.3. Sự cần thiết của thuốc chống động kinh
Lựa chọn thuốc điều trị động kinh
Đối với phụ nữ bị động kinh trong độ tuổi sinh đẻ có kế hoạch mang thai,
lamotrigine hoặc levetiracetam là thuốc được lựa chọn điều trị đầu tiên. Hai thuốc
trên đều có dữ liệu nghiên cứu phong phú và nhất quán về nguy cơ thấp gây dị tật
bẩm sinh và phát triển tâm thần kinh cho thai nhi [3]. Tuy nhiên, bác sĩ lâm sàng nên
cân nhắc nhiều yếu tố khi chọn thuốc để đạt được sự cân bằng tốt nhất giữa kiểm
soát co giật của mẹ và tác dụng phụ của thuốc đối với sự phát triển của thai. Các yếu
tố giúp bác sỹ và bệnh nhân lựa chọn thuốc điều trị cho quá trình chuẩn bị mang thai
bao gồm: thất bại trước khi dùng thuốc (nếu có), hội chứng động kinh và các loại co
giật, mức độ nghiêm trọng của cơn giật, tác dụng phụ của thuốc và bệnh đi kèm. Việc ra
quyết định thay đổi thuốc nên được xem xét trong bối cảnh này và phụ thuộc sự hợp tác
của bệnh nhân sau khi được tư vấn. Thực tế cho thấy, mặc dù rất khó thay đổi thuốc khi
bệnh đang điều trị ổn định, một số phụ nữ vẫn sẽ lựa chọn đổi sang thuốc khác được
39
chứng minh ít gây rủi ro hơn cho thai nhi; trong khi một vài người lại chọn duy trì thuốc
đang sử dụng. Hơn nữa, cho đến nay vẫn còn thiếu những kết luận đồng thuận về
phương pháp điều trị lý tưởng cho phụ nữ động kinh trong độ tuổi sinh sản. Hy vọng
trong một vài năm tới các trung tâm quản lý dữ liệu thai sản sẽ tập hợp đủ số liệu để
phân tích và rút ra các khuyến cáo, hướng dẫn điều trị đáng tin cậy và rõ ràng hơn.
Valproat không nên sử dụng cho phụ nữ đang có kế hoạch mang thai nếu cơn
giật có thể kiểm soát được bằng các thuốc khác. Khi bắt buộc phải dùng valproate,
nên dùng liều thấp nhất có thể để kiểm soát cơn giật (thường khoảng 500-600
mg/ngày), nồng độ thuốc trong máu cần cao hơn 70 µg/mL và nên chia nhỏ liều
thuốc uống 3-4 lần trong ngày [3],[116].
Ngoài ra, các nghiên cứu quy mô lớn cũng cung cấp thông tin về nguy cơ mắc dị
tật của các thuốc kháng động kinh khác. Một số thuốc có nguy cơ tăng vừa phải các dị
tật, chậm phát triển bào thai và/hoặc tác dụng đối với sự phát triển thần kinh (phenytoin,
phenobarbital, topiramate); có những thuốc có nguy cơ trung bình (carbamazepine,
oxcarbazepine, zonisamide) và nguy cơ này là tối thiểu hoặc không có nguy cơ ở một số
thuốc (lamotrigine, levetiracetam) khi so sánh với tỷ lệ mắc dị tật của trẻ sơ sinh trong
quần thể dân số. Tuy vậy, thông tin về nhiều loại thuốc còn chưa đầy đủ để có thể phân
loại mức độ rủi ro đối với sự phát triển của thai nhi [3],[109].
1.3.1.4. Các nội dung khác cần tư vấn trước mang thai
Bệnh nhân bị động kinh có thể tăng tần suất xuất hiện cơn giật trong thai kỳ vì
lý do mất ngủ, tự giảm liều hoặc dừng thuốc điều trị. Việc tư vấn trước khi mang thai
cho bệnh nhân có thể giảm thiểu nguy cơ này. Người bệnh cần đảm bảo ngủ đủ giấc,
tuân thủ uống thuốc và thăm khám y tế, giảm thiểu căng thẳng, được trang bị kiến
thức về các yếu tố có khả năng kích hoạt cơn giật.
1.3.2. Quản lý trong quá trình mang thai và chuyển dạ
Quản lý trong quá trình mang thai và chuyển dạ bao gồm:
- Bổ sung acid folic
- Kiểm soát nồng độ thuốc kháng động kinh trong máu
- Sàng lọc phát hiện các dị tật bẩm sinh của thai nhi
- Bổ sung vitamin K vào cuối thai kỳ
- Quản lý quá trình sinh con
1.3.2.1. Duy trì bổ sung acid folic
40
Liều dùng acid folic trước khi mang thai được khuyến cáo cho bệnh nhân suốt
3 tháng đầu tiên của thai kì và thường được tiếp tục trong suốt thai kỳ [3].
1.3.2.2. Sử dụng và chỉnh liều thuốc kháng động kinh trong thai kỳ
Các thay đổi của chuyển hóa thuốc trong quá trình mang thai bao gồm: tăng
chuyển hóa ở gan, tăng độ thanh thải của thận, tăng thể tích phân bố, giảm hấp thụ ở
đường tiêu hóa và giảm độ gắn kết thuốc với protein máu. Nồng độ thuốc toàn phần
trong máu của các thuốc gắn nhiều với protein huyết tương (vaproate hay phenytoin)
có thể giảm đi do giảm quá trình gắn thuốc với protein huyết thanh, nhưng thành
phần thuốc tự do không gắn protein lại không thay đổi. Do đó, khi đánh giá tác dụng
của thuốc trong thai kỳ, giá trị nồng thuốc tự do trong máu của những thuốc này có
độ tin cậy cao hơn nồng độ thuốc toàn phần. Tuy vậy, chỉ nên điều chỉnh liều thuốc
để kiểm soát tốt cơn giật mà không nên tăng liều dựa vào sự giảm sút nồng độ thuốc
tự do hay toàn phần trong máu. Các thuốc được khuyến cáo cần theo dõi sát bao
gồm: levetiracetam, lamotrigine, oxcarbazepine, phenytoin, phenobarbital,
topiramate và zonisamide [3]. Nên kiểm tra nồng độ thuốc tự do và toàn phần trong
máu người bệnh trong các tình huống sau: (1)Ngay khi mang thai, đều đặn 1 lần
hàng tháng trong thai kỳ và tại thời điểm sau đẻ 6 tuần. (2)Ngay khi bệnh nhân có
tăng tần số xuất hiện hoặc tăng mức độ nặng của cơn động kinh. (3)Ngay khi bệnh
nhân có các triệu chứng như nhìn mờ, chóng mặt hoặc các than phiền khác có liên
quan đến ngộ độc thuốc kháng động kinh.
Bảng tóm tắt sự sụt giảm nồng độ trong huyết thanh của các loại thuốc chống
động kinh khi giữ nguyên liều thuốc trong thai kỳ
Thuốc
Mức độ giảm nồng độ thuốc toàn phần trong máu Dưới 55%
Mức độ giảm nồng độ thuốc tự do trong máu Dưới 50%
Phenobarbital
60 - 70%
20 - 40%
Phenytoin
0 - 12%
Không
Định lượng nồng độ thuốc, nếu có thể Có Có; theo dõi nồng độ thuốc tự do Không bắt buộc
Carbamazepine
Dưới 23%
Không
Không bắt buộc
Valproate
Không được đánh giá
Có
Không được đánh giá
Có
Oxcarbazepine Lamotrigine Gabapentin
36 - 62% 69% trong 0.77 quần thể và 17% trong 0,23 quần thể Không đủ số liệu
Không được đánh giá
Có
Topiramate
Không được đánh giá
Có
Levetiracetam
Không được đánh giá
Có
Zonisamide
Dưới 30% 40 - 60%; mức giảm cao nhất ở quý đầu Dưới 35%, số liệu còn ít
Không được đánh giá
Có
41
Nguồn trích dẫn: Tomson T et al. Epileptic Disord 2019; 21 (6): 497-517[3] Khi không định lượng được nồng độ thuốc, theo khuyến cáo của ILAE 2019
cần tăng liều điều trị cho phụ nữ bị động kinh ở 2 quý sau của thai kỳ trong những
trường hợp [3]: (1) Bệnh nhân đang dùng các thuốc kháng động kinh có độ thanh
thải tăng nhiều trong thai kỳ (lamotrigine, levetiracetam và oxcarbazepine). (2) Cơn
động kinh cục bộ toàn thể hóa hoặc cơn động kinh toàn thể co giật co cứng. (3) Việc
kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân trước mang thai nhạy cảm với việc thay đổi liều
thuốc điều trị. (4) Liều thuốc của bệnh nhân dùng trước mang thai là liều thấp nhất
có hiệu quả.
Về hiệu quả kiểm soát cơn co giật khi mang thai của các thuốc kháng động
kinh hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào được tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên. Hầu
hết các nghiên cứu đều thu thập các thông tin thô và không đầy đủ về cơn co giật dựa
trên các dữ liệu của các trung tâm quản lý bệnh động kinh và thai sản. Nghiên cứu ở
Úc trên hơn 1000 sản phụ bị động kinh điều trị đơn trị liệu kết luận rằng: nhóm thuốc
thế hệ cũ (carbamazepine, phenytoin, valproic acid) kiểm soát cơn co giật tốt hơn
nhóm thuốc thế hệ mới (lamotrigine, levetiracetam hoặc topiramate) (tỷ lệ bệnh nhân
có ít nhất 1 cơn giật trong thai kỳ ở hai nhóm lần lượt là 35% và 48 %). Mặt khác,
tuy lượng bệnh nhân sử dụng levetiracetam trong nhóm thuốc thế hệ mới còn ít (n =
82) nhưng kết quả cho thấy thuốc có tác dụng kiểm soát cơn động kinh trên thai kỳ
tốt hơn so với lamotrigine (32% so với 51%) [117]. Một nghiên cứu lớn khác cũng
cho thấy lamotrigine kiểm soát cơn giật kém hơn so với các loại thuốc khác dù đã
tăng liều 26% trong thai kỳ [135]. Do độ thanh thải của lamotrigine trong thai kỳ
thường tăng hơn 2-3 lần so với mức độ nền của bệnh nhân trước mang thai nên cần
theo dõi sát về lâm sàng của người bệnh cũng như đo nồng độ thuốc trong máu [42],
[118].
Hiện nay, khuyến cáo chung là cần tối ưu hóa việc dùng thuốc kháng động
kinh ở thời điểm trước khi mang thai cũng như trước khi có biểu hiện quái thai ở
phôi do tác dụng của thuốc. Khuyến cáo của ILAE năm 2019 có liên quan đến việc
sử dụng thuốc kháng động kinh trong thai kỳ như sau [3]:
42
✓ Thuốc kháng động kinh cần được dùng với liều thấp nhất và có nồng độ
thuốc trong máu thấp nhất để có thể điều trị cắt cơn động kinh toàn thể cơn lớn
và/hoặc cơn cục bộ phức tạp.
✓ Cần theo dõi thường xuyên nồng độ thuốc trong máu trong thai kỳ, nếu có
thể cần đo nồng độ thuốc tự do hay không gắn huyết tương trong máu định kỳ hàng
tháng trong thai kỳ.
✓ Nên tránh sử dụng đa trị liệu, đặc biệt tránh các kết hợp thuốc có sử dụng
valproat, carbamazepine và phenobarbital.
✓ Đối với bệnh nhân có tiền sử gia đình bị dị tật ống thần kinh, cần tránh dùng
thuốc valproate và carbamazepine trừ khi cơn giật của bệnh nhân không kiểm soát
được bằng các thuốc khác.
✓ Không nên thay đổi loại thuốc động kinh trong quá trình mang thai vì: việc
đổi thuốc có thể gây xuất hiện cơn động kinh; dùng nhiều loại thuốc cùng lúc trong
quá trình đổi thuốc có tác động xấu đối với thai nhi và lợi ích thu được của việc đổi
thuốc rất hạn chế nếu bệnh nhân đã mang thai được vài tuần. Các trường hợp ngoại
lệ cần đổi thuốc trong thai kỳ gồm: khi người bệnh mang thai ngoài ý muốn đang sử
dụng nhiều thuốc kháng động kinh và việc kiểm soát co giật sẽ ít bị ảnh hưởng khi
ngừng một hoặc vài loại thuốc này; hoặc khi người bệnh đang sử dụng valproate
nhưng cơn giật có thể kiểm soát được bằng các thuốc kháng động kinh khác, khi đó
cần chuyển đổi valproate tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ (càng sớm càng tốt)
để giảm nguy cơ chậm phát triển thần kinh và tự kỷ cho trẻ.
1.3.2.3. Sàng lọc dị tật bẩm sinh
Sàng lọc dị tật bẩm sinh cung cấp thông tin về khả năng mắc dị tật của thai nhi
cho bệnh nhân, để từ đó họ có quyết định đình chỉ thai. Trong trường hợp bệnh nhân
vẫn tiếp tục mang thai, việc sàng lọc phát hiện dị tật này cũng rất hữu ích, giúp bác
sỹ điều trị và bệnh nhân lập kế hoạch sinh đẻ cũng như đảm bảo chăm sóc tốt nhất
ngay sau sinh cho trẻ bị dị tật. Hai phương pháp chính được thực hiện để sàng lọc dị
tật bẩm sinh là đo nồng độ huyết thanh alpha-fetoprotein (AFP) và siêu âm thai [119]
Động kinh không ảnh hưởng đến nguy cơ mắc thể dị bội ở phụ nữ. Việc sàng
lọc về nguy cơ này dựa trên độ tuổi của mẹ tại thời điểm dự kiến mang thai. Nồng độ
cao AFP huyết thanh của mẹ có liên quan đến dị tật ống thần kinh và một vài dị tật
khác của thai nhi như khiếm khuyết thành bụng, bệnh thận. Với những bệnh nhân
dùng thuốc valproate hoặc carbamazepine cần định lượng nồng độ AFP trong huyết
43
thanh hoặc dịch chọc ối vào tuần thứ 14-16 của thai kỳ. Việc đo lường nồng độ AFP
trong huyết thanh có thể phát hiện 80% các trường hợp có dị tật gai đôi cột sống và
90% tật không não ở thai nhi. Khi kết hợp với kết quả siêu âm sản khoa (dùng máy
siêu âm có độ phân giải cao, bác sỹ siêu âm giàu kinh nghiệm) độ chính xác sẽ đạt
94%-100%. Ngoài ra, để khẳng định chẩn đoán, cần chọc ối cho bệnh nhân và định
lượng nồng độ acetylcholinesterase (AChE) và AFP trong dịch ối. Nếu nồng độ cả
hai chất này đều tăng cao thì khả năng tới 99 % thai nhi có dị tật nứt đốt sống mở.
Tuy nhiên, tỷ lệ sảy thai do chọc ối là 0,5%, trong khi tỷ lệ thai bất thường ở nhóm
phụ nữ có siêu âm sản khoa bình thường và xét nghiệm AFP huyết thanh cao bất
thường (gấp 2,5 đến 3,5 lần) chỉ là 0,01-0,15%, do đó nhiều bệnh nhân đã từ chối
việc chọc ối để sàng lọc dị tật trước sinh [119],[120]. Chọc ối được chỉ định trong
các trường hợp sau (1)Sản phụ có nồng độ huyết thanh AFP tăng cao kèm siêu âm
sản khoa chưa loại trừ được hoàn toàn khuyết tật ống thần kinh. (2)Sản phụ có nồng
độ huyết thanh AFP tăng cao, siêu âm sản khoa bất thường và có nguyện vọng làm
xét nghiệm nhiễm sắc thể cho thai.
Siêu âm sàng lọc dị tật ở thai nhi được thực hiện ở tuần thứ 17 đến tuần thứ 20
của thai kỳ để phát hiện các khuyết tật ống thần kinh, hở môi và vòm miệng, dị tật
tim bất thường cũng như khảo sát giải phẫu toàn bộ thai nhi. Hình ảnh bình thường
của hố sau và và cột sống của thai nhi trên siêu âm giúp loại trừ đầy đủ các khiếm
khuyết ống thần kinh. Siêu âm tim cho thai nhi sẽ được chỉ định nếu phát hiện bất
thường trên siêu âm sàng lọc dị tật. Việc phát hiện chính xác và kịp thời thai nhi có
dị tật sẽ giúp sản phụ có sự chuẩn bị kỹ càng để chăm sóc một đứa trẻ mắc dị tật
hoặc cân nhắc việc đình chỉ thai kỳ. Quá trình tư vấn về dị tật của thai nhi cho bệnh
nhân và người nhà cần do các nhân viên y tế chuyên sâu về lĩnh vực sản khoa và thai
nhi phụ trách, để từ đó có hướng giải quyết phù hợp [119],[120].
1.3.2.4. Bổ sung vitamin K
Các đối tượng gồm phụ nữ dùng thuốc động kinh đa trị liệu, thuốc động kinh gây
cảm ứng men (phenobarbital, phenytoin và carbamazepine), bệnh nhân có nguy cơ sinh
non và bệnh nhân nghiện rượu nên bổ sung vitamin K1 (10-20 mg/ngày) trong tháng
cuối của thai kỳ để phòng tránh nguy cơ chảy máu nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh (do trẻ bị
thiếu hụt các chất chống đông máu phụ thuộc vitamin K). Các nghiên cứu khuyến cáo
có thể dùng vitamin K đường uống trước sinh cho tất cả bệnh nhân động kinh dùng
thuốc trong thai kỳ thay vì tiêm bắp vitamin K do thuốc đường uống có giá thành rẻ
44
hơn, độ an toàn cao hơn và hiệu quả vẫn tương đương đường tiêm. Ở một số nước còn
thực hiện tiêm bắp 1mg vitamin K cho tất cả trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh có biến chứng chảy
máu sẽ được điều trị cấp cứu bằng huyết tương tươi đông lạnh [3],[109].
1.3.2.5. Quá trình sinh con
Hầu hết phụ nữ bị động kinh đều có thể đẻ thường, chỉ định mổ đẻ nên được áp
dụng cho sản phụ có nhiều cơn giật trong quí ba của thai kỳ hoặc có tiền sử mắc
trạng thái động kinh khi căng thẳng nghiêm trọng [3].
Tỷ lệ sản phụ có cơn động kinh co cứng-co giật xuất hiện trong quá trình
chuyển dạ và trong vòng sau đẻ 24 giờ là 1-2 %. Ngoài ra, nguy cơ cơn động kinh
xuất hiện cao nhất trong vòng 72 giờ của quá trình đẻ (gồm ngày trước, ngày đẻ và
ngày sau đẻ) [36]. Để phòng ngừa cơn giật xảy ra cần theo dõi kiểm soát nồng độ
thuốc động kinh trong máu ở cả ba quí của thai kỳ cũng như trong quá trình đẻ.
Người bệnh tuyệt đối không được bỏ thuốc trong quá trình chuyển dạ. Cần nhanh
chóng cho người bệnh dùng nhóm benzodiazepines đường tĩnh mạch khi cơn co giật
xuất hiện lúc bệnh nhân đang chuyển dạ và sinh con. Ngoài ra, có thể sử dụng
lorazepam hay phenytoin đường tĩnh mạch để cắt cơn giật. Các thuốc
phenytoin, primidone và benzodiazepines có thể tồn tại trong huyết thanh trẻ mới
sinh vài ngày và gây nên tình trạng ngấm an thần của trẻ cũng như hội chứng cai sơ
sinh. Cuối cùng, cơn co cứng co giật toàn thân có thể gây tình trạng thiếu oxy cho
mẹ và con, do đó cần phải theo dõi nhịp tim thai liên tục trong lúc cơn co giật xảy ra
cũng như ít nhất 1 giờ sau khi dùng benzodiazepines cắt cơn.
1.3.3. Quản lý giai đoạn sau sinh ở phụ nữ động kinh
Quản lý giai đoạn sau sinh gồm những nguyên tắc cơ bản sau:
Nếu liều thuốc động kinh được thay đổi trong quá trình mang thai, cần cân
nhắc dùng lại liều trước khi mang thai ngay trong vòng vài tuần đầu sau đẻ. Đặc biệt
với lamotrigine có độ thanh thải thuốc giảm nhanh chóng trong tuần đầu sau đẻ nên
cần giảm liều thuốc nhanh chóng, tránh gây độc cho mẹ. Cụ thể, lamotrigine sẽ được
giảm liều nhanh vào ngày thứ 3,7 và 10 sau sinh để quay về liều ban đầu trước mang
thai hoặc liều trước mang thai cộng thêm 50 mg nhằm tránh những ảnh hưởng của
việc thiếu ngủ [3],[121].
Các bà mẹ cần được tư vấn về tầm quan trọng của việc nghỉ ngơi đầy đủ, đảm
bảo giấc ngủ kết hợp với điều trị bằng thuốc.
45
Khi mẹ có cơn động kinh cần phải có ngay biện pháp phòng ngừa cho trẻ sơ sinh.
Cần có người hỗ trợ khi mẹ tắm cho trẻ cũng như đặt em bé nằm ở vị trí an toàn phòng
tránh bị chấn thương, rơi ngã khi mẹ có cơn co giật.
Nuôi con bằng sữa mẹ
Tất cả các thuốc kháng động kinh đều định lượng được trong sữa mẹ. Nồng độ
valproate trong sữa có giá trị bằng 5-10% so với nồng độ thuốc trong máu mẹ, trong khi giá
trị này của ethosuximide là 90%. Chưa có bằng chứng xác thực nào về tác động của thuốc
động kinh trong sữa đối với trẻ sơ sinh. Hầu hết các chuyên gia tin rằng phụ nữ uống thuốc
động kinh không có chống chỉ định với cho con bú. Tuy nhiên, khi trẻ bú sữa có thể có biểu
hiện dễ cáu kỉnh, ngủ gà và chậm lớn nếu mẹ đang dùng các thuốc an thần như:
phenobarbital, primidone hoặc benzodiazepines. Nếu các triệu chứng trên xuất hiện ở trẻ,
nên cho trẻ dừng bú mẹ và thử cho bú lại sau 1 tuần [3],[121].
46
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là 92 người bệnh động kinh với 97 lượt mang thai đến
khám chuyên khoa Thần kinh tại bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ tháng
10/2015 đến tháng 10/2020.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Là bệnh nhân nữ đã được chẩn đoán động kinh trước khi mang thai, hiện đang
có thai. Bệnh nhân và người nhà đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán động kinh
Chẩn đoán cơn động kinh dựa theo bảng phân loại cơn động kinh của ILAE 1981
(có tham khảo thêm bảng phân loại mới ILAE 2017), nghiên cứu chia thành: cơn động
kinh toàn thể và cơn động kinh cục bộ (gồm cơn có co giật co cứng toàn thân thứ phát,
cơn cục bộ có kèm suy giảm nhận thức, cơn cục bộ không kèm rối loạn ý thức).
Chẩn đoán bệnh động kinh dựa theo tiêu chuẩn của ILAE 2014, là một bệnh của
não được xác định bởi bất kỳ tiêu chuẩn nào sau đây: (1) Có ít nhất hai cơn tự phát xảy
ra cách nhau >24 giờ; (2) Có một cơn tự phát và khả năng tái phát các cơn tương tự (ít
nhất 60%) xảy ra trong 10 năm tới; (3) Được chẩn đoán hội chứng động kinh.
Tiêu chuẩn chẩn đoán mang thai
Dựa vào xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu và siêu âm sản khoa:
Xét nghiệm máu: thời điểm lấy máu sớm nhất là 6 – 8 ngày sau khi thụ thai, nếu
kết quả nồng độ hCG trong máu > 25 mlU/ml thì kết luận bệnh nhân đã mang thai.
Xét nghiệm nước tiểu: để phát hiện sự hiện diện của nội tiết tố hCG, thường thử
sau 2 tuần tính từ thời điểm cuối cùng bệnh nhân có kinh, độ chính xác 97%.
Siêu âm sản khoa: có thể phát hiện có thai trong buồng tử cung (tối thiểu sau 7-
10 ngày chậm kinh).
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
47
Bệnh nhân có mắc phối hợp một số bệnh nội khoa toàn thân như: bệnh lý tuyến
giáp, bệnh ung thư, bệnh tự miễn…
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Là nghiên cứu mô tả, theo dõi chùm ca bệnh.
Các bệnh nhân sẽ được xếp vào 2 nhóm:
- Nhóm 1: Bệnh nhân bị động kinh mang thai đã được theo dõi và tư vấn lập kế
hoạch mang thai bởi bác sỹ chuyên thần kinh trước và trong khi có thai (nhóm được
tư vấn).
- Nhóm 2: Bệnh nhân động kinh đến khám tại chuyên khoa thần kinh sau khi
đã có thai (nhóm không được tư vấn trước mang thai).
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
2.2.2.1.Cỡ mẫu nghiên cứu của mục tiêu 1
Công thức tính cỡ mẫu dựa vào quy mô tổng thể:
𝑛 =
𝑁 1 + 𝑁𝑒2
Trong đó:
n: kích thước mẫu cần xác định.
N: quy mô tổng thể (số sản phụ bị động kinh đến khám tại bệnh viện Bạch Mai
trong thời gian 3 năm).
e: sai số cho phép, chọn giá trị mức phổ biến nhất là ±0.05.
Cách tính N dựa vào số sản phụ đến khám thai tại bệnh viện Bạch Mai trong
thời gian 3 năm. Theo số liệu thống kê của bệnh viện Bạch Mai, số sản phụ đến
khám tại bệnh viện trong thời gian 3 năm từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2017 là
7686+7429+7799= 22914 bệnh nhân.
Ước tính tỉ lệ bệnh nhân bị động kinh trong số sản phụ là 0,5 %, nên suy ra N=
𝟏𝟏𝟓
22914×0,5%=115 bệnh nhân. Do đó, cỡ mẫu tối thiểu đối với mục tiêu 1 là:
𝒏 =
𝟏+𝟏𝟏𝟓 𝒙 𝟎,𝟎𝟓𝟐 = 89 bệnh nhân
48
2.2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu của mục tiêu 2
Dựa trên công thức tính cỡ mẫu tối thiểu cho phân tích hồi quy có đánh giá
mức độ phù hợp tổng quát của mô hình là kiểm định F:
𝑛 = 50+8𝑚
Trong đó:
m: là số lượng biến độc lập tham gia vào hồi quy.
Trong nghiên cứu này dự kiến m=4-6 nên cỡ mẫu tối thiểu đối với mục tiêu số
2 là 82-98 bệnh nhân.
2.2.3. Quy trình nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng mẫu bệnh án nghiên cứu ghi đầy đủ các thông tin về tiền sử,
bệnh sử, các dấu hiệu thăm khám lâm sàng thần kinh, nội khoa, sản khoa và các kết
quả cận lâm sàng (phụ lục 2).
2.2.3.1.Nội dung nghiên cứu lâm sàng
Bệnh nhân ở nhóm 1(nhóm được tư vấn) được thăm khám và thu thập số liệu
tối thiểu 2 lần trước mang thai, 3 lần trong thai kỳ và 1 lần sau đẻ.
Bệnh nhân ở nhóm 2 (không được tư vấn trước mang thai) được thăm khám và
thu thập số liệu tối thiểu 1 lần trong thai kỳ và 1 lần sau đẻ.
Nội dung thăm khám lâm sàng bao gồm:
✓ Hỏi bệnh
+ Khai thác tiền sử qua bệnh nhân và/hoặc qua người nhà bệnh nhân: Bệnh
nhân được hỏi trực tiếp hoặc nghe người nhà mô tả lại với những đặc điểm phù hợp
với tiêu chuẩn cơn động kinh, chú ý tiền sử, bệnh sử từ triệu chứng đầu tiên liên
quan đến cơn động kinh (nhức đầu, chóng mặt, dị cảm …) các tiền sử của bản thân,
gia đình có liên quan đến động kinh (tiền sử sốt cao co giật khi nhỏ, chấn thương sọ
não, tai biến mạch não, u não, bệnh lý nhiễm khuẩn thần kinh).
- Thu thập thông tin về đặc điểm cơn, thời gian cơn động kinh, tần suất và diễn
biến cơn động kinh.
- Thu thập thông tin về thuốc điều trị động kinh đã và đang sử dụng: loại thuốc,
liều lượng dùng. Đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân tại thời điểm thăm
khám (dựa trên thang điểm Morisky bảng 2.1) [122].
49
Bảng 2.1. Thang điểm Morisky đánh giá sự tuân thủ điều trị thuốc
(MMAS-8)
1. Bạn có thỉnh thoảng quên uống thuốc không? Có/Không (1)
2. Mọi người thỉnh thoảng không uống thuốc vì một vài lý do khác thay vì họ
quên, trong 2 tuần trở lại đây, có ngày nào bạn như thế không? Có/Không (1)
3. Có bao giờ bạn giảm liều hoặc dừng thuốc điều trị vì bạn cảm thấy tệ hơn khi
dùng thuốc mà không thông báo với bác sỹ? Có/Không (1)
4. Khi đi du lịch hoặc công tác, bạn có thỉnh thoảng quên không mang thuốc
theo? Có/Không (1)
Ngày hôm qua, bạn có uống đủ các loại thuốc của mình không?Không/Có (1) 5.
Khi bạn cảm thấy rằng các triệu chứng về bệnh của mình đã được kiểm soát, 6.
bạn có thỉnh thoảng bỏ thuốc không? Có/Không (1)
7. Việc phải uống thuốc hàng ngày có thể thực sự là điều không thoải mái với
một vài người, bạn có bao giờ cảm thấy phiền nhiễu với việc phải tuân thủ
điều trị không? Có/Không (1)
8. Tần suất khó khăn mà bạn gặp phải khi cần nhớ đến việc uống đủ các loại
thuốc:
Chưa bao giờ (1) a)
Hầu như không bao giờ (0) b)
Thỉnh thoảng (0) c)
Thường xuyên (0) d)
Luôn luôn (0) e)
50
- Thu thập thông tin về diễn biến quá trình mang thai và tiền sử sản khoa của
bệnh nhân.
- Thu thập thông tin bằng cách gọi điện thoại hoặc hỏi trực tiếp bệnh nhân
(hoặc người chăm sóc bệnh nhân) về diễn biến thai kỳ: quá trình chuyển dạ, hoạt
động của cơn giật trong quá trình chuyển dạ, tuổi thai và cân nặng trẻ lúc sinh, tình
trạng của trẻ lúc mới sinh và các dị tật bẩm sinh của trẻ được phát hiện; phương thức
đẻ (đẻ mổ hay đẻ thường).
✓ Khám bệnh
+ Thầy thuốc chứng kiến cơn (bác sỹ chuyên ngành thần kinh) hay xem lại
video quay cơn co giật của bệnh nhân do người nhà ghi lại hoặc nghe bệnh nhân mô
tả lại cơn co giật để từ đó phân loại cơn co giật trên lâm sàng (dựa vào bảng 1 và 2
phụ lục 1).
+ Khám phát hiện các dấu hiệu thần kinh khu trú.
Khám vùng đầu, mặt, cổ.
Khám 12 đôi dây thần kinh sọ não.
Khám vận động và trương lực cơ.
Khám cảm giác
Khám dinh dưỡng, cơ tròn
Khám các rối loạn thần kinh thực vật.
Khám tình trạng tâm lý, trí tuệ, ngôn ngữ
+ Khám toàn trạng về nội khoa
+ Khám về sản khoa
2.2.3.2. Quy trình tư vấn quản lý, thăm khám thần kinh và thu thập số liệu bệnh nhân động kinh trước, trong và sau quá trình mang thai (chi tiết tại bảng phụ lục 1)
Chúng tôi tiến hành thu thập số liệu tại các thời điểm sau: - Tại thời điểm thăm khám trước mang thai (đối với các bệnh nhân được tư vấn
và quản lý trước mang thai (nhóm1)
- Tại thời điểm thăm khám trong thai kỳ (nhóm 1 và nhóm 2)
- Tại thời điểm sau đẻ 4-12 tuần, khai thác thông tin qua gọi điện (bệnh nhân
hoặc người nhà bệnh nhân) hoặc hỏi trực tiếp khi bệnh nhân đến khám lại sau đẻ
(nhóm 1 và nhóm 2).
Thu thập số liệu khi tư vấn trước khi mang thai
51
- Thời điểm tư vấn: khi bệnh nhân trong độ tuổi sinh đẻ có ý định mang thai,
khi bệnh nhân đến khám thần kinh thời gian trước mang thai tối thiểu 9 tháng.
- Số lần thăm khám: tối thiểu 3 tháng/lần.
- Người được tư vấn: bệnh nhân và người nhà đi cùng
- Người tư vấn: bác sỹ chuyên nghành thần kinh tại phòng khám thần kinh
- Nội dung tư vấn dựa trên hướng dẫn chung của hiệp hội chống động kinh
quốc tế (bảng phụ lục 1) bao gồm cung cấp thông tin đầy đủ về tình trạng bệnh, các
thông tin liên quan đến các yếu tố nguy cơ của bệnh động kinh và mang thai, tương
tác thuốc động kinh với liệu pháp tránh thai; hướng điều trị và cách dùng thuốc
kháng động kinh an toàn, lập kế hoạch mang thai và bổ sung acid folic sớm; đảm bảo
giấc ngủ đầy đủ, tuân thủ uống thuốc và thăm khám y tế, giảm thiểu căng thẳng và
có kiến thức về các yếu tố có khả năng kích hoạt cơn giật xảy ra.
Thu thập số liệu trong quá trình mang thai
- Số lần thăm khám: Tối thiểu 1 quý/lần, kết hợp với lịch khám của chuyên
khoa Sản nhằm đảm bảo thuận tiện cho người bệnh.
- Người được tư vấn: bệnh nhân và người nhà đi cùng
- Người tư vấn: bác sỹ chuyên ngành thần kinh tại phòng khám thần kinh
- Nội dung tư vấn và thăm khám: Bổ sung acid folic; kiểm soát và chỉnh thuốc
kháng động kinh, sàng lọc phát hiện dị tật bẩm sinh; phối hợp chuyên khoa Sản quản
lý quá trình sinh con.
- Chỉnh liều điều trị thuốc điều trị trong thai kỳ cho người bệnh ở 2 quý sau của
thai kỳ trong những trường hợp: (1) Bệnh nhân đang dùng các thuốc kháng động
kinh có độ thanh thải tăng nhiều trong thai kỳ (lamotrigine, levetiracetam và
oxcarbazepine). (2) Cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa hoặc cơn động kinh toàn thể
co giật co cứng. (3) Việc kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân trước mang thai nhạy
cảm với việc thay đổi liều thuốc điều trị. (4) Liều thuốc của bệnh nhân dùng trước
mang thai là liều thấp nhất có hiệu quả [3].
Thu thập số liệu sau sinh
- Thời gian: sau đẻ 4-12 tuần
- Hình thức khai thác thông tin: gọi điện thoại cho người bệnh hoặc người nhà;
hoặc thăm hỏi trực tiếp khi người bệnh đến khám lại chuyên khoa thần kinh sau đẻ.
52
- Người được tư vấn: bệnh nhân và người nhà.
- Người tư vấn: bác sỹ chuyên ngành thần kinh
- Nội dung tư vấn và thăm khám: điều chỉnh liều thuốc kháng động kinh; tư vấn
chế độ nghỉ ngơi đầy đủ, đảm bảo giấc ngủ, phát hiện và điều trị trầm cảm, rối loạn
tâm lý sau sinh, tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ và các biện pháp phòng ngừa tai nạn
cho trẻ sơ sinh.
- Giảm liều thuốc sau sinh về liều ban đầu trước mang thai dựa vào cơ chế
chuyển hóa của thuốc: Với các thuốc chuyển hóa qua glucuronidase hoặc bài tiết qua
thận như: lamotrigine, levetiracetam, oxcarbazepine, valproate, pregabalin,
topiramate, gabapentin, vigabatrin, lacosamide cần giảm dần liều trong vòng 2-3
tuần sau sinh. Với các thuốc chuyển hóa qua hệ enzyme cytochrome P450 như:
carbamazepine, perampanel, phenytoin, phenobarbital cần giảm dần liều chậm hơn,
khoảng 6 tuần sau sinh.
2.2.3.3. Nội dung nghiên cứu cận lâm sàng
Bao gồm điện não đồ và cộng hưởng từ sọ não
➢ Điện não đồ
Bệnh nhân được ghi điện não tại phòng ghi điện não của khoa Thần kinh bệnh
viện Bạch Mai bằng máy điện não hãng Nihon Kohden.
* Tiến hành ghi:
Đặt điện cực theo sơ đồ 10/20 của Jasper.
Quy trình ghi điện não là quy trình thông thường: thực hiện ghi theo 5 chương
trình gồm 2 chương trình đơn cực và 3 chương trình lưỡng cực mỗi chương trình 40
giây.Thực hiện các nghiệm pháp bổ trợ (nghiệm pháp Berger, nghiệm pháp tăng
thông khí, nghiệm pháp kích thích ánh sáng).
* Đọc kết quả bản ghi điện não: là các bác sỹ có chứng chỉ đọc điện não, công tác tại
Phòng thăm dò chức năng Khoa Thần kinh bệnh viện Bạch Mai.
* Nội dung cần đánh giá trên bản ghi điện não: dựa trên tiêu chuẩn điện não ghi
trong hay ngoài cơn động kinh, bệnh nhân thức hay ngủ trong khi làm điện não, mô tả
53
các hoạt động nền cơ bản, các đáp ứng bình thường và bất thường với các nghiệm pháp
kích thích, mô tả các hoạt động bất thường trên điện não (vị trí xuất phát, xu hướng khu
trú hay lan tỏa, các đặc điểm của hoạt động sóng bất thường về hình dạng sóng, biên độ,
tần số, thời khoảng, thời điểm xuất hiện và biến mất) (bảng 3 phụ lục 1).
Tiêu chuẩn điện não đồ ngoài cơn động kinh [123],[124]
Phụ thuộc vào tần số các cơn động kinh: ở bệnh nhân bị động kinh thường
xuyên các dấu hiệu biến đổi bệnh lý rõ, ngược lại nếu cơn chỉ lên một hoặc hai lần/
năm thì điện não đồ ngoài cơn của bệnh nhân có thể bình thường.
Các dạng hình ảnh kịch phát trên điện não đồ có giá trị là biến đổi đặc trưng của
động kinh gồm: gai (nhọn) (20-70 ms), sóng nhọn (70-200 ms), sóng chậm delta,
theta, các phức hợp nhọn - sóng, sóng nhọn - sóng chậm, đa nhọn - sóng.
Các hình ảnh kịch phát dạng động kinh trên điện não đồ cần thỏa mãn 4 trong 6
tiêu chuẩn:
1. Hình dạng gai/nhọn 2 hay 3 pha
2. Thời khoảng sóng khác với hoạt động nền (ngắn hoặc dài hơn)
3. Bất đối xứng: pha lên dốc hơn và pha xuống tù hơn, hay ngược lại
4. Sóng chậm theo sau
5. Hoạt động nền xung quanh bị xáo trộn
6. Phân bố hoạt động điện dạng lưỡng cực (dipole)
Tiêu chuẩn điện não trong cơn động kinh [123],[124]
Các tiêu chuẩn cần thỏa mãn gồm:
1. Hoạt động dạng động kinh (IEDs) >2 chu kỳ/giây và/ hoặc:
2. Dạng điện não có tiến triển về thời gian –không gian (thay đổi về tần số, biên
độ, hình dạng và vị trí), kéo dài vài giây (thường kéo dài hơn 10 giây).
3. Hai dạng EEG ngắn (dưới 10 giây): dạng giảm sút điện trở (electrodecrement)
và hoạt động nhanh điện thế thấp (low voltage fast activity).
4. Electrographic hay co giật dưới lâm sàng (subclinical seizures): dạng điện não
trong cơn không kèm theo biểu hiện lâm sàng.
54
➢ Cộng hưởng từ sọ não
Các bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ sọ não bằng máy SIEMENS 1.5 Tesla
của Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh – Bệnh viện Bạch Mai theo protocol chẩn đoán
động kinh (bảng 2.2 và bảng 2.3).
Kết quả được các bác sỹ chuyên về chẩn đoán hình ảnh học thần kinh đánh giá
trên phim chụp nhằm xác định hình thái, kích thước và vị trí các bất thường đặc hiệu
của từng loại tổn thương não là nguyên nhân gây động kinh.
Bảng 2.2. Protocol chụp MRI sọ động kinh ngoài thùy thái dương [30],[125]
Xung Độ dày lát cắt Hướng mặt cắt
T1 ≤3mm Axial và coronal
3D-T1 1 mm đẳng hướng 3D
FLAIR ≤3mm Axial và coronal góc
3D FLAIR 1 mm đẳng hướng 3D
DIR(3D) 1 mm 3D
DWI/ADC ≤3mm Axial
SWI hoặc T2** ≤3mm Axial
Bảng 2.3. Protocol chụp MRI sọ động kinh thùy thái dương [30],[125]
Xung Độ dày lát cắt Hướng mặt cắt Góc mặt cắt
3D-T1 1mm đẳng hướng 3D Mép trước-mép sau
T2/STIR ≤3mm Axial và coronal Vùng hải mã
FLAIR ≤3mm Axial và coronal Vùng hải mã
3D FLAIR 1mm đẳng hướng 3D Mép trước-mép sau
DWI/ADC ≤3mm Axial Vùng hải mã
SWI hoặc T2* ≤3mm Axial Vùng hải mã
55
2.2.4. Các biến số trong nghiên cứu
Bảng 2.4. Các biến số nghiên cứu đối với mục tiêu 1
Biến số Định nghĩa Loại biến Đơn vị
Tuổi Tuổi của bệnh nhân Định lượng Năm tuổi
Cân nặng Cân nặng của bệnh nhân Định lượng Kilogram
Chiều cao Chiều cao của bệnh nhân Định lượng Xen-ti-mét
BMI Định lượng Cm/kg² Cân nặng/[Chiều cao]²
Tuổi thai Định lượng Tuần tuổi
Được tính bằng số tuần tuổi của thai nhi
Số lần mang thai Định lượng Lần Số lần mang thai của bệnh nhân
Tiền sử sản khoa Định lượng Có/không
Định danh Tên biên cố Biến cố sản khoa xảy ra trong các quá trình mang thai trước đây
Định lượng Có/không Biến cố sản khoa trong thai kỳ
Định danh Tên biến cố
Các biến cố trong thai kỳ của cả mẹ và con (mẹ bị sảy thai, bỏ thai, chảy máu sau sinh, nhiễm trùng, sản giật, đẻ non, trẻ sinh ra có dị tật bẩm sinh) Cách đẻ của bệnh nhân Phương thức đẻ Định tính thường/đẻ Đẻ mổ
Định lượng Kilogram
Tên loại cơn
Định lượng Lần/tháng Cân nặng trẻ sơ sinh Cơn động kinh Tần số xuất hiện cơn giật trước mang thai
Định lượng Lần /tháng
Số cân của thai nhi lúc sinh Phân loại cơn theo phụ lục 1 Định danh Số cơn động kinh xuất hiện trung bình trong một đơn vị thời gian lúc trước mang thai Số cơn động kinh xuất hiện Tần số xuất hiện cơn trung bình trong một đơn vị giật trong lúc mang thai thời gian trong lúc mang thai Cơn giật tăng cường Cơn tăng về tần số, mức độ Định tính Có/Không
Định tính Có/Không Cơn giật tái phát
Định tính Có/Không Cắt cơn 1 năm
Định lượng Có/Không Loại sóng trên điện não đồ nặng của cơn Cơn xuất hiện khi đã cắt cơn trên 2 năm Không cơn giật trước mang thai tối thiểu 1 năm Sóng bất thường trên điện não đồ (kịch phát nhọn, đa nhọn, nhọn sóng, theta, nhọn xen kẽ
56
Biến số Định nghĩa Loại biến Đơn vị
Định lượng Có/Không
Tổn thương trên MRI não Thuốc điều trị động kinh Định danh. Định lượng
Đa trị liệu chậm) Tổn thương mới, tổn thương cũ, chưa thấy bất thường Các thuốc bệnh nhân dùng điều trị (loại thuốc, số lượng, liều lượng) Hiện dùng từ 2 loại thuốc kháng động kinh trở lên
Tuân thủ điều trị thuốc Dùng đúng thuốc và đủ liều Điểm MMSA-8 Định tính Định lượng
Có/Không < 6/8 điểm: không tuân thủ ≥ 6/8 điểm: tuân thủ điều trị Định danh Đánh giá sự tuân thủ dùng thuốc kháng động kinh của người bệnh qua trả lời bộ câu hỏi 8 câu, điểm đánh giá cho mỗi câu hỏi là 0 hoặc 1 điểm Tổn thương trên MRI não gây cơn động kinh
Các nguyên nhân gây động kinh
Bảng 2.5. Các biến số nghiên cứu đối với mục tiêu 2
Biến số Loại biến Đơn vị
Tần suất cơn giật trung bình Định lượng Số cơn/tháng
Cân nặng trung bình của trẻ Định lượng Kilogram
Tỷ lệ mắc biến cố của mẹ và con Định tính Phần trăm
Tỷ lệ cơn giật tăng cường Định tính Phần trăm
Tỷ lệ cơn giật không đổi Định tính Phần trăm
Tỷ lệ không có cơn giật trong thai kỳ Định tính Phần trăm
Tỷ lệ không có cơn giật 1 năm trước mang thai Định tính Phần trăm
Tỷ lệ đẻ mổ Định tính Phần trăm
Tỷ lệ cơn động kinh cục bộ Định tính Phần trăm
Tỷ lệ tuân thủ điều trị Định tính Phần trăm
Tỷ lệ bệnh nhân dùng đa trị liệu Định tính Phần trăm
Tỷ lệ được tư vấn trước mang thai Định tính Phần trăm
Tỷ lệ điện não đồ bất thường Định tính Phần trăm
Tỷ lệ hình ảnh MRI não bất thường Định tính Phần trăm
57
2.3. Xử lý số liệu
- Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS Statistic 23: tính ra các giá
trị trung bình với các biến số định lượng và các tỷ lệ % với các biến số định tính.
- Sử dụng phương pháp kiểm định Fisher và Test χ2 để so sánh các tỷ lệ phần
trăm với mức độ tin cậy P<0,05, xác định RR, OR với khoảng tin cậy 95%, sử dụng
test Student, test ANOVA để so sánh giá trị trung bình của các biến định lượng với
độ tin cậy p<0,05, để khẳng định sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị của các
biến số giữa 2 nhóm bệnh nhân được so sánh trong nghiên cứu (nhóm được tư vấn và
không được tư vấn; nhóm đẻ mổ và đẻ thường, nhóm có biến cố và không có biến
cố; nhóm có cơn giật hoạt động hoặc không họat động trong thai kỳ…)
- Với các yếu tố có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm được so
sánh, chúng tôi sử dụng phân tích hồi quy Binary Logistic để xác định các yếu tố có
ý nghĩa tiên lượng độc lập đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ (cơn tái diễn
trong thai kỳ, cơn tăng cường trong thai kỳ) và biến cố xảy ra trong thai kỳ của mẹ
và con (biến cố chung, biến cố đẻ mổ).
58
2.4. Sơ đồ nghiên cứu
59
Chương 3
KẾT QUẢ
Trong thời gian 10/2015-12/2020, đã có 92 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia
vào nghiên cứu với 97 lần mang thai (5 bệnh nhân mang thai 2 lần). Nhóm 1 có 43 lượt
mang thai (44,3%) trong đó có 35 bệnh nhân được tư vấn trước mang thai lần đầu tiên
khi tham gia nghiên cứu; 03 bệnh nhân được tư vấn trước mang thai ở cả 2 lần mang
thai trong quá trình tham gia nghiên cứu và 02 bệnh nhân được tư vấn trước mang thai ở
lần mang thai thứ 2 trong quá trình tham gia nghiên cứu (lần đầu mang thai bệnh nhân
thuộc nhóm không được tư vấn). Nhóm 2 có 54 bệnh nhân với tổng 54 lần mang thai
đều không được tư vấn trước mang thai chiếm tỷ lệ 55,7%.
Bảng 3.1. Phân bố lượt bệnh nhân trong nghiên cứu
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng
Số lượt mang thai 43 54 97
Phần trăm 44,3% 55,7% 100%
3.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá
trình mang thai
3.1.1. Đặc điểm lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá trình mang thai
4,1%
11,4%
Lần đầu Lần hai Lần ba Lần bốn
53,6%
30,9%
3.1.1.1 Đặc điểm lâm sàng chung
Biểu đồ 3.1. Số lần mang thai của bệnh nhân trong nghiên cứu
60
Nhận xét: Tỷ lệ người bệnh trong nghiên cứu mang thai lần đầu 53,6%, số bệnh
4,1%
5,2%
17,5%
Dưới 20 tuổi
33,0%
21-25 tuổi
26-30 tuổi
31-35 tuổi
Trên 35 tuổi
40,2%
nhân mang thai lần thứ 4 chỉ chiếm 4,1%.
Biểu đồ 3.2. Phân bố độ tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân từ 26-30 tuổi hay gặp nhất chiếm 40,2%, từ 21-25 tuổi
có 33%, thấp hơn là nhóm trên 35 tuổi chiếm 5,2 % và nhóm dưới 20 tuổi có 4,1%.
Bảng 3.2. Đặc điểm lâm sàng chung của người bệnh trong nghiên cứu
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng Biến số nghiên cứu P n=43 n=54 n=97
Số lần mang thai trung bình 1,65±0,78 1,67±0.89 1,66±0,84 0,929
Tuổi trung bình 26,5±4,67 27.3±4,76 26,9±4,71 0,433
Tuổi thai trung bình khi đến khám lần đầu (tuần) 13,2±6,89 18,5±9,5 16,2±8,81 0,003
Huyết áp tâm thu trung bình(mmHg) 115,81±8,09 115,74±8,55 115,77±8,3 0,96
Huyết áp tâm trương trung bình(mmHg) 69,1±6,39 68,61±6,18 68,81±6,24 0,721
Chiều cao trung bình(cm) 156,5±3,28 156,3±2,37 156,4±2,8 0,632
Cân nặng trung bình trước mang thai(kg) 50,77±3,61 50,83±3,07 50,80±3,3 0,923
BMI trung bình trước mang thai 20,71±1,23 20,85±1,2 20,79±1,21 0,592
61
Bổ sung acid folic trước thai kỳ 3 tháng 28 18 46 0,002
Nhận xét:
- Người bệnh được tư vấn thần kinh (13,2±6,89 tuần) đến khám lần đầu trong
thai kỳ sớm hơn 5,3 tuần so với người bệnh không được tư vấn (18,5±9,50 tuần) với
F=9,237 ANOVA test; p=0,003.
- Tỷ lệ người bệnh có bổ sung acid folic tối thiểu trước 3 tháng của nhóm được
tư vấn (65,1%) cao gấp 2,07 lần so với nhóm không được tư vấn (33,3%) với RR
=2,07; CI 95%=1,28-2,36; p=0,002.
3.1.1.2. Đặc điểm lâm sàng về cơn động kinh và việc kiểm soát cơn của người bệnh
động kinh trước mang thai
Bảng 3.3. Đặc điểm cơn động kinh trước mang thai
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng OR RR Biến số nghiên cứu P n=43 n=54 n=97 (95% CI) (95% CI)
Tần suất
- Dưới 2 cơn/tháng 34 34 68 0,08 2,22 1,61
- Tối thiểu 2 cơn/tháng 9 20 29 (0,89-5,57) (0,89-2,91)
Cơn 1 năm trước thai kỳ
- Không cơn 27 11 38 0.001 6,59 2,62
- Còn cơn 16 43 59 (2,67-16,32) (1,65-4,17)
Số cơn trung bình trong 0,67±1,04 1,48±1,23 1,12±1,21 P= 0,001
tháng
Nhận xét
62
- Nhóm được tư vấn có tần số cơn co giật xuất hiện trung bình tháng trước khi
mang thai (0,67 cơn/tháng) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm không được tư vấn
(1,48 cơn/tháng), với f=11,86 ANOVA test; p=0,001.
- Tỷ lệ bệnh nhân không có cơn co giật ít nhất 1 năm của nhóm 1 (62,8%) cao
hơn so với nhóm không được tư vấn (20,37%) với RR =2,62; CI 95%=1,65-4,17;
p=0,001.
Bảng 3.4. Đặc điểm về dùng thuốc kiểm soát cơn trước mang thai
Nhóm 1
Nhóm 2
Tổng
OR
RR
Biến số
P
n=43
n=54
n=97
(95% CI)
(95% CI)
Thuốc dùng
-Đơn trị liệu
34
0,36
1,95
1,46
33
67
- Đa trị liệu
09
(0,76-4,9)
(0,82-2,6)
17
26
-Không
00
04
04
Dùng valproat
- Không
36
0,001
4,75
2,57
26
62
- Có
7
(1,78-12,67)
(1,3-5,1)
24
31
Tuân thủ điều trị
- Có
38
0,004
4,65
1,76
31
69
- Không
5
(1,56-13,89)
(1,26-2,46)
19
24
Liều Valproat
514,3
895,8
809, 7
(mg/ngày)
±37,79
±254,49
±276,11
P=0,001
Liều ≤ 700 mg/ngày
7
6
13
Trên 700 mg/ngày
0
18
18
Nhận xét:
63
- Có 04 bệnh nhân không dùng thuốc động kinh trước mang thai, đều thuộc
nhóm 2.
- So sánh với nhóm người bệnh không được tư vấn, nhóm được tư vấn có tỷ lệ
tuân thủ điều trị cao hơn 1,76 lần (RR=1,76; CI 95%=1,26-2,46; p=0,0004), tỷ lệ
không dùng valproate cao hơn 2,57 lần (RR=2,57; CI 95%=1,3-5,1; p=0,001) và có
liều dùng valproate thấp hơn 514,3 mg/ngày (f= 15,27; ANOVA test; p=0,001).
3.1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá trình mang thai
A. Đặc điểm về hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ
Bảng 3.5. Đặc điểm lâm sàng của cơn giật trong thai kỳ
Nhóm 1
Nhóm 2
Tổng
Loại cơn động kinh
p
n=43
n=54
n=97
Động kinh toàn thể
29(67,4%)
27(50%)
56(57,7%)
Động kinh khởi phát cục bộ:
14(32,6%)
27(50%)
41(42,3%)
0,137
✓ Có toàn thể hóa
8
12
20
✓ Có suy giảm nhận thức
2
8
10
✓ Không kèm rối loạn ý thức
4
7
11
Nhận xét:
Tỷ lệ bệnh nhân có cơn động kinh toàn thể là 57,7%, động kinh cục bộ chiếm
42,3%, trong đó tỷ lệ có cơn giật nặng co cứng-co giật là 78,35%. Không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về tỷ lệ loại cơn co giật (p=0,137).
Bảng 3.6. Đặc điểm về tần suất có cơn động kinh trong thai kỳ
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng(%) Tần suất cơn co giật trong thai kỳ n=54 n=97 n=43
Không có cơn 24 10 34(35,05)
Dưới 2 cơn/tháng 4 14 18(18,55)
2 cơn/tháng 6 12 18(18,55)
3-4 cơn/tháng 8 13 21(21,65)
64
1 5 6(6,19) Hơn 1 cơn/tuần
Nhận xét:
- Không có cơn giật trong thai kỳ 35,05%, có từ 1-4 cơn/tháng 58,76%, nhiều
hơn 1 cơn/ tuần 6,19%.
Bảng 3.7. Đặc điểm về hoạt động của cơn giật trong thai kỳ
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng Các biến số nghiên cứu n=43 n=54 n=97
Không co giật trong thai kỳ 23(53,5%) 10(18,5%) 33(34,02%)
Số cơn trung bình /tháng trong thai kỳ 1,05±1,31 2,09±1,68 1,63±1,32
Tần số cơn giật/tháng trong thai kỳ
Ít hơn 2 cơn 28 24 52
Tối thiểu 2 cơn 15 30 45
Tần số cơn giật
- Tăng 9(20,9%) 28(51,9%) 37(38,1%)
- Không đổi 29(67,4%) 19(35,2%) 48(49,5%)
- Giảm 5 (11,6%) 7(12,9%) 12(11,4%)
Cơn giật tăng cường khi mang thai: 9/43 28/54 37/97
- Cơn giật tái phát 5 6 11
- Tăng tần số cơn giật 4 22 26
Nhận xét:
- Tỷ lệ người bệnh có cơn co giật tăng cường khi mang thai 38,1% bao gồm cả
cơn giật tái phát (11,34%) và cơn giật tăng tần số hoạt động (28,8%).
65
- Tỷ lệ có cơn giật không đổi trong thai kỳ là 49,5%, không có cơn giật trong
thai kỳ là 34,02% và chỉ có 11,4% có cơn giật giảm hoạt động trong thai kỳ.
- Tần suất cơn giật trung bình của người bệnh trong nghiên cứu là 1,63 ±1,601
cơn/tháng (min=0 cơn, max=6 cơn/tháng).
Bảng 3.8. So sánh hoạt động động kinh trong thai kỳ
Nhóm 1
Nhóm 2
OR
RR
Biến số nghiên cứu
p
n=43
n=54
(95% CI)
(95% CI)
29
27
Không
1,5
2,07
Động kinh cục
0,1
bộ
(0,92-2,5)
(0,9-4,6)
23
14
Có
39
37
Có
1,4
2,4
Động kinh co
0,137
giật co cứng
(0,98-1,9)
(0,8-6,8)
15
6
Không
10
23
Không
2,2
5,1
Co giật trong
0,004
thai kỳ
(1,2-4,3)
(2,03-12,6)
44
20
Có
26
34
Không
2,3
4,1
Cơn giật tăng
0,003
cường
(1,5-3,4)
(1,6-10,1)
28
9
Có
Ít hơn 2
1,6
24
28
Tần suất
cơn
2,3
(0.99-2,6)
cơn/tháng
0,065
(1,02-5,3)
Tối thiểu
trong thai kỳ
15
30
2 cơn
1,05±1,31
Số cơn trung bình/tháng
2,09±1,68
P= 0,001
Nhận xét:
Khi so sánh với nhóm không được tư vấn, nhóm được tư vấn có tỷ lệ bệnh nhân
không giật trong thai kỳ cao gấp 2,2 lần (RR=2,2, CI 95%=1,2-4,3, p=0,004); không
tăng cường cơn giật cao gấp 2,3 lần (RR=2,3, CI 95%=1,5-3,4, p=0,003); tỷ lệ người
bệnh có tần suất dưới 2 cơn/tháng cao gấp 1,6 lần (RR=1,6; CI 95%=0,99-2,6;
66
p=0.065) cũng như số cơn giật trung bình thấp hơn 1,04 cơn/tháng (f=12,43
ANOVA test, p=0,001).
Bảng 3.9. Mức độ hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ
Không tăng
Dạng cơn động kinh Tăng Tổng
Không đổi Giảm
15 33 8 56 Cơn động kinh toàn thể
11 9 0 20 Cơn cục bộ có toàn thể hóa
5 3 2 10 Cơn cục bộ có suy giảm nhận thức
6 2 3 11 Cơn cục bộ không rối loạn ý thức
37 47 13 97 Tổng
Nhận xét:
- Tỷ lệ người bệnh tăng hoạt động cơn trong thai kỳ của động kinh cục bộ
nhiều hơn 50% (55% với cơn cục bộ có toàn thể hóa, 50% với cơn cục bộ có kèm
suy giảm nhận thức và 54,5% với cơn cục bộ không có rối loạn ý thức).
- Tỷ lệ người bệnh tăng hoạt động cơn trong thai kỳ của động kinh toàn thể chỉ
là 26,79%.
Bảng 3.10. Hoạt động của cơn động kinh theo phân loại cơn trên lâm sàng
ĐK toàn thể
ĐK cục bộ
Biến số
p
RR(95%CI) OR (95% CI)
n=56
n=41
Có
31
28
1
1
Cơn giật
0,197
1 năm
Không
25
1,25 (0,9-1,7) 1,74(0,75-4,03)
13
Có
33
31
1
1
Cơn giật
0,087
thai kỳ
Không
23
10
1,4 (0.98-1,9)
2,2(0,89-5,3)
Có
15
22
1
1
Cơn tăng
0,007
cường
Không
41
19
1.7(1,1-2,6)
3,2(1,4-7,4)
Nhận xét
67
- Tỷ lệ bệnh nhân không có cơn giật tăng cường trong thai kỳ của động kinh toàn
thể cao gấp 1,7 lần động kinh cục bộ (RR=1,68; CI 95%=1,1-2,7; p=0,007), không có
cơn giật trong thai kì cao gấp 1,4 lần (RR=1,4; CI 95%=0.98-1,89, p= 0,087).
B. Đặc điểm về sử dụng thuốc điều trị của người bệnh động kinh trong thai kỳ
Bảng 3.11. Đặc điểm về thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng Biến số n=43 n=54 n=97
Đơn trị liệu: 32(74,1%) 23(42,6%) 55(56,7%)
- Levetiracetam 26 14 40
2 - Lamotrigine 0 2
2 - Valproat 4 6
2 - Carbamazepines 2 4
0 - Gardenal, phenytoin 3 3
Đa trị liệu: 11 (25,9%) 31 (57,4%) 42(43,3%)
23 33 - Có levetiracetam 10
5 - Có valproat 16 21
1 - Có topiramat 0 1
2 - Có carbamazepines 8 10
4 - Có gardenal, phenytoin 12 16
Có dùng valproat 7(16,3%) 20(37%) 27(27,8%)
Có dùng levetiracetam 36(83,7%) 37(68,5%) 73(75,3%)
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân dùng đơn trị liệu là 56,7%.Tỷ lệ bệnh nhân có dùng
levetiracetam là 75,3%, còn dùng valproat trong thai kỳ là 27,8%.
68
69
Bảng 3.12. So sánh sử dụng thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ giữa hai nhóm
người bệnh
Biến số Nhóm 1 Nhóm 2 OR RR p
n=43 n=54 (95% CI) (95% CI)
Có 32 23 3,9 2,2 0,002 Đơn trị liệu (1,6-9,4) (1,3-3,9) Không 11 31
Không 36 34 3,02 1,98 0,039 Dùng
valproat (1,2-8,1) (1,01-3,9) Có 7 20
Có 36 37 2,4 1,7 0,101 Dùng
levetiracetam (0,88-6,4) (0,87-3,2) Không 7 17
Không 31 16 6,1 2,7 0,008 Chỉnh thuốc (2,5-14,8) (1,6-4,7) Có 12 38
Có 39 33 6,2 3,4 0,001 Tuân thủ
điều trị (1,9-19,9) (1,3-8,5) Không 4 21
39 46 Có 2,6 1,2 0,54 Bổ sung
(0,48-5,1) (0,79-1,9) acid folic 4 8 Không
Nhận xét:
Nhóm được tư vấn có tỷ lệ sử dụng đơn trị liệu cao gấp 2,2 lần (RR=2,2; CI
95%=1,3-3,9; p=0,002), tỷ lệ không dùng valproat cao gấp 1,98 lần (RR=1,98; CI
95%=1,01-3,9; p=0,039), không cần chỉnh thuốc cao gấp 2,7 lần (RR=2,7; CI
95%=1,6-4,7; p=0,008) và tuân thủ điều trị cao gấp 3,4 lần (RR=3,4; CI 95%=1,8-
8,5; p=0,001) so với nhóm không được tư vấn.
70
C. Đặc điểm kết cục thai kỳ của người bệnh động kinh
Bảng 3.13. Các đặc điểm lâm sàng của mẹ và con trong quá trình chuyển dạ
Biến số
Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng p n=43 n=54 n=97
Cân nặng trung bình BN khi đẻ(kg) 62,5±4,39 61,9±4,03 62,2±4,19 0,51
BMI trung bình BN khi đẻ 25,5±1,58 25,4±1,56 25,44±1,56 0,74
Số kg tăng trung bình khi mang thai 11,7±1,81 11,04±1,86 11,4±1,86 0,084
Tuổi thai trung bình khi đẻ(tuần) 38,6±1,67 37,9±1,56 38,3±1,63 0,07
Cân nặng trẻ lúc sinh (kg) 3,11±0,33 2,96±0,38 3,03±0,36 0,047
Nhận xét: Cân nặng trung bình lúc sinh của trẻ ở nhóm bệnh nhân được tư vấn nhiều
hơn 0,16 kg so với nhóm có mẹ không được tư vấn (t=2,005, T-test; p=0,047)
Bảng 3.14. Biến cố với mẹ và thai nhi trong quá trình mang thai
Biến cố Nhóm 1 Nhóm 2 Tổng
(n=43) (n=54) (n=97)
Bỏ thai chủ động 0 6 6
Sảy thai 0 1 1
Đẻ non 1 5 6
Co giật khi chuyển dạ 1 3 4
Trẻ có bất thường bẩm sinh 0 1 1
2 Tổng số biến cố của mẹ và con 16 18
Nhận xét: Số biến cố xảy ra đa phần ở nhóm không được tư vấn (16/18 trường hợp,
chiếm 88,9%), biến cố hay gặp nhất là đẻ non (6/18 trường hợp, chiếm 33,3%) và bỏ
thai (6/18 trường hợp chiếm 33,3%)
1,1%
6,2%
27,8%
Đẻ thường
Đẻ mổ
Bỏ thai
Sảy thai
64,9%
71
Biểu đồ 3.3. Diễn biến kết cục sản khoa của bệnh nhân trong nghiên cứu
Nhận xét: Với 97 lần mang thai, tỷ lệ người bệnh đẻ mổ là 64,9%, có 27,8% số bệnh
nhân đẻ thường, tỷ lệ bỏ thai chủ động là 6,2% và có 1 trường hợp sảy thai tự nhiên
(1,1%).
3.1.2. Đặc điểm cận lâm sàng của người bệnh động kinh khi mang thai
Bảng 3.15. Đặc điểm trên cộng hưởng từ não và điện não đồ
RR OR Biến số P Nhóm 1 Nhóm 2 (95% CI) (95% CI)
Không 32 34 1,37 1,71 Bất thường MRI não 0.229 (0,8-2,34) (0,71-4,13) Có 11 20
Không 34 32 1,95 2,6 Bất thường ĐNĐ 0,038 (1,05-2,05) (1,04-6,5) Có 9 22
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có điện não đồ bất thường ở nhóm 2 cao gấp 1,95 lần so
với nhóm 1 (RR=1,95; CI 95%=1,05-2,05; p=0,038).
10,31%
8,25%
Khu trú thùy trán
Khu trú thùy thái dương
13,4%
Nhiều vị trí
68,04%
Chưa thấy bất thường
72
Biểu đồ 3.4. Các vị trí não tổn thương trên phim chụp MRI
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có hình ảnh MRI sọ não chưa thấy bất thường chiếm cao
nhất (68,04%). Trong nhóm có MRI não bất thường, tổn thương nhiều vị trí hay gặp
nhất 13,04%, tổn thương khu trú thái dương và khu trú trán chiếm 10,31% và 8,25%.
Bảng 3.16. Các nhóm nguyên nhân tổn thương trên MRI sọ não
Nguyên nhân
Tổn thương trên não
Số ca
Phần trăm
1,03
Xơ teo khu trú hồi hải mã
1
Các di chứng
12,37
Sau viêm nhiễm hệ thần kinh
12
2,06
Sau phẫu thuật u não
2
10,31
Sau chấn thương sọ não
10
2,06
Dị dạng mạch não
AVM
2
2,06
Cavernoma
2
2,06
Bất thường vỏ não
Loạn sản khu trú vỏ não
2
68,04
Chưa thấy bất thường
Chưa rõ
66
Nhận xét: Tổn thương não hay gặp nhất là các di chứng viêm nhiễm hệ thần kinh
trung ương (12,37%), chấn thương sọ não (10,31%); u não, màng não đã phẫu thuật
(2,05%) còn lại là các nguyên nhân dị dạng mạch não (4,12%), loạn sản khu trú vỏ
não (2,05%) và xơ teo hồi hải mã (1,03%).
73
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa hoạt động cơn động kinh trên lâm sàng và hình
ảnh MRI não
MRI bất thường
OR
RR
Biến số
p
(95% CI)
(95% CI)
Không
Có
Không
50
6
13,02
5,7
0,001
Động kinh cục bộ
(4,54-37,36)
(2,6-12,6)
Có
16
25
Không
11
10
2,38
1,72
0,082
Động kinh co giật co cứng
(0,88-6,41)
(0,97-3,07)
Có
55
21
Không
31
7
3,04
1,38
0,022
Co giật trước mang thai
(1,15-8,02)
(1,06-1,78)
Có
35
24
Không
27
6
2,89
1,34
0,037
Co giật trong thai kỳ
(1,04-7,98)
(1,04-1,73)
Có
39
25
Không
45
15
2,29
1,32
0,061
Cơn giật tăng cường
(0,95-5,48)
(0,96-1,81)`
Có
21
16
41
11
Ít hơn 2 cơn
2,98
1,42
0,014
(1,23-7,25)
(1,06-1,91)
Tần suất cơn/tháng trong thai kỳ
25
21
Tối thiểu 2 cơn
Nhận xét:
- Nhóm có cơn động kinh cục bộ có xác suất có tổn thương não trên MRI cao
gấp 5,7 lần so với nhóm động kinh toàn thể (RR=5,7, CI 95%=2,6-12,6; p=0,001).
- Xác suất MRI não bình thường ở nhóm không co giật trước mang thai cao gấp
1,38 lần so với nhóm còn cơn giật (RR=1,38, CI 95%=1,06-1,78; p=0,022), ở nhóm
không cơn giật trong thai kỳ cao gấp 1,34 lần so với nhóm còn cơn giật trong thai kỳ
(RR=1,34, CI 95%=1,04-1,73; p=0,037), ở nhóm có tần suất cơn dưới 2 lần/tháng
cao gấp 1,42 lần so với nhóm có tối thiểu 2 cơn/tháng (RR=1,42; CI 95%=1,06-1,94;
p=0,014).
74
Bảng 3.18. Các bất thường trên điện não đồ
Đặc điểm
Lan tỏa
Khu trú
Rải rác
Tổng
Hoạt động kịch phát trong cơn
6
0
0
6
Bất thường
Sóng chậm
0
15
5
20
ngoài cơn
Kịch phát
0
4
1
5
Nhận xét: Hay gặp nhất hình ảnh sóng chậm khu trú hoặc rải rác hai bên (64,5%),
hoạt động kịch phát dạng động kinh ngoài cơn chỉ có 16,3%.
Bảng 3.19. Mối liên quan giữa hoạt động cơn động kinh trên lâm sàng và điện
não đồ
ĐNĐ bất thường
OR
RR
Biến số
p
(95% CI)
(95% CI)
Không
Có
Không
45
11
3,89
1,57
0,002
Động kinh cục bộ
(1,58-37,4)
(1,13-2,17)
Có
21
20
Không
10
11
3,1
1,99
0,023
Động kinh co giật co cứng
(1,14-8,34)
(1,14-3,47)
Có
56
20
Không
32
6
3,92
1,46
0,006
Co giật trước mang thai
(1,42-10,75)
(1,13-1,89)
Có
34
25
Không
29
4
5,29
1,52
0,003
Co giật trong thai kỳ
(1,66-16,95)
(1,2-1,94)
Có
37
27
Không
47
13
3,42
1,53
0,006
Cơn giật tăng cường
(1,41-8,33)
(1,09-2,15)
Có
19
18
44
8
Ít hơn 2 cơn
5,75
1,73
0,001
Tần suất cơn/tháng trong thai kỳ
(2,22-14,93)
(1,26-2,39)
22
23
Tối thiểu 2 cơn
75
Nhận xét:
- Xác suất có điện não đồ bình thường ở nhóm động kinh toàn thể cao gấp 1,57
lần so với nhóm cơn cục bộ (RR=1,57; CI 95%=1,13-2,17; p=0,0002), cao gấp 1,46
lần ở nhóm không giật trước mang thai so với nhóm còn giật, cao gấp 1,52 lần ở
nhóm không giật thai kỳ so với nhóm còn giật trong thai kỳ; cao gấp 1,53 lần ở
nhóm cơn giật ổn định so với nhóm cơn giật tăng cường; cao gấp 1,73 lần ở nhóm có
tần suất cơn dưới 2 lần/tháng so với nhóm có tối thiểu 2 cơn /tháng.
- Xác suất có điện não đồ bất thường ở nhóm động kinh cục bộ không có cơn
toàn thể hóa cao gấp 1,9 lần so với nhóm động kinh có co giật co cứng (gồm động
kinh toàn thể và động kinh cục bộ toàn thể hóa) (RR=1,9; 95% CI=1,14-3,47;
p=0,023).
3.2. Một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ và
kết cục thai kỳ.
3.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ
3.2.1.1. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ
Nhằm phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ,
chúng tôi thực hiện so sánh giữa hai nhóm có hay không có cơn giật tăng cường
trong thai kỳ và giữa hai nhóm có hay không có cơn co giật trong thai kỳ với các
biến số về đặc điểm cơn co giật (cơn dạng cục bộ, có cơn giật trước mang thai); về
việc điều trị thuốc động kinh trước và trong thai kỳ (đa trị liệu trước và trong thai kỳ,
tuân thủ điều trị trước và trong thai kỳ); các xét nghiệm cận lâm sàng (có bất thường
trên điện não đồ và hình ảnh MRI sọ não); việc bệnh nhân có được tư vấn về thần
kinh trước mang thai.
76
Bảng 3.20. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơn co giật còn hoạt động trong thai kỳ
Biến số
p
OR (95% CI)
RR (95% CI)
Không giật thai kỳ (n=33)
Còn giật thai kỳ (n=66)
Tần suất cơn trước thai kỳ
0,27±0,67
1,56±1,19
P=0,001
27
Có
2
0,001
Có ≥ 2 cơn/tháng trước mang thai
11,31 (2,49-51,38)
1,71 (1,69-25,8)
37
Không
31
11
Không
27
Co giật 1 năm trước thai kỳ
0,001
21,68 (7,24-64,97)
3,1 (1,87-5,14)
53
Có
6
20
Có
23
0,001
Được tư vấn trước mang thai
5,06 (2,03-12,59)
1,75 (1,24-2,47)
44
Không
10
33
Không
23
0,087
Động kinh cục bộ
2,16 (0,89-5,26)
1,68 (0,9-3,14)
31
Có
10
17
Không
4
0,124
Động kinh co giật co cứng
2,62 (0,8-8,56)
1,31 (0,99-1,72)
47
Có
29
40
Không
27
0,119
Đa trị liệu trước mang thai
2,25 (0,8-6,33)
1,75 (0,82-3,73)
20
Có
6
31
Không
24
0,022
Đa trị liệu trong thai kỳ
2,84 (1,14-7,04)
1,39 (1,06-3,91)
33
Có
9
38
Có
31
0,03
Tuân thủ điều trị trước mang thai
8,97 (1,96-41,16)
1,66 (1,3-2,13)
22
Không
2
43
Có
29
0,03
Tuân thủ điều trị trong thai kỳ
3,54 (1,1-11,39)
1,41 (1,09-1,82)
21
Không
4
37
Không
29
0,003
Điện não đồ bất thường
5,29 (1,66-16,83)
1,55 (1,21-2)
27
Có
4
39
Không
27
0,037
Tổn thương não trên MRI
2,86 (1,04-7,98)
1,36 (0,97-4,59)
25
Có
6
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân còn cơn giật hoạt động trong thai kỳ: cao gấp 1,71 lần ở
nhóm còn tối thiểu 2 cơn/ tháng trước mang thai, gấp 3,1 lần ở nhóm còn cơn giật
trước mang thai; gấp 1,75 lần ở nhóm không được tư vấn trước mang thai, gấp 1,39
lần ở nhóm đa trị liệu; gấp 1,4 lần ở nhóm không tuân thủ điều trị, gấp 1,55 lần ở
nhóm có điện não đồ bất thường, gấp 1,36 lần ở nhóm MRI sọ bất thường khi so
sánh với nhóm tương ứng còn lại.
77
Bảng 3.21. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tăng cường cơn giật trong thai kỳ
Không Tăng OR RR Biến số tăng cường cường p (95% CI) (95% CI) (n=60) (n=37)
Ts cơn trước mang thai 0,95±1,11 1,41±1,32 P=0,07
14 Có ≥ 2 Có 15 1,83 1,28 cơn/tháng trước 0,18 (0,75-4,42) (0,87-1,89) 23 Không 45 mang thai
11 Cắt cơn > 1 Có 27 1,93 1,51 0,135 năm trước (0,81-4,61) (0,86-2,7) 26 Không 33 mang thai
9 Có 34 4,07 2,48 Tư vấn trước 0,002 (1,64-10,1) (1,31-4,68) mang thai 28 Không 26
22 Không 41 3,17 1,26 Động kinh cục 0,007 (1,35-7,4) (1,1-2,28) bộ 15 Có 19
12 Không 9 2,72 1,74 Động kinh co 0,043 (1,01-7,3) (1,06-2,84) giật co cứng 25 Có 51
20 Không 47 2,35 1,6 Đa trị liệu trước 0,068 (0,93-5,96) (0,93-2,12) mang thai 13 Có 13
16 Không 39 2,44 1,72 Đa trị liệu trong 0,036 (1,05-5,64) (1,003-2,01) thai kỳ 21 Có 21
Tuân thủ điều trị
trước mang thai
16 Có 53 8,06 3,06 0.001 (2,83-22,73) (1,85-5,04) 17 Không 7
22 Có 50 3,41 1,96 Tuân thủ điều 0,009 (1,33-8,77) (1,22-3,15) trị trong thai kỳ 15 Không 10
19 Không 47 3,42 2,02 ĐNĐ bất 0,006 (1,29-8,33) (1,24-3,27) thường 18 Có 13
21 Không 45 2,29 1,41 Có tổn thương 0,061 (0,95-5,48) (0,95-2,1) não trên MRI 16 Có 15
78
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tăng cường trong thai kỳ: cao gấp 2,48 lần ở
nhóm không được tư vấn trước mang thai; cao gấp 1,26 lần ở nhóm có cơn động
kinh cục bộ; cao gấp 1,74 lần ở nhóm động kinh cục bộ không kèm co giật co cứng;
cao gấp 1,72 lần ở nhóm đa trị liệu trong thai kỳ; cao gấp 3,06 lần ở nhóm không
tuân thủ điều trị trước mang thai; gấp 1,96 lần ở nhóm không tuân thủ điều trị trong
thai kỳ; gấp 2,01 lần ở nhóm có ĐNĐ bất thường so với nhóm tương ứng còn lại.
Từ kết quả thu được của 02 bảng 3.20 và 3.21, có 06 yếu tố được lựa chọn để
phân tích hồi quy binary logistic với biến phụ thuộc là cơn giật tăng cường trong thai
kỳ và cơn giật còn xuất hiện trong thai kỳ gồm:
- Số cơn giật trung bình trước khi mang thai (lần/tháng)
- Không giật 1 năm trước mang thai (có/không)
- Tư vấn trước mang thai (có/không)
- Tuân thủ điều trị (có/không)
- Đa trị liệu (có/không)
- Bất thường điện não đồ (có/không).
Bảng 3.22. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là cơn giật còn
xuất hiện trong thai kỳ
Yếu tố
Odds Ratio(OR) Khoảng tin cậy 95%
p
Tư vấn trước mang thai
2,05
0,62-6,86
0,24
Đa trị liệu
1,11
0,31-3,94
0,87
Tuân thủ điều trị
0,66
0,12-3,79
0,66
ĐNĐ bất thường
3,59
0,71-18,13
0,121
Số cơn giật/tháng trước mang thai
1,44
0,5-4,12
0,501
Không giật 1 năm
8,68
1,15-65,23
0,036
Nhận xét: Trong phân tích hồi quy Binary Logistic, chỉ có yếu tố bệnh nhân không
giật tối thiểu 01 năm trước mang thai với OR=8,68 (CI 95%: 1,15-65,23; p=0,036) là
yếu tố độc lập tác động đến cơn giật còn xuất hiện trong thai kỳ.
79
Bảng 3.23. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là cơn giật tăng
cường hoạt động trong thai kỳ
Yếu tố Odds Ratio(OR) Khoảng tin cậy 95% p
0,71 Đa trị liệu 0,27-1,89 0,49
1,44 Tuân thủ điều trị 0.45-4,61 0,54
0,46 Cơn cục bộ 0.18-1,17 0,101
1,85 ĐNĐ bất thường 0,61-5,61 0,28
2,86 Tư vấn trước mang thai 1,02-8,05 0,046
0,98 Số cơn giật/tháng trước mang thai 0,65-1,48 0,94
Nhận xét: Trong phân tích hồi quy Binary Logistic, chỉ có yếu tố tư vấn trước mang
thai với OR= 2,86 (CI 95%: l,02-8,05; p=0,046) là yếu tố độc lập liên quan đến cơn
giật tăng cường trong thai kỳ.
3.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ
Để phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ của người bệnh động
kinh; chúng tôi tiến hành so sánh giữa hai nhóm có và không có biến cố xảy ra
trong thai kỳ, giữa hai nhóm đẻ mổ và đẻ thường với các biến số về đặc điểm cơn
co giật trong thai kỳ (dạng cơn, hoạt động của cơn); về việc điều trị thuốc động
kinh trước và trong thai kỳ (đa trị liệu trước và trong thai kỳ, tuân thủ điều trị trước
và trong thai kỳ); việc tư vấn về thần kinh trước mang thai và các xét nghiệm cận
lâm sàng thần kinh học của người bệnh (có bất thường trên điện não đồ và hình ảnh
MRI sọ não).
80
Bảng 3.24. Phân tích các yếu tố tác động đến biến cố của mẹ và con
Có biến cố
Không biến cố
OR
RR
Biến số
p
(n=18)
(n=79)
(95% CI)
(95% CI)
Tần số cơn trung bình/tháng
2,39±1,88
1,46±1,5
0,026
45
Không
7
2,08
1,15
Số cơn ≥ 2 lần/tháng
0,165
trong thai kỳ
(0,73-5,93)
(0,94-1,4)
34
Có
11
52
Không
8
2,41
2,06
Cơn tăng cường
0,092
trong thai kỳ
(0,85-6,81)
(0,95-2,48)
27
Có
10
30
Không
3
3,06
2,58
0,104
Còn cơn trong thai kỳ
(0,82-11,46)
(0,8-8,28)
49
Có
15
48
Không
8
1,94
1,13
0,206
Cơn ĐK cục bộ
(0,69-5,44)
(0,92-1,39)
31
Có
10
15
Không
6
2,13
1,81
Cơn ĐK co giật co
0,182
cứng
(0,69-6,62)
(0,77-4,25)
64
Có
12
41
Có
2
8,63
6,37
Tư vấn trước mang
0.002
thai
(1,86-40,05)
(1,55-26,21)
38
Không
16
46
Có
13
1,87
1,68
Cắt cơn > 1 năm
0.272
trước mang thai
(0,61-5,74)
(0,65-4,32)
33
Không
5
63
Có
9
3,94
2,88
Tuân thủ điều trị
trong thai kỳ
0,009
(1,34-11,53)
(1,29-6,44)
16
Không
9
46
Không
9
1,39
1,06
Đa trị liệu trong thai
0.53
kỳ
(0,49-3,89)
(0,88-1,3)
33
Có
9
55
Không
11
1,46
1,08
Tổn thương não trên
0,485
MRI
(0,51-4,22)
(0,87-1,34)
24
Có
7
55
Không
11
1,46
1,36
Điện não đồ bất
0,485
thường
(0,51-4,22)
(0,58-3,16)
24
Có
7
81
Nhận xét:
- Tỷ lệ biến cố xảy ra với mẹ và con: cao gấp 2,06 lần ở nhóm có cơn giật tăng
cường trong thai kỳ; gấp 6,37 lần ở nhóm không được tư vấn trước mang thai; gấp
2,88 lần ở nhóm không tuân thủ điều trị so với nhóm tương ứng còn lại.
Từ kết quả của bảng 3.23, có 04 yếu tố được chọn để phân tích mối tương quan
với biến phụ thuộc là có biến cố xảy ra mẹ và con trong thai kỳ trong phân tích hồi
quy binary logistic gồm: Tuân thủ điều trị khi mang thai, tư vấn trước mang thai, cơn
giật tăng cường khi mang thai và tần suất cơn giật trung bình khi mang thai.
Bảng 3.25. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là có biến cố xảy
ra với mẹ và con
Odds Ratio Khoảng tin cậy Yếu tố p (OR) 95%
Tuân thủ điều trị 0.69-7,19 0,18 2,23
Tư vấn trước mang thai 1,21-30,31 0,028 6,07
Cơn giật tăng cường trong thai kỳ 1,12 0,25-5,15 0,881
Tần suất cơn giật trung bình 1,08 0,68-17,1 0,749
Nhận xét:
- Yếu tố tư vấn trước mang thai với OR=6,07 (CI 95%:1,21-30,31; p=0,028) là
yếu tố độc lập tác động đến biến cố xảy ra với mẹ và con.
82
Bảng 3.26. Mối liên quan giữa việc kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân và
phương pháp đẻ
Đẻ thường
Đẻ mổ
OR
RR
Biến số
p
n= 27
n=63
(95% CI)
(95%)
Tần số cơn trong thai kỳ
p=0,021
1,00±1,45 1,84±1,59
Cân nặng TB trẻ sinh ra
2,92±0,34 3,08±0,36
p=0,005
Có
12
31
1,21
1,14
Tư vấn trước
0,68
mang thai
(0,49-2,99)
(0,61-2,16)
Không
15
32
Có
22
47
1,5
1,12
Tuân thủ điều
0,48
trị trong thai kỳ
(0,49-4,61)
(0,84-1,49)
Không
5
16
Không
16
35
1,16
1,11
Đa trị liệu
0,745
(0,47-2,9)
(0,58-2,12)
Có
11
28
Có
13
24
1,51
1,13
Cắt cơn tối
0,374
thiểu 1 năm
(0,61-3,75)
(0,85-1,51)
Không
14
39
Không
15
17
3,38
1,49
Co giật trong
0,009
thai kỳ
(1,32-8,7)
(1,05-2,12)
Có
12
46
Không
23
34
4,9
1,47
Co giật tăng
0,008
cường thai kỳ
(1,52-15,83)
(1,26-2,79)
Có
4
29
Có
9
30
1,82
1,53
ĐK cục bộ
0,21
(0,71-4,66)
(0,77-3,03)
Không
18
33
Không
5
13
1,14
1,04
ĐK co giật co
0,818
cứng
(0,36-3,6)
(0,75-1,44)
Có
22
50
Không
21
28
4,38
1,49
Tần suất ≥ 2
0,004
cơn/tháng
(1,56-12,31)
(1,31-3,06)
Có
6
35
Không
8
21
1,19
1,05
ĐNĐ bất
0,73
thường
(0,45-3,16)
(0,79-1,39)
Có
19
42
Không
20
41
1,5
1,36
MRI sọ bất
0,403
thường
(0,6-4,2)
(0,65-2,84)
Có
7
22
83
Nhận xét:
- Tỷ lệ đẻ mổ: cao gấp 1,49 lần ở nhóm còn co giật trong thai kỳ; cao gấp 1,47
lần ở nhóm cơn giật tăng cường trong thai kỳ; gấp 1,49 lần ở nhóm có tần suất cơn
giật tối thiểu 2 lần/tháng so với nhóm còn lại tương ứng.
Từ kết quả của bảng 3.26, 02 yếu tố được chọn để phân tích mối tương quan
với biến phụ thuộc là mẹ đẻ mổ trong phân tích hồi quy binary logistic là: không giật
trong thai kỳ và cân nặng của trẻ. Do yếu tố cơn giật tăng cường trong thai kỳ và tần
suất cơn giật tối thiểu 2 lần/tháng có cỡ mẫu còn ít so với 02 biến được lựa chọn nên
chúng tôi không đưa vào phân tích hồi quy logistic nhằm tăng độ chính xác của kết
quả.
Bảng 3.27. Phân tích hồi quy Binary Logistic với biến phụ thuộc là mẹ đẻ mổ
Yếu tố Odds Ratio(OR) Khoảng tin cậy 95% p
Không giật thai kì 5.21 1,78-15.2 0,003
Cân nặng trẻ 6,98 1,52-31,94 0,012
Nhận xét:
- Yếu tố không co giật trong thai kỳ với OR= 5,21 (CI 95%: l,78-15,2;
p=0,003) và cân nặng của trẻ với OR=6,98 (CI 95%:1,52-31,94) là 2 yếu tố độc lập
liên quan đến quyết định mổ đẻ của mẹ.
84
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá
trình mang thai
4.1.1. Đặc điểm lâm sàng
4.1.1.1. Đặc điểm chung
Tuổi trung bình khi mang thai nhóm nghiên cứu là 26,9 tuổi với tuổi trung bình
của nhóm lần đầu mang thai lần đầu là 24,5 tuổi. Thêm nữa, số bệnh nhân mang thai
lần đầu chiếm tỷ lệ cao nhất là 52/97 trường hợp (53,6%) và nhóm tuổi hay gặp nhất
trong nghiên cứu là 21-30 tuổi (chiếm tỷ lệ 73,2%). Số lần mang thai trung bình của
các bệnh nhân trong nghiên cứu là 1,63. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa hai nhóm bệnh nhân về: tuổi trung bình khi mang thai (p=0,43), số lần mang
thai trung bình (p=0,94). Nhìn chung, phụ nữ bị động kinh chịu nhiều mặc cảm nên
thường kết hôn muộn hơn so với phụ nữ bình thường khác, thậm chí nhiều người còn
lựa chọn không kết hôn.Vì vậy, tuổi trung bình của phụ nữ bị động kinh khi có thai
lần đầu thường cao hơn so với tỷ lệ chung. Một vài nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vô sinh
của phụ nữ bị động kinh dao động từ 33-38% và tỷ lệ này cao hơn nhiều so với quần
thể chung [126],[127]. Một số thuốc động kinh có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản của phụ nữ đặc biệt là valproat đã được chứng minh làm tăng nguy cơ mắc bệnh
buồng trứng đa nang dẫn đến vô sinh. Ngoài ra, việc dùng đa trị liệu thuốc kháng
động kinh cũng làm tăng khả năng bị vô sinh ở phụ nữ bị động kinh [126]. Phụ nữ bị
động kinh còn mang tâm lý mặc cảm về bệnh, họ lo ngại rằng cơn động kinh cũng
như sử dụng thuốc kháng động kinh có thể ảnh hưởng xấu đến thai nhi (gây dị tật
bẩm sinh, quá trình mang thai gặp nguy hiểm khi cơn động kinh xảy ra, trẻ đẻ ra bị
mắc động kinh như mẹ..) Vì vậy, phụ nữ bị động kinh hạn chế kết hôn và sinh đẻ dẫn
đến tỷ lệ kết hôn, tỷ lệ sinh đẻ và số con trung bình của họ thấp hơn so với phụ nữ
bình thường [32],[127].
85
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm trong nghiên cứu về
các đặc điểm chung khác như: cân nặng, chiều cao và chỉ số BMI trung bình trước
khi mang thai, các chỉ số huyết áp tâm thu và tâm trương trung bình của bệnh nhân.
Nghiên cứu của chúng tôi đã chủ động loại trừ các bệnh nhân bị động kinh có các
yếu tố nguy cơ có thể gây cơn co giật triệu chứng dễ gây nhầm lẫn với cơn động
kinh như: tăng huyết áp, bệnh lý nội tiết cấp tính, bệnh lý hệ thống…Nhìn chung,
các chỉ số về cân nặng, chiều cao, BMI, huyết áp của bệnh nhân không có sự khác
biệt so với quần thể phụ nữ mang thai khỏe mạnh [32].
Trong nghiên cứu này, người bệnh nhóm 1 đến khám lần đầu trong thai kỳ sớm
hơn 5,3 tuần so với người bệnh ở nhóm 2 (f=9,237 ANOVA test; p=0,003). Đa số
người bệnh ở nhóm được tư vấn đến khám thần kinh theo lịch hẹn của bác sỹ trong
quý đầu của thai kì kết hợp với việc theo dõi bác sỹ của chuyên khoa sản; còn nhóm
hai đa phần đi khám muộn hơn hoặc cũng có thể là bất kỳ thời điểm nào trong thai
kỳ. Nguyên nhân đến khám của nhóm hai thường do cơn co giật xuất hiện trở lại
trong thai kỳ (đối với các bệnh nhân không còn cơn trước mang thai nhưng tự ý giảm
hoặc bỏ thuốc) hoặc cơn giật tăng tần số xuất hiện khi mang thai. Các bệnh nhân đã
được kiểm soát tốt cơn giật trước khi mang thai thường chủ quan nên sẽ tự dùng
thuốc và không khám lại cũng như không thông báo về việc mang thai với bác sỹ
thần kinh. Chỉ khi có cơn giật tái phát, họ mới đến tái khám. Một số bệnh nhân khác
sau khi có thai ngoài dự kiến sẽ đến khám tại cơ sở tuyến dưới và được bác sỹ cắt
giảm thuốc kháng động kinh đang dùng (thường là valproat), đồng thời chuyển sang
dùng một loại thuốc khác để giảm thiểu nguy cơ mắc dị tật cho thai. Việc dừng thuốc
đột ngột đã làm cơn giật của người bệnh xuất hiện trở lại. Đối với tình huống khác
như bệnh nhân tự động bỏ thuốc động kinh đang dùng vì sợ tác hại của thuốc đối với
thai nhi cũng có thể làm cơn giật quay lại, đôi khi bệnh nhân còn bị trạng thái động
kinh nặng nề phải nhập viện điều trị. Như vậy, việc bác sỹ chủ động tiến hành lựa
chọn thuốc và chỉnh thuốc về liều tối ưu ngay khi bệnh nhân có kế hoạch thụ thai
cũng như tư vấn việc theo dõi khám định kỳ sẽ giúp giảm thiểu những tình huống
làm cơn giật hoạt động trở lại hoặc tăng cường như trên [3],[128].
86
Về bổ sung acid folic trước mang thai, kết quả trong nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
người bệnh có bổ sung acid folic tối thiểu trước 3 tháng của nhóm được tư vấn
(65,1%) cao gấp 2,07 lần so với nhóm không được tư vấn (33,3%); (RR =2,07; CI
95%=1,28-2,36; p=0,002). Bổ sung acid folic trước và trong quá trình mang thai
nhằm giảm thiểu nguy cơ mắc các dị tật ống sống cho thai nhi đã được khuyến cáo
rộng rãi. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy: có ít nhất 30% số trường hợp
dị tật ống sống là do các nguyên nhân không liên quan đến sự thiếu hụt acid folic của
mẹ. Thật vậy, các con đường chuyển hóa được phát hiện có thể gây ra dị tật ống
sống ở các mô hình nghiên cứu thực nghiệm trên chuột bao gồm: con đường di cư tế
bào thần kinh, tín hiệu tế bào, chuyển hóa folate ở ti thể và con đường inositol. Điều
này góp phần khẳng định dị tật ống sống ở trẻ là hậu quả của nhiều nguyên nhân
bệnh học kết hợp [129],[130].
Liều dùng acid folic bổ sung cho các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi
là 0,4 mg/ngày. Chúng tôi lựa chọn liều thấp này bởi hai lý do: thuốc điều trị động
kinh bệnh nhân của nhóm được tư vấn sử dụng trong nghiên cứu phần lớn đều là
thuốc thế hệ mới, không có khuyến cáo phải bổ sung acid liều cao phối hợp như với
các thuốc kháng động kinh thế hệ cũ (valprroate, carbamazepine, phenytoin,
phenobarbital) và chế độ dinh dưỡng của người Việt Nam có nhiều rau xanh và các
loại hạt (lạc, đỗ) nên việc thiếu acid folic ở người bình thường là hiếm gặp. Hiện tại
vẫn còn nhiều tranh luận đối với việc bổ sung acid folic và liều dùng bổ sung cho
bệnh nhân động kinh khi chuẩn bị mang thai. Tỷ lệ có bổ sung acid folic trước mang
thai cho phụ nữ động kinh ở các nghiên cứu phương Tây dao động 60-70% [3],
ngược lại, theo nghiên cứu của một số nước châu Á việc bổ sung acid folic là không
cần thiết do chế độ ăn của người Châu Á đã có đủ rau xanh và các loại hạt (đậu,
đỗ,lạc) là nguồn cung cấp lượng acid folic đầy đủ [131]. Khuyến cáo của Anh và Mỹ
cho rằng nên bổ sung acid folic liều cao 4 mg/ngày cho nhóm đối tượng có nguy có
cao (phụ nữ có tiền sử đẻ con có khuyết tật ống sống bẩm sinh hoặc có tiền sử gia
đình có yếu tố nguy cơ cao…) nhưng không đề nghị bổ sung liều này cho nhóm phụ
nữ bị động kinh có dùng thuốc điều trị [149]. Thêm vào đó, Hiệp hội chống động
kinh quốc tế (ILAE) năm 2019 cũng chỉ khuyến cáo bổ sung liều thấp 0,4 mg folat
87
hàng ngày cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dùng thuốc chống động kinh [3]. Thật
vậy, việc bổ sung axit folic cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là cực kì quan trọng
nhưng bổ sung quá liều lại không tốt. Dư thừa axit folic trong cơ thể có thể gây dị
ứng cho người dùng (ngứa, nổi ban, mề đay và rối loạn tiêu hóa); làm suy giảm chức
năng thần kinh (thiếu hụt vitamin B12); thậm chí thoái hóa tủy sống (thúc đẩy quá
mức sự tăng trưởng của tế bào non ở tủy). Cơ thể người bệnh tiếp nhận dễ dàng hơn
với folate bổ sung dạng tự nhiên và điều chỉnh bằng cách giải phóng sự dư thừa qua
nước tiểu. Như vậy, bệnh nhân chuẩn bị mang thai nên được tư vấn chế độ ăn giàu
folate, điều này sẽ dễ thực hiện và có hiệu quả hơn việc bổ sung acid folic tổng hợp
liều cao bằng đường uống hằng ngày.
4.1.1.2. Đặc điểm về hoạt động động kinh và việc kiểm soát cơn trước mang thai
Đặc điểm về hoạt động của cơn động kinh trước mang thai
Tần suất cơn giật trong tháng là một biến số cơ bản giúp lượng giá hoạt động
của cơn co giật trước và trong thai kỳ của mỗi bệnh nhân. Trong nghiên cứu này,
nhóm được tư vấn có tần số cơn co giật xuất hiện trung bình tháng trước khi mang
thai (0,67 cơn/tháng) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm không được tư vấn (1,48
cơn/tháng) (f=11,86 ANOVA test; p=0,001). Ngoài ra, hoạt động cơn co giật còn
được đánh giá ổn định hơn nếu người bệnh có số cơn dưới 2 lần trong tháng và tốt
hơn nữa là không còn cơn giật tối thiểu 9-12 tháng [41]. Tỷ lệ bệnh nhân có dưới 2
cơn co giật/tháng trong các nghiên cứu dao động từ 70-76%, tương tự trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ này là 70,1%, ở nhóm 1 là 79,1% và ở nhóm 2 là 62,9%.
Hơn nữa, tỷ lệ bệnh nhân không có cơn co giật ít nhất 1 năm của nhóm 1 (62,8%)
cao hơn 2,62 lần so với nhóm không được tư vấn (20,37%) (RR =2,62, CI
95%=1,65-4,17; p=0,001). Như vậy, nhóm người bệnh được tư vấn có các chỉ số về
hoạt động cơn động kinh trước mang thai ổn định hơn nhóm không được tư vấn: tần
suất cơn trung bình tháng cũng như tỷ lệ bệnh nhân có dưới 2 cơn giật/tháng thấp
hơn và tỷ lệ bệnh nhân cắt cơn tối thiểu 01 năm cao hơn.
Đặc điểm về sử dụng thuốc kháng động kinh
Ngừng thuốc trước mang thai và nguy cơ cơn tái phát
88
Nghiên cứu có 04 bệnh nhân thuộc nhóm hai không dùng thuốc trước mang
thai do người bệnh đã không có cơn giật tối thiểu 2 năm và các bệnh nhân này đều
có cơn giật tái phát trở lại trong thai kỳ. Ngược lại, trong nhóm được tư vấn cũng có
15 bệnh nhân đã cắt cơn giật trên 2 năm nhưng không có bệnh nhân nào dừng điều
trị thuốc. Các kết quả nghiên cứu hồi cứu cho thấy 1/3 số cơn giật tái phát sẽ xảy ra
trong vòng 6-12 tháng sau khi dừng thuốc, do đó các bệnh nhân động kinh có cơn
giật ổn định muốn thụ thai và dừng thuốc khi mang thai cần được giải thích để chấp
nhận những nguy cơ này. Cụ thể, tỷ lệ cơn giật tái phát sau dừng thuốc điều trị động
kinh 6-12 tháng là 15-30%, sau dừng thuốc 5 năm là 46-52% và tỷ lệ này phụ thuộc
vào hội chứng động kinh của bệnh nhân cũng như một vài yếu tố khác mang tính cá
thể [132]. Do đó, nếu bệnh nhân không có cơn giật từ 2-5 năm và quyết định dừng
thuốc kháng động kinh, bệnh nhân cần được tư vấn nên thụ thai sớm nhất là 6-12
tháng sau khi dừng thuốc.
Về việc lượng giá các yếu tố nguy cơ gây cơn động kinh tái phát, hiện chưa có
nghiên cứu có chất lượng cao nào được tiến hành để đưa ra các hướng dẫn cụ thể và
chính xác. Tuy vậy, trong thực hành lâm sàng, bác sỹ thần kinh sẽ thường đánh giá
lại tiền sử bệnh động kinh và các thăm dò hình ảnh học thần kinh mới nhất của người
bệnh trước khi đưa ra quyết định cắt thuốc động kinh. Dựa trên việc đa phân tích một
vài nghiên cứu quan sát các tiêu chuẩn và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân tại thời
điểm dừng thuốc động kinh ở gần 10000 bệnh nhân, tỷ lệ cộng dồn cơn động kinh tái
phát là 35% [132]. Thời gian kéo dài bệnh động kinh và thời gian cơn động kinh
được kiểm soát trước khi ngừng thuốc điều trị đều có tác động đến khả năng cơn tái
phát. Một vài đặc điểm được cho là yếu tố tiên lượng độc lập cho sự tái phát của cơn
động kinh sau ngưng thuốc gồm: thời gian kéo dài bệnh động kinh trước khi thuyên
giảm; khoảng thời gian cắt cơn động kinh trước khi ngừng thuốc điều trị; tuổi khởi
phát động kinh (khởi phát tuổi trưởng thành là yếu tố nguy cơ cao); bệnh nhân tiền
sử có sốt cao co giật; số lượng cơn co giật trước khi bệnh thuyên giảm (lớn hơn 10
cơn); bệnh nhân không có các hội chứng động kinh tự kiểm soát (động kinh cơn
vắng, động kinh lành tính với nhọn trung tâm thái dương); điện não đồ trước khi
89
ngừng thuốc có bất thường dạng sóng động kinh. Một vài yếu tố có thể làm tăng nguy
cơ xuất hiện cơn động kinh tái phát nhưng ít chắc chắn hơn gồm bệnh nhân có tổn
thương não (u não, bất thường bẩm sinh, di chứng viêm não, tai biến mạch não); thiểu
năng trí tuệ; thăm khám thần kinh có bất thường; có nhiều loại cơn động kinh; đáp ứng
kém với điều trị ban đầu; đa trị liệu trước khi ngừng thuốc; tiền sử động kinh gia đình;
teo hồi hải mã hoặc hồi hải mã có tín hiệu bất thường trên MRI [132],[133],[134]. Trong
các thăm dò cận lâm sàng thần kinh học, điện não đồ giúp phân tầng nguy cơ cho cơn
động kinh tái phát vì các biểu hiện bất thường dạng sóng động kinh trên điện não đồ
là yếu tố tiên lượng nguy cơ có giá trị [133]. Tuy nhiên, kết quả của điện não đồ có
thể bị nhiễu do nhiều yếu tố lâm sàng của người bệnh tại thời điểm thực hiện cũng
như không thể đảm bảo làm điện não đồ thường quy cho mọi đối tượng đang được
cân nhắc ngừng thuốc, vì vậy, vai trò của điện não đồ đối với quyết định điều trị của
bác sỹ thần kinh còn hạn chế.
Mặt khác, các nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm cho thấy: nhóm bệnh nhân
không có cơn giật nhiều năm và không có những yếu tố nguy cơ nêu trên vẫn có tỷ lệ
cộng dồn cơn giật tái phát sau ngừng thuốc điều trị là 20-25%; tỷ lệ này cao hơn rất
nhiều so với khả năng cơn co giật xuất hiện của quần thể chung [132]. Vì những
nguy cơ do cơn giật gây ra và việc không xác định được chính xác thời điểm cơn tái
phát nên có nhiều bệnh nhân sẽ lựa chọn tiếp tục điều trị thuốc nếu được bác sỹ tư vấn.
Người bệnh cần được tư vấn về lợi ích của việc duy trì thuốc đó là cơn giật vẫn có khả
năng tái phát nhưng với xác suất thấp hơn rất nhiều. Để đảm bảo cho quá trình chuẩn bị
và mang thai diễn ra an toàn và thuận lợi, đa số người bệnh dù đã cắt cơn hơn một năm
sẽ vẫn tiếp tục dùng thuốc trong thai kỳ sau khi được tư vấn và lập kế hoạch mang thai.
Sử dụng thuốc kháng động kinh giai đoạn trước mang thai
Trong nghiên cứu này, ở những bệnh nhân dùng thuốc trước mang thai: tỷ lệ
bệnh nhân dùng một loại thuốc là 72%, tỷ lệ này ở nhóm được tư vấn là 79,1%, ở
nhóm không được tư vấn là 66%. Có thể thấy số lượng bệnh nhân dùng thuốc đa trị
liệu trước mang thai chỉ chiếm 1/4 số bệnh nhân trong nghiên cứu, kết quả này của
nghiên cứu phản ánh đúng xu hướng tiến bộ trong điều trị động kinh thời gian gần
90
đây, đó là hạn chế dùng đa trị liệu, lựa chọn tối ưu hóa loại thuốc; hạn chế tương tác
thuốc nhằm giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc cho bệnh nhân. Mặt khác, nhiều
nghiên cứu gần đây cho thấy, trong nhóm sử dụng đa trị liệu, thành phần thuốc trong
điều trị quan trọng hơn số lượng thuốc phối hợp. Khi so sánh số liệu của một vài
nghiên cứu lớn kết quả khẳng định sự có mặt của valproate trong thành phần thuốc là
nguyên nhân chính gây tăng tỷ lệ mắc dị tật bẩm sinh ở trẻ được sinh ra [58],[135].
Khuyến cáo điều trị là nên sử dụng phối hợp valproat liều thấp dưới 700 mg/ngày
với các thuốc kháng động kinh khác thay vì dùng valproate liều cao đơn trị liệu để
giảm thiểu nguy cơ gây dị tật bẩm sinh [135]. Nghiên cứu của chúng tôi có 7/43
trường hợp bệnh nhân của nhóm được tư vấn còn dùng valproate với liều trung bình là
514,3 mg/ngày nhưng đã chia nhỏ liều uống 2-3 lần trong ngày, đây là liều điều trị đã
được điều chỉnh liều <700 mg/ngày theo khuyến cáo quốc tế [3]. Ngược lại, còn tới
48% bệnh nhân ở nhóm không được tư vấn sử dụng valproate trước mang thai với liều
trung bình là 895,8 mg/ngày, trong đó có 17/24 bệnh nhân dùng liều trên 700mg/ngày
dưới hình thức đơn trị liệu hoặc kết hợp. Các bệnh nhân này hoặc không khám định kỳ
bác sỹ thần kinh hoặc có khám định kỳ nhưng việc mang thai ngoài ý muốn dẫn đến
việc cả bác sỹ và người bệnh đều chưa có kế hoạch điều chỉnh thuốc cho quá trình mang
thai an toàn. Như vậy, hai nhóm trong nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa về tỷ lệ bệnh nhân dùng đơn trị liệu trước mang thai (p=0,174);
nhưng nhóm người bệnh được tư vấn có tỷ lệ không dùng valproate cao hơn 2,57
lần (RR=2,57, CI 95%=1,3-5,1; p=0,001) và có liều dùng valproate thấp hơn 381,5
mg/ngày (f= 15,72, ANOVA test, p=0,001) so với nhóm không được tư vấn.
Đối với các thuốc động kinh thế hệ cũ khác, trong nghiên cứu có 10 bệnh nhân dùng
carbamazepine, 12 bệnh nhân dùng gardenal và 4 bệnh nhân dùng phenytoin. Các
bệnh nhân này đa số dùng thuốc đa trị liệu. Riêng ở nhóm được tư vấn, chỉ có 2 bệnh
nhân dùng gardenal, 03 bệnh nhân dùng carbamazepine và 02 bệnh nhân dùng
phenytoin. Tuy các bệnh nhân này đều đã được thử đổi sang thuốc động kinh thế hệ
mới nhưng gặp khó khăn trong kiểm soát cơn và vấn đề kinh tế. Do đó, các bệnh
nhân này vẫn dùng tiếp thuốc cũ có chỉnh liều thuốc kết hợp bổ sung acid folic sớm
91
để chuẩn bị cho quá trình mang thai. Ngược lại, các bệnh nhân dùng những loại
thuốc trên ở nhóm 2 đều chưa chỉnh liều thuốc trước mang thai nên có liều dùng khi
thụ thai còn cao. Việc mang thai của đa phần người bệnh là mang thai ngoài kế
hoạch. Tuy nhiên, với số bệnh nhân này trong nghiên cứu còn ít nên chúng tôi chưa
thể tiến hành những so sánh có ý nghĩa thống kê.
Về việc tuân thủ điều trị, chúng tôi lượng giá sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân
bằng thang điểm Morisky (Morisky Medication Addherence Scale - MMAS-8) với 8
câu hỏi đơn giản, mỗi câu trả lời đúng tính 1 điểm. Người bệnh được đánh giá là
tuân thủ điều trị khi điểm MMAS-8 ≥ 6 điểm (bảng 6, phụ lục 1) [122]. Kết quả
trong nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị thuốc kháng động kinh
trước mang thai là 74,4%, trong đó nhóm được tư vấn tỷ lệ tuân thủ điều trị là
85,4%, nhóm không được tư vấn là 63,3%. Như vậy, so sánh với nhóm người bệnh
không được tư vấn, nhóm được tư vấn có tỷ lệ tuân thủ điều trị cao hơn 1,76 lần
(RR=1,76, CI 95%=1,26-2,46; p=0,0004). Việc bệnh nhân tuân thủ điều trị có vẻ tốt
hơn ở nhóm được tư vấn và kết quả này có được một phần do trước khi chuẩn bị
mang thai, sản phụ đã được cung cấp các thông tin thiết yếu về nguy cơ của việc
dùng thuốc kháng động kinh đối với thai nhi cũng như sự cần thiết việc duy trì thuốc
để kiểm soát cơn giật. Cụ thể, có 3 bệnh nhân trong nhóm được tư vấn đã tự ngừng
thuốc kháng động kinh trước khi mang thai, nhưng đồng ý dùng lại thuốc sau khi
được bác sỹ thần kinh tư vấn. Như vậy, trước khi tiến hành điều trị thuốc cho bệnh
nhân động kinh, các bác sỹ thần kinh cần thảo luận với bệnh nhân và gia đình họ để
cung cấp những kiến thức cần thiết về bệnh động kinh và các thông tin cần thiết có
liên quan đến bệnh tật. Bệnh nhân cần hiểu rõ việc không tuân thủ điều trị không chỉ
làm tăng nguy cơ xuất hiện cơn giật mà còn gây hậu quả lâu dài và nặng nề như tăng
nguy cơ tử vong; tăng khả năng cần nhập viện điều trị và tăng nguy cơ mắc tai nạn
khi cơn giật xảy ra. Mặt khác, bệnh động kinh có tác động riêng biệt lên từng cá thể
người bệnh và nhận thức về bệnh phụ thuộc tùy vào khả năng lĩnh hội và hoàn cảnh
riêng của họ. Do đó, chiến lược điều trị cho từng bệnh nhân ngoài những nguyên tắc
chung cũng cần điều chỉnh cho phù hợp với từng người. Để cải thiện hành vi của
92
người bệnh, giúp họ tuân thủ kế hoạch điểu trị tốt hơn, người thầy thuốc khi tư vấn
cần giải thích rõ ràng và cụ thể hóa từng bước của kế hoạch điều trị gắn liền với mục
tiêu về chất lượng cuộc sống và mong muốn về hiệu quả điều trị của mỗi người
bệnh. Qua đó, việc tư vấn trước mang thai của bác sỹ thần kinh có thể giúp cải thiện
sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân.
4.1.1.3. Đặc điểm trong thai kỳ
➢ Đặc điểm về hoạt động cơn động kinh trong thai kỳ
Phân bố thể lâm sàng cơn động kinh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có cơn động kinh toàn thể là
57,7%, động kinh cục bộ chiếm 42,3%, tỷ lệ có cơn giật nặng co giật co cứng (gồm
động kinh toàn thể và động kinh khởi phát cục bộ có toàn thể hóa) là 78,35%. Không
có sự khác biệt giữa hai nhóm được tư vấn và không được tư vấn về tỷ lệ loại cơn co
giật (p=0,137). Khác với lứa tuổi thanh thiếu niên, bệnh động kinh sau 20 tuổi có
nhiều khả năng do tổn thương thực thể tại não. Những tổn thương này thường được
phát hiện khi bệnh nhân thực hiện các thăm dò hình ảnh thần kinh. Do có sự biến đổi
này về nguyên nhân gây bệnh nên dẫn đến sự khác biệt về phân bố các thể lâm sàng
của cơn động kinh giữa các nhóm tuổi [136],[137]. Nghiên cứu dịch tễ về động kinh
tại Mỹ cho thấy, thể lâm sàng hay gặp nhất ở nhóm tuổi chưa trưởng thành là các
cơn động kinh toàn thể gồm cơn co giật-co cứng toàn thân 32%, cơn giật cơ 17% và
cơn vắng ý thức 11%, trong khi nhóm cơn cục bộ chiếm tỷ lệ ít hơn gồm cơn cục bộ
phức tạp 22%, cơn cục bộ đơn giản 10,5%, cơn cục bộ không phân loại 5%. Ở nhóm
tuổi trưởng thành, tỷ lệ cơn co giật cục bộ phức tạp tăng dần theo tuổi (chiếm khoảng
48,5% ở nhóm 15-34 tuổi và tăng dần thành 50% ở nhóm trên 65 tuổi) kèm theo là
sự giảm đột ngột các thể lâm sàng cơn động kinh có liên quan đến các hội chứng
động kinh phụ thuộc lứa tuổi như cơn động kinh giật cơ (giảm còn < 2% ở các nhóm
sau 15 tuổi), cơn vắng ý thức (giảm còn 7% ở nhóm 15-34 tuổi và không còn xuất
hiện sau 35 tuổi) [136]. Mặt khác, sự phân bố các thể lâm sàng cơn động kinh không
thống nhất giữa các nghiên cứu: tỷ lệ động kinh cơn toàn thể dao động 60-80%, động
kinh vắng ý thức từ 0,8 đến 11%, động kinh cục bộ từ 30-72%, cơn không phân loại
93
từ 1,2 đến 20%. Đặc biệt, tỷ lệ các cơn động kinh toàn thể cao hơn rõ rệt trong các
nghiên cứu ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển [137]. Như vậy,
nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giữa các kết quả nghiên cứu đã công bố là do
đặc điểm khác biệt của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu và mô hình thiết kế
nghiên cứu.
Khi người bệnh động kinh mang thai, loại cơn động kinh biểu hiện trên lâm
sàng và tác động của cơn đối với sản phụ và thai nhi sẽ được quan sát và nghiên cứu.
Các tác giả nhận thấy thể cơn động kinh cục bộ không kèm co cứng co giật toàn thể
hóa nhìn chung ít ảnh hưởng đến thai nhi, dù vậy vẫn có vài nghiên cứu báo cáo ca
lâm sàng ghi nhận nhịp tim thai giảm trong thời gian cơn giật kéo dài 2,5-3,5 phút
biểu hiện tình trạng suy thai thoáng qua khi sản phụ có cơn động kinh cục bộ kèm
suy giảm nhận thức [138],[139]. Ngược lại, cơn động kinh có co cứng co giật toàn
thể trong quá trình mang thai gồm cả cơn cục bộ có co giật co cứng co giật toàn thể
thứ phát thường dẫn đến tình trạng thiếu cung cấp oxy và tăng acid lactic trong máu
mẹ truyền cho con qua nhau thai và có thể gây ngạt cho thai. Tình trạng nhịp chậm
của thai nhi có thể xuất hiện và kéo dài tới 20 phút sau cơn co giật của mẹ. Một vài
trường hợp rất hiếm thai nhi đã bị chết hoặc chảy máu não thất sau cơn co giật của
mẹ. Ngoài ra, khi bệnh nhân bị ngã trong cơn động kinh dẫn đến tử cung bị chấn
thương và ảnh hưởng đến thai nhi. Đặc biệt, trạng thái động kinh co cứng co giật
toàn thể có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ tử vong mẹ và tăng 50% khả năng sảy thai,
rõ ràng đe dọa tính mạng của cả mẹ và thai [140]. Về lâu dài, cơn động kinh toàn thể
kéo dài của mẹ còn được chứng minh có ảnh hưởng xấu đến trí thông minh của trẻ
[141],[142]. Do vậy, cần điều trị thích hợp để giảm thiểu tối đa các cơn động kinh có
co cứng co giật toàn thể nhằm hạn chế tác động của cơn giật đối với mẹ và thai nhi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ người bệnh có cơn co cứng co giật toàn
thể là 78,3% (gồm cơn động kinh toàn thể là 57,7% và cơn giật khởi phát cục bộ có
kèm toàn thể hóa thứ phát 20,6%). Như vậy, phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi có biểu hiện cơn co giật có tính chất nặng trên lâm sàng là cơn có co
giật co cứng toàn thể. Với những người bệnh có cơn co giật nhẹ hơn có thể đã được
94
tư vấn và kiểm soát tốt cơn giật tại tuyến cơ sở hoặc cũng có thể người bệnh không
đi khám và tự ý dùng thuốc. Do đó, việc tiếp cận để tư vấn và điều trị thích hợp cho
nhóm người bệnh này còn nhiều khó khăn. Từ thực tế này, chúng tôi nhận thấy cần
có sự thống nhất giữa các cơ sở y tế các cấp về chương trình quản lý thông tin và
điều trị bệnh nhân bị động kinh nói chung cũng như phụ nữ động kinh trong độ tuổi
sinh đẻ. Điều này giúp cải thiện chất lượng theo dõi, điều trị bệnh nhân đồng thời
giúp lưu trữ các thông tin đầy đủ về người bệnh nhằm phục vụ cho quá trình nghiên
cứu khoa học.
Các đặc điểm về hoạt động cơn động kinh trong thai kỳ
Ngoài thể lâm sàng của cơn động kinh, các đặc điểm về tần suất xuất hiện cơn
(số cơn/tháng, cơn có xuất hiện hay không; cơn tăng, không đổi hay giảm, tính chất
cơn nặng hay nhẹ hơn hay không đổi so với trước mang thai) là những biến số quan
trọng để đánh giá hoạt động của cơn giật trong thai kỳ. Ngoài ra, mức độ cơn được
kiểm soát trước khi mang thai cũng có giá trị tiên lượng hoạt động của cơn giật trong
thai kỳ: khoảng thời gian không có cơn giật trước mang thai của sản phụ càng dài
cũng như tần suất cơn giật xuất hiện hàng tháng càng ít thì nguy cơ cơn giật xuất
hiện trong quá trình mang thai càng thấp. Cụ thể, nghiên cứu trước đây cho thấy hầu
hết bệnh nhân có tần số cơn giật dưới 2 lần /tháng trước mang thai sẽ có tình trạng
cơn giật nhẹ hơn trong thai kỳ, cũng như tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật xuất hiện trở lại
trong thai kỳ của nhóm không cơn trước mang thai tối thiểu 9 tháng chỉ là 25 % và tỷ
lệ này ở nhóm không co cơn giật tối thiểu 01 năm trước mang thai chỉ là 10-20%
[3],[41],[44],[143]. Nghiên cứu của cúng tôi cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ người
bệnh không có cơn giật trong thai kỳ là 34,02% và tỷ lệ tái phát cơn giật trong thai
kỳ của nhóm cắt cơn tối thiểu 1 năm trước mang thai là 18,1%. Tóm lại, khi bệnh
nhân duy trì được việc cắt cơn giật tối thiểu 1 năm trước mang thai sẽ là một báo
hiệu tốt cho một kỳ mang thai an toàn.
Trong nghiên cứu này, khi so sánh với nhóm không được tư vấn, nhóm được tư
vấn có tỷ lệ bệnh nhân không giật trong thai kỳ cao gấp 2,2 lần (RR=2,2, CI
95%=1,2-4,3, p=0,004); không tăng cường cơn giật cao gấp 2,3 lần (RR=2,3, CI
95
95%=1,5-3,4, p=0,003); tỷ lệ người bệnh có tần suất dưới 2 cơn/tháng cao gấp 1,6
lần (RR=1,6; CI 95%=0,99-2,6; p=0.065) cũng như số cơn giật trung bình thấp hơn
1,04 cơn/tháng (f=12,43 ANOVA test, p=0,001). Nhóm 1 có các thông số về hoạt
động cơn động kinh trong thai kỳ ổn định hơn nhóm không được tư vấn. Hơn nữa,
với những bệnh nhân của nhóm 1 có cơn co giật xuất hiện nhiều hơn trong thai kỳ,
đa số bệnh nhân đều có cơn với tính chất ổn định với thời gian cơn ngắn hơn và bệnh
nhân vẫn đồng ý duy trì thuốc điều trị cũng như tự điều chỉnh chế độ sinh hoạt hợp
lý (tránh stress và tình trạng mất ngủ) theo tư vấn của bác sỹ. Ngược lại đối với
nhóm không được tư vấn, phần lớn bệnh nhân có cơn tăng cường đều là những bệnh
nhân uống thuốc không đều hoặc chế độ sinh hoạt chưa hợp lý với tâm lý lo lắng sợ
sệt về bệnh tật của mình. Như vậy, bằng các so sánh giữa hai nhóm về giá trị của các
biến số như: tần số cơn giật xuất hiện trong tháng, tỷ lệ bệnh nhân không có cơn giật
trong thai kỳ cũng như tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tăng cường; chúng tôi nhận thấy
hoạt động của cơn động kinh của nhóm được tư vấn có xu hướng ổn định hơn.
Tỷ lệ bệnh nhân không có cơn giật trong thai kỳ của các nghiên cứu tại các
trung tâm thần kinh trước đây dao động từ 29-45% và tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật
tăng cường là 20-50% [37],[42],[43],[44],[131]. Các kết quả của các nghiên cứu ở
cộng đồng ngược lại cho thấy tỷ lệ bệnh nhân động kinh có cơn giật không đổi khi
mang thai chiếm tới hơn 2/3 số bệnh nhân và tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tăng cường
chỉ còn dưới 20%. Theo nghiên cứu quan sát tiến cứu của EURAP năm 2013, trong
số 3784 lần mang thai của hơn 3000 phụ nữ bị động kinh, tần suất cơn giật không
đổi ở 70,5% số bệnh nhân, chỉ có 15,8 % bệnh nhân có cơn giật tăng cường và
66,6% không có cơn giật trong thai kỳ [118]. Sự khác biệt này được giải thích là do:
hiệu quả của việc tư vấn trước mang thai, những thay đổi quan điểm điều trị tích cực
của các bác sỹ thần kinh theo thời gian cũng như quần thể trong các nghiên cứu
không đồng nhất. Nhờ vào các khuyến cáo điều trị có được từ các nghiên cứu về
nguy cơ gây dị tật bẩm sinh của các thuốc kháng động kinh và sự thay đổi của thuốc
động kinh trong thai kỳ, xu hướng dùng đơn trị liệu, tối ưu hóa liều điều trị trước khi
96
thụ thai, ưu tiên các thuốc thế hệ mới và chỉnh liều điều trị trong thai kỳ dựa vào
định lượng nồng độ thuốc trong máu hàng tháng cho bệnh nhân đã giúp cân bằng
được việc kiểm soát cơn giật thai kỳ cũng như giảm thiểu nguy cơn mắc dị tật bẩm
sinh cho trẻ. Vì vậy, sự khác biệt về kết quả trong các nghiên cứu không hề mâu
thuẫn mà ngược lại chính là bằng chứng cho thấy hiệu quả của quá trình tư vấn và
điều trị [3].
Chúng tôi cũng nhận thấy, phương pháp của đa phần các nghiên cứu trước đây
không thực hiện được so sánh hoạt động cơn giật của bệnh nhân trong nghiên cứu
với hoạt động cơn giật của bệnh nhân bị động kinh không mang thai (tiêu chuẩn
vàng) trong cùng khoảng thời gian và cùng cách thức, nên các kết luận liên quan đến
các yếu tố làm thay đổi hoạt động động kinh của bệnh nhân là chưa đủ thuyết phục
hoàn toàn. Cụ thể hơn; trong một số nghiên cứu tại Nhật, Hoa Kỳ, Đan Mạch và Úc,
các tác giả so sánh hoạt động cơn giật trong thai kỳ với hoạt động này của bệnh nhân
ở giai đoạn trước mang thai (nghiên cứu của chúng tôi cũng thực hiện theo cách thức
này) trong khi nghiên cứu EURAP lại so sánh hoạt động động kinh của bệnh nhân
khi mang thai với hoạt động này ở quý 1 của thai kỳ [42],[43],[44],[131],[144],
[118]. Có thể suy ra, kết quả của các nghiên cứu không thể đồng nhất do phương
pháp tiến hành nghiên cứu có sự khác biệt. Hơn nữa, việc lựa chọn bệnh nhân bị
động kinh với tính chất bệnh nặng và khó kiểm soát hơn đang điều trị bệnh tại các
trung tâm chuyên sâu bệnh thần kinh (là trung tâm Thần kinh của bệnh viện Bạch
Mai trong nghiên cứu của chúng tôi hay ở các trung tâm Thần kinh trong nghiên cứu
của các tác giả khác như Abe, Saber) sẽ cho kết quả có khác biệt đáng kể so với các
nghiên cứu chung trong cộng đồng [41],[131]. Nhưng điểm thống nhất giữa các
nghiên cứu vẫn là việc tư vấn và quản lý tốt bệnh nhân trước và trong quá trình mang
thai luôn có tác động tích cực đối với việc kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân trong
thai kỳ. Kết quả thu được trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn đồng thuận với
quan điểm này.
97
Cơn giật (%) Nghiên cứu Cỡ mẫu Tăng cường Không cơn Không đổi
38,1 Chúng tôi 97 34 49,5
27,3 Abe [131] 132 Không đề cập Không đề cập
20 Saber[41] 90 56,7 Không đề cập
Penell PB 23 299 71 62 [44]MONEAD
Harden CL[37] Đa nghiên cứu 14-32 Không đề cập 54-80
38,3 Reisinger TL[42] 115 60,1 44,3
Thomas SV[43] 1297 Không đề cập Không đề cập 47,8
Battino D
EURAP 2006 và 3784 15,8 58,3-66,5 70,5
2013[40],[118]
Vadja FJ[144] 841 Không đề cập 50,3 Không đề cập
Về nguy cơ xuất hiện trạng thái động kinh trong thai kỳ, xác suất gặp trong các
nghiên cứu tại quần thể là 1-2% [43],[118]. Nghiên cứu này có 04 trường hợp bệnh
nhân nhập viện với trạng thái động kinh có co giật co cứng, chiếm tỷ lệ 4,1%. Các bệnh
nhân đều tự ý bỏ thuốc đang điều trị khi phát hiện mình mang thai và đều thuộc nhóm
không được tư vấn.
Ngoài ra, cơn giật cũng có thể tái phát trong thai kỳ ngay cả ở những bệnh nhân
không có cơn nhiều tháng trước mang thai, chúng tôi quy ước cơn giật tái phát là cơn
giật xuất hiện ở các bệnh nhân đã cắt cơn tối thiểu 12 tháng. Với quy ước này, số
bệnh nhân có cơn giật tái phát trong nghiên cứu là 11 bệnh nhân với 05 bệnh nhân
của nhóm được tư vấn và 06 bệnh nhân của nhóm không được tư vấn. Ở nhóm được
tư vấn có 03/05 bệnh nhân có cơn giật xuất hiện trong quý đầu của thai kỳ, các bệnh
nhân này đều có tình trạng ốm nghén nôn nhiều. Hai bệnh nhân còn lại đều dùng
thuốc lamotrigine và cơn giật tái phát ở quý 3 của thai kỳ mặc dù đã được điều chỉnh
liều thuốc ngay từ quý hai của thai kỳ. Ở nhóm không được tư vấn, cả 06 bệnh nhân
có cơn giật tái phát ở cuối quý 2 và quý 3 của thai kỳ trong đó có 4 bệnh nhân không
98
cần dùng thuốc kháng động kinh trước mang thai, 2 bệnh nhân dùng thuốc valproat
nhưng tự ý bỏ thuốc. Theo các nghiên cứu, khả năng cơn giật tái phát hoặc tăng
cường nhiều nhất ở giai đoạn đầu của quá trình mang thai và quý 3 của thai kỳ
[37],[43],[145]. Nguyên nhân cơn tái phát là do tình trạng mệt, ốm nghén nôn nhiều
ở giai đoạn đầu mang thai của bệnh nhân gây ra khó khăn khi thực hiện uống thuốc
đủ liều thuốc và duy trì việc dùng thuốc; còn ở quý 3 của thai kỳ do người bệnh vừa
tăng cân nhiều vừa có tâm lý lo lắng cho cuộc chuyển dạ dẫn đến tình trạng mất ngủ
cũng như có sự tăng chuyển hóa của một số thuốc điều trị động kinh. Như vậy, tất cả
các yếu tố đã đề cập ở trên đã góp phần làm giảm nồng độ thuốc trong máu và làm
tăng nguy cơ cơn giật tái phát.
Một vài tác giả còn tiến hành nghiên cứu về yếu tố hormon sinh dục nữ của
động kinh có liên quan tới chu kỳ kinh nguyệt đối với hoạt động cơn động kinh trong
quá trình mang thai của người bệnh [45]. Nghiên cứu được tác giả tiến hành trên hai
nhóm bệnh nhân được chẩn đoán là động kinh có liên quan đến kinh nguyệt và động
kinh không liên quan đến kinh nguyệt. Kết quả cho thấy, cơn động kinh được kiểm
soát tốt ở nhóm động kinh liên quan đến kinh nguyệt: có 44.1% bệnh nhân trong
nhóm giảm hơn 50% số cơn giật trong thai kỳ so với trước khi mang thai trong khi tỷ
lệ này ở nhóm còn lại chỉ là 6.5%. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy kết quả về tỷ lệ
bệnh nhân được chẩn đoán là động kinh có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt dao
động rất lớn trong các nghiên cứu (10-70 %) cũng như tiêu chuẩn chẩn đoán loại
động kinh này chưa rõ ràng, do đó cần có thời gian nghiên cứu thêm về mặt bệnh
này để có sự thống nhất về tiêu chuẩn chẩn đoán và điều trị bệnh [45],[146],[147].
Trong nghiên cứu của chúng tôi đáng tiếc chưa có điều kiện để chẩn đoán xác định
những trường hợp động kinh có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt do việc theo dõi
lâu dài các bệnh nhân trước và sau quá trình mang thai gặp khó khăn. Thêm nữa,
việc bệnh nhân có nhiều yếu tố có khả năng gây nhiễu (bệnh nhân có tổn thương
não, bệnh nhân không nhớ rõ việc sử dụng các biện pháp dùng thuốc tránh thai, bệnh
nhân không tuân thủ việc dùng thuốc điều trị, bệnh nhân ghi nhớ nhầm thời điểm xảy
ra cơn giật) sẽ dẫn đến khó khăn trong việc chẩn đoán chính xác bệnh động kinh có
liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt.
99
➢ Đặc điểm về sử dụng thuốc điều trị của người bệnh động kinh trong thai kỳ
Chỉnh thuốc kháng động kinh và tuân thủ điều trị
Việc chỉnh liều thuốc trong thai kỳ của bác sỹ bao gồm thêm một loại thuốc
hoặc chỉnh liều thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng. Chỉnh thuốc trong quá trình mang
thai gồm hai loại: chỉnh thuốc chủ động định kỳ và chỉnh thuốc do tình huống bị
động như bệnh nhân mang thai ngoài ý muốn, bệnh nhân bỏ thuốc và có cơn trở lại,
bệnh nhân trong quá trình giảm thuốc hay chuyển thuốc mới có cơn giật trở lại. Bổ
sung một loại thuốc điều trị khác cho bệnh nhân trong thai kỳ chỉ được đặt ra khi cơn
giật của bệnh nhân không kiểm soát được bằng đơn trị liệu với liều an toàn cho mẹ
và con (dưới 650-700 mg/ngày với valproat, dưới 700-750 mg/ngày với carbazepine,
dưới 325 mg/ ngày với lamotrigine và dưới 130 mg/ ngày với phenobarbital). Tăng
liều thuốc đang điều trị trong thai kỳ được đề xuất khi hoạt động cơn tăng cường
hoặc khi nồng độ thuốc trong máu của bệnh nhân dưới ngưỡng của liều điều trị cắt
cơn. Trong trường hợp không định lượng được nồng độ thuốc, theo khuyến cáo của
ILAE 2019 cần tăng liều điều trị cho phụ nữ bị động kinh ở 2 quý sau của thai kỳ
trong những trường hợp sau: (1) Bệnh nhân đang dùng các thuốc kháng động kinh có
độ thanh thải tăng nhiều trong thai kỳ (lamotrigine, levetiracetam và oxcarbazepine).
(2) Cơn động kinh cục bộ toàn thể hóa hoặc cơn động kinh toàn thể co giật co cứng.
(3) Việc kiểm soát cơn co giật của bệnh nhân trước mang thai nhạy cảm với việc
thay đổi liều thuốc điều trị. (4) Liều thuốc của bệnh nhân dùng trước mang thai là
liều thấp nhất có hiệu quả [3]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa có điều kiện
định lượng thuốc điều trị cho bệnh nhân trong thai kỳ, nên việc chỉnh thuốc sẽ dựa
trên hướng dẫn của ILAE cũng như dựa vào lâm sàng của bệnh nhân và kinh nghiệm
điều trị của bác sỹ thần kinh. Vì những lý do trên, tỷ lệ bệnh nhân có cơn tăng hoạt
động trong thai kỳ trong nghiên cứu này sẽ cao hơn ở những nghiên cứu có chỉnh
liều cho bệnh nhân dựa vào nồng độ thuốc điều trị trong máu. Khuyến cáo điều trị
trong thai kỳ tuy vậy vẫn là cần tăng liều điều trị nếu bệnh nhân có cơn giật tăng
cường (kể cả khi nồng độ thuốc ở trong ngưỡng có tác dụng điều trị) [3]. Điều này
cho thấy mức độ hoạt động của cơn giật vẫn có giá trị quan trọng nhất để quyết định
chỉnh liều thuốc cho bệnh nhân trong thai kỳ. Tỷ lệ bệnh nhân cần chỉnh thuốc trong
100
thai kỳ của nhóm được tư vấn là 12/43 bệnh nhân (34,9%), đây là những bệnh nhân
có cơn hoạt động tăng cường trong thai kỳ hoặc cơn giật không tăng cường nhưng
vẫn có cơn co cứng co giật toàn thân hàng tháng hoặc bệnh nhân dùng lamotrigine),
tỷ lệ thêm thuốc điều trị là 2/43 bệnh nhân (4,6%) bệnh nhân, số bệnh nhân không
cần chỉnh thuốc của nhóm được tư vấn là 29/43 bệnh nhân. Ngược lại, tỷ lệ cần
chỉnh thuốc trong thai kỳ của nhóm không được tư vấn cao hơn nhóm 1 (38/54
trường hợp chiếm 70,4%) và đều là chỉnh thuốc trong các tình huống bị động. Như
vậy, khi bệnh nhân được chỉnh liều phù hợp ở trong quá trình chuẩn bị thụ thai, việc
chỉnh liều thuốc trong thời kỳ mang thai sẽ có tính chất chủ động và đạt được hiệu
quả cao hơn.
Các nghiên cứu lớn còn lưu ý một vài điểm đối với chỉnh liều thuốc như sau: tỷ
lệ bệnh nhân cần tăng liều thuốc đang dùng trong khi mang thai là 26,6 % và tỷ lệ
bệnh nhân cần thêm thuốc thứ 2 trong thai kỳ là 2,6 %. Cơn co giật xuất hiện nhiều
hơn ở quý 1 của những bệnh nhân phải tăng liều (35%) hoặc thêm thuốc so với nhóm
không cần tăng liều thuốc (15,3%). So sánh các thuốc khi dùng đơn trị liệu, phụ nữ
bị động kinh khi mang thai dùng lamotrigine có tỷ lệ ko có cơn giật trong thai kỳ
thấp hơn (58.2%, p<0.0001); có cơn động kinh toàn thể nhiều hơn (21.1%,
p<0.0001); có xu hướng có cơn giật tăng cường xuất hiện vào quý 2 hoặc 3 cao hơn
(19.9%, p<0.01) và tỷ lệ bệnh nhân cần tăng liều trong thai kỳ cao hơn ( 47.7%, p
<0.0001). Liều tăng trung bình của quý 3 so với quý 1 là 26% đối với lamotrigine,
5% đối với carbamazepine, 11% đối với phenobarbital và 6% với valproate [118].
Thêm vào đó, nghiên cứu tại Bắc Mỹ (North American Antiepileptic Drugs and
Pregnancy Registry- NAAPR) cũng cho thấy các thuốc kháng động kinh có hiện
tượng giảm mạnh nồng độ trong máu ở giai đoạn mang thai như levetiracetam,
lamotrigine sẽ phối hợp với tần xuất cơn giật tăng trong quá trình mang thai nhưng
bù lại sẽ kết hợp với tỷ lệ thấp nguy cơ mắc dị tật ở trẻ [68]. Kết luận này phù hợp
với các phát hiện của các tác giả khác liên quan đến việc kiểm soát cơn giật của
valproate, carbamazepine, lamotrigine và levetiracetam [3],[148]. Đối với
lamotrigine và levetiracetam, 2 loại thuốc đang được sử dụng nhiều trong thai kỳ cho
sản phụ bị động kinh có một vài điểm khác biệt: tuy cả hai thuốc được chứng minh
101
đều có hiện tượng giảm mạnh nồng độ thuốc trong thai kỳ, nhưng thời điểm đạt đỉnh
sụt giảm thuốc của levetiracetam là quý 1 còn sự sụt giảm nồng độ thuốc của
lamotrigine kéo dài từ quý 1 đến giữa quý 3 [3],[42],[44],[149]. Có thể thấy việc
chỉnh thuốc của 2 loại thuốc này sẽ tương đối khác nhau: Đối với levetiracetam, cơn
giật có thể tăng hoạt động sớm ngay ở quý đầu và có thể chỉnh liều sớm cho bệnh
nhân để kiểm soát cơn. Đối với lamotrigine, cơn giật tái phát thường xuất hiện
nhiều ở quý 2 và 3 của thai kỳ, việc theo dõi nồng độ thuốc và hoạt động của cơn
giật cần được tiến hành định kỳ trong cả thai kỳ. Cả 2 loại thuốc đều cần được
giảm về liều trước mang thai ở vài tuần đầu sau đẻ nhằm tránh tình trạng ngộ độc
thuốc, đặc biệt là đối với lamotrigine. Rõ ràng, việc lựa chọn thuốc và chỉnh liều
thuốc cho bệnh nhân động kinh khi mang thai chính là thách thức đối với các bác
sỹ lâm sàng nhằm đảm bảo duy trì cân bằng giữa hiệu quả điều trị và nguy cơ gây
mắc dị tật của các thuốc kháng động kinh. Do đó, ngoài vấn đề trọng tâm là xác
định liều thuốc thấp nhất cho bệnh nhân điều trị hiệu quả tại thời điểm thụ thai và
giai đoạn mang thai sớm, việc chỉnh liều phù hợp trong quá trình mang thai cũng
cần được cân nhắc để có kết quả lý tưởng cho người bệnh. Ngoài ra, khi bệnh nhân
được chỉnh liều phù hợp ở trong quá trình chuẩn bị thụ thai, việc chỉnh liều thuốc
trong thời kỳ mang thai sẽ có tính chất chủ động và đạt được hiệu quả cao hơn.Tóm
lại, tư vấn dùng thuốc trước mang thai và trong cả quá trình mang thai cho bệnh
nhân động kinh nên được tiến hành thường quy.
Về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ trong nghiên cứu này, nhóm được tư vấn
có kết quả tốt hơn rõ ràng so với nhóm còn: có tỷ lệ sử dụng đơn trị liệu cao gấp 2,2
lần (RR=2,2; CI 95%=1,3-3,9; p=0,002), tỷ lệ không dùng valproat cao gấp 1,98 lần
(RR=1,98; CI 95%=1,01-3,9; p=0,039), không phải chỉnh thuốc cao gấp 2,7 lần
(RR=2,7; CI 95%=1,6-4,7; p=0,008) và tuân thủ điều trị cao gấp 3,4 lần (RR=3,4; CI
95%=1,8-8,5; p=0,001).
Về tuân thủ điều trị, ở nhóm được tư vấn có 4 trường hợp tự ý bỏ thuốc sau khi
biết mình có thai (01 bệnh nhân đa trị liệu có dùng valproat). 2 bệnh nhân đã khám
lại bác sỹ ngay khi có cơn giật tăng cường, 2 bệnh nhân còn lại được bác sỹ tư vấn
dùng lại thuốc và đều không có cơn giật trong thai kỳ. Ngược lại, ở nhóm không
102
được tư vấn, có tới 21 bệnh nhân tự ý giảm thuốc hoặc bỏ hẳn thuốc điều trị (trong
đó có 13 người dùng đa trị liệu). Kết quả cơn giật tăng cường trong thai kỳ ở 14/21
trường hợp có và chỉ có 2 trường hợp không có cơn trong quá trình mang thai.
Về thêm thuốc điều trị trong thai kỳ, nhóm không được tư vấn có 14 bệnh nhân
được chuyển từ đơn trị sang đa trị liệu sau khi mang thai trong khi nhóm được tư vấn
chỉ có 2 bệnh nhân (1 bệnh nhân đang dùng carbamazepine và 1 bệnh nhân đang
dùng valproate). Có 14 bệnh nhân của nhóm hai (9 người dùng valproat, 3 người
dùng carbamazepine và 2 người dùng phenobarbital) được bác sỹ thêm một loại
thuốc điều trị đồng thời giảm liều thuốc đang sử dụng nhằm tránh nguy cơ gây quái
thai của thuốc cũ. Trong đó có 8 bệnh nhân đã tự động bỏ hoặc giảm thuốc hơn nữa
sau khi được bác sỹ chỉnh liều và đều có cơn co giật lại ở vài ngày tiếp theo. Đối với
6 bệnh nhân được chỉnh liều còn lại và tuân thủ điều trị có 4/6 bệnh nhân cơn giật
tiếp tục xuất hiện. Ngược lại, cả hai bệnh nhân thêm thuốc của nhóm được tư vấn
đều tuân thủ điều trị và cơn giật không tăng hoạt động trong thai kỳ. Có thể thấy, ở
nhóm bệnh nhân không lập kế hoạch trước mang thai, việc bác sỹ thay thuốc hoặc
giảm liều của thuốc điều trị động kinh ngay sau khi bệnh nhân phát hiện mang thai
có thể làm cơn giật tăng cường hoạt động. Thật vậy, trong nghiên cứu này, có 22
bệnh nhân ở nhóm hai được chỉnh thuốc ngay sau khi phát hiện mang thai, trong đó
có 9 trường hợp dùng đa trị liệu, 17 trường hợp có dùng valproat được chỉnh liều
thuốc bằng cách: 5 trường hợp giảm liều thuốc; 9 trường hợp giảm valproat kèm
thêm thuốc khác và 3 trường hợp chuyển sang nhóm thuốc khác. Kết quả đã có
10/22 bệnh nhân có cơn giật tăng cường sau khi chỉnh thuốc (5 trường hợp do giảm
valproat, 2 trường hợp do giảm gardenal và 3 trường hợp do giảm tegretol ) và có
20/22 bệnh nhân đều còn cơn giật trong quá trình mang thai.
Từ các số liệu trên, chúng tôi nhận thấy rằng cơn co giật thường hay xuất hiện
trong thai kỳ ở nhóm không lập kế hoạch mang thai khi bệnh nhân được thay đổi
thuốc điều trị, đặc biệt là với valproat. Các nghiên cứu trước đây cũng cho thấy kết
quả tương đồng. Cụ thể hơn, nghiên cứu này có 10 bệnh nhân cơn giật tăng cường do
đổi thuốc điều trị đột ngột trong thai kỳ đều thuộc nhóm không được tư vấn. Nếu
như những bệnh nhân này không đổi thuốc và không có cơn co giật, thì tỷ lệ bệnh
103
nhân không có cơn co giật trong thai kỳ của nhóm 2 sẽ là 20/54 bệnh nhân cũng như
tỷ lệ xuất hiện cơn giật trong thai kỳ chỉ còn 34/54 trường hợp, kết quả này có xu
hướng tiến về gần sát với kết quả của nhóm được tư vấn (23/43 bệnh nhân không có
cơn giật trong thai kỳ và 21/43 trường hợp còn cơn). Thêm vào đó, do không được tư
vấn trước mang thai dẫn đến việc không tuân thủ điều trị thuốc ở 21 trường hợp của
nhóm 2, dẫn đến 14/21 bệnh nhân có cơn giật tăng cường ngay sau khi bỏ thuốc
(66,7%). Việc tự ý bỏ thuốc hoặc giảm liều thuốc điều trị mang đến nguy cơ cao cơn
giật tái phát hoặc cơn giật tăng cường (cả về tần số và mức độ nặng của cơn). Bệnh
nhân có thể hạn chế tối đa được nguy cơ này cũng như giảm thiểu ảnh hưởng của
thuốc đến thai nhi nếu được bác sỹ thần kinh tư vấn và chỉnh liều thuốc phù hợp
trước khi thụ thai. Đây chính là một sự chuẩn bị cẩn thận của cả người bệnh và bác
sỹ điều trị cho quá trình mang thai. Một lần nữa cần nhấn mạnh việc giảm liều thuốc
hoặc đổi thuốc điều trị động kinh trong thai kỳ trong đa số trường hợp đều gây nguy
cơ tăng hoạt động động kinh của mẹ cũng như không mang lại nhiều lợi ích đối với
thai nhi.
Về loại thuốc kháng động kinh dùng trong thai kỳ, tỷ lệ bệnh nhân dùng có
dùng levetiracetam và lamotrigine của nghiên cứu lần lượt là 75,3% và 4,1%; trong
đó dùng levetiracetam đơn trị liệu là 41,2%, tỷ lệ dùng valproat chỉ còn 27,8%. Theo
nghiên cứu tại Úc năm 2014, tỷ lệ dùng levetiracetam đơn trị liệu là 17,9%, dùng
lamotrigine là 37% và còn dùng valproate là 24,4% [117]. Đến năm 2020, theo báo
cáo tại Mỹ, tỷ lệ phụ nữ có thai bị động kinh dùng đơn trị liệu lamotrigine là 33% và
29% dùng levetiracetam [44]. Theo những tìm hiểu của nhóm nghiên cứu, so với các
nước phương Tây, lamotrigine ít được sử dụng hơn trong thai kỳ ở nước ta, một phần
do chưa thực hiện được xét nghiệm nồng độ thuốc trong máu thường quy cho các
bệnh nhân và chưa thăm khám được người bệnh hàng tháng trong thai kỳ để chỉnh
thuốc phù hợp. Hiện tại, việc theo dõi kiểm soát cơn co giật khi mang thai tại Việt
Nam chỉ dựa trên lâm sàng của bệnh nhân và điện não đồ, chưa có xét nghiệm định
lượng nồng độ thuốc động kinh trong máu của người bệnh như ở các nước phát triển.
Các thuốc điều trị động kinh được khuyến cáo cần theo dõi nồng độ thuốc trong máu
gồm: lamotrigine, levetiracetam, oxcarbazepine, phenytoin và topiramate. Bệnh nhân
104
được định lượng nồng độ thuốc động kinh trong máu hàng tháng trong suốt quá trình
mang thai và được chỉnh liều thuốc để có nồng độ phù hợp nhất nhằm đảm bảo kiểm
soát được cơn co giật đồng thời ít gây tác dụng phụ nhất đối với mẹ và thai nhi. Các
nghiên cứu cho thấy, nếu không dựa trên chỉ số về nồng độ thuốc động kinh trong
máu bệnh nhân để chỉnh liều thuốc trong thai kỳ thì tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tăng
cường lên tới 50% [3],[44],[68],[118]. Ngược lại, nếu liều hàng ngày được hiệu
chỉnh để giữ nồng độ thuốc trong máu nằm trong khoảng có tác dụng kiểm soát cơn
trong suốt quá trình mang thai thì chỉ có khoảng 10 % số bệnh nhân có cơn giật tăng
cường khi mang thai [3],[37],[68]. Rõ ràng, việc kiểm soát cơn động kinh trong thai
kỳ dựa vào nồng độ thuốc trong máu của người bệnh sẽ có hiệu quả hơn việc đơn
thuần chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng và điện não đồ của người bệnh. Nhưng cũng
theo các khuyến cáo chung, cho dù nồng độ thuốc trong ngưỡng điều trị vẫn cần
được chỉnh thuốc trong thai kỳ nếu cơn giật hoạt động tăng cường. Như vậy, mục
tiêu cốt lõi của quá trình quản lý về thần kinh cho các sản phụ động kinh chính là
giảm thiểu tối đa hoạt động động kinh trong thai kỳ, giúp sản phụ và thai nhi được an
toàn, khỏe mạnh [3].
Trong nghiên cứu này, mặc dù vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân sử dụng
valproat liều cao trong thai kỳ, levetiracetam đã được sử dụng phổ biến ở cả hai
nhóm và chiếm tỷ lệ cao (hơn 2/3 số bệnh nhân có dùng trong đơn hoặc đa trị liệu).
Điều này cho thấy, các bác sỹ thần kinh đã quan tâm và ứng dụng các khuyến cáo về
điều trị động kinh ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giúp cải thiện chất lượng chăm sóc
y tế cũng như mang lại nhiều lợi ích hơn cho người bệnh.
➢ Đặc điểm kết cục thai kỳ và biến cố trong quá trình mang thai của người
bệnh động kinh
Có 97 lần mang thai, tỷ lệ người bệnh đẻ mổ là 64,9%, có 27,8% số bệnh nhân đẻ
thường, tỷ lệ bỏ thai chủ động là 6,2% và có 1 trường hợp sảy thai tự nhiên (1,1%). Cân
nặng trung bình lúc sinh của trẻ ở nhóm bệnh nhân được tư vấn nhiều hơn 0,16 kg so
với nhóm có mẹ không được tư vấn (t=2,005, T-test; p=0,047). Kết quả cũng cho thấy,
số biến cố xảy ra đa phần ở nhóm không được tư vấn 16/18 trường hợp (88,9%), biến cố
hay gặp nhất là đẻ non (33,3%) và bỏ thai (33,3%).
105
Kết cục thai kỳ
Chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm
bệnh nhân được tư vấn và không được tư vấn trước mang thai về đặc điểm lâm sàng
của mẹ khi đẻ (cân nặng trung bình bệnh nhân khi đẻ, BMI trung bình bệnh nhân khi
đẻ, số kilogram tăng trung bình khi mang thai) và tuổi thai trung bình khi đẻ. Đặc
biệt, trong nghiên cứu này không có bệnh nhân nào có chỉ số BMI lúc đẻ trên 29, số
cân tăng trung bình khi mang thai của bệnh nhân chỉ là 11,37 kg (8-18 kg). Kết quả
trên có được là do phần lớn các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi sinh sống
ở nông thôn, do đó chế độ ăn sẽ không bị thừa chất gây tăng cân khó kiểm soát trong
thai kỳ như ở nhóm sản phụ sinh sống tại các thành phố.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm bệnh nhân được tư vấn và
không được tư vấn trước mang thai về cân nặng trung bình của trẻ lúc sinh ra
(p=0,047), cụ thể là cân nặng trung bình lúc sinh của trẻ ở nhóm bệnh nhân được tư
vấn nhiều hơn 0,16 kg so với nhóm có mẹ không được tư vấn (t=2,005, T-test;
p=0,047). Theo các nghiên cứu trong quần thể, việc phơi nhiễm với thuốc kháng
động kinh thời kỳ bào thai kết hợp với nguy cơ trẻ đẻ ra có cân nặng thấp (aRR 1.40;
95% CI 1.22-1.60) hoặc trẻ có chậm phát triển bào thai (SGA) (aRR 1.21; 95% CI
1.10-1.34). Một số thuốc kháng động kinh do mẹ sử dụng trong thai kỳ kết hợp tăng
2 nguy cơ này ở trẻ được sinh ra là topiramate, zonisamide, carbamazepine,
valproate, phenobarbital, trong đó topiramat là thuốc được thông báo có nguy cơ rõ
rệt nhất [75]. Ngoài ra, điều trị nhiều thuốc cũng phối hợp với tăng nguy cơ trẻ sinh
ra bị chậm phát triển thời kỳ bào thai [88],[99]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số
trẻ đẻ nhẹ cân dưới 2500 gram là 9 trẻ (2 trẻ thuộc nhóm được tư vấn và 7 trẻ thuộc
nhóm không được tư vấn); không có trường hợp nào có cân nặng dưới 2000 gram;
trong đó 5 trẻ có mẹ dùng đa trị liệu. Do số lượng trẻ đẻ nhẹ cân trong nghiên cứu
còn ít nên khi thực hiện các phép so sánh kiểm định thống kê sẽ cho kết quả có độ tin
cậy chưa cao, nhưng nhìn chung, tỷ lệ trẻ nhẹ cân khi sinh của nhóm được tư vấn
106
(4,65%) có xu hướng thấp hơn nhóm không được tư vấn (8,51%); (OR=3,58, CI
95%=0,7-18,3; p=0,16).
Tỷ lệ lựa chọn đẻ mổ trong nghiên cứu là 66,7% và chỉ có 26,8% số bệnh nhân
đẻ thường. Kết quả này có sự khác biệt so với các nghiên cứu trước đây. Thật vậy, tỷ
lệ đẻ mổ của phụ nữ bị động kinh trong các nghiên cứu dao động chỉ từ 35-41% còn
đẻ thường là 60-70% [3],[32],[118],[150]. Ở các nước phương Tây, quyết định đẻ
mổ ít khi phụ thuộc vào cơn động kinh của mẹ trừ khi cơn co giật xuất hiện trong
giai đoạn 2 của quá trình chuyển dạ hoặc sản phụ không thể phối hợp để tiến hành đẻ
thường. Ngược lại, phần lớn các sản phụ trong nghiên cứu của chúng tôi lại muốn đẻ
mổ lấy thai chủ động vì cho rằng như vậy em bé sẽ được an toàn. Đây là sự khác biệt
về tâm lý của sản phụ, gia đình sản phụ Việt Nam khi so sánh với phương Tây.
Thêm nữa, đa phần các bệnh nhân của nghiên cứu này có cơn giật tính chất nặng
(cơn có co cứng co giật toàn thân) do đó số bệnh nhân lựa chọn đẻ mổ chiếm tỷ lệ
cao hơn so với các nghiên cứu khác.
Biến cố trong thai kỳ
Các biến cố của mẹ và con trong thai kỳ được ghi nhận bao gồm: bỏ thai chủ
động, sảy thai, đẻ non, có cơn giật trong quá trình chuyển dạ và trẻ có dị tật bẩm
sinh. Trong nghiên cứu này số biến cố xảy ra đa phần ở nhóm không được tư vấn
chiếm tỷ lệ 88,9% (16/18 trường hợp), biến cố hay gặp nhất là đẻ non (33,3%) và bỏ
thai (33,3%).
Biến cố sản khoa xảy ra trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 6 ca bỏ thai
chủ động, 6 ca đẻ non, 1 ca sảy thai. Bệnh nhân bị sảy thai thuộc nhóm không được
tư vấn, đây là bệnh nhân đã có tiền sử sảy thai 2 lần. Ngoài ra, nhóm không được tư
vấn có 5 ca đẻ non với 4 bệnh nhân còn cơn trước và trong khi mang thai, 1 bệnh
nhân đã cắt cơn trước mang thai 3 năm nhưng có cơn giật tái phát trong thai kỳ. Cả 5
bệnh nhân đều có cơn giật trong thai kỳ và có cơn chuyển dạ sớm, trong đó 3 ca đẻ
thường và 2 ca đẻ mổ. Ở nhóm được tư vấn có 01 ca đẻ non, bệnh nhân mang thai
đôi, đẻ mổ ở tuần thứ 34, tổng cân nặng của 2 thai là 4 kg. Kết quả phân tích cho
107
thấy, tỷ lệ biến cố xảy ra với mẹ và con cao gấp 6,37 lần ở nhóm không được tư vấn
trước mang thai so với nhóm được tư vấn (RR=6,37; CI 95%=1,55-26,21; p=0,002).
Bỏ thai chủ động cũng được đánh giá là một biến cố trong thai kỳ của người
bệnh động kinh. Trong nghiên cứu này có 6 bệnh nhân lựa chọn bỏ thai chủ động và
đều thuộc nhóm không được tư vấn. Đây là những ca đang dùng thuốc kháng động
kinh với liều chưa hiệu chỉnh để chuẩn bị mang thai, các bệnh nhân đều có thai ngoài
kế hoạch, bệnh nhân bỏ thai vì lo sợ tác dụng phụ của thuốc kháng động kinh và tác
động có hại của cơn động kinh đối với thai nhi. Các bệnh nhân này đều không thông
báo với bác sỹ thần kinh việc quyết định bỏ thai. Nếu những trường hợp trên được tư
vấn và quản lý tốt thì quyết định bỏ thai chắc chắn sẽ được cân nhắc cẩn thận và hợp
lý hơn.
Một biến cố quan trọng khác đối với sản phụ bị động kinh là có cơn giật xuất
hiện trong quá trình chuyển dạ. Tỷ lệ xảy ra biến cố này dao động chỉ khoảng 1-
3,5% [3],[40]. Cơn giật xuất hiện có thể do sự tăng thông khí của bệnh nhân trong
quá trình chuyển dạ và cần được điều trị kịp thời bằng benzodiazepines tiêm tĩnh
mạch. Tại các nước Âu Mỹ, lorazepam là thuốc tối ưu được lựa chọn và được chuẩn
bị sẵn cho tất cả sản phụ bị động kinh. Liều khuyến cáo nên sử dụng là 1 mg đường
tĩnh mạch cho cơn động kinh không có co giật toàn thân và 2 mg đường tĩnh mạch
đối với cơn động kinh co giật toàn thể [3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 04
bệnh nhân có cơn co giật xuất hiện trong vòng 24 giờ khi chuyển dạ (chiếm tỷ lệ
4,4%), gồm 03 bệnh nhân thuộc nhóm không được tư vấn và 01 bệnh nhân thuộc
nhóm được tư vấn. Kết quả này có cao hơn so với các nghiên cứu khác. Sự khác biệt
này có thể do cách lựa chọn khác nhau về khoảng thời gian xung quanh thời điểm
chuyển dạ và do sự khác nhau về bệnh nhân được lựa chọn giữa các nghiên cứu. Như
đã đề cập ở trên, bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là các trường hợp đến
khám tại chuyên khoa thần kinh tuyến trung ương, do đó tỷ lệ bệnh nhân có hoạt
động co giật chưa ổn định sẽ cao hơn so với tỷ lệ này ở các nghiên cứu trong quần
thể. Nếu cơn giật của bệnh nhân chưa ổn định trong thai kỳ thì nguy cơ xuất hiện cơn
khi chuyển dạ của những bệnh nhân này cũng sẽ tăng lên. Đối với các bệnh nhân có
cơn giật khi chuyển dạ trong nghiên cứu này, có 03 bệnh nhân chuyển sang đẻ mổ
108
chủ động vì xuất hiện nhiều cơn giật cũng như bệnh nhân không hợp tác để tiếp tục
đẻ đường dưới, chỉ có 1 bệnh nhân tiếp tục đẻ thường. Các sản phụ đều được cắt cơn
co giật bằng midazolam đường tĩnh mạch và được theo dõi tim thai liên tục ngay khi
có cơn giật xảy ra. Nhịp tim thai nhi có thể bị ức chế tạm thời do cơn co giật của
người mẹ gây ra nhưng sẽ trở lại hoạt động như bình thường trong vòng năm phút
sau cơn. Cả 4 trường hợp này đều có kết cục sản khoa an toàn cho mẹ và em bé.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ghi nhận được 01 trường hợp trẻ đẻ ra có
dị tật bẩm sinh. Mẹ của trẻ thuộc nhóm không được tư vấn thần kinh trước mang
thai; không bổ sung acid folic trước mang thai, dùng thuốc Tegretol (carbamazepine)
liều 800 mg/ngày trong cả thai kỳ. Người bệnh có đi khám sản khoa và siêu âm sản
khoa tại phòng khám tư nhân ở tuần thứ 13 và tuần thứ 30 của thai kỳ nhưng không
phát hiện được dị tật của trẻ. Trẻ được đẻ thường, cân nặng 3000 gram, có dị tật
thoát vị màng não tủy vùng lưng; được phẫu thuật dị tật lúc 12 tháng tuổi. Hiện tại
trẻ phát triển tâm thần, vận động đều bình thường nhưng vẫn còn rối loạn cơ tròn
kiểu không tự chủ. Theo các nghiên cứu, carbamazepine có kết hợp với nguy cơ mắc
trung bình các dị tật bẩm sinh ở trẻ, đặc biệt cao là tật nứt đốt sống (tỷ lệ mắc dị tật
thoát vị não tủy ở nhóm tiếp xúc carbamazepine thời kỳ bào thai là 0,95%, cao gấp 7
lần so với tỷ lệ mắc của quần thể). Đặc biệt hơn, khi tiếp xúc với valproat thời kỳ
bào thai, tỷ lệ này còn cao gấp 10-20 lần so với tỷ lệ mắc trung bình của quần thể
[9],[52]. Một điều may mắn là các trẻ có tiếp xúc với valproat thời kỳ bào thai trong
nghiên cứu này đều không có dị tật nặng bẩm sinh. Tuy nhiên, để có được số liệu
đầy đủ hơn về các dị tật của trẻ, cần phải tiến hành nghiên cứu phối hợp với nhiều
chuyên khoa cũng như mở rộng quy mô nghiên cứu.
4.1.2. Đặc điểm cận lâm sàng
4.1.2.1.Điện não đồ
Tỷ lệ bệnh nhân có điện não đồ bất thường ở nhóm không được tư vấn cao gấp
1,95 lần so với nhóm được tư vấn (RR=1,95; CI 95%=1,05-2,05; p=0,038). Các bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được làm điện não đồ tối thiểu 01 lần khi đến
viện thăm khám trong quá trình mang thai. Trong số 97 bản ghi điện não gồm 06 bản
109
ghi trong cơn động kinh của bệnh nhân (hình 4.1) và 91 bản ghi điện não ngoài cơn
khi các bệnh nhân đến viện khám bệnh với thời gian từ lúc cơn giật gần nhất của
bệnh nhân xảy ra đến khi làm điện não là trên 24 giờ (phần lớn số bệnh nhân là trên
72 giờ). Điều này giải thích cho kết quả có tới 2/3 số bản ghi điện não không ghi
nhận được bất thường. Ngoài ra, trong số 25 bản ghi điện não ngoài cơn có hình ảnh
bất thường chỉ có 11 bản ghi có hình ảnh kịch phát dạng động kinh, còn lại hình ảnh
bất thường thấy được trên điện não ngoài cơn là các sóng chậm không đặc hiệu
thường khu trú một bên bán cầu. Khi đối chiếu với phim chụp sọ não của các bệnh
nhân này, chúng tôi phát hiện đa số có tổn thương cùng bên với sóng chậm trên điện
não (hình 4.4).
Hình 4.1. Điện não đồ trong cơn ngưng hành vi: phức hợp kịch phát nhọn-sóng
chậm 2-3 Hz kéo dài 10 giây (bệnh nhân Nguyễn Mai L. trong nghiên cứu)
110
Hình 4.2. Điện não đồ trong cơn co giật toàn thân: phức hợp kịch phát đa nhọn- sóng chậm 2-3 Hz kéo dài 12 giây (bệnh nhân Nguyễn Tú A trong nghiên cứu)
Hình 4.3. Điện não đồ ngoài cơn: sóng chậm thành nhịp ngắt quãng tần số 3-4 Hz bán cầu phải (bệnh nhân Nguyễn Thị Ph. trong nghiên cứu)
111
Hình 4.4. Điện não đồ ngoài cơn: các kịch phát dạng nhọn-sóng chậm vùng trán thái dương bên phải (bệnh nhân Phạm Thị Mỹ L. trong nghiên cứu)
Về tổng thể, độ đặc hiệu của sóng kịch phát dạng động kinh giữa các cơn trong
chẩn đoán động kinh ở người trưởng thành là khá cao, hơn 90% nếu người phân tích
điện học não là những bác sỹ có kinh nghiệm. Dạng kịch phát chu kỳ ở các chuyển
đạo bên (Lateralized periodic discharges - LPDs) là loại hình thường thấy trong các
trường hợp tổn thương não cấp tương đối lớn như đột quỵ, viêm não hoặc các tổn
thương ác tính tiến triển nhanh. Điện não của các bệnh nhân có cơn động kinh triệu
chứng cấp tính cũng thường gặp kịch phát dạng này.Tuy nhiên, các bệnh nhân được
lựa chọn trong nghiên cứu của chúng tôi không có tình trạng bệnh não cấp tính, do
đó dạng kịch phát có tính chất chu kỳ này không được thấy trong các bản ghi. Dạng
sóng kịch phát bất thường chúng tôi ghi được ngoài cơn là phức hợp nhọn, đa nhọn
kèm sóng chậm xuất hiện ngắt quãng khu trú ở 1 vài chuyển đạo, có thể kèm theo
hiện tượng đối pha, gợi ý ổ phát sinh cơn động kinh. Như vậy, việc ghi điện não đa
số là điện não ngoài cơn tại thời điểm xa cơn co giật gần nhất xuất hiện của người
bệnh, thời gian làm điện não ngắn cũng như phần lớn người bệnh đều đang điều trị
thuốc sẽ làm giảm khả năng xuất hiện các hoạt động kịch phát dạng sóng động kinh.
112
Trong nghiên cứu này, xác suất có điện não đồ bình thường ở nhóm động kinh
toàn thể cao gấp 1,57 lần so với nhóm cơn cục bộ (RR=1,57; CI 95%=1,13-2,17;
p=0,0002), cao gấp 1,46 lần ở nhóm không giật trước mang thai so với nhóm còn
giật, cao gấp 1,52 lần ở nhóm không giật thai kỳ so với nhóm còn giật trong thai kỳ;
cao gấp 1,53 lần ở nhóm cơn giật ổn định so với nhóm cơn giật tăng cường; cao gấp
1,73 lần ở nhóm có tần suất cơn dưới 2 lần/tháng so với nhóm có tối thiểu 2 cơn
/tháng. Thêm vào đó, xác suất có điện não đồ bất thường ở nhóm động kinh cục bộ
không có cơn toàn thể hóa cao gấp 1,9 lần so với nhóm động kinh có co giật co cứng
(gồm động kinh toàn thể và động kinh cục bộ toàn thể hóa) (RR=1,9; 95% CI=1,14-
3,47; p=0,023). Như vậy, điện não đồ bất thường có xác suất gặp cao hơn ở các
nhóm người bệnh có hoạt động động kinh chưa ổn định. Tuy nhiên, các nghiên cứu
lại cho thấy: điện não đồ bình thường không thể loại trừ hoàn toàn động kinh
(khoảng 10%- 20% bệnh nhân bị động kinh giai đoạn hoạt động không có sóng kịch
phát dạng động kinh giữa các cơn) cũng như độ nhạy trong điện não đồ thường quy
giúp phát hiện kịch phát dạng động kinh giữa các cơn (interictal epileptiform
discharges-IED) ở bệnh nhân động kinh chỉ là 20%-50% (dù đã ghi điện não nhiều
lần, kéo dài thời gian làm, ghi điện não trong giấc ngủ hoặc sử dụng các điện cực đặc
biệt giúp tăng độ nhạy này) [151]. Do đó, dù các biểu hiện bất thường dạng sóng
động kinh trên điện não đồ là yếu tố tiên lượng nguy cơ cơn giật tái phát có giá trị
nhưng việc chỉnh liều thuốc cho bệnh nhân vẫn chủ yếu dựa vào mức độ hoạt động
của cơn giật trên lâm sàng [132].
Ngược lại với hoạt động kịch phát dạng động kinh, sóng chậm khu trú hoặc lan
tỏa thường không đặc hiệu, nó không chỉ điểm cho tổn thương não tại vị trí tương
ứng và không gợi ý động kinh do tính chất phóng điện và lan tỏa kích thích rất nhanh
của vùng neuron bị tổn thương đến các vùng khác nhau của vỏ não, trừ một ngoại lệ
là những hoạt động delta thành nhịp ngắt quãng khu trú ở thái dương (pattern of
temporally-located intermittent rhythmic delta activity - TIRDA) chỉ điểm ổ động
kinh xuất phát từ thùy thái dương [24],[151]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng
phát hiện được vài bản ghi có hoạt động delta thành nhịp ngắt quãng khu trú vùng
trán và thái dương, trong đó có hai bệnh nhân có tổn thương não thái dương cùng
bên trên phim chụp MRI sọ não (hình 4.3 và 4.5).
113
Hình 4.5. Điện não đồ ngoài cơn: sóng chậm thành nhịp ngắt quãng tần số 4-5 Hz vùng thái dương bên phải và MRI sọ não: tổn thương teo hồi hải mã và thái dương trong bên phải (bệnh nhân Phạm Thị H. trong nghiên cứu)
114
4.1.2.2. Cộng hưởng từ não
Tỷ lệ bệnh nhân có hình ảnh MRI sọ não chưa thấy bất thường chiếm cao nhất
(68,04%). Trong nhóm có MRI não bất thường, tổn thương nhiều vị trí (đa phần vẫn
ở cùng 1 bên bán cầu) hay gặp nhất 13,04%, tổn thương khu trú thái dương và khu
trú trán chiếm 10,31% và 8,25%. Các tổn thương thấy được trên cộng hưởng từ
bao gồm: các di chứng viêm nhiễm hệ thần kinh trung ương (12,37%), chấn
thương sọ não (10,31%); u não, màng não đã phẫu thuật (2,05%) còn lại là các
nguyên nhân dị dạng mạch não (4,12%), loạn sản khu trú vỏ não (2,05%) và xơ
teo hồi hải mã (1,03%). Như vậy nguyên nhân của động kinh hay gặp nhất trong
nghiên cứu là các di chứng chấn thương sọ não và di chứng viêm nhiễm hệ thần
kinh (hình 4.7- 4.10). Các tổn thương này có thể là khuyết vỏ não khu trú và/
hoặc teo não vùng vỏ, dưới vỏ.
Nhóm có cơn động kinh cục bộ có xác suất có tổn thương não trên MRI cao
gấp 5,7 lần so với nhóm động kinh toàn thể (RR=5,7, CI 95%=2,6-12,6; p=0,001).
Ngoài ra, xác suất MRI não bình thường ở nhóm không co giật trước mang thai cao
gấp 1,38 lần so với nhóm còn cơn giật (RR=1,38, CI 95%=1,06-1,78; p=0,022), ở
nhóm không cơn giật trong thai kỳ cao gấp 1,34 lần so với nhóm còn cơn giật trong
thai kỳ (RR=1,34, CI 95%=1,04-1,73; p=0,037), ở nhóm có tần suất cơn dưới 2
lần/tháng cao gấp 1,42 lần so với nhóm có tối thiểu 2 cơn/tháng (RR=1,42; CI
95%=1,06-1,94; p=0,014). Điều này cũng có nghĩa, MRI não bất thường có xác suất
gặp cao hơn ở các nhóm người bệnh có hoạt động động kinh chưa ổn định. Chúng tôi
cũng nhận thấy một vài bệnh nhân có hình ảnh sóng chậm khu trú trên điện não đồ
nhưng hình ảnh MRI não lại bình thường; hay bệnh nhân có cộng hưởng từ bất
thường nhưng điện não đồ lại hoàn toàn bình thường. Ngoài ra, khi cả điện não đồ và
cộng hưởng từ đều có bất thường khu trú thì vị trí tổn thường đôi khi không hoàn
toàn trùng khớp. Như vậy, có thể gặp các tình huống: vùng não khởi phát cơn động
kinh nằm ở sâu hơn nên vị trí có sóng bất thường trên điện não thực chất chỉ là vùng
vỏ não bị kích thích bởi hiện tượng phóng điện; hoặc bề mặt vỏ não vùng gây động
kinh kích thước nhỏ quá nhỏ nên trên điện não thường quy 10/20 không phát hiện
được hoạt động bất thường; và có thể vùng não tổn thương thấy được trên cộng
hưởng từ không phải là ổ khởi phát cơn động kinh.
115
Hình 4.6. Hình ảnh AVM trán trái (bệnh nhân Nguyễn Thị Y. trong nghiên cứu)
Hình 4.7. Khuyết não trán đỉnh bên trái sau chấn thương sọ não
(bệnh nhân Lương Lan H. trong nghiên cứu)
Chúng tôi muốn đề cập đến bệnh cảnh của ba trường hợp trong nghiên cứu
gồm 01 bệnh nhân sau mổ phẫu thuật u não thái dương trong, 01 bệnh nhân có loạn
sản vỏ não thái dương và 01 trường hợp dị dạng mạch não AVM đã can thiệp. Các
116
bệnh nhân đều được dùng loại thuốc động kinh phù hợp với loại cơn và đủ liều
nhưng vẫn còn cơn co giật. Bệnh nhân có phẫu thuật u nang thái dương thuộc nhóm
được tư vấn; đã cắt cơn giật trước mang thai 15 tháng, được chỉnh thuốc điều trị
trước mang thai 3 tháng, nhưng có cơn giật cục bộ toàn thể hóa tái phát ở quý ba của
thai kỳ và khi chuyển dạ nên người bệnh được mổ đẻ cấp cứu. Đối với trường hợp có
loạn sản vỏ não thùy thái dương, bệnh nhân còn nhiều cơn cả trước và trong quá
trình mang thai, bệnh nhân có cơn động kinh cục bộ phức tạp, hay quên thuốc hoặc
tự giảm liều thuốc dù đã được tư vấn trước và trong khi mang thai. Ngược lại, bệnh
nhân có tổn thương dị dạng mạch não AVM tuy có nhiều cơn trước mang thai nhưng
sau khi được tư vấn chỉnh thuốc, bệnh nhân tuân thủ tốt việc dùng thuốc và thời gian
không cơn trước mang thai là 17 tháng. Người bệnh không có cơn giật trong quá
trình mang thai và chuyển dạ; đẻ thường đủ tháng an toàn.
Hình 4.8. AVM bán cầu phải sau nút mạch 02 lần
(bệnh nhân Nguyễn Thị H. trong nghiên cứu)
117
Hình 4.9. Loạn sản vỏ não thái dương bên phải
(bệnh nhân Nguyễn Thị O. trong nghiên cứu )
Hình 4.10. Khuyết não thái dương bên phải sau phẫu thuật u não
(bệnh nhân Nguyễn Thị Ph. trong nghiên cứu)
118
4.2. Một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ và
kết cục thai kỳ.
4.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn giật trong thai kỳ
Theo đa số các nghiên cứu, tần suất cơn giật trong thai kỳ tăng lên ở khoảng
17-33% bệnh nhân bị động kinh, cơn giật khó kiểm soát ở khoảng 15-35% và cải
thiện ở khoảng 1/3-1/2 số bệnh nhân mà không phụ thuộc vào loại cơn giật và không
liên quan đến việc kiểm soát cơn trước mang thai [3],[37],[118]. Tuy nhiên, kết quả
trong một vài nghiên cứu khác lại cho rằng yếu tố tiên lượng quan trọng nhất đối với
hoạt động của cơn giật trong quá trình mang thai là việc có xuất hiện cơn co giật
trong tháng ngay trước khi mang thai, yếu tố tiên lượng độc lập tiếp theo là cơn cục
bộ (so với cơn toàn thể) và việc điều trị đa trị liệu [43],[118],[144]. Cụ thể hơn, phụ
nữ bị động kinh nếu còn cơn giật ngay trong tháng trước khi có thai sẽ có nguy cơ
cao gấp 15 lần về khả năng có cơn co giật trong quá trình mang thai (OR=15, 95%
CI 9-25)[43]. Hơn nữa, khi người bệnh không có cơn giật tối thiểu 1 năm trước
mang thai thì tỷ lệ không có cơn động kinh trong suốt quá trình mang thai sẽ đạt tới
80-90% [3],[37],[42],[43]. Như vậy, thời gian cắt cơn trước thụ thai của người bệnh
càng dài sẽ càng đảm bảo khả năng họ không có cơn trong suốt thai kỳ. Nghiên cứu
của chúng tôi cũng cho kết quả gần tương tự: tỷ lệ bệnh nhân không có cơn co giật
trong thai kỳ của nhóm không có cơn co giật tối thiểu 1 năm trước khi mang thai là
27/38 bệnh nhân (chiếm 71,1%); đặc biệt tỷ lệ này ở nhóm được tư vấn là 22/27
bệnh nhân (chiếm 80,6%) và nguy cơ bệnh nhân còn cơn giật hoạt động trong thai kỳ
cao gấp 3,1 lần ở nhóm còn cơn giật trước mang thai so với nhóm không có cơn tối
thiểu 1 năm trước mang thai (RR=3,1; 95% CI=1,87-5,4; OR=21,68; CI 95%=7,24-
64,97; p=0,001).
Đối với cơn giật tái phát trong thai kỳ, các kết quả nghiên cứu hồi cứu cho
thấy: tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tái phát sau dừng thuốc 6-12 tháng ở người bệnh
không có cơn giật từ 2-5 năm kèm dừng thuốc điều trị 15-30%); phụ thuộc vào hội
chứng động kinh của bệnh nhân và một vài yếu tố khác mang tính cá thể [132].
Trong khi đó, tỷ lệ người bệnh có cơn giật tái phát trong thai kỳ ở nhóm đã kiểm soát
cơn giật tối thiểu 1 năm trước mang thai nhưng vẫn duy trì thuốc chỉ là 10%, kết quả
này phản ánh việc cơn giật trước thai kỳ ổn định kết hợp duy trì thuốc hợp lý sẽ đảm
119
bảo cho bệnh nhân có một quá trình mang thai an toàn hơn [3]. Nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận 11 bệnh nhân có cơn giật tái phát trong thai kỳ, gồm cả 4/4 bệnh
nhân của nhóm không dùng thuốc trước mang thai (100%) và 7/34 bệnh nhân của
nhóm cắt cơn 01 năm nhưng vẫn duy trì thuốc. Như vậy, tình trạng bệnh nhân không
có cơn động kinh tối thiểu 1 năm trước mang thai kết hợp với việc duy trì thuốc có
xu hướng có tác động tích cực đến hoạt động của cơn giật khi mang thai.
Tỷ lệ bệnh nhân còn cơn giật hoạt động trong thai kỳ cao gấp 1,39 lần ở nhóm
đa trị liệu ( RR=1,39; CI 95%=1,06-3,91;p=0,022) cũng như tỷ lệ bệnh nhân có cơn
giật tăng cường trong thai kỳ cao gấp 1,72 lần ở nhóm đa trị liệu (RR=1,72; Ci
95%=1,003-2,01;p=0,036) so với nhóm đơn trị liệu. Rõ ràng, việc bệnh nhân phải
dùng nhiều loại thuốc kháng động kinh đã thể hiện cơn động kinh có tính chất khó
kiểm soát. Khi bệnh nhân mang thai kết hợp với tình trạng lo lắng, mất ngủ sẽ là yếu
tố kích hoạt tăng cường cơn co giật. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân dùng thuốc đa trị liệu
chỉ chiếm 1/3 số bệnh nhân trong nghiên cứu này, thể hiện xu hướng tiến bộ trong
điều trị động kinh thời gian gần đây, đó là hạn chế dùng đa trị liệu, lựa chọn tối ưu
hóa loại thuốc ngay từ trước khi mang thai, hạn chế tương tác thuốc nhằm giảm thiểu
tác dụng phụ của thuốc cho bệnh nhân. Tóm lại, việc lựa chọn được loại thuốc điều
trị tối ưu cho bệnh nhân ở giai đoạn trước mang thai là một trong những mục tiêu cốt
lõi của quá trình quản lý và tư vấn trước mang thai.
Ở nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân có cơn giật tăng cường ở nhóm có cơn động
kinh cục bộ cao gấp 1,26 lần so với động kinh toàn thể (RR=1,26; CI 95%=1,1-2,28;
p=0,007), đặc biệt cao gấp 1,74 lần ở nhóm động kinh cục bộ không kèm co giật co
cứng so với nhóm còn lại (RR=1,74; CI 95%=1,06-2,84; p=0,043). Cơn cục bộ tuy
không có tính chất nặng nề như cơn giật toàn thể nhưng sẽ khó khăn hơn để kiểm
soát cơn hoàn toàn. Điều này sẽ lý giải được thực tế: dù số cơn giật của các bệnh
nhân động kinh có thể tăng cường trong thai kỳ nhưng đa phần người bệnh vẫn có
kết cục thai kỳ an toàn trong các nghiên cứu cộng đồng (tỷ lệ đạt tới 90%).
Có 06 yếu tố được chúng tôi lựa chọn để đưa vào phân tích hồi quy Binary
Logistic với biến phụ thuộc là cơn giật tăng cường trong thai kỳ và cơn giật còn xuất
hiện trong thai kỳ bao gồm: Số cơn giật trung bình trước khi mang thai (lần/tháng);
không giật 1 năm trước mang thai (có/không); tư vấn trước mang thai (có/không);
120
tuân thủ điều trị (có/không); đa trị liệu (có/không); bất thường điện não đồ
(có/không). Kết quả phân tích tìm ra được tư vấn trước mang thai với OR= 2,86 (CI
95%: l,02-8,05; p=0,046) là yếu tố độc lập liên quan đến cơn giật tăng cường trong
thai kỳ và cắt cơn tối thiểu 01 năm trước mang thai với OR= 8,68 (CI 95%: 1,15-
65,23; p=0,036) là yếu tố độc lập tác động đến cơn giật còn xuất hiện trong thai kỳ.
Từ kết quả trên có thể thấy ngoài yếu tố chủ quan của bệnh nhân là có cơn giật ổn
định trước mang thai tối thiểu 01 năm, việc tư vấn trước mang thai là yếu tố khách
quan có khả năng cải thiện chất lượng để từ đó kiểm soát hiệu quả cơn co giật trong
thai kỳ cho người bệnh.
4.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết cục thai kỳ
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đẻ mổ
Tỷ lệ đẻ mổ cao gấp 1,49 lần ở nhóm còn co giật trong thai kỳ; cao gấp 1,47
lần ở nhóm cơn giật tăng cường trong thai kỳ; gấp 1,49 lần ở nhóm có tần suất cơn
giật tối thiểu 2 lần/tháng so với nhóm còn lại tương ứng. Trong phân tích Binary
logistic, không co giật trong thai kỳ với OR= 5,21 (CI 95%: l,78-15,2; p=0,003) và
cân nặng của trẻ với OR=6,98 (CI 95%:1,52-31,94) là 2 yếu tố độc lập liên quan đến
quyết định mổ đẻ của mẹ.
Tỷ lệ lựa chọn đẻ mổ trong nghiên cứu là 66,7%, chỉ có 26,8% số bệnh nhân đẻ
thường. Kết quả này có hơi khác biệt so với các nghiên cứu trước đây. Thật vậy, tỷ lệ
đẻ thường của phụ nữ bị động kinh trong các nghiên cứu được tham khảo dao động
từ 60-70% [3],[32],[118],[150]. Thông thường, chỉ khi người bệnh động kinh có cơn
co giật xuất hiện trong giai đoạn hai của quá trình chuyển dạ hoặc sản phụ không thể
phối hợp để tiến hành đẻ thường, việc mổ đẻ cho người bệnh mới được bác sỹ sản
khoa tiến hành. Theo một nghiên cứu lớn tại Nauy, tỷ lệ đẻ mổ trong nhóm sản phụ
bị động kinh (gồm đang dùng thuốc kháng động kinh và không dùng thuốc) cao hơn
có ý nghĩa so với nhóm sản phụ trong quần thể (OR =1,4, 95% CI=1,3-1,6). Đặc
biệt, tỷ lệ đẻ mổ ở nhóm sản phụ bị động kinh dùng thuốc trong thai kỳ còn cao hơn
khác biệt (gấp 1,6 lần so với tỷ lệ trong quần thể, OR=1,6; 95% CI=1,4-1,9) [66].
Ngoài ra, tỷ lệ bệnh nhân cần can thiệp trong quá trình chuyển dạ (như tiêm oxitoxin,
can thiệp foxep) của nhóm sản phụ bị động kinh cũng tăng hơn so với bệnh nhân đẻ
thường trong quần thể (OR=1,3 (95% CI =1,1-1,4). Mặc dù các nghiên cứu đều cho
121
rằng hơn 90 % sản phụ bị động kinh sẽ có một quá trình mang thai và chuyển dạ
suôn sẻ, nhưng rõ ràng nguy cơ biến chứng sản khoa xảy ra với người bệnh động
kinh vẫn cao hơn khác biệt so với sản phụ khỏe mạnh. Do đó, việc bệnh nhân được
tư vấn và quản lý chặt chẽ trong quá trình mang thai chắc chắc sẽ giúp phát hiện sớm
cũng như xử trí các nguy cơ và biến chứng kịp thời hơn.
Chúng tôi nhận thấy thấy tỷ lệ đẻ thường ở nhóm không có cơn giật tăng cường
trong thai kỳ cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có cơn giật tăng cường
(p=0,003, OR=6 với CI 95%:1,6-22,3). Kết quả cũng tương tự khi so sánh giữa
nhóm không có cơn giật trong thai kỳ với nhóm còn cơn giật trong thai kỳ (p= 0,025,
OR =3,1 với CI 95%:1,2-8,2). Việc cơn giật được kiểm soát tốt trước và trong quá
trình mang thai dường như có tác động đến việc lựa chọn phương thức đẻ của người
bệnh trong nghiên cứu này. Ngược lại, kết quả trong các nghiên cứu lớn ở phương
Tây cho thấy, hầu hết phụ nữ bị động kinh có thể đẻ thường và phương thức sinh đẻ
do các bác sỹ sản khoa chỉ định [3]. Sự xuất hiện của một cơn động kinh trong quá
trình chuyển dạ không là yếu tố quyết định để thay đổi cách thức đẻ đối với bệnh
nhân động kinh. Điều quan trọng nhất là có thể điều trị được cơn co giật và dùng
thuốc dự phòng cơn. Tuy nhiên, thời kỳ chuyển dạ là thời điểm tăng nguy cơ xuất
hiện co giật. Thuốc chống động kinh (AED) không được bỏ qua trong thời kỳ này.
Cơ quan đăng ký Kerala của bệnh động kinh và mang thai báo cáo rằng khả năng
cơn co giật tái phát cao nhất trong ba ngày là ngày trước khi sinh, ngày đẻ, và
ngày sau đẻ [43]. Việc cần duy trì nồng độ thuốc ổn định điều trị động kinh giúp
sản phụ bị động kinh không có cơn co giật trong quý ba và trong quá trình chuyển
dạ. Sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân lựa chọn đẻ mổ trong nghiên cứu của chúng
tôi so với các nghiên cứu khác có thể do việc lựa chọn bệnh nhân của nghiên cứu
(đa phần các bệnh nhân của nghiên cứu này có cơn giật tính chất nặng dẫn đến
bệnh nhân phải đến cơ sở khám thần kinh tuyến trung ương để theo dõi và nhập
viện trong khi các nghiên cứu khác lựa chọn thu thập bệnh nhân theo số liệu lưu
trữ hồ sơ) cũng như tâm lý khác biệt giữa sản phụ; gia đình người Việt và phương
Tây (phần lớn các sản phụ trong nghiên cứu chủ động đề nghị được đẻ mổ lấy
thai vì cho rằng đẻ mổ sẽ đảm bảo em bé được sinh ra an toàn).
122
Mặt khác, cần quan tâm việc điều trị giảm đau và thiết kế tối ưu hóa phòng đẻ
cho sản phụ bị động kinh có chỉ định đẻ đường dưới (đẻ thường). Sản phụ nên được
bác sỹ gây mê tư vấn điều trị trước và trong quá trình chuyển dạ. Tại Hoa Kỳ, các
bác sỹ khuyến khích bệnh nhân bị động kinh sử dụng giảm đau gây tê trục thần kinh
(neuroaxial) (gồm gây tê ngoài màng cứng và gây tê tủy sống) trong khi chuyển dạ.
Nhiều phụ nữ có thể ngủ một giấc ngắn hoặc ngủ trong giai đoạn đầu tiên khi chuyển
dạ nhờ dùng một liều thuốc an thần thích hợp, từ đó giảm thiểu hậu quả của thiếu
ngủ và các căng thẳng liên quan đến đau. Cũng cần tư vấn cho gia đình sản phụ để
sản phụ nghỉ ngơi, giảm các tác động từ bên ngoài. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
chưa thể đánh giá được chính xác quá trình chăm sóc cho người bệnh giai đoạn
chuyển dạ-sinh con vì đa phần bệnh nhân lựa chọn đẻ tại tuyến cơ sở (có 2 trường
hợp tự chuyển dạ tại nhà). Thêm nữa, phần lớn thông tin của quá trình chuyển dạ
được thu thập qua lời mô tả của bệnh nhân và người nhà, nên chưa thể lượng giá
được chính xác quá trình này tại các cơ sở sản khoa. Ở các nghiên cứu quy mô lớn
hơn trong tương lai, sẽ cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bác sỹ chuyên khoa thần
kinh, sản khoa và sơ sinh để chăm sóc, điều trị hiệu quả người bệnh động kinh và em
bé trong cả quá trình thụ thai, mang thai, chuyển dạ và hậu sản.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân được tư vấn, bệnh nhân
tuân thủ điều trị trong thai kỳ, bệnh nhân không có cơn giật tối thiểu trước mang thai 01
năm, bệnh nhân có cơn giật cục bộ, có điện não bất thường và bệnh nhân có tổn thương
não trên MRI sọ não giữa hai nhóm bệnh nhân đẻ thường và đẻ mổ không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
Kết quả của phân tích hồi quy Binary logistic cho thấy: yếu tố không co giật
trong thai kỳ (OR=5,21; CI 95%:l,784-15,203; p=0,003) và cân nặng của trẻ
(OR=6,98; CI 95%:1,524-31,944; p=0,012) là 2 yếu tố độc lập liên quan đến quyết
định mổ đẻ của mẹ. Có thể suy ra, khi cơn giật được kiểm soát tốt trong thai kỳ cũng
như thai nhi phát triển thuận lợi sẽ khuyến khích người bệnh động kinh lựa chọn đẻ
thường.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu thập số liệu của quá trình chuyển dạ-sinh
con của người bệnh bằng cách đặt các câu hỏi để người nhà hoặc bệnh nhân trả lời
123
qua điện thoại hoặc hỏi trực tiếp khi bệnh nhân khám lại chuyên khoa thần kinh sau
đẻ. Đối với nhóm bệnh nhân được tư vấn, chúng tôi có thêm phần trao đổi thông tin
người bệnh và hội chẩn qua điện thoại với bác sỹ sản khoa trước khi bệnh nhân
chuyển dạ đẻ thường hoặc đẻ mổ. Tuy vậy, nghiên cứu vẫn có nhược điểm là không
trực tiếp thăm khám được người bệnh lúc chuyển dạ; không thu thập được số liệu từ
hồ sơ sản khoa của người bệnh; do đó sẽ có sai số của việc nhớ lại ở đối tượng được
phỏng vấn cũng như thiết sót các thông tin.
Các yếu tố ảnh hưởng đến biến cố trong thai kỳ của mẹ và con
Trong nghiên cứu này: tỷ lệ biến cố xảy ra với mẹ và con cao gấp 2,06 lần ở
nhóm có cơn giật tăng cường trong thai kỳ; gấp 6,37 lần ở nhóm không được tư vấn
trước mang thai; gấp 2,88 lần ở nhóm không tuân thủ điều trị so với nhóm tương ứng
còn lại. Khi thực hiện phân tích hồi quy binary logistic, nghiên cứu thu được kết quả:
tư vấn trước mang thai là yếu tố độc lập tác động đến biến cố xảy ra với mẹ và con
với OR=6,07 (CI 95%:1,21-30,31; p=0,028) đồng thời cũng là yếu tố độc lập ảnh
hưởng đến cơn giật tăng cường trong thai kỳ với OR=2,86 (CI 95%: l,02-8,05;
p=0,046). Tuy nhiên, số biến cố xuất hiện còn ít (18 biến cố) do cỡ mẫu của nghiên
nhỏ nên độ chính xác của mô hình nghiên cứu chỉ đạt 70,3%. Để khẳng định rõ mối
liên quan của tư vấn trước mang thai đối với biến cố của mẹ và con trong thai kỳ,
cần tiến hành thường quy và chuẩn hóa quá trình tư vấn cũng như thu thập các số
liệu đầy đủ hơn.
Việc chăm sóc trước sinh và lập kế hoạch mang thai đã được chứng minh giúp
nâng cao kết cục thai kỳ cho phụ nữ mắc động kinh.Theo một nghiên cứu tại Anh,
người bệnh động kinh được tư vấn trước và trong quá trình mang thai có tỷ lệ sử
dụng thuốc đơn trị liệu cao hơn cũng như tỷ lệ sử dụng valproat ít hơn và tỷ lệ mắc
dị dạng bẩm sinh thấp hơn ở trẻ được sinh ra [152]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
tỷ lệ bệnh nhân dùng đơn trị liệu và không sử dụng valproat ở nhóm bệnh nhân được
tư vấn cũng thấp hơn nhóm không được tư vấn. Như vậy, việc lập kế hoạch tư vấn và
chăm sóc trước mang thai giúp cải thiện quá trình kiểm soát cơn động kinh cũng như
giảm thiểu các biến cố xảy ra với mẹ và con, các nguy cơ tiềm ẩn do thuốc kháng
động kinh mang lại trong quá trình mang thai [3],[41],[44],[131][153]. Mặt khác, các
điều tra trong nhóm phụ nữ bị động kinh đang muốn mang thai cho thấy phần lớn
124
bệnh nhân không nhận được đầy đủ các thông tin về quá trình mang thai và bệnh
động kinh [154]. Rõ ràng, khi không được tư vấn và giáo dục, người bệnh sẽ thiếu
kiến thức về bệnh và thuốc điều trị, từ đó sẽ dẫn đến tăng khả năng mang thai ngoài
ý muốn. Trong nghiên cứu gần đây tại Hoa Kỳ, ước tính khoảng 65 % việc mang
thai của bệnh nhân bị động kinh là mang thai ngoài ý muốn [150]. Có thể thấy rõ,
quá trình tư vấn trước mang thai cho bệnh nhân sẽ càng hiệu quả và hoàn thiện hơn
khi bao gồm cả việc tư vấn cho người bệnh về phòng tránh mang thai ngoài ý muốn.
Để cụ thể hóa mục tiêu này, ở những lần khám bệnh định kỳ, bác sỹ thần kinh cần tư
vấn giáo dục thường quy cho các nữ bệnh nhân động kinh ở lứa tuổi sinh đẻ về tầm
quan trọng của việc lập kế hoạch mang thai. Thực tế cho thấy, các hướng dẫn và
khuyến cáo về quá trình chăm sóc trước mang thai đều là những đồng thuận về kết
quả của các nghiên cứu lớn nhưng vẫn đang trong giai đoạn bổ sung, chuẩn hóa mà
chưa thực sự thống nhất giữa các quốc gia và khu vực [3],[155]. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi thực hiện việc tư vấn và quản lý bệnh nhân động kinh dựa trên các
khuyến cáo của ILAE nhưng vẫn có những giản lược và thay đổi để phù hợp với
điều kiện thực tế của cơ sở thực hiện nghiên cứu. Các kết quả trong nghiên cứu cho
thấy việc lập kế hoạch mang thai, điều chỉnh tối ưu hóa chế độ điều trị có tác động
tích cực đối với cơn động kinh trong thai kỳ cũng như kết cục của quá trình mang
thai ở người bệnh động kinh. Như vậy, với mức độ còn khiêm tốn về số lượng
bệnh nhân kèm nhiều hạn chế trong quá trình theo dõi người bệnh, nghiên cứu
của chúng tôi mới chỉ cung cấp được các thông tin đặc thù về quá trình mang thai
của phụ nữ động kinh, thực trạng việc tư vấn cho người bệnh động kinh cũng như
đưa ra kết quả ban đầu về hiệu quả của tư vấn lập kế hoạch trước mang thai, quản
lý trước và trong thai kỳ cho người bệnh. Trong tương lai, để các kết quả có giá
trị cao hơn, nghiên cứu này cần được bổ sung số bệnh nhân nhiều hơn, phương
tiện hỗ trợ hiện đại hơn và kết hợp chặt chẽ với các chuyên ngành liên quan như
sản khoa, nhi khoa, tâm thần.
125
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 92 người bệnh động kinh có thai tại chuyên khoa Thần kinh
bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ 10/2015 đến 12/2020, chúng tôi thu được kết
quả như sau: 1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của người bệnh động kinh trong quá
trình mang thai
Đặc điểm chung Có 97 lần mang thai của 92 bệnh nhân gồm 90 lần chuyển dạ, 05 trường hợp bỏ
thai chủ động, 02 trường hợp sảy thai tự nhiên. Nhóm được tư vấn có 43 lượt bệnh
(43,3%) và nhóm không được tư vấn có 54 lượt bệnh (56,7%).
Độ tuổi hay gặp nhất là 26-30 tuổi (40,2%); lần mang thai hay gặp nhất là lần
đầu (53,6%), tuổi trung bình khi mang thai là 26,9 tuổi.
Người bệnh được tư vấn thần kinh đến khám lần đầu trong thai kỳ sớm hơn 5,3
tuần (f=9,237 ANOVA test; p=0,003) và có tỷ lệ bổ sung acid folic tối thiểu trước 3
tháng cao gấp 2,07 lần so với nhóm không được tư vấn (RR =2,07;CI 95%=1,28-
2,36; p=0,002).
Đặc điểm về hoạt động động kinh và việc kiểm soát cơn trước mang thai
Cơn động kinh toàn thể có 57,7%, động kinh cục bộ chiếm 42,3%.
Người bệnh được tư vấn có hoạt động cơn giật trước mang thai ổn định hơn
nhóm không được tư vấn: tần suất cơn trung bình tháng thấp hơn và tỷ lệ bệnh nhân
cắt cơn tối thiểu 01 năm cao hơn (p=0,001).
Người bệnh được tư vấn có tỷ lệ không dùng valproate cao hơn 2,57 lần
(RR=2,57, CI 95%=1,3-5,1; p=0,001); liều dùng valproate thấp hơn 381,5 mg/ngày
(f= 15,72, ANOVA test, p=0,001) và tỷ lệ tuân thủ điều trị cao hơn 1,76 lần (RR=1,76, CI 95%=1,26-2,46; p=0,0004) so với nhóm không được tư vấn.
Đặc điểm về hoạt động động kinh và việc kiểm soát cơn trong thai kỳ
Nhóm được tư vấn có hoạt động cơn giật trong thai kỳ ổn định hơn nhóm còn lại: tỷ lệ người bệnh không giật trong thai kỳ cao gấp 2,2 lần (RR=2,2, CI 95%=1,2- 4,3, p=0,004); không tăng cường cơn giật cao gấp 2,3 lần (RR=2,3, CI 95%=1,5-3,4, p=0,003); có tần suất dưới 2 cơn/tháng cao gấp 1,6 lần (RR=1,6; CI 95%=0,99-2,6; p=0.065) và có số cơn giật trung bình trong tháng ít hơn 1,04 cơn/tháng (f=12,43 ANOVA test, p=0,001).
Kiểm soát cơn bằng thuốc trong thai kỳ của nhóm được tư vấn hiệu quả hơn nhóm còn lại: tỷ lệ sử dụng đơn trị liệu cao gấp 2,2 lần (RR=2,2; CI 95%=1,3-3,9;
126
p=0,002), không dùng valproat cao gấp 1,98 lần (RR=1,98; CI 95%=1,01-3,9;
p=0,039) và tuân thủ điều trị cao gấp 3,4 lần (RR=3,4; CI 95%=1,8-8,5; p=0,001).
Đặc điểm sản khoa và kết cục thai kỳ
Tỷ lệ lựa chọn đẻ mổ là 64,9%, đẻ thường 27,8%, bỏ thai chủ động 6,2 %, sảy thai tự nhiên 1,1%. Số tuần tuổi trung bình của thai nhi khi đẻ là 38,26 tuần; cân nặng trung bình của trẻ 3,03 kg. Cân nặng trung bình của trẻ có mẹ ở nhóm được tư
vấn nhiều hơn 0,16 kg so với nhóm không được tư vấn (t=2,005, T-test; p=0,047).
Có 18 biến cố xảy ra với mẹ và con; đa phần ở nhóm không được tư vấn
(88,9%), 02 biến cố hay gặp nhất là đẻ non (33,3%) và bỏ thai (33,3%).
Đặc điểm cận lâm sàng
Tỷ lệ người bệnh có tổn thương trên MRI sọ não bất thường là 32%: tổn thương khu trú thùy thái dương 10,31%; thùy trán 8,25%; tổn thương 2 vị trí của nhu
mô não 13,04%.
Tỷ lệ người bệnh có điện não đồ bất thường là 32%: sóng chậm khu trú hoặc
rải rác hai bên 20,6%, hoạt động kịch phát dạng động kinh trong cơn 6,2%, kịch phát
ngoài cơn chỉ có 5,2% .
Tỷ lệ bệnh nhân có điện não đồ bất thường ở nhóm không được tư vấn cao gấp
1,95 lần so với nhóm được tư vấn (RR=1,95; CI 95%=1,05-2,05; p=0,038).
2. Một số yếu tố liên quan đến hoạt động của cơn động kinh trong thai kỳ và kết
cục thai kỳ của người bệnh động kinh
Kết quả phân tích hồi quy Binary logistic cho thấy:
Tư vấn trước mang thai là yếu tố độc lập liên quan đến cơn giật tăng cường
trong thai kỳ (OR= 2,86; CI 95%=l,02-8,05; p=0,046)
Cắt cơn tối thiểu 01 năm trước mang thai là yếu tố độc lập tác động đến cơn
giật còn xuất hiện trong thai kỳ (OR= 8,68; CI 95%=1.15-65,23; p=0,036).
Không co giật trong thai kỳ (OR=5,21; CI 95%=l,784-15,203; p=0,003) và cân
nặng của trẻ (OR=6,98; CI 95%=1,524-31,944; p=0,012) là 2 yếu tố độc lập liên
quan đến quyết định mổ đẻ của mẹ.
Tư vấn trước mang thai là yếu tố độc lập tác động đến biến cố xảy ra với mẹ và
con (OR=6,07; CI 95%:1,21-30,31; p=0,028).
127
KIẾN NGHỊ
1. Tư vấn trước mang thai cho phụ nữ bị động kinh trong độ tuổi sinh đẻ nên được
tiến hành thường quy giúp giảm thiểu nguy cơ tai biến cho cả mẹ và thai nhi,
đảm bảo quá trình mang thai an toàn.
2. Cần xây dựng một quy trình thống nhất và phù hợp về quản lý, tư vấn giai đoạn
trước, trong thai kỳ và hậu sản cho người bệnh động kinh ở độ tuổi sinh đẻ với
sự phối hợp chặt chẽ của chuyên ngành Thần kinh, Sản khoa dựa trên các
khuyến cáo mới nhất.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê Văn Thính (2019), Women with epilepsy in
pregnancy: Clincal, para-clinical characteristics and the role of preconception
counseling in controlling seizures, Journal of Clinical Medicine, tập 3 tháng 4:
47-52.
2. Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê Văn Thính. (2019), Đặc điểm lâm sàng và một số
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của cơn động kinh trong quá trình mang thai
của phụ nữ bị động kinh, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 483 số 2 tháng 10: 44-48.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hirtz D, Thurman DJ, Gwinn-Hardy K, et al. How common are the “common”
neurologic disorders? Neurology. 2007;68(5):326–337
2. Tang DH, Malone DC,Warholak TL. Prevalence and incidence of epilepsy in
an elderly and low-income population in the United States. J Clin Neurol.
2015;11:252-261.
3. Tomson T, Battino D, Bromley R, et al. Management of epilepsy in pregnancy:
a report from the International League Against Epilepsy Task Force on Women
and Pregnancy. Epileptic Disord. 2019;21:497.
4. Harden CL, Meador KJ, Pennell PB, et al. Practice parameter update:
management issues for women with epilepsy--focus on pregnancy (an
evidence-based review): teratogenesis and perinatal outcomes: report of the
Quality Standards Subcommittee and Therapeutics and Technology
Assessment Subcommittee of the American Academy of Neurology and
American Epilepsy Society. Neurology. 2009;73:133.
5. Borthen I, Eide MG, Daltveit AK, Gilhus NE. Obstetric outcome in women
with epilepsy: a hospital-based, retrospective study. BJOG. 2011;118:956.
6. Meador KJ, Pennell PB, May RC, et al. Fetal loss and malformations in the
MONEAD study of pregnant women with epilepsy. Neurology. 2020; 94:e1502
7. Pennell PB, French JA, Harden CL, et al. Fertility and Birth Outcomes in
Women With Epilepsy Seeking Pregnancy. JAMA Neurol. 2018;75:962.
8. Lê Quang Cường và các tác giả. “Động kinh”. Nhà xuất bản Y học. 2005;p:5-
150.
9. Ishijima B. Unitary analysis of epileptic activity in acute and chronic foci and
related cortex of cat and monkey. Epilepsia. 1972;13:561–81.
10. Matsumoto H, Ajmone Marsan CA. Cortical cellular phenomena in
experimental epilepsy: ictal manifestations. Exp. Neurol. 1964b;25:305–326.
11. Kandel ER, Spencer WA. Electrophysiology of hippocampal neurons. II. After-
potentials and repetitive firing. J Neurophysiol. 1961a;24:243–59.
12. Kandel ER, Spencer WA. The pyramidal cell during hippocampal seizure.
Epilepsia. 1961b;2:63–69.
13. De Curtis M, Avanzini G. Interictal spikes in focal epileptogenesis. Prog.
Neurobiol. 2001;63:541–567.
14. Cammarota M, Losi G, Chiavegato A, et al. Fast spiking interneuron control of
seizure propagation in a cortical slice model of focal epilepsy. J Physiol. 2013;
591(Pt 4):807–22.
15. McCormick D.A, Contreras D. On the cellular and network bases of epileptic
seizures. Annu. Rev. Physiol. 2001;63:815–846.
16. Prince DA, Wilder BJ. Control mechanisms in cortical epileptogenic foci.
“Surround” inhibition. Arch Neurol. 1967;16:194–202.
17. Schevon CA, Weiss SA, McKhann G, et al. Evidence of an inhibitory restraint
of seizure activity in humans. Nat Commun. 2012;3:1060.
18. Trevelyan A.J, Sussillo D, Watson B.O, Yuste R.M. Modular propagation of
epileptiform activity: evidence for an inhibitory veto in neocortex. J. Neurosci.
2006;26:12447–12455.
19. Trevelyan AJ, Bruns W, Mann EO, et al. The information content of
physiological and epileptic brain activity. J Physiol. 2013; 591(Pt 4):799–805.
20. Berg AT, Berkovic SF, Brodie MJ et al. “Revised terminology and concepts for
organization of seizures and epilepsies: report of the ILAE Commission on
Classification and Terminology, 2005-2009”. Epilepsia. 2010;51(4):676.
21. Fisher RS, Cross JH, French JA et al. Operational classification of seizure types
by the International League Against Epilepsy: Position Paper of the ILAE
Commission for Classification and Terminology. Epilepsia. 2017; 58(4):522.
22. Stephan US. Evaluation of Seizure Etiology From Routine Testing to Genetic
Evaluation. Continuum (Minneap Minn) 2019;25(2, Epilepsy):322–342
23. Pillai J, Sperling MR. Interictal EEG and the diagnosis of epilepsy. Epilepsia.
2006;47 Suppl 1:14.
24. Chong DJ, Hirsch LJ. Which EEG patterns warrant treatment in the critically
ill? Reviewing the evidence for treatment of periodic epileptiform discharges
and related patterns. J Clin Neurophysiol. 2005;22:79.
25. Committee Opinion No.723: Guidelines for Diagnostic Imaging During
Pregnancy and Lactation. Obstet Gynecol. 2017;130(4):e210.
26. Ray JG, Vermeulen MJ, Bharatha A, Montanera WJ, Park AL. Association
Between MRI Exposure During Pregnancy and Fetal and Childhood Outcomes.
JAMA. 2016;316(9):952.
27. Cannie MM, De Keyzer F, Van Laere S, Leus A, de Mey J, Fourneau C, De
Ridder F, Van Cauteren T, Willekens I, Jani JC Potential Heating Effect in the
Gravid Uterus by Using 3-T MR Imaging Protocols: Experimental Study in
Miniature Pigs. Radiology. 2016;279(3):754
28. Chartier AL, Bouvier MJ, McPherson DR, Stepenosky JE, Taysom DA, Marks
RM The Safety of Maternal and Fetal MRI at 3T. AJR Am J Roentgenol.
2019;213(5):1170.
29. Hiba AH, Lawrence JH. “Neuroimaging in the evaluation of seizures and
epilepsy”. Uptodate. 2018; Topic 14040, Version 2.0.
30. Bernasconi A, Cendes F, Theodore WH, et al. Recommendations for the use of
structural magnetic resonance imaging in the care of patients with epilepsy: A
consensus report from the International League Against Epilepsy
Neuroimaging Task Force. Epilepsia. 2019;60(6):1054.
31. Friedman E. Epilepsy imaging in adults: getting it right. AJR Am J Roentgenol.
2014 Nov;203(5):1093-103.
32. Viale L, Allotey J, Cheong-See F, et al. Epilepsy in pregnancy and
reproductive outcomes: a systematic review and meta-analysis. Lancet. 2015;
386:1845.
33. MacDonald SC, Bateman BT, McElrath TF, Hernández-Díaz S. Mortality and
Morbidity During Delivery Hospitalization Among Pregnant Women With
Epilepsy in the United States. JAMA Neurol. 2015;72:981.
34. Kapoor D, Wallace S. Trends in maternal deaths from epilepsy in the United
Kingdom: a 30-year retrospective review. Obstet Med. 2014;7:160.
35. Edey S, Moran N, Nashef L. SUDEP and epilepsy-related mortality in
pregnancy. Epilepsia. 2014;55:e72.
36. Razaz N, Tomson T, Wikström AK, Cnattingius S. Association Between
Pregnancy and Perinatal Outcomes Among Women With Epilepsy. JAMA
Neurol. 2017;74:983.
37. Harden CL, Hopp J, Ting TY, et al. Practice parameter update: management
issues for women with epilepsy--focus on pregnancy (an evidence-based
review): obstetrical complications and change in seizure frequency: report of
the Quality Standards Subcommittee and Therapeutics and Technology
Assessment Subcommittee of the American Academy of Neurology and
American Epilepsy Society. Neurology. 2009;73:126.
38. Bech BH, Kjaersgaard MI, Pedersen HS, et al. Use of antiepileptic drugs
during pregnancy and risk of spontaneous abortion and stillbirth: population
based cohort study. BMJ. 2014;349:g5159.
39. Allotey J, Aroyo-Manzano D, Lopez P, et al. Global variation in pregnancy
complications in women with epilepsy: A meta-analysis. Eur J Obstet Gynecol
Reprod Biol. 2017;215:12.
40. EURAP Study Group. Seizure control and treatment in pregnancy:
observations from the EURAP epilepsy pregnancy registry. Neurology. 2006;
66:354
41. Sabers A, aRogvi-Hansen B, Dam M, et al. Pregnancy and epilepsy: a
retrospective study of 151 pregnancies. Acta Neurol Scand. 1998;97:164.
42. Reisinger TL, Newman M, Loring DW, et al. Antiepileptic drug clearance and
seizure frequency during pregnancy in women with epilepsy. Epilepsy Behav.
2013;29:13.
43. Thomas SV, Syam U, Devi JS. Predictors of seizures during pregnancy in
women with epilepsy. Epilepsia. 2012;53:e85.
44. Pennell PB, French JA, May RC, et al. Changes in Seizure Frequency and
Antiepileptic Therapy during Pregnancy. N Engl J Med. 2020;383:2547.
45. Cagnetti C, Lattanzi S, Foschi N, et al. Seizure course during pregnancy in
catamenial epilepsy. Neurology. 2014;83:339.
46. Bjørk MH, Veiby G, Reiter SC, et al. Depression and anxiety in women with
epilepsy during pregnancy and after delivery: a prospective population-based
cohort study on frequency, risk factors, medication, and prognosis. Epilepsia.
2015;56:28.
47. Galanti M, Newport DJ, Pennell PB, et al. Postpartum depression in women
with epilepsy: influence of antiepileptic drugs in a prospective study. Epilepsy
Behav. 2009;16:426.
48. Meador KJ, Pennell PB, Harden CL, et al. Pregnancy registries in epilepsy: a
consensus statement on health outcomes. Neurology. 2008;71:1109.
49. Hernández-Díaz S, Werler MM, Walker AM, Mitchell AA. Folic acid
antagonists during pregnancy and the risk of birth defects. N Engl J Med. 2000;
343:1608.
50. Tomson T, Battino D, Bonizzoni E, et al. Dose-dependent risk of
malformations with antiepileptic drugs: an analysis of data from the EURAP
epilepsy and pregnancy registry. Lancet Neurol. 2011;10:609.
51. Koch S, Lösche G, Jager-Romän E, et al. Major and minor birth malformations
and antiepileptic drugs. Neurology. 1992;42:83.
52. Tomson T, Battino D, Bonizzoni E, et al. Comparative risk of major congenital
malformations with eight different antiepileptic drugs: a prospective cohort
study of the EURAP registry. Lancet Neurol. 2018;17:530-538.
53. Holmes LB, Harvey EA, Coull BA, et al. The teratogenicity of anticonvulsant
drugs. N Engl J Med. 2001;344:1132.
54. Morrow J, Russell A, Guthrie E, et al. Malformation risks of antiepileptic drugs
in pregnancy: a prospective study from the UK Epilepsy and Pregnancy
Register. J Neurol Neurosurg Psychiatry. 2006;77:193.
55. Holmes LB, Mittendorf R, Shen A, et al. Fetal effects of anticonvulsant
polytherapies: different risks from different drug combinations. Arch Neurol.
2011;68:1275.
56. Meador KJ, Baker GA, Finnell RH, et al. In utero antiepileptic drug exposure:
fetal death and malformations. Neurology. 2006;67:407.
57. Meador KJ, Pennell PB, May RC, et al. Changes in antiepileptic drug-
prescribing patterns in pregnant women with epilepsy. Epilepsy Behav. 2018;
84:10.
58. Artama M, Auvinen A, Raudaskoski T, et al. Antiepileptic drug use of women
with epilepsy and congenital malformations in offspring. Neurology. 2005;
64:1874.
59. Vajda FJ, Eadie MJ. Maternal valproate dosage and foetal malformations. Acta
Neurol Scand. 2005;112:137.
60. Vajda FJ, O'Brien TJ, Lander CM, et al. Teratogenesis in repeated pregnancies
in antiepileptic drug-treated women. Epilepsia. 2013;54:181.
61. Campbell E, Devenney E, Morrow J, et al. Recurrence risk of congenital
malformations in infants exposed to antiepileptic drugs in utero. Epilepsia.
2013;54:165.
62. Finnell RH, Buehler BA, Kerr BM, et al. Clinical and experimental studies
linking oxidative metabolism to phenytoin-induced teratogenesis. Neurology.
1992;42:25.
63. Parman T, Chen G, Wells PG. Free radical intermediates of phenytoin and
related teratogens. Prostaglandin H synthase-catalyzed bioactivation, electron
paramagnetic resonance spectrometry, and photochemical product analysis. J
Biol Chem. 1998;273:25079.
64. Tomson T, Battino D. Teratogenic effects of antiepileptic drugs. Lancet
Neurol. 2012;11:803.
65. Koch S, Lösche G, Jager-Romän E, et al. Major and minor birth malformations
and antiepileptic drugs. Neurology. 1992;42:83.
66. Veiby G, Daltveit AK, Engelsen BA, Gilhus NE. Pregnancy, delivery, and
outcome for the child in maternal epilepsy. Epilepsia. 2009;50:2130
67. Bromfield EB, Dworetzky BA, Wyszynski DF, et al. Valproate teratogenicity
and epilepsy syndrome. Epilepsia. 2008;49:2122.
68. Hernández-Díaz S, Smith CR, Shen A, et al. Comparative safety of
antiepileptic drugs during pregnancy. Neurology. 2012;78:1692.
69. Jentink J, Loane MA, Dolk H, et al. Valproic acid monotherapy in pregnancy
and major congenital malformations. N Engl J Med. 2010;362:2185
70. Vajda FJ, O'Brien TJ, Graham JE, et al. Dose dependence of fetal
malformations associated with valproate. Neurology. 2013;81:999.
71. Jentink J, Dolk H, Loane MA, et al. Intrauterine exposure to carbamazepine
and specific congenital malformations: systematic review and case-control
study. BMJ. 2010;341:c6581.
72. Hernandez-Diaz S, Huybrechts KF, Desai RJ, et al. Topiramate use early in
pregnancy and the risk of oral clefts: A pregnancy cohort study. Neurology.
2018;90:e342.
73. Hunt S, Russell A, Smithson WH, et al. Topiramate in pregnancy: preliminary
experience from the UK Epilepsy and Pregnancy Register. Neurology. 2008;
71:272.
74. Vajda FJ, O'Brien TJ, Lander CM, et al. Antiepileptic drug combinations not
involving valproate and the risk of fetal malformations. Epilepsia. 2016;
57:1048.
75. Hernández-Díaz S, McElrath TF, Pennell PB, et al. Fetal growth and premature
delivery in pregnant women on antiepileptic drugs. Ann Neurol. 2017;82:457.
76. Hernández-Díaz S, Mittendorf R, Smith CR, et al. Association between
topiramate and zonisamide use during pregnancy and low birth weight. Obstet
Gynecol. 2014;123:21.
77. Mølgaard-Nielsen D, Hviid A. Newer-generation antiepileptic drugs and the
risk of major birth defects. JAMA. 2011;305:1996.
78. Cunnington MC, Weil JG, Messenheimer JA, et al. Final results from 18 years
of the International Lamotrigine Pregnancy Registry. Neurology. 2011;
76:1817.
79. Cunnington M, Ferber S, Quartey G, International Lamotrigine Pregnancy
Registry Scientific Advisory Committee. Effect of dose on the frequency of
major birth defects following fetal exposure to lamotrigine monotherapy in an
international observational study. Epilepsia. 2007;48:1207.
80. Glaxo SmithKline. The Lamotrigine Pregnancy registry. Interim report: 1
September 1992 through 30 September 2008; Issued January 2008.
http://pregnancyregistry.gsk.com/lamotrigine.html (Accessed on March 31,
2008).
81. Holmes LB, Baldwin EJ, Smith CR, et al. Increased frequency of isolated cleft
palate in infants exposed to lamotrigine during pregnancy. Neurology. 2008;
70:2152.
82. Dolk H, Wang H, Loane M, et al. Lamotrigine use in pregnancy and risk of
orofacial cleft and other congenital anomalies. Neurology. 2016;86:1716.
83. Mawhinney E, Craig J, Morrow J, et al. Levetiracetam in pregnancy: results
from the UK and Ireland epilepsy and pregnancy registers. Neurology. 2013;
80:400.
84. Bromley RL, Calderbank R, Cheyne CP, et al. Cognition in school-age children
exposed to levetiracetam, topiramate, or sodium valproate. Neurology. 2016;
87:1943.
85. Winterfeld U, Merlob P, Baud D, et al. Pregnancy outcome following maternal
exposure to pregabalin may call for concern. Neurology. 2016;86:2251.
86. Patorno E, Bateman TB, Huybrechts SK et al. Pregabalin use early in
pregnancy and the risk of major congenital malformations. Neurology. 2017
May 23;88(21):2020-2025.
87. Fujii H, Goel A, Bernard N, et al. Pregnancy outcomes following gabapentin
use: results of a prospective comparative cohort study. Neurology. 2013;
80:1565.
88. The North American Antiepileptic Drug Pregnancy Registry. Update on
monotherapy findings: Comparative safety of 11 antiepileptic drugs used
during pregnancy. http://www.aedpregnancyregistry.org/wp-content/uploads/
2016-newsletter-Winter-2016.pdf (Accessed on October 18, 2018).
89. McVearry KM, Gaillard WD, VanMeter J, Meador KJ. A prospective study of
cognitive fluency and originality in children exposed in utero to
carbamazepine, lamotrigine, or valproate monotherapy. Epilepsy Behav. 2009;
16:609.
90. Meador KJ, Baker GA, Browning N, et al. Cognitive function at 3 years of age
after fetal exposure to antiepileptic drugs. N Engl J Med. 2009;360:1597.
91. Meador KJ, Baker GA, Browning N, et al. Effects of fetal antiepileptic drug
exposure: outcomes at age 4.5 years. Neurology. 2012;78:1207.
92. Meador KJ, Baker GA, Browning N, et al. Fetal antiepileptic drug exposure
and cognitive outcomes at age 6 years (NEAD study): a prospective
observational study. Lancet Neurol. 2013;12:244-52.
93. Gaily E, Kantola-Sorsa E, Hiilesmaa V, et al. Normal intelligence in children
with prenatal exposure to carbamazepine. Neurology. 2004;62:28.
94. Nadebaum C, Anderson VA, Vajda F, et al. Language skills of school-aged
children prenatally exposed to antiepileptic drugs. Neurology. 2011;76:719.
95. Thomas SV, Ajaykumar B, Sindhu K, et al. Motor and mental development of
infants exposed to antiepileptic drugs in utero. Epilepsy Behav. 2008;13:229.
96. Christensen J, Grønborg TK, Sørensen MJ, et al. Prenatal valproate exposure
and risk of autism spectrum disorders and childhood autism. JAMA. 2013;
309:1696.
97. Bromley RL, Mawer GE, Briggs M, et al. The prevalence of
neurodevelopmental disorders in children prenatally exposed to antiepileptic
drugs. J Neurol Neurosurg Psychiatry. 2013;84:637.
98. Cummings C, Stewart M, Stevenson M, et al. Neurodevelopment of children
exposed in utero to lamotrigine, sodium valproate and carbamazepine. Arch
Dis Child. 2011;96:643.
99. Perucca E, Tomson T. Prenatal exposure to antiepileptic drugs. Lancet. 2006;
367:1467
100. Kini U, Adab N, Vinten J, et al. Dysmorphic features: an important clue to the
diagnosis and severity of fetal anticonvulsant syndromes. Arch Dis Child Fetal
Neonatal Ed. 2006;91:F90.
101. Holmes LB, Coull BA, Dorfman J, Rosenberger PB. The correlation of deficits
in IQ with midface and digit hypoplasia in children exposed in utero to
anticonvulsant drugs. J Pediatr. 2005;146:118.
102. Peljto AL, Barker-Cummings C, Vasoli VM, et al. Familial risk of epilepsy: a
population-based study. Brain. 2014;137:795.
103. Teramo K, Hiilesmaa V, Bardy A, Saarikoski S. Fetal heart rate during a
maternal grand mal epileptic seizure. J Perinat Med. 1979;7:3.
104. Nei M, Daly S, Liporace J. A maternal complex partial seizure in labor can
affect fetal heart rate. Neurology. 1998;51:904.
105. Chen YH, Chiou HY, Lin HC, Lin HL. Affect of seizures during gestation on
pregnancy outcomes in women with epilepsy. Arch Neurol. 2009;66:979.
106. Vinten J, Adab N, Kini U, et al. Neuropsychological effects of exposure to
anticonvulsant medication in utero. Neurology. 2005;64:949.
107. EURAP Study Group.Seizure control and treatment in pregnancy: observations
from the EURAP epilepsy pregnancy registry. Neurology. 2006;66:354
108. O'Brien MD, Guillebaud J. Contraception for women with epilepsy. Epilepsia.
2006;47(9):1419.
109. Harden CL, Pennell PB, Koppel BS, et al. Practice parameter update:
management issues for women with epilepsy--focus on pregnancy (an
evidence-based review): vitamin K, folic acid, blood levels, and breastfeeding:
report of the Quality Standards Subcommittee and Therapeutics and
Technology Assessment Subcommittee of the American Academy of
Neurology and American Epilepsy Society. Neurology. 2009;73(2):142
110. Reynolds EH, Green R. Valproate and folate: Congenital and developmental
risks. Epilepsy Behav. 2020;108:107068
111. American College of Obstetricians and Gynecologists. Preconception and
interconception care. In: Guidelines for Women's Health Care, 4th ed, ACOG,
2014. p.389.
112. Morrow JI, Hunt SJ, Russell AJ, et al. Folic acid use and major congenital
malformations in offspring of women with epilepsy: a prospective study from
the UK Epilepsy and Pregnancy Register. J Neurol Neurosurg Psychiatry.
2009;80(5):506.
113. Ban L, Fleming KM, Doyle P, et al. Congenital Anomalies in Children of
Mothers Taking Antiepileptic Drugs with and without Periconceptional High
Dose Folic Acid Use: A Population-Based Cohort Study. PLoS One.
2015;10(7):e0131130.
114. Meador KJ, Pennell PB, May RC, et al. Effects of periconceptional folate on
cognition in children of women with epilepsy: NEAD study. Neurology.
2020;94(7):e729.
115. Bjørk M, Riedel B, Spigset O, et al. Association of Folic Acid Supplementation
During Pregnancy With the Risk of Autistic Traits in Children Exposed to
Antiepileptic Drugs In Utero. JAMA Neurol. 2018;75(2):160.
116. Sen A, Nashef L. New regulations to cut valproate-exposed pregnancies.
Lancet. 2018;392(10146):458.
117. Vajda FJ, O'Brien T, Lander C, et al.The efficacy of the newer antiepileptic
drugs in controlling seizures in pregnancy. Epilepsia. 2014 Aug;55(8):1229-34.
118. Battino D, Tomson T, Bonizzoni E, et al. Seizure control and treatment
changes in pregnancy: observations from the EURAP epilepsy pregnancy
registry. Epilepsia. 2013 Sep;54(9):1621-7.
119. Hobbins JC. Diagnosis and management of neural-tube defects today. N Engl J
Med. 1991;324(10):690.
120. Nadel AS, Green JK, Holmes LB, et al. Absence of need for amniocentesis in
patients with elevated levels of maternal serum alpha-fetoprotein and normal
ultrasonographic examinations. N Engl J Med. 1990;323(9):557.
121. Voinescu PE, Pennell PB. Delivery of a Personalized Treatment Approach to
Women with Epilepsy. Semin Neurol. 2017;37(6):611
122. Morisky DE, Ang A, Krousel-Wood M, Ward H.J. Predictive validity of a
medication adherence measure in an outpatient setting. Journal of Clinical
Hypertension (Greenwich). 2008;10:348-354
123. Hirsch LJ, LaRoche SM, Gaspard N, et al. American Clinical Neurophysiology
Society’s Standardized Critical Care EEG Terminology: 2012 version. J Clin
Neurophysiol. 2013;30:1–27.
124. Hirsch LJ, Fong WK, Leitinger M, et al. American Clinical Neurophysiology
Society’s Standardized Critical Care EEG Terminology: 2021 Version. J Clin
Neurophysiol. 2021;38: 1–29.
125. Wellmer J, Quesada CM, Rothe L, et al. Proposal for a magnetic resonance
imaging protocol for the detection of epileptogenic lesions at early outpatient
stages. Epilepsia. 2013;54(11):1977-87.
126. Sukumaran SC, Sarma PS, Thomas SV. Polytherapy increases the risk of
infertility in women with epilepsy. Neurology. 2010;75(15):1351.
127. Wallace H, Shorvon S, Tallis R. Age-specific incidence and prevalence rates of
treated epilepsy in an unselected population of 2,052,922 and age-specific
fertility rates of women with epilepsy. Lancet. 1998;352(9145):1970.
128. McGrath A, Sharpe L, Lah S, Parratt K. Pregnancy-related knowledge and
information needs of women with epilepsy: a systematic review. Epilepsy
Behav. 2014;31:246.
129. Greene ND et al, 2014. Neural tube defects. Annu Rev Neurosci. 2014;37:221-
42.
130. Blom HJ et al, 2006. Neural tube defects and folate: case far from closed. Nat
Rev Neurosci. 2006 Sep;7(9):724-31.
131. Abe K et al. Impact of planning of pregnancy in women with epilepsy on
seizure control during pregnancy and on maternal and neonatal outcomes.
Seizure. 2014 Feb;23(2):112-6.
132. Lamberink HJ, Otte WM, Geerts AT, et al. Individualised prediction model of
seizure recurrence and long-term outcomes after withdrawal of antiepileptic
drugs in seizure-free patients: a systematic review and individual participant
data meta-analysis. Lancet Neurol. 2017;16(7):523.
133. Park S, Lee DH, Kim SW, Roh YH. Prognostic analysis of patients with
epilepsy according to time of relapse after withdrawal of antiepileptic drugs
following four seizure-free years. Epilepsia. 2017 Jan;58(1):60-67.
134. Lossius MI, Hessen E, Mowinckel P, et al. Consequences of antiepileptic drug
withdrawal: a randomized, double-blind study (Akershus Study). Epilepsia.
2008;49(3):455.
135. Tomson T, Marson A, Boon P, et al. Valproate in the treatment of epilepsy in
girls and women of childbearing potential. Epilepsia. 2015 Jul;56(7):1006-19.
136. Hauser WA, et al. Incidence of epilepsy and unprovoked seizures in Rochester,
Minnesota: 1935-1984. Epilepsia. 1993 May-Jun;34(3):453-68.
137. Kotsopoulos IA, et al. Systematic review and meta-analysis of incidence studies of
epilepsy and unprovoked seizures. Epilepsia. 2002 Nov;43(11):1402-9.
138. Nei M, Daly S, Liporace J. A maternal complex partial seizure in labor can
affect fetal heart rate. Neurology. 1998;51:904.
139. Sahoo S, et al. Maternal complex partial seizure associated with fetal distress.
Arch Neurol. 2005 Aug;62(8):1304-5
140. Hiilesmaa V, Teramo K. Fetal and Maternal Risks with Seizures. Epilepsy in
women. First published: 24 January 2013; Chapter 10.
141. Gaily E, Kantola-Sorsa E, Granström ML. Intelligence of children of epileptic
mothers. J Pediatr. 1988;113:677-684.
142. Gaily E, Kantola-Sorsa E, Granström ML. Specific cognitive dysfunction in
children with epileptic mothers. Dev Med Child Neurol. 1990;32:403.
143. Sabers A. Influences on seizure activity in pregnant women with epilepsy.
Epilepsy Behav. 2009;15(2):230.
144. Vajda FJ, Hitchcock A, et al. Seizure control in antiepileptic drug-treated
pregnancy. Epilepsia. 2008 Jan;49(1):172-6.
145. Wallace H, Shorvon S, Tallis R. Age-specific incidence and prevalence rates of
treated epilepsy in an unselected population of 2,052,922 and age-specific
fertility rates of women with epilepsy. Lancet. 1998;352(9145):1970.
146. Duncan S, Read CL, Brodie MJ. How common is catamenial epilepsy?
Epilepsia.1993 Sep-Oct;34(5):827-31.
147. Bazán AC et al. Menstrual cycle worsening of epileptic seizures in women with
symptomatic focal epilepsy. Arq.Neuro-Psiquiatr. 2005 Sept;63(3b):751–756.
148. Tomson T, Landmark CJ, Battino D. Antiepileptic drug treatment in
pregnancy: changes in drug disposition and their clinical implications.
Epilepsia. 2013;54(3):405.
149. Voinescu PE, Park S, Chen LQ, et al. Antiepileptic drug clearances during
pregnancy and clinical implications for women with epilepsy. Neurology.
2018;91(13): 1228-36.
150. Herzog AG et al. Predictors of unintended pregnancy in women with epilepsy.
Neurology. 2017; Feb 21;88(8):728-733.
151. Pillai J, Sperling MR. Interictal EEG and the diagnosis of epilepsy. Epilepsia.
2006;47 Suppl 1:14.
152. Betts T, Fox C. Proactive pre-conception counselling for women with epilepsy-
is it effective? Seizure.1999 Sep;8(6):322-7
153. Pennell PB. Pregnancy in women who have epilepsy.Review Neurol Clin. 2004
Nov;22(4):799-820.
154. Crawford P, Hudson S. Understanding the information needs of women with
epilepsy at different lifestages: results of the 'Ideal World' survey. Seizure.
2003 Oct;12(7):502-7
155. Kinney MO, Morrow J. Epilepsy in pregnancy. BMJ. 2016 Jun 2;353:i2880
PHỤ LỤC 1
Bảng 1. Phân loại Quốc tế về các cơn động kinh năm 1981
1. Cơn động kinh toàn bộ
- Các cơn vắng
+ Đặc hiệu
+ Không đặc hiệu
- Các cơn giật cơ
- Các cơn co giật
- Các cơn tăng trương lực
- Các cơn tăng trương lực – co giật
- Các cơn mất trương lực
2. Các cơn động kinh cục bộ
- Các cơn động kinh cục bộ đơn giản
+ Với những dấu hiệu vận động
+ Với những dấu hiệu cảm giác thân thể hoặc giác quan
+ Với những dấu hiệu thần kinh tự chủ
+ Với những dấu hiệu tâm thần
- Các cơn động kinh cục bộ phức tạp
+ Khởi đầu cục bộ đơn giản tiếp theo là những rối loạn về ý thức và/hoặc
các động tác tự động
+ Rối loạn ý thức ngay khi bắt đầu có cơn, có hoặc không có động tác tự
động kèm theo
- Các cơn động kinh cục bộ toàn bộ hóa thứ phát
- Các cơn động kinh cục bộ đơn giản toàn bộ hóa thứ phát
- Các cơn động kinh cục bộ phức tạp toàn bộ hóa thứ phát
- Các cơn động kinh cục bộ đơn giản tiến triển thành các cơn động kinh cục bộ
phức tạp sau đó toàn bộ hóa thứ phát
3. Các cơn không phân loại
Bảng 2: Phân loại cơn động kinh của ILAE 2017
Cơn động kinh khởi phát toàn thể (Generalized seizures)
Không vận động (cơn vắng) Vận động
Điển hình Co cứng-co giật
Không điển hình Giật rung
Giật cơ Tăng trương lực
Giật cơ mi mắt Giật cơ
Giật cơ-giật cứng-giật rung
Mất trương lực
Co thắt động kinh
Cơn động kinh khởi phát cục bộ (Focal onset seizures)
Khởi phát vận động Khởi phát không liên quan đến vận
động
Nhận thức Nhận thức
Tỉnh Tỉnh
Rối loạn nhận thức Rối loạn nhận thức
Không rõ rối loạn nhận thức Không rõ rối loạn nhận thức
Động tác tự động Rối loạn thần kinh tự động
Mất trương lực Ngừng hành vi
Giật rung Nhận thức
Co thắt động kinh Cảm xúc
Tăng vận động Cảm giác
Giật cơ
Tăng trương lực
Cơn động kinh ổ tiến triển thành co Cơn động kinh ổ tiến triển thành co
cứng co giật hai bên cứng co giật hai bên
Cơn động kinh không rõ khởi phát
Vận động Không vận động
Co cứng-co giật Không vận động
Co thắt động kinh Ngừng hành vi
Cơn động kinh không phân loại
Bảng 3. Đánh giá biến đổi điện não đồ trong và ngoài cơn động kinh [123],[124]
- Điện não đồ ngoài cơn:
✓ Phụ thuộc vào tần số các cơn động kinh: ở bệnh nhân bị động kinh thường xuyên các dấu hiệu biến đổi bệnh lý rõ, ngược lại nếu cơn chỉ lên một hoặc hai lần/ năm thì điện não đồ ngoài cơn của bệnh nhân có thể bình thường. ✓ Các dạng hình ảnh kịch phát trên điện não đồ có giá trị là biến đổi đặc trưng của động kinh gồm: nhọn (20-70 ms), nhọn sóng (70-200 ms), sóng chậm delta, theta, các phức hợp nhọn - sóng, nhọn sóng - chậm, đa - nhọn sóng. ✓ Các hình ảnh kịch phát dạng động kinh trên điện não đồ cần thỏa mãn 4
trong 6 tiêu chuẩn:
1. Hình dạng gai/nhọn 2 hay 3 pha 2. Thời khoảng sóng khác với hoạt động nền (ngắn/dài hơn) 3. Bất đối xứng: pha lên dốc hơn và pha xuống tù hơn, hay ngược lại 4. Sóng chậm theo sau 5. Hoạt động nền xung quanh bị xáo trộn 6. Phân bố hoạt động điện dạng lưỡng cực (dipole)
- Điện não trong cơn cần thỏa mãn tiêu chuẩn: ✓ Hoạt động dạng động kinh (IEDs) >2 chu kỳ/giây và/ hoặc ✓ Dạng điện não có tiến triển về thời gian –không gian (thay đổi về tần số, biên độ,
hình dạng và vị trí), kéo dài vài giây (thường kéo dài hơn 10 giây).
✓ Hai dạng EEG ngắn (dưới 10 giây): dạng giảm sút điện trở (electrodecrement)
và hoạt động nhanh điện thế thấp (low voltage fast activity).
✓ Electrographic hay co giật dưới lâm sàng (subclinical seizures): dạng điện não
trong cơn không kèm theo biểu hiện lâm sàng
- Điện não đồ trong cơn co cứng co giật: xuất hiện rất nhiều nhiễu của điện cơ xen lẫn với các điện thế kịch phát và sóng chậm. Tuần tự biến đổi điện não trong cơn cũng tương tự về thời gian như biến đổi lâm sàng. Trước cơn một vài giây xuất hiện rải rác các sóng chậm, biên độ thấp rồi chuyển nhanh thành các sóng nhọn, gai, biên độ cao, tần số nhanh trên tất cả các kênh (tương ứng giai đoạn co cứng); tiếp theo là sóng đa nhọn hoặc đa nhọn - sóng chậm. Ở giai đoạn sau cơn, các sóng chậm có thể còn xuất hiện trên điện não đồ trong nhiều ngày.
- Điện não đồ trong cơn động kinh cục bộ: Có biến đổi khu trú trên điện não là hình ảnh sóng kịch phát khu trú một diện giới hạn ở vùng vỏ não bị xâm phạm, có hoặc không lan rộng đến các vùng còn lại của não.
Bảng 4. Protocol chụp MRI sọ động kinh ngoài thùy thái dương [30],[125]
Xung Độ dày lát cắt Hướng mặt cắt
T1 ≤3mm Axial và coronal
3D-T1 1 mm đẳng hướng 3D
FLAIR ≤3mm Axial và coronal góc
3D FLAIR 1 mm đẳng hướng 3D
DIR(3D) 1 mm 3D
DWI/ADC ≤3mm Axial
SWI hoặc T2** ≤3mm Axial
Bảng 5. Protocol chụp MRI sọ động kinh thùy thái dương [30],[125]
Xung Độ dày lát cắt Hướng mặt cắt Góc mặt cắt
3D-T1 1mm đẳng hướng 3D Mép trước-mép sau
T2/STIR ≤3mm Axial và coronal Vùng hải mã
FLAIR ≤3mm Axial và coronal Vùng hải mã
3D FLAIR 1mm đẳng hướng 3D Mép trước-mép sau
DWI/ADC ≤3mm Axial Vùng hải mã
SWI hoặc T2* ≤3mm Axial Vùng hải mã
Bảng 6. Thang điểm Morisky đánh giá sự tuân thủ điều trị thuốc
(MMAS-8) [122]
9. Bạn có thỉnh thoảng quên uống thuốc không? Có/không(1)
10. Mọi người thỉnh thoảng không uống thuốc vì một vài lý do khác thay vì họ
quên, trong 2 tuần trở lại đây, có ngày nào bạn như thế không? Có/không(1)
11. Có bao giờ bạn giảm liều hoặc dừng thuốc điều trị vì bạn cảm thấy tệ hơn khi
dùng thuốc mà không thông báo với bác sỹ? Có/không(1)
12. Khi đi du lịch hoặc công tác, bạn có thỉnh thoảng quên không mang thuốc
theo? Có/không(1)
13. Ngày hôm qua, bạn có uống đủ các loại thuốc của mình không?Không/Có(1)
14. Khi bạn cảm thấy rằng các triệu chứng về bệnh của mình đã được kiểm soát,
bạn có thỉnh thoảng bỏ thuốc không? Có/Không(1)
15. Việc phải uống thuốc hàng ngày có thể thực sự là điều không thoải mái với
một vài người, bạn có bao giờ cảm thấy phiền nhiễu với việc phải tuân thủ
điều trị không? Có/không(1)
16. Tần suất khó khăn mà bạn gặp phải khi cần nhớ đến việc uống đủ các loại
thuốc:
Chưa bao giờ(1) f)
Hầu như không bao giờ(0) g)
Thỉnh thoảng(0) h)
Thường xuyên(0) i)
Luôn luôn (0) j)
Bảng 7. Quy trình tư vấn trước và trong thai kỳ cho bệnh nhân dựa trên khuyến cáo của ILAE 2019 [3]
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
Trước mang ✓ Xem lại tiền sử, hình ảnh học và điện ✓ Lựa chọn liệu pháp tránh thai tối ưu
thai não đồ để khẳng định chẩn đoán và ✓ Lựa chọn thời điểm ngừng thuốc khi chuẩn
xác định chắc chắn các hội chứng bị thụ thai (nếu bệnh nhân có cơn giật kiểm
động kinh soát tốt trên 2 năm)
✓ Tư vấn về nguy cơ mắc dị tật bẩm ✓ Chế độ chỉnh liều thuốc trong tương lai dựa
sinh, những bất lợi gây ra cho trẻ sơ trên loại và lượng thuốc động kinh để giảm
sinh và quá trình phát triển tâm thần thiểu tối đa nguy cơ cho thai mà không ảnh
vận động của trẻ của loại và liều thuốc hưởng đến việc kiểm soát cơn giật
đang dùng
✓ Cần tránh valproat; chỉ dùng valproat
khi không các lựa chọn thuốc khác
thay thế
✓ Cân nhắc dùng đơn trị liệu với liều
thấp nhất của thuốc có tác dụng kiểm
soát tốt cơn. Cân nhắc dừng thuốc nếu
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
cơn giật đã được kiểm soát tốt trên 2
năm.
✓ Tư vấn tầm quan trọng của việc kiểm
soát cơn giật trước mang thai.
✓ Tư vấn về các nguy cơ cơn giật tăng
cường hoặc nặng thêm trong quá trình
mang thai đặc biệt nếu ngừng thuốc
điều trị đột ngột (chấn thương ngã tăng
nguy cơ sảy thai, hoặc thai lưu, giảm
quá trình cung cấp oxy cho thai, tăng
suy thai, đột tử có liên quan đến động
kinh)
✓ Cung cấp thông tin về nguy cơ mang
thai ngoài ý muốn và các biện pháp
phòng ngừa.Tư vấn bổ sung acid folic
trước và trong thai kỳ cho tất cả phụ
nữ bị động kinh trong độ tuổi sinh đẻ.
Thảo luận về liều acid folic cần bổ
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
sung với bệnh nhân.
Quý 1 ✓ Theo dõi nồng độ thuốc trong máu với Chỉnh liều thuốc do ✓ Duy trì nồng độ thuốc điều trị (có thể lấy
các thuốc có độ thanh thải thay đổi cơn giật xuất hiện máu định lượng thuốc ở các lần thăm khám
nhiều trong thai kỳ (levetiracetam, hoặc do tác dụng sản khoa)
oxcarbazepine,lamotrigine)(nếu có thể) phụ của thuốc nhằm
✓ Khi không định lượng được nồng độ duy trì nồng độ
thuốc (như ở nghiên cứu này) cần thuốc trong máu ở
chỉnh liều thuốc khi cơn giật tăng mức có tác dụng
cường hoặc khi thuốc gây ra tác dụng kiểm soát cơn như
phụ nhằm duy trì nồng độ thuốc ổn trước mang thai
định ngang mức trước mang thai.
✓ Uống bù một liều thuốc điều trị nếu
nôn xuất hiện sớm sau uống thuốc
✓ Phát hiện và kiểm soát tình trạng trầm
cảm và lo âu của người bệnh
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
Quý 2 ✓ Tiếp tục theo dõi sự thay đổi nồng độ Chỉnh liều thuốc do ✓ Duy trì nồng độ thuốc điều trị
thuốc hàng tháng (nếu có thể) cơn giật xuất hiện ✓ Thông báo các kết quả sàng lọc (xét
✓ Chỉnh liều thuốc điều trị để duy trì nồng hoặc do tác dụng nghiệm máu và siêu âm) cho bệnh nhân sau
độ thuốc có tác dụng kiểm soát cơn, khi phụ của thuốc để khi đã xem xét kỹ
cơn giật tăng cường hoặc khi thuốc có các duy trì nồng độ
tác dụng phụ không mong muốn. thuốc trong máu ở
✓ Đánh giá lại các kết quả sàng lọc trước mức có tác dụng
sinh kiểm soát cơn như
✓ Nếu bệnh nhân có dấu hiệu gây ra do trước mang thai
các tác dụng phụ của thuốc, cần đánh
giá lại tiền sử bệnh và thăm khám lâm
sàng thần kinh
✓ Phát hiện và kiểm soát tình trạng trầm
cảm và lo âu của người bệnh
✓ Khả năng tăng nguy cơ cơn giật tăng Quý 3 Chỉnh liều thuốc do ✓ Duy trì nồng độ thuốc điều trị cường trước đẻ. cơn giật xuất hiện ✓ Thống nhất và tiến hành kế hoạch chuyển ✓ Đề xuất kế hoạch sinh dựa trên diễn
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
biến về thần kinh của người bệnh hoặc do tác dụng dạ và đẻ tại bệnh viên.Tư vấn thêm với bác
✓ Dựa trên các bằng chứng về lợi ích của phụ của thuốc để sỹ sơ sinh trong những trường hợp cụ thể
nuôi con bằng sữa mẹ đối với trẻ, cần duy trì nồng độ dựa trên các xét nghiệm trước sinh
lập kế hoạch dinh dưỡng cho trẻ mới thuốc trong máu ở
sinh mức có tác dụng ✓ Chiến lược trẻ được bú sữa mẹ đồng kiểm soát cơn như thời vẫn cần đảm bảo giấc ngủ đầy đủ trước mang thai cho mẹ.
✓ Kế hoạch giảm liều thuốc kháng động kinh
sau đẻ (dựa vào nồng độ thuốc kháng động
kinh ở tuần thứ 34-37 của thai kỳ) hoặc
hoạt động của cơn giật ở cuối quý 3
✓ Tư vấn về sự an toàn của trẻ sơ sinh và
các dấu hiệu cảnh báo khi trẻ đói hoặc
thiếu nước trong quá trình nuôi con
bằng sữa mẹ
✓ Nếu bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ do
tác dụng phụ của thuốc, cần đánh giá
Nội dung tư vấn bệnh nhân khi thăm Nội dung về dùng Nội dung trao đổi giữa bác sỹ thần kinh và Thời điểm khám lâm sàng thuốc động kinh sản khoa
lại tiền sử bệnh và thăm khám lâm sàng
thần kinh
✓ Phát hiện và kiểm soát tình trạng trầm
cảm và lo âu của người bệnh
✓ Đánh giá lại cơn giật tăng cường khi Hậu sản Xem xét giảm liều Bác sỹ thần kinh và sản khoa phối hợp: chuyển dạ cũng như tác dụng phụ (sau đẻ 4-6 đối với thuốc kháng ✓ Lập kế hoạch tránh thai ngắn hạn và dài không mong muốn của thuốc tuần) động kinh cần theo hạn cho bệnh nhân ✓ Đánh giá tình trạng trầm cảm và lo âu dõi và chỉnh liều ✓ Thảo luận về kế hoạch mang thai lần tiếp sau sinh theo lâm sàng của theo và lựa chọn thời điểm lý tưởng cho ✓ Đánh giá chất lượng giấc ngủ và chiến bệnh nhân người bệnh. lược cải thiện giấc ngủ
✓ Theo dõi quá trình dinh dưỡng và phát
triển của trẻ sơ sinh
✓ Đánh giá lại tiền sử bệnh và thăm khám
lâm sàng thần kinh nếu bệnh nhân có
các triệu chứng là tác dụng phụ của
thuốc.
PHỤ LỤC 2
MẪU BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU
Nhóm 1/2 STT: Mã số bệnh án:
I. Họ và tên BN: Năm sinh:
ĐT: Địa chỉ:
II.Tiền sử
Tiền sử gia đình
Tiền sử cá nhân
Tiền sử sản khoa: Số lần mang thai 1/2/3/4/5
Số tuần tuổi của thai khi khám lần đầu
Số lượng thai
Tiền sử biến cố sản khoa của lần mang thai trước: có/không. Nếu chọn có:
Chảy máu sau sinh Nhiễm trùng Đẻ non Sản giật Các biến chứng khác
Số lần thăm khám thần kinh khi mang thai:
III. Hoạt động của cơn co giật
Thời gian không có cơn trước khi mang thai: Tối thiểu 1 năm/ Dưới 1 năm (ghi rõ
số tháng)
Nếu BN vẫn còn cơn trước mang thai trong vòng 1 năm→
Tần suất cơn giật trước mang thai(số cơn/tháng)
Tần số cơn giật khi mang thai (cơn/tháng) Quý 1 Quý 2 Quý 3
Tăng lên ( )
Không đổi ( )
Giảm đi ( )
Phân loại cơn động kinh
Số loại cơn BN có: 1 loại/ nhiều hơn 1
Thời gian kéo dài cơn:
Dưới 1 phút 1-3 phút 3-5 phút trên 5 phút
Rối loạn ý thức trong cơn hoàn toàn/ một phần/không mất ý thức
Khởi phát cơn: cục bộ/ toàn thể/ không xác định
Có co giật co cứng toàn thân: có/không
Loại cơn động kinh phù hợp nhất
1. Cơn co cứng co giật toàn thân
2. Cơn khởi phát cục bộ không kèm rối loạn nhận thức
3. Cơn khởi phát cục bộ có kèm suy giảm nhận thức trong cơn
4. Cơn khởi phát cục bộ toàn thể hóa
5. Có nhiều loại cơn
6. Cơn không phân loại được
IV.Tuân thủ điều trị và thuốc kháng động kinh đang dùng
Có/Không
1.Có dùng thường xuyên 2.Dùng không thường xuyên→ tuân thủ điều trị:
3.Không dùng
/8 Điểm MMAS-8
Nếu dùng thuốc
Có/Không
Dùng VPA trước mang thai → liều dùng
Có/Không
Dùng VPA trong mang thai → liều dùng
Các loại thuốc khác
1.Phenobarbital 2.Phenytoin 3.Carbamazepine 4.Valproic acid
5.Gabapentine 6.Lamotrigine 7.Oxcarbazepine 8.Topiramate. 9.Levetiracetam
Liều dùng hàng ngày từng loại thuốc
Bổ sung acid folic trước mang thai Liều dùng mg /ngày
Có/Không
Bổ sung acid folic khi mang thai Liều dùng mg /ngày
Có/Không
Chỉnh thuốc trong thai kỳ
Có/Không
Số lần chỉnh thuốc
V.Dấu hiệu chung
Mạch: l/phút; Nhiệt độ: oC; Nhịp thở: lần/phút; HA: mmHg
Chiều cao: cm
Cân nặng trước mang thai: kg BMI trước mang thai
Cân nặng trước khi đẻ: kg BMI trước đẻ
Số cân tăng trong quá trình mang thai kg
Điểm GCS: E: V: M: = đ
Rối loạn ngôn ngữ: Có Không Không đánh giá được
Liệt nửa người: (P / T) Mức độ: /5
VI. CHT sọ não:
Vị trí tổn thương: trái/phải
1.Trán 2.Trung tâm 3.Đỉnh 4.Thái dương 5.Chẩm 6. Lan tỏa
Tính chất tổn thương: cũ/ mới
Trong cơn
Sau cơn < 24h
Sau cơn >24h
VII.ĐNĐ
Thời điểm làm ĐNĐ
Có/Không
Hoạt động kịch phát sóng động kinh
Nếu có mô tả
1.Gai nhọn 2.Nhọn sóng 3.Phức hợp nhọn – sóng
4. Phức hợp nhọn sóng-chậm 5.Phức hợp đa - nhọn sóng.
Vị trí kịch phát
1.Trán 2.Trung tâm 3.Đỉnh 4.Thái dương 5.Chẩm 6. Lan tỏa
Hoạt động sóng chậm
Có/Không
Nếu có mô tả
- Một bên bán cầu hay 2 bên bán cầu
- Khu trú hay lan tỏa
- Liên tục hay ngắt quãng
Vị trí sóng chậm
1.Trán 2.Trung tâm 3.Đỉnh 4.Thái dương 5.Chẩm 6. Nhiều vị trí
Các xét nghiêm cận lâm sàng
Công thức máu: Bạch cầu Hồng cầu Hgb MCV Tiểu cầu
Xét nghiệm sinh hóa máu: CK Đường máu Urê Creatinin GOT GPT
Cholesterol Trigycerid Cholesterol LDL Cholesetol HDL
Định lượng protein nước tiểu 24 giờ : g/l
VIII. Quá trình chuyển dạ
Có/Không
Cơn động kinh xuất hiện trong quá trình chuyển dạ
Cơn động kinh xuất hiện trong vòng 24h chuyển dạ
Có/Không
Cân nặng trẻ lúc sinh (gram):
Có/Không
Dị tật của trẻ phát hiện lúc mới sinh:
Trẻ đẻ ra có khóc ngay, có tím, có cần chăm sóc đặc biệt tại đơn vị cấp cứu sơ sinh
Có/Không
Cách thức đẻ : Đẻ thường/Đẻ mổ