HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN HẬU
ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI
Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN HẬU
ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI
Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 9229009
1. TS. LÊ TÂM ĐẮC
Người hướng dẫn khoa học:
2. PGS,TS HOÀNG THỊ LAN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Xuân Hậu
MỤC LỤC
Trang 1 MỞ ĐẦU
5 Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu 5
1.2. Một số vấn đề đã nghiên cứu và cần tiếp tục nghiên cứu 18
1.3. Cách tiếp cận, lý thuyết nghiên cứu và một số khái niệm cơ bản 20
Chương 2: ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC TÔN GIÁO Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ
28
KỶ XX
2.1. Điều kiện ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX 28
2.2. Quá trình phát triển của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX 48
Chương 3: ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG LÝ THUYẾT VÀ THỰC
HÀNH ĐỨC TIN CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI
62
THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
3.1. Một số đặc trưng trong lý thuyết tôn giáo 62
3.2. Một số đặc trưng trong thực hành đức tin tôn giáo 90
Chương 4: GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở
NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ MỘT SỐ
121
KHUYẾN NGHỊ
4.1. Giá trị đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ 121
4.2. Một số khuyến nghị từ đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ 130
KẾT LUẬN
146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
148
CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
149
PHỤ LỤC
161
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bửu sơn Kỳ hương BSKH
Đạo Cao đài CĐ
Phật giáo Hòa Hảo PGHH
PGHNTL Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn
TAHN Tứ ân Hiếu nghĩa
TĐCSPHVN Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, bên cạnh các tôn giáo ngoại nhập
như Phật giáo, Islam giáo (thường gọi là Hồi giáo), Công giáo, đạo Tin lành…, ở
Nam Bộ có sự hiện diện khá nhiều tôn giáo ra đời ngay tại vùng đất này, tiêu
biểu là Bửu sơn Kỳ hương (BSKH), Tứ ân Hiếu nghĩa (TAHN), Phật giáo Hiếu
nghĩa Tà Lơn (PGHNTL), Phật giáo Hòa Hảo (PGHH), đạo Cao đài (CĐ), Tịnh
độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (TĐCSPHVN),v.v...
Các tôn giáo nêu trên ra đời trong bối cảnh vùng đất Nam Bộ đã hình
thành và đang phát triển. Nhiều yếu tố lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội Nam Bộ
đương thời là tác nhân đối với các tôn giáo: môi trường khắc nghiệt của vùng đất
mới; vùng đồi núi Thất Sơn huyền bí, vùng giáp biên Tây Ninh - nơi lý tưởng
của chốn tâm linh; sự ảnh hưởng của Thiên Địa hội từ người Hoa đến Hội kín
của người Việt; sự dung hợp tư tưởng Tam giáo truyền thống cùng tín ngưỡng
dân gian; sự yếu thế của các tôn giáo truyền thống; sự mất vai trò của triều đình
nhà Nguyễn; xứ thuộc địa Nam Kỳ thuộc Pháp,v.v... Tất cả tạo nên khoảng trống
sâu sắc trong một xã hội bị hụt hẫng niềm tin, thiếu sự lãnh đạo chủ đạo về thần
quyền và thế quyền. Người dân Nam Bộ rất cần một phong trào tôn giáo mới để
khỏa lấp khoảng trống ấy.
Sự ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
không nằm ngoài bối cảnh chung của văn hóa, xã hội Nam Bộ. Chúng dung hợp,
sắp xếp, điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh xã hội mới, lôi cuốn người dân
thực hành cả các hoạt động tôn giáo lẫn các hoạt động xã hội. Mục đích đó đạt
được không chỉ vào thời điểm các tôn giáo ra đời mà còn vào những thời điểm
về sau khi nhiều sự biến đổi ở Nam Bộ diễn ra làm cho vùng đất này thay đổi
diện mạo. Điều đó cho thấy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có tính bền vững nhất
định bởi những giá trị không thể phủ nhận của các tôn giáo này.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã
tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội khu vực này. Về tác động tích cực,
2
các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ góp phần làm phong phú diện mạo tôn giáo, đáp
ứng nhu cầu tâm linh cho lưu dân; mở mang vùng đất mới, gây dựng và cố kết
cộng đồng; tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến cách mạng,v.v... Tuy
vậy, hoạt động của các tôn giáo này cũng cho thấy những tác động tiêu cực, nhất
là một số tôn giáo bị chính quyền Sài Gòn sử dụng để chống phá cách mạng; một
số chức sắc dựa vào tôn giáo để hoạt động chính trị. Vậy nên, việc một số tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sớm bị phân liệt, không
chỉ do yếu tố nội bộ mà còn do yếu tố bên ngoài.
Cho đến nay, nhóm tôn giáo ra đời ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX được nghiên cứu ở các mức độ với nhiều góc độ khác nhau như: tôn giáo
học, triết học, nhân học, xã hội học, văn hóa học, tâm lý học, sử học... Các công
trình tập trung lý giải mối quan hệ giữa vùng đất mới với tâm lý của lưu dân mở
đất; mối quan hệ giữa tôn giáo với phong trào yêu nước; mối quan hệ giữa tôn
giáo mới với tôn giáo truyền thống,v.v... Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây
đều thừa nhận tầm quan trọng của phong trào các tôn giáo mới trong bối cảnh
văn hóa, chính trị, xã hội Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Dù giá trị và đóng góp của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ được nhiều
người bàn đến, nhưng nhận diện những đặc trưng của chúng như: loại hình tôn
giáo, danh xưng tôn giáo, quan hệ chính giáo, nhất là dạng thức nội sinh,… cho
đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Kế thừa thành quả của các nhà nghiên
cứu đi trước, nhằm đóng góp nhiều hơn đối với lĩnh vực tôn giáo học nói riêng,
khoa học xã hội và nhân văn nói chung, tôi chọn đề tài “Đặc trưng của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đàu XX” làm luận án tiến sĩ, chuyên
ngành Tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
Luận án làm rõ những đặc trưng cơ bản về lý thuyết và thực hành đức tin
của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ đó rút ra
một số giá trị và khuyến nghị có liên quan.
3
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Thứ nhất, tổng quan một số vấn đề lý luận liên quan đến các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Thứ hai, trình bày hệ thống điều kiện ra đời và quá trình phát triển của
các tôn giáo ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Thứ ba, làm rõ đặc trưng cơ bản của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vào
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Thứ tư, đi sâu phân tích giá trị và khuyến nghị từ đặc trưng của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gồm: nhóm tôn giáo thuộc phong trào Ông
Đạo (Bửu sơn Kỳ hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, Phật
giáo Hòa Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam) và nhóm tôn giáo thuộc phong
trào Cơ Bút (đạo Cao đài, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: khu vực Nam Bộ, nơi ra đời, tồn tại chủ yếu của các tôn
giáo nội sinh được lựa chọn nghiên cứu. Ngoài ra, không gian nghiên cứu của
luận án còn mở rộng đến một số địa phương khác có sự lan truyền, ảnh hưởng
của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Về thời gian: từ giữa thế kỷ XIX (năm 1849, thời điểm ra đời đạo Bửu
sơn Kỳ hương) cho đến hiện nay (2019, thời điểm hoàn thành luận án).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, với lý thuyết “Nhà nước ấy, xã
hội ấy sản sinh ra tôn giáo” [12, tr.569]. “Nhà nước ấy, xã hội ấy” được hiểu là
bối cảnh xã hội cụ thể, khu vực cụ thể, giai đoạn cụ thể. Với Nam Bộ, đó là
4
những đặc điểm địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của cư dân
vùng đất mới, nơi hình thành các tôn giáo vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã
hội và nhân văn, như: phân tích - tổng hợp tư liệu (tư liệu gốc, tài liệu thứ cấp);
phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia (học giả, chức sắc, chức việc, tín đồ); các
phương pháp cụ thể như so sánh, khái quát, đối chiếu,v.v...
5. Đóng góp khoa học của luận án
Từ phương diện Tôn giáo học, luận án góp phần làm rõ những đặc trưng
cơ bản và một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến các tôn giáo
ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX.
Kết quả luận án còn đóng góp luận cứ khoa học cho việc nhận thức và
ứng xử đúng đắn hơn và khách quan hơn đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua phân tích những đặc trưng cơ bản của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, luận án đóng góp những luận cứ khoa
học trong nghiên cứu quy luật hình thành và phát triển của tôn giáo; mối quan hệ
tương tác qua lại giữa tôn giáo với các lĩnh vực của đời sống xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên ngành Tôn giáo học và nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân
văn; đóng góp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp
luật về tôn giáo, nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của nước ta thời gian tới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời cam đoan, Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình
khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 09 tiết và tiểu kết các chương.
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN TƯ LIỆU, TÀI LIỆU
1.1.1. Tổng quan tư liệu gốc
1.1.1.1. Kinh sách của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ
- Kinh sách của Bửu sơn Kỳ hương: nội dung giáo lý, lễ nghi của BSKH
thể hiện ở các bài giảng (vãn, sấm) do môn đệ hoặc người đời sau ghi chép lại
lời thuyết giảng của ông Đoàn Minh Huyên, chủ yếu do Ban Quản tự chùa Tòng
Sơn ấn hành, như: Giảng Giáp Thìn Thầy ở Gò Công, Giảng Mùa Đông (ba tập:
Mùa Đông, Năm Ông, Mười Sầu). Nguyễn Văn Hầu biên khảo và chú thích,
Sấm truyền Phật Thầy Tây An, Tòng Sơn Cổ Tự xuất bản 1973 [50].
Ngoài ra, tư liệu kinh sách của BSKH còn phải kể đến: Giảng xưa căn gốc
ông bà, Dưới bóng cội tùng, Lời sấm của Đức Phật Trùm, Sấm giảng Người đời,
Mười điều khuyến tu của Đức Phật Thầy Tây An... Riêng Sấm truyền Đức Phật
Thầy Tây An, luận án sử dụng quyển do Nguyễn Văn Hầu sưu tầm và biên soạn
được Tòng Sơn Cổ tự xuất bản năm 1973 [82], những quyển khác dùng để tham
khảo và đối chiếu.
- Kinh sách của Tứ ân Hiếu nghĩa: Kế thừa BSKH, nhưng TAHN có
thêm một số kinh sách, có thể chia làm 3 loại: Một là, kinh sách do ông Ngô Lợi
và ông Nguyễn Hội Chân (Nguyễn Hội Chơn) sáng tác. Hai là, kinh điển tiếp
thu, kế thừa từ BSKH. Ba là, các thể loại khác, nổi bật là những kinh khuyến
thiện. Luận án chủ yếu sử dụng các quyển: Linh Sơn hội thượng kinh, Hiếu
nghĩa kinh, Chuyển trạc kinh, Ngọc lịch đồ thơ tập chú, Ngũ giáo văn của Đức
Bổn Sư Núi Tượng... do Tam Bửu Tự - Phi Lai ấn hành.
- Kinh sách của Phật giáo Hòa Hảo: Kinh sách của PGHH gồm sấm
giảng của ông Huỳnh Phú Sổ được tập hợp thành bộ Sấm giảng thi văn toàn bộ
(gồm 6 quyển: Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, Kệ dân của Người Khùng,
Sấm giảng, Giác mê tâm kệ, Khuyến thiện, Những điều sơ lược cần biết của kẻ tu
6
hiền). Bộ Sấm giảng thi văn toàn bộ được Ban Phổ truyền Giáo lý Trung ương
PGHH tái bản nhiều lần. Luận án sử dụng bản Sấm giảng thi văn toàn bộ in năm
1966 [03]. Những bản Sấm giảng thi văn toàn bộ khác được luận án dùng để
tham khảo và đối chiếu.
- Kinh sách của Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn: Kinh sách PGHNTL gồm
Kinh Cứu khổ, Kinh Phổ môn, Triết Thánh đạo (Nguyễn Ngọc An viết năm
1961, An Bình tự ấn hành), Luật đạo (năm 1968, An Bình tự ấn hành) [58]; các
bài vãn như: Thập ngoạt hoà thai của Nguyễn Ngọc An, Vãn Tà Lơn và Vãn Lan
Thiên của ông Cử Đa (An Bình tự ấn hành) [59].
- Kinh sách của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam: Kinh sách của
TĐCSPHVN tiêu biểu gồm: Lễ bái lục phương, Phu thê ngôn luận, Phương
pháp thực hành đạo đức, Giới luật Phật pháp tu hành, Phật học vấn đáp,
Phương pháp kiến tánh, Phương pháp tu hành phước huệ song tu, Điều lệ người
mới nhập môn, Thống nhất nghi thức do Huỳnh Văn Dơn và Như Pháp biên
soạn, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007 và 2008.
- Kinh sách của đạo Cao đài: Kinh sách của đạo CĐ tiêu biểu gồm Pháp
chánh truyền, Tân luật, Đạo luật, Bát đạo nghị định (tổng hợp thành quyển Luật
pháp Cao Đài, Cao Đài Tây Ninh ấn hành và giữ bản quyền, tháng 9/2012).
Quyển Thánh ngôn hiệp tuyển trọn bộ (tổng hợp từ Thánh ngôn hiệp tuyển
quyển thứ nhất, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh kết tập từ năm 1928, Nhà in Tam
Thanh, Sài Gòn, và Thánh ngôn hiệp tuyển quyển thứ hai được Hội thánh Cao
Đài Tây Ninh tổng hợp và xuất bản lần đầu năm 1963, Nhà in Tuyết Vân, Sài
Gòn. Luận án sử dụng quyển Thánh ngôn hiệp tuyển trọn bộ in năm 1972, Tòa
thánh Tây Ninh giữ bản quyền [28], và Thánh ngôn hiệp tuyển quyển 1 và 2 hợp
nhứt và chú thích do Nguyễn Văn Hồng biên soạn và chú thích, ấn hành năm
2000 [61].
Ngoài ra, kinh sách của đạo CĐ còn phải kể đến: Ngọc Đế chơn truyền
tân ước tri nguyên, của Hội thánh Bạch y Liên đoàn Chơn lý, Nxb. Tôn giáo,
năm 2014 [17]; Đại thừa Chơn giáo, Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi,
7
Nxb. Tam giáo Đồng nguyên [26]; Lời thuyết đạo của Đức Hộ pháp thiêng liêng
hằng sống, Cao Đài Tây Ninh ấn hành, năm 2011 [31]; Từ điển Cao Đài (quyển
1 và quyển 2) do Đức Nguyên biên soạn năm 2011 [92],v.v...
1.1.1.2. Văn bản của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ
Văn bản của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ tiêu biểu gồm: Đạo thư của
Đức Quyền Giáo tông về việc phát hành quyển Pháp Chánh truyền, Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ, ngày 24/04/1932; Thánh huấn, Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh,
ngày 7 tháng 7 năm Đinh Hợi (1947); Thánh huấn, Tòa thánh Cao Đài Tây
Ninh, ngày 25 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1952); Thánh huấn, Hội thánh Cửu
Trùng Đài, ngày 19 tháng 5 năm Canh Tuất (1970); Thông tri, Hội thánh Cửu
Trùng Đài, ngày 14 tháng 5 năm Canh Tuất (1970); Chưởng quản Hiệp Thiên
Đài, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, ngày 12 tháng 10 năm 1976; Điều lệ, Đại đạo Tam
kỳ Phổ độ, Giáo hội Bến Tre, Bộ Nội vụ duyệt y theo Nghị định số
378/BNV/KS/14, ngày 28/5/1970, Công báo Việt Nam Cộng hòa số 35; Hiến
chương Phật giáo Hòa Hảo (2014-2019), Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa
Hảo, nhiệm kỳ IV, ngày 22/5/2014; Hiến chương Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam, Ban Trị sự Trung ương Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam; Hiến chương
Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Tòa thánh Tây Ninh, Cao Đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ
(các năm 1965, 1997, 2007); Hiến chương đạo Tứ ân Hiếu nghĩa, Tứ ân Hiếu
nghĩa, Đại hội lần 1: 2010 - 2015, Đại hội lần 2: 2015-2020,v.v...
Các tư liệu gốc nêu trên rất quan trọng để luận án nghiên cứu đặc trưng về
các mặt giáo lý, lễ nghi, tổ chức của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Tuy nhiên,
các tư liệu này có nhiều phiên bản khác nhau, nên một số nội dung không đồng
nhất. Vì vậy, luận án rất chú ý việc lựa chọn, đối chiếu, so sánh các bản kinh,
sách ở một mức độ phù hợp và tin cậy nhất có thể.
1.1.2. Tổng quan những vấn đề nghiên cứu liên quan nội dung luận án
Cho đến nay, hầu hết các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX nhanh chóng phát triển rộng khắp Nam Bộ, một phần ở Trung Bộ và
Bắc Bộ. Quá trình hình thành và phát triển, các tôn giáo này chịu sự ảnh hưởng
8
sâu đậm của thời cuộc ở Nam Bộ. Vì thế, đã từ lâu, đề tài này được nhiều nhà
nghiên cứu ở các góc độ quan tâm, có thể phân thành các nhóm sau:
1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu sự ra đời của các tôn giáo ở Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Georges Coulet, trong tác phẩm viết năm 1926, Les Sociétés Secrètes en
terre d’Annam (Hội kín xứ An Nam ) [147] đã viện dẫn các minh chứng vai trò
của hội kín ở xứ An Nam từ khi mới xuất hiện cho đến đầu thế kỷ XX. Đáng lưu
ý là, công trình này dành nhiều quan tâm mối quan hệ giữa hội kín người Hoa
với hội kín người Việt, giữa hội kín với các phong trào tôn giáo nội sinh ở Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: “Bằng chứng lịch sử cho thấy, sự tồn tại gần
gũi lý tưởng tôn giáo với lý tưởng hội kín, mặt khác trong thực tế tôn giáo và hội
kín đôi khi tỏ ra hành động đồng cách cho một mục tiêu đồng nhất, chẳng hạn
như đạo Lành (Tứ ân Hiếu nghĩa)” [147, tr.138].
Năm 1981, Phan Quang viết tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long [96].
Về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, dù không đề cập nhiều, nhưng với những trang
viết về điều kiện cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ, có thể thấy, thời
điểm bấy giờ, nơi đây đã hội tụ nhiều yếu tố lý tưởng cho sự ra đời hàng loạt
hiện tượng tôn giáo mới.
Trong tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ [79] do Huỳnh Lứa
chủ biên, từ nhiều thư tịch khác nhau, các tác giả giới thiệu quá trình di dân,
khẩn hoang và cộng cư của các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm trên vùng đất
Nam Bộ. Tác phẩm này không đề cập trực tiếp đến các tôn giáo nội sinh cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhưng có nhiều tư liệu về diễn trình khai phá Nam Bộ từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, cũng như sự biến đổi xã hội qua quá trình khai phá
Nam Bộ thời gian về sau. Các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến biểu hiện của sự
đoàn kết, gây dựng đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các dân tộc anh
em, qua sự hòa hợp, hỗn dung những yếu tố truyền thống, tiếp thu những giá trị
mới: “Nam Bộ nói chung [...], ngay trong buổi đầu khai phá, đã có nhiều dân tộc
sống chung, xen kẽ nhau. Đó là một điểm đáng chú ý so với bất cứ vùng nào trên
9
đất nước Việt Nam” và “Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều nguồn gốc địa phương,
nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển về mặt xã hội
trong nhiều thế kỷ qua đã không hề là yếu tố cản trở sự đoàn kết gắn bó nhau
giữa các tộc người cùng chung sống trên địa bàn Nam Bộ” [79, tr.239-240].
Trần Hồng Liên năm 1996 với tác phẩm Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ XVII
đến 1975 [77], và năm 2004 với công trình Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam
Bộ (tập hợp các bài viết của tác giả) [78], đề cập đến một số tôn giáo nội sinh ở
Nam Bộ như BSKH, TAHN, PGHH,v.v... Đáng chú ý khi tác giả cho rằng,
những tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là giáo phái/ hệ phái/ hay đạo giáo của Phật
giáo. Vì thế, trong phân tích của mình, tác giả đưa ra nhiều minh chứng về mối
liên hệ giữa Phật giáo và các tôn giáo nội sinh, trở thành đạo giáo riêng có Nam
Bộ: “... đã làm cho đạo Bửu Sơn Kỳ Hương trở thành một đạo giáo riêng có
(hiểu theo nghĩa là một đạo giáo của Phật giáo) ở đồng bằng sông Cửu Long, chỉ
có trong cộng đồng người Việt” [78, tr.303].
Năm 1997, Nguyễn Đăng Duy viết tác phẩm Văn hoá tâm linh Nam Bộ
[37]. Tác giả phân tích dòng chảy văn hóa tâm linh từ Đồng bằng sông Hồng đến
Đồng bằng sông Cửu Long trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Những giá trị tâm
linh luôn có sự tiếp nối và là mạng mạch không dừng của bao thế hệ người Việt.
Tác phẩm là một bức tranh khá tổng thể về đời sống tôn giáo, cũng như những
nét đặc sắc khác trong tâm linh người dân Nam Bộ. Nguyễn Đăng Duy chú trọng
phân tích yếu tố dung hợp của các tôn giáo, tiêu biểu là đạo CĐ: “... Chúa Trời
sáng tạo, an bài tất cả là từ đạo Gia tô, thần tiên giáng linh là từ đạo Lão, nhân
nghĩa làm người là từ Nho giáo, ham muốn nhục dục vật chất là nguồn gốc gây
ra mọi đau khổ là từ đạo Phật” [37, tr.71].
Trong công trình Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ viết năm 2004 [90],
Nguyễn Hữu Hiếu đi sâu tìm hiểu một số dạng thức tâm linh điển hình ở Nam
Bộ, từ sự ra đời đến sự thay đổi của chúng qua thời gian và không gian, đến
nguồn gốc, vai trò và ảnh hưởng của chúng. Theo tác giả, các dạng thức tâm linh
trong dòng tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ luôn có sự hòa nhập, dung hợp vốn văn
10
hóa có trước, nhưng không phải sự hòa nhập tùy tiện mà là có chọn lọc, phù hợp
với tính cách người dân Nam Bộ.
Một số tác phẩm của Sơn Nam như Đình miếu và lễ hội dân gian miền
Nam (1992) [83], Tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long (2000) [84], Phong
trào Duy Tân Bắc Trung Nam - Miền Nam đầu thế kỷ thứ XX - Thiên Địa hội và
cuộc Minh Tân (2014) [85], Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, Thuần phong
mỹ tục Việt Nam (2009) [88],... được Nxb. Trẻ phát hành. Những công trình của
“ông già Nam Bộ” biên khảo nhiều mặt đời sống xã hội, trong đó có sinh hoạt
tôn giáo của người dân Nam Bộ, các tổ chức Thiên Địa hội, hội kín Nam Kỳ,
những nghi vấn về mối quan hệ của các tôn giáo với các tổ chức của người Hoa,
người Việt,v.v... Những khảo cứu nêu trên được triển khai theo dạng kể chuyện
không những phản ánh khá chân thật về tính cách văn hóa - gắn liền với sinh
hoạt tâm linh của người dân Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mà còn
bàn sâu nguyên nhân và diễn biến của các tôn giáo ra đời ở khu vực này.
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu đặc trưng các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Nhóm công trình nghiên cứu phong trào các Ông Đạo:
Năm 1956, Nguyễn Văn Hầu biên soạn quyển Đức Cố Quản hay là Cuộc
khởi nghĩa Bảy Thưa [49], giới thiệu thân thế và sự nghiệp của Trần Văn Thành,
một đại đệ tử của ông Đoàn Minh Huyên, trong đó những mẩu chuyện về khởi
nghĩa của các nhà lãnh đạo phong trào kháng Pháp ở Nam Bộ như Thiên Hộ
Dương, Nguyễn Trung Trực hoặc việc ông được thầy giao quyền “cắm thẻ”.
Năm 1968, Nguyễn Văn Hầu ra mắt quyển Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo [52]
khảo luận sâu sắc về nhiều vấn đề mà cho đến nay giới nghiên cứu tôn giáo đều
quan tâm như: nguồn gốc PGHH, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, PGHH với bản sắc
dân tộc, PGHH có phải là một đoàn thể chính trị,v.v... Trong lần tái bản năm
2017, Nxb. Tôn giáo và Saigon Books đã bổ sung các bài viết về PGHH của Sơn
Nam, Nguyễn Hiến Lê, Minh Chi, Phạm Cao Dương, Phạm Công Thiện. Năm
1972, Nguyễn Văn Hầu cho ra đời quyển Thất Sơn màu nhiệm [51], giới thiệu về
11
vùng Thất Sơn khi còn thuộc Thủy Chân Lạp với những địa thế trọng yếu về
kinh tế, xã hội và những bậc “siêu phàm”. Ba tác phẩm nêu trên cho thấy, với tư
cách vừa nhà nghiên cứu vừa là tín đồ của PGHH, Nguyễn Văn Hầu có điều kiện
tiếp cận và lý giải khá sâu sắc về tôn giáo của mình, tuy không tránh khỏi một
vài hạn chế về nhận thức của “người trong cuộc”.
Một tác phẩm rất nổi tiếng của Tạ Chí Đại Trường mà hầu hết các nhà
nghiên cứu tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ không thể bỏ qua là Thần, Người và Đất
Việt [133], đề cập đến các hiện tượng tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX. Thuật ngữ “phong trào các Ông Đạo” được tác giả sử dụng là những
“hiện tượng tôn giáo mới” đương thời, với những đặc điểm cơ bản: là kết quả tập
hợp thần linh mới, là “những dòng tiên tri tản mạn”, là “sự hội tụ các dòng tiên
tri”,v.v... Chương X của tác phẩm giới thiệu vùng đất Nam Bộ, nơi tập hợp
những phong trào di dân cùng với hệ thống thần linh của mình, đặc biệt ảnh
hưởng Thiên Địa hội của người Minh Hương. Với Bửu Sơn Kỳ Hương, theo
ông, đó là sự khởi đầu của dòng tiên tri cho đến TAHN, đều hoạt động trong bối
cảnh dáng dấp là một hội kín: “Các tín đồ và hệ phái chống đối người Pháp, bị
đàn áp gắt gao đến nỗi trước năm 1945, danh từ Bửu sơn Kỳ hương (và Tứ ân
Hiếu nghĩa), ngay tại hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc, vùng phát tích mà chỉ
được nói khẽ với nhau trong dân gian, ở xa đến người hiếu kỳ không làm sao tìm
được tông tích” [133, tr.327].
Năm 1999, Đinh Văn Hạnh xuất bản cuốn Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa của
người Việt ở Nam bộ (1867-1975) [48]. Tác phẩm có khá nhiều thông tin về đạo
TAHN, không chỉ dừng lại những đặc điểm của tôn giáo này mà còn so sánh, đối
chiếu với những tôn giáo khác ra đời ở Nam Bộ đương thời.
Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia (2003), Hội thảo khoa học về giáo phái Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam [137]. Kỷ yếu tập hợp bài viết của nhiều nhà khoa học, chức việc và tín đồ
về những điểm mấu chốt của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam như lịch sử hình
thành, vấn đề hành đạo, tác động đến đời sống tín đồ. Cũng tại hội thảo này, vấn
12
đề Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là tổ chức tôn giáo hay là một giáo phái
Phật giáo rất được quan tâm đưa ra thảo luận.
Phạm Bích Hợp, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu sơn Kỳ hương -
Cao Đài - Hòa Hảo) [64], phân tích khá sâu sắc một số lý thuyết hình thành tôn
giáo nội sinh, trong đó có lý luận tôn giáo tính - phản ánh nhu cầu tôn giáo của
con người và lý giải dưới góc độ tiếp cận tôn giáo của người dân với các tôn giáo
mới được ra đời: “Đó là sự tương tác của một quá trình có thể nói là nội sinh
(endogène) là sự hình thành những cộng đồng tôn giáo bản địa, chứ không phải
chỉ là bản địa hóa một tôn giáo ngoại nhập nào” [64, Mở đầu]. Tác phẩm lý giải
vai trò tôn giáo đến cư dân Nam Bộ, khác với cách phát triển của các tôn giáo
trên thế giới là từ tôn giáo bình dân đến tôn giáo tăng lữ, tôn giáo quý tộc, tôn
giáo cung đình và sau cùng là tôn giáo quốc gia. Chương II hệ thống quá trình ra
đời từ BSKH đến PGHH, với những đặc điểm qua tư tưởng “học Phật tu nhân”,
“Tứ ân”, truyền thống “thờ cúng Tổ tiên” của người Việt và những yếu tố tôn
giáo của cộng đồng các dân tộc khác cùng sinh sống trên vùng đất Nam Bộ.
Năm 2013, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh An Giang tổ chức Hội thảo khoa
học Nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên [70]. Hội thảo tập hợp tham luận của các
nhà khoa học, nhà quản lý ở khu vực phía Nam, tập trung làm rõ tiểu sử của
Đoàn Minh Huyên cũng như đóng góp của ông tại vùng đất Nam Bộ thời kỳ khai
đạo. Những nội dung này giúp luận án có được những cứ liệu liên quan đến giáo
chủ của Bửu sơn Kỳ hương và một số vấn đề liên quan.
- Các công trình nghiên cứu nhóm phong trào Cơ bút (tiêu biểu là đạo
Cao Đài):
Nhà nghiên cứu người Pháp, đồng thời là tín đồ đạo CĐ Gabriel Gobron,
giai đoạn 1948 - 1949, đã xuất bản Lịch sử đạo Cao đài [145] và Lịch sử và triết
lý đạo Cao đài [146]. Trong hai tác phẩm này, G. Gobron phân tích khá sâu sắc
vai trò và yếu tố hình thành đạo CĐ, nhất là Thần linh học. Trong phần giới
thiệu triết lý CĐ, ông lưu ý vai trò liên kết những người đang sống với những
người đã chết và chuẩn bị cho kiếp tái sinh. Đây được xem là hai trong số những
13
công trình tiêu biểu của chức sắc CĐ về lược sử phát triển và ý niệm thiêng liêng
khá độc đáo của đạo CĐ.
Lê Văn Trung, Phương châm hành đạo [130], đề cập đến các nội dung:
người trong đạo, người ngoại đạo, phổ thông Thiên đạo, năng hầu đàn, điều lệ
hầu đàn, luật xem kinh sách,… thể hiện khá rõ đặc trưng cơ bản của tín đồ đạo
CĐ trong tu hành ở gia đình, thánh thất và xã hội. Nội dung quyển sách giúp
luận án nghiên cứu đặc trưng của đạo CĐ nói riêng, của các tôn giáo ra đời ở khu
vực Nam Bộ nói chung.
Trương Văn Tràng, Đại đạo giáo lý [129] gồm 3 nội dung: mặt tôn giáo,
vũ trụ quan và nhân sinh quan, Thượng thừa và Hạ thừa, trình bày những nét căn
bản về sự hình thành của đạo CĐ. Đó là kết quả việc tổng hợp của ba nguồn học
thuyết phương Đông truyền thống gồm Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Tác phẩm
là tư liệu có giá trị trong việc tìm hiểu triết lý đạo CĐ.
Giai đoạn 1967-1972, Đồng Tân viết cuốn Lịch sử Cao đài Đại đạo Tam
kỳ phổ độ - phần Vô vi [105] và cuốn Lịch sử Cao đài Đại đạo Tam kỳ phổ độ -
phần Phổ độ [106]. Năm 1997, Đồng Tân viết quyển Tìm hiểu đạo Cao đài
[107], một tập hợp 310 câu trả lời của các học giả nước ngoài tìm hiểu đạo CĐ
như Teb Dutton, Jeremy Davidson, Sergei A. Blagov. Trên lập trường một tín đồ
CĐ, Đồng Tân giải thích vấn đề đặt ra ở nhiều khía cạnh của đạo CĐ theo hướng
tôn vinh tôn giáo của mình. Các công trình của Đồng Tân có giá trị trong nghiên
cứu về đạo CĐ ở Nam Bộ, nhất là vấn đề nội bộ và sự phân rẽ của tổ chức tôn
giáo này. Những tư liệu này giúp luận án đối chiếu, so sánh với nghiên cứu của
những người ngoài CĐ.
Năm 1974, trong quyển Đại đạo giáo lý và triết lý [98], Trần Văn Rạng
giới thiệu một cách khá căn bản những điểm mấu chốt của đạo CĐ như quá trình
hình thành, cơ cấu tổ chức, quan niệm về vũ trụ, quan niệm về con người, Đức
Thượng Đế, Hội thánh Ngoại giáo.
Werner Jayne Susan, Peasant politics and religious sectarianism peasant
priest in the Caodai in Vietnam xuất bản năm 1981 [158], Lê Anh Dũng trích
14
dịch đăng trên Tạp chí Xưa và Nay, số 81B tháng 11/2000. Nội dung tác phẩm
gồm: đạo CĐ ra đời ở Nam Bộ thuộc Pháp; địa chủ và nông dân; Tây Ninh -
Thánh địa; bành trướng, suy vi và phần kết luận. Công trình là bản rút gọn từ
luận án tiến sỹ năm 1976 của tác giả với đề tài: Đạo Cao đài: Chính trị của một
phong trào tôn giáo tổng hợp (The Caodai: The Politics of a Vietnamese
syncretic religious Movement), Yale University, Southeast Asia Studies,
America. Tác phẩm minh chứng rõ đặc trưng nhập thế của đạo CĐ với xã hội
Nam Bộ. Werner cho rằng, đạo CĐ là phong trào nông dân lớn nhất Việt Nam
thời thuộc Pháp với hàng vạn tín đồ tham gia: “Đạo Cao Đài có một điều mới mẽ
cho mọi người. Sự khéo léo kết hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn giải rõ
ràng, chính xác truyền thống Tam giáo, không những tạo ra sức hút văn hóa
mãnh liệt mà còn đưa ra nguồn sinh lực mới” [158, tr.55]. Quan điểm nổi bật
trong nghiên cứu này cho rằng chính trị là mục đích quan trọng ra đời đạo CĐ.
Sergei Blagov, trong luận án tiến sĩ The Caodai: A New religious
movement (Đạo Cao đài: Một phong trào tôn giáo mới) [154] nhận định, sự ra
đời đạo CĐ là sự kết hợp giữa phong trào chính trị tôn giáo và tư tưởng truyền
thống, một sự hòa giải văn minh phương Đông với văn minh phương Tây, một tổ
chức chính trị tôn giáo ở Nam Bộ. Quan điểm của tác giả khá rõ ràng về sự dung
hợp của tôn giáo mới, nhưng một trong những yếu tố tạo nên đặc trưng của đạo
CĐ là Minh Sư đạo chưa được chú ý nhiều.
Năm 1995, công trình Bước đầu tìm hiểu đạo Cao đài [135] do Đặng
Nghiêm Vạn chủ biên, giới thiệu khá chi tiết về đạo CĐ ở các vấn đề chính yếu
như: lịch sử hình thành, sinh hoạt tôn giáo, tổ chức giáo hội và vai trò xã hội.
Đáng chú ý là, các tác giả đưa ra nhiều sự kiện liên quan đến Ngô Văn Chiêu,
Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung… Tác phẩm chia lịch sử đạo CĐ ra từng giai
đoạn cụ thể với những sự kiện trọng yếu. Về ảnh hưởng của đạo CĐ, tác phẩm
cho rằng: “Đạo Cao đài mang tính thực hành, một đạo chú trọng đến việc thu hút
quần chúng bằng cách đưa cho người dân đương thời món ăn tinh thần; trộn cái
đời thường với cái siêu hình, muốn tìm cho họ con đường giải thoát ức chế của
15
cuộc sống thường ngày” [135, tr.165]. Tác phẩm cũng bàn khá nhiều đến tính
dân tộc, tính nhập thế biểu hiện qua sự ảnh hưởng của đạo CĐ đến cộng đồng
người Việt ở Nam Bộ.
Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập 2: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó
trước các nhiệm vụ lịch sử (tái bản lần thứ ba) [43], đề cập đến nguồn gốc, bản
chất đạo CĐ, cũng như vấn đề tư tưởng đặt ra trong những cuộc tranh biện hiện
tượng đạo CĐ. Trên cơ sở dẫn luận ý kiến của các tác giả người CĐ như Gabriel
Gobron, Nguyễn Tử Thức..., lẫn ngoài đạo CĐ như Hòa thượng Thái Điên,
Nguyễn An Ninh, Trần Văn Giàu cho rằng: “Trong một điều kiện cụ thể nào đó,
đạo Cao đài tuy là một tôn giáo vẫn, không nhiều thì ít, không trực tiếp thì gián
tiếp, mang màu sắc và tính cách chính trị không làm cho dân sợ mà càng làm cho
nhiều người chú ý đi theo” [43, tr.216]. Phân tích của Trần Văn Giàu được luận
án kế thừa và tiếp tục chỉ ra lý do vì sao tôn giáo này lại phát triển rất mạnh ngay
sau khi ra đời.
Nguyễn Thanh Xuân, trong luận án tiến sĩ Sử học Quá trình ra đời và
phát triển của đạo Cao Đài từ năm 1926 đến năm 1975 [141], đi sâu khảo cứu
lịch sử đạo CĐ từ năm 1926 đến năm 1975 và ảnh hưởng của tôn giáo này đối
với đời sống chính trị đất nước; làm rõ những nhân tố quan trọng hình thành nên
đạo CĐ như: dân cư, địa lý, văn hóa, tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ; chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; những bế tắc trong cuộc sống của cư
dân Nam Bộ đương thời. Đặc biệt, tác giả làm rõ mâu thuẫn nội bộ chức sắc đạo
CĐ, một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến việc hình thành các chi phái
trong quá trình phát triển của tôn giáo này.
Trên cơ sở luận án của mình, Nguyễn Thanh Xuân sau này bổ sung, chỉnh
sửa và xuất bản thành cuốn “Đạo Cao đài hai khía cạnh: lịch sử và tôn giáo”
[220], tập trung bàn đến hoàn cảnh, điều kiện ra đời của đạo CĐ, quá trình phát
triển của đạo CĐ cho đến việc chia rẽ thành các chi phái, rồi hợp nhất. Với đời
sống chính trị, tác giả đề cập đến đạo CĐ tham gia kháng chiến cứu quốc và thái
16
độ của các thế lực đế quốc; chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước và quá trình
công nhận về tổ chức đạo CĐ. Với khía cạnh lịch sử, tác giả phân tích sự hình
thành, tồn tại của đạo CĐ từ một tổ chức thống nhất đến chia rẽ thành các hệ
phái khác nhau và nỗ lực thống nhất của đạo CĐ, đồng thời chỉ rõ những đóng
góp của đạo CĐ trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Các tác phẩm của
Nguyễn Thanh Xuân được luận án kế thừa trên phương diện lịch sử để tìm hiểu
tiến trình và sự phân hóa của đạo CĐ.
Năm 2015, Nguyễn Văn Trung với tác phẩm Hồ sơ về Lục Châu học -
Tìm hiểu con người ở vùng đất mới, dựa vào tài liệu văn, sử bằng quốc ngữ ở
miền Nam từ 1865 - 1930 [131]. Chương V của tác phẩm (Cao đài: Đạo ở vùng
đất mới) [131; tr.298-377], đã tổng luận về đạo CĐ thông qua các tác phẩm của
Đào Trinh Nhất, Cái án Cao đài, Imp. Commerciale Sài Gòn 1929; Băng Thanh,
Cái án Cao đài, Sài Gòn 1929; La Laurette et Vilmont: Le Caodaisme, bản đánh
máy, Sài Gòn 1933; Wener (Jayne Susan): Peasant polities and religious
sectarianisme peasant and priesf in the Cao đai in Viet Nam, Yale University
1981. Nguyễn Văn Trung có nhiều đánh giá độc đáo về đạo CĐ ở mỗi khía cạnh
nghiên cứu. Công trình này là một kho sử liệu quý về đạo CĐ, một trong những
cơ sở quan trọng để luận án nghiên cứu về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Nhóm công trình bàn về ý nghĩa của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Trong luận án tiến sĩ Triết học Đạo Hòa Hảo và ảnh hưởng của nó ở đồng
bằng sông Cửu Long [99], Nguyễn Hoàng Sa giới thiệu tổng hợp về đặc điểm
của PGHH. Là người An Giang, Nguyễn Hoàng Sa có điều kiện khảo sát điền dã
nên công trình phân tích khá tường minh những yếu tố cơ bản của PGHH và ảnh
hưởng của tôn giáo này đến đời sống xã hội Nam Bộ trong thập niên 90 của thế
kỷ XX. Đóng góp lớn của công trình này là hệ thống các sự kiện lịch sử và chính
trị của PGHH. Tuy nhiên, luận án của Nguyễn Hoàng Sa chưa thực sự quan tâm
phân tích “tính tôn giáo” của PGHH.
17
Phan An, với công trình Người Nam bộ dưới góc nhìn tôn giáo [01], dưới
góc độ Dân tộc học, đã phân tích đặc điểm của các “Ông Đạo” ở Nam Bộ, lý giải
nguyên nhân người Nam Bộ tin các “Ông Đạo”, nhấn mạnh vai trò của các “Ông
Đạo” đối với lưu dân người Việt đương thời. Cũng dưới góc độ Dân tộc học,
Ngô Văn Lệ có tác phẩm Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó đến đời
sống văn hoá của người Việt ở Nam Bộ [76]. Công trình đề cập các yếu tố tác
động đến dòng tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ; điểm chung của các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ; so sánh một vài đặc tính của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ với một
số tôn giáo truyền thống khác. Đáng chú ý, tác giả đi sâu phân tích sự khác nhau
giữa nhóm tôn giáo ra đời ở Tây Nam Bộ (khu vực Thất sơn, tỉnh An Giang) với
đạo CĐ. Điểm chung của hai công trình này là sự phân tích mối quan hệ giữa
đặc tính người Nam Bộ với “tôn giáo tính” ở vùng đất này.
Luận án tiến sĩ Tôn giáo học Phật giáo Hòa Hảo - Lịch sử và những vấn
đề hiện nay [46] của Bùi Văn Hải góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề về vị
trí, vai trò của PGHH ở Nam Bộ, đặc điểm của Đức Huỳnh Phú Sổ. Nội dung
chính luận án đánh giá thực trạng ảnh hưởng của PGHH đối với người dân Nam
Bộ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay và xu hướng của tôn giáo này
thời gian tới.
Năm 2010, Huỳnh Ngọc Thu bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Nhân học
với đề tài Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao đài trong bối cảnh văn hóa Nam
Bộ [116]. Luận án trình bày khái quát về đạo CĐ, các mối quan hệ của tôn giáo
này với đời sống chính trị - xã hội. Chú trọng khảo sát điền dã, Huỳnh Ngọc Thu
tiếp cận được nhiều ý kiến của tín đồ, chức sắc đạo CĐ trong bối cảnh hiện nay.
Dưới góc độ Nhân học, tác giả phân tích đặc điểm của đạo CĐ thông qua nghi lễ,
giáo lý, tổ chức của tôn giáo này.
Năm 2015, Nguyễn Thị Ánh Ngà bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Tôn
giáo học với đề tài Cao đài Đại đạo Chiếu Minh Tam thanh Vô vi: Quá trình
hình thành, phát triển và nếp sống đạo [89]. Luận án đề cập toàn diện một hệ
phái của đạo CĐ ở Nam Bộ (chủ yếu ở thành phố Cần Thơ): ra đời và phát triển,
18
giáo lý, luật lệ, lễ nghi, nơi thờ tự và đối tượng thờ tự, nếp sống đạo hiện nay,
ảnh hưởng của hệ phái này tới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Năm 2017, luận án tiến sĩ của Đinh Quang Tiến về Giá trị văn hóa của
Cao đài trong đời sống cư dân Nam Bộ [118], dưới góc độ Văn hóa học, đã nhận
diện giá trị của đạo CĐ đối với nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ và sự tác động của
những giá trị đó đến đời sống của cư dân Nam Bộ hiện nay. Tác giả có nhiều lý
giải văn hóa đạo CĐ từ khi hình thành đến diễn biến về sau, cho thấy sự chuyển
biến trong bối cảnh biến động của tôn giáo này.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Một số vấn đề đã nghiên cứu
Điều kiện ra đời các tôn giáo ở Nam Bộ có thể xem là đóng góp tiêu biểu
và rõ rệt của các công trình đi trước. Từ điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, cấu
kết tộc người đến biến động chính trị cho thấy, Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX là một phức hợp của nhiều yếu tố. Các yếu tố này tạo ra một “khoảng
trống tâm linh” đối với người dân Nam Bộ.
Các công trình đi trước đạt được nhiều kết quả đáng kể về lịch sử hình
thành dân cư Nam Bộ, ảnh hưởng văn hóa của các dân tộc và vai trò của các dân
tộc trong cộng đồng để tạo nên sự cố kết vừa chặt chẽ vừa cởi mở trong việc tiếp
thu cái mới,v.v... Đó là tiền đề quan trọng để các tôn giáo mới ra đời, trên sự kế
thừa, dung hợp văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống.
Một nội dung khác được các công trình đi trước chú trọng nghiên cứu là
yếu tố chính trị ở Nam Bộ cuối thế thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đó là: vai trò triều
Nguyễn, sự xâm lược và chính sách thuộc địa của thực dân Pháp đi cùng là một
lớp văn hóa mới phương Tây,v.v... Tất cả tạo nên một thách đố đối với các tôn
giáo truyền thống. Đó là tiền đề cốt lõi của quá trình hoạt động, biến đổi của các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Hầu hết các tác giả cho rằng, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là sự hỗn dung
tôn giáo, tín ngưỡng. Nét đặc sắc của sự hỗn dung đó thể hiện qua yếu tố truyền
19
thống là nền tảng. Dù còn quan điểm khác nhau, nhưng khi bàn đến các tôn giáo
ở Nam Bộ và đặc trưng của chúng, các nhà nghiên cứu thừa nhận, đó là những tổ
chức tiếp nối tinh thần “Cần Vương” với kiểu thức tổ chức mang màu sắc tôn
giáo, đảng phái tôn giáo chính trị hay phong trào tôn giáo cứu thế.
Các tác giả đánh giá cao tính cứu thế, tính chính trị của các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đồng thời, với góc nhìn đa
chiều, các tác giả chứng minh, sự biến động chính trị hết sức phức tạp qua
nhiều giai đoạn lịch sử Nam Bộ làm cho các tôn giáo nội sinh nơi đây luôn
biến đổi, có lúc gay gắt với các thể chế chính trị, cũng như chính quyền cách
mạng, để khẳng định một tiếng nói trong chính trường. Trải qua thời gian, sự
biến đổi xã hội làm cho các tôn giáo phải tự thay đổi để thích ứng. Điều này
làm cho đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có những biểu hiện mới,
với các xu hướng thế tục hóa, hiện đại hóa không thể khác nếu chúng muốn
tồn tại và phát triển.
Một số nghiên cứu lưu tâm đến vai trò, ý nghĩa của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ trên nhiều lĩnh vực. Đó là cách tiếp cận tôn giáo đương đại, tìm ra
nguyên nhân, giải pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ, cũng như những vấn đề mới có thể tác động đến đời sống
tôn giáo trong hiện tại và tương lai, trong đó đặc trưng của các tôn giáo có “tiếng
nói” quan trọng của sự tiếp cận giữa tính truyền thống và tính hiện đại.
1.2.2. Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa kết quả các công trình đi trước, luận án sẽ tập trung
nghiên cứu đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX ở một số phương diện cụ thể sau đây:
Về phương pháp luận, luận án làm rõ quy luật ra đời của các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ. Trong đó, luận án đặc biệt quan tâm đến sự tương quan giữa các
tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ với tôn giáo hoặc hiện tượng các tổ chức mang màu
sắc tôn giáo khác cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để làm sáng tỏ hơn quy luật
của phong trào các tôn giáo mới.
20
Về loại hình tôn giáo, luận án đi sâu phân tích nhằm giải đáp câu hỏi liệu
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có phải là những
thực thể tôn giáo độc lập hay chúng chỉ là sự phái sinh của tôn giáo có trước
được gắn bởi một tên gọi khác, hoặc các tôn giáo này có phải do các thế lực
chính trị lập ra.
Về phân loại đặc trưng tôn giáo, luận án sẽ khái quát hóa, hệ thống hóa
các quan điểm có trước và đưa ra cách phân loại đặc trưng tôn giáo theo phương
pháp và cách tiếp cận phù hợp của tôn giáo học. Theo đó, đặc trưng của các tôn
giáo tiêu biểu ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sẽ được luận án
phân loại theo hai nhóm vấn đề biểu hiện: đặc trưng về lý thuyết tôn giáo, đặc
trưng về thực hành đức tin.
Về góc độ tôn giáo học so sánh, luận án lưu tâm làm rõ những yếu tố tạo
nên đặc trưng của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ, chúng phản ánh điều gì trong
đặc trưng đó. Việc nghiên cứu đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa gì đối với vấn đề nhận diện và ứng xử với
các hiện tượng tôn giáo mới chủ yếu hình thành và tồn tại ở khu vực Miền Bắc
nước ta từ nửa cuối thập niên 80 đến nay.
1.3. CÁCH TIẾP CẬN, LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHÁI
NIỆM CƠ BẢN
1.3.1. Cách tiếp cận của đề tài
Cách tiếp cận Tôn giáo học: được luận án sử dụng nhằm phân loại, định
danh các đặc trưng tôn giáo, trong đó đặc biệt chú ý đến những yếu tố hình thành
nên đặc trưng lý thuyết tôn giáo và đặc trưng thực hành đức tin, cụ thể là tính kế
thừa, tính dung hợp, tính cứu thế, tính huyền linh, tính dân tộc, tính nhập thế,
tính chính trị, tính địa phương,v.v...
Cách tiếp cận Sử học tôn giáo: được luận án sử dụng nhằm tái hiện quá
khứ của các tôn giáo dưới hình thức cụ thể của chúng, tích lũy và bảo tồn thông
tin về những đặc trưng tôn giáo đã và đang tồn tại; nguồn gốc hình thành và quá
trình hoạt động của chúng.
21
Cách tiếp cận Nhân học tôn giáo: được luận án sử dụng nhằm làm rõ tôn
giáo tính của dân tộc Việt ở Nam Bộ, qua sự tác động, ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của người dân. Từ việc nghiên cứu này, luận án khái quát một số lý
luận giữa tôn giáo với cộng đồng tộc người ở nước ta nói chung, ở khu vực Nam
Bộ nói riêng.
Cách tiếp cận Chính trị học tôn giáo: được luận án sử dụng nhằm nghiên
cứu một số phương diện của chính trị học tôn giáo như: hoàn cảnh, trạng thái
đấu tranh chính trị của các tôn giáo, mối quan hệ chính trị giữa tôn giáo với các
giai tầng và đoàn thể xã hội khác nhau; tác dụng xã hội của chức năng chính trị
mà các tôn giáo thể hiện; mối quan hệ giữa đấu tranh tôn giáo với đấu tranh
chính trị ở Nam Bộ.
Cách tiếp cận Văn hóa học tôn giáo: được luận án sử dụng nhằm nghiên
cứu mối quan hệ giữa tôn giáo với văn hóa của cư dân Nam Bộ; ảnh hưởng văn
hóa tôn giáo tới văn hóa cộng đồng cư dân; quy luật biến thiên lịch sử, chức
năng văn hóa tôn giáo trong diễn tiến lịch sử vùng đất Nam Bộ.
1.3.2. Lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết thế tục hóa tôn giáo: Lý thuyết này phản ánh sự tác động của
đời sống xã hội thâm nhập ngày càng sâu vào đời sống tôn giáo, buộc tôn giáo
phải thay đổi và thích nghi để tồn tại; phản ánh mối quan hệ qua lại giữa tôn giáo
và xã hội. Luận án vận dụng lý thuyết thế tục hóa tôn giáo nghiên cứu đặc trưng
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX để thấy sự biến đổi
tôn giáo của các tôn giáo mới này trùng hợp với thời điểm mà các tôn giáo
truyền thống nhìn chung chưa đáp ứng tốt nhu cầu tinh thần cho xã hội thế tục
đương thời. Lý thuyết này cũng cho rằng, việc chuyển theo tôn giáo mới là một
xu hướng tìm kiếm vật chất và quyền lực, chứ không phải là giá trị siêu việt và
tinh thần [18, tr.137-138]. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX với yếu tố vật chất, quyền lực ấy đã tác động và chi phối ra sao, mức
độ thế nào trên cơ sở lý thuyết thế tục là những vấn đề trong nghiên cứu đặc
trưng tôn giáo đặt ra.
22
Luận án sẽ làm rõ mối quan hệ qua lại giữa các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
với xã hội khu vực này cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên cơ sở phân tích đặc
trưng sự ra đời và bản chất của chúng. Đó là sự tìm kiếm vật chất và quyền lực,
cũng như sự đa dạng thể chế và đường hướng chính trị, nổi bật là xu hướng đối
kháng và đa chiều trong thể chế chính trị ở Nam Bộ đương thời.
Tuy nhiên, lý thuyết thế tục hóa tôn giáo không phải là duy nhất và bao
quát cho sự nghiên cứu đặc trưng tôn giáo. Bởi lý thuyết này chú trọng tính thực
tiễn xã hội nhưng chưa đủ để làm rõ quá trình, mô hình và biểu hiện của đặc
trưng tôn giáo.
Lý thuyết địa - tôn giáo: là thuật ngữ chỉ ảnh hưởng tôn giáo trên một
phạm vi lãnh thổ, khu vực nhất định. Tôn giáo học phương Tây đôi khi còn gọi
là “thuyết địa lý nhân văn” (Theory of Human Geography) [19, tr.148-150].
Mới đầu, thuật ngữ này chủ yếu chỉ tác động của yếu tố địa lý lên tôn giáo,
nhưng hơn thế kỷ qua nó đã phát triển và mang nghĩa rộng, đó là:
Thứ nhất, địa - tôn giáo là lý thuyết nghiên cứu về sự tác động của các yếu
tố địa lý tới hành vi của tôn giáo và các quan hệ. Cụ thể, lý thuyết địa - tôn giáo
xem xét việc các điều kiện địa lý, khí hậu, tài nguyên, dân số,... tác động như thế
nào tới tôn giáo một quốc gia, một khu vực hay một vùng lãnh thổ và vị thế của
tôn giáo đó trong các mối quan hệ mà chúng có vai trò. Với cách tiếp cận này,
luận án sử dụng lý thuyết địa - tôn giáo nghiên cứu sự ra đời của các tôn giáo nội
sinh ở Nam Bộ là kết quả của một khu vực địa lý rất đặc biệt của vùng đất mới,
cùng những yếu tố đặc trưng so với các vùng miền khác ở Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Thứ hai, lý thuyết địa - tôn giáo chứng minh các yếu tố địa lý có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tôn giáo, đồng thời góp phần định hình bản
sắc và lịch sử của tôn giáo, nhóm tôn giáo ở khu vực địa lý đó. Ngược lại, lý
thuyết địa - tôn giáo còn phản ánh và khúc xạ diện mạo tôn giáo ở những khu
vực địa lý khác nhau, tình trạng di chuyển của các quần thể tôn giáo ở các giai
đoạn trên một khu vực địa lý. Điều đó cho thấy, ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
23
thế kỷ XX, sự linh thiêng hóa vùng Thất Sơn hay Tòa thánh Tây Ninh như các
“thánh địa” trong tâm thức người dân. Theo E. Routledge, “khu vực, địa phương
có môi trường địa lý, nhân văn đặc biệt: địa hình hiểm trở, sông lớn, dài và đa
tộc người thường có hiện tượng văn hóa, tôn giáo đặc biệt” [18, tr.148-149] là
không gian thiêng tôn giáo được hình thành tại vùng đất Nam Bộ và chúng được
thể hiện khá rõ qua lý thuyết địa - tôn giáo.
Trên cơ sở lý thuyết địa - tôn giáo, luận án phân tích những đặc trưng của
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, do những điều kiện hình thành nên chúng, nhất là
“khoảng trống tâm linh” và biến động chính trị ở xứ thuộc địa đã ảnh hưởng trực
tiếp đến các đặc trưng của các tôn giáo, cùng với đó là sự biến chuyển của những
đặc trưng này ở các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Lý thuyết vùng văn hóa: Lý thuyết này ban đầu được dùng để nghiên cứu
sự tương đồng văn hóa và đặc trưng văn hóa của vùng, qua đó phân biệt vùng
văn hóa này với vùng văn hóa khác. Có nhiều trường phái lý thuyết vùng văn
hóa như: Trường phái Tây Âu tập trung vào “khuyếch tán văn hóa” là sự thiên
di, lan tỏa, mô phỏng nhằm giải thích các hiện tượng tương đồng văn hóa.
Trường phái Bắc Mỹ cho rằng, văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong
quá trình lịch sử, gắn liền với môi trường xã hội nhất định và điều kiện địa lý cụ
thể. Vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa cần bắt đầu từ việc phân tích một tổ hợp các
yếu tố văn hóa, không thể riêng từng khía cạnh. Trường phái Xô Viết nhấn mạnh
đến yếu tố giao lưu và ảnh hưởng lâu dài giữa các tộc người trong một khu vực.
Sự thống nhất đó biểu hiện qua các đặc trưng ăn uống, đi lại, phong tục, lễ hội,
tín ngưỡng,v.v...
Ngô Đức Thịnh cho rằng, văn hóa vùng là vùng lãnh thổ có sự tương đồng
về tự nhiên, dân cư với mối quan hệ tương đồng về kinh tế, xã hội và con người
có sự giao lưu, ảnh hưởng văn hóa để hình thành văn hóa vật chất và tinh thần
của cư dân: “Văn hóa lãnh thổ hay văn hóa vùng là một dạng thức văn hóa, mà ở
đó trong một không gian địa lý xác định, các cộng đồng người do cùng sống
trong một môi trường tự nhiên nhất định” [114, tr.14]. Như vậy, văn hóa vùng là
24
thực thể văn hóa có đặc điểm riêng về địa lý, kinh tế, xã hội, văn hóa của một
cộng đồng thể hiện qua sinh hoạt, tổ chức, hoạt động của con người.
Lý thuyết văn hóa vùng được luận án sử dụng phân tích đặc trưng các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vùng đất lịch sử ở trung
tâm giao lưu của các nền văn hóa Nam - Bắc, Đông - Tây, theo quy luật hội tụ,
giao thoa, kết tinh, lan tỏa. Bởi vì, Nam Bộ mang đặc trưng về địa lý, kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Điều này mang sắc thái riêng của không gian văn hóa
tôn giáo được tiếp biến đậm nét.
Lý thuyết loại hình tôn giáo: là tổng thể những thủ thuật phân chia và
phân nhóm khách thể nghiên cứu theo những dấu hiệu nhất định. Kết quả của loại
hình hóa là các nhóm dấu hiệu ổn định về mặt thống kê, những hiện tượng xác định.
Những dấu hiệu bất biến của một khách thể nào đó cho phép quy nó về một loại
hình tương ứng. Sự khác nhau về dấu hiệu các khách thể trong một loại hình mang
tính ngẫu nhiên. Sự khác biệt này không quan trọng so với sự khác biệt về đặc tính
của những khách thể thuộc các loại hình khác. Phương pháp loại hình hóa cho phép
nhận biết được đặc trưng các loại hình tôn giáo trong lịch sử [63, tr.29].
Theo quan điểm mác xít có tôn giáo của xã hội tiền giai cấp và tôn giáo
của xã hội có giai cấp. X.A.Tocarev nhận định, tôn giáo trong xã hội tiền giai
cấp là sự bất lực của con người trước những hiện tượng xung quanh; tôn giáo
của những xã hội có giai cấp là tư tưởng của giai cấp áp bức, dựa trên sự biện hộ
cho sự bất bình đẳng xã hội [157, tr.18]. Một số nhà nghiên cứu khác phân loại
tôn giáo thành tôn giáo dân tộc, tôn giáo khu vực, tôn giáo thế giới; tôn giáo bản
địa, tôn giáo ngoại sinh; tôn giáo thuần nhất, tôn giáo hỗn hợp; tôn giáo truyền
thống, tôn giáo hiện đại; tôn giáo cũ, tôn giáo mới,v.v...
Với lý thuyết loại hình tôn giáo, luận án phân tích điều kiện, dấu hiệu đặc
trưng tôn giáo của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
để phân loại chúng. Đương nhiên, việc phân loại tôn giáo có nhiều ý kiến khác
nhau, nhưng đây là vấn đề tất yếu trong nghiên cứu tôn giáo nói riêng, nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung.
25
Các lý thuyết nêu trên được luận án sử dụng theo hướng tổng hợp, hỗ trợ
và bổ sung cho nhau, nhằm tìm hiểu một cách toàn diện đặc trưng của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên cả phương diện lý
luận lẫn phương diện thực tiễn.
1.3.3. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án
Đặc trưng tôn giáo: là nét riêng biệt tiêu biểu của tôn giáo, phân biệt loại
hình tôn giáo này với loại hình tôn giáo khác. Như vậy, đặc trưng các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là nét riêng biệt của loại hình tôn
giáo này so với loại hình tôn giáo khác cùng thời điểm, hoặc khác thời điểm.
Trong luận án này, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là các tôn giáo mới giai đoạn
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khái niệm “các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX” đồng nghĩa với “các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ/ các
tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ/ các tôn giáo mới ở Nam Bộ”.
Tôn giáo nội sinh: là những tôn giáo ra đời trong một quốc gia nào đó,
thay vì từ quốc gia khác truyền nhập vào (tôn giáo ngoại nhập). Do vậy, có thể
hiểu, khái niệm các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là
các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ. Bởi vì, chúng ra đời trong một hoàn cảnh rất
đặc biệt, tồn tại khá lâu dài và có vai trò không hề nhỏ đến cư dân Nam Bộ
đương thời và hiện nay.
Tôn giáo hỗn hợp: là tôn giáo xây dựng giáo lý, giáo luật, tổ chức, lễ
nghi, thờ tự,... dựa trên khuôn mẫu của nhiều tôn giáo có trước. Sự chi phối ấy
có thể vì chịu ảnh hưởng xã hội của các tôn giáo có trước, có thể muốn thu hút
tín đồ mới trong tín đồ tôn giáo cũ mang thói quen tín ngưỡng không dễ sửa bỏ.
Ở góc độ tiếp cận của luận án, tính hỗn hợp của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là
khá rõ qua các đặc trưng. Do đó, khái niệm tôn giáo hỗn hợp được sử dụng ở
một số nội dung liên quan đến sự hỗn dung, sự dung hợp của các tôn giáo này.
Tính cứu thế: là tôn giáo có tư tưởng và hành động cứu người đời thoát
khỏi cảnh đau khổ [93, tr.250]. Nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khái niệm tôn
giáo cứu thế khi bàn về bản chất của những tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Có thể
26
hiểu, cứu thế là một đặc tính khi các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời trong hoàn cảnh
nhiều đau thương dưới sự đàn áp, bọc lột của các chế độ thực dân, phát xít, đế
quốc và xa hơn nữa là sự bất mãn với triều đình phong kiến đương thời.
Thuyết mạt thế (Mạt thế luận): được cho là sự kiện cuối cùng hoặc số
phận cuối cùng của nhân loại (tận thế), liên quan đến cái chết, phán xét, Thiên đàng,
Địa ngục và cần đến Đấng cứu thế. Như vậy, Mạt thế luận của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ là thời Hạ nguyên của thuyết Tam nguyên với “Ngày phán xét cuối cùng”
để về với Hội Long Hoa/ Hội Long Vân hay Bạch Ngọc Kinh cùng Thượng đế.
Tính huyền linh: là sự huyền bí, mầu nhiệm, linh thiêng ngoài hiểu biết
thường tình của con người. Phần lớn các tôn giáo đều có tính huyền linh, bởi đó
là sự truyền thông của “Đấng thiêng liêng” được xem là cao hơn nhân loại
truyền đến cho người chưa biết những điều mà “Ngài” đạt được. Trong đặc trưng
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, tính huyền linh là những hoạt động huyền bí, mầu
nhiệm, linh thiêng mà giáo chủ được cho là sự hóa thân của Đấng thiêng liêng
mang đến cho tín đồ của mình.
Tính kế thừa, tính dung hợp: kế thừa là thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục
phát huy; dung hợp là hợp chung nhiều thứ/ nhiều yếu tố, đôi khi khó phân định
rạch ròi các thành phần của sự dung hợp. Tính kế thừa, tính dung hợp của các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ được hiểu là quá trình thừa hưởng, giữ gìn, dung nạp
và phát triển các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng Đông - Tây mà các tôn giáo này vận
dụng để trở thành những loại hình tôn giáo phù hợp với tư tưởng, triết lý,
phương châm, cách thức hành đạo mới.
Tính dân tộc/ dân tộc tính: là đặc tính của một dân tộc được truyền từ đời
này sang đời khác. Tính dân tộc là một trong những đặc trưng các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ. Bởi vì, các tôn giáo này mang trong mình những giá trị vốn có,
trường tồn của văn hóa truyền thống người Việt. Dẫu biết rằng, khi đến vùng đất
mới, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, chúng sẽ phải kế thừa, dung hợp, tiếp thu
những yếu tố mới, nhưng truyền thống dân tộc vẫn là yếu tố trội trong tư tưởng,
triết lý tôn giáo.
27
Tính nhập thế: là tôn giáo tham gia việc đời, đồng hành với đời sống xã
hội, không xa lánh cõi trần hay tu hành ẩn dật. Tư tưởng nhập thế/ tính nhập thế
được thể hiện cao độ, được xem là đặc trưng cơ bản nhất của các tôn giáo nội
sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Thông linh học (Spiritisme): xuất phát từ châu Mỹ truyền nhập vào châu
Âu nửa cuối thế kỷ XIX, sau đó nhanh chóng trở thành đối tượng tìm hiểu về
triết lý ở phương Tây. Thông linh học được biểu hiện qua phép thông công của
đạo CĐ, là những cách thức giao tiếp của chức sắc và tín đồ tôn giáo này với thế
giới siêu nhiên qua tục xây bàn, cầu cơ chấp bút (gọi tắt là cơ bút).
Cơ bút: là nghi lễ cầu cơ chấp bút, một nền tảng của đạo CĐ, được cho là
khai sinh và là phương tiện giảng truyền của đạo CĐ. Cầu cơ chấp bút là phương
pháp thông linh, đạo CĐ còn gọi nghi lễ này là phương pháp thông công.
Thiên Nhãn: là biểu tượng tôn giáo của đạo CĐ: Thượng Đế. Thiên Nhãn
còn là ý thức đại đồng của mọi tôn giáo theo quan niệm của đạo CĐ.
Trần Điều: là một tấm khung màu nâu đỏ bằng vải hoặc bằng giấy - biểu
tượng tôn giáo của BSKH, TAHN, PGHNTL.
Trần Dà: là một tấm khung màu nâu dà bằng vải hoặc giấy - biểu tượng
tôn giáo của PGHH.
Chữ Nhất (Nhứt): 壹, là biểu tượng tôn giáo của TĐCSPHVN - với ý
nghĩa là “Nhất tâm”.
Tứ Ân: bốn ân lớn gồm ân tổ tiên, ân đất nước, ân Tam bảo, ân đồng
bào và nhân loại - là rường cột trong giáo thuyết và thực hành đức tin của các tôn
giáo thuộc nhóm phong trào các Ông Đạo.
Ông Đạo: tên gọi chung của những người ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX có phương pháp và cách thức tu hành riêng khác, ví dụ: Đạo Kiếng -
ngồi trước kiếng, Đạo Nằm - nằm khi nói đạo lý, chữa bệnh; Đạo Cao - thân
hình cao trên 2m, Đạo Dừa - chủ yếu uống nước dừa...; hoặc gắn liền với tên
thật, thế thứ, công trạng: Đạo Huyên (Đoàn Minh Huyên), Đạo An (Nguyễn
Ngọc An), Đạo Lập (có công lập chùa),v.v...
28
Chương 2
ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC TÔN GIÁO Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA CÁC TÔN GIÁO Ở NAM BỘ CUỐI THẾ
KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị
* Về địa lý tự nhiên: Nam Bộ là vùng địa lý tự nhiên có nhiều nét riêng
biệt với những vùng khác trên cả nước. Với một vị trí địa lý thuận lợi, được thiên
nhiên ưu đãi, Nam Bộ trở thành vùng đất hứa của những người đi mở đất. Tuy
nhiên, Nam Bộ buổi đầu vô vàn khó khăn, thử thách đối với những người mới
đến. Thuận lợi và khó khăn góp phần hình thành nên những tôn giáo mới, vừa
mang giá trị đặc trưng truyền thống, vừa có tính thiết yếu mới, hòa hợp với môi
trường nơi vừa mới khai lập.
Mục “Phong tục chí”, sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức
viết: “… (Nam Bộ) đất rộng lương thực nhiều, không lo đói rét, cho nên ít chứa
sẵn, tục dân sa hoa, kẻ sĩ đua nhau tài giỏi, người bốn phương ở lẫn nhau, mỗi
nhà tự có tục riêng” [39, tr.141]. Điều đó cho thấy, Nam Bộ được thiên nhiên ưu
đãi quá nhiều. Vùng đất màu mỡ, động thực vật phong phú, dễ làm ăn sinh sống,
nhưng vẫn còn hoang sơ rậm rạp, nhiều cọp beo, cá sấu... gây nên nỗi khiếp sợ
cho những lưu dân mới đến, ngay cả khi quân Pháp mới xâm lược Nam Kỳ
[xem: 83, tr.9-10].
“Sợ hãi tạo ra thần linh” [136, tr.516]. Thật vậy, những điều nêu trên
khiến con người không thể không trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên đầy tai hoạ,
bệnh tật dễ dàng cướp đi mạng sống. Mặc dù có tín ngưỡng truyền thống từ
nhiều đời được mang theo, nhưng để cân bằng đời sống tâm linh ở miền đất mới,
những lưu dân ở Nam Bộ đã nảy sinh những nét riêng: “Môi trường thiên nhiên
Nam Bộ với những đặc điểm riêng biệt của nó, cũng đã để lại nhiều dấu ấn sâu
đậm trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần cũng như trong việc hình thành
29
tính cách của con người sinh sống ở đây” [95, tr.44]. Mặt khác, với điều kiện tự
nhiên như vậy, Nam Bộ có ưu thế mà ít nơi nào có được. Theo Đinh Văn Hạnh,
ưu thế nổi trội khiến cho vùng đất Nam Bộ như “mở được mọi cửa” để tiếp cận
với xung quanh [48, tr.14]. Đó là đặc điểm của tôn giáo, tín ngưỡng Nam Bộ, là
sự hội tụ văn hóa vùng, được kết tinh từ truyền thống dân tộc với văn hóa mới du
nhập, vừa thích ứng với điều kiện sống, vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh, đồng thời
thể hiện tính kết nối có cải biên những gì đã có của lưu dân vùng đất mới.
Hai nơi hội tụ thần linh ở Nam Bộ là vùng Thất Sơn và Tòa thánh Cao đài
Tây Ninh. Thất Sơn (Bảy Núi) thuộc tỉnh An Giang - nằm địa đầu Tây Nam Tổ
quốc, phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp Campuchia với đường biên giới dài hơn
100km, chốn thiêng liêng trên con đường tu luyện của các Ông Đạo trước khi
xuống núi lập đạo. Phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang, nơi có đông cộng đồng
người Hoa sinh sống, cũng là nơi PGHNTL ra đời. Phía Nam tiếp giáp với thành
phố Cần Thơ - trung tâm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Phía Đông và
Đông Nam giáp tỉnh Đồng Tháp, quê hương của Đoàn Minh Huyên và nhiều
Ông Đạo nổi tiếng khác. Không những vậy, địa lý tự nhiên vùng Thất Sơn có nét
đặc biệt so với các nơi khác ở Nam Bộ, đó là giữa vùng đồng bằng rộng lớn lại
xuất hiện một hệ thống đồi núi điệp trùng, trải dài khu vực biên giới Việt Nam -
Campuchia, tạo nên vẻ kỳ vĩ, linh thiêng cho vùng đất này. Có thể thấy rõ, Thất
Sơn là nơi lý tưởng nhất cho việc tụ hội thần linh ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Trung tâm của đạo CĐ là Tòa thánh Cao đài Tây Ninh. Tỉnh Tây Ninh
thuộc miền Đông Nam bộ, phía Tây và Tây Bắc giáp Campuchia, phía Đông
giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước, phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Long An. Tây Ninh là địa bàn chuyển tiếp giữa vùng núi và cao
nguyên Trung bộ xuống Đồng bằng sông Cửu Long; có vị trí cầu nối giữa
Thành phố Hồ Chí Minh với thủ đô Phnôm Pênh. Những người sáng lập đạo
CĐ là các viên chức làm việc trong chính quyền Pháp có điều kiện tiếp cận
văn hóa phương Tây, nên đạo CĐ có nhiều nét mới lạ đối với các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ.
30
* Về lịch sử, chính trị: Trước khi trở thành nơi trù phú, Nam Bộ trải qua
quá trình hình thành lâu dài. Nam Bộ được biết đến khoảng từ 4.000 năm đến
2.500 năm, là vùng tiếp giáp giữa cao nguyên đất đỏ và châu thổ sông Cửu Long
[95, tr.39], từ vương quốc Phù Nam thế kỷ I đến đầu thế kỷ III, vương quốc
Chămpa hình thành gồm cả phần đất Phù Nam; thế kỷ VI, vương triều Khmer
(Chân Lạp) thôn tính và kế nghiệp Phù Nam. Những thế kỷ tiếp theo của Nam
Bộ là khoảng thời gian đứt gãy cho đến khi các lưu dân tiếp tục đến đây.
Từ thế kỷ XVII, bằng cả đường bộ lẫn đường biển, người Việt đến khai
khẩn đất hoang, Nam Bộ trở thành vùng đất giàu sinh khí. Bấy giờ, chúa Nguyễn
đứng ra bảo trợ cho nhân dân tham gia các đợt di dân khẩn hoang. Số lượng di
dân vào Nam Bộ ngày càng nhiều, nhất là khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn khốc
liệt. Mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ với nông dân ngày càng gay gắt, chúa
Nguyễn có nhiều chính sách ưu đãi chiêu dân vào Nam Bộ. Đến thế kỷ XVIII,
việc khai phá Nam Bộ càng mạnh mẽ hơn. Các trung tâm thương mại nơi đây
khá phát triển như: Xoài Khôn, Chợ Lớn, nhất là lưu vực sông Đồng Nai, sông
Vàm Cỏ Tây, sông Tiền, sông Hậu. Cuối thế kỷ XVIII, trong Phủ biên tạp lục,
Lê Quý Đôn miêu tả vùng Đồng bằng sông Cửu Long như sau:
Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa
Đại, cửa Tiểu đi vào, toàn là rừng núi hàng ngàn dặm. Đất ấy nhiều
ngòi lạch, đường nước như mắc cửi, không tiện đi bộ. Người buôn có
chở thuyền lớn thì tất đèo theo xuồng nhỏ để thông đi các kênh. Từ
cửa biển đến đầu nguồn đi 6, 7 ngày, hết thảy là đồng ruộng, nhìn bát
ngát, ruộng phẳng như thế đấy, rất hợp trồng lúa, lúa nếp tẻ, gạo đều
trắng dẻo [38, tr.443].
Đánh giá về công cuộc khai phá Nam Bộ, Li Tana viết:
Trải nghiệm mở rộng biên giới về phía Nam có vẻ như đặt vấn đề hình
ảnh của một Việt Nam rất khác so với vùng lãnh thổ phía Bắc khi đó,
mở ra cánh cửa đến một thế giới khác, thế giới mà trong đó sự đa dạng
được chấp nhận và tận dụng cho sự phát triển của chính Việt Nam…
31
Đàng Trong trở thành đầu tàu mang tính lịch sử, kéo trọng tâm quốc
gia - dù được hình thành theo chính trị, kinh tế hay văn hóa - về hướng
Nam từ thế kỷ XIX cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị...
Thử nghiệm của nhà Nguyễn đã mở ra một cánh cửa phát triển khác
cho Việt Nam... Cuối cùng cánh cửa này bị đóng lại khi trật tự trở
thành một quan ngại xã hội to lớn của triều Nguyễn sau 1802 [156].
Thời kỳ này được đánh dấu bằng những bước phát triển rất mạnh mẽ ở
Nam Bộ dưới sự cai quản của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, tạo nên khí thế
mới với công cuộc khai hoang, cộng cư của các dân tộc Việt, Hoa, Khmer.
Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, phong kiến nhà Nguyễn mất vai
trò cai trị đất nước. Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế, chính trị, văn
hoá khốc liệt, đẩy mạnh vơ vét và đàn áp nhân dân, tiến hành hai cuộc khai thác
thuộc địa; thực thi chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, chính sách
văn hoá nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản. Trước tình hình này, các hoạt động
chống Pháp diễn ra liên tục ở khắp vùng Nam Bộ. Khởi nghĩa Trương Định
(1859-1864) là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu gây tiếng vang ở Nam
Kỳ. Khởi nghĩa Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương) từ năm 1861, hoạt động
mạnh nhất ở Tiền Giang và Đồng Tháp Mười. Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực,
một trong những người có nhiều chiến công vang dội ngay từ buổi đầu chống
Pháp, nhất là trận đốt tàu Esperance của Pháp trên sông Nhật Tảo (năm 1861).
Phong trào kháng Pháp của Nguyễn Hữu Huân, Trần Văn Thành (Đức Cố Quản,
đại đệ tử của Đoàn Minh Huyên) ở Châu Đốc, Long Xuyên,v.v...
Các cuộc khởi nghĩa đều thất bại, nhưng không vì thế mà ngọn lửa đấu
tranh của nhân dân Nam Bộ lụi tắt. Phong trào kháng Pháp tiếp tục diễn ra ở
Nam Bộ với một hình thức khác mang đậm màu sắc tôn giáo thần bí. Đây là giai
đoạn ra đời BSKH, TAHN và hàng loạt Ông Đạo gắn liền với khẩn hoang, lập
làng, kháng Pháp, chống áp bức của quan lại triều đình phong kiến.
Tư liệu lịch sử ghi nhận một lãnh tụ người Khmer tên là Asoa - gốc hoàng
tộc - lập căn cứ vùng Thất Sơn, Châu Đốc từng cộng tác với Nguyễn Hữu Huân
32
chống Pháp [xem: 44, tr.151]. Những hoạt động của Asoa được người Việt ở khu
vực này ủng hộ và đi theo. Cùng thời điểm còn có cuộc khởi nghĩa của
Pôkumpao ở Sài Gòn và Tây Ninh, cũng là người Khmer có uy tín, tác động
không nhỏ đến cộng đồng người Khmer ở Đông Nam Bộ. Ông liên kết với các
nhà ái quốc khác như Trương Quyền (con của Trương Định). Về sau, lực lượng
này tác động là một thế lực mạnh trong chống Pháp kéo dài từ Tây Ninh đến Tây
Nam Bộ với nhiều cuộc khởi nghĩa thành công rực rỡ. Điều này thể hiện mối
quan hệ mật thiết giữa các cộng đồng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống
Pháp ở những nơi được xem là thánh địa của Nam Bộ.
Cuối thế kỷ XIX, Paul Doumer trở thành Toàn quyền Đông Dương đem
lại một chính sách cai trị thuộc địa táo bạo và lâu dài, dồn sức vào khai thác
thuộc địa - chế độ trực trị của Pháp ở Nam Bộ. Báo cáo của Paul Doumer gửi về
Pháp ngày 22/3/1897 cho biết: “Toàn cõi Đông Dương không còn nơi nào đáng
lo ngại hay quá bi đát. Thực tế thì tại nhiều nơi cũng có những việc khó khăn có
thể trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ như đã khuất phục dưới quyền thống trị
của ta rồi, nhưng chưa phải họ đã nhìn nhận tính chất vĩnh viễn của quyền thống
trị của nước Pháp, họ đã sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một giây
phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ cái ách đè trên đầu họ” [dẫn theo: 45,
tr.667]. Điều này cho thấy, cuối thế kỷ XIX, nhân dân Nam Bộ luôn chờ đợi thời
cơ để kháng Pháp cho dù phong trào Cần Vương đã tan rã. Về sau, tiếp tục tinh
thần đó, nhiều tôn giáo có những hoạt động chống Pháp, tác động lớn đến lịch
sử, chính trị, xã hội Nam Bộ đương thời.
Đầu thế kỷ XX, một loạt cuộc biến loạn nổ ra như sự xuất hiện của hoàng
thân Cường Để chống lại vua Tự Đức do Pháp lập ra nhằm tuyên truyền cho
chiêu bài chống Pháp, hay năm 1908 với vụ Gilbert Chiếu (Trần Chánh Chiếu)
lập tổ chức khuyến nông, dưới danh nghĩa hòa bình. Để che giấu lời kêu gọi khởi
nghĩa, ông đã lập ra tờ báo Lục tỉnh Tân văn và hội thương mại tên Minh Tân
công nghệ, xưởng sản xuất xà phòng, khách sạn Nam Trung (Sài Gòn), khách
sạn Minh Tân (Mỹ Tho). Những địa điểm này là nơi tụ hội của các thành viên
33
nhóm Gilbert Chiếu. Ông cũng nỗ lực dẫn dắt và chu cấp cho thanh niên sang
Hồng Kông rồi Nhật Bản, nơi có Phan Bội Châu đến trước. Hoặc những hoạt
động cuối cùng của Đề Thám (1908-1913) chứng kiến một sự bùng nổ hoạt động
kháng Pháp liên quan trực tiếp đến hội kín, nhóm phái tôn giáo,... điều mà thực
dân Pháp vô cùng quan ngại và có những đối sách mới.
Năm 1912, những nhà lập pháp của Pháp tỏ ra khôn ngoan, làm theo
truyền thống An Nam khi thay thế án tử hình hoặc lưu đày bằng án phạt tiền
hoặc phạt tù; quan tâm tối đa các tổ chức có thể trở thành hiểm họa xã hội ở
chiến trận Đông Dương [xem: 147, tr.9]. Các tổ chức mà Pháp quan tâm là các
hội kín và các tôn giáo hoạt động dưới hình thức như hội kín đang hoạt động bí
mật hoặc bán công khai tại Nam Bộ. Tuy vậy, những cuộc phiến loạn vẫn tiếp
tục diễn ra như ở nhà tù Biên Hòa, chợ Cầu Ông Lãnh, Khám Lớn Sài Gòn,v.v...
Như vậy, đến đầu thế kỷ XX, nhiều chí sĩ yêu nước tụ hội ở Nam Bộ với
các hoạt động chống Pháp. Năm 1914, Hồ Biểu Chánh về An Giang. Năm 1921,
Nguyễn Sinh Sắc hoạt động ở vùng Tịnh Biên và Tân Châu. Năm 1924, Châu
Văn Liêm về dạy học tại Long Xuyên. Năm 1935, Nguyễn Hiến Lê từ Sơn Tây
(Hà Nội) về Long Xuyên lập nghiệp,v.v.... Cùng với đó, phong trào Minh Tân
diễn ra sôi nổi gắn liền với vai trò của Trần Chánh Chiếu, tích cực ủng hộ phong
trào Đông Du của Phan Bội Châu. Trần Chánh Chiếu chủ trương đánh đổ thực
dân Pháp, thành lập chế độ quân chủ lập hiến. Trên tinh thần Minh Tân, những
Thiên Địa hội, một hình thức đấu tranh mang tính tôn giáo của người Hoa chống
triều đình Mãn Thanh, khi đến Nam Bộ lại chống thực dân Pháp. Không những
thế, một trào lưu mới diễn ra ở Nam Bộ ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây, do
tác động của điều kiện kinh tế - xã hội đương thời. La Laurette nhận xét: “Kinh
tế Nam Kỳ ổn định, phát triển tốt. Nhiều người giàu mới xuất hiện, đưa của gửi
con du học Âu châu. Những du học sinh này trở về, đóng góp thêm cho đà Âu
hóa vùng đất này” [dẫn theo: 131, tr.333]. Đà Âu hóa đầu thế kỷ XX cho ra đời
đạo CĐ, không do một giáo chủ lập nên, mà do nhóm người Tây học sử dụng
thuật thông linh hay ông Đạo Dừa, từng du học ở Pháp, có tham vọng chính trị.
34
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Về kinh tế: Ngay từ thời gian đầu khai phá, do đặc thù địa lý, lịch sử,
con người và sự giao lưu văn hoá của các cộng đồng tộc người, kinh tế ở Nam
Bộ có nhiều điểm khác với các vùng miền trong cả nước. Ở Nam Bộ không có
chế độ công điền, công thổ, quan hệ thuê mướn là phổ biến chứ không phải phát
canh thu tô như cố hương miền Trung và miền Bắc. Từ lâu, vùng đất này có sự
thông thương trong nước và ngoài nước, nên sớm hình thành những thị tứ, kinh
tế hàng hoá sớm phát triển. Kinh tế điền chủ ở nông thôn kết hợp với kinh tế tiểu
chủ ở thị tứ phổ biến đẩy nhanh hơn quan hệ sản xuất hàng hoá hai chiều. Đặc
biệt, ở Nam Bộ có hình thức phụ canh mà ở Bắc Bộ, Trung Bộ rất hiếm. Đó là
chủ sở hữu ruộng đất không phải là người bản xứ: “Ruộng đất phụ canh là loại
ruộng đất có chủ sở hữu không phải là người bản thôn xã” [40, tr.177].
Khi thực dân Pháp khai thác thuộc địa, Nam Bộ rơi vào cảnh bị bóc lột.
Nông dân bị mất đất vào tay địa chủ, trở thành tá điền. “Trong số ruộng đất cướp
đoạt thêm được, thì riêng Nam Bộ là 503.000 ha, bằng 2/3 tổng số” [141, tr.36].
Họ rơi vào thân phận mất nước, bị đàn áp, bóc lột ngay chính nơi tự tay khai
phá. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến tinh thần
cứu nhân độ thế của các tôn giáo giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
* Về xã hội: Nam Bộ từ lâu có dân sinh sống, đến thế kỷ XIII, người
Khmer ở Campuchia đến khai phá. Họ thường ở những nơi cao ráo dọc theo các
sông để trồng lúa và làm màu [21, tr.314]. Theo Ngô Đức Thịnh, thời điểm
người Khmer có mặt ở Nam Bộ sớm nhất khoảng thế kỷ XIII, sau khi Vương
quốc Ăngko tan vỡ. Nếu vậy, người Khmer đến khai thác vùng này sớm hơn
người Việt khoảng 2-3 thế kỷ [115, tr.285]. Đến thế kỷ XVI, người Việt có mặt
ở Nam Bộ, với nhiều nguồn gốc xã hội khác nhau. Một số là tù nhân được đưa
vào khai hoang. Một số là giang hồ, dân nghèo tìm đến đây để cư trú. Đa số là
binh lính, quan lại vào bảo vệ vùng đất mới, rồi ở lại [140, tr.269].
Khi nghiên cứu về cư dân Nam Bộ, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến
cụm từ “Miệt Hai huyện”, “Dân Hai huyện”. Trong Lịch sử khẩn hoang Miền
35
Nam, Sơn Nam cho rằng, “Miệt Hai huyện” là nhóm người ngũ Quảng (Quảng
Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi) vào Nam lập nghiệp.
Miệt Hai huyện là khu vực rạch Ông Chưởng (Long Xuyên). Hai huyện là huyện
Tân Bình và huyện Phước Long, hai đơn vị hành chính đầu tiên do Chúa Nguyễn
thiết lập ở miền Nam, nay là vùng Gia Định và Biên Hòa. Còn với người Long
Xuyên, được gọi là Dân Hai huyện, chắc là do xưa kia họ từ Biên Hòa, Gia Định
xuống lập nghiệp, hoặc họ là binh sĩ từ ngũ Quảng vào định cư tại Long Xuyên.
Trong biên khảo Tôn giáo trong dòng lịch sử dân tộc Việt, Cao Thế Dung
viết về Dân Hai huyện như sau: “Dân Hai huyện vẫn giữ được cá tính Việt Nam,
đặc biệt là biểu tượng cho dòng văn hóa Việt trải dài từ Gia Định qua Định
Tường đến Vĩnh Long, An Giang, Châu Đốc và Cao Lãnh. Dân Hai huyện bành
trướng rất nhanh, trong vùng An Giang (...) Dân Hai huyện càng ngày càng
đông, tổ chức thành thôn xóm theo định chế của triều đình, theo phong tục tập
quán của ta đem theo trong cuộc trường chinh từ Bắc vô Nam qua trạm dừng
chân là Gia Định” [34, tr.12-19]. Khái lược về Dân Hai huyện để thấy lưu dân
Nam Bộ chủ yếu từ miền Trung, trải qua chặng đường dài đến với Nam Bộ đã
mang theo văn hóa từ quê cha đất tổ đến với vùng đất mới để được đổi đời.
Người Hoa cũng góp phần khai khẩn và phát triển vùng Nam Bộ. Năm
1678, Mạc Cửu dẫn 400 người đến khai phá Hà Tiên. Năm 1679, Dương Ngạn
Địch và Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn cho vào định cư ở Mỹ Tho và
Biên Hòa. Nhóm người này được gọi là dân Minh Hương. Về sau, đến thế kỷ
XX vẫn còn nhiều đợt người Hoa di cư đến Nam Bộ. Với người Hoa, dù thuộc
thành phần nào, ở đâu và làm gì, họ luôn kết hợp với nhau trong một tổ chức gọi
là bang, do một bang trưởng lãnh đạo [xem: 64, tr.56-57].
Người Hoa đến Nam Bộ mang trong mình khí chất trung quân. Việc rời
bỏ Trung Hoa lưu tán sang các nước thể hiện chí khí trung quân - “phản Thanh
phục Minh”. Dương Ngạn Địch bày tỏ nguyện vọng lên chúa Nguyễn: “Chúng
tôi là tôi lưu vong của nhà Đại Minh, vì nước thề hết lòng trung. Nay lực kiệt,
thế cùng, quốc tộc nhà Minh đã chấm dứt, chúng tôi chẳng chịu làm tôi tớ nhà
36
Thanh, nên chạy đến quý quốc, thành tâm xin làm tôi tớ” [71, tr.315]. Chúa Hiền
chấp nhận lời xin, mở yến tiệc đãi họ, không những cho các tướng lĩnh giữ
nguyên chức cũ, mà còn phong thêm quan tước mới. Những lưu dân người Hoa
thể hiện sự trung quân với nhà Minh. Khi đến Nam Bộ, họ là thần dân nhà
Nguyễn. Khí chất trung quân của họ được thể hiện với vương triều hiện tại. Nhà
Nguyễn bao dung, ghi nhận công lao của họ trong cuộc chiến tranh chống Cao
Miên, Xiêm La, phong chức tước và tạo cơ hội để họ làm ăn và phát triển.
Có thể thấy rõ, quá trình cộng cư diễn ra hiện tượng đan xen nhiều tôn
giáo khác nhau, nhưng tinh thần bao dung tín ngưỡng luôn được các dân tộc ở
Nam Bộ cùng nhau gìn giữ: “Không thể kể hết sự giao lưu văn hóa người Việt
với các dân tộc khác trong vùng trên tất cả các lãnh vực (...). Trong sự giao lưu
đó, trên cơ sở dung hợp, tiếp thu có chọn lọc, nền văn hóa của người Việt trong
vùng đã được nâng lên, được làm phong phú thêm với nhiều nét đặc sắc” [95,
tr.43-44]. Sự kết hợp đó không cần nghĩ đến tôi là ai, tôi từ đâu, tôi và anh có
quan hệ như thế nào. Trịnh Hoài Đức nhận xét: “Người Gia Định khi nói chuyện
với nhau, thường nói lẫn tiếng người Trung Quốc, người Cao Miên, người nghe
quen cũng hiểu, mà không phân biệt là tiếng khác” [39, tr.148].
Trên tinh thần ấy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ mang những giá trị văn
hoá dân tộc, sự dung hợp giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo có trước với điều kiện
văn hóa vùng đất mới, xây dựng một hệ thống tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu
tâm linh cho một bộ phận người dân nơi đây. Vì thế, các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ phản ánh con người Nam Bộ với các đặc tính: hòa hợp, bình dị, bao dung,
hào phóng, trọng nghĩa, năng động, linh hoạt, thiết thực,v.v...
2.1.3. Điều kiện văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
* Về văn hoá: Văn hóa Nam Bộ có sự pha trộn văn hóa các dân tộc, tạo
nên một tổng thể văn hoá phong phú, trong đó tôn giáo cũng vậy. Điều này do
quá trình tiếp biến văn hóa dẫn đến sự hỗn dung tôn giáo. Theo Thạch Phương,
đó là sự hỗn hợp dân cư của nhiều địa phương, nhiều tôn giáo khác biệt, nhiều
trình độ phát triển xã hội trong nhiều thế kỷ qua không hề là yếu tố cản trở sự
37
đoàn kết, gắn bó nhau giữa các tộc người [xem: 95, tr.43]. Ngoài người Việt di
cư vào, các dân tộc khác có mặt ở những giai đoạn khác nhau, góp phần tạo nên
sắc thái riêng của vùng đất Nam Bộ.
Xã hội Nam Bộ mang tính “động” và “mở” rất cao trên cơ sở của điều
kiện tự nhiên, hình thành nên văn hóa, lối sống của con người nơi đây. Hình thức
cư trú điển hình cho sự chủ động về môi trường tự nhiên của cư dân Nam Bộ.
Đặc biệt là Tây Nam Bộ, do điều kiện địa hình, người dân thường làm nhà bằng
những vật liệu có sẵn giản đơn, dễ di chuyển, cặp bờ kênh rạch và sông ngòi
thuận lợi đi lại, làm nông, đánh bắt cá tôm,v.v... Với lịch sử hình thành khá ngắn,
là dân “tứ chiếng”, nên luật lệ phức tạp nơi quê cũ khó buông bỏ, không nặng
phân biệt dân cũ mới, vùng miền, địa phương,... là thuộc tính của vùng đất mới:
“Chưa bị ràng buộc bởi luật lệ, quy chế nghiêm ngặt với những lệ làng, hương
ước phức tạp. Và cũng không có sự phân biệt giữa người đã ở lâu với người mới
đến, giữa dân chính gốc và người ngụ cư. Từ sau khi nhà Nguyễn thiết lập và
củng cố bộ máy quản lý hành chánh, tình hình có thay đổi khác hơn, nhưng nhìn
chung thiết chế làng xã ở đây vẫn lỏng lẻo hơn so với làng xã ở đồng bằng Bắc
Bộ” [95, tr.38]. Đó là tính mở về thiết chế xã hội Nam Bộ.
Vì thế, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm, xáo trộn do mở mang đô thị tạo
nên những biến động rất lớn đến đời sống người dân Nam Bộ, phát sinh trong xã
hội những cái khác hẳn cách sống trước đây, đời sống trở nên tạm bợ, khủng
hoảng, bế tắc. Lực lượng trần thế và lực lượng thần linh cũ không thể chở che,
bảo hộ cho cuộc sống của người dân Nam Bộ được nữa. Họ cần đến thế lực siêu
nhiên khác mới. Nói cách khác, tính chất tâm linh của người Nam Bộ rất cao.
Nhưng giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khoảng trống tâm linh rất lớn,
người Nam Bộ cần một tâm linh mới trên những gì vốn có, gần gũi, thân thuộc.
Những đặc trưng về văn hóa đã hình thành nên đặc tính người Nam Bộ.
Người Nam Bộ cư xử hào hiệp, coi trọng nghĩa khí, coi khinh tiền tài, có thể vì
nghĩa khí mà xả thân không nuối tiếc [xem: 114, tr.323-324]. Tính cách đó là
chất liệu mà các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ được hưởng thụ, trở thành một trong
38
những đặc trưng văn hóa của con người nơi đây. Phạm Bích Hợp cho rằng: “Các
tôn giáo bản địa này đã trở thành những thành phần văn hóa dân tộc và chất liệu
của những thành phần văn hóa ấy đã trở thành chất liệu không thể phủ nhận
được trong sự hình thành đặc điểm nhân cách hàng triệu người Nam Bộ” [64,
Mở đầu]. Về cơ bản, tính cách người dân Nam Bộ có mấy đặc tính sau:
Tính hòa hợp và bình dị: Tính cách này được hình thành bởi môi trường
thiên nhiên Nam Bộ. Dù Nam Bộ lúc bấy giờ được xem là “rừng thiêng, nước
độc”, nhưng thiên nhiên không phụ lòng người đi khai hoang, ban cho họ sản vật
vô cùng phong phú: “Ai ơi về miệt Tháp Mười/ Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”.
Có thể nói, khi xưa người dân Nam Bộ không sợ đói vì thực phẩm dồi dào, đất
đai trù phú: “Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng/ Về sông ăn cá về đồng ăn cua”,
“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh/ Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm”.
Tính hòa hợp và bình dị thể hiện rõ trong cách ăn ở thích nghi với vùng
sông nước hay biển cả, nơi có nhiều thủy hải sản, nên cuộc sống của người dân
Nam Bộ thường gắn chặt với giao thương sông nước, từ đó hình thành các hoạt
động “trên bến dưới thuyền”. Trịnh Hoài Đức nhận xét: “Ở Gia Định chỗ nào
cũng có thuyền ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để đi chợ, thăm bà
con, chở củi gạo, đi buôn bán lại càng tiện lợi. Thuyền ghe đầy sông, đi lại đêm
ngày, mũi thuyền, đuôi thuyền liền nhau” [39, tr.148]. Đặc tính hòa hợp và bình
dị thể hiện qua sự dung hợp các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Cần lưu ý, đặc tính
này không có nghĩa là sự dung hợp tùy tiện, mà là sự thích ứng với điều kiện
sống ở một môi trường mới.
Tính bao dung và hào phóng: Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và hiểm trở,
nên người dân Nam Bộ hình thành triết lý sống chan hòa, dựa vào nhau để tồn
tại, hỗ trợ nhau thân tình, không câu nệ thân sơ, bởi họ là dân “tứ chiếng”. Từ lối
sống đó, giữa những người dân Nam Bộ nảy sinh sự gắn bó, tri kỷ sâu đậm và
thường kết nghĩa anh em, bạn bè chân thành, sâu sắc. Họ không bận tâm hình
thức, tiểu tiết, mà rộng mở, chở che cho những người “tứ cố vô thân” mới đến
bằng sự hiếu khách, thịnh tình. “Ở Gia Định, khách đến nhà thì mời ăn trầu
39
trước, thết nước chè rồi mới đến ăn cơm bánh, cốt phải phong hậu. Không kể
người thân hay sơ, lạ hay quen, tung tích thế nào, đã đến tất phải tiếp, phải đãi”
[39, tr.146]. Vì vậy, sự bao dung, hào phóng là đặc trưng dễ nhận thấy của người
dân Nam Bộ. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ thừa hưởng đặc tính đó. Cho nên, tín
đồ các tôn giáo nơi đây không phân biệt sang giàu, thấp hèn, hình tướng... mà
quan trọng là làm việc thiện nghĩa, không tính thiệt hơn.
Tính trọng nghĩa: Với người dân Nam Bộ, trọng nghĩa được xem là
nguyên tắc sống, chuẩn mực giá trị của con người. Họ xem “nghĩa” nặng hơn
“tình”, là yếu tố quan trọng để tạo nên con người dung hòa các mối quan hệ,
đúng như nhận định của Trịnh Hoài Đức, họ phần nhiều trung dũng khí tiết,
khinh của trọng nghĩa [xem: 39, tr.142].
Người rời bỏ quê hương đến Nam Bộ nhìn chung nghèo khổ, giang hồ,
phiêu lưu, bất khuất. Họ ra đi với tài sản vật chất giản đơn, nhưng không hề nhẹ
về tài sản tinh thần. Vì thế, người Nam Bộ trọng nghĩa khinh tài, khí phách hiên
ngang, rõ ràng dứt khoát: “Có câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người như thế cũng phi
anh hùng”. Người dân Nam Bộ vừa trọng nghĩa, vừa trung quân: “Đối với lưu
dân Việt, trung quân được thể hiện có sự sàng lọc, chính nghĩa rõ rằng, chỉ trung
quân khi vua xứng đáng là vua, quan lại thanh liêm “quân ra quân, thần ra thần”
còn bằng không thì ngược lại” [131, tr.87]. Sự khẳng khái của người Nam Bộ thể
hiện khá rõ qua các tôn giáo ra đời ở nơi đây. Đó là khát vọng độc lập dân tộc,
chống cường hào ác bá, ngoại bang xâm lược, áp bức bóc lột... bằng việc thực
hành đạo lý ở đời. Người sáng lập các tôn giáo rất ý thức thi hành “hiệp nghĩa”
để đền đáp “Tứ ân”.
Tính linh hoạt và năng động: Linh hoạt là triết lý sống của người Việt nói
chung, người Nam Bộ nói riêng, là đặc trưng văn hóa Việt Nam. Theo Trần
Ngọc Thêm, không có cái linh hoạt từ trong máu thịt ấy của người Việt thì
không thể có tính năng động Nam Bộ hôm nay, vì thế tính năng động là bước
phát triển mới của tính linh hoạt truyền thống ở địa bàn Nam Bộ [xem: 111]. Đặc
tính này được hình thành bởi địa hình sông nước, giao thông đường thủy là chủ
40
yếu, nên không gian mở của Nam Bộ được hình thành từ sớm, với lối sống nay
đây mai đó, bấp bênh trên ghe xuồng, nên việc tụ hội hay tan rã là thường tình.
Do vậy, họ cần sự linh hoạt, sự năng động để thích ứng với cuộc sống. Tính linh
hoạt, năng động trong diễn trình lịch sử, văn hóa Nam Bộ còn thể hiện khá rõ khi
tiếp biến với các nền văn hóa Đông - Tây, mà đạo CĐ là một ví dụ điển hình.
Không những vậy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là sự dung hợp các tôn giáo, tín
ngưỡng truyền thống, nhưng vận dụng những gì thiết yếu nhất, phù hợp nhất ở
một điều kiện và hoàn cảnh khác. Do vậy, tính “động” và “mở” luôn là thành tố
văn hóa trội ở Nam Bộ.
Tính thiết thực: Thiết thực là một bộ phận trong truyền thống văn hóa dân
tộc Việt Nam. Với Nam Bộ, thiết thực còn là sự kết hợp truyền thống văn hóa
dân tộc với tính thực dụng của văn hóa phương Tây thể hiện từ suy nghĩ đến
hành động: cụ thể, mộc mạc, chất phác, giản dị. Xét về điều kiện Nam Bộ,
những lưu dân đến đây hầu hết tìm đường mưu sinh thì họ phải có đầu óc thực
tế, không cần học hành cao mà cần làm thế nào để sinh kế. Tính thiết thực ấy còn
biến những yếu tố khác thành cái của mình, vận dụng cho mình. Theo Cao Thế
Dung, dòng Dân Hai huyện không bị ảnh hưởng của người Tàu cuốn hút, mà lại
đồng hóa người Tàu, giữ được Việt tính, thuần túy, từ cuộc sống cá nhân, gia
đình đến tập tục truyền thống và văn hóa dân tộc [34, tr.12-19].
Đặc tính của người dân Nam Bộ cho thấy giá trị văn hóa cốt lõi của con
người nơi đây là hòa hợp, bình dị, bao dung, hào phóng, trọng nghĩa, linh hoạt và
thiết thực. Tất cả trở thành tính cách của người dân, cũng là thành tố quyết định
đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
* Về tôn giáo, tín ngưỡng
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo
ở Nam Bộ tương đối hoàn chỉnh bởi sự có mặt của tất cả các tộc người qua một
chặng đường lịch sử ngụ cư nơi đây. Tuy nhiên, với những biến động chính trị -
xã hội, nhiều bất ổn và phức tạp diễn ra tác động lớn đến mọi mặt của đời sống.
Các tôn giáo ở Nam Bộ cũng không ngoại lệ.
41
Phật giáo: Tôn giáo này bị suy thoái vì thiếu phù hợp với điều kiện ở
vùng đất mới: “Thứ Phật giáo tại chỗ của dân Chiêm Thành và dân Khmer là
ngành Phật giáo Tiểu thừa, chỉ chú trọng tới việc tu hành nhằm giải thoát cho cá
nhân mình mà thôi, đã tỏ ra không thích hợp bao nhiêu với tinh thần, tính tự liên
đới đồng loại cao của dân khai hoang biên địa. Hơn nữa, thứ Phật giáo Đại thừa
của Bắc kỳ và Trung kỳ dù có quan tâm cứu độ chúng sinh hơn, cũng khó phát
triển ở miền Nam vào thời kỳ Pháp đã khai thác thuộc địa” [131, tr.302].
Phật giáo nhanh chóng hòa quyện vào tín ngưỡng dân gian, một bộ
phận không nhỏ giới tu hành hoàn tục hoặc tha hóa trở thành thầy cúng. Ngay
từ thời vua Gia Long, triều đình ra các chỉ dụ nghiêm cấm xây dựng chùa
mới. Thời vua Minh Mạng và Thiệu trị có khác, nhưng đến thời vua Tự Đức
lại gắt gao hơn với lệnh: “Chùa quán thờ Phật, có đổ nát thì cho phép sửa
chữa, còn như làm chùa mới, đúc chuông, tô tượng, cúng đàn chay, hội thuyết
pháp, hết thảy đều cấm cả. Sư ở chùa người nào chân tu thì lý trưởng phải
khai, liệt họ tên nộp quan, để biết rõ số sư tăng” [139, tr.136]. Một vài dẫn
chứng nêu trên cho thấy sự mâu thuẫn giữa triều đình và giới Phật giáo lúc
này. Nhưng trên thực tế, triều Nguyễn cũng quan tâm đến Phật giáo, chùa
công được triều đình bao cấp, xây dựng, tu sửa, trai đàn diễn ra, nhà sư được
cấp lương... cùng với đó là sự chấn chỉnh để Phật giáo được trong sạch hơn,
nhất là các triều đại Gia Long và Tự Đức.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp triệt hạ các ngôi chùa lớn để phát triển các
nhà thờ Công giáo ở đô thị, bởi quan niệm Phật giáo gắn với dân tộc, là hồn cốt
dân tộc. Vì vậy, mục đích của thực dân Pháp khi ấy là thay thế đức tin Phật giáo
bằng đức tin Công giáo. Với chính sách này, nhiều nhà sư bị bắt hoàn tục hoặc đi
lính cho Pháp. Số nhà sư còn lại ẩn mình nơi chùa nhỏ trong thôn xóm. Nhiều
ngôi chùa trở thành nơi trung gian liên lạc, tăng sĩ lên đường chống thực dân.
Giáo lý nhà Phật vốn cao siêu và thâm thuý, nhưng trong bối cảnh suy
thoái từ thế kỷ XV, càng rõ nét hơn ở thế kỷ XIX, thiếu các bậc chân tu dìu dắt,
lại ở vùng đất mới đầy gian khổ, nên vốn liếng Phật giáo mà lưu dân mang theo
42
trong chừng mực nào đó không phù hợp với những tâm hồn muốn khuấy nước
chọc trời. Phật giáo lúc này tồn tại âm thầm, lặng lẽ trong dân gian.
Nho giáo: Người Việt mang Nho giáo từ phía Bắc Bộ vào Nam Bộ. Một
phần người Việt tiếp nhận Nho giáo trong văn hoá Hán từ cư dân Trung Hoa
cùng thời đến Nam Bộ mưu sinh. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nho giáo đến
người dân Nam Bộ không đậm đặc như ở Bắc Bộ. Đó là do lối sống ngang tàng
của lưu dân xa xứ, muốn phá bỏ mọi lề thói ràng buộc từ cố hương. Theo Thạch
Phương: “Càng đi về phương Nam, chất phong kiến nhạt dần, thay vào đó là tinh
thần dân chủ, bình đẳng thể hiện ngay trong đời sống cộng đồng thôn xã cũng
như trong đời thường của mỗi gia đình” [95, tr.68].
Nhưng với triều đình nhà Nguyễn lại khác. Nho giáo được triều Nguyễn
ưu ái cho việc xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền, lấy làm nền tảng tư
tưởng cho việc “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Lúc này, Nho giáo không chỉ là
học thuyết chính trị cho triều đình mà còn là nội dung giáo dục ở các cấp học.
Nho giáo thâm nhập mạnh mẽ từ cung đình đến dân gian, là đạo lý, kỷ cương
trong quần chúng. Việc duy trì chính sách tập quyền dựa trên Nho giáo đến thế
kỷ XIX dẫn đến sự cực đoan, góp phần ngăn trở canh tân đất nước; không phát
huy sự đoàn kết và lòng yêu nước của nhân dân.
Ở miền Nam, đến đầu thế kỷ XX, xã hội có những biến chuyển mạnh mẽ,
tư tưởng cũ vẫn tồn tại nhưng chịu tác động rất lớn bởi những xu thế mới từ Tây
học dẫn đến sự đan xen. Nếu thích hợp với một chế độ quân chủ nông nghiệp thì
Nho giáo lại khó thích nghi với một xã hội đang chuyển sang công nghiệp. Bắt
đầu từ những năm 1920, xã hội Nam Bộ, nhất là vùng Gia Định, đã biến chuyển
vào nếp sống đô thị hóa và tư sản hóa, Nho giáo khó thích nghi với tình hình như
vậy. Ngoài ra, Nam Bộ có các cảng sông biển, nhất là cảng Sài Gòn, mở ra Thái
Bình Dương, tiếp nhận nhiều luồng văn hóa mới. Điều này lý giải vì sao Nam Bộ
có cả tính thoáng mở lẫn tính bảo thủ.
Đạo giáo: Triết lý vô vi cao siêu của dòng Đạo giáo cung đình không thể
thích nghi với tâm hồn của lưu dân ở Nam Bộ trong buổi đầu khai hoang mở đất.
43
Cho nên, dễ hiểu dòng Đạo giáo dân gian tại mảnh đất màu mỡ này lại muôn vẻ
biến thái. Một khi thuốc men không có, con người phải chống chọi với rừng
thiêng nước độc, thì bùa chú của những Ông Đạo dễ chiếm ưu thế, là chỗ dựa
gần gũi và tin cậy với con người. Điều này cũng phù hợp với tín ngưỡng người
Hoa, người Khmer, người Chăm ở vùng đất Nam Bộ.
Công giáo: Cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp vào giữa thế kỷ
XIX làm cho Công giáo dần phát triển ở Nam Bộ. Thời kỳ đầu, người Việt theo
Công giáo ở phía Bắc di cư vào vùng đất mới khai hoang, lập ấp. Trần Hữu Hợp
nhận xét: “Việc thành lập các họ đạo này được tổ chức theo hình thức di dân để
khẩn hoang” [65, tr.37]. Công việc chính của Công giáo lúc này là đến vùng đất
mới để quy tụ người có đạo ở rải rác hình thành các xứ đạo, họ đạo.
Tuy vậy, khác với các tôn giáo phương Đông (Phật giáo, Nho giáo, Đạo
giáo), ban đầu Công giáo có những xung khắc với tín ngưỡng bản địa. Thừa sai
Công giáo cho rằng, việc thờ cúng của người Việt là mê tín. Ngược lại, người
Việt cho rằng, Công giáo là tà giáo bởi sự khác nhau về phong hóa. Nhà Nguyễn
nhận ra sau lưng đội ngũ giáo sĩ là đạo quân xâm lược, đe dọa thành trì phong
kiến của vương triều. Nhưng do những mối quan hệ ràng buộc mà mỗi thời kỳ,
mỗi đời vua nhà Nguyễn có đối sách khác nhau với Công giáo: không quá hà
khắc ở thời Gia Long; thời Minh Mạng xuất hiện những chỉ dụ cấm đạo; thời
Thiệu Trị vẫn cấm đạo nhưng ôn hòa hơn; đến khi thực dân Pháp chính thức xâm
lược thì cấm đạo gay gắt ở thời Tự Đức. Nhưng sau Hiệp ước Nhâm Tuất (5-6-
1862), đặc biệt là Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874), nhà Nguyễn cho phép Công
giáo có nhiều đặc quyền hơn, như Giáo hội được mua bán và kế thừa tài sản,
phẩm giá giáo sĩ được bảo vệ, giáo dân không bị xách nhiễu.
Với thực dân Pháp, giai đoạn đầu đương nhiên họ có chính sách ưu ái cho
tôn giáo như hỗ trợ vật chất cho Hội Thừa sai Paris (MEP) bằng cách trả lương
cho thừa sai Pháp và linh mục Việt, vận động xây cất nhà thờ và các hoạt động
từ thiện,v.v... Tuy nhiên, khi nhóm Cộng hòa cấp tiến ở Pháp lên nắm chính
quyền (1891-1914), ở nước Pháp cũng như ở Đông Dương, đã diễn ra mạnh mẽ
44
phong trào bài giáo sĩ Công giáo. Với Nam Bộ, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
Công giáo dù có bước phát triển nhưng vẫn còn khá xa lạ với nhiều người, bởi
quan niệm đây là tôn giáo của thực dân và có nhiều khác biệt về văn hóa và tôn
giáo của người Việt. Vì vậy, Công giáo chưa thực sự cuốn hút người dân Nam
Bộ. Đa phần người dân nơi đây vẫn dè chừng với Công giáo, đúng như nhận xét
của Trần Thị Thu Lương: “Mặc dù đến thế kỷ XIX, Thiên Chúa giáo đã có khá
nhiều ở nước ta và một số giáo dân trốn tránh việc cấm đạo của nhà Nguyễn đã
chạy vào đồng bằng sông Cửu Long cư trú, nhưng ảnh hưởng của Thiên Chúa
giáo không mạnh” [80, tr.42].
Từ năm 1930, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng do
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, chính quyền thực dân Pháp có những
chiêu thức khác trong việc sử dụng tôn giáo. Nhưng khi trở lại xâm lược lần thứ
hai (1945-1954), thực dân Pháp đã thi hành mạnh mẽ chính sách kỳ thị tôn giáo,
nhất là từ năm 1948, khi phong trào kháng chiến của quân dân Việt Nam ngày
càng lớn mạnh khắp cả nước, cao điểm là chính sách kỳ thị tôn giáo, ban hành
Dụ số 10 (6-8-1950), chỉ có Công giáo mới được ưu tiên và đề cao ở Việt Nam,
các tôn giáo khác đều bị ngược đãi.
Dưới sự hậu thuẫn của Pháp, Công giáo có bước phát triển, nhưng việc
người dân chuyển sang Công giáo còn khá e dè. Ngoài những yếu tố chính trị,
việc chuyển đổi sang nhóm các Ông Đạo hay đạo CĐ không bị xem là “bội giáo”
như quan niệm phương Tây. Vì thế, mặc cảm tội lỗi do chuyển đạo của người
Việt ở Nam Bộ gần như không có. Nhưng có vẻ, việc chuyển sang Công giáo lại
phát sinh tâm lý này. Nên ban đầu, người dân ở Nam Bộ vẫn có tâm lý mặc cảm
khi chuyển sang theo Công giáo, bởi đó không đơn giản là việc chuyển đổi từ
tôn giáo này sang tôn giáo khác, mà là chuyển đổi sang một tư tưởng, một lối
sống khác lạ đối với cái sẵn có, được quy chuẩn, định ước trong cộng đồng
người Việt hàng ngàn năm.
Tín ngưỡng dân gian: Các hình thức tín ngưỡng dân gian tuy có những
nghi lễ riêng ở đình, đền, miếu, nhưng không khu biệt trong những nơi thờ tự đó
45
mà ảnh hưởng đến các tôn giáo. Điểm nổi bật của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
là tính dung hợp giữa lễ nghi tôn giáo với lễ nghi tín ngưỡng dân gian. Tâm thức
dung hợp ấy là một nét đặc trưng thể hiện qua nghi thức thờ tự tại các cơ sở tôn
giáo và sinh hoạt của tín đồ. Các tín ngưỡng thờ cúng thờ Tổ tiên, thờ Trời, thờ
Mẫu, thờ Quan Công, thờ anh hùng dân tộc,... đã thể hiện những yếu tố truyền
thống hun đúc trong mỗi con người, dù họ có rời quê cha đất tổ về vùng đất mới:
“Chính vì vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đã thăng hoa thành đời sống tôn giáo
của người Việt, giúp họ cân bằng giữa hai bản thể của con người, đó là tâm linh
và thế tục” [64, tr.59].
Các tổ chức mang màu sắc tôn giáo. Thiên Địa hội, còn gọi là Hồng Môn
hay Tam Điểm hội, là hình thức hội kín từ Trung Hoa mang yếu tố tôn giáo với
mục đích “phản Thanh phục Minh”. Khi người phương Tây đến cai trị Hồng
Kông, họ xem tất cả các hội bí mật của Trung Quốc đều tiềm ẩn mối lo ngại và
bất hợp pháp, vì thế tổ chức này hoạt động vô cùng khó khăn. Thiên Địa hội phổ
biến theo lưu dân người Hoa đến Nam Bộ.
Phong trào hội kín Nam kỳ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, có mối quan
hệ mật thiết với giới Phật giáo và hoạt động phù chú của Đạo giáo. Dù bị thực
dân Pháp và triều đình phong kiến xem là bất hợp pháp, nhưng hội kín ảnh
hưởng khá mạnh trong bộ phận dân nghèo Nam Bộ. Gọi là phong trào hội kín
vì các tổ chức này không có tên gọi thống nhất, được xuất hiện ngay sau
phong trào cải cách Minh Tân bị thất bại. Thành phần chủ yếu hội kín là nông
dân và dân nghèo thành thị người Việt, nhóm nhỏ người Hoa chủ yếu giữ các
việc nghi lễ.
Thực hành bùa chú, phép thuật, thành viên hội kín tin rằng có thể tăng
thêm sức mạnh giúp họ tránh được mọi hiểm nguy khi lâm trận bằng cách đeo
những lá bùa bên mình hoặc hòa tan với nước lã uống thì súng đạn của kẻ thù
cũng không thể bắn thủng. Các hội kín ở Nam Bộ thường dựa vào ngôi chùa,
nhưng tổ chức của họ không có nhà sư. Họ hoạt động độc lập, không có chỉ huy
chung nhưng tất thảy đều tôn xưng Phan Xích Long (Phan Phát Sanh) làm
46
Hoàng đế. Thành viên trong hội hoặc các hội khác nhau giao tiếp với nhau bằng
những quy ước do hội chủ quy định.
Dù có mối quan hệ và đôi chỗ tương đồng giữa hội kín Nam Bộ với Thiên
Địa hội của Trung Quốc, nhưng chúng không phải là một. Trần Văn Giàu chỉ ra
những nét khác biệt đó như sau: Khi gia nhập hội kín, các thành viên uống máu
ăn thề, nguyện tuyệt đối trung thành và có những thử thách để xem có đủ can
đảm, nhưng với hội kín Nam Bộ thì không có đẳng cấp và tính tôn giáo như
Thiên Địa hội Trung Quốc. Về tổ chức, hội kín Nam Bộ đơn giản hơn Thiên Địa
hội nhiều, vì tính chất bình đẳng và quan hệ giữa các thành viên là huynh đệ. Do
đó, hội kín Nam Bộ không phải là sự biến dạng của tổ chức Thiên Địa hội Trung
Quốc [147, tr. 268]. Sơn Nam đồng quan điểm khi cho rằng, hội kín là phong
trào do người Việt nắm giữ đường lối chính trị, nhưng mô phỏng theo cách tổ
chức Thiên Địa hội Trung Quốc (nhóm Hồng Thuận đường ở Quảng Đông), áp
dụng cụ thể ở Nam Bộ nhằm mục đích Cần Vương [86, tr.134]. Có thể thấy,
phong trào hội kín Nam Bộ là một hiện tượng xã hội, được định rõ qua phép
thuật, biểu tượng, tín ngưỡng, nghi lễ, điều lệ và tổ chức thực tế. Sự kết hợp của
các yếu tố đó tạo nên một “thực thể xã hội” mạnh mẽ, sống động. Cách thức hoạt
động giữa các tổ chức mang màu sắc tôn giáo với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
có nhiều điểm tương đồng, đến mức có người cho rằng các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là biến thể của Thiên Địa hội hay hội
kín. Quan điểm đó không chính xác, bởi chúng chỉ là những mối quan hệ trong
cùng một bối cảnh xã hội mà thôi.
Như vậy, đặc điểm tự nhiên, lịch sử, chính trị, văn hoá, xã hội, con người,
tín ngưỡng, tôn giáo,... là những điều kiện, tiền đề cấu thành đặc trưng các tôn
giáo ra đời Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bởi trước tình hình các tôn
giáo truyền thống không thể hiện được vai trò ở vùng đất mới, những tôn giáo
mới du nhập chưa đủ sức ảnh hưởng rộng thì “khoảng trống tâm linh” xuất hiện.
Cùng với đó, hiện trạng xã hội đương thời đầy bất ổn tác động mạnh đến thân
phận người nông dân Nam Bộ. Trong bối cảnh như vậy, “người ta đang chờ, nếu
47
không phải là một Cứu thế (Messie) hay ít ra cũng một Mohamet hay Thích Ca
Mâu Ni mang lại một tín điều (Crédo) đổi mới” [131, tr.334-335]. Nhưng mong
chờ chúng đến từ đâu khi mà mọi thứ đang rơi vào bế tắc, Trần Thị Thu Lương
và Võ Thành Phương lý giải: “Trong bối cảnh mà những tôn giáo lớn của thế
giới không có điều kiện để gây ảnh hưởng mạnh thì mảnh đất Nam Bộ thế kỷ
XVIII-XIX (thậm chí là cả khi sang thế kỷ XX) là nơi thuận lợi cho các tôn giáo
địa phương có điều kiện nảy sinh...” [80, tr.42]. Và không phải một đấng siêu
nhiên nào ban phát, mà chính họ tự đáp ứng cho mình: “Từ đó, họ mới sáng tạo
ra một số tôn giáo mới như đạo Cao đài, đạo Tứ ân Hiếu nghĩa, đạo Dừa, Phật
giáo Hòa Hảo,… lấy Phật giáo Đàng Trong làm căn bản và tiếp biến thêm một
số tôn giáo mới du nhập và tín ngưỡng riêng của nhiều ông đạo mà mỗi ông
hành trì theo một cách riêng” [110, tr.120].
Tóm lại, về điều kiện và tiền đề dẫn đến sự ra đời các tôn giáo ở Nam Bộ,
chúng ta có thể tán đồng với ý kiến của Nguyễn An Ninh trong tác phẩm Tôn
giáo về vai trò của đạo CĐ:
Nhân dân khốn khổ mà chưa giác ngộ cách mạng lại càng chìm sâu
vào mê tín dị đoan thì tất không khỏi trông mong vào sự giải thoát ở
đời sau, đi vào đường tôn giáo. Mà theo đạo nào... Phật giáo cổ truyền
làm chán nản mọi người vì cái tệ ở chùa, cái dốt của số đông nhà sư,
cái xâm nhập của bao nhiêu ma thuật đạo giáo phù thủy. Thiên Chúa
giáo thì, ai mà không biết, là đạo do bọn thực dân xâm lược Pháp phái
các nhà truyền giáo của chúng đem tới, nhằm phục vụ cho chúng. Bây
giờ có đạo mới, đạo Cao đài may ra có lối thoát? Người ta hi vọng,
người ta vào đạo Cao đài. Nó mới mà cũ, mới về tổ chức, về tên tuổi,
mà cũ về nội dung, phương tiện, dễ theo [dẫn theo: 128, tr.195-196].
Các yếu tố của Nam Bộ là một xứ thuộc địa với sự kìm tỏa chính sách tôn
giáo của triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp, các tôn giáo truyền thống
không thể hiện được vai trò ở vùng đất mới nên một khoảng trống tâm linh được
tạo ra. Là vùng đất mở, nhanh tiếp cận với văn hóa phương Tây mới đến như
48
Thông linh học và Công giáo, kết hợp với cơ bút của Minh Sư đạo, đã sản sinh ở
Nam Bộ một lực lượng trí thức Tây học, có tham vọng chính trị. Họ sử dụng tôn
giáo làm phương thức để đạt được điều đó – trường hợp đạo CĐ. Ngược lại với
phương thức trên là tư tưởng bài ngoại, giữ truyền thống dân tộc – trường hợp
các Ông Đạo,... có ảnh hưởng, dáng dấp của phong trào hội kín, Thiên Địa hội.
Tất cả điều đó tác động đến quá trình ra đời và phát triển của các tôn giáo nội
sinh ở Nam Bộ, biểu hiện qua các đặc trưng của chúng.
2.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM
BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
2.2.1. Quá trình phát triển các tôn giáo thuộc phong trào Ông Đạo
Sự xuất hiện các tôn giáo thuộc phong trào Ông Đạo ở Nam Bộ là một
hiện tượng của văn hoá tâm linh ở vùng đất mới. Dòng tôn giáo này bắt đầu ở
Tòng Sơn (Sa Đéc), quê hương của nhân vật nổi tiếng vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, được người dân tôn xưng là Hoạt Phật hay Phật Thầy/ Phật Thầy Tây
An - Đoàn Minh Huyên (Đoàn Văn Huyên), người lập ra đạo Bửu sơn Kỳ
hương. Về sau, nhiều tôn giáo ra đời dựa trên mối đạo của BSKH như TAHN,
PGHH, TĐCSPHVN,v.v... Nhiều Ông Đạo tự nhận là hậu thân giáng thế Phật
Thầy lập đạo cứu đời như Ngô Lợi, Sư Vãi Bán Khoai, Huỳnh Phú Sổ,v.v...
Trong đó, tiêu biểu nhất là Phật Trùm (Đạo Đèn), tự xưng là hậu thân của Phật
Thầy Tây An: “Năm xưa ta ở Thất Sơn/ Phật Trời lấy hiệu Bửu Sơn giáo truyền/
Môn đồ có Thập nhị hiền/ Tây An đáo hậu có tiền lão đây/ Xác Trùm cũng lão
chuyển xoay/ Tà Lơn xuất hiện độ rày chúng sanh” [4, tr.5], và định kỳ tái sinh
là vào Hạ nguyên: “Hạ ngươn này lão tái sanh/ Phật Trời chuyển lão định ngay
Nam Kỳ” [4, tr.5].
Đạo Bửu sơn Kỳ hương: được Đoàn Minh Huyên (1807-1856) thành lập
năm 1849. Phương pháp hành đạo của Đoàn Minh Huyên là vừa giảng đạo, vừa
trị bệnh bằng thuốc nam kết hợp với phép thuật bùa chú. Năm 1849, bệnh dịch
bùng phát ở Nam Bộ, Đoàn Minh Huyên chữa bệnh bằng cách “tiện tặn lấy từng
mảnh giấy vàng bạc, vì thiếu giấy vẽ bùa, xé ra chỉ bằng ngón tay cấp cho bệnh
49
nhân, chứng tỏ nhu cầu chữa bệnh rất là to lớn” [133, tr.322]. Trong quá trình
truyền bá tôn giáo của mình, ông đi nhiều nơi, thu nhận nhiều môn đệ ở Tây
Nam bộ và cuối cùng dừng chân hành đạo ở Núi Sam (Châu Đốc, An Giang), rồi
qua đời tại đây. Đoàn Minh Huyên được xem là giáo tổ của dòng mạch tôn giáo
ra đời ở Đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo, tiêu
biểu nhất là THAN và PGHH.
Cơ sở thờ tự của Bửu sơn Kỳ hương chủ yếu là những nơi Đoàn Minh
Huyên từng hành đạo, tiêu biểu như: Tây An Cổ tự thuộc xã Long Giang, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trước khi Đoàn Minh Huyên đặt chân đến, đây chỉ là
một cốc nhỏ của Đạo Kiến đã bỏ hoang. Năm 1856, Đoàn Minh Huyên cho xây
dựng lại ngôi chùa và đặt tên Tây An Cổ tự để tránh trùng tên với Tây An tự ở
Núi Sam (Châu Đốc, An Giang).
Chùa Tòng Sơn, nằm ở làng Tòng Sơn (nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện
Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Trước 1849, nơi đây chỉ có đình Tòng Sơn, có thời
gian Đoàn Minh Huyên nương trú hành đạo. Từ năm 1963, tín đồ Bửu sơn Kỳ
hương mới xây dựng chùa Tòng Sơn.
Chùa Phước Điền (trại ruộng Xuân Sơn) và chùa Thới Sơn (trại ruộng
Hưng Thới) đều thuộc huyện Thới Sơn (tỉnh An Giang). Năm 1851, Đoàn Minh
Huyên quy tụ tín đồ đến đây khai khẩn đất hoang, lập trại ruộng.
Ngoài ra, Bửu sơn Kỳ hương còn có trại ruộng Láng Linh (Bửu Hương
Các) xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, nơi Đoàn Minh Huyên giao Quản cơ
Trần Văn Thành trông coi; Dinh Ông Năm Thẻ xã Cần Đăng (huyện Châu
Thành), Dinh Ông Năm Thẻ Cái Dầu (huyện Châu Phú) tỉnh An Giang,v.v...
Sau Đoàn Minh Huyên, xuất hiện nhiều Ông Đạo, trong đó một số người
là môn sinh của ông như Cố quản Trần Văn Thành, người làng Bình Thạnh
Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, làm chức Chánh Quản cơ dưới thời vua
Thiệu Trị và vua Tự Đức. Ông quy y theo Đoàn Minh Huyên rồi giao hết tài sản
cho cháu, đưa vợ con vào Núi Sam tu hành, được trông nom trại ruộng Láng
Linh. Sau khi ba tỉnh miền Tây Nam Bộ mất, ông chiêu binh chống Pháp ở Bãi
50
Thưa và Láng Linh. Trong một trận giặc Pháp bao vây, ông bị mất tích năm
1873, nghĩa quân tan rã. Quản cơ Trần Văn Thành là đệ tử xuất sắc đầu tiên của
Đoàn Minh Huyên, là người một lòng vì nghĩa lớn nên được nhân dân tôn xưng
là Đức Cố Quản.
Các cao đồ khác của Đoàn Minh Huyên như Đạo Lập (Phạm Thái
Chung), quê ở làng Đa Phước, Cồn Tiên (Châu Đốc), tạo lập chùa Bồng Lai (nên
gọi là Đạo Lập); tương tuyền là người huyền thuật, Phật pháp cao thâm, tín đồ
đông đảo. Cử Đa (Nguyễn Thành Đa), hiệu là Ngọc Thanh. Tăng chủ (Bùi Văn
Thân) là người có hạnh tu như tăng sĩ. Đình Tây (Bùi Văn Tây) là người được
Đoàn Minh Huyên giao cho thuần phục Năm Chèo, Đạo Ngoạn, Đạo Lãnh, Đạo
Trần,… trị bệnh cứu người, khai hoang lập làng, tham gia chống Pháp. Nhìn
chung, đệ tử của Phật Thầy Tây An không thuộc hàng tăng lữ. Họ là những
người trọng nghĩa khinh tài và tinh thần hiếu nghĩa [xem: 102, tr.68].
Tứ ân Hiếu nghĩa: do Ngô Lợi (còn gọi là Đức Bổn sư, Năm Thiếp, Ngô
Viện, Cao Văn Bo, Bảy Do), một đệ tử xuất sắc của Đoàn Minh Huyên lập ra ở
Châu Đốc vào năm 1867. Ngô Lợi sinh năm 1831 ở Mỏ Cày (Bến Tre), là một sĩ
phu từng tham gia phong trào Cần Vương, khởi nghĩa vùng Mỹ Tho (Tiền Giang).
Ông tập hợp nghĩa quân chống Pháp. Để tránh sự truy nã của giặc, ông vừa truyền
đạo vừa chữa bệnh cho nhân dân. Từ khi ra đời, Ngô Lợi bắt đầu truyền đạo, nhận
tín đồ và cấp lồng phái (miếng vải vuông chứng nhận người vào đạo) có bốn chữ
“Bửu sơn Kỳ hương”. Năm 1870, Ngô Lợi thụ phong chức Đức Bổn Sư, sau đó thu
nhận nhiều tín đồ đưa về vùng Thất Sơn xây dựng xóm làng. Năm 1879, ông lập ra
nhiều làng, trong đó Núi Tượng, An Định là Tổ đình của TAHN.
Tứ ân hiếu nghĩa không lập tổ chức hành chính đạo như một số tôn giáo
khác. Đứng đầu là Ngô Lợi, dưới là các đại đệ tử. Cao đồ được phân ra những
chức năng cụ thể: những người phát huy ý tưởng của Ngô Lợi được gọi là ông
Trò; những người thay mặt Đức Bổn sư chăm lo việc đạo được gọi là ông Gánh.
Cơ sở thờ tự của TAHN là chùa, đình, miếu, Tam Bửu gia (nơi thờ của
TAHN tại các Gánh đạo). Chùa TAHN tập trung ở các làng vùng Thất Sơn như
51
An Định, An Hoà, An Lập và An Thành; tổ đình là Tam Bửu Tự (xã Ba Chúc,
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang). Bên cạnh hệ thống chùa, tại các làng đạo TAHN
có đình, miếu là nơi diễn ra hoạt động tôn giáo do các Gánh trưởng phụ trách.
Phật giáo Hòa Hảo: do Huỳnh Phú Sổ lập ra tại làng Hòa Hảo (nay là thị
trấn Phú Mỹ, huyện Tân Phú, tỉnh An Giang) vào năm 1939. Huỳnh Phú Sổ sinh
ngày 15/01/1920 tại làng Hòa Hảo, là con thứ tư của gia đình Hương Cả Bộ giàu
có; lúc bé tên là Tư Sển khá thông minh và sắc sảo nhưng sức khỏe không tốt,
hay đau bệnh nên nghỉ học sớm; dù được nhiều thầy thuốc chữa trị nhưng vẫn
không khỏi, gia đình phải gửi lên Thất Sơn chữa bệnh.
Tại Thất Sơn, Huỳnh Phú Sổ được Đạo Xom (Lê Hồng Nhật, từng tu trên
núi Tà Lơn ở Campuchia) vừa giỏi đạo pháp, vừa tài châm cứu truyền đạo và
chữa bệnh [xem: 99, tr.35]. Trong thời gian ở Thất Sơn, Huỳnh Phú Sổ vừa được
chữa bệnh vừa học được cách chữa bệnh bằng thuốc nam, các bài thuyết giảng
giáo lý của TAHN, BSKH. Đặc biệt, Huỳnh Phú Sổ được tiếp kiến với các sĩ
phu Binh Gia Nghị (lực lượng kháng chiến do Trần Văn Thành lập ở Láng Linh,
Bảy Thưa) về ẩn náu dưới sắc áo tu hành. Qua họ, Huỳnh Phú Sổ biết Nguyễn
Trung Trực, Trần Văn Thành, Ngô Lợi… nên càng quyết tâm học đạo chờ thời.
Sau khi Đạo Xom qua đời, Huỳnh Phú Sổ trở về quê chữa bệnh cho người
dân bằng bùa chú và thuyết giáo với những bài văn thơ khuyên dạy con người,
gây ngạc nhiên rất lớn cho người dân quê ông. Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão
(1939), ông thành lập tôn giáo lấy danh xưng Phật giáo Hòa Hảo. PGHH chủ
trương không lập chùa, không thờ hình tượng, không xuất gia như Phật giáo, mà
đề cao vai trò tu hành cá nhân.
Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn: tuy không thừa nhận là hậu duệ của BSKH,
nhưng xét về nguồn gốc ra đời và cách thức tu hành, PGHNTL có mối liên quan
khá mật thiết với BSKH và TAHN. PGHNTL xem những người khai đạo gồm
Đạo Lập (Phạm Thái Chung), Ngọc Thanh (Nguyễn Thành Đa), Ngọc Minh
(Nguyễn Ngọc Minh), Ngọc Đắc (Trần Ngọc Được) là những đệ tử của BSKH,
và Ngọc An (Nguyễn Ngọc An) là người lập ra PGHNTL.
52
Nguyễn Ngọc An (1889-1972), còn gọi là Đạo An, Giáo sư Ngọc An,
Thầy Bảy, Đạo Bảy, tương truyền là người biết bùa chú trị bệnh cứu người, dạy
đạo ở khu vực Tà Lơn và Thất Sơn, sau truyền đạo nhiều nơi ở các tỉnh An
Giang, Kiên Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp.
Nguyễn Ngọc An quê ở kinh Làng Phủ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay
là tỉnh Tiền Giang), thuộc thuộc dòng dõi nghĩa sĩ yêu nước trong khởi nghĩa Bãi
Sậy, phong trào Cần Vương. Từ nhỏ, ông quan tâm đến quốc sự, năm 17 tuổi xin
phép cha mẹ tìm đến các cao tăng học đạo. Là một trong những đệ tử rất giỏi của
Cử Đa, ông nhanh chóng học được những điều truyền dạy và trở thành một trong
những đạo sĩ đức độ ở Tà Lơn.
Năm 1915, Nguyễn Ngọc An là một trong Ngũ đại nhân của Tổ đình
PGHNTL. Sau khi xuống núi, ông đi nhiều nơi giảng đạo, trị bệnh cứu người.
Năm 1921, ông dựng ngôi chùa đầu tiên - Tiên An tự. Tại đây, ông lập đàn tế
khai đạo PGHNTL, tín đồ tôn xưng là Đức Giáo sư. Năm 1923, ông đến Núi Tre
ở Kiên Lương (tỉnh Kiên Giang ngày nay) quy tụ nhân dân từ nhiều nơi về quanh
khu vực lập xóm, dựng chùa. Năm 1927, ông tạo lập Tổ đình An Bình tự - trung
tâm của PGHNTL ở Nam Bộ. Ngoài Tiên An tự, An Bình tự, PGHNTL còn có các
chùa: Long An tự (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), Nam An tự (xã Đông
Hoà, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang), Dân An tự (xã Tân Khánh Tây, huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp); các am cốc: An Kim Quang (huyện An Minh, tỉnh Kiên
Giang), An Trung Thiên (huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ), An Bửu Liên
(phường Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ), Cốc đường Ngũ Linh (phường Cái Khế,
thành phố Cần Thơ), tất cả gọi là “Bát bửu ngũ linh tự” [53, tr.38-42].
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam: người lập ra là Nguyễn Văn Bồng (1886
- 1958) quê xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Mỹ,
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Từ nhỏ, ông chú tâm học chữ Nho, nghiên cứu
các bài thuốc dân gian, thực hành pháp môn Tịnh độ của Phật giáo.
Nguyễn Văn Bồng mồ côi cha mẹ từ bé, năm 19 tuổi lập gia đình; năm 29
tuổi, từ bỏ gia đình đi nhiều nơi chữa bệnh và truyền bá Phật giáo, lập ra Lục
53
Phương tông với chủ trương niệm Phật và hành Lục độ. Năm 1919, ông chuyên
tâm tu hành, truyền đạo và chữa bệnh cứu người bằng hình thức chu du nhiều
nơi; đôi khi mượn nghề buôn chiếu, bán khoai dọc các con kênh để hành đạo
nhằm tránh tai mắt của chính quyền lúc bấy giờ (Do vậy, trong tiểu luận Tôn
giáo tín ngưỡng dân cư vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Lê Tâm Đắc cho rằng,
giai đoạn 1911-1919, Nguyễn Văn Bồng là một Ông Đạo cùng với Bà Cô Năm -
người có vai trò rất lớn trước và sau khi TĐCSPH thành lập, đã mượn nghề bán
khoai đi truyền đạo, trị bệnh, nên người dân gọi gộp lại là Sư Vãi Bán Khoai: Sư
là Nguyễn Văn Bồng, Vãi là Bà Cô Năm) [22, tr.12]. Nguyễn Văn Bồng truyền
đạo ở nhiều nơi, thu hút nhiều tín đồ. Lúc bấy giờ, tôn giáo này tên là Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội, đến năm 1953 mới gọi tên là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Nguyễn Văn Bồng được suy tôn làm Tông sư - gọi là Tông sư Minh Trí. Tôn chỉ
hành đạo của TĐCSPHVN là “Phước huệ song tu”, lấy pháp môn niệm Phật làm
căn bản, dùng y đạo làm phương tiện phát triển hội quán. Cơ sở thờ tự của
TĐCSPHVN là hội quán. Hội quán Trung ương của TĐCSPHVN là Tổ đình
Hưng Minh tự (phường 10, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh). Mỗi hội quán của
TĐCSPHVN đều có phòng thuốc nam Phước Thiện.
2.2.2. Quá trình phát triển các tôn giáo ảnh hưởng từ phong trào Cơ bút
Các tôn giáo mới chịu ảnh hưởng từ phong trào Cơ bút ở Nam Bộ gồm
nhóm Ngũ Minh và đặc biệt là đạo CĐ. Trước khi đề cập đến đạo CĐ, cần sơ
lược về Minh Sư đạo, Minh Lý đạo thuộc nhóm Ngũ Minh (các nhánh Minh
Đường đạo, Minh Thiện đạo, Minh Tân đạo không phân tích vì ảnh hưởng
không mạnh, sinh hoạt tôn giáo như Minh Sư đạo, phần lớn hòa vào đạo CĐ).
Luận án không phân tích đặc trưng của Minh Sư đạo và Minh Lý đạo, bởi đây là
hai tôn giáo mới từ Trung Hoa truyền sang, có sự phân hóa chi nhánh ở Nam Bộ.
Các chi Minh đạo ra đời trước và ảnh hưởng trực tiếp đến đạo CĐ: “Các
chi Minh đạo có một sứ mạng như báo hiệu sự xuất hiện của đạo Cao đài” [107,
tr.119]. Một số người lập đạo CĐ có nguồn gốc từ Minh Đường, Minh Sư:
“Những vị có tên trong tờ Khai đạo ngày 7 tháng 10 năm 1926 với nghề nghiệp
54
thầy tu, thì chỉ có Lê Văn Lịch, gốc Minh Đường, Trần Đạo Quang và Nguyễn
Vãn Kinh, hai ông đều là gốc Minh Sư” [107, tr.139-140]. Mỗi chi Minh đạo có
sắc thái riêng, nhưng điểm chung là cùng thờ Diêu Trì Kim Mẫu, Ngọc Hoàng
Thượng Đế, Hồng Quân Lão Tổ.
Minh Sư đạo: tên đầy đủ là Phật đường Nam tông Minh Sư đạo, còn gọi là
đạo Phật đường hay Tiên Thiên đạo, gắn liền với tên tuổi của Đại lão sư Ngô
Đạo Chương, Thái Lão sư Trần Đạo Minh, Thái lão sư Vương Đạo Thâm...
Minh Sư đạo từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam năm 1863 cùng với nhóm
Minh Hương với tên thường gọi là Đại đạo. Khi vào Việt Nam, Minh Sư đạo lan
truyền trong cộng đồng người Hoa rồi đến người Việt, đến cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX phát triển khá mạnh mẽ, với hơn 100 Phật đường được xây dựng.
Từ khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh, các cựu thần nhà Minh chia làm hai
nhóm, các võ quan thành lập Thiên Địa hội, các văn quan thành lập Tiên
Thiên đạo (Minh sư), trở thành các tổ chức vừa mang tính tôn giáo, vừa mang
tính bí mật với mục đích “phản Thanh, phục Minh”. Tiên Thiên đạo đến Nam
Bộ bằng nhiều con đường, sau đó phát triển thành ba tông phái: tông Đức tế
do Đại lão sư Vương Đạo Thâm lãnh đạo, tông Phổ tế do Đại lão sư Trần Đạo
Quang lãnh đạo và tông Hoằng tế do Đại lão sư Lâm Đạo Nguyên lãnh đạo.
Ba tông phái này tiếp tục chia làm 5 chi phái: Minh thiện, Minh lý, Minh sư,
Minh tân, Minh đường, thường gọi là Ngũ chi Minh đạo. Một số Phật đường
được xây dựng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ như: Quảng Tế
Phật đường (Hà Tiên), Chiếu Minh Phật đường (thành phố Hồ Chí Minh),
Nam Nhã Phật đường (Cần Thơ), Quang Nam Phật đường (Vũng Tàu), Vận
Bửu Phật đường (Tiền Giang), Quán Âm Phật đường (Phú Quốc). Các chi
nhánh Minh Đường đạo, Minh Thiện đạo, Minh Lý đạo, Minh Tân đạo đều có
tôn chỉ, hình thức tu hành, kinh sách, giáo phẩm giống Minh Sư đạo. Người tu
tập theo Ngũ chi Minh đạo đều theo giới cấm của Phật giáo, ăn chay, tịnh
luyện và diệt dục. Tổ đình của Minh Sư đạo đặt tại Quang Nam Phật đường
(thành phố Hồ Chí Minh).
55
Minh Sư đạo sau khi bám rễ ở Việt Nam, nhanh chóng bản địa hóa, cùng
với Ngọc Hoàng Thượng Đế, Diêu Trì Kim Mẫu, Tam giáo Tổ sư, Quán Âm Cổ
Phật - đối tượng thờ vốn có của tôn giáo này, nay xuất hiện thêm các thần linh
Việt như: Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Bỉnh
Khiêm,v.v... Đến đầu thế kỷ XX, phong trào cơ bút lan rộng, Phật đường Minh
sư ở các nơi đều thiết đàn cầu xin trị bệnh và việc đạo, trong đó có nhiều vị thần
linh Việt cũng giáng đàn dạy đạo và chữa bệnh.
Minh Lý đạo: là một trong Ngũ chi Minh đạo. Đầu năm 1920, một số công
chức, viên chức ở Sài Gòn nghiên cứu Tam giáo, đặc biệt là học cách cầu cơ.
Năm 1924, Minh Lý đạo ra đời thông qua cầu cơ. Những người có công mở đạo
gồm: Âu Kiệt Lâm (đạo hiệu Minh Chánh), Nguyễn Văn Xưng (đạo hiệu Minh
Giáo), Nguyễn Văn Đề (đạo hiệu Minh Đạo), Võ Văn Thạnh (đạo hiệu Minh
Trực), Nguyễn Văn Miết (đạo hiệu Minh Thiện).
Minh Lý đạo không thờ hình tượng mà thờ bài vị 5 cấp: cấp thứ nhất thờ
Diêu Trì Kim Mẫu; cấp thứ hai thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Hồng Quân Lão
Tổ; cấp thứ ba thờ Tam giáo Tổ sư (Phật Thích Ca, Thái Thượng Lão Quân, Văn
Tuyên Khổng thánh); cấp thứ tư thờ Tứ đại Bồ tát (Địa Tạng Bồ tát, Văn Thù Bồ
tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Âm Bồ tát); cấp thứ năm thờ Ngũ đẩu Tinh quân,
Phật, Tiên. Tổ đình của Minh Sư đạo là Tam Tông miếu, quận 3, thành phố Hồ
Chí Minh.
Ngũ chi Minh đạo có quan hệ mật thiết với sự ra đời đạo CĐ. Lúc Minh
sư truyền sang Việt Nam thì thống nhất, nhưng sau đó chia tách ra các phái. Đặc
biệt từ năm 1900 trở về sau, Minh sư có nhiều biến chuyển: Lão sư Lê Đạo
Long, trụ trì Vĩnh Nguyên tự ở Cần Giuộc tách ra một chi phái gọi là phái Minh
đường (gọi tắt của Minh sư Phật đường). Đến năm 1926, vị lão sư kế thừa Lê
Đạo Long đã quy hiệp đạo CĐ, nhưng những ngôi chùa của chi phái này không
gọi là thánh thất, không gia nhập tổ chức đạo CĐ.
Đến đầu thế kỷ XX, Ngô Minh Chiêu (người được cho từng tu theo Minh
sư) có mối quan hệ với Lão sư Trần Đạo Quang (Cai Lậy), Lão sư Trần Đạo
56
Minh (Cần Giuộc), Lão sư Nguyễn Văn Tương (Thuộc Nhiêu), cùng các công
chức gia đình theo Minh sư như Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tường, Đốc họ
Nguyễn Bửu Tài nhập môn và trở thành chức sắc đạo CĐ. Vì thế, ban đầu giáo
lý đạo CĐ và Minh Sư đạo có nhiều điểm giống nhau. Ở một diễn biến khác,
Lão sư Âu Minh Chánh (người Hoa) xây dựng Tam Tông miếu ở Bàn Cờ (Sài
Gòn) năm 1927, lập chi phái Minh lý. Một số tu sĩ Minh sư còn lập ra các chi
phái Minh thiện, Minh tân. Nhìn chung, các chi phái này không phát triển, càng
về sau càng gần với đạo CĐ, nhưng không gia nhập tổ chức đạo CĐ. Một tu sĩ
chi phái Minh lý quy y Phật giáo, trở thành Minh Trực thiền sư. Hoà thượng
Minh Trực khai sơn Phật Bửu tự (Tam Tông miếu), khởi xướng pháp môn Thiền
Tịnh,v.v... Có thể nói, Minh Sư đạo và Minh Lý đạo có mối quan hệ mật thiết
với sự ra đời của đạo CĐ, một tôn giáo có ảnh hưởng rộng và phát triển mạnh
vào đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ.
Đạo Cao đài (tên đầy đủ là Cao đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ): ra đời trong
bối cảnh Nam Bộ đầu thế kỷ XX. Tại Sài Gòn, đầu những năm 1920, một nhóm
cầu cơ, đứng đầu là Ngô Minh Chiêu (Ngô Văn Chiêu) và Vương Quang Kỳ
(nhóm Chiêu - Kỳ) là những người đặt nền tảng cho việc gây dựng đạo CĐ.
Ngô Minh Chiêu từng tốt nghiệp Trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn
(sau đổi thành Trường Jean Jacques Rousseau, nay là Trường Lê Quý Đôn), làm
công chức thời Pháp, là người say mê cầu cơ. Qua những buổi cầu cơ, Ngô Minh
Chiêu cho ra đời một “thế giới” siêu linh, trong đó “Cao Đài Tiên Ông” giáng
đàn năm 1919 tại Tân An (tỉnh Long An ngày nay) trở thành Đấng siêu linh của
đạo CĐ. Năm 1921, thông qua những buổi cầu cơ tại Phú Quốc, Ngô Minh
Chiêu thấy Thiên nhãn hiện hai lần và được Tiên Ông dạy vẽ con mắt để thờ và
xưng tên là “Cao đài Tiên ông Đại Bồ tát Ma Ha tát”, gọi là Thầy. Cao đài Tiên
ông nhận Ngô Minh Chiêu làm đệ tử: “Từ đó, ông chính thức là đệ tử đầu tiên
của Đức Cao đài Tiên ông” [112, tr.12]. Sau khi trở thành đệ tử, Ngô Minh
Chiêu tuyên truyền thế giới bồng lai và sự giải thoát. Cuối năm 1924 đầu năm
1925, khi làm việc ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ tại Sài Gòn, Ngô Minh Chiêu
57
cùng với Vương Quang Kỳ (công chức Pháp), Đoàn Văn Bản (Đốc học Trường
Cầu Kho), Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quý lập thành nhóm tu
theo đạo CĐ tại Sài Gòn.
Trong thời điểm này, một nhóm bạn đồng hương gồm Phạm Công Tắc,
Cao Huỳnh Cư, Cao Hoài Sang hay gặp gỡ nhau và cổ vũ Ngô Minh Chiêu.
Nhóm Phạm Công Tắc thực hiện “xây bàn” để thông linh với Cao đài Tiên ông,
Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương... và được nhận làm đệ tử truyền đạo.
Sau đó, nhóm Phạm Công Tắc còn tiếp nhận thêm Lê Văn Trung, nguyên
Thượng nghị viên Đông Dương (Membre du Conseil Supérieur de L’Indochine),
được chính phủ Pháp thưởng Đệ Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh (Chevalier de
I’ordre National de la Lesgion d’honneur) và được cử vào Hội đồng Tư vấn
(Conseil Privé) năm 1912. Tại một buổi cầu cơ tại Chợ Gạo, Lý Thái Bạch giáng
cơ báo cho Lê Văn Trung biết sứ mệnh của tôn giáo mới. Sau đó, Cao đài Tiên
ông giáng cơ giao trọng trách cho Lê Văn Trung phải xây dựng đạo mới. Lê Văn
Trung trở thành quyền Giáo tông của đạo CĐ.
Cuối năm 1925, nhóm Chiêu - Kỳ - Bản hội hợp cùng nhóm Cư - Tắc -
Trung hình thành nên nhóm tu theo đạo CĐ ở Sài Gòn. Đạo CĐ được ra đời bởi
những trí thức Tây học nhưng vẫn chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống,
đúng như lời nhận xét về Ngô Minh Chiêu của R.B. Smith: “Ông Chiêu dù được
giáo dục bởi nền giáo dục Pháp, nhưng lại không bị ảnh hưởng bởi nó mà vẫn
giữ được tín ngưỡng và văn hóa của người Việt Nam” [155, tr.338].
Nhóm cầu cơ ở Tân An được xem là nhóm tu đầu tiên của Ngô Minh
Chiêu và mang tính chất của tổ chức CĐ - Phổ độ. Nhóm thứ hai ở Phú Quốc có
sự khởi đầu là ăn chay trường và luyện đạo - Tự độ. Về cơ bản, lúc này đạo CĐ
có những thành tố của một tôn giáo: Đấng tối cao - Cao đài Tiên ông Đại Bồ tát
Ma Ha tát, biểu tượng thiêng - Thiên nhãn, hệ thống kinh sách riêng,v.v... Khi
Ngô Minh Chiêu về Sài Gòn lập nên nhóm thứ ba gồm các ông Kỳ, Bản, Hoài,
Sang, với điện thờ riêng và đàn cơ riêng. Đàn cơ Cầu Kho biểu trưng cho sự tồn
tại của đạo CĐ như một thực thể tôn giáo độc lập. Đến ngày 19/11/1926, tại chùa
58
Gò Kén (Từ Lâm tự), tỉnh Tây Ninh, đạo CĐ làm lễ khai đạo, chính thức ra đời
một tôn giáo mới ở Nam Bộ.
Từ năm 1926, đạo CĐ phát triển mạnh mẽ ở Nam Bộ thu hút đông đảo
người dân tin theo. Số người nhập đạo mỗi ngày từ 90 người đến 100 người
[125]. Với đạo CĐ, người dân cảm nhận được cái mới mẻ trong cái thân thuộc,
tạo nên sự phấn khởi và yên tâm đặt niềm tin vào. Chỉ một năm sau khi khai đạo,
số tín đồ theo đạo CĐ lên đến 50.000 người. Tiếp đó, người vào đạo tăng lên
nhanh chóng, năm 1928: 150.000 người, năm 1931: 350.000 người, năm 1935:
1.000.000 người [141, tr.63-64]. Đạo CĐ phát triển nhanh như vậy là do cách
thức quảng bá khéo léo, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng nhân dân Nam Bộ
về một tôn giáo mới cả về nội dung lẫn về hình thức.
Từ việc khái quát quá trình ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, có thể chia các tôn giáo này thành ba dạng thức:
Một là, các Ông Đạo sinh ra bởi tín ngưỡng dân gian. Hầu hết các Ông
Đạo chỉ nêu lên một vài tín lý về thần Phật theo kiểu mập mờ và khó hiểu, nhưng
lôi kéo được hàng nghìn người theo. Cách thức tổ chức như những hội kín. Phần
lớn các Ông Đạo mù chữ, có những hành động kỳ quặc, sau một thời gian mất đi
mà không rõ nguyên nhân. Hiện tượng này rất nhiều, điển hình như: Đạo Cao,
Đạo Nằm, Đạo Câm, Đạo Chậm, Đạo Rắn, Đạo Chó, Đạo Cậy,v.v...
Hai là, nhiều tôn giáo tập hợp lực lượng khẩn hoang, kháng Pháp. Trong
giai đoạn này, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược, phong trào Cần Vương nổ ra ở
Trung Bộ, Bắc Bộ. Tại Nam Bộ, cùng với hoạt động chống Pháp của Trương
Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành…, một số tổ
chức tôn giáo ra đời tiếp tục tập hợp lực lượng khẩn hoang, chống Pháp, như
BSKH, TAHN, PGHNTL, Đạo Thứ, Đạo Tưởng, Đạo Kiếng..., thậm chí cả
Thiên Địa hội của người Minh Hương, hội kín do Phan Xích Long đứng đầu.
Ba là, các tôn giáo ra đời sau Chiến tranh Thế giới I - gắn liền với các
phong trào cách mạng như đạo CĐ, TĐCSPHVN, PGHH. Đây là giai đoạn các
tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội hoạt động, tiến tới thành lập tổ chức
59
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1929) và Đảng Cộng sản Đông Dương (1930)
và các hoạt động về sau.
Cần nói thêm về sự ra đời của Đạo Dừa - một tôn giáo có tiếng vang ngay
lúc Cách mạng Tháng Tám thành công (1945). Đạo Dừa do Nguyễn Thành Nam
lập ra ở Bến Tre. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có, từng được du học ở
Pháp; nhờ báo chí tuyên truyền và có tham vọng chính trị bằng việc vận động
tranh cử tổng thống chính quyền Sài Gòn. Nhưng một thời gian sau, tôn giáo này
gần như biến mất, chỉ còn là di sản của xứ Dừa.
Có thể thấy rõ, dạng thứ nhất, số lượng các Ông Đạo của tín ngưỡng
dân gian khá nhiều, thời gian tồn tại khá ngắn, có tính chất phù thủy, mang
màu sắc hội kín, trình độ học vấn thấp. Dạng thứ hai, các Ông Đạo tập hợp
quần chúng khẩn hoang, kháng Pháp có quy mô rộng, hình thành giáo lý, giáo
luật, giáo hội; tính chính trị rõ hơn, quy tụ lực lượng lớn dân chúng. Dạng thứ
ba, các Ông Đạo ra đời sau Chiến tranh Thế giới I, có tổ chức khá bài bản, có
ảnh hưởng chính trị lớn, đường hướng hành đạo rõ ràng, lượng tín đồ đông
đảo, có ảnh hưởng mạnh mẽ với chính quyền, thành lập đảng phái chính trị.
Người lập ra tôn giáo ở dạng thứ ba có trình độ học vấn cao, kiến thức rộng
và nhiều tham vọng chính trị.
Như vậy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ chủ yếu từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX. Trong đó, những tôn giáo nào có sự biến đổi nhanh, nguồn lực
mạnh, thích ứng với thời đại, củng cố tổ chức, chú trọng phát huy ảnh hưởng đến
xã hội thì tồn tại và phát triển, tiểu biểu là đạo CĐ, TĐCSPHVN và PGHH.
Trường hợp Đạo Dừa từng có ảnh hưởng lớn, nhưng về sau lụi tắt, vì ra
đời muộn so với bối cảnh lịch sử, khi mà Cách mạng Thánh Tám đã thành công,
Nam Bộ kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ - Ngụy, các tôn giáo đã ổn định,
có đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Bản thân giáo chủ của tôn giáo này
không đưa ra một hệ lý thuyết như những tôn giáo khác mà chỉ tu tập khổ hạnh,
không phù hợp với bối cảnh mới. Dưới góc độ tôn giáo học, có thể nói, Đạo Dừa
là điểm kết thoái trào của dòng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
60
Tiểu kết Chương 2
Lưu dân Việt, Hoa, Khmer đến Nam Bộ từ sớm. Họ thấy nơi này là một
miền đất hứa bởi sự trù phú, sự tự do, sự tự chủ cho cuộc sống. Dẫu ban đầu, họ
đến đây vì nhiều lý do khác nhau, nhưng chung nhất là việc họ rời bỏ quê cha đất
tổ bởi những bất ổn xã hội nơi họ sinh ra. Khi ra đi, họ chỉ mang theo những gì
thật cần thiết nhằm nhẹ gánh trên chặng đường dài.
Nam Bộ buổi đầu có quá nhiều thứ thử thách lòng gan dạ, bản lĩnh của
con người, từ thiên nhiên đến xã hội, nhất là khi thực dân Pháp xâm lược và đặt
ách cai trị trên vùng đất này. Những con người ly hương, muốn tạo dựng cuộc
đời mới, chưa hưởng được thành quả bao nhiêu đã phải đương đầu với thử thách
từ thế quyền đến thần quyền, từ nội trị đến ngoại trị. Hơn lúc nào hết, họ cần đến
một trợ lực do họ tạo ra, đủ sức che chở, bao bọc, cố kết, làm cho sức mạnh của
họ được nhân lên, chống lại những gì khiến họ mất tự do, những gì cướp đi
thành quả mà họ dày công tạo dựng, khiến cuộc đời họ rơi vào màn đêm tăm tối.
Vì thế, hàng loạt tôn giáo mới như BSKH, TAHN, PGHNTL, PGHH,
TĐCSPHVN, CĐ ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là trợ lực cho những
mong cầu của lưu dân ở Nam Bộ.
Đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, dân cư, tôn giáo, tín
ngưỡng ở Nam Bộ là những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự ra đời các tôn giáo
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là một Nam Bộ thuộc địa khó khăn cho
phong trào các tôn giáo ra đời cuối thế kỷ XIX nhưng có phần dễ dàng với các
tôn giáo ra đời đầu thế kỷ XX, bởi chính quyền Pháp căn cứ vào luật tôn giáo ở
chính quốc, đồng thời muốn sử dụng tôn giáo để mê tín nhân dân. Tính tâm linh
của người Nam Bộ rất cao, với một hiện trạng xã hội bi đát càng làm cho khoảng
trống tâm linh trở nên rộng lớn hơn cần sự nương tựa, đồng thời dẫn dắt đường
lối đấu tranh trước cường quyền, đàn áp kháng chiến của nhân dân. Sự trực trị
của thực dân Pháp khiến Nam Bộ trở thành vùng đất “mở” rất sớm so với cả
nước để tiếp thu văn hóa phương Tây, tạo nên lớp người Tây học. Lớp người này
rất năng động, muốn tạo dựng tầm ảnh hưởng trong xã hội và chính trị, có lẽ thời
61
điểm này khó có cách nào hay hơn việc dựa vào thần quyền, một môtip tôn giáo
mới ra đời là đạo CĐ, khác với môtip có trước là các Ông Đạo. Ngay với môtip
cũ, các Ông Đạo về sau như Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Bồng, Huỳnh Phú Sổ
có vẻ thức thời hơn, khéo léo hơn trong việc lãnh đạo tôn giáo. Họ có trình độ
học vấn cao hơn so với các Ông Đạo trước thế kỷ XX. Không thể không nhắc
đến những người Hoa trên đất Nam Bộ. Họ mang sang nước ta Tiên Thiên đạo,
Thiên Địa hội, các hội kín chi phối mạnh mẽ phong trào các tôn giáo nơi đây.
Với chủ trương dấn thân hành đạo, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ răn dạy
tín đồ thực hành “Tứ ân”, “Phước huệ song tu”, “Công quả”,v.v... Đó là những
yếu tố vừa mới lạ, vừa gần gũi, dễ thực hành, tạo ra một sức hút đặc biệt của
những con người đang cần đến loại hình tôn giáo mới, nhưng vẫn muốn giữ
truyền thống dân tộc. Giá trị đó được thể hiện rõ qua những đặc trưng của các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
62
Chương 3
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG LÝ THUYẾT
VÀ THỰC HÀNH ĐỨC TIN CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
3.1. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TRONG LÝ THUYẾT TÔN GIÁO
Kế thừa, dung hợp là một trong những đặc trưng cơ bản của tôn giáo ở
Việt Nam. Với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
hiện tượng này càng rõ hơn, tuy nhiên điểm khác là yếu tố tín ngưỡng truyền
thống trội hơn, đến mức nếu không nghiên cứu thấu đáo đặc trưng lý thuyết tôn
giáo sẽ khó xác định đó là tôn giáo, hoặc một hệ phái hay một giáo phái được
phái sinh từ tôn giáo khác.
Các tôn giáo mới đều kế thừa, dung hợp các tôn giáo truyền thống, các tôn
giáo có trước, trên cơ sở đó bổ sung thêm những cái mới khác. Các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ cũng theo quy luật này. Do đó, về cơ bản, lý thuyết của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ được kế thừa, dung hợp tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng có
trước. Nhưng việc kế thừa, hỗn dung một số yếu tố nào đó không có nghĩa các
tôn giáo ở Nam Bộ là phái sinh hay cách tân của những tôn giáo có trước, mà đó
chỉ là kết quả tất yếu trong sự tiến triển văn hóa.
3.1.1. Kế thừa, dung hợp những giá trị của Phật giáo
Về cơ bản, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đều ảnh hưởng từ giá trị của Phật giáo ở những mức độ khác nhau: “Ở cả Bửu
sơn Kỳ hương, rồi Hòa Hảo và Cao Đài, dù có tuyên bố là tông phái của Phật
hay không thì người ta cũng đều dễ dàng nhận ra tư tưởng của Phật trong giáo lý
của họ. Hay nói cách khác là tư tưởng của Phật rất gần gũi với tâm hồn người
Việt” [64, tr.42].
- Kế thừa, dung hợp tư tưởng pháp môn Tịnh độ của Phật giáo
Tôn giáo thuộc nhóm các Ông Đạo có sự kế thừa, dung hợp tư tưởng pháp
môn Tịnh độ rõ nét nhất. Đoàn Minh Huyên khuyên tín đồ trong lúc tu hành phải
63
thành tâm trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà “Nam Mô A Di Đà Phật” (Di Đà
lục tự). Đức Phật A Di Đà cũng là danh hiệu tụng niệm của TAHN, PGHNTL,
PGHH, đặc biệt là TĐCSPHVN. Cụ thể, các tôn giáo ở Nam Bộ dạy tín đồ việc
niệm Phật và kết quả thực hành niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà: “Phật Tiên
chí hiển chí linh/ Một câu chánh niệm thì mình thảnh thơi” [50, tr.82], hay: “Tu
tánh tu hạnh, nết na/ Tu câu lục tự Di Đà đừng quên” [50, tr.53], “Di Đà lục tự
Nam mô/ Vãng sanh Tịnh độ ra vô thanh nhàn” [50, tr.110].
TAHN chủ trương niệm Di Đà lục tự để vãng sinh Tây phương Cực lạc.
Ngô Lợi dạy tín đồ: “Niệm Phật đừng có lôi thôi/ Niệm cho chánh niệm mới
ngồi tòa sen” [73, tr.99]. Khi niệm, tín đồ TAHN còn lần chuỗi hạt (108 hạt như
Phật giáo): “Khá khuyên lớn bé trẻ già/ Ân cần kinh chuỗi Di Đà hôm mai/ Gắng
công niệm Phật đừng sai/ Cầu cho phụ mẫu Như Lai dựa kề” [73, tr.36-37].
Ngoài ra, trong các khóa tụng niệm, lễ bái, tín đồ TAHN còn sử dụng chuông
mõ. Tuy nhiên, việc TAHN dùng chuông mõ để hợp thức hóa phương thức hành
đạo, còn thực chất vẫn như BSKH:
Vấn đề tụng niệm mõ chuông, cúng dường sớ điệp, chắc hẳn là thi
hành đúng theo chỉ dụ của Triều Nguyễn. Ví như Đức Phật Thầy Tây
An, Ngài giản dị hóa Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, không gõ mõ tụng
kinh, chỉ chuyên trì niệm Phật để cho phần đông tín đồ nông thôn kém
học dễ tu,v.v... Nhưng khi Ngài về chùa Tây An (núi Sam), lịnh triều
đình bắt buộc phải thờ hình cốt, gõ mõ tụng kinh đúng rập khuôn của
phái Thiền tông Lâm Tế, Ngài vẫn phải tuân theo. Đức Bổn sư vẫn giữ
đúng như thế cho tròn ơn quốc vương, thủy thổ và tạo một hình thức tu
học giống Thiền phái, để che mắt bọn tay sai của giặc Pháp. Vì bọn
chúng tố cáo Ngài là “gian đạo sĩ” nên bao giờ cũng hạ lịnh theo dõi
để bắt [33, tr.45].
Tiếp nối truyền thống BSKH, PGHH chú trọng yếu tố Tịnh độ trong cách
thức tu hành: “Sự trì niệm này phải thành khẩn, thiết tha, niệm niệm cho đến
chừng nào nhất tâm bất loạn mới đạt được hiệu quả” [51, tr.36]. Trên cơ sở cho
64
rằng “Chữ lục tự trì tâm bất viễn/ Thì lâm nguy có kẻ cứu mình” [3, tr.65)],
Huỳnh Phú Sổ căn dặn tín đồ cách thức niệm Phật: “Muốn niệm Phật chẳng cần
sớm tối/ Ghi vào lòng sáu chữ Di Đà/ Thì hiền lương quên mất điều tà/ Đặng
hạnh phúc nhờ lòng cố gắng” [3, tr.101]; nhắc nhở tín đồ niệm Phật để được
vãng sinh về Tây Phương: “Hoa sen báu Tây Phương đua nở/ Chờ chúng sanh
niệm Phật chí tâm” [3, tr.128].
Với TĐCSPHVN, rõ ràng pháp môn Tịnh độ là chủ đạo nhất. Danh xưng
của tôn giáo này thể hiện nội dung, bản chất và cách thức tu hành theo pháp môn
Tịnh độ. Phần lớn kinh sách của TĐCSPHVN khuyên dạy tín đồ tu hành theo
pháp môn niệm Phật với tôn chỉ: “Phước huệ song tu, lấy Pháp môn niệm Phật
làm căn bản, dùng y đạo làm phương tiện phát triển hội quán” [127].
TĐCSPHVN giải nghĩa phương pháp tu hành của tôn giáo mình cụ thể như sau:
Nên biết rằng, Định là cái thể của Huệ, Huệ là cái dụng của Định. Định
như vậy là tánh của mình định, Huệ như vậy là tánh của mình huệ.
Tánh định huệ nầy không từng lìa cái dụng tướng tưởng niệm A Di Đà
Phật. Đó là dụng tướng bồ đề vậy. Niệm Phật như vậy đủ cả thể, dụng,
tướng. Thế thì lục tự Di Đà, một khi chúng ta sáng suốt tưởng niệm,
thì có đủ thể, dụng, tướng, tức là Định Huệ đồng dụng vậy [122, tr.18].
Nguyễn Văn Bồng hướng dẫn thêm về cách thức niệm Phật:
Niệm Phật..., tuy không ngồi thiền định, mà cũng như thiền định, vẫn
có đủ ngoài thiền trong định. Ngoài thiền là nói trong khi đang niệm
Phật, sáu căn không mê nhiễm sáu trần, sáu trần không nhiễm loạn sáu
căn. Trong định là nói trong khi niệm Phật, lòng không tán loạn. Ngoài
không nhiễm trần, trong không tán loạn, đó là ngoài thiền trong định,
đó là phương pháp tu Huệ của pháp môn niệm Phật [122; tr.18].
Cho nên, pháp môn Tịnh độ được tín đồ TĐCSPHVN chú trọng thực
hành. Bởi vì, TĐCSPHVN kế thừa sâu sắc tư tưởng Tịnh độ của Phật giáo.
Với PGHNTL, tôn giáo này không có những bài kinh nói rõ về pháp môn
Tịnh độ. Nhưng trong nghi lễ, giới luật, các bài kinh Cứu Khổ hoặc sau mỗi nội
65
dung giáo huấn Triết Thánh đạo, Nguyễn Ngọc An đều ghi câu niệm “Nam Mô
A Di Đà Phật”. Trong thực hành nghi lễ, tín đồ PGHNTL trì niệm danh hiệu các
Phật, Tiên, Thánh, số lần lạy tương ứng với tầm quan trọng của danh hiệu đó (từ
12 lạy đến 24 lạy/ danh hiệu), trong đó Đức Phật A Di Đà được lạy với số lượng
nhiều nhất. Trong các ngày vía, thì vía Đức Phật A Di Đà được tổ chức trọng thể
nhất. Ngoài ra, Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm được trì niệm trong thời khắc
quan trọng nhất cuộc đời tín đồ PGHNTL: “Khi có người hấp hối, tín đồ tụng
kinh Cứu khổ và niệm danh hiệu Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm cho đến
khi lâm chung” [53, tr.68].
Khác với nhóm các Ông Đạo thường niệm danh hiệu Phật A Di Đà,
Bồ tát Quán Thế Âm, tín đồ đạo CĐ lại niệm danh hiệu Đức Chí Tôn. Tuy
nhiên, cách thức, tư tưởng và ý nghĩa xưng tụng Đức Chí Tôn mang nhiều
yếu tố của pháp môn Tịnh độ. Đây có thể xem là sự kế thừa sáng tạo của đạo
CĐ. Tín đồ đạo CĐ tin rằng, Đức Chí Tôn là Đại Từ phụ, là Đấng Thiêng
liêng, nên trong quyển Con đường thiêng liêng hằng sống, Phạm Công Tắc
giảng đêm 12 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949), đề cập cách thức và ý nghĩa của
việc niệm danh Đức Chí Tôn như sau: “Tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa
cầu nầy mà đến giờ chót các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy
đem bí pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải
thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là Nam mô Cao đài Tiên ông Đại Bồ tát Ma Ha
tát” [30, tr.195].
Thánh ngôn Hiệp tuyển cũng bàn đến tầm quan trọng của người thực hành
pháp môn Tịnh độ. Cao đài Tiên ông cho rằng: “Thầy để lời cho các con biết
rằng: nhiều Thánh Tiên Phật xuống phàm, nếu căn quả tiền khiên không mấy
trọng hệ, nghĩa là kiếp trần duyên không chi phải nhơ bợn nhiều thì dầu không
Thiên phong hễ gắng tâm thiện niệm thì địa vị cũng đạt hồi đặng” [28, tr.311].
Chính người CĐ thừa nhận sự ảnh hưởng của Phật giáo: “Nhiên Đăng Cổ Phật
thị Ngã/ Thích Ca Mâu Ni thị Ngã/ Thái Thượng Ngươn Thỉ thị ngã/ Kim viết
Cao Đài” [28, tr.42]. Như vậy, việc niệm danh hiệu Đức Chí Tôn có sự tương
66
đồng với niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà sẽ được vãng sinh về cõi Tây
phương Cực lạc hay Bạch Ngọc kinh.
- Kế thừa, dung hợp thuyết Mạt thế luận của Phật giáo
Lý thuyết mạt thế của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ bắt nguồn từ quan
niệm về Kỳ Tận thế (Hạ ngươn/ Hạ nguyên) hay Ngày Phán xét bởi Hội Long
hoa/ Hội Long vân. Các yếu tố Phúc - Tội, Thiện - Ác, Thiêng đường - Địa
ngục,... chi phối xuyên suốt, nên Hội Long hoa được xem là thuyết giáo chủ đạo
để cầu mong sự cứu thế của thời Mạt thế qua những lời tiên tri, sấm giảng.
Trước khi bàn đến Hội Long hoa, điểm tụ hội cuối của thời Mạt thế, cần
chú ý đến thuyết Tam nguyên (Tam ngươn, Tam nguôn). Theo vũ trụ quan của
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ: “Cuộc tuần hoàn của vũ trụ vạn hữu diễn biến qua
Ba ngươn: Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn. Cuộc diễn biến này cứ đi
giáp một chu kỳ Tam ngươn thì diễn lại một chu kỳ Tam ngươn khác và cuộc
tuần hoàn cứ diễn biến như vậy mãi mãi không bao giờ dứt” [74, tr.5]. Hoàn
cảnh ra đời, tư tưởng giáo lý của các tôn giáo ở Nam Bộ đều rơi vào thời Hạ
nguyên. Trong Đại thừa Chơn giáo, đạo CĐ bàn về Tam nguyên như sau:
Về tam ngươn: … Thầy lập Đạo tại xứ Nam này nhằm thời kỳ cuối
cùng của nhân loại... Đạo có ba ngươn, ba ngươn ấy là cái số cuối
cùng của Trời Đất. Ngươn thứ nhất: Thượng ngươn. Thượng ngươn
đây chính là ngươn Tạo hóa, là ngươn đã gầy dựng cả Càn Khôn Vũ
Trụ.... Ngươn thứ hai: ... Kế đó bước qua Trung ngươn thì nhân loại
bất nhứt, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm
cho xa mất điểm thiên lương, bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lấy
nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát tương tàn... Ngươn thứ ba:... Hạ
ngươn, sự tranh đấu càng ngày càng ráo riết, dữ tợn gớm ghê... Bởi đó
đời hiện tại là đời Mạt kiếp, và Hạ ngươn này là ngươn Điêu tàn...
Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất phục hưng, nên ngươn Tiêu diệt tất
phải bước đến ngươn Bảo tồn là ngươn Đạo đức phục hưng, gọi là
ngươn Tái tạo... [26, tr.394].
67
Đức tin Tam kỳ phổ độ có sức lay động cao trong dân chúng, bởi đức tin
này hình thành trong xã hội rối ren ở Nam Bộ bấy giờ. Do đó, dân chúng cần
một Đấng Minh sư dẫn dắt tu hành để hướng đến Hội Long hoa trong kỳ xét
tuyển. Lưu ý, thuyết Tam nguyên của đạo CĐ gần như không bàn đến Niết bàn
hay Mạt thế luận của Phật giáo.
Theo Đại thừa Chơn giáo, Hội Long hoa là lần phán xét của Thượng đế
quyết định sự thưởng phạt của linh hồn con người. Theo nghĩa này, Hội Long
hoa của đạo CĐ tương tự như lần Phán xét cuối cùng (Demier Jugement) của
Công giáo. Như vậy, chỉ có Tam kỳ phổ độ chứ không có Tứ kỳ phổ độ. Đạo CĐ
cho rằng, đây là thời kỳ khó khăn nhất của loài người, con người bị tha hóa, hiểu
sai và làm sai đạo lý truyền dạy.
Trong bài thuyết giảng vào đêm 14 tháng 01 năm Kỷ Sửu (1949) tại Đền
Thánh, Phạm Công Tắc nói: “Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của
toàn thể các chơn hồn, dầu quỷ vị hay thần vị cũng vậy, định khoa mục của mình
đặng lập vị thiêng liêng... Hễ cuối một Chuyển, tức nhiên Hạ Ngươn, là ngày
định vị của các đẳng linh hồn. Thánh giáo Gia Tô đã nói rằng: Ngày Xét Đoán
cuối cùng (Jugement Général) mà kỳ thật là ngày định vị cho các chư Phật đó
vậy” [113, tr.145].
Cùng với “Ngày phán xét cuối cùng”, Phạm Công Tắc còn cho tín đồ đạo
CĐ biết về quyền năng của Đức Chí Tôn trong bài thuyết giảng ngày 15 tháng 6
năm Mậu Tý (1948): “Cái quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn một nháy mắt
không còn một sinh mạng ở quả địa cầu này, chỉ một tích tắc đồng hồ nhơn nào
quả nấy trả cho rồi đặng lập đời Thánh Đức mà thôi” [113, tr.146].
Phạm Công Tắc nhấn mạnh, dân tộc Việt Nam đã đến thời kỳ thăng hoa vì
những “nợ nần” được trả để không còn bị phụ thuộc ngoại bang nữa, hướng đến
một Hội Long hoa, nhưng để được điều đó là phải nhờ ơn CĐ: “Các con chịu cái
nạn chung trả từ đời Hồng Bàng đến bây giờ… mừng cho nước Việt Nam trả hết
mối nợ tiền khiên mà Tổ Tiên ta đã vay; từ thử bị nô lệ nay không còn nô lệ nữa.
Vậy thì oan trái đã trả xong” [113, tr.148]. Việc sinh tồn sau Hội Long hoa với
68
các dân tộc, tín đồ đạo CĐ tin rằng: “Sau này, nước Việt Nam còn sống nhiều
nhứt nhờ biết chay lạt tu hành… Đức Chí Tôn mở đạo Cao đài lấy hai chữ
thương yêu làm gốc, công bình, bác ái” [113, tr.149]. Như thế, theo quan điểm
của đạo CĐ, kết quả sự sát hạch phúc tội của con người bằng việc nỗ lực công
quả để trả cho xong mối nợ ở đời, hòng đến được với Hội Long hoa.
Phạm Công Tắc nhấn mạnh với tín đồ đạo CĐ phải cùng nhau lập cho
được Hội Long hoa trong kỳ Hạ nguyên Tam chuyển để vẹn tròn lựa chọn: “Các
con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập Long Hoa Hội, định vị cho các chơn
linh trong kỳ Hạ ngươn Tam chuyển nầy, định vị cho họ đặng mở Thượng
ngươn Tứ chuyển cho các chơn linh - Ngài mở Hội Long Hoa ấy, tức nhiên là
Ngài định chấm đậu rớt cho các chơn linh vậy” [113, tr.147]. Sự lựa chọn đó có
ba dân tộc được hồng ân đặc biệt, đó là Ấn Ðộ, Do Thái, Việt Nam. Họ tin rằng,
đến lúc đó, chức sắc đạo CĐ sẽ là một hệ thống giáo phẩm các tôn giáo: “Hàng
giáo phẩm Cao Đài trong tương lai nhân loại có thể là một tập họp các giáo
phẩm tôn giáo thế giới” [109, tr.92]. Vì vậy, người CĐ tin rằng, tôn giáo của họ
là tôn giáo của mọi tôn giáo.
Các tôn giáo thuộc nhóm Ông Đạo không nói quá nhiều đến thời mạt
kiếp, nhưng trong giáo lý của chúng luôn đề cập đến Tam nguyên và việc tu
hành để được tuyển chọn trong kỳ phán xét “Đại hội Hội Long hoa”.
Trong Sấm giảng người đời, Sư Vãi Bán Khoai đề cập khá nhiều đến Tam
nguyên: “Tam ngươn nay đã hết rồi/ Phật Trời hội nghị lập đời Thượng ngươn”
[9, tr.111]. Thời kỳ Hạ nguyên là nỗi thảm sầu của con người: “Hạ Ngươn nầy thể
như bèo/ Nay còn, mai mất hiểm nghèo thon von/ Lớp thì bịnh tật gầy mòn/ Lớp thì
bão lụt nhân dân khốn nàn/ Lớp thời sưu thuế đa đoan/ Lớp kia lớp nọ khổ nàn biết
bao/ Lớp thì tà quỷ lao xao/ Xui mưu làm loạn hại dân muôn ngàn” [9, tr.111]. Khi
Hạ nguyên kết thúc sẽ là Thượng nguyên với Hội Long hoa: “Hạ Ngươn Giáp Tý
bằng nay/ Cơ Trời đã khiến lập đời Thượng Lai” [9, tr.3]; “Hạ Ngươn nay đã hết
rồi/ Minh Hoàng cầu Phật lập đời Thượng Ngươn” [9, tr.56], hay: “Hạ Ngươn Tuất,
Hợi đổi đời/ Ngọc Hoàng hội nghị lập đời Thượng Ngươn” [9, tr.89].
69
Hội Long hoa theo quan niệm của Sư Vãi Bán Khoai là một xã hội toàn
người hiền do đã trải qua quá trình sàng lọc: “Bởi trần lỗi quá muôn phần/ Cho
nên lập Hội Long Hoa chọn người/ Hiền từ thì đặng thảnh thơi/ Nghinh ngang
khó trốn lưới Trời bớ dân/ Lưới hồng bủa khăp cõi trần/ Chuyển luân Bát Quái
còn trông nỗi gì?” [9, tr.85]. Điều mà Sư Vãi Bán Khoai vui mừng là đến thời
Thượng nguyên, Việt Nam sẽ được hưởng “ân huệ và hạnh phúc nhất của nhân
loại”, vì có núi báu - trung tâm của nền văn minh Thượng nguyên.
Trên tinh thần BSKH, Sư Vãi Bán Khoai khuyên con người nỗ lực tu
hành để đến Hội Long vân. Còn Phật Trùm lại diễn tả cảnh hãi hùng: “Bên sông
trước có nhiều thứ cá/ Cá nhiều con lớn quá dị kỳ/ Đường Vàm Nao sau lại khó
đi/ Thứ cá lớn chở người nghiện bạo/ Chừng biến chuyển hung hăn nuốt ráo/
Các cù lao sụp đổ ầm ì” [4,tr.27].
Với Đạo Khùng (Huỳnh Phú Sổ), Hạ nguyên có lắm điều: “Đời Ngươn -
Hạ nhiều người hung dữ/ Nên xảy ra lắm sự tai ương” [3, tr.60], vì con người
gây nhiều việc ác, làm ít việc thiện: “Thiên Tào đã định, khắp chúng sanh trong
thế giới trong cái buổi hạ ngươn nầy, say mê vật dục, chìm đắm trong biển lợi
danh, gây nên nghiệp quả; Luật trời đà trị tội, xét kẻ thiện căn thì ít, người
nghiệp ác quá nhiều; chư Phật nhủ lòng từ bi, cùng các vị chơn Tiên làm phàm
độ thế” [3,tr.20]. Đến khi lập Hội Long hoa để “sàng sảy” mà biết người hiền
đức: “Lập rồi cái Hội Long Hoa/ Đặng coi hiền đức được là bao nhiêu/ Gian tà
hồn xác cũng tiêu/ Thảm thương bá tánh chín chiều quặn đau” [3; tr.71]. Sau
cuộc “sàng sảy”, biến chuyển sẽ xảy ra: “Sau lập Hội thì già hóa trẻ/ Khắp hoàn
cầu đổi xác thay hồn/ Đức Ngọc Hoàng mở cửa thiên môn/ Đặng ban thưởng
Phật, Tiên với Thánh” [3, tr.54-55].
Như vậy, đề tài rao giảng chung của các Ông Đạo ở Nam Bộ là thời Hạ
nguyên, sắp mở Thượng nguyên của thuyết Mạt thế, chào đón bằng sự chọn lựa
gắt gao ở Hội Long hoa, với ngày tận thế khủng khiếp. Tuy nhiên, khác với Phật
giáo, Hội Long hoa theo quan điểm của các Ông Đạo sẽ diễn ra tại Núi Cấm,
vùng Thất Sơn: “Chừng nào Núi Cấm hoá lầu/ Thì là bá tánh đâu đâu thái bình”
70
[9, tr.59]. Cảnh ấy được Phật Trùm diễn tả cụ thể: “Cờ phất lên Châu Đốc Núi
Sam/ Các nước ngó qua thấy mà ham/ Thấy châu báu nhà Nam mê mết/ Tranh
giành nhau càng là phải chết/ Hội Long Hoa chói ánh bảng vàng/ Chúa Minh
Vương ngự giá trên bàn/ Ngoài văn võ hai bên chầu chực” [4, tr.31]. Với đạo
CĐ, sự kiện đó diễn ra tại nước Việt, nơi hội tụ, hiệp nhất tất cả các Thần, Tiên,
Thánh, Phật: “Đức Chí Tôn đã hứa với nhân loại là đạo CĐ sẽ đạt được là cơ
quan Đại đồng thế giới tức là sẽ có: Một quốc gia/ Một nòi giống/ Một tôn giáo.
Chính đất nước Việt Nam này làm khởi điểm một Thánh địa đã ôm trọn Thái cực
đồ mà Thiêng liêng đã dành sẵn” [29, tr.29]. Đức Chí Tôn của đạo CĐ khẳng
định: “Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc/ Chủ quyền Chơn đạo một mình Ta” [29,
tr.29]. Cùng với quan niệm “trả nợ thế” cho xong, thì Tam nguyên, Hạ nguyên,
Hội Long hoa là những điểm tương đồng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Tuy
nhiên, điểm khác biệt ở chỗ, với các Ông Đạo là sự chuyển kiếp các vị Phật
sống/ hoạt Phật cho đến khi Đức Phật Di Lặc ra đời, thì với đạo CĐ, Đức Chí
Tôn sẽ không còn giao cho người phàm như các kỳ phổ độ trước, mà chính Ngài
sẽ là giáo chủ duy nhất, độc tôn mãi mãi.
Ở góc độ khác, Hội Long hoa của thời Mạt thế không chỉ là cảnh giới
thoát tục, mà còn thể hiện tính cứu thế của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Bởi vì,
Hội Long hoa là tâm thức của người Việt. Họ chịu quá nhiều sự bất ổn cuộc sống
do chiến tranh loạn lạc, rất cần cuộc sống bình yên, độc lập dân tộc và giải
phóng con người. Nói cách khác, hoàn cảnh lịch sử hình thành nên tâm lý, tính
cách của người Việt. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ phần nào phản ánh tâm lý
này qua tư tưởng đấu tranh giành độc lập. Trước tình cảnh nước nhà: “Thấy dân
thấy nước nghĩ mà đau/ Quyết dứt cà sa khoác chiến bào/ Đuổi bọn xâm lăng gìn
đất nước/ Ngọn cờ độc lập phất phơ cao” [3, tr.436], bản thân mỗi người cần
phải: “Anh hùng đâu sá cảnh gian lao/ Chiến trận giao phong rưới máu đào/
Miễn đặng bảo tồn non nước cũ/ Giữ an tánh mạng cả đồng bào” [3, tr.437], hay:
“Thù riêng muôn vạn cho cam/ Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công/ Khắp Bắc -
Nam Lạc Hồng một giống/ Tha thứ nhau để sống cùng nhau” [3, tr.436]. Các
71
Ông Đạo khuyên tín đồ cảm thấu hoàn cảnh đó: “Nước Việt trẻ già mãi ngóng
trông/ Ngày nào hưng phục cõi trời Đông/ Lẽ đâu tạo hóa riêng cay độc/ Đầy
khắc mãi chi giống Lạc Hồng” [3, tr.457].
Để rồi các tín đồ phải một lòng cứu nước, đền nước: “Một phen nợ nước
lâm đền/ Đạo làm thần tử cho bền chí trai/ Thừa cơ xoay trở gót hài/ Vung gươm
Thần Thánh dẹp loài cẩu phiên” [3, tr.457]. Đặc biệt, chí làm trai thì phải: “Nam
nhi mang chí cả/ Bao tấm lòng sắt đá/ Thương giống nòi dẹp bỏ vinh huê/ Lưới
đạn bom giữ vững lời thề/ Tàn sát hết quân thù xâm lược/ Tranh độc lập tự do
cho nước/ Cho giống nòi rạng rỡ trước năm châu” [3, tr.434-435]. Giáo chủ của
PGHNTL Nguyễn Ngọc An dạy tín đồ: “Nghĩa với nước phải tận trung vì nước,
giữ gìn ngọn rau tấc đất nước nhà” [58, tr.6]. Với Phật Trùm: “Sắp cơ binh cho
được hoàn toàn/ Thầy trở lại khai đường binh bị” [4, tr.19]
3.1.2. Kế thừa, dung hợp giá trị của Nho giáo và Đạo giáo
Tín đồ đạo CĐ tin rằng: “Đạo Cao Đài căn bản trên sự kế thừa các tôn
giáo cổ kim Đông Tây nên thu nhận tất cả các tinh hoa” [107, tr.7], trong đó, sự
kế thừa, dung hợp Đạo giáo, Nho giáo đậm nét hơn, chi phối mạnh mẽ hoạt động
của tôn giáo này.
Giáo lý đạo CĐ giải thích, vũ trụ khởi thủy từ một khối hỗn mang, gọi là
Thái cực, từ Thái cực sinh Lưỡng nghi, rồi sinh Tứ tượng, hình thành nên Bát
quái và từ đó sinh ra vạn vật trong trời đất [xem: 135, tr.61]. Thánh ngôn Hiệp
tuyển luận bàn về vũ trụ như sau: “Thầy đã nói với các con rằng, khi chưa có chi
trong Càn Khôn Thế Giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy
là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ
Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra Càn
Khôn Tế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, thảo
mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh” [28, tr.352]. Kinh sách đạo CĐ đề
cập đến lời khẳng định của Cao đài Tiên ông: “Nếu không có Thầy thì không có
chi trong càn khôn thế giới này” [28, tr.61].
72
Như vậy, giáo lý đạo CĐ đã kế thừa, dung hợp nhiều yếu tố của Đạo giáo,
Nho giáo. Đạo CĐ giải thích về nguồn gốc con người trên tư duy Thái cực - Đức
Chí Tôn - là “Trời” (Nho giáo), người chủ quản làm cho sự tiến hóa từ thảo mộc,
sang cầm thú (được ban phần hồn), rồi sự tiến hóa cứ thế tiếp tục đến nhiều đời,
nhiều kiếp để trở thành người. Đại thừa Chơn giáo chỉ ra quy luật này: “Người
là gốc của muôn vật, muôn vật là ngọn của loài người, mà trời đất là gốc của loài
người, người là ngọn của trời đất. Luật tấn hóa thảo mộc, thú cầm, nhơn loại, nó
từ từ thăng tiến mãi, nhưng cũng có thối hóa vậy” [27, tr.165]. Không những thế,
tư tưởng này còn chi phối đến sự giải thoát hay đọa đày của muôn loài mà tín đồ
đạo CĐ tin tưởng. Ngôi Thái cực là nơi Thiêng liêng hằng sống của con người, ở
đó có Bạch Ngọc kinh - Thượng đế quán xuyến, với nhiều niềm vui, an lành,
hạnh phúc. Ngược lại, nếu làm nhiều điều ác thì không thể đến Bạch Ngọc kinh
mà phải bị đọa đày ở Địa ngục: “Nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô
căn, vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế” [28, tr.393].
Địa ngục theo quan điểm của đạo CĐ thể hiện khá rõ sự kế thừa, dung
hợp của Đạo giáo. Kinh Sám hối của đạo CĐ cho rằng, Địa ngục có mười tầng,
gọi là Thập điện Diêm Vương: từ Nhất điện đến Thập điện. Với đạo CĐ, Địa
ngục không phải ở trong lòng đất mà là ở một địa cầu khác. Đại thừa Chơn giáo
ghi lời giáo huấn của Cao đài Tiên ông cho tín đồ đạo CĐ về Địa ngục như sau:
Nếu các con cho Địa ngục là ở dưới đất thì lầm lắm!... trong vũ trụ
nầy có biết bao nhiêu là trái địa cầu, những trái thanh thì vượt nổi lên
trên mà hưởng lấy khí Dương..., còn những trái trọng trược thì lặn
chìm xuống dưới mà bị lấy khí Âm rất đen tối u minh. Vậy, nếu các
con, hoặc đã phạm tội với Trời, hoặc mang đại ác với người, thì linh
hồn tất phải bị đọa xuống nơi mấy trái địa cầu mà Âm khí nặng nề
khốn nạn [28, tr.235].
Một biểu hiện khá rõ nữa thể hiện sự kế thừa, dung hợp Đạo giáo của đạo
CĐ là tại Tòa thánh và các thánh thất có một chiếc đèn luôn cháy ngày đêm,
được gọi là “Thái Cực đăng”, một khái niệm của Kinh Dịch, được đạo CĐ coi là
73
“linh hồn của vũ trụ” (tượng trưng cho Đấng Tạo hóa). Hai chiếc đèn hai bên gọi
là “Lưỡng nghi quang” - theo tích “Thái cực sinh lưỡng nghi” trong Kinh Dịch.
Ngoài ra, trên bàn thờ của đạo CĐ còn có hoa, rượu, trà - tiêu biểu cho tinh, khí,
thần - ba yếu tố cấu thành con người qua sự tinh luyện của Đạo giáo thần tiên.
Như vậy, sự ảnh hưởng thế giới quan Đạo giáo, Nho giáo đối với đạo CĐ trong
quan niệm và nghi thức thực hành tôn giáo khá rõ ràng.
Sự tu hành của đạo CĐ có hai phần: phần vô vi (tự độ) và phần phổ độ.
Tùy cơ duyên mỗi người sẽ có những hình thức tu hành khác nhau, nhưng cả hai
phần đều chứa nhiều yếu tố kế thừa các tôn giáo có trước. Phần vô vi của đạo CĐ
còn gọi là nội giáo tâm truyền, chủ trương tu cho bản thân, luyện theo bí pháp tâm
truyền của Cao đài Tiên ông. Theo phương pháp này, người tu hành phải “chân
truyền”, nghĩa là chỉ một số người được Vô hình tuyển chọn. Nhóm tu hành vô vi
không xây chùa, không thuyết giảng, không màu sắc lễ phục, không Hội thánh.
Phần phổ độ, hay ngoại giáo công truyền, chủ trương truyền đạo rộng khắp cho
quần chúng, giúp họ tu học để tạo nên hạnh phúc cá nhân và xã hội. Phần này
không có bí pháp nhưng có Hội thánh, có thánh thất [107, tr.9]. Phương cách xử thế
theo tinh thần Nho giáo, với tôn chỉ kính trọng Phật - Thánh - Tiên, xem Tam giáo
chung một nguồn gốc. Phần phổ độ của đạo CĐ thể hiện sự kế thừa, dung hợp qua
thuyết Tam kỳ phổ độ và Ngũ chi hiệp nhất. Hội Lý xiển chân luận của Nguyễn
Văn Kinh (tín đồ đạo CĐ), viết năm 1928, giải nghĩa Tam kỳ phổ độ như sau:
Kỳ phổ độ thứ nhất: Kể từ nhứt khí Thái cực (Trời) phân định âm
dương, hóa sanh, đến Bàn Cổ khai thánh giáo dạy đạo mở đời, mở
mang sinh chúng, từ ấy dẫn tới Thái Thượng đạo tổ, Nhiên Đăng Cổ
Phật truyền đạo, hiệp thành tam giáo gọi là nhứt kỳ phổ độ, tý hội
Thượng ngươn khai đạo.
Kỳ phổ độ thứ hai: ... dẫn xuống nhà nhà Châu, Lão Tử là Thái
Thượng hóa thân khai đạo Tiên, Thích Ca truyền đạo Phật, Khổng Phu
Tử và Gia-tô giáo chủ khai đạo thánh sửa đời, là nhị kỳ phổ độ, sửa hội
Trung ngươn.
74
Kỳ phổ độ thứ ba: ... đến kỳ âm tận dương sanh, thiên địa tuần hoàn;
nghĩa là hung ác tàn bạo đến cuối cùng thì tự nhiên phải khởi sự lại từ
thiện, nhân đức. Nên Trời hoằng khai đại đạo, mà cũng đã tiên tri trong
sấm truyền rằng mạt hạn tam kỳ thiên khai huỳnh đạo, gọi là hội dân,
Trời mở đạo, phổ độ lần thứ ba, kêu là Tam kỳ phổ độ [75, tr.17].
Như vậy, các yếu tố Nho giáo, Đạo giáo ảnh hưởng rất lớn đến đạo CĐ.
Nói cách khác, đạo CĐ ra đời trên cơ sở kế thừa, dung hợp tư tưởng chủ yếu của
Đạo giáo, Nho giáo cùng với Phật giáo, tín ngưỡng dân gian và những yếu tố
khác của thời đại. Đó là một trong những nét tương đồng và khác biệt so với các
tôn giáo thuộc nhóm các Ông Đạo.
Với nhóm các Ông Đạo, sự kế thừa, dung hợp Nho giáo và Đạo giáo
không bao gồm những thuyết giáo phong phú và phức tạp như đạo CĐ, mà chỉ là
cách hành xử tiếp thu từ Nho giáo như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, kết hợp với
huyền thuật và vô vi của Đạo giáo.
Giáo thuyết của các Ông Đạo khuyên dạy tín đồ những điều cơ bản theo
đạo đức Nho giáo: Nhân là yêu thương, là đạo làm người, vừa thương người và
vừa giúp người. Lễ là các quy định về đạo đức, ứng xử giữa người với người
trong gia đình và ngoài xã hội (vua tôi, chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè).
Nghĩa là nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp người. Trí là trí tuệ, tâm
trí; con người có trí (minh mẫn, sáng suốt) mới biết cách làm cho mình, giúp
người mà không làm hại đến người khác. Tín là lời nói và việc làm phải thống
nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau.
Tu nhân của các tôn giáo ở Nam Bộ là người tu hành phải hòa nhập vào
cuộc sống với mục đích “đền nợ thế”: “Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh/
Sách thánh hiền dạy đạo làm người” [3, tr.55], hay: “Sách Thánh đạo ghi trong
Tam tự/ Người mới sanh tánh thiện trời lành” [3, tr.89]. Nho giáo được kế thừa,
sáng tạo trong các tôn giáo ở Nam Bộ nhằm cải thiện con người, hoàn thiện đức
hiếu nghĩa và cuộc sống thêm hòa hảo; để làm được điều đó không gì hơn bằng
việc gánh vác việc đời, yêu nước, thương dân. Điểm mới ở đây là các tôn giáo ở
75
Nam Bộ đề cao trách nhiệm với cuộc đời, nhưng không phải để trị quốc, bình
thiên hạ như tinh thần Nho giáo Trung Hoa, mà chỉ là một phần trong việc tiến
hóa trên bước đường tu đạo: “Đạo tôi chúa chặt gìn câu chung thủy/ Đạo thầy trò
khắc cốt với ghi xương/ Đạo cha con chặt chẽ chữ miên trường/ Đạo chồng vợ
thuận hòa cho đến thác” [3, tr.340].
Với Ngũ thường, các tôn giáo ở Nam Bộ cho rằng: “Phận làm người hiếu
thảo noi gương/Ấy chẳng qua là đạo luân thường” [3, tr.298]. Còn về Tam tòng,
Tứ đức: “Lớn lên phận gái cần chuyên/ Làm ăn thì phải cho siêng mới là/ Phải
gìn dục vọng lòng tà/ Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân/ Nghe lời cha mẹ cân
phân/ Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi này” [3, tr.75].
Trên tinh thần Nho giáo, TĐCSPHVN cho rằng, để thực hành tôn giáo, tín
đồ phải trau dồi đạo đức, xem đây là cốt lõi của việc tu hành. Họ giải thích, “Đạo
đức” là con đường, là lẽ phải mà tín đồ noi theo; là giềng mối phong tục tập
quán, trật tự xã hội của đạo cha con, chồng vợ, bạn bè. Còn với “Đức”: “Người
có đức là người có tánh hạnh tốt lành, là người hay cứu thế độ nhân, tức là người
thực hành hai chữ “Nhơn nghĩa” của Nho giáo. Chúng ta nên biết người có hành
động đứng đắn đàng hoàng, nhứt cử nhứt động đều giữ đúng lễ, trí, tín, cũng là
người có Đức. Đó là Đức độ của một cá nhơn” [125, tr.5].
Về sự kế thừa, dung hợp Đạo giáo đối với nhóm các Ông Đạo ở Nam Bộ.
Theo TĐCSPHVN, “Đạo đức” còn có nghĩa thứ hai, đó là một nguyên lý của vũ
trụ. Cụ thể, “Về “Đạo”: Đạo là nguyên lý của Vũ trụ vạn hữu, tức là cái khí Tiên
Thiên của Trời Đất (cái khí có trước Trời Đất). Do lẽ này, Trang Tử nói: Đạo
sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Thế thì nguồn gốc của vũ
trụ vạn hữu, cưỡng danh là Đạo” [125, tr.6]. Sự giải thích này cho thấy rõ các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ thể hiện sắc thái vô vi của Đạo giáo. Sắc thái vô vi này
còn được cụ thể hóa bởi chủ trương của nhiều tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không
cần phải có giáo hội, chùa cảnh, tượng cốt...; càng thể hiện rõ hơn qua những lời
sấm giảng của các Ông Đạo: “Dưới địa trên thiên Lão tỏ bày/ Bóng tùng lộ vẻ kể
từ nay/ Cõi trên chín cõi mười phương định/ Khùng chuyển xuống trần mở lập
76
khai”[4, tr.3]. Nói về hội nghị để lập đạo, lời sấm truyền được cho là của Phật
Trùm ghi: “Bầu trời rộng lớn vô biên/ Hội chưa mở địa Phật Tiên hội rày/ Tại
cung Bạch Ngọc xưa nay/ Trên thấy chư Phật đến ngay hội bàn/ Định khai mở
cõi trần gian/ Thế Tôn chỉ định rõ ràng Hồng Quân/ Hồng Quân tính lại như vầy/
Thấy rằng Lão Tử, phước đầy đức cao/ Sắc truyền Lão Tử mau mau/ Khai thiên
mở địa chứ nào nghỉ ngơi” [4, tr.3]; Huỳnh Phú Sổ thì nói: “Ráng kiếm chỗ tầm
Tiên lánh tục/ Người ở đời phải được lòng trong” [3, tr.93].
3.1.3. Kế thừa, dung hợp các giá trị của tín ngưỡng dân gian
- Kế thừa, dung hợp các giá trị của tín ngưỡng dân gian người Việt
Các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời trên cơ sở kế thừa, dung hợp nhiều tôn giáo
truyền thống, nhưng tín ngưỡng dân gian của người Việt mới là nền tảng tư
tưởng của các tôn giáo này. Theo chúng tôi, tín ngưỡng các dân tộc thiểu số
(Hoa, Khmer, Chăm) ở Nam Bộ trong giai đoạn này đã hình thành và phát triển,
trở thành bản sắc văn hóa truyền thống thì rất khó để các tôn giáo khác, nhất là
tôn giáo mới có thể ảnh hưởng được, dù rằng có những tương đồng trong lý
thuyết tôn giáo và thực hành tôn giáo. Mặt khác, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
về cơ bản là tín ngưỡng của người Việt, nhất là tín ngưỡng dân gian đã bền chặt
từ ngàn đời với các tục thờ Trời, thờ Mẫu, thờ thần linh... mà biểu hiện là hầu
đồng, cầu hồn ở các đền, phủ, đình, miếu, từ Đồng bằng Sông Hồng đến Đồng
bằng sông Cửu Long, được chứng minh qua sự kế thừa, dung hợp trong biểu
tượng thờ và đối tượng thờ.
Về tín ngưỡng hầu đồng: Có ý kiến cho rằng, Thông linh học là cơ sở
quyết định sự ra đời của đạo CĐ. Bởi vì, Cao đài Tiên ông đã giáng cơ truyền
dạy lập đạo qua tục “xây bàn” của Thông linh học mà người Pháp mang đến Việt
Nam đầu thế kỷ XX. Một học giả, đồng thời là tín đồ phương Tây đầu tiên của
đạo CĐ, được Tòa thánh Tây Ninh chỉ định làm đại diện đạo CĐ ở Châu Âu,
trong quyển Lịch sử đạo Cao đài khẳng định: “Người ta biết rằng, đạo Cao Đài
phát sinh từ năm 1926, dưới sự thúc giục của phong trào xây bàn nhập cảng từ
nước Pháp” [145, tr.77].
77
Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và xây bàn theo
Thông linh học phương Tây có điểm tương đồng, cả hai bắt buộc có thanh đồng.
Đạo CĐ gọi là đồng tử: đồng tử dương/ nam đồng tử và đồng tử âm/ nữ đồng tử.
Tín ngưỡng thờ Mẫu gọi là ông đồng, bà đồng, cô đồng, cậu đồng. Tạ Chí Đại
Trường nhận xét về điểm tương đồng giữa Thông linh học phương Tây và cầu
hồn ở Việt Nam như sau:
Trong nhân dân Việt Nam, từ rất lâu đời, đã có tục đồng cốt, cầu hồn,
cầu tiên. Tiên, thánh, ông địa, ông tà, quỷ, ma, linh hồn người chết...
có thể nhập vào đồng cốt hoặc nhập vào cây bút, trên rổ, rế, bàn xoay
hay hộp xoay, để bằng cách nói hay viết trả lời những câu hỏi của
những người cầu nguyện [...]. Bên Âu Mỹ thì đạo cầu hồn được gọi là
“thần linh học” - để chữ “học” cho tôn cái mê tín lên một chút - mới
nảy sinh vào thế kỷ XIX. Đến đầu thế kỷ XX thì đạo cầu hồn của Tây
rỉ rả sang Việt Nam. Cầu hồn của Tây với cầu tiên của ta không khác
nhau lắm, nguyên lý hai bên giống nhau [133, tr.180].
Do vậy, khi bắt gặp, hai hình thức này dễ hòa vào nhau, là phương tiện
thông công để hình thành nên một đức tin mới - đạo CĐ. Vì thế, Trần Văn Giàu
khẳng định: “Cái gọi là “mới” (Thông linh học) ở phương Tây, xét lại là vô cùng
cũ kỹ ở phương Đông!” [43, tr.193].
Nhưng hầu đồng, thông linh chỉ là những công cụ, còn cốt lõi của đạo CĐ
cũng như các tôn giáo nhóm các Ông Đạo vẫn là Tam giáo. Bởi Tam giáo là sản
phẩm có từ lâu đời, nếu thiếu chúng thì cho dù cầu cơ hay xây bàn cũng không
thể ra đời đạo CĐ. Nên việc khẳng định, đạo CĐ bắt nguồn từ Thông linh học là
sự cưỡng ép, vì tục đồng cốt, cầu tiên đã có ở Việt Nam từ xa xưa [43, tr.194].
Về tín ngưỡng thờ Mẫu: Đây là một trong những tín ngưỡng dân gian đặc
sắc của người Việt trải dài từ Đồng bằng sông Hồng đến Đồng bằng sông Cửu
Long. Theo Nguyễn Công Bình: “Ở Nam bộ, nhà nào cũng có miếu thờ Bà Chúa
Xứ, đặt ở góc nhà hoặc góc vườn. Trong rừng U Minh, người dân đốn củi, lấy
mật ong cũng thờ Bà Chúa Xứ, để cầu mong được mạnh khoẻ, tránh được sốt
78
rét, tránh rủi ro trong nông nghiệp” [11, tr.377]; Nguyễn Đăng Duy cho biết
thêm: “... còn ở ngoài đảo, cù lao thì thờ Bà Chúa Hòn, những khu vực hẻo lánh
thờ Bà Chúa Động” [37, tr.102]. Lễ vía Bà rộng khắp các đình miếu ở Nam Bộ,
thường gắn với lễ kỳ yên, thực chất là lễ cầu mưa, hoặc mừng nước mới.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tin tưởng, thờ cúng và cầu cúng của người dân
đối với những vị nữ thần được cho là có quyền năng ban phúc, che chở cho con
người, từ Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Sơn lâm, Mẫu Thoải, Mẫu Âu Cơ, Mẫu Man
Thiện, Mẫu Liễu Hạnh đến Bà Chúa xứ, Bà Đen,... rất nổi bật trong hệ thống tín
ngưỡng ở Nam Bộ. Tại cơ sở thờ tự của các tôn giáo ở Nam Bộ đều có ban thờ
Mẫu: Ngũ hành, Bà Chúa xứ, Diêu Trì Kim Mẫu,v.v... Sự đa dạng và phong phú
đó bắt đầu từ sự sùng tín của cư dân Nam Bộ, như miêu tả của Trịnh Hoài Đức:
“… Sùng Phật, tin đồng cốt, phần nhiều trọng thần đàn bà, bà Chúa Ngọc, bà
Chúa Động..., bà Hỏa tinh, bà Thủy Long, Cô Hồng, Cô Hạnh...” [39, tr.142].
Đạo CĐ xây dựng riêng điện thờ Phật Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu) để phái
nữ thực hiện lễ nghi tôn giáo trang trọng. Ngày lễ lớn nhất của đạo CĐ là “Hội
Yến Diêu Trì Cung” tổ chức vào rằm tháng Tám hằng năm, rất được tín đồ đạo
CĐ và người dân trong khu vực kính ngưỡng. Lễ hội này có dáng dấp của tín
ngưỡng thờ Mẫu thông qua nghi lễ cúng tế, rước sách... Đạo CĐ cho rằng, Diêu
Trì Kim Mẫu là Thánh Mẫu và được tôn lên là Phật Mẫu: “Ngoài danh xưng
Thánh Mẫu phổ biến cho các mẫu, thì cũng thấy có Phật Mẫu. Do đó, từ tín
ngưỡng nữ thần, qua quá trình dung hợp văn hóa, từ địa bàn chuyển cư miền Bắc
vào Nam, Nam Bộ là vùng đất cuối cùng của Tổ quốc, đã tích hợp, dung chứa
trong nó bức tranh khá toàn cảnh về quá trình phát triển tâm thức về Mẫu” [xem:
90]. Điều đó cho thấy, đạo CĐ cũng như các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ bộc lộ âm
tính như truyền thống văn hóa Việt Nam.
Về tín ngưỡng thờ Trời: Đây là tín ngưỡng lâu đời của người Việt. Tín
ngưỡng này hòa vào tôn giáo ở Nam Bộ, tạo thành một nét đặc trưng qua ban thờ
Thiên, Thiên nhãn - Ngọc hoàng Thượng đế. Nguồn gốc thờ Trời của các tôn
giáo ở Nam Bộ là đặc trưng văn hóa nông nghiệp. Làm nông nghiệp nên con
79
người rất ngưỡng vọng sự hòa hợp, sùng bái các vị thần thiên nhiên (thần mây,
thần mưa, thần sấm, thần chớp)..., mà vị thần tối cao cai quản các vị thần ấy là
Trời. Nói về sự công tâm của Trời, dân gian có câu “Trời cao có mắt”. Không
những thế, người Việt còn lấy mùng 9 tháng Giêng làm ngày vía Trời. Tục
thờ Trời được nâng lên tầm mức quốc gia bằng lễ Tế Trời (Tế Giao). Chủ tế là
nhà vua - Thiên tử/ con Trời. Tục thờ Trời đã ăn sâu vào tâm thức người Việt,
đúng như nhận định của Leopold Cadière: “Cảm thức về quyền năng tối
thượng của Trời đã thấm nhiễm mạnh mẽ ý thức tôn giáo của người Việt.
Ngôn ngữ bình dân cung cấp nhiều chứng từ về niềm tin vào quyền lực về
Trời như thể người ta cầu khẩn Trời như một chứng nhân, khiếu nại đến Trời
như một quan án, chạy đến Trời như một vị cứu tinh. Trời thấy và biết, phán
xét và trừng phạt. Trời phân xử yêu thương. Trời tác động bảo vệ. Trời làm
chủ vận mạng con người” [148, tr.105].
Trời được các tôn giáo ở Nam Bộ kính ngưỡng qua nghi lễ và thờ tự tại tư
gia và cơ sở tôn giáo. Đặc biệt với đạo CĐ, Trời là Đức Chí Tôn, là Ngọc hoàng
Thượng đế, là Thầy - Cao đài Tiên ông Đại Bồ tát Ma Ha tát sinh ra từ khí hư vô
- sinh hóa muôn loài vạn vật, cai quản cả vũ trụ; là Đấng toàn tri, Đấng toàn
năng. Đạo CĐ đã dung hợp tín ngưỡng thờ Trời truyền thống và nâng lên thành
tôn giáo. Người CĐ xem Đức Chí Tôn là Thầy (là cha), với lòng hiếu kính vô
hạn, nên đưa Trời trong dân gian xa vời vợi trở nên gần gũi như nhận xét của
Jayne Susan Werner: “Đạo Cao Đài có quan niệm mới mẻ về Đức Thượng Đế,
mặc dù Đức Cao Đài được coi là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, một đấng quen
thuộc trong truyền thống dân gian Việt Nam, nhưng vai trò và vị trí của Đức
Thượng Đế đã đổi khác trong tín ngưỡng Cao Đài. Đức Thượng Đế được tôn lên
ở vị trí trung tâm của đạo và tín đồ quen gọi là Đức Chí Tôn... là hình ảnh một
người cha quyền uy và thầy tất cả” [158, tr.21].
- Dung hợp tín ngưỡng dân gian của người Hoa được bản địa hóa
Tín ngưỡng dân gian người Việt là nền tảng tư tưởng các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ. Ngoài ra, phần lớn tôn giáo ra đời ở Nam Bộ còn sự dung hợp tín
80
ngưỡng thờ Quan Công, một loại hình tín ngưỡng dân gian người Hoa truyền
vào Việt Nam và được bản địa hóa.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ xem Quan Công là vị thần bảo vệ đạo. Đào
viên Minh Thánh kinh của TAHN ghi: “Lòng trung che lấp ánh trời/ Khí hùng
xông suốt tận trời nể oai/ Râu dài nghĩa khí cũng dài/ Mặt đỏ, lòng đỏ mới trai
anh hùng” [100, tr.47]. Trần Hồng Liên giải thích về tín ngưỡng thờ Quan Công:
Trong phong trào đấu tranh của đạo TAHN do Bổn sư Ngô Lợi tập
hợp khá nhiều nông dân ở Nam bộ tham gia chống Pháp dưới ngọn cờ
tôn giáo. Các tín đồ đạo này mặc dù tu theo pháp môn vô vi, chủ
trương không tượng cốt, không hình thức nhưng trong các ngôi chùa
của họ thờ duy nhất pho tượng Quan Thánh Đế Quân với lòng cương
trực dũng cảm, hi sinh vì chính nghĩa trở thành ngọn cờ đầu, giương
cao nhằm tập hợp lực lượng chống ngoại xâm hiệu quả [78, tr.398].
Đối với đạo CĐ, Quan Thánh Đế có một nhiệm vụ rất đặc biệt. Ông là vị
thần linh hướng dẫn Ngô Minh Chiêu từ buổi ban sơ của đạo (1917-1919) biết sự
mầu nhiệm của Thế giới Vô hình ở Tân An và trong những kỳ đàn ở chi Minh
Thiện (Thủ Dầu Một) nơi ông cầu cơ xin thuốc chữa bệnh cho mẹ. Về phần Phổ
độ của đạo CĐ, Quan Thánh Đế đặt ngang hàng với Lý Thái Bạch và Bồ tát
Quán Thế Âm gọi là Tam trấn để hướng dẫn tín đồ tu học. Quan Thánh Đế đại
diện cho đạo Thánh, trong khi Lý Thái Bạch đại diện cho đạo Tiên và Quán Thế
Âm đại diện cho đạo Phật. Quan Thánh Đế hướng dẫn phái nam và Quán Thế
Âm hướng dẫn phái nữ. Người CĐ xem Quan Thánh Đế, Thái Bạch Kim Tinh,
Bồ tát Quán Thế Âm là bậc tiền phong của đại đạo, thay mặt cho Tam giáo Đạo
Tổ (Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử) hộ trì trong thời kỳ phổ độ thứ ba của
đạo CĐ. Đánh giá về Quan Thánh Đế, Tạ Chí Đại Trường viết: “Thần Quan Đế
của họ mang tính khu vực lưu tán... là hình ảnh rút từ Tam quốc chí diễn nghĩa
của La Quán Trung... Các đền miếu Quan Đế của họ xuất hiện từ Bắc chí Nam
(Việt), thờ phụng một võ tướng trung tín, nghĩa liệt, thành thần ngay sau khi tử
trận..., đã dần dần thay thế một Võ Khúc Tinh Quân mơ hồ khiến cho nhà
81
Nguyễn..., thấy sự tương đồng nên cho xây miếu Quan Đế ở các tỉnh trong
nước” [133, tr.295].
Người Hoa khi đến Nam Bộ mang theo văn hoá truyền thống đến vùng
đất mới, góp phần cùng các dân tộc khác xây dựng và phát triển nơi đây ngày
một trù phú. Một trong những hành trang ấy là tín ngưỡng thờ Quan Công, tiêu
biểu cho văn hoá người Hoa cũng như sự giao lưu văn hoá Việt - Hoa được thể
hiện trong các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Như vậy, có thể thấy, sự kế thừa, dung hợp trong lý thuyết các tôn giáo
nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là đặc trưng cơ bản nhất,
được biểu hiện qua biểu tượng thờ và đối tượng thờ:
- Về biểu tượng tôn giáo: Biểu tượng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự kế thừa, dung hợp lý thuyết tôn giáo khá
đặc sắc, do những người sáng lập tôn giáo tạo ra hoặc được cho là sự chỉ dạy của
“bề trên”; cụ thể gồm: tấm Trần điều của BSKH, TAHN, PGHNTL; tấm Trần dà
của PGHH; chữ Nhất của TĐCSPHVN; Thiên nhãn của đạo CĐ.
Trần điều là biểu tượng thiêng liêng của BSKH, TAHN, PGHNTL. Biểu
tượng này hàm ẩn triết lý hành đạo của các tôn giáo nêu trên; là sự dung hợp của
Tam bảo (Phật giáo), thần tiên của Đạo giáo và tín ngưỡng thần linh Việt.
Sấm truyền của Phật Thầy Tây An ghi: “Thờ Phật lâu nay chỉ thờ tượng
cốt, nay thờ Trần điều” [50, tr.31]. Vương Kim viết: “Một khi quy y thọ phái rồi,
người tín đồ phải tu hành theo pháp môn của Ngài (Đoàn Minh Huyên) chỉ dạy.
Về phương diện nghi thức thờ phượng, mỗi nhà, ngoài bàn thờ ông bà, cha mẹ,
còn có ngôi thờ Tam bảo, trên đó chỉ thờ đơn giản một tấm Trần điều, chứ không
có cốt hình chi cả” [73, tr.83].
Cùng với ý nghĩa thờ Tam bảo, Trần điều còn là sự kế thừa, dung hợp tín
ngưỡng dân gian. Giải thích về Trần điều, Tạ Chí Đại Trường cho rằng: “Màu đỏ
là màu của thần linh, ta gặp trên các tượng Việt, trên khăn đội của các ông đồng,
trên khăn phủ các thần chủ trong trang thờ gia đình, trên xác cá voi, xa hơn, là
bản chất của thần Civa/ Rudra, và đạo Phật của Đoàn Minh Huyên nhuốm màu
82
thần linh tất cũng phải khoác biểu tượng đỏ - biểu tượng độc nhất” [133, tr.326].
Theo Sơn Nam: “... để có màu sắc riêng cho giáo phái, ông chủ trương thờ tấm
Trần điều, màu đỏ sậm. Đây là màu của người tu tiên, hễ theo Tiên thì có thể hóa
phép, trường sinh bất tử. Màu đỏ này phổ biến từ Bắc vào Nam, màu của phù
thủy” [84, tr.107] .
Huỳnh Phú Sổ tiếp tục BSKH khi dùng biểu tượng Trần dà. Sấm giảng
giải thích lý do và ý nghĩa của việc thờ biểu tượng này như sau:
Nên thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn hơn ở vào sự hào
nhoáng bề ngoài. Từ trước chúng ta thờ Trần điều, là di tích của Đức
Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ Trần điều tự
xưng cùng tông phái với chúng ta, làm sái phép, sái với tôn chỉ của
Đức Phật, nên toàn thể trong đạo đổi lại màu dà. Lại nữa, từ trước đến
giờ các sư dùng màu dà là để biểu hiện cho sự thoát tục của mình, và
màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể tượng
trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc và cá
nhân. Vì vậy cho dùng nó trong chỗ thờ phượng để tiêu biểu cho tinh
thần vô thượng của nhà Phật [3, tr.105].
Trên thực tế, Trần dà và Trần điều gần giống nhau, khó phân biệt và tín đồ
các tôn giáo này đôi khi thờ lẫn lộn. Do đó, biểu tượng Trần dà là sự tiếp nối của
biểu tượng Trần điều, có ý nghĩa tổng hợp, hòa đồng thần linh trong các mối quan
hệ. Sơn Nam giải thích: “Tấm Trần điều được giải thích là thờ Đấng Ngọc Hoàng
Huyền Khung Cao Thượng Đế, ảnh hưởng của đạo Lão quá rõ nét” [84, tr.110].
Ông chứng minh thêm: “Ở chùa Phi Lai, Ngọc Hoàng Huyền Khung Cao Thượng
Đế tượng trưng là một tấm vải đỏ khá to, không hình tượng gì khác” [87, tr.58].
Biểu tượng chữ Nhất của TĐCSPHVN có nghĩa là chung nhất, tất cả đều
quy về một - “Nhất tâm”, “Nhất trí” - để chung lo việc Giáo hội, không phân
chia mà một lòng một dạ, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong bước
đường tu hành. Tư tưởng này khá tương đồng với tư tưởng “Ngũ chi hiệp nhất”
của đạo CĐ.
83
Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi hiệp nhất là đặc trưng sự dung hợp tôn
giáo, biểu hiện rất rõ qua biểu tượng của đạo CĐ: “Bát Quái đài là đài cao được
xây tám cạnh theo hình thức Bát Quái đồ, đây là nơi thờ Đức Chí Tôn, và chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật dưới quyền chưởng quản của Đức Chí Tôn Thượng Đế”
[92, tr.312]. Đức Chí Tôn được biểu tượng bằng Thiên nhãn - mang ý nghĩa “đại
đồng”, hình hiện chân lý độc nhất của vũ trụ, cửa ngõ khai thông giữa con người
và vũ trụ; đạo CĐ có một chánh pháp không hai, nên chỉ có một (mắt trái). Với
người CĐ, dù giải thích thế nào thì Thiên nhãn vẫn là điều huyền bí, khó thấu
hiểu. Thiên nhãn nhắc nhở tín đồ đạo CĐ rằng, mọi cử chỉ và hành động của họ
luôn có Thượng đế soi xét. Thánh ngôn viết: “Nhãn thị chủ tâm/ Lưỡng quang
chủ tể/ Quang thị Thần/ Thần thị Thiên/ Thiên giả Ngã dã” [30, tr.33].
Biểu tượng Thiên nhãn của đạo CĐ luôn hướng về phương Bắc, là
phương vị có ngôi sao Bắc Đẩu điển hình cho sự ngự trị của ngôi Chúa tể vũ trụ.
Vì thế, Thiên nhãn phải hướng về Đức Cao Đài; chiêm ngưỡng Đức Cao Đài qua
Thiên Nhãn phải hướng về phương Bắc.
Con mắt trái là hình thể vật chất mang sự mầu nhiệm, huyền bí của quyền
lực vô hình trong càn khôn vũ trụ, thường được gọi là Trời. Rosemary Ellen
Guiley cho rằng, mắt cũng có nhân cách, các mặt xấu đều ở mắt bên phải: “Theo
một số truyện thần thoại, mắt cũng có nhân cách của riêng nó, từ bầu trời đảo
xuống với các mặt xấu nằm ở bên phải. Biến thể của Mắt thần Horus là mắt thấu
suốt, hay mắt huyền bí trong đại ấn của Mỹ” [153, tr.294-295].
Thiên nhãn tượng trưng cho hình ảnh Đức Cao Đài được Việt hóa với tên
gọi quen thuộc, gần gũi với phong tục của người Việt Nam là Ông Trời, là Cao
đài Tiên ông Đại Bồ tát Ma Ha tát. Tín đồ đạo CĐ quan niệm, họ theo đạo Ông
Trời, đạo Thờ Trời. Theo Đinh Hồng Hải: “Rất nhiều tín đồ Cao Đài gọi tôn giáo
của mình là đạo Trời vì họ tin rằng Thượng Đế là Đấng Sáng tạo hay Đấng Tối
linh đã tạo ra các tôn giáo và vạn vật trong vũ trụ” [47, tr.243].
Thiên Nhãn, Trần điều, Trần dà, Chữ Nhất là biểu tượng tôn giáo với hàm
ý “đa thần nhưng nhất thể”, là sự thể hiện sức mạnh. Mel Thomson cho rằng:
84
“Biểu tượng biểu thị sức mạnh của cái được biểu tượng, nó cấu thành một bộ
phận của sức mạnh ấy và biến nó thành sức mạnh hiện thực. Biểu tượng thức
tỉnh sức mạnh của cái được biểu tượng” [149, tr.81]. Như vậy, sự kế thừa tôn
giáo, tín ngưỡng truyền thống được thể hiện rất rõ qua biểu tượng của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ. Đặc trưng lý thuyết tôn giáo còn được thể hiện qua sự kế
thừa, dung hợp của các tôn giáo này. Đó là đối với biểu tượng tôn giáo, còn với
đối tượng thờ lại là một sự biểu hiện rõ nét khác.
Đối tượng thờ trên điện thờ là một sự dung hợp lý thuyết tôn giáo độc đáo
của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, có thể chia làm hai dạng: (1) Những tôn giáo
có tượng thờ (tượng cốt) như: đạo CĐ, TĐCSPHVN; (2) Những tôn giáo không
có tượng thờ (không tượng cốt) như: BSKH, TAHN, PGHH, PGHNTL. Cần lưu
ý, chủ trương của các tôn giáo không thờ tượng cốt, không có nghĩa họ không có
ban thờ các đối tượng được tín ngưỡng. Ngược lại, ở các tôn giáo này, niềm tin
vào các đối tượng thờ rất phong phú, đôi khi phức tạp hơn so với những tôn giáo
và tín ngưỡng truyền thống.
Về cơ bản, tại chính điện, các tôn giáo BSKH, TAHN, PGHNTL, PGHH
có các đối tượng thờ: Ban thờ Tổ pháp (Trần điều, Tam vị Thánh tổ Tiền tổ,
Trung tổ, Hậu tổ và Long thần Hộ pháp), với quan niệm các vị Tổ pháp kiểm
chứng, ghi nhận việc tu hành, thái độ tín ngưỡng, công quả, việc đọc kinh, tụng
niệm. Ban thờ Cửu phẩm Lệnh bà, “Cửu thiên Huyền nữ”, gồm các thánh nữ
như Nữ Oa lệnh bà, Lê Sơ Thánh Mẫu, Kim Đao Thánh Mẫu, Huê Sắc tỳ kheo
lệnh bà, Diêu Trì Thánh Mẫu, Lục Cung Thánh Mẫu, Thánh A La Sát, Chúa
Tiên, Chúa Ngọc. Ban thờ Nam Phương Phật - Nam vương Thánh đế hoá Công
vương Phật, Bắc Phương Phật. Ban thờ Tiên Hoàng, Thượng phẩm cổ đại sơn
thần, Quan Đế Thánh Quân, Hạ phẩm thần quan quân vì dân vì nước. Ban thờ
vua quan và chiến sĩ. Ban thờ ở hậu điện là những người có công truyền thừa,
tạo lập và khai sáng đạo, Cửu huyền Thất tổ. Ban thờ Thông thiên được đặt trang
trọng ở sân hoặc hiên nhà. Ngoài ra, ở một số cơ sở thờ tự của BSKH, PGHNTL,
TAHN còn có miếu thờ ông Tà, miếu Bà Chúa Xứ. Như vậy, bố cục thờ tự của
85
các tôn giáo ở Nam Bộ là tổng hoà nhiều đối tượng tôn giáo, tín ngưỡng mà nổi
trội hơn hết là tín ngưỡng dân gian.
Đạo CĐ là trường hợp tổng hợp tượng thờ của các tôn giáo Đông - Tây,
nhưng tín ngưỡng dân gian vẫn trội hơn: Thiên Nhãn (Mắt Trời, thờ Thiên Nhãn
tức là thờ Trời) là trên hết, sau đó mới đến Phật Thích Ca (ngồi giữa, Giáo chủ
Phật giáo), Lão Tử (ngồi bên tay phải Phật Thích Ca, giáo chủ Tiên giáo/ Đạo
giáo), Khổng Tử (ngồi bên tay trái Phật Thích Ca, giáo chủ Nho giáo). Đây là
giáo chủ ba tôn giáo thời kỳ phổ độ thứ hai theo quan niệm của đạo CĐ.
Ở kỳ phổ độ thứ ba của đạo CĐ thể hiện trên chính điện có: Lý Thái
Bạch (ngồi hàng giữa, ngay phía dưới Phật Thích Ca, là Đại Tiên trưởng,
Nhất trấn Oai nghiêm, thay mặt Lão Tử cầm quyền Tiên giáo thời Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ, được Đức Chí Tôn giao phó kiêm nhiệm Giáo tông Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ). Bồ tát Quan Thế Âm (ngồi phía tay phải của Lý Thái Bạch,
Nhị trấn Oai nghiêm, thay mặt Phật Thích Ca cầm quyền Phật giáo thời Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ). Quan Thánh Đế Quân (ngồi phía tay trái của Lý Thái
Bạch, là Tam trấn Oai nghiêm, thay mặt Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo thời
Đại đạo Tam kỳ Phổ độ). Như vậy, bộ ba Lý Thái Bạch, Quán Thế Âm, Quan
Thánh Đế Quân là Tam trấn Oai nghiêm của đạo CĐ, cầm quyền Tam giáo
thời Đại đạo Tam kỳ Phổ độ.
Hàng bậc dưới Tam kỳ Phổ độ gồm: Chúa Giêsu (Giáo chủ Kitô giáo,
ngồi hàng giữa, ngay dưới Đức Lý Thái Bạch). Khương Tử Nha (ngồi hàng giữa,
ngay phía dưới Chúa Giêsu, đứng đầu Thần vị).
Bảy cái ngai (tượng trưng bảy chức sắc cao cấp nhất của Cửu Trùng Đài),
đặt phía dưới các bậc thờ trên là các ngôi Giáo tông (ở giữa và lớn nhất); ba ngai
kế dưới dành cho Chưởng pháp của ba phái Thái - Thượng - Ngọc; ba ngai kế
dưới của ba vị Đầu Sư ba phái.
Về đối tượng thờ: Tại điện thờ của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, ngoài
trang thờ chính của tôn giáo, gồm các đối tượng tôn giáo thì đều có một ban thờ
rất quan trọng là Cửu huyền Thất tổ. Ban thờ này thể hiện đạo lý “uống nước
86
nhớ nguồn” và ý thức của những người xa dòng họ, tổ tiên đến khai hoang, lập
nghiệp vùng đất mới với một sự khắc khoải về cố hương.
Các tôn giáo BSKH, TAHN, PGHH đều thờ di ảnh Nguyễn Trung Trực -
được tôn là Thượng Đẳng thần (tín đồ các tôn giáo ở Tây Nam Bộ xem Nguyễn
Trung Trực là đệ tử của Đoàn Minh Huyên như Trần Văn Thành). Nhóm các
Ông Đạo đều có các ban thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền, Thiên Hoàng, Địa Hoàng,
Trăm quan cựu thần, Thập nhị công nghệ, Thập nhị lệ sự, Cửu huyền Tiên
Hoàng... nhìn chung nhiều ban thờ thần linh tín ngưỡng dân gian. Ngoài ra,
chúng còn thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu trong hệ thống thờ tự, rõ nhất là đạo CĐ,
với niềm tin tôn giáo của họ có các nữ thần: Phật Mẫu, Quan Âm, Bà Trưng, Bà
Triệu, Jeanne d'Arc,v.v... Các nữ thần này vẫn thường giáng cơ và dạy đạo cho
nữ phái.
Như vậy, với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, sự kế thừa, dung hợp là đặc
trưng cơ bản nhất, được thể hiện rõ qua lý thuyết của các tôn giáo này.
3.1.4. Kế thừa, dung hợp những giá trị của văn hóa phương Tây
Bên cạnh các tôn giáo truyền thống phương Đông, các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ còn dung hợp, sáng tạo văn hóa phương Tây, nổi bật là đạo CĐ. Tôn
giáo này thừa nhận sự cứu thế của Moise là kỳ phổ độ thứ nhất, Giêsu là kỳ phổ
độ thứ hai, cho đó là cơ cứu độ của Thượng đế ở phương Tây trước khi đến kỳ
phổ độ thứ ba. Trở lại thời kỳ mở đạo CĐ để nhận thấy sự ảnh hưởng rõ hơn của
văn hóa Tây phương, Nguyễn Văn Trung nhận xét:
Cơ sở cầu tiên này phải đợi đến sau 1920, do sự tiếp thu văn hóa Tây
phương, phối hợp với Thần học, mới tạo ra đạo Cao Đài. Thần học đây
là một phái nặng về tín ngưỡng dân gian da trắng. Môn phái nầy tin
rằng sau khi chết đi, linh hồn con người trở về một thế giới siêu linh,
và nếu có người medium- đồng cốt- và cái bàn xoay (table trournate)
thì linh hồn có thể tiếp xúc với người [131, tr.315]
Việc ảnh hưởng văn hóa phương Tây của đạo CĐ là điều dễ hiểu, vì trừ
Cao Hoài Sang, Cao Huỳnh Cư thì chức sắc đứng đầu tôn giáo này đều được đào
87
tạo ở Trường Chasseloup Laubat (Sài Gòn). Theo thống kê của Jusan Werner,
60% chức sắc đạo CĐ từng là công chức của Pháp, nếu tính cả chức sắc nhỏ phụ
trách làng xóm thì con số này gần 75% [158]. Điều này lý giải vì sao đạo CĐ
vận dụng gần như nguyên văn cách thức tổ chức hành chính của Pháp vào tổ
chức đạo. Bởi vì, chức sắc đạo CĐ được học ở các trường Pháp, nên am hiểu
Tòa thánh Vatican, tổ chức hàng giáo phẩm Công giáo. Cho nên, họ khéo léo sao
chép tổ chức giáo phẩm này bằng các tên Hán Việt cầu kỳ, thần bí đậm chất
phương Đông. Cụ thể:
Chức sắc CĐ thể hiện rõ ở tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” được
quy định trong giáo lý tôn giáo này mà “Thánh” Victo Hugo là linh hồn với tác
phẩm kinh điển Những người khốn khổ. Ngoài ra, Thánh ngôn Hiệp tuyển và
việc phong thánh cho các nhân vật nổi tiếng của Pháp cũng thể hiện nhiều yếu tố
văn hóa Pháp. Thánh ngôn ghi lại các buổi cơ bút chỉ có tiếng Việt và tiếng
Pháp. Đôi khi trong các buổi cầu cơ, tín đồ đạo CĐ thạo tiếng Pháp hơn tiếng mẹ
đẻ. Thần linh về trong các buổi cầu cơ ngoài Quan Thế Âm, Giêsu, Khổng Tử,
Lão Tử, Lý Bạch, còn lại chủ yếu là người Pháp như Victo Hugo, Jeanne d’Arc,
Pasteur, Flammarion, La Fontaine, Aristide Briand, Allan Kadec,v.v...
Văn hóa phương Tây trong đạo CĐ còn thể hiện ở Hội Tam điểm - một
hội kín có từ thời Trung cổ ở Anh. Hội Tam điểm tự mô tả mình như một “hiệp
hội những người thông thái và bác ái”, một “hệ thống luân lý miêu tả bằng các
biểu tượng” hay một “bí tích gia nhập”. Hội này khuyến khích thành viên hành
động tự do theo cách riêng. Họ chú trọng hoạt động từ thiện và xem đó là tôn chỉ
chung ở nơi nào có tổ chức hội hoạt động [143]. Đạo CĐ ảnh hưởng Hội Tam điểm ở nguyên tắc lựa chọn thành viên: lựa chọn bổ sung và nghi lễ gia nhập,
cũng như biểu tượng “Thiên nhãn”.
Mô hình tổ chức bộ máy của đạo CĐ mô phỏng theo nguyên tắc tam
quyền phân lập của mô hình nhà nước quân chủ lập hiến và mô hình Nhà nước/
Tòa thánh La Mã: Cửu Trùng Đài là cơ quan hành pháp, Hiệp Thiên Đài là cơ
quan tư pháp, Bát Quái Đài là cơ quan lập pháp.
88
Ngay lối vào Tòa thánh Tây Ninh có bức tranh vẽ chân dung ba vị thánh
tiêu biểu cho nền văn hiến của ba dân tộc Pháp, Hoa, Việt: Victor Hugo (1802-
1885), Tôn Dật Tiên (1866-1925), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1565). Theo giải
thích của đạo CĐ, ba vị thánh này ký hiệp ước với Đấng Cao đài xin Thượng đế
cho ân xá lần thứ ba đối với chúng sinh [xem: 37, tr.141-142]. Trên tinh thần đó,
đạo CĐ cho rằng, việc phổ độ lần thứ ba là tất yếu và là lần cuối cùng, chỉ có
“Thầy” là người tối cao, không còn tin tưởng giao đạo cho người phàm như hai
thời kỳ hóa độ trước:
Vốn từ trước Thầy lập ra ngũ chi đại đạo là Nhân đạo, Thánh đạo, Tiên
đạo, Thần đạo, Phật đạo; tùy theo phong hóa của phần nhân loại mà
gây chánh giáo, là vì khi trước, càn vô đắc kháng, khôn vô đắc duyệt,
thì nhân loại duy có hành đạo nội phương mình mà thôi... Nhân loại đã
hiệp đồng, càn khôn dĩ tận thức, thì lại vì nhiều đạo mà nhân loại
nghịch lẫn nhau; cho nên thầy mới nhất định quy nguyên phục nhất.
Lại nữa, trước Thầy giao thánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa
thánh giáo mà làm ra cuộc phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng
thấy gần trót mươi ngàn năm nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp
ở chốn a tỳ [28, tr.48].
Sự kết hợp văn hóa Đông - Tây của đạo CĐ còn thể hiện qua kiến trúc cơ
sở thờ tự của tôn giáo này. Lê Văn Lợi nhận xét: “Thánh thất của đạo Cao Đài có
sự kết hợp giữa kiến trúc hiện đại của phương Tây và kiến trúc truyền thống của
dân tộc, tạo nên vẻ đẹp vừa cổ kính vừa lộng lẫy và toát lên triết lý nhân sinh
giàu tính nhân văn” [57, tr.179]. Sự dung hòa giữa kiến trúc phương Đông (tiêu
biểu là ngôi chùa Phật giáo) và phương Tây (tiêu biểu là nhà thờ Công giáo) của
đạo CĐ tạo nên một kiến trúc mới mẻ, sáng tạo, độc đáo, hoàn toàn không sao
chép mà là sự kết hợp để phù hợp với triết lý của tôn giáo này.
Với nhóm các Ông Đạo, trong thời gian thực dân Pháp cai trị, thái độ của
các tôn giáo này cơ bản là chống Pháp, bài xích văn hóa Pháp, do vậy ảnh hưởng
văn hóa phương Tây chưa rõ. Có lẽ vì thế mà các tôn giáo này cố giữ văn hóa
89
truyền thống qua kiến trúc thờ tự, cách ăn mặc, để râu, búi tóc,v.v... Các Ông
Đạo luôn tỏ thái độ phản kháng: “Xử ngoại bang theo điều pháp luật/ Bọn Tây
Liêu chừng ấy phục tùng” [4, tr.31], rồi khẳng định: “Chừng Thất Sơn có ba
tiếng nổ/ Cảnh Láng Linh thiên hạ hằng hà/ Thì Ba Lan, Đức, Ý, Mỹ, Nga/ Phật
Tiên Thánh mới ra xử bỉ” [4, tr.32]. Huỳnh Phú Sổ xót xa trong sấm giảng: “Ta
quá rầu đài các văn minh/ Mấy ai mà giữ dạ sắt đinh/ Theo tông Tổ của mình
thuở trước” [3, tr.103]; “Đời văn minh vật chất bỏ gương xưa/Nghiệp Tổ tiên
con cháu dày bừa/Học thói mới lăng loàn theo sở dục/ Khắp thế giới bình lương
cụ túc/ Quyết tranh giành quyền lợi xé xâu nhau” [3, tr.349].
Các tôn giáo này cho rằng, hậu quả của văn minh vật chất là sự suy đồi
của con người: “Đời văn vật khôn ma khôn quỷ/ Lo trang sức kim thời huê mỹ/
Rồi phụ phàng tục cổ nước nhà/ Trong tâm thì chứa những gian tà/ Chớ chẳng
chứa tấm lòng bác ái/ Học chữ nghĩa cho thông cho thái/ Đặng xuê xang đài các
xe tàu” [3, tr.105]. Tóm lại, nhóm các Ông Đạo có cái nhìn không thiện cảm với
văn hóa phương Tây, bởi vì: “Đời văn vật văn minh tranh cạnh/ Chữ lợi quyền
giựt giết lẫn nhau” [3, tr.110].
Sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ thể hiện khá rõ ở giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, người Việt ở Nam Bộ
rất chủ động, hướng sự tiếp thu văn hóa theo cách của mình và muốn nó không
còn phụ thuộc vào nơi nó xuất phát. La Laurette nhận xét: “Dân Việt học từ
nước pháp ngôn ngữ, các mốt, các thói tục, các tiến bộ, cách tổ chức xã hội và
kinh tế, nhưng không phải để Pháp hóa Nam Kỳ mà để Nam Kỳ tiến tới chỗ
không cần tới nước Pháp” [131, tr.334]. Đó là đặc tính của người Việt ở Nam Bộ
dung hợp trên tinh thần khoan dung, chủ động và sáng tạo.
Tóm lại, kế thừa, dung hợp là đặc trưng nổi bật trong lý thuyết của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ, phản ánh đặc tính của người dân khu vực này trong tôn
giáo. Họ là những người thất thế ở Bắc Bộ vào Nam Bộ. Ở Bắc Bộ, cái gì cũng
phải chính đạo mới theo, không chính đạo không theo. Nam Bộ lại khác, như
đạo CĐ muốn là tôn giáo của thế giới chứ không riêng gì Việt Nam. Về loại hình
90
tôn giáo, đạo CĐ là tôn giáo có tính thực dụng. Điều đó cho thấy sự lớn lên của
điền chủ và tư sản Nam Bộ là rất mạnh. Họ khao khát về địa vị xã hội, địa vị
kinh tế, cả địa vị chính trị nữa.
Với các tôn giáo theo môtíp BSKH, tính dân gian gắn với tính xã hội rất
cao. Các tôn giáo này đều ra đời từ trong phong trào phản ứng chính trị của nông
dân. Đây là loại hình tôn giáo tích hợp, được xây dựng trên nền tảng của BSKH.
Ngay từ đầu, cái lõi các tôn giáo là phản ứng chính trị nông dân, nên chúng có
vai trò nhất định ở tầm quốc gia, chứ không đơn thuần là phong trào các Ông
Đạo. Do đó, đặc trưng nổi bật nhất của chúng là tính dân tộc và tính nhập thế.
Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, bên cạnh nội dung thuyết giáo, thì
việc quảng đại nhân dân Nam Bộ lâm vào cảnh khốn cùng từ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX; việc giới sĩ phu Nam Bộ không còn môi trường hoạt động, lại
bối rối khi tiếp xúc với những hiểu biết mới do thực dân Pháp mang lại, bị giằng
xé về tư tưởng đấu tranh giành độc lập,… là môi trường rất tốt để các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ thể hiện được vai trò của mình.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ biết cách khơi dậy lòng yêu nước của nông
dân nghèo vì mục tiêu độc lập dân tộc thông qua các hoạt động cứu thế. Cho
nên, tính cứu thế của các tôn giáo ở Nam Bộ cần phải được thừa nhận và tôn
trọng, dù mang tính huyền linh. Lẽ dĩ nhiên, tôn giáo không thể thiếu huyền linh.
Nhưng huyền linh của các tôn giáo ở Nam Bộ thuở ban đầu là tư tưởng cứu thế
trước một xã hội “bi đát” như vậy. Trên tinh thần huyền linh, các tôn giáo thể
hiện cụ thể, mạnh mẽ và thiết thực bằng hoạt động thực tiễn của các Ông Đạo và
tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ.
3.2. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TRONG THỰC HÀNH ĐỨC TIN TÔN GIÁO
3.2.1. Tính huyền linh trong thực hành đức tin
Huyền linh là một trong những thành tố quan trọng nhất của mọi tôn giáo,
biểu hiện ở nhiều khía cạnh: ngôn ngữ (nói tiếng lạ, nói ẩn dụ, tiên tri), hành
động kỳ quặc, bùa chú phép thuật, sùng tín “Đấng thiêng liêng” như người Kitô
giáo tin vào sự cứu chuộc thế giới bởi sự hy sinh của Chúa Giêsu - chỉ khi thông
91
qua sự can thiệp từ ân sủng Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc và được cứu rỗi.
Islam là sự mặc khải của “Đấng tối cao” và kêu gọi mọi người cho một sự sống
mới, một cấu trúc xã hội mới của nhà tiên tri Mohammed. Phật giáo là sự chuyển
kiếp, luân hồi, tái sinh,v.v... Với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, huyền linh mang
đầy đủ những tính chất như trên, nhưng được biểu hiện bởi một hệ các Ông Đạo
và những người sáng lập tôn giáo.
Sự xuất hiện các Ông Đạo, những người thực hành huyền linh, là đặc
trưng giai đoạn đầu hình thành các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, sự huyền linh được các tôn giáo và hội kín
quan tâm bằng thực hành phép thuật của các phù thủy (hội kín) và các Ông Đạo
với hình thức tiên tri (dự đoán điều xảy ra bằng việc tiếp xúc siêu nhiên). Cách
thức tu hành kỳ lạ, hành xử khác người, trị bệnh bằng phép thuật của các Ông
Đạo gây sự chú ý đặc biệt, niềm tin sâu sắc cho một bộ phận cư dân. Theo Phạm
Bích Hợp: “Ông Đạo là để chỉ những người có khả năng đặc biệt, như khả năng
chữa bệnh, khả năng tập hợp quần chúng, khả năng huyền linh, dẫn dắt mọi
người theo một chủ thuyết nào đó. Tóm lại, là người có khả năng làm những
điều mà người bình thường không làm được và mang màu sắc thần bí” [64,
tr.85]. G. Coulet nhận xét: “Về cơ bản mọi tôn giáo địa phương ở đất An Nam
đều có những thực hành phép thuật” [147, tr.192]. Do dó, tính huyền linh là mẫu
số chung của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, thể hiện bằng những hoạt động phù
phép, chữa bệnh,... nhằm thực hành đức tin.
Trước hết, nhóm các Ông Đạo sử dụng phương thuốc dân gian, pha lẫn
huyền thuật để chữa bệnh và làm phương tiện truyền đạo. Với Đoàn Minh
Huyên lập ra BSKH, trong hoàn cảnh xã hội hoạn nạn, dịch bệnh bùng phát,
người dân chết như rạ ngoài đồng, ông dùng nước lã, giấy vàng, khuyên niệm
Phật... giúp nhiều người hết bệnh. Tin lành đồn lan xa, người đến tìm đến ông để
chữa bệnh và quy y ngày càng đông. Truyền thuyết kéo cây đa già chắn ngang
đường ở Tòng Sơn, hay trong quá trình truyền đạo ở Tòng Sơn, Bà Trư, Xẻo
Môn, Long Kiến..., ông chỉ sử dụng chiếc xuồng gỗ mục nát tạo nên hình ảnh kỳ
92
lạ, tò mò cho mọi người. Không những vậy, chuyện ông nhiều lần đề cập đến
chuyện tái sinh “Chừng nào gốc mục lên chồi/ Ta vưng sắc lệnh tái hồi trần
gian” [50, tr.67], càng làm cho người dân tin tưởng vào sự thần kỳ, là cơ sở để
các Ông Đạo về sau tự xưng là hậu thân của “Phật Thầy” như: Phật Trùm, Ngô
Lợi, Sư Vãi Bán Khoai, Huỳnh Phú Sổ.
Trên phương thức đó, Ngô Lợi dùng thuốc nam pha lẫn huyền thuật để trị
bệnh cứu người. Đặc biệt, vào mùng 5 tháng 5 năm Đinh Mão (1867), Ngô Lợi
bỗng nhiên bất tỉnh. Sau bảy ngày đêm “đi thiếp”, ông hồi tỉnh và đắc đạo (nên
có tên gọi Năm Thiếp). Đoạn sấm đi thiếp của Ngô Lợi như sau: “Hướng thượng
Đinh Mão tuế, ngũ ngoạt nhựt ngọ diên/ Chuyển ngã thân khử tục, thất nhựt dạ
đê mê/ Tịch nhiên hồi hoàn tỉnh, giải thoát lẫy trần tâm/ Giáo nhơn tùng thiện
đạo, khẩu thuyết phổ lưu truyền” (Trở lại năm Đinh Mão, đúng ngày Ngọ tháng
năm/ Ta trở mình lìa tục, hôn mê bảy ngày đêm/ Bỗng nhiên hồi tỉnh dậy, giải
thoát sạch lòng trần/ Dạy người theo đạo thiện, giáo thuyết khắp muôn dân) [33,
tr.34]. Từ thời điểm này, Ngô Lợi chính thức thu nhận tín đồ, lập ra TAHN.
Nguyễn Ngọc An chu du đến Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Cần
Thơ trị bệnh bằng thuốc nam, kết hợp với xây chùa am để phát triển PGHNTL.
Tín đồ PGHNTL tin ông có phép thuật thông qua những lần thoắt ẩn, thoắt hiện
khi gặp biến cố [54]. Nguyễn Văn Bồng của TĐCSPH giỏi y thuật, mượn nghề
buôn chiếu bán khoai vân du truyền đạo và chữa bệnh. Với PGHH, Huỳnh Phú
Sổ tự nhận là hậu thân của Phật Thầy Đoàn Minh Huyên. Cuộc đời của ông khá
kỳ lạ, từ một cậu bé ốm yếu, bệnh tật gửi lên Thất Sơn chữa bệnh, trở thành một
người khỏe mạnh, đi nhiều nơi, có hàng ngàn buổi thuyết pháp và xuất khẩu
thành thơ như một ma lực thu hút nhiều người. Ông cũng dùng thuốc nam trị
bệnh cứu người và truyền bá tôn giáo của mình.
Tính huyền linh của những người lập ra đạo CĐ dựa trên yếu tố Thông
linh học phương Tây kết hợp với tín ngưỡng dân gian tạo thành phong trào cơ
bút. Ngày 12/2/1926, trong một bài cơ, Thượng đế truyền cho Ngô Minh
Chiêu được thiên phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo CĐ. Trong suốt
93
thời kỳ mở đạo, trong hoạt động tôn giáo thu hút tín đồ, đạo CĐ sử dụng các
hình thức huyền cơ và thần cơ, đúng như nhận xét của Đồng Tân: “Nói đến
Cao Đài giáo mà không nói đến cơ bút thì chẳng khác gì đi vào một ngôi nhà
mà không qua cái ngõ bởi lẽ cơ bút là cái cửa ngõ đi vào chân lý Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ” [109, tr.53].
Người CĐ cho rằng, cơ bút có giá trị thiêng liêng với họ. Bởi vì, họ tin có
thế giới thần tiên trong vũ trụ; Thượng đế giáng lập đạo và Thượng đế làm giáo
chủ mà không trao quyền này cho ai nữa. Cơ bút để lại nhiều kinh sách của đạo
CĐ, như: Thánh ngôn, Đại thừa chân giáo, Pháp chánh truyền... Con người có
thể tiếp xúc trực tiếp với thế giới thần tiên qua cơ bút. Cơ bút cho con người sự
tương tác, giao cảm giữa Đấng Thiêng liêng với tín đồ. Phần khai đạo CĐ còn
ghi lại sự huyền linh tại một buổi cầu cơ quan trọng ở Phú Quốc của Ngô Minh
Chiêu. Theo đó, vào một buổi cầu cơ năm 1921, Ngô Minh Chiêu được Đức Chí
Tôn truyền dạy phải tìm một dấu hiệu riêng biệt để thờ. Ông chọn chữ Thập
nhưng Đức Chí Tôn không đồng ý, vì đó là dấu hiệu của tôn giáo đã có. Ngày
20/4/1921, khi đang ở dinh quận, ông thấy xuất hiện một con mắt lớn, tỏa hào
quang. Con mắt đó nhìn thẳng vào ông, làm ông sợ hãi phải lấy 2 bàn tay che
mặt lại không dám nhìn. Một lúc sau, ông mở mắt thấy con mắt toả hào quang
rực rỡ hơn nữa. Ông bèn chắp tay vái rằng: “Bạch Tiên Ông! Đệ tử biết rõ
huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy đệ tử sợ lắm!
Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên nhãn thì xin cho biến mất tức thì” [16,
tr.30]. Vừa khấn xong, con mắt mờ dần rồi biến mất. Tuy vậy, ông vẫn chưa
tin nên chưa vẽ Thiên nhãn để thờ. Vài ngày sau, ông thấy Thiên nhãn xuất
hiện như trước. Ông lại vái lạy Tiên Ông và xin vẽ Thiên nhãn để thờ thì con
mắt tự nhiên biến mất.
Ngoài những vị xưng là giáo chủ tôn giáo, phần lớn Ông Đạo còn lại
không chủ trương lập đạo, không thu hút tín đồ hay cho ra đời hệ thống giáo lý
của riêng mình, mà chủ yếu hoạt động theo tư cách cá nhân, thể hiện những năng
lực kỳ dị, siêu phàm, làm cho người dân vừa khiếp sợ vừa kính trọng.
94
3.2.2. Tính dân tộc trong thực hành đức tin
Tính dân tộc là một đặc trưng đậm nét trong các tôn giáo ở Việt Nam,
được thể hiện qua việc thần thánh hóa, công tích hóa, biểu hiện rõ nhất là việc
thờ cúng Tổ tiên, các anh hùng dân tộc trong cơ sở thờ tự. Các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng đề cao tính dân tộc như thế. Đồng
thời, họ sẵn sàng đón nhận những người mang đến cho họ niềm tin vào cuộc
sống tại vùng đất mới, dù đó là nhân vật từ phương xa đến.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam nổi lên phong trào chống
Pháp, trong đó một số cuộc nổi dậy mang màu sắc phong trào tôn giáo cứu thế.
Ở Bắc Bộ và Trung Bộ đó là Kỳ Đồng - Mạc Đĩnh Phúc (Thái Bình, Bắc Giang,
Quảng Yên, giai đoạn 1887-1897), Giặc Chày vôi (Huế - 1886), Bạch Xỷ (Hà
Tĩnh, 1885),v.v… Ở Nam Bộ, tinh thần này còn sôi động hơn rất nhiều với sự
khởi đầu của những tôn giáo nội sinh.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ, nhân dân
sục sôi ý chí chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc. Những gì con người
chẳng giành được ở thế giới hiện thực lại được bù đắp bởi lòng bao dung của
Trời, Phật ở thế giới mai sau. Người lập ra các tôn giáo ở Nam Bộ sớm nắm bắt
nguyện vọng của nhân dân, nên nhanh chóng hướng tôn giáo do mình lập ra vào
chủ đề quốc gia dân tộc, đề cao tinh thần yêu nước thương dân, đấu tranh chống
giặc ngoại xâm.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ gắn liền với ý thức dân tộc, tinh thần yêu
nước ở hai khía cạnh tiêu biểu: Một là, thể hiện khát vọng về một Việt Nam
cường thịnh, là nơi tụ hội tinh túy của tâm linh. Hai là, hình thành các hình thức
vũ trang đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp: “Về lòng yêu nước, phương
thức đấu tranh của giới chức CĐ có những nét khác các đảng phái, hội kín đương
thời. Họ không tin vào bạo lực cách mạng, dù theo kiểu Quốc dân đảng hay
Cộng sản đảng. Họ muốn sử dụng lòng mê tín của quần chúng - như Hồng Tú
Toàn với vụ nổi dậy ở Thái Bình Thiên Quốc - để tạo dựng trong lòng địch một
thứ cộng đồng thoát ra ngoài ảnh hưởng của chính quyền Pháp” [131, tr.303].
95
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là sự phản kháng với chính sách bảo thủ
của triều đình nhà Nguyễn và sự cai trị của thực dân Pháp lên thân phận gian
truân của người dân. Những nghi thức tôn giáo là hình thức tập hợp nông dân.
Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành là học trò của Đoàn Minh Huyên đều tích
cực kháng chiến chống Pháp, khai hoang lập làng, bị truy nã gắt gao.
Sự phát triển của TAHN gắn với việc xuất hiện nhiều làng tự trị, tự quản
vùng Thất Sơn, tập hợp người dân mất ruộng, nghĩa quân thất trận trong kháng
chiến chống Pháp. Tôn giáo này khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, từ đó tổ
chức cho mọi người đứng lên xây dựng khu vực dân cư tự trị, tạo điều kiện cho
sự phát triển của tôn giáo mới theo hình thức khai hoang, lập làng. Chọn núi
Tượng làm địa bàn hành đạo, Ngô Lợi thể hiện ý đồ lâu dài trong việc xây dựng
địa bàn, nêu cao ý thức dân tộc ở vùng đất mới. Việc cho tín đồ làm chung, ăn
chung, tổ chức cuộc sống theo hình thức cộng đồng cũng là một trong những
biện pháp của Ngô Lợi cũng như các Ông Đạo khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất trong việc tập hợp lực lượng chuẩn bị kháng Pháp. Trong Ngũ giáo, Ngô
Lợi nhấn mạnh: “Quân vương nghĩa trọng biết bao/ Làm tôi lo báo công lao ở
đời” [73, tr.158].
Với PGHH, sau khi khai đạo, Huỳnh Phú Sổ đi nhiều địa điểm khác nhau
ở Nam Bộ giảng thuyết để khuyến nông, kêu gọi tinh thần yêu nước chống giặc
ngoại xâm. Nội dung giảng thuyết của Huỳnh Phú Sổ thể hiện rõ tính dân tộc:
“Bắc Nam một dải san hà/ Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi” [3, tr.504]; ý thức
rằng: “Cùng chung một giọt máu đào/ Phen này hợp sức nâng cao nước nhà” [3,
tr.507]; bởi vì phải trả thù giặc: “Thù giặc Pháp làm người phải trả” [3, tr.536];
để rồi mới tiếp bước đường tu: “Đền xong nợ nước thù nhà/ Thiền môn trở gót
Phật Đà nam mô” [3, tr.518].
Với PGHNTL, Nguyễn Ngọc An nói về việc hiếu nghĩa với đất nước:
“Hiếu chí ư thiên tắc phong võ thuận thì/ Hiếu chí ư địa sanh hóa vạn vật/ Hiếu
chi Tổ giáo huấn thập nhị công nghệ”, “Nghĩa với nước phải tận trung vì nước/
Giữ gìn ngọn rau, tấc đất nước nhà” [58, tr.6]. Nguyễn Ngọc An là người có
96
nhiều hoạt động yêu nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, ông giữ vai trò quan trọng trong vùng căn cứ điểm, làm cơ sở cho nhiều
hoạt động của cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Giai đoạn chống Pháp, tuy không
trực tiếp tham gia, nhưng nhiều cán bộ cách mạng thường lui tới bàn luận với
ông về tình hình đất nước và địa phương. Giai đoạn chống Mỹ, ông được tổ chức
bầu làm Hội trưởng Hội Cha mẹ chiến sĩ - Hội Liên Việt tỉnh Long Châu Hà. An
Bình tự là nơi để công binh xưởng Việt kiều Campuchia rút về rèn đúc vũ khí
phục vụ cho chiến trường. Ông hy sinh ngay tại Tổ đình khi Mỹ Ngụy càn phá
An Bình tự vì chúng phát hiện đây vừa là ngôi chùa vừa là cơ sở cách mạng.
Với TĐCSPHVN, vào năm 1934, Nguyễn Văn Bồng cùng tín đồ vào
Đồng Tháp khai khẩn làm ruộng. Trong quá trình hoạt động, ông gần gũi nuôi
dưỡng và che giấu nhiều cán bộ cách mạng ở Xứ ủy Nam Kỳ. Cơ quan này đặt ở
Hưng Phước tự - nơi TĐCSPHVN đang hoạt động.
Với đạo CĐ, sau khi thành lập đạo, thực dân Pháp nhận thấy tôn giáo này
có hình thức tổ chức như một nhà nước, có khả năng lôi kéo đông đảo tín đồ, nên
có thể đe dọa đến chính quyền cai trị. Do vậy, chính quyền Pháp đã ban hành các
chỉ dụ cấm đạo nhằm hạn chế hoạt động của đạo CĐ, đồng thời để tránh tôn giáo
này rơi vào sự ảnh hưởng từ người Nhật, do người Nhật đã xâm nhập Đông
Dương và ra sức lôi kéo các nhóm tôn giáo, chính trị người Việt ủng hộ chính
sách Đại Đông Á. Chính quyền thực dân Pháp bắt giữ Phạm Công Tắc và nhiều
người CĐ khác. Nhiều thánh thất đạo CĐ bị chiếm đóng, trong đó có Tòa thánh
Tây Ninh. Tất cả gây nên sự phản kháng rất lớn đối với người theo đạo CĐ: “Dù
là dân thành thị hay nông thôn, thì họ cũng không ưa gì Pháp. Họ có được
hưởng, chia chác được gì từ Pháp đâu. Ở thành thị thì Pháp chỉ là ông sen đầm
có cái “dùi cui”, ở nông thôn thì hình ảnh ông Tây thực dân đầu đội nón cối tay
cầm ba-toong dứt khoát không phải là kẻ mang lại “tin lành”” [131, tr.303-304].
Quân Nhật can thiệp để mở lại Tòa thánh Tây Ninh ở Sài Gòn kèm điều
kiện Trần Quang Vinh (người tạm thời thay mặt Phạm Công Tắc) phải tập hợp
tín đồ, hợp tác với quân đội Nhật chống Pháp. Do đó, một lực lượng bán vũ
97
trang của đạo CĐ được thành lập với tên gọi Nội ứng Nghĩa binh, với danh nghĩa
được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật.
Việt Minh vận động được lực lượng các hệ phái Cao Đài Tiên Thiên, Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo, Cao Đài Minh Chơn Đạo, bí mật lập Hội Cao Đài Cứu
Quốc, chủ yếu hoạt động ở Tây Nam Bộ; tập hợp lực lượng trên nền tảng Thanh
niên Đạo đức Đoàn, dưới sự lãnh đạo của Cao Triều Phát, cố vấn Ủy ban Kháng
chiến Hành chính Nam Bộ, có xu hướng chống cả thực dân Pháp lẫn phát xít
Nhật. Phong trào này gây tiếng vang cho đạo CĐ trong những hoạt động thể hiện
lòng yêu nước, ý thức dân tộc, chống giặc ngoại xâm.
Năm 1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, hàng nghìn tín đồ Cao Đài Minh Chơn đạo dưới sự lãnh
đạo của Cao Triều Phát xây dựng Mặt trận Giồng Bốm (Bạc Liêu) chống lại
quân xâm lược. Tiếng súng kháng chiến ở Mặt trận Giồng Bốm trở thành một
trong những trận đánh lớn nhất ở Tây Nam Bộ thời kỳ đầu kháng chiến chống
Pháp. Ý chí quật cường, hi sinh anh dũng của nghĩa quân “áo trắng” gây tiếng
vang lớn khắp vùng, trở thành nguồn cổ vũ, khích lệ tinh thần “phụng đạo, yêu
nước” trong quần chúng tín đồ đạo CĐ và lan rộng đến các phái đạo CĐ ở Nam
Bộ. Người theo đạo CĐ không chỉ vì yếu tố tôn giáo, mà còn bởi: “Qua những
bài thơ ý nghĩa nước đôi, CĐ đã khởi dậy trong lòng họ tinh thần bài ngoại, thức
tỉnh lòng yêu nước, và từ đó đi đến chỗ chống Pháp và chỉ còn một bước - không
phải chỉ chống mà còn muốn trục xuất Pháp và cả nền văn hóa Pháp ra khỏi
vùng đất này” [131, tr.352].
Như vậy, trong thời điểm ra đời và quá trình hoạt động, các tôn giáo ở
Nam Bộ đều mang đặc trưng yêu nước một cách rất chủ động. Trong đó, hoạt
động chính trị ở những sự biến động của thời cuộc càng làm cho đặc trưng đó trở
nên đặc biệt hơn đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Bên cạnh lòng yêu nước, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ còn chú trọng lấy
đạo lý làm người là nội dung căn bản của giáo lý và lấy việc thực hành đạo lý
làm người làm phương thức tu hành. Trọng tâm tư tưởng giáo lý là “Tu nhân”
98
theo Tứ Ân và Học Phật. Đây là triết thuyết bao trùm trong giáo lý các tôn giáo
ra đời ở Nam Bộ. Dù là người dân mang tri thức Tam giáo (các Ông Đạo), hay
công chức Tây học (chức sắc đạo CĐ), thì khi truyền đạo cho nông dân ít học, họ
thường dùng giáo lý “dạy đời” gắn liền tính truyền thống địa phương. Việc vận
dụng tư tưởng truyền thống và tư tưởng tôn giáo đã làm nên kiểu “tôn giáo bình
dân”, “tôn giáo tổng hợp”: “Đặc trưng nổi bật của các tôn giáo nội sinh với tất cả
các tôn giáo khác, là ở chỗ nó nâng đạo lý làm người truyền thống của người
Việt lên thành nội dung chủ yếu của giáo lý, thành pháp môn, thành phương thức
tu hành, hay có thể nói, đạo lý làm người đã được tôn giáo hóa” [25].
Thờ cúng Tổ tiên là căn bản nhất của đạo đức truyền thống, thể hiện trong
gia đình của mỗi tín đồ đều có bàn thờ Tổ tiên ở vị trí trung tâm, trang trọng
cùng với biểu tượng tôn giáo của mình. Với các tôn giáo ở Nam Bộ, ân Tổ tiên là
ân đầu tiên trong Tứ ân, sự siêu thoát cho ông bà là mục đích cốt lõi của việc tu
hành, trong các bài kinh, sấm giảng, sấm truyền... đều khuyên dạy con người
phải làm tốt việc hiếu đạo: “Một lòng tin tưởng cho bền/ Thờ cha kính mẹ kính
trên Phật Trời” [69, tr.3]; hoặc: “Giữ lòng tin tưởng cho tường/ Thờ cha kính mẹ
trọng Tiên Phật Trời (...)/ Bá gia hãy ráng ghi vào/ Ta truyền hiếu nghĩa thật nào
đâu sai” [69, tr.62-63].
PGHH cho rằng, mỗi tín đồ phải biết ơn tổ tiên, rộng hơn là phải biết ơn
quê hương đất nước:
Sanh ra, ta phải nhớ ơn Tổ tiên, cha mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước,
quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự
sống được dễ dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận
bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp, ráng nâng đỡ xứ sở
quê hương lúc nghiên nghèo và làm cho nước nhà được cường
thạnh… Bờ cõi vững lặng, thân ta mới yên, quốc gia giàu mạnh, mình
ta mới ấm [3, tr.133].
Đạo CĐ luôn đề cao Diêu Trì Thánh Mẫu, một trong hai đối tượng thờ có
vai trò lớn nhất, đó là Cha và Mẹ của nhân sinh. Trong cơ sở thờ tự của các chi
99
phái đạo CĐ gồm hai điện thờ chính: Thánh thất thờ Thượng đế cùng các vị thần
khác và Điện Phật Mẫu thờ Diêu Trì Kim Mẫu. Lễ hội hằng năm lớn nhất của
đạo CĐ là Lễ Phật Mẫu ngày 15 tháng 8 âm lịch. Điều đó biểu hiện tâm thức của
người Việt trong tục thờ cha mẹ, tổ tiên được chuyển hóa vào đạo CĐ: “Nhơn
nghĩa gắng gìn dạ sắc son/ Thờ cha kính mẹ hiếu lo tròn/ Nghèo mà sạch danh
thơm rạng/ Phúc hậu Trời ban để cháu con” [28, tr.233]. Cao đài Tiên ông dạy
tín đồ khi thực hành hiếu đạo trọn vẹn chính là thành tựu đạo hạnh: “Chữ hiếu
phải lo vẹn phận người/ Sanh-thành đạo trọng há đâu chơi” [28, tr.232].
Hiếu nghĩa theo quan điểm của TAHN là: “Hiếu trung hai chữ song toàn/
Ơn cha mẹ là đàng thảo ngay” [101, tr.98]. Việc lấy hiếu nghĩa làm trọng, nên
Ngô Lợi lấy tên đạo là “Đạo thờ Ông Bà”: “Hiếu nghĩa vi tiên”, “Hiếu nghĩa vi
bổn” (Hiếu nghĩa là trước nhất, hiếu nghĩa là cái gốc).
Cũng trên tinh thần hiếu nghĩa, Nguyễn Ngọc An dạy tín đồ Phật giáo
PGHNTL: “Lúc cha mẹ ở với mình thì phải hết lòng yêu/ Lúc dưỡng nuôi cha
mẹ thì phải hết lòng vui/ Lúc cha mẹ bịnh thì phải hết lòng lo than thuốc và săn
sóc/ Khi cúng cha mẹ thì phải hết lòng nghiêm tưởng” [58, tr.23]. Hay: “Hiếu
chí Tổ nội và Tổ ngoại đạo đồng nhất lý/ Hiếu chí phụ mẫu sanh thành hình vóc
tóc da thân thể” [58, tr.19].
Thực hành hiếu nghĩa là mạch nguồn xuyên suốt của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ. Tư tưởng này đan xen, lồng ghép đến mức khó bóc tách rạch ròi Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo, truyền thống. Đây là một dạng tôn giáo dung hợp, một
thứ đạo đức bình dân trong tôn giáo.
Bên cạnh hiếu nghĩa thì đạo lý làm người luôn được các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ đề cao. Đạo lý đó không mang tính kinh viện của Phật giáo hay
Nho giáo mà gần gũi với đời sống hằng ngày mà ông bà, cha mẹ thường răn
dạy con cháu: “Lời nói năng chớ có tục thô/ Sách thánh dạy hiền từ trung
hiếu” [4, tr.22]; trách nhiệm của người tu hành: “Tu hành thời phải cần lo/ Ơn
cha nghĩa mẹ phải toan lo đền/ Ơn thầy nghĩa tớ đừng quên/ Xử cho trọn
nghĩa mới nên con người” [9, tr.66].
100
Giáo lý TAHN khuyên tín đồ phải luôn nhớ đến công lao dưỡng dục của
mẹ cha: “Nuôi con khó học dường nào/ Nghĩ ơn cha mẹ biết cao mấy tầng/ Giữ
đặng chữ hiếu chín tầng rạng soi/ Kìa chẳng nghĩ đó mà coi/ Mấy người lành
thảo để nơi truyền đời” [101, tr.39].
Những lời răn dạy bằng ngôn từ bình dân của các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ được tín đồ thuộc lòng, ngâm nga hằng ngày, thể hiện qua ứng xử ở đời
như lời ăn tiếng nói chừng mực, nết đi đứng trang nghiêm, thái độ tôn kính
người trên… là những việc cần phải chuyên tâm thực hành, phù hợp đạo đức
của con người. Tuy bình dân nhưng lời răn dạy của các tôn giáo ở Nam Bộ lại
chứa đựng sự thiêng liêng, bởi đó lời giáo huấn của bậc Tổ sư, lời Phật nên
được xem là giáo lý chứ không phải đạo đức đời thường, mà tín đồ muốn làm
hay không tùy ý. Trong trường hợp này, đạo đức truyền thống được “tôn giáo
hóa” [xem: 25].
Với đạo CĐ, tự nhận là “Tam giáo quy nguyên”, nên những giá trị đạo
đức lối sống truyền thống được tín đồ tôn giáo này xem trọng. Kinh Sám hối của
đạo CĐ ghi: “Làm con phải trau dồi Hiếu đạo/ Trước là lo trả thảo mẹ cha/ Lòng
thành thương tưởng ông bà/ Nước nguồn cây cội mới là tu mi” [15, tr.53]. Theo
quan niệm của đạo CĐ, thờ cúng tổ tiên là một biểu hiện của lòng tưởng nhớ đến
cội nguồn. Tín đồ đạo CĐ tin rằng, nguồn cội của con người gồm hai phần. Phần
gần thấy được trong kiếp sống là ông bà, cha mẹ. Phần xa phải suy luận ra mới
thấy được, đó là Thượng đế, cha chung của muôn loài vạn vật. Con người sau
khi chết, phần xác hư hoại, phần hồn còn mãi. Thờ cúng tổ tiên để tỏ lòng biết
ơn đối với người quá cố, đền đáp món nợ mà con cháu vay của tiền nhân trên cả
hai phương diện vật chất và tinh thần. Vì vậy, đời sống linh hồn của con người
sau khi chết có ý nghĩa quan trọng, liên quan mật thiết đối với các thế hệ con
cháu bởi luật nhân quả. Do đó, người CĐ phải làm điều phúc đức để đền ơn tổ
tiên, cha mẹ, như lời Cao đài Tiên ông chỉ dạy: “Chỉ có xứ Việt Nam còn duy trì
được sự tôn sùng tổ phụ theo tục lệ cổ truyền... Ý Thầy muốn nó được giữ
nguyên thể như vậy mãi” [28, tr.99].
101
Cùng với truyền thống thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đặc
biệt quan tâm đến tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Quần chúng tín đồ các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ tôn thờ và sùng bái các vị anh hùng tiêu biểu như Nguyễn
Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Trương Định, Trần Văn
Thành,… không chỉ vì thành tích chống giặc ngoại xâm mà còn vì sự huyền linh
liên quan đến cuộc đời của họ. Đây là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của người
dân Nam Bộ nói chung, tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ nói riêng: “Ở Việt Nam từ
trước đến nay cả hai khuynh hướng thờ phụng tổ tiên và thờ phụng tự nhiên đã
tiến tới sự phối hợp làm một ở sự thờ phụng vị anh hùng dân tộc, vừa là linh hồn
tiền nhân bất tử, vừa là những anh hùng phối hợp với các thế lực tự nhiên thần
thánh hóa... và dân Việt tìm thấy ở trong sự thần thánh hóa anh hùng dân tộc ấy
cái quốc hồn để làm sức mạnh cấu kết đoàn thể, để làm sinh lực sống còn của
dân tộc” [117, tr.67].
3.2.3. Tính nhập thế trong thực hành đức tin
Trong số các đặc trưng tôn giáo ở Việt Nam, có thể nói, nhập thế là xu
hướng rất nổi trội. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cũng như thế. Ở một góc độ
nào đó, có thể nói, nhập thế là đặc trưng độc đáo nhất, đặc sắc nhất của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bởi tinh thần này được
đồng bào các tôn giáo thực hiện với tấm lòng trọng nghĩa trên tinh thần hiếu đạo
cao độ. Tuy nhiên, cũng từ yếu tố nhập thế, một số chức sắc, chức việc, tín đồ có
những hành động không đúng tôn chỉ tôn giáo, gây ảnh hưởng xấu đến xã hội.
Nhập thế không chỉ đơn giản là việc tương trợ xã hội mà còn là phương
pháp tu hành, những lời giáo huấn của các Ông Đạo, chức sắc các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ đến tín đồ nhằm giúp họ nỗ lực công đức, công quả, công phu để
được đến Niết Bàn, Hội Long hoa, Bạch Ngọc kinh.
Đạo CĐ cho rằng, nhập thế là hướng đến xã hội, phải biết dấn thân, làm
tròn trách nhiệm đối với nhân dân, là “trường thi công quả” [28, tr.64] mới có
thể đến được Bạch Ngọc kinh hiệp hội cùng Thượng Đế. “Công quả” không chỉ
tín đồ mà còn những bậc tiên thánh phải trải qua: “Người dưới thế này muốn
102
giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của cải. Ấy là về phần xác thịt. Còn
Thần Thánh, Tiên Phật muốn cho đắc đạo phải có công quả” [28, tr.75].
Như vậy: “Một trường thi công quả, các con muốn đến đặng nơi cực lạc
thì phải đi tại cửa này mà thôi. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng Thầy đã đến
chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc Đạo, phải đoái lại bá thiên
vạn ức nhân sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để
lòng từ bi mà độ rỗi” [28, tr.75] . Để thực hiện công quả, đạo CĐ nhắc nhở tín đồ
phải có lòng vị tha, vì vui buồn và sướng khổ của mình đều tùy thuộc nơi sướng
khổ của nhân sinh. Phải biết vì người quên mình, hy sinh hạnh phúc cá nhân mà
nghĩ đến hạnh phúc tha nhân, vui cái vui của thiên hạ. Việc làm công quả phải
không nề hà, so đo lớn nhỏ.
Đạo CĐ nhấn mạnh quan niệm sai lầm của một số người tu hành bỏ quên
việc công quả mà nghĩ rằng mình thành tựu đạo hạnh. Thánh ngôn ghi rõ:
“Trong các con, có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự,
nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u
nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ,
nhân sự chưa xong, thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong...”
[28, tr.186]. Cho nên, đạo CĐ lưu ý tín đồ không chỉ dừng lại ở những việc công
quả, mà còn phải nhận thức trách nhiệm với dân tộc.
Rõ ràng, công quả là hoạt động được tín đồ đạo CĐ coi trọng. Họ bỏ công
sức, tiền của vào các công việc xã hội với hy vọng qua đó được tiến hóa, chuyển
kiếp, hiệp hội cùng Đức Cao đài.
Muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sinh mà thôi. Như
không làm đặng thế nầy, thì tìm cách khác mà làm ấm chất, thì cái
công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao. Các con
phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải
cần cái đèn Thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước [28, tr.282].
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đặt vấn đề nhập thế ở việc “Nhơn nghĩa”
theo tinh thần của Nho giáo: Lễ, Trí và Tín. Đó là đức độ của một cá nhân: “Tân
103
dân độc lập cần tu đức/ Hưng phát từ bi bát chánh truyền” [125, tr.14], “Trai
hiền lành chẳng nhọc dạ lính quân/ Gái đức hạnh không thua cùng tha quốc”
[125, tr.15]. Tư tưởng nhập thế thực hành Nhân đạo của TĐCSPHVN còn
được thể hiện qua các biểu tượng chữ “Nhất” màu đỏ tượng trưng cho sự
dũng mãnh, đặt giữa lá cờ vàng. Cờ có hai đuôi nhọn tượng trưng cho tu phúc
và tu tuệ. Phúc tuệ song tu nhằm đoàn kết mọi người trong tình thương chung,
giữ lòng từ bi, cứu nhân độ thế, đồng thời trau dồi đạo hạnh để tinh tấn trên
đường giải thoát [137, tr.47-50].
Sự nhập thế nổi trội của các tôn giáo ở Nam Bộ cho thấy, bối cảnh xã hội
đương thời đòi hỏi họ vừa dung hợp vốn có sẵn, biến thể ở một mức độ phù hợp,
vừa đáp ứng tâm linh tôn giáo, vừa thỏa mãn nhu cầu đời sống thực của nông
dân: “Rõ ràng, không vô cớ mà người Nam Bộ hướng tới một khí thế tôn giáo
mới, một tâm trạng tôn giáo mới” [137, tr.59-75]. Khí thế mới, tâm trạng mới đó
để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử ở vùng đất mới.
Các tôn giáo ở Nam Bộ đề xướng đường hướng tu hành không tách rời
giữa đạo và đời, tu tại gia và không cần xây chùa to, tạo tượng lớn. Người tu
hành không cắt ái ly gia, sinh hoạt như người bình thường: “Phận mình cư sĩ
dám bày/ Luật ghi phép tắc giảng bài tỏ phân” [50, tr.55], “Ta là cư sĩ canh điền/
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành” [3, tr.115].
Nhập thế là chủ đạo của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, bởi chúng gắn chặt
vào đời sống nông thôn. Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Nguyễn Ngọc An, Phật
Trùm, Nguyễn Văn Bồng, Huỳnh Phú Sổ,... không khác gì thầy giáo trường
làng. Đó là những Ông Đạo có phong cách của thầy tiên tri nhưng cũng là thầy
giáo trường làng qua các bài sấm giảng dạy đời, từ đó nó lan rộng ra xã hội.
Phật giáo Hiếu nghĩa Từ Lơn thừa nhận tu theo bậc “hạ thừa”, có nghĩa là
tu theo nhân đạo, chỉ giữ vài giới luật để sửa mình. Nguyễn Ngọc An viết: “Hạ
thừa, là trong vòng nhơn đạo, xét ra hầu hết chúng ta là bực hạ thừa, một phần tu
trong vòng nhơn đạo vì thấy mình còn nặng nợ với gia đình, Tổ quốc, quê
hương, chủng tộc, chỉ giữ vài điều trong giới luật để sửa tánh răn lòng, thế là học
104
Phật tu nhơn vậy” [58, tr.9]. Muốn hoàn thành tu nhân thì phải: “Tông môn
phụng sự giữ toàn Tứ ân” [50, tr.88]. Theo Quách Thanh Tâm, bốn trọng ân này
nguyên là Tứ ân của Phật giáo: ân phụ mẫu, ân quốc vương, ân Tam bảo, ân
chúng sinh, được cụ thể hoá, Việt Nam hoá, gần gũi hoá với quần chúng bằng
cách đặt ân đất nước và ân cha mẹ ở hàng đầu [xem: 104].
Tứ ân thể hiện rõ qua đường hướng hành đạo của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ, cụ thể: “Gắn bó dân tộc, đất nước, học Phật - tu nhân, tứ ân” (BSKH),
“Hành tứ ân - Sống hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc” (TAHN), “Đạo pháp -
Hiếu nghĩa - Dân tộc, An bình - Bác ái - Từ tâm” (PGHNTL), “Vì đạo pháp, vì
dân tộc” (PGHH). Tất thảy đều sát hợp với việc nhân nghĩa, bổn phận, trách
nhiệm của tín đồ trong việc đền đáp “Tứ đại trọng ân”. Cuối cùng, sự nỗ lực tu
hành mà mỗi tín đồ các tôn giáo này hướng đến là: “Tu đền nợ thế cho rồi/ Thì
sau mới được đứng ngồi tòa sen/ Tu hiền hiếu nghĩa đôi bên/ Tu cang tu kỷ gắng
bền hiếu trung” [50, tr.53].
Tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ thuộc nằm lòng câu: “Nhơn đạo bất tu, tiên
đạo bất hỷ”. Do đó, họ cố công tu trì, báo hiếu: “Thượng thị phụ khi sanh, hạ thử
mẫu huyết dưỡng/ Thiên địa âm dương hội phụ mẫu khí huyết hòa/ Thị cố sanh
ngã đẳng, âm dương đồng thọ hưởng/ Thiên địa nhơn đồng đạo, phụ mẫu nghĩa
tối cao” [102, tr.18-19]. Đoạn kệ trên có nghĩa, thân hình ta do cha mẹ mà sinh
ra, do đó công ơn cha mẹ lớn như trời đất, ta phải lo đền trả nghĩa cao dày ấy.
Làm như thế mới đúng là tu nhân, xứng đáng đạo làm người. Xong đạo làm
người mới nói đến chuyện học Phật: “Tu nhân là để cải tạo xã hội, cho đặng
thuần phong mỹ tục, chữ tu thân học chí thần tiên, xưa kia những bực thánh hiền,
cũng tai, cũng mắt mà làm nên danh người” [58, tr.11].
Với nguyên lý “học Phật - tu nhân”, các tôn giáo ở Nam Bộ không tu hành
theo những học thuyết thâm sâu của Phật giáo, mà chủ yếu vận dụng những
phương pháp đơn giản như làm công quả, rèn luyện đạo đức, niệm Phật một cách
dễ hiểu nhất. Muốn học Phật được viên mãn, tín đồ phải rèn luyện bản thân, trau
dồi đức hạnh. Mục đích cuối cùng của tu nhân là được về dự Hội Long hoa, kỳ
105
đại hội chọn người hiền đức, tạo dựng một xã hội an lành. Muốn đạt được điều
đó, tín đồ phải thực hành Tứ ân. Tạ Chí Đại Trường viết: “Điểm khác Phật giáo
truyền thống mà G. Coulet chú ý tới là tín ngưỡng Phật đường có khuynh hướng
quốc gia chủ nghĩa, rao giảng vai trò ân đức đất nước, cụ thể hoá trong thân xác
hoàng đế Việt” [133, tr.326]. Sấm truyền Phật Thầy Tây An ghi: “Loài cầm thú
còn hay biết ổ, huống chi người nỡ bỏ tứ ân” [50, tr.52]. Như vậy, Tứ ân là
rường cột giáo lý của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, với nội dung cụ thể như sau:
Ân tổ tiên: là nhớ ơn và báo ơn công sinh thành dưỡng dục người đã tạo ra
mình; biết ơn và báo ơn ông bà, cha mẹ mới trọn đạo làm người. Nội dung trọng
yếu các bài sấm truyền, sấm giảng, kinh sách các tôn giáo ở Nam Bộ luôn
khuyên dạy tín đồ phải ghi nhớ, báo đáp công ơn cha mẹ: “Bất hiếu phụ mẫu
nghịch lời/ Cha mẹ sanh dưỡng là nơi ơn dày” [50, tr.91], “Phụ mẫu thâm ân vô
lượng kiếp/ Quân, thần nghĩa trọng hữu thiên niên” [50, tr.176].
Ân đất nước: Các tôn giáo ở Nam Bộ cho rằng, người tu hành trước hết là
phải trung với đất nước, phải bảo vệ quê hương mỗi khi có giặc ngoại xâm; phải
hết lòng xây dựng đất nước giàu mạnh trong thời đại hoà bình.
Ân Tam bảo: Mỗi tín đồ phải nhớ ơn Phật, Pháp, Tăng bằng cách noi theo
lời Phật dạy; phải có trách nhiệm truyền bá Phật pháp đến mọi người để họ phấn
đấu làm việc thiện, sống nhân từ, hướng đến chân, thiện, mỹ.
Ân đồng bào nhân loại: Trong cuộc sống, mỗi người đều chịu ơn lẫn nhau.
Sự chịu ơn đó không dừng lại ở đồng bào mà toàn thể nhân loại. Cho nên, con
người phải biết quan tâm, yêu thương, vui vẻ, hoà thuận, chia sẻ với muôn người
như tình huynh đệ. Tất cả đồng bào và nhân loại không phân biệt giàu nghèo,
sang hèn, màu da, chủng tộc đều là thân tình, quyến thuộc.
3.2.4. Tính chính trị trong thực hành đức tin
Các tôn giáo ra đời đều do những nguyên nhân biến động tôn giáo, luân lý
và chính trị. Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng
vậy. Nhưng điểm đặc biệt ở chỗ, nếu đại đa số các tôn giáo mới ra đời chủ yếu
do sự bất đồng yếu tố tôn giáo, thì các tôn giáo nội sinh Nam Bộ lại chủ yếu do
106
yếu tố chính trị. Trong cuốn Tôn giáo, Nguyễn An Ninh bàn về mối quan hệ giữa
luân lý, tôn giáo và chính trị như sau: “Vấn đề tôn giáo cũng là vấn đề tâm lý.
Mà vấn đề chính trị cũng là vấn đề tâm lý nữa. Lại là có chung tánh chất quần
chúng tâm lý. Thì làm sao cho cái hoàn cảnh chung, là cái chế độ của thời ấy,
khỏi lộ ra trong luân lý, tôn giáo, triết học, nghĩa là trong tư tưởng của đời ấy.
Cho nên từ xưa đến nay, xã hội luân lý, tôn giáo và chánh trị là ba điều có quan
hệ nhau mãi mãi” [128, tr.269].
Một vài ý kiến từng cho rằng, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là các đảng
phái chính trị hay đoàn thể chính trị đội lốt tôn giáo. Chúng tôi không đồng tình
với quan điểm này mà cho rằng, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có chịu sự chi
phối, tác động qua lại với chính trị. Nói cách khác, tổ chức và hoạt động của các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có tính chính trị. Bởi
vì, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ thể hiện khá rõ tính thực dụng do lực lượng gọi
là tôn giáo địa phương, tôn giáo nhóm nhỏ, muốn bảo vệ mình thì khó tránh việc
chính trị hóa, quân sự hóa trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Nhóm ý kiến cho rằng, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là các đảng phái
hay các đoàn thể chính trị căn bản do quá trình hình thành và hoạt động của
các tôn giáo liên quan mật thiết đến các sự kiện chính trị ở Nam Bộ. Những
người khai lập và lãnh đạo các tôn giáo nơi đây có nhiều hành động thể hiện
xu hướng chính trị rõ nét. Sự phân hóa của các tôn giáo chủ yếu do bất đồng
về chính trị. Cho nên, khi nhận định về yếu tố bang hội mang tính chính trị
của người Hoa ở Nam Bộ ảnh hưởng đến sự ra đời các tôn giáo, Tạ Chí Đại
Trường viết: “Phần đất Đàng Trong đón tiếp Minh dân khá nhiều nên có
nhiều dấu vết Thiên Địa Hội và những tập họp thần bí giáo tương tự, nổi bật
ngay từ cuộc tranh chấp Nguyễn - Tây Sơn. Nhưng Nam Kỳ thuộc Pháp mới
là thiên đường của các tập họp chính trị - tôn giáo trên thế tan rã dai dẳng
này” [133, tr.315]. Còn Trần Văn Giàu nhận định: “Điều này góp phần khiến
đạo Cao Đài từ một đạo giáo dễ dàng biến thành loại chính đảng trong tình
thế lịch sử nhất định” [43, tr.188].
107
Trước hết, chính quyền thực dân Pháp có những chính sách khôn khéo
trong việc sử dụng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ để cho chúng bộc lộ ra, dù đó
là những hiện tượng đáng quan tâm nhưng chưa phải thực sự lo ngại nhất. Điều
đáng lo ngại nhất đối với chính quyền thực dân là những phong trào kháng Pháp
rầm rộ khắp Nam Bộ đương thời. Đặc biệt là đến quá nửa đầu thế kỷ XX, các
phong trào cách mạng với chủ trương, sách lược vượt ra khỏi sự kiểm soát của
nhà cầm quyền thực dân. Chính quyền Pháp cho rằng, các tôn giáo ở Nam Bộ
thời điểm này chỉ mang tính địa phương, nên việc kiểm soát, chế ngự không quá
phức tạp. Thực ra, đây là dụng ý của chính quyền thực dân Pháp, vì các hoạt
động tôn giáo lúc này là cơ sở để nắm bắt tâm lý, nguyện vọng của một bộ phận
người dân, nhất là theo dõi tình hình tôn giáo trỗi dậy ở khắp Nam Bộ: “Nếu
thấy rằng những đòi hỏi nào đó không quá đáng, không đe dọa đến an ninh hay
nền tảng chế độ, có thể chấp nhận được những đòi hỏi đó, ngoài ra tìm cách chi
phối, lợi dụng hay chế ngự những xu hướng quá khích nguy hiểm” [131, tr.360].
Người lập ra các tôn giáo ở Nam Bộ cũng tranh thủ và khéo léo trong hoạt
động tôn giáo để tạo dựng lực lượng có sức ảnh hưởng trong xã hội và chính
quyền thực dân. Họ tập hợp đông đảo quần chúng, lợi dụng mâu thuẫn của nhà
cầm quyền, sự bất mãn của người dân đối với thân phận của kẻ mất nước, sự yếu
thế của tín ngưỡng truyền thống để đưa tôn giáo của mình hoạt động công khai.
Những pháp thuật, cầu cơ, sấm giảng... được các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ vận dụng như một lợi khí chính trị, khác nhiều so với Trung Bộ và Bắc Bộ
lúc bấy giờ, là những tổ chức chính trị thuần túy, không dựa vào niềm tin tôn
giáo. Hình thức chống đối của các tôn giáo không phải bằng vũ khí mà bằng bùa
phép, dựa vào sức mạnh siêu nhiên, người lãnh đạo không đơn thuần là lãnh tụ
chính trị mà tự nhận là con vua, con Trời giáng thế, hậu thân chuyển kiếp. Điều
đó cho thấy, các tôn giáo ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không thể tách
rời chính trị, xã hội Nam Bộ đương thời. Do vậy, một lần nữa khẳng định, các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không phải là đảng phái chính trị hay đoàn thể chính
trị, mà chúng chỉ là những tôn giáo có tính chính trị.
108
Đạo CĐ mang tính chính trị rõ nét nhất trong số các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ. Những người lập ra tôn giáo này là viên chức và công chức chính quyền
thực dân Pháp: “Đạo Cao Đài ra đời xuất phát từ ý tưởng và quá trình vận động
của một số nhân vật mà thành phần xuất thân là tầng lớp quan lại, địa chủ, tiểu tư
sản (theo thống kê: 39% là địa chủ, 37% là tiểu tư sản, 8% là cường hào, 16% là
các nhân vật hoạt động tôn giáo)” [35, tr.8]. Chính vì thế, nhiều người từng nhận
định đạo CĐ ra đời là do thực dân Pháp xúi giục lập nên để thực hiện mưu đồ
làm chính trị cho thực dân Pháp. Thực tế không phải vậy. Lịch sử ra đời của đạo
CĐ cho thấy, những người lãnh đạo tôn giáo này luôn vạch ra nhiều thủ đoạn
nhằm đặt nhà cầm quyền vào thế bị động theo kiểu “việc đã rồi”. Còn về sự chi
phối của chính quyền thực dân Pháp đối với đạo CĐ, đó là sự ảnh hưởng về văn
hóa, tôn giáo trong bối cảnh chế độ thuộc địa bước vào giai đoạn khai phá, giao
lưu rộng khắp Nam Bộ. Tuy nhiên, đạo CĐ vẫn do người Việt ở Nam Bộ sáng
lập và chủ động trong việc điều hành tổ chức thời kỳ đầu.
“Việc đã rồi” của những người lãnh đạo Cao Đài đối với chính quyền thực
dân Pháp nhằm đưa tôn giáo này công khai hoạt động, gây tiếng vang để khẳng
định đây là một tôn giáo mới độc lập. Hơn thế, đó là sự thể hiện thanh thế của
một bộ phận viên chức người Việt trên nhiều phương diện đạo và đời đối với
chính quyền thực dân Pháp. Cho nên, chúng ta không quá ngạc nhiên khi thấy
buổi đầu khai lập, đạo CĐ cố tình tạo các mối quan hệ thân thiết với nhiều nhân
vật uy tín, quyền thế, ngay cả các tổ chức nhân quyền ở Pháp, để được ủng hộ và
tạo thanh danh: “Một buổi lễ ra mắt, mời nhà cầm quyền đến dự, không thể
không đi, đi rồi Cao Đài rỉ tai là Tây nhìn nhận, cho phép, mặc dầu chẳng cho
phép gì cả” [131, tr.358]. Werner Jayne Susan cho rằng, đạo CĐ là một phong
trào chính trị nông dân [xem: 158]. Thực tế cho thấy, đạo CĐ không phải là một
tổ chức chính trị, mà trở thành một thực thể tôn giáo với đầy đủ các thành tố giáo
lý, giáo luật, giáo lễ, giáo hội, giáo đường, giáo sỹ, giáo dân.
Với nhóm các Ông Đạo, thời điểm BSKH ra đời, vùng đất Nam Bộ vừa
hết chiến tranh với Cao Miên (năm 1847), ngay sau đó khả năng thực dân Pháp
109
xâm lược đã rõ ràng, nên tâm trạng của người dân càng thêm bất ổn. Không
những vậy, Tự Đức lên ngôi vua càng tăng thêm sự bất an trong dân chúng Nam
Bộ đương thời, tiếp đến là việc người Hoa di cư sang ban đầu chắc cũng tạo tâm
lý bất an vì ý thức dân tộc về lịch sử đất nước vốn được tạo ra từ cố hương. Đó
là những yếu tố bên ngoài thúc đẩy nhu cầu của người dân Nam Bộ hình thành
nên tôn giáo cho mình. BSKH ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tiếp theo là sự ra đời
của TAHN, PGHNTL, TĐCSPHVN, nhất là TAHN và PGHH, với nhiều hoạt
động liên quan đến chính trị, dễ làm cho nhiều người nhầm lẫn đây là những thế
lực chính trị đương thời.
Sấm Ngũ giáo của TAHN ghi: “Bây giờ mới hết trường nhì/ Niệm trời lạy
Phật mấy khi cho tường/ Lời thầy nói ngẫm thêm thương/ Nào ai có biết mấy
trường mà lo” [33, tr.71]. Đó là lời giãi bày vì có bảy pháp nạn mà Ngô Lợi đã
trải qua trong quá trình hoạt động đạo. Ngay từ khi lập đạo, ông đã gây hoang
mang cho chính quyền thực dân Pháp về một tôn giáo có sức cuốn hút tín đồ
khắp lục tỉnh Nam Kỳ. Trong lần theo dõi việc giảng đạo của Năm Thiếp, viên
mật thám về bẩm báo với quan Pháp: “Bẩm cùng quan lớn nhiều lời/ Tượng sơn
dữ thiệt chẳng chơi đâu là/ Quả là tu luyện phép tà/ Xin quan tới đó coi mà sẽ
hay” [33, tr.52].
Ngô Lợi là một sĩ phu yêu nước. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại ở Mỏ Cày
(Bến Tre), ông cùng một số người hưởng ứng Hịch Cần vương quy tụ nghĩa
quân dưới danh nghĩa TAHN, mượn tôn giáo để chống ngoại xâm, phối hợp với
nghĩa quân Campuchia chống Pháp dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia,
nhất là khu vực Tịnh Biên và kênh Vĩnh Tế. Khi đến núi Tượng khai hoang, lập
chùa miếu và thôn ấp mới, ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Tho, sau đó lan
rộng ra các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ. Với tinh thần chống Pháp
kiên cường, tín đồ TAHN nhiều lần cưu mang, che chở cho nghĩa quân, trong đó
có quân lính của Trương Quyền (con trai của Trương Định) khi bị thất bại rút về
vùng Thất Sơn và núi Tà Lơn. Những đóng góp đó của Ngô Lợi và tín đồ TAHN
được lịch sử dân tộc trân trọng và khắc ghi. Sơn Nam nhận xét:
110
Giáo thuyết Bửu Sơn Kỳ Hương được Bổn Sư áp dụng sát với hoàn
cảnh miền Nam với phong trào Cần Vương, liên kết với người Cao
Miên. Đây là thái độ sáng tạo nhập thế, gần như vô điều kiện; đừng
nghĩ tới chuyện xa xôi, hãy cố gắng tu tập. Hội Long Hoa tức là ngày
đất nước độc lập, không còn bóng quân ngoại xâm. Hình bóng Đức
Phật Di Lặc và hình bóng Tổ quốc đã hòa hợp như là một. Cõi tiên, cõi
cực lạc không phải là ở bên Tây Tạng, ở Ấn Độ nhưng là ở ngay làng
mạc mà ta đang sinh sống, một cõi thiên đường tại thế [85, tr.146].
PGHH cũng mang tính chính trị khá nổi trội. Giai đoạn thực dân Pháp và
phát xít Nhật đang dày xéo quê hương, Huỳnh Phú Sổ tạm thời chọn giải pháp
thân Nhật để chống Pháp. Ông liên kết với một số nhân vật chính trị thân Nhật
để ủng hộ PGHH, vì thế có lần bị bắt nhốt. Năm 1946, Huỳnh Phú Sổ thành lập
một số tổ chức chính trị như Đảng Việt Nam Dân chủ xã hội (gọi tắt là Đảng
Dân xã), quân đội mang tên Nghĩa quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn
Trung Trực (gọi tắt là bộ đội Nguyễn Trung Trực),v.v… Do nội bộ bất đồng,
giai đoạn sau này, PGHH chia thành ba nhóm: nhóm Lương Trọng Tường, nhóm
Nguyễn Duy Hinh, nhóm Lê Quang Liêm (tách ra từ nhóm Lương Trọng Tường
vào năm 1972).
Đại đa số Ông Đạo, chức sắc và tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ thể hiện
tinh thần yêu nước, có nhiều cống hiến cho Tổ quốc từ việc lập làng, chống
ngoại xâm đến những vấn đề chính trị liên quan đến thời cuộc. Vì thế, nhiều
người nhầm tưởng đây là các tổ chức chính trị mang bình phong tôn giáo.
Một vấn đề nữa đối với sự phân hóa của các tôn giáo ở Nam Bộ khác so
với sự phân hóa thường thấy ở các tôn giáo lớn trên thế giới, đó là sự bất đồng về
yếu tố tôn giáo. Với đạo CĐ hay PGHH, sự bất đồng ấy chủ yếu liên quan đến
yếu tố chính trị. Điều này càng củng cố thêm quan điểm cho rằng, nhiều tôn giáo
ra đời ở Nam Bộ là đảng phái hay đoàn thể chính trị. Nguyễn Văn Trung nhận
xét: “Sự phân hóa trong các tôn giáo khác là do bất đồng về chủ thuyết giáo lý,
còn sự phân hóa của Cao Đài lại phát sinh từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, các
111
chức sắc cao cấp” [131, tr.349]. Nguyễn Thanh Xuân đồng tình với quan điểm
trên khi nhấn mạnh: “Gần như là quy luật, các tôn giáo khi phát triển đến một
mức độ nhất định đều có sự phân hóa. Nếu như các tôn giáo khác phân hóa do sự
bất đồng về quan điểm giáo thuyết, thần học, thì đạo Cao Đài phân hóa chủ yếu
do những mâu thuẫn giữa cá nhân các chức sắc” [141, tr.322].
Sự phân hóa của đạo CĐ đánh dấu bằng mâu thuẫn giữa Lê Văn Trung
với Nguyễn Văn Ca (một Phối sư thành lập hệ phái Cao đài Minh Chơn lý, tách
ra khỏi sự chi phối của Cao đài Tây Ninh). Rõ ràng, sự phân tách các hệ phái CĐ
do bất đồng lợi ích chính trị của nhóm chức sắc, đúng như đánh giá Trần Văn
Giàu: “Lực lượng Cao Đài mở rộng thì bè phái nảy sinh; Nào là phái Tây Ninh,
phái Tiền Giang, phái Hậu Giang, phái Tiên Thiên... tất cả mười mấy phái quan
trọng khác nhau, chọi nhau” [43, tr.190].
Nhưng phải thừa nhận, đấu tranh chính trị của các tôn giáo ở Nam Bộ tạo
nên một sức hút đặc biệt từ quần chúng nhân dân nên mới dẫn đến các lực lượng
chính trị tôn giáo đương thời. Đồng thời, một bộ phận các tôn giáo này bị tác
động bởi quyền lực chính trị. Họ có nhiều tham vọng chính trị nên chuyển biến
từ hoạt động tôn giáo sang hoạt động chính trị do các thế lực chính trị lôi kéo bởi
những mưu đồ chính trị.
Khi nhiều quần chúng nhập đạo, uy tín và quyền lực của các nhà lãnh đạo
tôn giáo được mở rộng, một bộ phận chức sắc và tín đồ tôn giáo ở Nam Bộ ngả
sang hoạt động chính trị. Ở một góc độ nào đó có thể xem đây là cơ hội chính trị
của một số người, như nhận xét của Trần Văn Giàu: “Đạo Cao Đài, ít ra là
những bộ phận của nó, trở thành chính đảng dưới cái dạng tôn giáo” [43, tr.214].
Thời cuộc đổi thay, tôn giáo thay đổi, đạo CĐ là một minh chứng điển
hình. Những năm 1930, trục phát xít Đức - Ý - Nhật thành lập, quân Nhật xâm
chiếm Trung Quốc và vận động “Chủ nghĩa Đại Đông Á”, trong đạo CĐ lưu
hành nhiều bài giáng bút tuyên bố Hítle, Mútxôlini là đồ đệ của Thầy [43,
tr.215]. Một số tổ chức CĐ đứng về phe Nhật cho đến khi Nhật đầu hàng quân
đồng minh. Cùng thời điểm, một số tổ chức CĐ hỗ trợ đắc lực cho cách mạng
112
giải phóng dân tộc, liên kết với PGHH thành một lực lượng vũ trang khá hùng
hậu trong hàng ngũ Việt minh.
Ở góc độ kinh sách, tín đồ đạo CĐ tin rằng, việc phân hóa các chi phái
được tiên lượng và được đề cập đến trong Thánh ngôn Hiệp tuyển, nhưng rồi tất
cả chỉ là một nhà: “Bửu Tòa thơ thới trổ thêm hoa/ Mấy nhánh rồi sau cũng một
nhà/ Chung hiệp ráng vun nền đạo đức/ Bền lòng son sắc đến cùng Ta/ Cái
nhánh các con là nhánh chính mình/ Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu” [30,
tr.26], hay “Thái hòa sản xuất Thánh Thần Tiên/ Thượng hạ chung lo nắm mối
giềng/ Đạo rẽ chia ba đời định trước/ Tổ quyền giáo dục chỉnh quy nguyên” [27,
tr.44]. Người CĐ giải thích, về phương diện tôn giáo, đó là sự bành trướng đủ
sắc thái, đủ trình độ tu học cho mọi người. Về phương diện chính trị, đó là sự
phân tán để bảo tồn cơ đạo trước những manh tâm tiêu diệt của thực dân Pháp.
Lịch sử đạo Cao đài (quyển 2) cho rằng, sự phân hóa của đạo CĐ do mấy
nguyên nhân cơ bản sau đây: Thứ nhất, thời gian đầu chuyển thánh thất từ chùa
Gò Kén về đất mới mua, các chức sắc lãnh đạo Hội thánh không có điều kiện tập
trung để điều hành Giáo hội, nên trở lại làm công việc riêng: Phạm Công Tắc
sang Nam Vang, Lê Văn Trung về Sài Gòn hành đạo, Cao Quỳnh Cư ở lại điều
hành việc đạo nhưng để một số chức sắc lộng quyền dẫn đến tư tưởng phân ly.
Thứ hai, các quy định trong Tân luật, Pháp chánh truyền của Hội thánh chưa
được phổ biến rộng rãi hoặc chưa được chức sắc, tín đồ tuân thủ thực hiện dẫn
đến ý thức chấp hành còn nhiều khiếm khuyết. Thứ ba, chức sắc lãnh đạo Hội
thánh thiếu hụt khá nhiều so với quy định dẫn đến sự kiêm nhiệm hoặc độc
quyền không có sự giám sát lẫn nhau. Thứ tư, chức sắc, tín đồ ở Hội thánh và
các cơ sở đạo muốn tiếp tục sử dụng cơ bút nhưng không được do Tòa thánh Tây
Ninh cấm từ năm 1927. Thứ năm, chức sắc lãnh đạo Hội thánh không phục nhau
về chức vụ, phẩm vị trong đạo dẫn đến mâu thuẫn [20, tr.386-391]. Những
nguyên nhân nêu trên không luận bàn đến yếu tố chính trị, nhưng rõ ràng đó là
sự mâu thuẫn của nhóm chức sắc với những chiều hướng hành đạo khác nhau
mang màu sắc chính trị thời cuộc.
113
Thêm nữa, tính tôn giáo trong đấu tranh chính trị có một sức hút khác, đó
là sự chinh phục hòa bình. Giáo lý của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đều quy về
“tứ ân”, “phụng sự”, “phước huệ”,v.v… Với đạo CĐ là sự tụ hội của bậc giáo
chủ các tôn giáo lớn và danh nhân lịch sử trên thế giới. Điều này kích thích tinh
thần người dân Nam Bộ lên ở mức cao hơn. Dù rằng ở thời điểm này, người dân
Việt Nam đang chịu thân phận nô lệ, nay bỗng dưng sánh ngang vai với thế giới
về phương diện tâm linh, được quyền ban phát cõi thiêng liêng, dám tuyên án
bọn quan tham, bọn cướp nước. Nước Nam mới là thánh địa của nhân loại, dù đó
chỉ là kiểu tự xưng mơ hồ: “Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc/ Ngày sau làm
chủ mới lạ kỳ” [29, tr.20].
Như vậy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không phải là các đoàn thể chính
trị, mà chỉ liên quan đến hoạt động chính trị do bối cảnh xã hội Nam Bộ lúc bấy
giờ tác động đến một số người lãnh đạo các tôn giáo này, những tổ chức thuộc
tôn giáo bất đồng về đường hướng hành đạo; tham vọng chính trị của một số
người trong tôn giáo hoặc ảnh hưởng từ các lực lượng chính trị nhằm tranh thủ
lực lượng tín đồ tham gia vào âm mưu của các thế lực này. Về thực chất hành
đạo, các tôn giáo này chủ trương không hoạt động chính trị, nhưng tín ngưỡng,
tôn giáo “có tính lan truyền cảm xúc cao trong quần chúng, nên cũng là điểm yếu
dễ bị kích động và lợi dụng theo những định hướng khác nhau của nhóm này hay
nhóm khác trong xã hội” [97, tr.157]. Không những vậy, trên tinh thần nhập thế
và ý thức dân tộc khi có ngoại xâm, những bất công xã hội diễn ra thì ý thức cứu
thế mang tính đạo lý trỗi dậy cùng dân tộc: “Xong đạo làm người mới nói đến
chuyện học Phật” [33, tr.33].
Tuy các phong trào chính trị có yếu tố tôn giáo ở Nam Bộ bị thất bại,
nhưng chính quyền thực dân Pháp và tay sai vẫn có nhiều bất an, vì họ phải đối
phó với hoạt động của các tổ chức chống đối rất khó nhận diện, diễn ra khắp nơi.
Thêm nữa, người đứng đầu các tổ chức này không đơn thuần là lãnh tụ chính trị
mà là các Ông Đạo rao giảng những điều tâm linh huyền bí, trọng nghĩa khinh
tài, đạo lý nhân nghĩa, báo ân Tổ quốc, báo ân tổ tiên, Hội Long hoa, Bạch Ngọc
114
kinh,v.v... Nếu chính quyền thực dân đàn áp thì không tiêu diệt được họ mà
ngược lại, uy tín của họ càng được củng cố đối với quần chúng, như nhận xét
của Tạ Chí Đại Trường: “Vì sự chống đối chính trị mang cả tính cách đối
kháng văn hoá, tính cách ái quốc đi đôi với sự giữ gìn văn hoá, nên vùng Thất
Sơn và khu vực Tà Lơn (Bokor - Kampuchia) - xa hơn thành có lợi thế hơn -
trở thành các khu đất thánh đào tạo những con người siêu việt luyện phép
đánh Tây” [133, tr.331]. Cho nên, tính chính trị hòa cùng tinh thần yêu nước
là một phương cách để các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX có đầy đủ sức mạnh giữ gìn văn hóa dân tộc khi nền văn minh phương
Tây ồ ạt tràn vào.
3.2.5. Tính địa phương trong thực hành đức tin
Khi bàn về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
hầu hết các nhà nghiên cứu khẳng định, các tôn giáo này chỉ tồn tại và ảnh
hưởng ở Nam Bộ, việc truyền ra Trung Bộ và Bắc Bộ rất hạn chế.
Nguyên nhân của sự việc do đâu và thực sự các tôn giáo này muốn hay
không muốn mở rộng phạm vi, nhất là đạo CĐ. Nguyễn Thanh Xuân nhận xét:
“Sau khi ra đời, những người lãnh đạo Cao Đài triển khai ngay các hoạt động
truyền giáo, phát triển tín đồ để tạo thanh thế, khẳng định sự tồn tại của mình”
[141, tr.270]. Với quan điểm là tôn giáo của mọi tôn giáo: Đạo Cao Đài phát
sinh tại Đông Dương được định dùng cho cả thế giới, bởi vì thông điệp mà đạo
Cao Đài đem lại đã có sẵn trong tất cả tôn giáo [xem: 62]. Lẽ dĩ nhiên, đạo CĐ
không thể không quan tâm đến việc truyền giáo sang các địa bàn khác trong
nước và ngoài nước. Trên thực tế, đạo CĐ đã cố làm điều đó, tích cực mở rộng
về Tây Nam Bộ, ra Trung Bộ, Bắc Bộ nước ta và sang Campuchia (Cao Miên).
Nhưng hiệu quả và ảnh hưởng thực tế của tôn giáo này đến các khu vực truyền
đạo có khác nhau.
Việc truyền bá đạo CĐ đến Trung Bộ gặp nhiều khó khăn do dân cư nơi
đây đã có hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng khá bền chặt. Cùng với đó, Trung Kỳ là
vùng đất được Pháp bảo hộ, nên quan lại triều đình Huế dùng luật cũ để ngăn
115
cấm việc truyền bá của đạo CĐ ngay từ đầu: “Nhứt thiết Cao Đài thư tịch bất đắc
truyền bá Trung Kỳ”.
Tại Bắc Bộ, ban đầu đạo CĐ phát triển khá thuận lợi do tôn giáo này có
nhiều liên hệ tích cực giữa các tổ chức chính trị ở Bắc Bộ. Người dân Bắc Bộ đi
phu ở Nam Bộ khi trở về mang theo tôn giáo mới ở Nam Bộ. Trước dấu hiệu
phát triển, Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh cấm truyền bá đạo CĐ trong dân chúng, nên
sự ảnh hưởng của tôn giáo này ở Bắc Bộ mờ nhạt dần.
Công cuộc truyền bá đạo CĐ sang Campuchia ban đầu khá rầm rộ và hiệu
quả. Ngay từ việc lựa chọn nơi xây dựng Tòa thánh Tây Ninh phần nào cho thấy,
đạo CĐ không muốn dừng lại ở khu “Thánh địa” của mình. Theo La Laurette, sự
lựa chọn khu vực Tây Ninh làm Tòa Thánh có nhiều dụng ý. Đây là vùng đất
cao, không bị lụt nên rất tiện lợi cho việc tụ hội đông người, rừng rậm nhiều nên
tránh được tai mắt kiểm soát của nhà cầm quyền và dễ truyền đạo sang
Campuchia do sát biên giới. Họ lựa chọn cách truyền đạo giản đơn, tuyên truyền
rằng vị hoàng tử cưỡi ngựa trắng trở lại cứu vớt người dân đã trở về tạm trú tại
Tòa thánh Tây Ninh. “Thế là dân Miên ùn ùn kéo sang hành hương, mang theo
tiền bạc nồi niêu thực phẩm lều bạt để ở nhiều ngày, xì xụp khấn vái trước con
ngựa trắng - dĩ nhiên do Cao Đài dựng lên” [131, tr.341]. Có những thời điểm,
hàng chục nghìn người Khmer sang Tây Ninh hành hương. Khi trở về, họ mang
theo một bình “nước thánh”, quyển kinh và hình Thiên nhãn.
Trước tình hình đó, nhà vua và chức sắc Phật giáo Campuchia đã có nhiều
biện pháp ngăn chặn và nhắc nhở người dân không tin theo đạo CĐ, cho rằng tôn
giáo này là tà thuyết và mê tín, nên người Khmer dừng việc hành hương đến Tòa
thánh Tây Ninh. Gặp khó khăn trong việc truyền đạo cho người Khmer, chức sắc
đạo CĐ chuyển hướng truyền đạo đến Việt kiều ở Campuchia: “Các chức sắc
Cao Đài bèn hướng nỗ lực truyền đạo vào cộng đồng Việt kiều tại Miên lúc đó
khoảng 200.000 người” [131, 341]. Nhưng hoạt động này cũng bị kết tội bất hợp
pháp, lực lượng truyền giáo tan rã sau khi thành lập, do Hoàng gia Campuchia
cấm đạo: “Tại Cao Miên, nơi mà sự ổn định về tôn giáo là điều kiện căn bản cho
116
ổn định chính trị, chính phủ Hoàng gia Cao Miên do Pháp bảo hộ đã ban hành
sắc chỉ nghiêm cấm Cao Đài ngay từ tháng 12-1927” [131, tr.333].
Những dẫn chứng nêu trên chứng tỏ đạo CĐ rất quan tâm mở rộng đạo,
nhưng do những điều kiện khách quan và chủ quan mà tôn giáo này khó thâm
nhập đến những vùng miền khác. Cần lưu ý, việc khó thâm nhập đến vùng miền
khác không có nghĩa người các vùng miền khác ít vào đạo CĐ. Điều này giải
thích vì sao trong một thời gian ngắn tại Tòa thánh Tây Ninh, số người vào đạo
rất đông. Trước hết, đất ở khu vực Tòa thánh rất rộng, hơn 100ha, vừa quy hoạch
Tòa thánh, vừa phân cho dân theo đạo đến ngụ cư, đặc biệt là người Trung Bộ di
cư vào Nam: “Đã có rất nhiều nông dân ít đất đổ về đây, đặc biệt là khu vực
miền Trung” [64, tr.287]; và “nếu ai vào đạo sẽ không phải đi quân dịch”, thu
hút một số dân lớn người Hà Tây, Hải Phòng vào đạo” [64, tr.287].
Không ngừng tư tưởng mở rộng đạo, đạo CĐ lựa chọn phương án truyền
bá về Tây Nam Bộ và nhanh chóng tạo ảnh hưởng ở khu vực này. Một số địa
phương được các chức sắc đạo CĐ quản lý tôn giáo: Gò Công do Phủ Tường
phụ trách, Vĩnh Long do Lâm Thị Thanh phụ trách, Mỹ Tho do Đốc phủ sứ
Nguyễn Văn Ca phụ trách,v.v...
Với nhóm các Ông Đạo, việc truyền đạo ra Trung Bộ và Bắc Bộ càng ít
được quan tâm, do một số nguyên nhân gần giống đạo CĐ. Thật ra, nếu có quan
tâm thì điều kiện, khả năng của nhóm này lúc bấy giờ khó cho phép. Họ không
có mô hình tổ chức tôn giáo, nhân sự trình độ cao, năng động và giàu tham vọng
như đạo CĐ. Không những vậy, các Ông Đạo vốn chủ trương không truyền đạo
rộng rãi, mà chủ yếu thu nhận tín đồ bằng cách chữa trị bệnh tật kết hợp giảng
dạy đạo lý ở những nơi họ đến, chú trọng tu tập tại gia, đề cao nỗ lực cá nhân.
Các Ông Đạo cũng không đặt vấn đề lôi kéo tín đồ các tôn giáo khác. Sinh hoạt
của các tôn giáo ở Tây Nam Bộ khá hòa đồng với những tôn giáo cùng thời hoặc
tín ngưỡng dân gian.
Bên cạnh đó, chính quyền Pháp tại Nam Bộ khá rộng rãi về tôn giáo, chỉ
cấm những kiểu truyền đạo xảo trá lừa bịp, chú trọng kiểm soát và coi chừng
117
[xem: 131, tr.333]. Thái độ bao dung này cho phép các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ
có điều kiện phát triển ngay cả khi đạo CĐ truyền bá mạnh mẽ về Tây Nam Bộ,
tạo thanh thế tôn giáo ở vùng đất này.
Một lý do nữa là ở Nam Bộ, truyền thống Nho học nhạt hơn so với Bắc
Bộ và Trung Bộ, bởi vì: “Nhân dân ở Nam Kỳ phần lớn là gốc từ hạng người lưu
tán, từ dân đồn điền, từ hạng người chống đối cả hai triều đình Nguyễn, Trịnh
mà xuôi buồm vào Nam kiếm chỗ làm ăn tự do” [43, tr.197]. Số dân này nhìn
chung ít học, thầy đồ ít, trường dạy chữ Hán càng ít, nhưng họ lại rất năng động,
nhạy bén và hòa nhập nhanh ở môi trường mới: “Học hành không có nhiều,
nhưng tín ngưỡng ma thuật thiên cổ thì dữ lắm, tín ngưỡng thiên cổ ấy vào Nam
lại được tô đậm thêm, được thêm chân thêm râu bởi tín ngưỡng thổ dân Chàm,
Miên. Rồi, lúc quốc ngữ phổ biến, “truyện Tàu” tràn đầy khắp nơi với những tư
tưởng huyền bí, những nhân vật hấp dẫn của những trí tưởng tượng cao” [43,
tr.197]. Trong khi đó, ở Trung Bộ và Bắc Bộ, tín ngưỡng tôn giáo vững chắc,
khó có thể tiếp cận cái mới theo phương thức tự nhiên. Cho nên, các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ khó có cơ hội xâm nhập đến những nơi có hệ thống tín ngưỡng,
tôn giáo định hình và ổn định từ hàng nghìn năm trước.
Ở góc độ rộng lớn hơn, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khu vực Đông Á
nhìn chung chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây, các tôn giáo nhóm nhỏ,
các tôn giáo địa phương chịu ảnh hưởng mạnh từ Công giáo và đạo Tin lành.
Với Đông Nam Á, bản đồ tôn giáo đến nửa cuối thế kỷ XIX tương đối ổn định,
đều chịu ảnh hưởng mạnh từ Công giáo, Islam giáo, Phật giáo Nam tông. Quy
luật tác động của các tôn giáo này, nhất là Islam giáo có khác, khi chúng đã yên
vị nơi nào, thì các tôn giáo khác khó có thể ảnh hưởng được. Điều này càng
khẳng định, các tôn giáo mới ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được
xem là nét đặc trưng của Việt Nam vì ba nhân tố:
Một là, chủ nghĩa thực dân đúng nghĩa đã ổn định ở Nam Kỳ, Pháp bắt
đầu khai thác kinh tế nên ảnh hưởng phương Tây đi vào chiều sâu (trong đó có
tôn giáo). Vì thế, những người sáng lập tôn giáo, nhất là đạo CĐ mới “dính với
118
người Pháp như thế”. Họ có địa vị, có kinh tế, có tư duy, có học thức, nên tôn
giáo rất năng động.
Hai là, chủ nghĩa dân tộc là điểm nhấn đặc biệt trong các phong trào yêu
nước ở các tôn giáo, là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh của Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX. Biểu hiện rõ ở đặc trưng tôn giáo là các phong trào chính trị tạo
nên sự thay đổi trong nhận thức, tư tưởng, hành động của người dân. Với đời
sống tôn giáo cũng thế. Lực lượng chính trị và lực lượng tôn giáo đều cần nhau.
Vì thế, tính dân tộc, tính chính trị, tính nhập thế của các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ được xem là rõ ràng nhất và nổi trội nhất.
Ba là, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nam Bộ là nơi xuất hiện “khoảng
trống tâm linh”. Khoảng trống tâm linh ấy không liên hệ gì đến nhà cầm quyền ở
Nam Bộ lúc này. Vì vùng đất mới, cư dân mới, chưa có gì gọi là sâu sắc. Nho
giáo không đủ để dùng. Tôn giáo của người Khmer và của người Chămpa đã bền
chặt với họ. Tư tưởng cộng sản thì mới chớm nở.
Dưới chế độ trực trị của thực dân Pháp, sự tham gia nhiệt tình của cư dân
Nam Bộ đối với tôn giáo dẫn đến một hiện tượng khác so với Bắc Bộ và Trung
Bộ. Theo Phan Ngọc: “Cụ thể là phong trào tôn giáo ở Bắc Bộ và Trung Bộ suốt
thời Pháp thuộc vẫn hệt như trước đây, nghĩa là im lìm, trái lại ở Nam Bộ có
nhiều cuộc vận động mang tính chất tôn giáo: Phan Xích Long, Đạo Dừa, và nổi
bật nhất là Cao Đài và Hòa Hảo với hàng triệu tín đồ” [91, tr.287]. Trong quá
trình mở đất, người dân mang nặng tư tưởng hoài cổ, đồng thời phải đối mặt với
nhiều khó khăn, nên họ cần đến tâm linh để đoàn kết, giúp đỡ nhau: “Tất cả
những hẫng hụt đó tạo nên ở người dân một nhu cầu đoàn kết mới mà ở miền
Bắc không có là đoàn kết trong một tôn giáo để che chở nhau, nâng đỡ nhau”
[91, tr.289]. Do không bị ràng buộc truyền thống văn hóa, người Nam Bộ trở nên
mạnh bạo, cởi mở, đón nhận và chấp nhận điều mới mẻ trong cuộc sống: “Trước
nhất, ai cũng dễ dàng nhận ra đây là vùng đất mới, bởi vậy nó vừa lạ lẫm, xa vời,
lại vừa thu hút, vẫy gọi con người. Đất mới, con người cũng mới, trên vai không
trĩu nặng truyền thống hàng ngàn năm, con người mạnh bạo, năng động, cởi mở”
119
[114, tr.296]. Đó là những biểu hiện tính địa phương của các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tính huyền linh, tính nhập thế, tính dân tộc, tính chính trị, tính địa phương
là những đặc trưng cơ bản của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Ở những thời điểm
khác nhau, chúng có những biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh xã hội.
Tiểu kết chương 3
Đến đầu thế kỷ XX, các tôn giáo mới ra đời ở Nam Bộ cơ bản đã ổn định.
Trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động, các tôn giáo đã thể hiện được vai trò
là chỗ nương tựa tâm linh cho một bộ phận cư dân vùng đất mới. Điều này được
thể hiện rõ qua đặc trưng về lý thuyết tôn giáo, đặc trưng thực hành đức tin của
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Đặc trưng lý thuyết tôn giáo là sự tích hợp độc đáo của tôn giáo nội sinh
người Việt. Dạng thức này bao hàm đầy đủ những đặc tính của vùng đất Nam
Bộ: nơi hội tụ của trào lưu tôn giáo mới khi sự dung hợp đạt đến mức độ cao -
một khoảng trống tâm linh xuất hiện; sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Đông -
Tây; các biến cố chính trị diễn ra liên tiếp và gay gắt, xã hội có nhiều bấn
loạn,v.v... Hoàn cảnh đó hình thành nên đặc trưng lý thuyết tôn giáo mới. Lý
thuyết này không phản bác, đối nghịch với những lý thuyết đã có, mà là một sự
kế thừa, dung hợp trên tinh thần sáng tạo, giản lược hay bổ sung, làm phong phú
hơn cho tư tưởng một phong trào tôn giáo mới mang tính cứu thế.
Kế thừa, dung hợp Tam giáo thể hiện khá rõ ở các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ. Việc trì niệm theo pháp môn Tịnh độ, ấn chú theo hình thức Mật tông của
Phật giáo; luyện Tinh, Khí, Thần của Đạo giáo vô vi; đạo lý “tu Nhân” theo tinh
thần Nho giáo là kế thừa, dung hợp những điểm đặc sắc của Tam giáo. Tuy vậy,
nhóm các Ông Đạo thừa nhận, Phật giáo chiếm vị trí phổ quát hơn. Nhưng nhiều
dẫn chứng cho thấy, yếu tố tín ngưỡng truyền thống nổi trội hơn cả. Điều đó
được quyết định bởi bối cảnh mà các tôn giáo này ra đời và hoạt động.
Tính huyền linh, tính nhập thế, tính dân tộc, tính chính trị là đặc trưng
thực hành đức tin của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Các đặc trưng này không
120
nằm ngoài lý thuyết Mạt thế dẫn đến tính cứu thế của tôn giáo. Nhưng cứu thế ở
đây không phải do một Đấng thiêng liêng nào đó quyết định mà do bản thân họ
tạo ra - một xu hướng thế tục hóa rõ nét trên tinh thần nhập thế của dân tộc tính
sâu sắc. Có thể khẳng định, ngay từ khi ra đời, các tôn giáo ở Nam Bộ có sẵn
tính chất bất khuất, tự cường được hình thành từ Đồng bằng Sông Hồng, được
hun đúc, tôi luyện và tiếp tục thể hiện xuất sắc nhất khi đến vùng đất mới.
Trải qua thời gian, đặc trưng các tôn giáo được biến đổi phần nào để phù
hợp với thời đại, nhưng hồn cốt của chúng không thể mất đi dù thế cuộc đã đổi
thay. Hàng loạt hiện tượng tôn giáo mới ra đời ở Việt Nam hiện nay, nhưng giá
trị đặc trưng các tôn giáo ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn được quan
tâm đặc biệt, là hệ quy chiếu để nghiên cứu quy luật ra đời, chuyển đổi, biến đổi
của tôn giáo nói chung, tôn giáo mới cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XIX nói riêng.
121
Chương 4
GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI
Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.1. GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
4.1.1. Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ góp phần duy trì,
chuyển tải và thực hành sống động đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là phong trào tôn giáo của nông dân Việt ở
Nam Bộ. Giá trị đặc trưng của chúng là duy trì, chuyển tải, thực hành sống động
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở vùng đất này. Đối tượng hướng đến của các tôn
giáo là con người trong xã hội, cụ thể là con người của xã hội Nam Bộ. Các tôn
giáo đã tạo ra một môi trường gắn bó mật thiết, đồng hành với người bình dân
được biểu hiện qua hình thức các Ông Đạo tiên tri Hội Long hoa, hoặc cầu cơ
trong thời điểm chính trị rối ren, làm điểm tựa tâm linh, hòa hợp quần chúng,
cho đến nghi thức thờ cúng, lễ bái, sấm giảng, thơ văn, hò vè,v.v…
Sự khác biệt của người sáng lập các tôn giáo ở Nam Bộ so với nhiều tôn
giáo lớn khác ở nguồn gốc xuất thân. Họ không là giới tăng lữ mà là nông dân
thuần phác, nhưng từ thần cách, đạo phong luôn là điểm tựa để tín đồ phụng
hành. Có thể nói, thuyết mạt thế, tính dân tộc, tính nhập thế, tính chính trị, tính
địa phương qua cách thức hành đạo đã tạo nên một phong trào tôn giáo chỉ có ở
Nam Bộ.
Cách thức tu tại gia cũng là một trong những điểm khác biệt của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ. Cách thức này tạo hiệu ứng lan rộng trong quần chúng
nông dân. Bởi vì, quan niệm bao đời tu hành là phải “ly gia cắt ái”, tìm bậc minh
sư để thọ giới quy y hoặc ẩn mình trên núi cao,... thì bối cảnh Nam Bộ bấy giờ
có mấy người hoặc tu hành phải có “căn duyên” thật không dành cho những
người chân lấm tay bùn, quanh năm quần quật với ruộng đồng. Nên nhớ rằng,
122
nông dân Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thân phận bị đắm chìm bởi
địa chủ và thực dân. Họ rơi vào dòng xoáy nghèo đói không lối thoát, nói gì việc
quy y cửa Phật để chuyên tâm kinh kệ và thiền định. Mà nếu có vào chùa thì chữ
nghĩa đâu ra, hiểu sao hết kiến thức Phật học uyên thâm và mênh mông. Họ đành
chịu. Nhưng cuối cùng, họ được Phật tìm đến, thậm chí được gặp cả Phật, một vị
Phật sống là Phật Thầy Tây An, rồi các hậu thân chuyển kiếp về sau. Các vị Phật
này không uy nghiêm, không thoát trần mà tồn tại bằng da bằng thịt, dáng phục
gần gũi thân thiện; khuyên họ gắng sức làm ăn, ở lành gặp hiền, khuyến khích
khẩn hoang, chống cường hào ác bá,v.v... Hơn nữa, việc tu hành không phải từ
giã vợ con, rời bỏ quê hương và phương kế mưu sinh. Họ cũng không phải bận
tâm đến việc quyên tiền xây dựng chùa cảnh, mà chuyên chăm tu hành tại gia,
năng giúp đỡ người khốn khó.
Biểu tượng thiêng liêng, nghi lễ thờ phụng của các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ mang đậm nét văn hóa truyền thống của người Việt. Sắc phục bình dân, màu
nâu dà biểu thị cho sự dung hợp, hòa hợp, bình đẳng của nhóm các Ông Đạo,
hay lễ phục áo dài khăn đống của đạo CĐ,v.v... Đặc biệt là nhóm các Ông Đạo,
nghi thức thờ cúng giản dị, không bắt buộc phải có điện thờ tượng cốt uy
nghiêm; nếu không có điều kiện thực hành nghi thức thờ cúng thì chỉ cần niệm
Phật trong tâm cũng được, thật phù hợp với hoàn cảnh người dân lúc này. Giới
luật chỉ là những lời khuyên nhủ, chứ không phải là những quy định nghiêm ngặt
và khắt khe. Với những yếu tố giản dị, dễ hiểu, nhân văn, các Ông Đạo đã trao
cho người nông dân niềm tin và sự tự chủ. Điều này tác động lớn đến ý thức của
mọi người dân, người lớn có trách nhiệm khuyên dạy con cháu tu nhân, thực
hành Tứ ân. Có thể thấy, điều lớn nhất mà các Ông Đạo đã làm được là vực dậy
niềm tin cho nông dân nghèo. Niềm tin ấy không chỉ với Phật mà còn với bản
thân. Tương tự, tín đồ nhóm các Ông Đạo và đạo CĐ cũng là những người nông
dân tứ phương, hội tụ tại vùng đất Tây Ninh để sinh cơ lập nghiệp. Với hình thức
tín đồ tại gia, họ làm theo những giáo huấn đậm tình người, tương trợ nhau trong
lúc có quá nhiều biến cố xảy ra.
123
Về cơ bản, đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là sự kế thừa,
dung hợp lý thuyết tôn giáo, được giáo chủ cải biên phương cách tu hành, cùng
với tín ngưỡng truyền thống Việt làm nền tảng. Dù kế thừa, dung hợp theo kiểu
phép trừ (-) tiêu biểu là PGHH hay theo kiểu phép cộng (+) tiêu biểu là đạo CĐ
đều để những tôn giáo này thích ứng với tâm sinh lý con người thời đại, phong
hóa, kinh tế và tập quán vùng miền, tạo nên vóc dáng tôn giáo nội sinh mang
đậm sắc thái văn hóa truyền thống người Việt.
Các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời và phát triển trong lòng xã hội Việt; quá
trình tồn tại, phát triển trải qua những giai đoạn lịch sử của vùng đất Nam Bộ.
Thời gian tồn tại của nhóm tôn giáo này quá ngắn so với các tôn giáo lớn, nhưng
đủ thấy đóng góp của chúng cho vùng đất và con người Nam Bộ. Dù trong hoàn
cảnh nào, nông dân là thành phần gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhất là khi đất nước
thời binh lửa, nhưng họ vẫn là lực lượng nòng cốt bảo tồn văn hóa truyền thống.
Tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ đã góp vào thành quả ấy. Ngày nay, những người
nông dân phải đối mặt với kinh tế thị trường đầy rủi ro, muốn hay không muốn
họ cũng phải chấp nhận. Vốn là những người chỉ quen với ruộng rẫy, hiền hòa
với tự nhiên, chuyên tâm “học Phật, tu Nhân” chắc không dễ dàng cho sự thích
ứng của họ, khi phải vừa lo “miếng cơm, manh áo”, lại phải giữ tâm lành đạo
đức. Nhưng là tín đồ tôn giáo thì người nông dân Nam Bộ không thể thiếu được
bản tính hiếu hòa và yêu thương. Đó là bản sắc đáng trân trọng của tín đồ các tôn
giáo nội sinh ở Nam Bộ.
4.1.2. Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ góp phần tạo nên
tính hòa đồng, tiến bộ của đời sống tôn giáo
Dù các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời trong giai đoạn mà các tôn giáo lớn đã
hiện diện từ lâu và cùng lúc có vài chục tôn giáo mới xuất hiện, nhưng không hề
diễn ra kỳ thị tôn giáo, xung đột tôn giáo. Điều này bắt nguồn từ tinh thần hòa
hiếu của cư dân Nam Bộ. Đến nay vẫn vậy, các tôn giáo này dù phương châm
hành đạo có khác nhau, nhưng về cơ bản chúng không bất hòa nhau về mặt lý
thuyết tôn giáo. Không những thế, chúng còn xem nhau như anh em, tương trợ
124
nhau trong các hoạt động tôn giáo, thể hiện rõ nhất ở các ngày kỷ niệm, ngày lễ
hội liên quan đến tôn giáo.
Trước đây, lý thuyết tôn giáo mà chức sắc thường truyền cho tín đồ mang
tính huyền linh, tạo cảm giác lo sợ Ngày phán xét cuối cùng, Hội Long hoa,v.v...
Ngày nay, hầu hết các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ tuyên giảng giáo lý theo hướng
tích cực hơn. Họ phê phán những hành vi mê tín dị đoan như xem bói, đốt mã,
xin xăm, cầu đảo: “Dị đoan án nội rõ ràng/ Diêm đình tội để khó toan luân hồi”
[50, tr.54], hoặc: “Bỏ dị đoan mới thấy đạo mầu/ Bớt giả dối gặp người thượng
cổ” [3, tr.106]. Tương tự, phần lớn các hệ phái đạo CĐ hạn chế tối đa hoặc từ bỏ
cầu cơ trong hoạt động tôn giáo. Trước đây, phẩm vị chức sắc của đạo CĐ do
Ngọc Hoàng Thượng Đế thiên phong qua cơ bút, nhưng nay thay thế bằng hình
thức công cử, một thay đổi quan trọng giúp cho tín đồ tự tin vào bản thân trên
bước đường tu tập. Đó là một số biến đổi tiến bộ từ đặc trưng tôn giáo ở Nam Bộ
nhằm phù hợp hơn với bối cảnh mới. Biến đổi này không làm thay đổi những giá
trị truyền thống mà chỉ là tiếp cận mới, bổ sung lý thuyết tôn giáo của mình đúng
như tinh thần kế thừa, dung hợp, cải biên trong đặc trưng tôn giáo.
Cùng với đó, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không cực đoan. Thực tế này
do khả năng tiếp biến văn hóa độc đáo của người Việt trong môi trường mới. Họ
đề cao giá trị “tu Nhân” hơn cả giá trị “học Phật”. Giá trị ấy đã đi vào đời sống
bằng các hành động “nhập thế” cụ thể mà bấy lâu nay họ thực hiện với “Tứ đại
trọng ân”. Còn đối với đạo CĐ (ngoại trừ nhóm Chiếu minh Tam thanh Vô vi),
các nhóm phái còn lại đều tu hành theo hướng “phổ độ” để cứu giúp người đời,
giải thoát ở Bạch Ngọc kinh.
Xét tổng thể, đặc trưng lý thuyết các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có tính
thuần Việt khá cao, dù nhóm các Ông Đạo có đơn giản hóa giáo lý, giáo luật,
giáo hội, giáo sĩ, giáo lễ, giáo đường, trong đó tính trội thuộc về Phật giáo Bắc
tông (pháp tu Tịnh độ); hay nhóm Cơ bút là sự hỗn dung nhiều loại hình tôn
giáo, tín ngưỡng, cầu kỳ hóa giáo lý, giáo luật, giáo hội, giáo sĩ, giáo lễ, giáo
đường, với tính trội thuộc về Đạo giáo, cũng đều hòa đồng tôn giáo.
125
4.1.3. Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ góp phần giữ gìn,
tôn vinh văn hóa truyền thống người Việt
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ mang nhiều giá trị của tín ngưỡng truyền
thống: thờ Tổ tiên, thờ Mẫu, thờ anh hùng dân tộc, thờ Trời, v.v... Thờ Tổ tiên là
cội rễ của tín ngưỡng Việt, là văn hóa truyền thống trong hầu hết các gia đình, có
vị trí then chốt trong đời sống tâm linh người Việt.
Trước khi trở thành tín đồ của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, mỗi người
đều duy trì thờ cúng tổ tiên như một truyền thống. Các tôn giáo ra đời trong bối
cảnh xã hội người Việt ở Nam Bộ, nên trước hết đó là một thành tố văn hóa góp
phần làm phong phú văn hóa của người Việt tại vùng đất mới, sau đó mới là với
tư cách tôn giáo. Với những đặc trưng tôn giáo, dễ nhận thấy đây là một hiện
tượng xã hội ra đời trong những điều kiện xã hội cụ thể. Điều kiện cụ thể đó lại
chế định vùng ảnh hưởng của tôn giáo. Nên các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là một
đặc trưng của phong trào tôn giáo mới, tôn giáo nội sinh cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX mang tính địa phương.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là một trong nhiều thành tố văn hóa làm
phong phú văn hóa tộc người. Nhưng cần lưu ý, với tư cách là tôn giáo thì tôn
giáo đó lại tác động sâu sắc đến đời sống mọi mặt của cư dân. Đó cũng là giá trị
mà các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã đóng góp
cho văn hóa Nam Bộ, tạo nên sắc thái riêng của văn hóa miệt vườn.
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của văn hóa, các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ một mặt tạo ra sự phong phú cho văn hóa tôn giáo, mặt khác góp phần
lưu giữ, phát triển giá trị của văn hóa Việt Nam. Về văn hóa vật thể, với kiến
trúc của những cơ sở thờ tự như đạo CĐ mang tính dung hợp cả phong cách
Đông - Tây, hoặc một vài cơ sở thờ tự tiêu biểu gắn liền với quá trình lập đạo
của BSKH, TAHN, TĐCSPHVN, PGHNTL biểu hiện khá rõ sự hòa đồng Tam
giáo. Trong số đó, một số cơ sở thờ tự được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa đã
bảo lưu nhiều giá trị của văn hóa Việt Nam. Ở góc độ văn hóa vật thể, chúng ta
có thể cảm nhận được giá trị qua các công trình này.
126
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã thể hiện rõ nét đặc tính dân tộc qua tư
tưởng giáo lý và hoạt động tôn giáo. Đó là tính cách người dân Nam Bộ
“không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng cứu khốn phò nguy, sống cái
đạo làm người “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”, dám đứng lên dẹp bất công,
bênh vực người yếu đuối, thế cô, sẵn sàng bảo bọc kẻ thất cơ lỡ vận” [95,
tr.68], qua việc khẩn hoang, lập làng, chống ngoại xâm, chống bất công xã hội
để giành độc lập, xây dựng quê hương đất nước bằng những việc làm thiết
thực cho đến ngày nay.
Những lời khuyên răn của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ góp phần tạo nên
khuôn mẫu gia đình, các mối quan hệ xã hội. Đại đa số tín đồ cho rằng, những
nội dung luân lý, đạo đức trong giáo lý các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vẫn là
“khuôn vàng, thước ngọc” để mọi người tin theo, nên họ luôn khiêm nhường đối
với người khác, không quan trọng hơn thua, không quá ganh đua với cuộc đời để
đánh mất mình. Họ thấm nhuần những lời dạy về sự hi sinh, lòng hiếu nghĩa, báo
đáp tứ đại trọng ân.
4.1.4. Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vừa góp phần
khẳng định vừa tạo nên đặc tính người Việt ở Nam Bộ
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vừa khẳng định vừa góp phần tạo nên đặc
tính của người dân Nam Bộ, đó là tính dân chủ và bình đẳng. Vì các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ không dựa trên quy chế làng xã, mà bản thân chúng phải tự khẳng
định ở một hình thái tôn giáo mới, nên rất cần dân chủ và bình đẳng để hạn chế
đến mức cao nhất xung đột cũ - mới hoặc cái tại chỗ - cái nơi khác.
Người Việt ở Nam Bộ bình đẳng về tín ngưỡng. Trần điều, Trần dà, Thiên
nhãn, chữ Nhất là những biểu tượng của từng tôn giáo, nhưng chung nhất là bàn
thờ Ông Bà trong nhà và ban thờ Thiên trước nhà, nơi giao hòa Thiên - Địa, Trời
- Người. Việc thờ cúng này giàu nghèo không khác biệt đáng kể, nên không nhất
thiết phải xây dựng nơi thờ tự tốn kém, không phù hợp với chủ trương tu hành
mang tính cá nhân của nhóm các Ông Đạo. Họ chỉ cần miếu, am, cốc đơn sơ với
một bàn thờ Ông Bà. Thế là đủ cho nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của họ.
127
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy,
người Nam Bộ muốn đổi mới về tinh thần, trước hết là thỏa mãn khao khát bình
đẳng, dân chủ. Khi gia nhập đạo, họ nhận được thêm tư tưởng hòa đồng, khát
vọng xây dựng xã hội nhân bản, tiến bộ, dù đó là xã hội phi trần thế. Lý giải
nguyên nhân của vấn đề này, Nguyễn Văn Nguyễn cho rằng: Thứ nhất, vì Nam
Bộ ruộng đất tập trung nhiều trong tay nhà băng Đông Dương và các địa chủ,
nhất là bọn Pháp, nông dân đã phân tán ra mỗi người có một miếng đất nhỏ,
manh mún. Khi bị mất đất, người dân trở nên thất nghiệp kinh niên, lỡ quê lỡ
chợ, tình cảm tôn giáo cũng dễ bộc lộ. Thứ hai, sự bế tắc trong việc phân hóa
giai cấp xã hội ở Nam Bộ là lý do cơ bản nhất hình thành tình trạng nhiều tôn
giáo ở Nam Bộ. Thứ ba, lực lượng xã hội tham gia và quan hệ mật thiết nhất với
vấn đề tôn giáo là nông dân [xem: 104, tr.118].
4.1.5. Đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ góp phần tạo nên
một phong trào thiện nguyện rộng khắp
Được khuyên dạy “làm lành lánh dữ”, nên tín đồ chú trọng bố thí để tạo
phúc duyên, đó là cốt lõi của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ được thể hiện qua
đặc trưng tính nhập thế, tính dân tộc của các tôn giáo này.
Trước đây, hoạt động thiện nguyện của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ gặp
nhiều khó khăn chủ yếu do nguồn lực không nhiều. Nhưng từ khi được công
nhận tư cách pháp nhân từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, tùy vào
điều kiện của mỗi tôn giáo, có quy mô, hình thức, cách thức, mức độ khác nhau,
nhưng nhìn chung đều hết lòng với việc thiện nguyện, có sức lan tỏa khắp trong
vùng. Dưới đây là một số mô hình tiêu biểu:
Bếp ăn tình thương/ bếp ăn từ thiện/ bếp ăn miễn phí: là các “bếp ăn”
phục vụ cộng đồng không thu tiền. Các tổ từ thiện cơm cháo, nước uống được
thành lập để cung cấp cho bệnh nhân, người lao động, học sinh, sinh viên ước
tính đạt hàng chục tỷ đồng/ năm, với hàng chục ngàn suất ăn miễn phí/ ngày.
Thành phần tham gia hoạt động này phần lớn là tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ rất
nhiệt tâm, giàu tinh thần chia sẻ, không cần thù lao, chế độ bồi dưỡng. Họ vận
128
động các nguồn lực xã hội cùng chung tay góp sức vào “bếp ăn” ở nhiều bệnh
viện trong khu vực, những nơi có đông người lao động nghèo, có nhiều người vô
gia cư,v.v... [xem: 132]. Cho đến nay, mô hình “bếp ăn” của các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ hoạt động rất hiệu quả, thể hiện tinh thần tương thân tương ái, nhân
đạo sâu sắc.
Mô hình xe cứu thương miễn phí là một điển hình tốt của các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ, đặc biệt là nhóm các Ông Đạo, mang đến hiệu ứng tích cực ở các
tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long, Kiên Giang,v.v...
Mỗi khi có người gặp vấn đề về sức khỏe hoặc qua đời, bất kỳ thời điểm nào, khi
có yêu cầu thì những chuyến xe cứu thương miễn phí nhanh chóng, kịp thời
chuyển bệnh nhân đến bệnh viện hoặc đưa người qua đời trở về gia đình. Phong
trào này được người dân rất hoan nghênh và đang nhân rộng ở nhiều nơi có đồng
bào tôn giáo.
Mô hình xây nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, tình nghĩa; xây dựng, sửa
chữa cầu đường, công trình phúc lợi công cộng trên tinh thần từ thiện. Các tổ
chức tôn giáo phối hợp với chính quyền địa phương, đoàn thể chính trị - xã hội
và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,... vận động các nhà hảo tâm thực hiện
phong trào đền ơn đáp nghĩa, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái
của các tôn giáo này. Việc thành lập các tổ sửa chữa nhà cửa, cầu đường miễn
phí quy chế hoạt động rõ ràng, nổi bật nhất là PGHH. Các tôn giáo BSKH,
PGHNTL, TAHN không thành lập những đội xây dựng có tổ chức như PGHH,
nhưng bất cứ khi nào cần, họ cũng sẵn lòng giúp đỡ.
Các hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục được xem là nổi bật nhất và
tích cực nhất. Khi nói đến các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, nhiều người nghĩ ngay
đến các hoạt động từ thiện xã hội, bởi sự nhiệt tâm, chuyên nghiệp, bài bản và
hiệu quả của nó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế, họ có các tổ sơ cứu bệnh nhân,
phòng khám và điều trị bệnh miễn phí, phòng thuốc phúc thiện,v.v... Riêng tỉnh
An Giang, hiện có trên 800 cơ sở điều trị bệnh bằng thuốc nam của các tôn giáo,
với hơn 2.400 lương y, trị bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho hàng ngàn bệnh
129
nhân/ ngày [xem: 2]. Với TĐCSPHVN, mỗi cơ sở tôn giáo có một phòng thuốc
nam phúc thiện. Đáng chú ý, tôn giáo này xây dựng và hoàn thiện chương trình
đào tạo y sĩ 3 cấp và huấn viên y khoa. Sau khi hoàn thành chương trình đào
tạo, học viên được tạo điều kiện thi vào các trường trung cấp, đại học của Bộ
Y tế. Hàng trăm y sĩ, bác sĩ được đào tạo như thế, khi tốt nghiệp có bằng cấp,
chứng chỉ, một số trở về phục vụ tại các nhà thuốc phúc thiện của
TĐCSPHVN [xem: 10]. Đạo CĐ cũng khuyến khích mỗi thánh thất thành lập
một cơ sở khám chữa bệnh cho đồng đạo và người dân trong vùng. Cùng với
đó, hàng chục ngàn tín đồ các tôn giáo hằng ngày tình nguyện đi sưu tầm các
loại cây thuốc, lá thuốc từ các nơi. Trong lĩnh vực giáo dục, nhiều tổ chức tôn
giáo thành lập chi hội khuyến học, hỗ trợ học sinh nghèo vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới và hải đảo,v.v...
4.1.6. Một số biểu hiện tiêu cực từ việc lợi dụng đặc trưng của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Bên cạnh những điểm tích cực, việc lợi dụng đặc trưng các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ để thực hiện mưu đồ xấu của một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài
tôn giáo từng xảy ra và đến nay vẫn còn ở một số nơi, cụ thể như sau:
- Lợi dụng thuyết Mạt thế để giải thích không đúng về những hiện tượng
tự nhiên và xã hội:
Từ thuyết Mạt thế thể hiện qua triết lý “Ngày tận thế” và Hội Long hoa
của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ, giáo chủ tôn giáo răn dạy tín đồ tránh xa
những điều gây nghiệp ác, làm những điều gây nghiệp lành để qua được sự
“sàng sảy” tội phúc đến với Hội Long hoa. Tuy nhiên, một số phần tử xấu đã lợi
dụng thuyết Mạt thế để tuyên truyền những hiện tượng bất thường như hạn hán,
lũ lụt, đạo đức suy thoái, lối sống vô cảm, vấn nạn xã hội, an ninh phức tạp, kinh
tế khó lường,… gây ảnh hưởng không tốt trong tâm lý của tín đồ. Vì tâm lý bất
an, họ tuyên truyền mê tín, rao truyền ngày tận thế, đấng cứu thế tái sinh (đã diễn
ra một số nơi ở Nam Bộ do đồn đoán sự cố máy tính vào năm 2000 - Y2K).
Ngoài ra, khi niềm tin huyền linh tăng cao, trong khi niềm tin xã hội giảm thấp
130
do những bất ổn của cuộc sống sẽ xuất hiện tâm lý ảo tưởng về sự mầu nhiệm,
sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên,v.v...
- Việc lợi dụng tính chính trị của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ với mục
đích xấu:
Bên cạnh sự đồng hành cùng dân tộc, thì hiện nay, các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ vẫn còn rơi rớt một số tiêu cực từng tồn tại. Một số tín đồ quá khích, dễ
bị lợi dụng thành chỗ dựa cho thế lực xấu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,
chống lại cách mạng, chống lại Tổ quốc. Đó là những gì còn sót lại của “Quân
đội Bảo an Kỳ Hương” (năm 1980), “Hội đồng Bảo pháp”, “Việt Nam ái quốc”
(năm 1984), “Thanh long Huỳnh kỳ Lạc long” (1988), hay “Nội ứng Nghĩa
binh” (thập niên 40 thế kỷ XX),... làm tay sai cho địch, với các nhân vật điển
hình như: Nguyễn Long Châu, Lê Quang Liêm, Trần Hữu Bảy, Dật Sĩ, Văn
Phú,v.v... Nhiều tín đồ tôn giáo ở Nam Bộ phẫn nộ trước những tổ chức và cá
nhân này. Một số nhóm phái của các tôn giáo (nhất là PGHH và đạo CĐ) trước
năm 1975 có lực lượng quân sự khá mạnh, được trang bị vũ khí hiện đại, chống
lại cách mạng và sát hại dân lành. Các hoạt động có tính thổ phỉ của Năm Lửa,
Hải Ngoán, Ba Cụt... đến ngày nay nhiều người dân Nam Bộ vẫn còn chưa quên.
Một bộ phận chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo ở Nam Bộ có tham
vọng chính trị đã làm cho tình hình tôn giáo và tình hình xã hội thêm phức tạp.
Bộ máy tổ chức của một số tôn giáo lục đục, chia rẽ do sự tranh giành quyền lực
của một số kẻ “mượn đạo tạo đời”.
Như vậy, đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay
thể hiện rõ nét tính nhập thế, tính dân tộc, tính chính trị. Để phát huy những mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đặc trưng tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cần có
những khuyến nghị đến các đối tượng liên quan.
4.2. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA
ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
4.2.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy tôn
giáo học
Về mặt pháp lý, hầu hết các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX được thừa nhận pháp nhân tôn giáo hoặc được cấp phép hoạt
131
động trở lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những quan điểm khác nhau về các tôn
giáo này. Một số ý kiến cho rằng, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, chỉ là dạng thức Phật giáo canh tân, Phật giáo địa phương hóa,
Phật giáo dân tộc hóa, hệ phái Phật giáo, pháp tu Phật giáo, tôn giáo hỗn
tạp,v.v... Thậm chí, có ý kiến coi chúng chỉ là hiện tượng mê tín: “Cao Đài chưa
bao giờ là một tôn giáo, càng không phải là một tôn giáo mới, vì giáo lý thì
không có, các thần tượng chỉ là đất sét, còn việc tế tự chỉ là một pha trộn những
mê tín Á Đông với mấy ý thức hệ phương Tây” [131, tr.370].
Về quan điểm các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là các giáo phái, hệ phái
Phật giáo: Quan điểm này cho rằng, khi các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời là thời kỳ
hoằng pháp khác nhau của Phật giáo, hay sự biến thể của Phật giáo đang diễn ra
mạnh mẽ. Căn cứ của quan điểm này là phương pháp tu hành thiêng trọng về
pháp môn Tịnh Độ, thuyết Mạt thế của Phật giáo hay phù chú của Đạo giáo dân
gian. Do đó, Trần Văn Quế cho rằng: “Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương và hệ phái
Tứ Ân Hiếu Nghĩa quả thực là một hình thức của phái Thiền tông đem áp dụng
cho dân tộc Việt” [33, tr.4]. Trần Hồng Liên khẳng định: “Về cơ bản, Bửu Sơn
Kỳ Hương là một giáo phái Phật giáo, hay cũng có thể gọi là một đạo giáo gốc từ
Phật giáo” [77, tr.2]. Có thể hiểu những danh xưng như thế được dùng trong vài
chục năm qua, nhưng cần lưu ý, điều đó không có nghĩa là nó xuất phát từ gốc
và lẫn với chữ gốc của các tôn giáo mà nó được cho là phái sinh. Trong giáo lý
của nhóm các Ông Đạo, thuyết Tứ ân là linh hồn, là trung tâm, có vai trò quyết
định. Nhưng với Phật giáo, thuyết Tứ ân không phải là giáo lý rường cột.
Về quan điểm các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là biểu hiện của phong trào
chấn hưng Phật giáo, là tân Phật giáo: Xét về góc độ thời gian, quan điểm này
không thuyết phục, vì đến đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, phong trào chấn
hưng Phật giáo mới được khởi xướng ở Nam Bộ. Vậy BSKH, TAHN, PGHNTL
ra đời cuối thế kỷ XIX và thập nhiên đầu thế kỷ XX rõ ràng không nằm trong
thời gian diễn ra phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Bộ. Dù có những tương
đồng nhất định, nhưng về cơ bản có sự không thừa nhận lẫn nhau. Một mặt, bản
132
thân các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không tự cho mình là một dạng thức canh tân
Phật giáo. Mặt khác, giới tăng sĩ Phật giáo không thừa nhận các tôn giáo này là
Phật giáo canh tân. Vì thế, như ở một số người có vị thế trong PGHH tự cho rằng
họ là một tân Phật giáo. Nhưng hãy xem, liệu họ có được “cái gốc kia” thừa
nhận. Sự thật đã rõ ràng, phía Phật giáo Việt Nam không bao giờ thừa nhận.
Về auan điểm các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là tôn giáo hỗn tạp: Về vấn
đề này, như đã đề cập, các tôn giáo ở Nam Bộ là kế thừa, dung hợp và chọn lọc
những yếu tố phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa người ở Nam Bộ,
chứ không giản đơn là trộn lẫn các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Về quan điểm định danh các tôn giáo ở Nam Bộ là tôn giáo cứu thế: Theo
cách hiểu phổ biến, phong trào tôn giáo cứu thế là hiện tượng đặc trưng, xuất
hiện trong bối cảnh chế độ thực dân xâm lược thuộc địa, phổ biến trên thế giới.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ phản ánh sự ra đời của chúng trong bối cảnh và
điều kiện nhất định. Các tôn giáo đó nhấn mạnh mục đích cứu thế, chứ không
phải là tính chất đặc thù của một tôn giáo nào. Vì mọi tôn giáo ra đời đều nhằm
mục đích cứu thế. Việc đặt nặng mục đích cứu thế thường ở giai đoạn tôn giáo
mới ra đời. Bởi sự ra đời của tôn giáo bao giờ cũng quan hệ biện chứng với cơ sở
xã hội sản sinh ra nó. Từ lập luận như vậy, chúng tôi cho rằng, các tôn giáo ra
đời ở Nam Bộ chỉ mang tính cứu thế mà thôi.
Về quan điểm luận bàn sự ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ là hợp lý hay
không hợp lý: Một số quan điểm phê phán các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là tà
đạo, mê tín. Điều này phủ nhận tư cách của một tôn giáo là “vượt cái hợp lý, tiến
đến cái siêu lý”; tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người, là niềm tin
vào siêu nhiên, là phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình
thức những lực lượng siêu trần thế [xem: 14, tr.437]. Trên cơ sở duy vật biện
chứng mác xít, Nguyễn An Ninh so sánh và rút ra bản chất của Niết Bàn và
Thiên Đường: “Dẫu Niết bàn hay Thiên đường, cả hai đều là sự tưởng trong trí
não của con người, đều là cái bóng quái lạ của cái thế giới có thực này rơi vào trí
não của những con người” [128, tr.391]. Cần chú ý, với tôn giáo, cái siêu lý chưa
133
hẳn là cái phi lý, mà đó là thái độ sống không thuần túy nhận thức bằng lý luận.
Bởi vì, bất kỳ tôn giáo nào được hình thành cũng là sự phản ánh của một thực tại
xã hội sản sinh ra nó. Vậy có phải “siêu nhiên tôn giáo” trong “hợp lý thế tục”
mà các tôn giáo đều có và đều hướng đến.
Dễ nhận thấy, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có những yếu tố dung hợp,
vay mượn vốn không đặc biệt so với “bản gốc”. Nhưng vấn đề đặt ra là vì sao
chúng lại phát triển mạnh mẽ chỉ trong một thời gian ngắn, không chỉ trong giới
bình dân mà còn trong giới trí thức, không chỉ trong tầng lớp nghèo khó mà còn
trong tầng lớp giàu có. Chắc chắn là, các tôn giáo này có những phương pháp,
nội dung mới mà các tôn giáo, tín ngưỡng có hàng ngàn năm trước chưa thể
chạm đến được trong bối cảnh Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Do đó,
đã là tôn giáo thì chưa vội bàn đúng hay sai, thực tế hay phi thực tế..., vì như thế
sẽ dễ dẫn đến những lý giải thiên kiến hoặc định kiến. Bởi tôn giáo luôn có cái lý
của mình theo dạng thức mọi sự tồn tại đều có tính hợp lý.
Với nhiều quan điểm khác nhau về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ nêu trên,
chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số khuyến nghị như sau:
- Về nhận thức đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Nghiên cứu của
chúng tôi, cùng kết quả của nhiều nghiên cứu đi trước chứng minh, các tôn giáo
ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có đầy đủ thành tố của tôn
giáo. Về mặt pháp lý, hầu hết các tôn giáo này được công nhận pháp nhân tôn
giáo qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Chúng hoạt động ổn định, đóng góp
nhiều giá trị cho xã hội Việt Nam.
Vì vậy, các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo học cần nhất
quán về định danh, bản chất, đặc trưng các tôn giáo mới ra đời ở Nam Bộ cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XIX với những biểu hiện của chúng ở mỗi giai đoạn lịch
sử, xã hội Nam Bộ. Bởi cho đến nay, chúng ta có đầy đủ căn cứ pháp lý, căn cứ
khoa học để khẳng định đó là những tôn giáo độc lập.
- Về nghiên cứu tôn giáo. Cần tiếp tục có những công trình nghiên cứu về
các tôn giáo ra đời Nam Bộ, nhất là về biến đổi tôn giáo, đặc trưng tôn giáo và
134
chính sách tôn giáo. Thời gian trước đây, các công trình tập trung nghiên cứu các
tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, đạo Tin lành. Thời gian gần đây, các tôn
giáo, tín ngưỡng mang tính vùng miền được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn,
nhưng chưa tương xứng. Bởi vì, nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng không chỉ đơn
thuần phục vụ khoa học cơ bản mà còn đóng góp trên tất cả các lĩnh vực xã hội;
nâng cao đời sống đồng bào tôn giáo, ổn định an ninh trật tự, phát huy vai trò
tích cực; phòng chống những biểu hiện tiêu cực mà tôn giáo bị lợi dụng làm
công cụ,v.v...
- Về giảng dạy tôn giáo học. Các vấn đề liên quan đến đặc trưng các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ cần phải được tiếp cận và lý giải với thái độ khách quan,
tôn trọng, bình đẳng. Vì đây là những tôn giáo có phạm vi ảnh hưởng, số lượng
tín đồ không lớn; lại từng có những nhìn nhận thiếu khách quan, dễ dẫn đến ngộ
nhận đáng tiếc như đã phân tích. Đồng thời, người giảng dạy tôn giáo còn có
nhiệm vụ tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo, nên việc nhận định các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ phải trên
lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.
- Về nghiên cứu chính sách tôn giáo. Khi nghiên cứu chính sách tôn giáo,
cần chú ý hơn nữa việc đề ra giải pháp phù hợp, tổng thể các mối quan hệ giữa
tôn giáo với kinh tế, tôn giáo với văn hóa, tôn giáo với chính trị, tôn giáo với xã
hội. Nghiên cứu đặc trưng tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cho thấy, nhạy cảm chính
trị dẫn đến sự “phân rẽ”, “phân ly” hay “tái hợp” diễn ra liên tục, thường xuyên;
nhưng về tín lý, đức tin, dù có những biến đổi nhưng hồn cốt truyền thống của
chúng luôn đảm bảo. Điều đó cho thấy, yếu tố tác động lớn nhất liên quan đến
nghiên cứu chính sách tôn giáo là yếu tố chính trị của tôn giáo.
Trước năm 1990, nhìn chung chủ trương của Nhà nước Việt Nam là thu
hẹp ảnh hưởng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ do tác động xấu từ những hoạt
động chính trị của một bộ phận chức sắc và tín đồ các tôn giáo này. Nhưng đến
nay, các tôn giáo này được công nhận tư cách pháp nhân và cấp phép hoạt động
135
trở lại, được tôn trọng và bảo hộ những hoạt động tôn giáo cũng như những hoạt
động xã hội theo đúng giáo luật và pháp luật. Nhưng hoạt động của các tôn giáo
này hiện vẫn có một số khó khăn nhất định do lịch sử để lại. Đó là một số chức
sắc, chức việc, tín đồ bị lợi dụng vào mục đích xấu; vấn đề liên giao tổ chức,
quan hệ không rõ ràng giữa các tổ chức tôn giáo trong nước và ngoài nước có lúc
căng thẳng, phức tạp. Ngoài ra, ở Nam Bộ những năm qua xuất hiện các “xóm
Hàn”, “xóm Đài” - con cháu của phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc, Đài
Loan trở về sinh sống bên gia đình ngoại. Họ mang theo những giá trị tâm linh
mới từ quê nội. Hiện tượng này cần được quan tâm nghiên cứu và đưa ra chính
sách cụ thể cùng với một số tôn giáo mới từ bên ngoài truyền nhập đến Nam Bộ
thời gian gần đây.
- Về nghiên cứu luật pháp tôn giáo. Đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cung cấp nhiều luận cứ khoa học, góc nhìn
tham chiếu cho nghiên cứu các hiện tôn giáo mới ra đời hoặc du nhập vào nước
ta từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây.
Ở nước ta, từ cuối thế kỷ XX đến nay xuất hiện nhiều hiện tượng tôn giáo
mới, trong đó đa phần nội sinh. Biểu hiện của các hiện tượng tôn giáo mới này
có những yếu tố tương đồng với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, nổi trội là tín ngưỡng thờ Mẫu. Dạng thức này ngày càng rõ về
cách thức tổ chức như tôn giáo mới từng có ở Nam Bộ, với không gian tâm linh,
địa bàn tôn giáo, yếu tố bản địa; tìm kiếm những yếu tố triết lý tôn giáo riêng
trong sự dung hợp; xây dựng biểu tượng thờ, sinh hoạt nghi lễ,v.v... Ngoài ra,
hàng chục hiện tượng tôn giáo mới với những dạng thức khác nhau đang mong
muốn được cấp pháp nhân tôn giáo. Những điều vừa nêu đặt ra một số điểm cần
làm rõ trong việc nghiên cứu chính sách tôn giáo: quan điểm học thuật, chính
sách đối với tôn giáo mới (hiện tượng/ phong trào tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo/ tà
giáo, tôn giáo nhóm nhỏ, tôn giáo bên lề,v.v...). Trên phương diện pháp lý, xu
hướng chung là công nhận hoạt động tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tôn giáo,
thừa nhận quyền chuyển cải đạo,... nhưng vẫn còn đó tình trạng gây mất an ninh
136
chính trị, trật tự xã hội, suy giảm chuẩn mực đạo đức, sức khỏe cộng đồng ở một
số hiện tượng tôn giáo mới.
Nghiên cứu chính sách tôn giáo phải đặt trong hoàn cảnh đối tượng tôn
giáo được nghiên cứu. Lý giải về “khoảng trống tâm linh” của các tôn giáo ra đời
ở Nam Bộ được luận án làm rõ. Còn nguyên nhân ra đời hoặc du nhập các hiện
tượng tôn giáo mới ở Bắc Bộ hiện nay là gì, có hay không một “khoảng trống
tâm linh” mới xuất hiện. Bối cảnh hiện nay đã khác nhiều, Phật giáo có sự phát
triển rộng khắp, Công giáo và đạo Tin lành đã tồn tại Việt Nam hàng trăm năm,
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ được công nhận pháp nhân, hoạt động ổn định.
Thiết nghĩ, cần có những đề tài nghiên cứu chính sách đối với các hiện tượng tôn
giáo mới nghiêm túc và xứng tầm, tránh một số sai lầm đáng tiếc từng mắc phải.
Trước đây, cách ứng xử với hiện tượng tôn giáo mới có lúc “căng thẳng”, có khi
“lờ đi” do ngại đụng chạm đến vấn đề nhạy cảm, về sau chuyển dần sang tinh
thần “xem xét”. Đó là một bước chuyển pháp lý tích cực đối với hiện tượng tôn
giáo mới cần tiếp tục phát huy trong thời gian tới.
4.2.2. Khuyến nghị đối với các cơ quan làm công tác tôn giáo
Cho đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, các tôn giáo ở Nam Bộ ra đời
trong thời điểm và bối cảnh khu vực này có nhiều biến động, người dân nghèo
khổ; ra đời bởi phong trào yêu nước dưới hình thức tín ngưỡng dân gian,v.v...
Hiện tại, đất nước hòa bình, đời sống người dân được nâng cao, các tôn giáo này
sẽ giảm vai trò, có thể mất đi như hàng loạt Ông Đạo trước đó. Hoặc chúng
không có chủ thuyết, mà chỉ là sự vay mượn một số yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng
khác, nên sẽ suy yếu dần. Vì lẽ đó, chúng sẽ tồn tại như các hình thức tín ngưỡng
mà thôi. Đó là những quan điểm thiếu cơ sở, phiến diện, chưa nhận thức được
giá trị của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Quan điểm nêu trên dẫn đến ở một số nơi, công tác tôn giáo đối với các
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ bị xem nhẹ, thiếu công bằng, thiếu tôn trọng, từ đó mất
cảnh giác trước những biểu hiện nhạy cảm phát sinh. Một vài quan điểm đánh
đồng bản chất của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ với chính trị, mà không thấy
được giá trị thể hiện qua tính dân tộc, tính nhập thế của các tôn giáo này.
137
Do vậy, công tác đối với các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ cần phải tránh
những sai lầm từng xảy ra, nắm bắt được những vấn đề mới sẽ phát sinh. Mục
đích cuối cùng là nâng cao đời sống cho đồng bào có đạo, hỗ trợ các hoạt động
tôn giáo đúng pháp luật và giáo luật. Muốn vậy, cần phải có nhận thức đầy đủ và
quán triệt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, cụ thể và cập nhật là
Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính
trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới”,
những quy định, chỉ thị, hướng dẫn đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Cụ
thể, đối với các cơ quan, cán bộ làm công tác tôn giáo, chúng tôi xin khuyến
nghị một số nội dung như sau:
- Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
Cần chú ý đến những người có tâm huyết, có chuyên môn, có kiến thức
tôn giáo và bản lĩnh chính trị. Lực lượng làm công tác tôn giáo phải là cán bộ
chiến lược, chuyên sâu lĩnh vực, nhưng thực tế thời gian qua cho thấy phần
nhiều chuyển về từ các bộ phận khác, chưa qua đào tạo chuyên môn. Đối với cán
bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đồng bào tôn giáo Nam Bộ thì càng cần quan
tâm hơn. Bởi vì, các tôn giáo này ra đời tại địa phương, có nhiều đóng góp cho
địa phương, mang trong mình truyền thống dân tộc, làm phong phú hơn đời sống
nông dân Nam Bộ, nhạy cảm với những biến động chính trị xã hội. Cho đến nay,
phần lớn tín đồ của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ vẫn là nông dân, đời sống còn
nhiều khó khăn, dễ bị tác động chính trị.
Vấn đề “liên giao” (Liên giáo 1, Liên giao 2 – từng tham gia kháng chiến
cứu nước, góp phần giành độc lập dân tộc) hay “ly khai” trước năm 1975 của
đạo CĐ, PGHH, cũng như sự mâu thuẫn của chúng với nhiều biểu hiện phức tạp
vẫn là bài học chưa cũ đối với công tác tôn giáo hiện nay. Hiện tại, vấn đề này
được các hệ phái CĐ quan tâm đề cập khá nhiều. Chúng tôi không bàn đến
những giải pháp đối với các vấn đề “liên giao” hay “ly khai” vì đó không là
phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án, nhưng cần lưu ý, đó là biểu hiện của hai
138
xu hướng “liên kết” và “phân ly” trong đời sống tôn giáo trên thế giới cũng như
ở nước ta hiện nay. Vấn đề đối với các cơ quan làm công tác tôn giáo là nhận
thức đúng đắn về biểu hiện tính chính trị của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Do đó, công tác tôn giáo đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ trong thời
gian tới cần phải có quan điểm lịch sử rõ ràng, tránh tình trạng quy chụp, đồng
nhất những sự kiện đã từng diễn ra với những vấn đề mới phát sinh. Nói cách
khác, công tác tôn giáo đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cần phải được triển
khai với thái độ và tinh thần khách quan, tôn trọng và bình đẳng tôn giáo.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo
Tạo điều kiện để các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ hoạt động đúng pháp luật
và giáo luật, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các tôn giáo này.
Thực tế cho thấy, sau khi được công nhận tư cách pháp nhân và cấp phép chính
thức hoạt động trở lại, về cơ bản, các tổ chức tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã xây
dựng tổ chức giáo hội chặt chẽ và hoạt động khá ổn định. Đó là cơ sở thuận lợi
cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo từ Trung ương đến địa phương. Với
đường hướng hành đạo tiến bộ, các tổ chức tôn giáo ra đời ở Nam Bộ được công
nhận và cấp phép hoạt động tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
mối quan hệ Nhà nước với Giáo hội được củng cố trong khuôn khổ pháp luật.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”, các thế
lực thù địch vẫn tiếp tục sử dụng tôn giáo làm công cụ chống phá Đảng và Nhà
nước ta. Các thế lực xấu luôn tìm mọi cách thâm nhập vào các tổ chức tôn giáo,
đồng bào có đạo để xuyên tạc đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước. Chúng gây rối, vu khống tạo sự mất đoàn kết trong nội bộ các tổ chức tôn
giáo hòng lối kéo bộ phận cực đoan chống phá cách mạng, gây phương hại uy tín
Việt Nam trên trường quốc tế.
Chú ý đến mối quan hệ đồng đạo của các tôn giáo nội sinh Nam Bộ ở hải
ngoại. Hiện nay có hàng chục ngàn người với hàng chục cơ sở thờ tự của các tôn
giáo nội sinh Nam Bộ ở nước ngoài. Các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài có xu
hướng trở về được sinh hoạt như một tổ chức cơ sở của tôn giáo trong nước. Tuy
139
nhiên, một bộ phận chức sắc, chức việc các tôn giáo ở nước ngoài tiếp tục hoạt
động chống đối tổ chức giáo hội trong nước, âm mưu phục hồi tổ chức tôn giáo
như trước năm 1975, phục hồi cơ bút, luôn đề cập đến biến cố Đốc Vàng,v.v...
Đồng thời, chúng còn lợi dụng vấn đề các tôn giáo nội sinh Nam Bộ kinh tế còn
nghèo, nhận thức của đa số tín đồ còn hạn chế; lợi dụng tư tưởng lạc hậu của một
số chức sắc, chức việc bảo thủ để kích động ly khai, nhằm gây mất đoàn kết
trong đồng bào có đạo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vì vậy, khuyến nghị cơ quan chức năng các cấp tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động của các tôn giáo nội sinh Nam Bộ theo đúng giáo luật và pháp
luật. Điều này không chỉ thừa nhận, bảo vệ, công bằng đối với các tôn giáo nội
sinh Nam Bộ, mà còn trân trọng sự đóng góp của các tôn giáo có vai trò quan
trọng trong xây dựng vùng đất Nam Bộ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong
lịch sử và hiện tại; ngăn ngừa, đấu tranh với những hình thức lợi dụng tôn giáo
chống đối chính quyền, gây mất ổn định xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia.
- Đối với các cơ quan làm công tác động quần chúng
Tăng cường công tác vận động, chăm lo đời sống của quần chúng tín đồ
các tôn giáo. Thực hiện hiệu quả các chương trình nâng cao đời sống vật chất và
đời sống tinh thần cho đồng bào theo tôn giáo. Nâng cao chất lượng phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Chương trình
xây dựng nông thôn mới”... để xây dựng gia đình hạnh phúc, con cháu ngoan
hiền, xóm làng yên vui, đoàn kết, dân chủ, công bằng, văn minh ở vùng đồng
bào các tôn giáo Nam Bộ.
Đẩy mạnh tuyên truyền quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo. Cần có phương thức tập hợp quần chúng tín đồ phù hợp với
đặc điểm từng nhóm tôn giáo. Trong vận động quần chúng, hết sức lưu tâm đến
định hướng hành đạo gắn liền với văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc,
củng cố tính nhân văn và xây dựng cộng đồng, những điều cần giữ gìn và phát
triển do sự mai một của tinh thần hiếu đạo, nhân nghĩa trong ứng xử giữa người
với người trước tác động kinh tế thị trường. Do vậy, cần quan tâm nhiều hơn nữa
140
công tác vận động chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ
trong giai đoạn hiện nay. Điều này có nghĩa, ngoài việc phát huy tinh thần hiếu
đạo vốn có, giúp đồng bào ổn định cuộc sống, còn là sự phòng chống, ngăn ngừa
những biểu hiện tiêu cực đang phát sinh hoặc việc lợi dụng tôn giáo hoạt động
trái pháp luật và giáo luật, như đã từng xảy ra ở một số thời điểm trước đây.
Phát huy hoạt động từ thiện xã hội của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Đây
là hoạt động tích cực của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cần tiếp tục được chính
quyền hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất. Hoạt động này biểu hiện tính nhập thế, tính
dân tộc và tính địa phương của các tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
vấn đề cần quan tâm liên quan là quy định vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc nam
ở các phòng thuốc từ thiện, hay chuyên môn của người khám bệnh và cấp phát
thuốc..., để hoạt động thiện nguyện của các tôn giáo này đúng quy định của pháp
luật, đem đến sự an toàn cho nhân dân vùng đồng bào tôn giáo.
4.2.3. Khuyến nghị đối với các tổ chức tôn giáo
- Về thực hành lễ nghi tôn giáo. Sự đơn giản trong thực hành tôn giáo của
các tôn giáo ở Nam Bộ (nhóm các Ông Đạo) hiện nay thể hiện trong cách thức
hành đạo và lễ nghi phù hợp với nhịp sống hiện đại. Tuy nhiên, sự đơn giản cũng
là một trở lực của các tôn giáo này trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì, ở một mức
độ nào đó, sự đơn giản làm cho việc thực hành tôn giáo ngày càng trở nên hình
thức. Tín đồ không thấu hiểu được đạo lý tốt đẹp của các tôn giáo. Hiểu biết giáo
lý của tín đồ bị mai một sẽ dẫn đến xu hướng nhạt đạo và làm trái tôn chỉ, đường
hướng hành đạo. Thậm chí, khi nhạt đạo thì “tôn giáo tính” sẽ hạ thấp, tín đồ dễ
bị tác động bởi sự cạnh tranh truyền giáo của những tôn giáo khác khi mà sự đa
dạng tôn giáo không ngừng diễn ra, trong đó có cả xu hướng phức tạp. Ngược
lại, sự phức tạp trong nghi lễ của đạo CĐ lại làm cho một bộ phận tín đồ trẻ tuổi
cảm thấy gò bó, khắt khe, rườm rà và thiếu hấp dẫn.
- Biểu hiện nhạt đạo, suy giảm tín đồ tôn giáo. Các tôn giáo lớn, các hiện
tượng các tôn giáo mới đang không ngừng “giành giật” tín đồ bằng các phương
thức truyền đạo hấp dẫn, gắn liền với cả lợi ích tinh thần lẫn lợi ích vật chất, dẫn
141
đến việc cải đổi tôn giáo, biến đổi tôn giáo diễn ra nhiều nơi. Sự mâu thuẫn,
phân hóa trong nội bộ đang diễn ra khá sâu sắc làm cho các tôn giáo ra đời ở
Nam Bộ có sự biến động từ lý thuyết và thực hành đức tin. Một khi lợi ích tôn
giáo mang tính đời nhiều hơn tính đạo, sự tác động mạnh mẽ của mặt trái nền
kinh tế thị trường vào nếp sống đạo của chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn
giáo ở Nam Bộ thì chắc chắn những đặc trưng tôn giáo sẽ biến chuyển theo
hình thức khác, có thể nhập thế tích cực hơn, nhưng cũng có thể phức tạp hơn.
Đây là cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng lôi kéo tập hợp lực lượng, can
thiệp vào tình hình xã hội trong nước. Bên cạnh đó là sự suy giảm tín đồ tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ, nhất là những người trẻ tuổi. Họ đổ về các đô thị, khu
công nghiệp để kiếm sống, dẫn đến tình trạng suy giảm số lượng tín đồ của
các tôn giáo này.
- Tâm lý tự ti, mặc cảm vẫn còn ở một số tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Lý
thuyết của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là sự vay mượn, kế thừa, dung hợp các
tôn giáo, tín ngưỡng có trước khiến vị thế của các tôn giáo ở Nam Bộ không cao,
từ đó xuất hiện tâm lí tự ti, mặc cảm. Tính liên kết cộng đồng của một số tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ chưa chặt chẽ vì chủ trương không thành lập tổ chức giáo
hội (nhóm các Ông Đạo). Lực lượng lãnh đạo các tôn giáo và đội ngũ kế thừa
hụt hẫng, chủ yếu do không có trường đào tạo chức sắc chuyên nghiệp.
- Một số vấn đề phát sinh, cần chú ý. Một số tôn giáo ra đời ở Nam Bộ,
nhất là PGHH, vốn chủ trương không xây chùa, nhưng hiện nay xin xây chùa
mới. Hoạt động của phòng thuốc nam liệu có còn phù hợp khi tiêu chuẩn về y tế
đòi hỏi khắt khe hơn; hệ thống y tế, khám chữa bệnh của nhà nước đầy đủ ở các
cấp; giá thuốc, chủng loại thuốc Đông - Tây đa dạng, phong phú đáp ứng đầy đủ
cho người bệnh ở vùng sâu vùng xa, lực lượng thầy thuốc phải đạt chuẩn chuyên
môn theo quy định. Việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm ở những “bếp ăn”,
an toàn giao thông với trường hợp xe cứu thương,… là những vấn đề cần quan
tâm đối với các tôn giáo ở Nam Bộ hiện nay. Vì vậy, chúng tôi có một số khuyến
nghị đến các tổ chức tôn giáo ra đời ở Nam Bộ như sau:
142
Mỗi tổ chức tôn giáo phải nghiêm túc tinh thần thượng tôn pháp luật. Chỉ
khi thực hiện đúng pháp luật, các tôn giáo mới đảm bảo hoạt động tôn giáo thuần
túy được Nhà nước bảo hộ. Điều đó cần vai trò to lớn của đội ngũ chức sắc, chức
việc. Họ phải bỏ lại phía sau mặc cảm, định kiến, sai lầm do vô ý hay chủ ý của
một số cá nhân, tổ chức ở những giai đoạn lịch sử trước đây, tự hào với những
giá trị mà tôn giáo của mình đóng góp cho dân tộc.
Các tổ chức tôn giáo cần tăng cường cảnh giác trước những âm mưu thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo. Một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài tôn giáo đã lợi
dụng những đặc trưng tôn giáo, nhất là tính chính trị, để xuyên tạc chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ngăn chặn việc lợi
dụng hoạt động từ thiện xã hội của một số tổ chức, cá nhân tôn giáo vì những
mục đích khuếch trương danh tiếng, truyền bá tôn giáo trái pháp luật,v.v...
- Quan tâm, chú ý đến đội ngũ chức sắc, chức việc có thái độ tích cực.
Phần lớn chức sắc, chức việc các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ hiện nay đã lớn
tuổi, khả năng thích ứng với sự thay đổi cuộc sống có phần hạn chế. Vì vậy, cần
quan tâm đến lực lượng kế thừa có khả năng lãnh đạo Giáo hội. Trong việc bầu
cử, bổ nhiệm, công cử chức sắc, chức việc các tổ chức tôn giáo cần phải hết sức
chú ý đến lộ trình, quy hoạch, đào tạo, đặc biệt là đạo đức của người được bổ
nhiệm. Nếu không cẩn trọng, bổ nhiệm những chức sắc, chức việc có nhiều tham
vọng bất chính, vụ lợi cá nhân, đạo đức suy thoái,... không những làm giảm uy
tín của bản thân họ mà còn tổn hại đến tổ chức tôn giáo, giá trị tốt đẹp mà những
bậc tiền bối đã dày công gây dựng.
- Củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức tôn giáo. Giáo hội là tổ chức hành
chính đạo điều hành các hoạt động tôn giáo theo pháp luật và giáo luật. Hầu hết
các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ theo hình thức cư sĩ tại gia, chùa chỉ là nơi sinh
hoạt lễ nghi. Dù vậy, vẫn cần sự ổn định về tổ chức hành chính đạo để các tổ
chức tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích hành đạo.
Do đặc thù về lịch sử và điều kiện, từng có thời gian, các tôn giáo nội sinh
ở Nam Bộ ít quan tâm đến tổ chức đạo nên sinh hoạt tôn giáo có phần bị suy
143
giảm. Một số cá nhân, nhóm tổ chức lợi dụng danh nghĩa tôn giáo có những hoạt
động trái pháp luật.
Một trong những khó khăn đối với các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là lực
lượng chức sắc, chức việc đang hụt hẫng đáng kể, khó đảm bảo được đạo sự của
thế hệ trước trao lại. Trong khi đó, với BSKH, PGHNTL, TAHN, việc đào tạo
chức việc kế cận rất ít hoặc gần như không có. Ngoài lý do ít tín đồ, hiện tượng
này còn do truyền thống của BSKH, TAHN, PGHNTL thực hiện truyền thừa
(cha con) hoặc truyền hiền (người có uy tín), không tổ chức đại hội toàn đạo như
đạo CĐ, PGHH và TĐCSPHVN.
Để giải quyết những khó khăn này, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có nhiều
thay đổi nhằm củng cố tổ chức và hoạt động tôn giáo. Đội ngũ lãnh đạo tổ chức
giáo hội cần được quan tâm đào tạo giáo lý, kỹ năng quản lý. Cơ sở thờ tự cần
được đầu tư nâng cấp và mở rộng. Một số nội dung trong Hiến chương cần được
điều chỉnh, bổ sung nhằm phù hợp với môi trường xã hội và quy định pháp luật.
Các khoa tin học, ngoại ngữ cần được lưu tâm bồi dưỡng trong các trường lớp
đào tạo chức việc để phục vụ tốt hơn cho đạo sự.
Gần đây, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ rất quan tâm củng cố tổ chức giáo
hội; lãnh đạo tích cực và đóng góp hiệu quả nhiều mặt cho việc điều hành tôn
giáo đi đúng tôn chỉ, tập hợp tín đồ thực hiện các hoạt động tôn giáo trong các
ngày lễ đạo, các hoạt động từ thiện xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức này còn nhiều
khó khăn, thiếu kinh nghiệm trong hướng dẫn tín đồ tham gia tốt hơn nữa việc
đạo và việc đời, phát huy hoạt động xã hội của các tôn giáo. Thời gian gần đây,
phần lớn tổ chức tôn giáo và lực lượng tôn giáo thể hiện tốt vai trò tích cực trong
các mặt hoạt động, nhất là hoạt động từ thiện xã hội, nhưng không vì thế mà chủ
quan trước các vấn đề lợi dụng tôn giáo có thể tiếp tục xảy ra.
Vì vậy, Ban Trị sự, Hội đồng Trị sự, Hội thánh, Ban Quản tự các tổ chức
tôn giáo ở Nam Bộ cần phải tiếp tục kiện toàn, bầu chọn những chức sắc, chức
việc xứng đáng để lãnh đạo tổ chức giáo hội và xây dựng lực lượng kế thừa đủ
khả năng thay thế cho thế hệ lớn tuổi. Có vậy, tổ chức tôn giáo mới có được định
144
hướng hoạt động gắn liền với lợi ích của tín đồ, hạn chế những biểu hiện tiêu cực
và ngăn ngừa các hoạt động lợi dụng tôn giáo.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ hầu hết đề cao tinh thần từ bi hỷ xả, cứu
khổ cứu nạn, cứu nhân độ thế. Ngày nay, nhiệm vụ lớn lao của tổ chức các tôn
giáo là làm sao để những giá trị của tôn giáo được phát huy, nhân rộng các mô
hình tốt mới mang đến đời sống tốt đẹp cho tín đồ và xã hội. Mà trọng tâm của
các tổ chức tôn giáo là công tác từ thiện xã hội đã thành công bấy lâu nay, tạo
hình ảnh tốt đẹp đến xã hội về đức hạnh của tín đồ tôn giáo nội sinh Nam Bộ.
Tiểu kết chương 4
Giá trị đặc trưng của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX thể hiện qua việc góp phần làm sống động đời sống tôn giáo của cư
dân Nam Bộ. Các tôn giáo này đáp ứng được nhu cầu tâm linh cư dân vùng đất
mới bằng những hình thức cư sĩ tại gia dễ tiếp cận, dễ thực hành. Cùng với đó là
giá trị của sự hòa hợp, tiến bộ tôn giáo. Dù hàng loạt Ông Đạo xuất hiện, nhưng
không hề diễn ra sự xung đột giữa các tôn giáo này với nhau và với những tôn
giáo có trước, bởi sự kế thừa, dung hợp uyển chuyển, sáng tạo của các tôn giáo.
Trên cơ sở giữ gìn và tôn vinh văn hóa Việt, truyền thống thờ cúng Tổ tiên là nội
dung xuyên suốt trong tâm thức người Việt ở Nam Bộ được thể hiện qua các tôn
giáo, giữ vị trí then chốt trong đời sống tâm linh. Đó còn là sự khẳng định của
đặc tính bình đẳng, dân chủ của người Việt. Người Việt bất luận giàu sang hay
nghèo khó đều bình đẳng với nhau trước tôn giáo. Đặc biệt là tinh thần thiện
nguyện của các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Họ tham gia các hoạt động từ thiện xã
hội bằng tấm lòng từ bi, không vì danh vọng. Hoạt động thiện nguyện của các
tôn giáo ngày càng lan tỏa đến khắp vùng Nam Bộ, tiếp tục góp phần tạo nên đặc
trưng của các tôn giáo nội sinh Nam Bộ.
Tuy nhiên, một số đặc trưng tôn giáo về lý thuyết tôn giáo, thuyết Mạt thế
lý giải hiện tượng tự nhiên và xã hội tạo nên tâm lý hoang mang, lo sợ của tín đồ
trước viễn cảnh thời Hạ nguyên sắp diễn ra. Và hơn hết tính chính trị của của các
tôn giáo này. Đây là nội dung phức tạp, nhạy cảm mà các tôn giáo ra đời ở Nam
Bộ bị lợi dụng, bị kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
145
Một số khuyến nghị đưa ra liên quan đến các cơ quan làm công tác tôn
giáo và tổ chức các tôn giáo nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của đặc trưng các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ. Một khi thực hiện đúng giáo
luật và pháp luật thì tôn giáo sẽ được Nhà nước bảo hộ, tạo điều kiện phát huy
giá trị của tôn giáo. Đồng thời, đó là biện pháp đấu tranh ngăn chặn với những
hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng, gây tổn hại đến lợi ích và
văn hóa dân tộc mà các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã dày công gây dựng.
146
KẾT LUẬN
Cùng với truyền thống dân tộc khởi nguồn từ Đồng bằng Sông Hồng,
những tiền đề lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đặc tính lưu dân Việt và
những tôn giáo, tín ngưỡng có trước là gốc rễ hình thành các tôn giáo ở Nam Bộ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các tôn giáo BSKH, TAHN, PGHNTL, PGHH,
TĐCSPHVN, CĐ luôn chứa đựng những hằng số của tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Trời, Tam giáo,... trong mối quan hệ
dòng họ và làng xã vùng Đồng bằng Sông Hồng, để khi đến vùng đất Nam Bộ,
chúng được sử dụng một cách sáng tạo, dung hợp với những yếu tố mới, trở
thành đặc trưng trong bối cảnh thời cuộc nhiều bức bách.
Đặc trưng các tôn giáo ở Nam Bộ nổi bật là phương cánh cứu thế. Mục
đích mà các tôn giáo này hướng đến là cứu thế trên tinh thần nhập thế, là thực
hiện đạo lý ở đời. Vì lẽ đó, ảnh hưởng của các tôn giáo này chỉ giới hạn ở một số
khu vực, vùng miền. Điều này lý giải vì sao chúng không cực đoan và kỳ thị
nhau, mà luôn dung hợp, tiếp biến một cách xuất sắc trong bối cảnh Nam Bộ
phức tạp lúc bấy giờ.
Các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đã nâng đạo lý làm người, một truyền thống
tốt đẹp của người Việt lên thành nội dung chủ yếu của giáo lý, thành pháp môn
tu hành. Với đạo lý đó, ngoài việc đáp ứng nhu cầu tâm linh, thì chức sắc, chức
việc, tín đồ các tôn giáo này có nhiều đóng góp cho hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trên tinh
thần cứu thế và nhập thế cao độ.
Đóng góp của nghiên cứu đặc trưng tôn giáo ra đời ở Nam Bộ không dừng
lại ở việc giải thích biểu hiện những đặc trưng đó, mà quan trọng hơn là việc
khẳng định bản chất của tôn giáo, định danh tôn giáo, giá trị tốt đẹp hoặc minh
chứng vấn đề phức tạp, đáng lưu ý đối với biểu hiện của các tôn giáo; giá trị
trong việc tìm ra quy luật quy luật hình thành và phát triển của tôn giáo; góp
phần làm rõ sự biến đổi và đặc trưng các hiện tượng tôn giáo mới trong giai đoạn
147
hiện nay, cùng những khuyến nghị đối với các cơ quan làm công tác tôn giáo
trong thời kỳ mới.
Dù các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có lịch sử chưa dài lâu, nhưng sự đóng
góp của chúng cho tiến trình phát triển của dân tộc rất to lớn trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo. Những thành tựu đó không phải
đương nhiên, mà một phần do công sức của những người dân Nam Bộ chất phác,
trung kiên, trọng nghĩa, nương theo giáo lý tôn giáo, cố kết cộng đồng, xây dựng
lực lượng chống cường hào và ngoại xâm.
Dù trong lịch sử, một số chức sắc và tín đồ của các tôn giáo ở Nam Bộ có
sự dao động lập trường, nhưng đó là điều khá bình thường trong bối cảnh xã hội
Nam Bộ đương thời. Vấn đề là sự ghi nhận và tôn trọng của lịch sử dân tộc đối
với đóng góp chung của đồng bào các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ trong suốt
chặng đường đã qua, phát huy những giá trị đó và có giải pháp vừa chủ động vừa
linh động nhưng kiên quyết với những sự việc lợi dụng tôn giáo gây tổn hại đến
đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ sự hòa hiếu tôn giáo, chống phá Đảng và Nhà nước.
Vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng tổ chức giáo hội, chức sắc, chức việc và
tín đồ các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ đang tiếp tục thể hiện sự nhập thế tích cực.
Họ dấn thân vào các hoạt động thiện nguyện cộng đồng. Họ làm điều đó vì tinh
thần nhân nghĩa, lợi ích nhân văn tôn giáo. Những tín đồ thuần thành của các tôn
giáo ra đời ở Nam Bộ đều thấm nhuần lời dạy các bậc tiền bối của mình: “Không
làm anh hùng cũng làm Bồ tát”. Điều đó phải được ghi nhận, giữ gìn và phát
huy. Sự ghi nhận khách quan, công bằng cùng với thái độ ứng xử phù hợp với
tôn giáo là cách thức tốt nhất trong công tác tôn giáo nhằm hạn chế những mặt
tiêu cực của tôn giáo./.
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Xuân Hậu (2018), Thực hành “Tu nhân” của các tôn giáo nội sinh
ở Nam Bộ, Sở Nội vụ An Giang – Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện
Hàn Lâm KHXH Việt Nam, Hội thảo Đa dạng tôn giáo ở khu vực Tây
Nam Bộ hiện nay và định hướng chính sách, An Giang.
2. Nguyễn Xuân Hậu, Huỳnh Bửu Trân (2018), “Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà
Lơn, Tôn giáo nội sinh góp phần làm phong phú hệ thống tín ngưỡng, tôn
giáo ở Tây Nam Bộ”, Hội thảo khoa học Quốc tế, Triết lý nhân sinh của
người dân Nam Bộ, Assumption University of Thailand, An Giang
University, Justus-Liegig-Universitat Giessen, Nxb Đại học Cần Thơ.
3. Nguyễn Xuân Hậu (2018), “Các Ông Đạo khai lập Phật giáo Hiếu Nghĩa
Tà Lơn”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 8 (176)
4. Nguyễn Xuân Hậu (2018), “Tìm hiểu đặc điểm kinh sách, giáo lý Phật giáo
Hiếu Nghĩa Tà Lơn ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo số 11 (179)
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Phan An (2008), Người Nam Bộ dưới góc nhìn tôn giáo, Nxb Khoa học Xã
hội, TP. Hồ Chí Minh.
02. Ban Tôn giáo tỉnh An Giang (2017), Báo cáo tình hình hoạt động tôn giáo
năm 2017, An Giang
03. Ban Phổ truyền giáo lý Phật giáo Hòa Hảo (1966), Sấm giảng thi văn giáo
lý, Trung ương Phật giáo Hòa Hảo, An Hòa tự ấn hành, An Giang
04. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (1999), Dưới bóng Cội tùng, lời sấm của đức
Phật Trùm (bản in đánh máy), Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành nội bộ, An
Giang.
05. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (1999), Giảng Giáp Thìn Thầy ở Gò Công
(bản in đánh máy), Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành nội bộ, An Giang.
06. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (2000), Giảng Mùa Đông, (bản in đánh máy),
Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành nội bộ, An Giang.
07. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (1999), Giảng xưa căn gốc ông bà (bản in
đánh máy), Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành nội bộ, An Giang.
08. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (2000), Mười điều khuyến tu của Đức Phật
Thầy Tây An (bản in đánh máy), Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành nội bộ,
An Giang.
09. Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự (2000), Sấm giảng Người đời, giảng xưa của
ông Sư Vãi Bán Khoai (bản in đánh máy), Bửu Sơn Kỳ Hương ấn hành
nội bộ, An Giang.
10. Ban Trị sự Trung ương Giáo hội TĐCSPHVN (2019), Báo cáo hoạt động
phật sự 5 năm, nhiệm kỳ II (2014-2019)
11. Nguyễn Công Bình (chủ biên) (1990), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb Văn Hoá - Thông Tin, Hà Nội.
12. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 01, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150
14. C.Mác Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Thanh Căn, Huệ Khải (2009), Tìm hiểu Kinh sám hối đạo Cao Đài, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
16. Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (2007), Lịch sử quan phủ
Ngô Văn Chiêu (1878-1932), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
17. Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (2014), Ngọc Đế chơn truyền Tân ước Tri
nguyên, Hội Thánh Bạch y Liên đoàn Chơn lý, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
18. Trương Văn Chung (2017), Chuyển đổi tôn giáo, một số vấn đề lý thuyết và
lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia HCM.
19. Vũ Văn Chung (2016), “Hiện tượng tôn giáo mới” ở một số tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học KHXH&NV,
Hà Nội.
20. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2008), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển 2,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
21. Chu Xuân Diên (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.Giáo Dục, Hà Nội.
22. Lê Tâm Đắc (2004), Tìm hiểu về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Tiểu
luận chuyên đề: Tôn giáo, tín ngưỡng của các dân cư vùng đồng bằng
sông Cửu Long, Viện KHXHVN, Hà Nội.
23. Lê Tâm Đắc (2015), “Mấy đặc điểm về các hiện tượng tôn giáo mới ở miền
Bắc hiện nay”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 04 (142), tr. 92-123.
24. Đặng Thế Đại (1999), “Sự đối lập và tương đồng giữa đạo Cao Đài và đạo
Hòa Hảo”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Số 2, tr.38-46.
25. Đại Đại Đặng Thế Đại (2008), “Tính đặc sắc Nam bộ và truyền thống văn
hoá Việt Nam qua một dòng tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4,
tr.43-52.
26. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (1936), Đại Thừa Chơn giáo - Dưỡng Sanh tánh
mạng, Tòa Thánh Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
27. Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (1950), Đại Thừa Chơn giáo, Cao Đài Đại đạo
Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh, Nxb Tam Giáo Đồng Nguyên.
151
28. Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (1972), Thánh Ngôn Hiệp tuyển trọn bộ, Tòa
Thánh Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
29. Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (1978), Quốc đạo Nam Phong, Tòa Thánh Cao Đài
Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
30. Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (2000), Thánh Ngôn Hiệp tuyển trọn bộ, chú giải,
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
31. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (2011), Lời Thuyết đạo của Đức Hộ Pháp Thiên Liêng
Hằng Sống, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh giữa bản quyền, Tây Ninh.
32. Đại học An Giang, Assumption University of ThaiLand, Justus - Liebig
Universitat Giessen (CHLB Đức) (2018), Triết lý nhân sinh của người dân
Nam Bộ, Việt Nam, phần I - Văn hóa nhận thức và Tôn giáo, tín ngưỡng,
Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế ngày 22/8/2018, Nxb Đại học Cần Thơ.
33. Hà Tân Dân (1971), Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Hệ phái Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Tủ sách Sưu khảo tư liệu Phật giáo Hòa Hảo, An Hòa tự, An Giang.
34. Cao Thế Dung (1983), “Biên khảo Tôn giáo trong dòng lịch sử dân tộc
Việt”, Đuốc Từ Bi, Văn phòng Phật giáo Hòa Hảo Hải ngoại, Bộ mới
số 8, ngày 1/2/1983, P.o.box 3048 Santa Fe Springs Ca 90670.
35. Phan Đức Dư, Nguyễn Minh Dũng (1996), Hoạt động của địch lợi dụng
Cao Đài Tây Ninh thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ,
Thành phố Hồ Chí Minh
36. Lê Anh Dũng (2008), Đất Nam Kỳ, Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài, Nxb
Tam Giáo Đồng Nguyên.
37. Nguyễn Đăng Duy (1997), Văn hoá tâm linh Nam bộ, Nxb Hà Nội.
38. Lê Quý Đôn (1776), Phủ Biên Tạp Lục, Viện Sử Học (tái bản 2007), Viện
KHXH Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
39. Trịnh Hoài Đức (1999), Gia Định Thành Thông Chí, Đỗ Mộng Khương,
Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
40. Mạc Đường (chủ biên) (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
152
41. Minh Đường (2009), Nghi lễ thờ cúng trong đình, chùa, miếu, phủ, Nxb
Thời Đại, Hà Nội.
42. Trần Văn Giàu (1987), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập 1,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
43. Trần Văn Giàu (1997), “Ý thức hệ Tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm
vụ lịch sử”- tập II, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (1998), Địa chí văn hoá Thành phố Hồ
Chí Minh, tập 4, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
45. Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập Trần Văn Giàu, Nxb Quân đội Nhân dân,
Hà Nội.
46. Bùi Văn Hải (2014), Phật giáo Hòa Hảo - Lịch sử và những vấn đề hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam (tập 2), Các vị thần, Nxb Thế giới, Hà Nội
48. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt ở Nam bộ
(1867-1975), Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
49. Nguyễn Văn Hầu (1956), Đức Cố Quản hay là Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa,
Ban quản tự Tòng Sơn cổ tự ấn hành, Đồng Tháp.
50. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm Truyền Phật Thầy Tây An, Ban quản tự
Tòng Sơn cổ tự ấn hành, Đồng Tháp.
51. Nguyễn Văn Hầu (1995), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb Liên Chính, Sài Gòn.
52. Nguyễn Văn Hầu (2017), Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
53. Nguyễn Xuân Hậu (2011), luận văn thạc sĩ Phật giáo Hiếu nghĩa Tà lơn ở
một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Học viện CTQG, Hà Nội.
54. Nguyễn xuân Hậu (2012), “Vài nét về sự ra đời dòng tôn giáo nội sinh ở
đồng bằng sông Cửu Long dưới quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin”,
Công tác Tôn giáo, số 4 (48), tr.10-11+26.
153
55. Nguyễn Xuân Hậu (2013), “Giáo sư Nguyễn Ngọc An - Người khai đạo
Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn”, Công tác Tôn giáo, số 7 (83), tr.53-55.
56. Trịnh Bửu Hoài (1996), Mùa Hội Vía, Văn Nghệ Châu Đốc, An Giang.
57. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Văn hóa tôn giáo với
phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
58. Hội đồng Trị sự Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn (1961), Triết Thánh đạo, An
Bình Tự ấn hành, Kiên Giang.
59. Hội đồng Trị sự Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn (1968), Luật Đạo, An Bình tự
ấn hành, Kiên Giang.
60. Hội Thánh Cửu Trùng Đài (1970), Thánh Huấn, ngày 19 tháng 5 năm Canh
Tuất, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
61. Nguyễn Văn Hồng (2000), Thánh ngôn Hiệp tuyển quyển 1 và 2 hợp nhứt
và chú thích, Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh ấn hành, Tây Ninh.
62. Nguyễn Văn Hồng (2003), Cao Đài Từ Điển (giáo lý – triết lý – danh nhân
- thành ngữ - điển tích, tác giả giữ bản quyền http://www.
caodaism.org/home.htm [truy cập ngày 12/4/2018].
63. Đỗ Minh Hợp (chủ biên) (2005), Tôn giáo lý luận xưa và nay, Nxb Tổng
Hợp TP. Hồ Chí Minh.
64. Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ
Hương - Cao Đài - Hòa Hảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
65. Trần Hữu Hợp (2012), Cộng đồng người Việt Công giáo đồng bằng sông
Cửu Long, Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
66. Đỗ Quang Hưng (2001), ““Hiện tượng tôn giáo mới” mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Nghiên cứu tôn giáo, số 5, tr. 3-12.
67. Đỗ Quang Hưng (2001), Những hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta - Thực
trạng và xu hướng, Kỷ yếu đề tài cấp Nhà nước năm 2001, Hà Nội.
68. Đỗ Quang Hưng (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
154
69. Nguyễn Hữu Hiệp và Nguyễn Văn Hầu (1955), Đức Phật Thầy Tây An đệ
nhất thiên thư, Thới Sơn (Tịnh Biên), An Giang
70. Huyện ủy Tịnh Biên (2013), Nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học năm 2013, Hội Khoa học Lịch sử An Giang, An Giang.
71. Phan Khoang (2001), Việt sử Xứ Đàng Trong 1558-1777, Nxb Văn Học,
TP.Hồ Chí Minh.
72. Vương Kim (1960), Đời hạ nguơn, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
73. Vương Kim (1966), Bửu Sơn Kỳ Hương, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
74. Vương Kim (1975), Đời Thượng nguơn, một xã hội lý tưởng của các tôn
giáo Cơ đốc giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Nxb
Long Hoa, Sài Gòn.
75. Nguyễn Văn Kinh (1928), Hội Lý Xiển Chân Luận, (tái bản năm 1970), Hội
Thánh Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
76. Ngô Văn Lệ (2011), Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó đến đời
sống văn hoá của người Việt Nam bộ, Kỷ yếu đề tài cấp nhà nước năm
2011, Nxb Khoa học Xã Hội, TP. Hồ Chí Minh.
77. Trần Hồng Liên (1996), Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh.
78. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, Nxb.Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
79. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1997), Lịch sử khám phá vùng đất Nam bộ, Nxb TP.
Hồ Chí Minh.
80. Trần Thị Thu Lương (1991), khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873), Nxb TP.Hồ
Chí Minh.
81. Bùi Xuân Mỹ (2001), Tục thờ cúng của người Việt, Nxb Văn Hoá Thông
Tin, Hà Nội
82. Sơn Nam (1989), Lịch sử An Giang, Nxb Tổng hợp An Giang.
83. Sơn Nam (1992), Cá tính của miền Nam, Nxb Văn Hoá, Hà Nội.
84. Sơn Nam (2000), Tiếp cận đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
155
85. Sơn Nam (2003), Miền Nam đầu thế kỷ XX - Thiên Địa Hội và cuộc Minh
Tân, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
86. Sơn Nam (2004), Phong trào Duy tân ở Bắc Trung Nam; Miền Nam đầu thế kỷ
20, Thiên Địa hội & cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
87. Sơn Nam (2009), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
88. Sơn Nam (2009), Nói về miền Nam, cá tính miền Nam, thuần phong mỹ tục
Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Thị Ánh Ngà (2015), Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô
Vi: Quá trình hình thành, phát triển và nếp sống đạo, luận án tiến sĩ
Tôn giáo học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
90. Nguyễn Xuân Nghĩa (1985), “Vài nhận xét về các phong trào tôn giáo cứu
thế ở đồng bằng song Cửu Long, từ cuối thế kỷ XIX đến 1975”, tạp
chí Dân tộc học, số 2/2018.
91. Phan Ngọc (2002), Bản sắc Văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
92. Đức Nguyên (2000), Cao Đài từ điển, Quyển 1&2 Tòa Thánh Cao Đài Tây
Ninh ấn hành, Tây Ninh.
93. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
94. Nguyễn Thanh Phong (2014), “Thờ cúng Quan Công trong các tôn giáo nội
sinh ở Nam Bộ”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (137), tr.120-134.
95. Thạch Phương (chủ biên) (1992), Văn hoá dân gian người Việt ở Nam bộ,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
96. Phan Quang (1981), Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
97. Bùi Kim Quý (2002), Mối quan hệ thời đại, dân tộc, tôn giáo, Nxb Khoa
học Xã hội, TP. Hồ Chí Minh.
98. Trần Văn Rạng (1974), Đại Đạo Giáo lý và Triết lý, Hội Thánh Cao Đài
Tây Ninh ấn hành, Tây Ninh.
99. Nguyễn Hoàng Sa (1999), Đạo Hòa Hảo và ảnh hưởng của nó ở đồng bằng
sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học KHXH&NV, TP.
Hồ Chí Minh.
156
100. Tam Bửu tự (2003), Đào Viên Kinh (bản in đánh máy), Tứ Ân Hiếu Nghĩa
phát hành, An Giang.
101. Tam Bửu tự (2003), Ngũ giáo văn của Đức Bổn Sư Núi Tượng (bản in đánh
máy), Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát hành, An Giang.
102. Tam Bửu tự (2004), Linh Sơn Hội Thượng Kinh (bản in đánh máy), Tứ Ân
Hiếu Nghĩa phát hành, An Giang.
103. Tam Bửu tự, (1967), Linh Sơn hội thượng kinh, Hiếu nghĩa kinh (quyển
thượng, trung, hạ), Nhà in Phật Đường tự, Chợ Lớn - Sài Gòn.
104. Quách Thanh Tâm (2002), “Phật giáo và con người Nam Bộ từ đầu thế kỷ
XX”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6, tr.33-40.
105. Đồng Tân (1967), Lịch sử đạo Cao đài - thời kỳ vô vi, Nxb Cao Hiên, Sài Gòn
106. Đồng Tân (1972), Lịch sử Đại đạo Tam kỳ Phổ độ - Phần Phổ Độ, Nxb Cao
Hiên, Sài Gòn.
107. Đồng Tân (1997), Tìm hiểu đạo Cao Đài, gần 310 câu trả lời của các học
giả nước ngoài như Teb Dutton, Jeremy Davidson, Serguei A.Blagov,
Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
108. Đồng Tân (1998), Tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb Cao Hiên, Sài Gòn.
109. Đồng Tân (1970), Tổng quan Cao Đài giáo, Nhà in Cao Hiên, Sài Gòn
110. Võ Văn Thành (2013), Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Nxb
Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
111. Trần Ngọc Thêm (2006), Những vấn đề xã hội - nhân văn khu vực Nam bộ,
giai đoạn 2005-2010, Đề án nghiên cứu trọng điểm, Đại học Quốc Gia
TP. Hồ Chí Minh.
112. Hoàng Minh Thiện, Đinh Quốc Bảo và Nguyễn Thanh (2012), 72 chức sắc
tiền khai Đạo Cao Đài, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
113. Tùng Thiên, Từ Bạch Hạc (2008), Hội Long Hoa và sự gián lâm của Phật
Di Lạc, Cao Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
114. Ngô Đức Thịnh (2015), Phân hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157
115. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hoá và phân vùng văn hoá Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
116. Huỳnh Ngọc Thu (2010), Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong
bối cảnh văn hóa Nam Bộ, Luận án tiến sĩ Nhân học Tôn giáo, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
117. Nguyễn Đăng Thục (1959), Triết lý văn hóa khái luận, Sài Gòn, Nxb Văn
Hữu Á Châu, Sài Gòn.
118. Đinh Quang Tiến (2017), Giá trị văn hóa của Cao Đài trong đời sống cư dân
Nam Bộ, Luận án Văn hóa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.
119. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
luận văn thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh.
120. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2007), Giới luật Phật pháp tu hành, Nxb
Tôn Giáo, Hà Nội.
121. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2007), Phu Thê Ngôn luận, Nxb Tôn
Giáo, Hà Nội.
122. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2007), Phước Huệ song tu, Nxb Tôn
Giáo, Hà Nội.
123. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2008), Phật học vấn đáp, Nxb Tôn Giáo,
Hà Nội.
124. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2008), Phương pháp kiến tánh, Nxb Tôn
Giáo, Hà Nội.
125. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2008), Phương pháp thực hành Đạo
Đức, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
126. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2008), Phương pháp tu hành phước huệ
song tu, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
127. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2014), Hiến Chương Tịnh độ Cư sĩ Phật
hội Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.
128. Nguyễn An Tịnh (sưu tầm) (1996), Nguyễn An Ninh, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
129. Trương Văn Tràng (1970), Đại Đạo Giáo lý, Cao Đài Tây Ninh giữ bản
quyền, Tây Ninh.
158
130. Lê Văn Trung (1964), Phương châm hành đạo, (tái bản năm 1970), Cao
Đài Tây Ninh giữ bản quyền, Tây Ninh.
131. Nguyễn Văn Trung (2015), Hồ sơ về Lục Châu học, Tìm hiểu con người ở
vùng đất mới, Dựa vào tài liệu văn, sử bằng Quốc ngữ ở miền Nam từ
1865 - 1930, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
132. Trung ương Phật giáo Hòa Hảo (2017), Báo cáo Sơ kết hoạt động từ thiện
xã hội giữa nhiệm kỳ IV và định hướng hoạt động từ thiện xã hội
những năm còn lại, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
133. Tạ Chí Đại Trường (1989), Thần, Người và Đất Việt, Nxb Văn Nghệ, Sài Gòn.
134. Tạ Chí Đại Trường (2011), Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861-1945), Nxb
Tri Thức & Nhã Nam, TP. Hồ Chí Minh.
135. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1995), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
136. VI.Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb Tiến Bộ, Maxcơva.
137. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2003), Giáo phái Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, TP.
Hồ Chí Minh 6/2003.
138. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2018), Đa dạng tôn giáo ở khu vực Tây Nam
Bộ hiện nay và định hướng chính sách, kỷ yếu Hội thảo khoa học,
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, An Giang 8/2018.
139. Viện Sử Học (1973), Đại Nam thực lục chính biên, tập 28, Nxb Sử học, Hà Nội.
140. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
141. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Đạo Cao Đài hai khía cạnh Lịch sử và Tôn
giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
142. Xuân Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
143. Wikipedia, Hội Tam Điểm, https://vi. wikipedia.org/wiki/hoi_tam_diem,
[truy cập 24/10/2018]
159
* Tài liệu nước ngoài
144. Arnold Toynbee (2000), Nghiên cứu về lịch sử - một cách thức diễn giải,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
145. Gabriel Gobron (1948), Lịch Sử đạo Cao Đài, Nguyễn Văn Hồng dịch, Cao
Đài Tây Ninh ấn hành.
146. Gabriel Gobron (1949), Lịch sử và triết lý đạo Cao Đài, Nguyễn Văn Hồng
dịch, Cao Đài Tây Ninh ấn hành.
147. Georges Coulet (1926), Les Sociétés Secrètes en terre d’Annam (Hội kín xứ
An Nam), Nguyễn Thanh Xuân và Phan Tiến Dụng dịch (2019), Nxb
Hội Nhà Văn, Hà Nội.
148. Lespold Cadìere (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống Việt Nam,
Đỗ Trinh Huệ dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
149. Mel Thomson (2004), Triết học tôn giáo, Nxb Chính Trị QG, Hà Nội.
150. Paul Doumer (1903), Lưu Đình Tuân, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thúy -
dịch, (tái bản năm 2016), Hồi ký Xứ Đông Dương, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
151. Paul Giran (1904), Psychologie du peule annamite (Tâm lý dân tộc An Nam,
Phan Tiến Dụng dịch, (tái bản năm 2019), Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.
152. Philip Taylor (2004) Goddess on the Rise: Pilgrimage and popular religion
in Vietnam. Honolulu: University of Hawaii Press.
153. Robert S. Hartman (1967), Cấu trúc của giá trị: Cơ sở của giá trị khoa học,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
154. Sergei Blagov (1985), The Caodai: A new Religious movement, Luận án
tiến sĩ, Đại học Moscow.
155. Smith, R.B (1977), “An introduction to Caodaim”, tạp chí School of
Oriental and African stuties.
156. Tana Li (2005), “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the
17th and 18th Century”, Journal of Southeast Asian Studies, 3/1988,
theo bản dịch của Lê Quỳnh “Một Việt Nam Khác? Vương quốc họ
Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18”, nguồn: talawas, 26/7/2005.
160
157. Tôcarev, XA (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng, Nxb CTQG, Hà Nội.
158. Werner, Jayne Susan (1981), Peasant Politics and Religious Sectarianism:
Peasant and Priest in the Caodai in Vietnam, Yale University
Southerast studies, New Haven, Connecticut (American).
161
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. NỘI DUNG PHỎNG VẤN VÀ TRÍCH MỘT SỐ PHỎNG VẤN VẤN SÂU
1.1. NỘI DUNG PHỎNG VẤN SÂU BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU VỀ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX (Đối tượng phỏng vấn là chức sắc, chức việc, nhà tu hành)
(Nội dung phỏng vấn này thực hiện đối với các tôn giáo cần có nhiều thông tin hơn để phục vụ cho nghiên cứu đặc trưng như Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam...) ------------------ Phần I. Phần chào hỏi, giao tiếp (Họ và tên, tuổi, chức vụ trong đạo, những công việc được phân tông...)
Phần II. Nội dung phỏng vấn sâu
1. Ông/ bà cho biết vài nét về quá trình ra đời của tôn giáo mình? 2. Ông/ bà cho biết về những người có vai trò quan trọng trong việc sáng lập tôn giáo? 3. Ông/ bà cho biết tín ngưỡng của tín đồ đối với giáo chủ tôn giáo mình như thế nào? 4. Ông/ bà cho biết quá trình truyền bá tôn giáo từ khi thành lập và những thời điểm quan trọng của tôn giáo mình? 5. Ông/bà thấy tôn giáo mình có những giá trị gì mà ông bà theo cho đến nay? (về giáo lý, giáo luật, hoạt động…)
6. Ông/ bà có nghe kể gì về những điều đặc biệt của giáo chủ khi mở đạo, truyền đạo (sáng lập đạo, thuyết pháp, cách thức trị bịnh, những phép thuật...) ? Những điều đó hiện nay còn ghi chép ở đâu? 7. Giáo chủ của tôn giáo ông/ bà có tham gia chống giặc không? Ông/ bà có nghe kể và có được ghi chép ở đâu không? 8. Giáo lý tôn giáo mình đề cập đến việc tu hành ở những nội dung chủ yếu nào?
9. Những quy định của luật đạo với người tu hành ra sao? 10. Cách thức thờ trong đạo có những gì chú ý, thờ vị nào và ra sao? 11. Ông/ bà quan niệm sau khi chết con người ta về đâu? 12. Cách nhận biết tôn giáo mình với những tôn giáo bạn gần gần giống về cách thức hành đạo? (Về giáo lý, giáo luật, hình dáng, trang phục, thờ tự...) 13. Niềm tin thiêng liêng của đạo mình là gì, có ý nghĩa gì qua biểu tượng tôn giáo đó?
14. Ông/ bà làm những gì để tu hành và khuyên tín đồ làm phước ra sao? 15. Những điều gì khiến ông bà tự hào về tôn giáo mình? 16. Những điều gì khiến ông bà lo lắng hiện nay đối với đạo mình? Như tổ chức đạo, tín đồ của đạo, sự tác động của xã hội đối với tôn giáo mình?
162
17. Theo ông/ bà tôn giáo mình cần làm những gì để giữ gìn đạo, đạo lý và tôn giáo mình ổn định phát triển?
Chân thành cảm ơn ông/ bà!
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU VỀ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX (Đối tượng phỏng vấn: nhà nghiên cứu) ------------------
I. Phần chào hỏi, giao tiếp (Họ tên, học hàm, học vị, lĩnh vực nghiên cứu...) II. Phần nội dung phỏng vấn 1. Xin ông/bà có thể đánh giá vài nét về các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ như về bối cảnh, nguyên nhân ra đời?
2. Việc phân chia hai nhóm tôn giáo ra đời ở Nam Bộ là Tây Nam Bộ (khởi đầu từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam), Đông Nam Bộ là đạo Cao Đài, như vậy có hợp lý chưa? Có cần lưu ý gì thêm của sự phân chia này? 3. Mối quan hệ của các tôn giáo thuộc nhóm từ Bửu Sơn Kỳ Hương có gì cần chú ý, những gì là nổi bật, vì sao? 4. Với nhóm Ngũ Minh, nhóm này có vai trò hay mối quan hệ như thế nào để dẫn đến sự ra đời đạo Cao Đài?
5. Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ có được xem là hiện tượng tôn giáo mới không? Nếu được xem là tôn giáo mới, thì hiện tượng này diễn ra như thế nào ở khu vực châu Á?
6. Trở lại nguyên nhân của sự ra đời các tôn giáo ở Nam Bộ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là “khoảng trống tâm linh”? Theo ông/bà, điều ấy có đúng không, vì sao? 7. Theo ông/ bà, về cơ bản các tôn giáo ra đời ở Nam Bộ cuối XIX đầu XX có thể nhận thấy những đặc trưng nào? 8. Vì sao được xem đó là đặc trưng, đặc trưng đó phản ánh điều gì với đời sống tôn giáo, văn hóa, xã hội, chính trị trong bối cảnh Nam Bộ lúc đó? 9. Việc phân chia đặc trưng đó là phổ biến của các tôn giáo ở Nam Bộ hay không? Cần lưu ý đặc trưng đó ở từng tôn giáo như thế nào?
10. Với những đặc trưng vừa đề cập, theo ông/ bà có gọi Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo... cho đến Cao Đài là tôn giáo? Hay một cách gọi nào khác mà một số nhà nghiên cứu đã đề cập như: giáo phái/ đảng phái chính trị/ tôn giáo cứu thế? Rất mong ông/ bà cho biết quan điểm của mình?
11. Tu nhân, nhập thế là phương thức tu hành nổi trội nhất của các tôn giáo này, nếu tạm chấp nhận chia theo hai nhóm tôn giáo Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ thì cách thức này có gì giống và khác nhau?
163
12. Một vấn đề đáng lưu ý của các tôn giáo này là được ra đời trong bối cảnh đất nước bị đô hộ, tính chính trị của các tôn giáo khá rõ nét... đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh. Vậy theo ông/ bà đây có phải là chủ trương không hay là do sự tác động nào khác? Ví dụ như một thế lực chính trị nào khác? 13. Trong bối cảnh hiện nay, những đặc trưng tôn giáo mà vừa rồi chúng ta đã bàn thì chúng có những biểu hiện gì?
14. Những biểu hiện của đặc trưng tôn giáo đang đặt ra những vấn đề gì đối với các tôn giáo này? Nhất là trong bối cảnh mà chuyển biến xã hội rất mạnh mẽ, đòi hỏi tất cả phải thích ứng, vậy ông/ bà nhận thấy xu hướng sắp đến của các tôn giáo này như thế nào?
14. Những biểu hiện đặc trưng tôn giáo đang đặt ra những vấn đề gì đối với việc nhận thức chúng - đây là những tôn giáo được xem là nhóm nhỏ so với các tôn giáo lớn khác?
Xin chân thành cảm ơn ông/ bà! .............................................
(Với nội dung phỏng vấn này, tác giả sẽ chủ động tùy đối tượng phỏng vấn và mục đích phỏng vấn trong quá trình nghiên cứu) 1.2. TRÍCH MỘT SỐ BẢN PHỎNG VẤN SÂU 1.2.1. Phỏng vấn nhà nghiên cứu
Người được phỏng vấn: ĐQH Thời gian: 8h, ngày 12 tháng 12 năm 2018, tại Hà Nội Người phỏng vấn: Tác giả ---------------
Nội dung phỏng vấn TG: Giai đoạn ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ, đó có phải là xu hướng trội của các quốc gia khu vực châu Á hay không ạ?
TL: Nếu mà nhìn trên một cái trục rộng mà em đặt ra vấn đề trong khu vực Đông Nam Á hoặc là trong Đông Bắc Á, hai không gian mà Việt Nam mình hay nhập vào, thì lời khuyên là không quá đi sâu, chỉ cần một nhận định tương đối nào đó thôi. Theo mình, cuối thế kỷ XIX cho đến đầu XX mà vấn đề nghiên cứu theo thời gian nghiên cứu, thì có hai đặc điểm như thế này: Đối với các xã hội Đông Bắc Á nó khác, đó là Đông Bắc Á nó tinh thần chung là nó tiếp tục cái ảnh hưởng của văn minh phương Tây, tư tưởng... ai cũng biết rồi, liên hệ đến nó là ảnh hưởng chuyển biến đến đời sống tôn giáo, nói chung nó có tác động, tuy vậy cần phải nói rằng, khu vực Đông Bắc Á, mình cũng không có nghiên cứu quá kỹ đâu, đối với các tôn giáo nhóm nhỏ địa phương như em nghiên cứu, thì cái ảnh hưởng này chủ yếu là Công giáo và Tin lành cuối thế kỷ XIX. Đấy là Đông Bắc Á. Còn Đông Nam Á thì nó khác mình rất nhiều ở chỗ, bản đồ địa tôn giáo theo mình ở Đông Nam Á cho đến nửa cuối thế kỷ XIX nó đã tương đối ổn định rồi. Các xã hội ở Đông Nam Á tương đối đặc biệt, nó không quá năng động về tư tưởng đâu, mình không nói rằng ở khu vực này nó không có chủ nghĩa về dân tộc, không có phong trào yêu nước, không có phong trào dân tộc, có cả đấy
164
chứ, nhưng nó không quá năng động. Các nước lớn ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng, chịu ảnh hưởng lớn nhất là Công giáo tách ra một bên ở Philipiner rõ rồi, còn nơi khác thì rất bình thường, nhưng số còn lại là chỉ có Hồi giáo thôi. Quy luật tác động của Hồi giáo nó khác, Hồi giáo mà nó đã yên vị ở đấy rồi thì đừng có ngo nghoe những thứ tôn giáo khác, đại thể như thế những nhận định em cố gắng mà nắm lấy. Như vậy, hệ luận rút ra là gì? Khi so sánh thì mình cũng thấy được những cái nét đúng là nét riêng của Việt Nam mình.
Bây giờ mình mới trở lại cái ý thứ ba, mình nói về cái so sánh, riêng miền Nam thì mình đã nói hôm trước rồi, cuối XIX đầu XX, ít nhất trong đời sống tôn giáo ở miền Nam nó có 3 nhân tố, cái này mình đã từng biết trong các cuốn tôn giáo em đã tham khảo, Tạ Chí Đại Trường, bao nhiêu người người ta từng cũng đã từng nói, cái cuối thế kỷ XIX đầu XX, chủ nghĩa thực dân đúng nghĩa là đã ổn định ở miền Nam rồi, đã bắt đầu khai thác rồi, thì ảnh hưởng phương Tây đã đi vào chiều sâu trong đó có tôn giáo, nên mới biết được là đến đầu XX, mấy ông Cao Đài lại lắm người dính với người Pháp như thế, vì đã đi vào chiều sâu rồi, đám ấy nó có địa vị, nó có tiền, nó có trí óc đây này, nó có học tập đây này, nó có bộ óc đã thay đổi rồi, dù nó là tam điểm hay nó là thông linh...gì đấy thì nó có năng động. Cho nên mình mới nói là cái văn minh phương Tây nó đã đi vào chiều sâu rồi, tương ứng với việc khai thác kinh tế, một ý. Một ý thứ hai nữa là rất là quan trọng, với miền Nam nhà mình ấy là cái vấn đề chủ nghĩa dân tộc, thì ở Việt Nam mình cái yếu tố dân tộc nó ảnh hưởng rất là mạnh. Các phong trào mà ta gọi là phong trào chính trị tương lai gần như là Đảng Cộng sản nổi lên ấy, nó tạo nên sự thay đổi và đối với đời sống tôn giáo thay đổi là ở chỗ, kể cả các lực lượng chính trị, cũng như phía các tôn giáo, hai bên đều có sự lợi dụng nhau.... Em hiểu ý không? Đều là lợi dụng nhau hết, đấy là cái vấn đề thứ hai.
Vấn đề thứ ba, đây là mình mới nói với em nó có hệ thống hơn hôm trước, đó là nếu xét mọt cách cụ thể nữa, tùy từng khu vực ở nước Việt Nam thì lúc đó chính xứ Nam Kỳ là nơi khoảng trống tâm linh nó hình thành, điều này dễ giải thích, cái đó mình đã nói kỹ hôm trước rồi. 3 lý do ấy nó khiến cho miền Nam nó có những nét khác trong chuyển biến tôn giáo cuối XIX đầu XX so với các khu vực khác. Đấy, tất cả những gì mình nghĩ được mình trả lời câu thứ nhất. TG: ...Dạ, khoảng trống tâm linh, với giai đoạn đấy, thì khoảng trống ấy nó có liên quan đến nhà cầm quyền định hướng không?
TL: Không! Khoảng trống tâm linh ấy tương đối độc lập, khoảng trống tâm linh là gì (?), vùng đất mới, cư dân mới, mình mới đi mở đất mà, chưa lâu, làm gì đã có sâu sắc gì, Nho giáo thì như thế, không đủ cho họ xài, Cao Tự Thanh trong Nam đã nói rất kỹ rồi, Nho giáo không đủ cho, nhiều lúc không đủ cho họ xài nữa, mà ý thức này nọ, ý thức trung quân không mạnh lắm đâu, vua nói đúng thì nó nghe, vua nói sai nó cũng chẳng nghe mà, có đúng không ? mà nó chẳng phải là sâu đậm gì Nho giáo và nó muốn tìm một cái chỗ nương tựa về tinh thần ấy, thì nó nương tựa vào đâu ? Nho giáo thì thế đúng không?. Truyền thống mới đụng vào đây là Campốt đúng không? Đụng qua bên này là truyền thống ... Chămpa đúng không? Đụng đâu cũng là đụng hết. Cho nên nó mới có
165
khoảng trống tâm linh về mặt tư tưởng. Cộng sản thì mon men mãi thì mới vào, tư tưởng dân chủ thì cũng rón rén của Nguyễn An Ninh các thứ đấy, chưa có gì cả... khoảng trống, có thế thôi. Nói tóm lại, khoảng trống tâm linh là gì? Nói một cách cụ thể xa hơn nữa, nó là từ rộng để chỉ cái hệ tư tưởng nó không ổn định, nó chưa có chỗ tựa.
Mà mình nói ngay ở Bắc Kỳ ..., hiện nay .... Cho nên mình mới là người phát hiện ra cái này. Tại sao năm 2001 khi mình tổ chức tôn giáo mới, mình đưa ra luận điểm mà bây giờ rất nhiều người thích. Tại sao cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã nói vấn đề hiện tượng tôn giáo mới hay là đạo mới đạo lạ hay quái quỷ gì... phong trào các Ông Đạo, chỉ có Nam Bộ. Miền Bắc làm gì có, chỉ có ông sư Vương Quốc Chính ở Sơn Tây, thế thì ở miền Trung thì có ông Võ Chứ là dính đến đạo lạ một tí thôi, không đáng kể gì. Nhưng bây giờ đảo lộn hoàn toàn, bây giờ các hiện tượng tôn giáo mới đẻ ra chủ yếu từ Thanh Hóa trở ra đây, chủ yếu là từ Thanh Hóa trở ra đây (lập lại)
TG: Vậy là nó có những điểm tương đồng của khoảng trống? TL: Thì đó là khoảng trống tâm linh đấy, mình đã nói điều đó... mình cũng chỉ nói nó đảo lộn khoảng trống tâm linh là có lẽ miền Bắc...
Khoảng trống tâm linh đó như lúc nãy nói với em đó, khoảng trống tâm linh ở đây, nó là một cái ý nghĩa, phải hiểu nó là cái sự tổng hợp, nó có những yếu tố siêu tinh thần, nhưng nó cũng có những yếu tố tinh thần và nhận thức rõ là hệ tư tưởng, hệ tư tưởng nó không đảm bảo, nó không là bệ đỡ nữa. Hay con người ta sống trong một cộng đồng thì thế nào, thoát ra thế nào được trừ khi..., con người ta sống, sau này không biết như thế nào chứ con người ta phải có một hệ ý thức chủ thể chủ lưu đúng không? Rồi các tư tưởng phụ giúp nữa, nhưng cái chủ lưu là quan trọng nhất, thì của mình là khoảng trống. Đấy, nói như thế là rất là kỹ rồi đấy.
TG: Hôm rồi..., có chia ra 3 nhóm đặt trưng, rồi cũng có bàn đến đặc trưng về tính huyền linh và tính cứu thế. Nhóm thứ hai là tính hỗn dung và tính đơn giản của các đặc trưng. Thứ ba tính dân tộc và tính nhập thế. ... việc chia đó thật sự phù hợp chưa ạ?
TL: Ba cái chia đấy mà bạn phân tích, ừ, mình nhớ lần trước nói rồi. À, mình thấy đều chấp nhận được cả, nếu mà nói tính thì có hai tính dễ nhận thấy rõ hơn đấy. Tức là ta gọi tính là tính nhập thế đúng không thì rất là rõ và tính thứ hai em dùng cái chữ huyền linh í, thì mình cho nó cũng là được thôi nhưng mà nó như thế nào?
Đây là phải có một câu nhận định về loại hình tôn giáo mất rồi. Tức là trên diện miền Nam ấy, tức là cuối XIX đầu XX sinh ra các tôn giáo mà bắt đầu lớn nhất ở miền Nam là phong trào các Ông Đạo đúng không? Thì phải nói rằng Tạ Chí Đại Trường nói là đúng, tức là tính cứu thế rất cao, nghèo đói, khoảng trống các thứ tức là người ta cần tính cứu thế nhưng mà cứu thế với bất cứ loại gì, thực ra tôn giáo mà loại mà phong trào cứu thế luận ấy nó là phổ biến, có đúng không?
166
Cứu thế bằng Kitô giáo là cứu thế vĩ đại nhất, hệ thống lý thuyết đầy đủ nhất, rồi sau đó đến những anh Hồi giáo cũng cứu thê thôi, cũng kể Phật giáo. Thì đấy là cứu thế, cái phong trào này phải là ưu tiên của nó.
Còn cái huyền linh ấy, chỉ là đó là cái phương thức, hình thức thôi. Đấy thì em nên nhấn mạnh. Tóm lại nhé, mình ủng hộ ba cái đó, nhưng nên xếp thứ tự. Cái thứ nhất là tính cứu thế luận, rất đúng. Cho đến tận những năm sau này đến những năm 60 vẫn còn ông Đạo Dừa cơ mà. Đó là cứu thê luận và cái thứ hai nữa là tính nhập thế, thì cái đó rõ quá rồi. Bởi vì các đạo này, người ta không... lớn nhất là đạo Cao Đài, là muốn trở thành tôn giáo của thế giới, các thứ này nọ, đó là tham vọng thôi, chứ còn ngay cả tôn giáo Cao Đài nó cũng nhập thế ghê gớm lắm. Ăn chặt vào nông thôn, khi dân của Nam Kỳ các thứ và tính nhập thế của nó thể hiện trong cả giáo lý, giáo luật dạy. Đạo Hòa Hảo thì, ông giáo chủ khác gì ông Thầy đâu..., ông thầy trường làng đấy. Ông Huỳnh Phú Sổ là phong cách của ông thầy tiên tri nhưng cũng là ông thầy trường làng, ra sấm giảng... đúng không, em đọc sấm giảng chán rồi. Có khác gì ông thầy trường làng có uy tín rồi răn dạy học trò, từ đó nó lan rộng ra xã hội, đó là cái đặc điểm thứ hai nhé. Còn cái đặc điểm thứ ba đó, tức là em dùng chữ huyền linh hay gì đó cũng được thôi nhưng mà có thể nên diễn tả thành một cái xu thế tôn giáo vẫn là xu thế tôn giáo nhóm nhỏ Nam Bộ mà tôn giáo nó thường nó có những hình thức linh hoạt mà thậm chí có cái tính huyền linh, thậm chí mà nó đến mức, thậm chí là cả dễ quân sự hóa, chính trị hóa... À quên, cái chính trị hóa em đẩy nó lên cái đặc điểm thứ hai, là nhập thế. Nó rất dễ, thằng Tây nó chia ra, nó nói là... Có một thằng nó nói, thằng già đây, mình đọc cũng lâu mình quên. Nó có cái nhận xét là đạo của mấy bố miền Nam này là tính dễ tính chính trị hóa với là quân sự hóa là khả năng cao nhất. Đấy vì nó rất thực dụng của những người đứng đầu ấy, người ta, người ta cũng muốn có một cái lực lượng gọi là tôn giáo địa phương, tôn giáo nhóm nhỏ, nhưng mà muốn bảo vệ mình thì nó khó tránh chuyện là chính trị hóa, nó cũng khó tránh sự là quân sự hóa, lại cộng với là tình hình của Nam Bộ nữa. Chính quyền Nam Bộ là chính quyền trung ương thì đương nhiên không thể kiểm soát được, mà đấy là các... nếu như ở phương Tây thì đó là của các lãnh chúa, kể cả Nhật Bản nhưng ở nhà mình thì nó nhỏ hơn, lãnh chúa có tính chút chút thôi có đúng không? Mà là các thủ lĩnh quân sự, kể cả Bình Xuyên các thứ... nó là thủ lĩnh quân sự, như mà nửa ăn cướp nửa... các thứ có đúng không? Đấy nó pha trộn tôn giáo là quân sự là quân sự theo kiểu như thế.
Tóm lại, tán đồng với bạn nhưng bạn phải tính toán đi, lời khuyên của mình tính huyền linh thì có thể nói rằng, nó phải dùng cái mà... bởi vì phong trào các Ông Đạo mà, tính cứu thế nên nó phải sử dụng tất cả cái, tức là các huyền thoại của tôn giáo thôi và thần thánh hóa cáo để che cái này... Thất Sơn núi Cấm đấy, em thấy thì đó là thần thánh hóa rất là cao. Thế thôi, thì nó chi phối, thì đó em cho như là một đặc điểm quan trọng về tổ chức và hành đạo. Đấy, đấy là ý kiến của mình về ba đặc điểm này.
167
TG: Em hướng tính huyền linh đó là cái phương thức, phương thức truyền đạo.
TL: Với hai nữa là khi đề cao tính cứu thế luận, nghĩa là khai thác gần như là giai đoạn cổ điển của tôn giáo đó. Ví dụ như bây giờ em nói là tính cứu thế luận như Tin lành bây giờ, hiện tại bây giờ nó cần quái gì tính cứu thế luận vớ vẩn,..., bây giờ nó cao hơn rất nhiều rồi nhưng mà ở miền Nam thì thế thôi, nó chỉ cần một chút ông Jesus, ông Phật’ vậy là được rồi, Phật sống, Phật Thầy Tây An mà đúng không?
Nó chỉ cần thế thôi, nó dựa vào cái mô típ trong đầu óc loáng thoáng của con người, nó biến cách đi một tí thì đó là miền Nam, thì đó là nồi lẩu, tả phín lù. Tất nhiên cái này, về phần ấy thì em cũng trong một luận án tiến sĩ thì không nên cái gì cũng đòi hỏi thật sâu thì khó nhưng mình đừng để nó sai, mình nói nó tương đối đúng thôi để nó hài hòa với các nội dung khác nữa, đó là lời khuyên của mình. Em hiểu ý không?
TG: Vì khi em đọc các tài liệu, bây giờ vẫn còn một số quan điểm nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, chưa thống nhất được, đương nhiên chưa thống nhất là điều dễ hiểu rồi. ... nhìn nhận là tôn giáo hay là giáo phái như, em có đọc tham luận có ý kiến của ... trong đó về Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, 2004. Cho đến bây giờ thì em nhận thấy các quan điểm đó đều rất trân trọng. Dưới góc độ của ... thì thầy cảm nhận về vấn đề danh xưng tôn giáo đó, mình có thể gọi đó là một tổ chức tôn giáo hay là giáo phái?...
TL: Nếu như mà lời khuyên, cái này nhỏ thôi, đó là kỹ thuật nghiên cứu thôi. Về danh xưng đấy, đương nhiên là cái hiện tượng tôn giáo ở miền Nam, mà ta gọi là hiện tượng các tôn giáo mới hay là đạo mới gì đó, thì nó có nhiều cách gọi khác nhau. Có hai cái, nếu như em gọi là giáo phái, trên thực tế ngay ở miền Nam, 6, 7 mươi năm nay, người ta không thể không dùng được nhưng đừng lẫn cái chữ đó với cái chữ gốc. Thí dụ nhé, bây giờ Phật giáo Hòa Hảo, họ cũng nói họ là một tân Phật giáo đó, đúng không? Mình nói với bạn, Tân Phật giáo đấy, nhưng đó là cách nói tương đối của mấy ông giáo chủ của Phật giáo Hòa Hảo nói vậy. Nếu nó là thế thì phải được cái gốc kia nó thừa nhận, có đúng không? Tôi vẫn nhận ông như là phần của gia đình trong một đại gia đình. Nhưng ông Phật giáo nhà mình có bao giờ nhận Hòa Hảo là anh em con chú con bác đâu.
TG: ngay cả ổng (Phật giáo) không muốn ghép từ Phật giáo vào... TL: Nó không thích, không muốn cho ông mượn từ Phật giáo, cho nên là nó là như thế, nên lời khuyên của mình đối với em là thế này: Vẫn nắm cái lý thuyết ấy nhưng khi em thể hiện phải nói rõ, do cái tình hình biến động của tình hình ấy như vậy, do có cái tính nhập thế, tính thực dụng nữa của các thủ lĩnh tôn giáo, cho nên có rất nhiều những cách phân định không rõ ràng, mà phải dùng một cách tương đối, ngay cả Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, tịnh độ mà lại là Phật hội... thì nó là tạp pín lù của miền Nam, cho nên là 37, 38 ra đời cái nhà Phật ... ông không có sangha thì làm sao, sao ông đòi không có những người tu hành trong tổ chức sangha, thì quy y tam bảo thì nó có cái đó, thì làm sao ông đòi trong nhà Phật của chúng tôi được. Đúng không? Thì đó là mấy cái ý, em để ý mấy cái đó,
168
đừng quá sa lầy vào các cái chỗ... mình nhớ cái hồi còn làm trong miền Nam, thì cũng có cái nghĩ khác nhau đấy....
...Những cái định nghĩa trong giáo phái thì nó cũng chỉ là tương đối thôi, chứ còn ở đây không biết là hồi đó mình nói băng ghi còn đó nhưng không biết nó có được rạch ròi như bây giờ không, chưa chắc mình nói rạch ròi như bây giờ nhưng mình nhớ một cách mang máng rằng, ý của mình là phải như thế, tức là không nên nó trè hoe chữ nghĩa đi thì cái sự vật này nó khó. Thêm nữa, khoa học nó có cho mình một khái niệm nó có những cái tôn giáo nhóm nhỏ mà nó có những sự biến thái hình thể, nó không rơi hẳn vào một cái mô hình cũ nào đã có cả mà thường các tôn giáo nhóm nhỏ là hay như vậy. Đấy thì đấy là về cái giáo phái.
TG: Ngài ba cái nhóm đặt trưng đó ra, giáo sư có lưu ý gì thêm về nhóm của ông Bửu Sơn Kỳ Hương và cái nhóm của ông Cao Đài? Hay một số lưu ý của đặc trưng của nhóm Bửu Sơn Kỳ Hương với nhóm Cao Đài, theo giáo sư thì sự ảnh hưởng của nhóm Minh Sư Đạo?
TL: Hai nhóm nó khác nhau cơ bản là chỗ này, riêng ông Cao Đài thì mình thấy xưa nay anh em nó... mình nói thêm với bạn về Cao Đài nhé, vì mình rất thân với Lê Anh Dũng, bạn biết là một người thân thiết với Lê Anh Dũng,... Anh ấy đúng là người có trình độ nhất về phần lý thuyết. Mình nói vơi Hậu thế này, cái đạo Cao Đài nó rất đặc biệt. Cái đặc biệt thứ nhất mà nãy đã nói rồi, nó những người thành lập có trình độ học vấn thật, thậm chí nó có địa vị xã hội nhất định nữa Lê Văn Trung... toàn là những quan chức ăn lương, mấy phẩy mà ta gọi là cỡ vụ trưởng trở lên cả chứ, cỡ vụ trưởng thời nay, chứ không phải đùa đâu, nó có trình độ các thứ, nó có... nhưng về mặt tính cách thì... một là nó có tham vọng cũng khá lớn, đấy rõ rồi... sử dụng đồng quy, pha trộn một cách rất là cao độ, tích hợp rất là cáo độ một cách ghê gớm.
Điều đó nó cũng phản ánh một cái nữa về phương diện lớn lên của điền chủ và tư sản miền Nam rất là mạnh, nó có khao khát của nó. Và như vậy, cái địa vị xã hội, địa vị kinh tế nhé, một phần địa vị chính trị, cộng với là sự hiểu biết của cái đám thủ lĩnh ấy là nó mới tạo ra một cái thứ tôn giáo nó giống như bên Nhật, đó là như vậy trong các mối quan hệ. Nó tích hợp, muốn khao khát, muốn vươn lên thậm chí không phải là tầm quốc gia mà còn muốn cả thế giới nữa cơ. Thì cái thằng Cao Đài là nó khác.
Bây giờ trở lại, cái mô típ của Bửu Sơn Kỳ Hương, rồi nó phát triển lên thành Tứ Ân Hiếu Nghĩa, có đúng không? Và cuối cùng, đỉnh của nó kết lại là Phật giáo Hòa Hảo thì nó đúng là tính nông dân gắn với dân gian này nọ và có một ý kiến này nữa, nó gọi là các tôn giáo này ngay từ buổi đầu, các cái nhóm này nó đã gắn với một cái tính là tính xã hội rất là cao. Bản thân các nhóm này đều ra đời từ các phản ứng chính trị của nông dân cả, có đúng không (?). Bửu Sơn Kỳ Hương của ông Huyên là hoàn toàn dính đến chính trị cả đấy chứ, rồi ông dùng tôn giáo để ông khoát thêm cái áo vào, ngay từ đầu nó đã là cái lõi của nó là phản ứng chính trị nông dân rồi. Đấy, tất nhiên trong đó có nho sĩ nhưng
169
đứng trên lập trường của nông dân thôi chứ còn không làm gì được đâu, có đúng không? Khác nhau là chỗ đấy.
Tóm lại nhé, cái nhóm Bửu Sơn Kỳ Hương đấy trong giai đoạn này, có hai đặc tính, đó là thứ nhất về hình thức tôn giáo, nó nghiên về cái dân gian, nó dựa vào cái ma thuật, rồi các thứ cứu thế theo kiểu của dân gian, cho nên nó mới pha trộn cả Tứ ân ấy, là ân gia đình, ân tổ quốc... thế tục với là tôn giáo rất là... Phật thì chả bao giờ nó thế cả đúng không? Rồi cả ân Phật nữa đúng không? Cái pha trộn dó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai, gắn với yếu tố xã hội chính trị. Ngay từ đầu nó đã là thế rồi, nó gắn với các phản ứng của nông dân, một số nho sĩ với cái thời cuộc. Thành ra hai cái đó nó khác nhau thành ra không có cái hệ thống lý thuyết của nó, rất là đơn giản, nó không vượt ra được cái vũ trụ luận của Phật giáo, cộng với một ít tín ngưỡng dân gian chấm hết. Nó không thể so với Cao Đài được, Kiểu Cao Đài là bài bản, hệ thống và nó muốn trở thành một tôn giáo tích hợp hẳn hoi. Có đúng không?
TG: Dạ đúng TL (TT):... Đấy, cái đấy là có hai cái lõi thế thôi, em để ý cái đó. Nào, câu tiếp thế nào?
TG: Xu hướng của các đặc trưng đó hiện nay? Rõ ràng tôn giáo nào cũng cần có sự biến đổi, một số tôn giáo đang nghiên cứu đang gặp khó khăn thật sự. Cũng liên quan đến xu hướng, dưới góc độ nghiên cứu của ... cũng như công tác quản lý nhà nước của mình, thì ... thấy luật tôn giáo ra đời... đã sự tác động như thế nào ạ?
TL: Trong, đây là vấn đề thứ 4 em nói. Trong 4 vấn đề thì đây là vấn đề (em Hậu ghi đi), theo ... đây là vấn đề quan trọng nhất trong luận án, tính thực tiễn và giá trị luận án, thậm chí cả tính khoa học nữa thì chỗ này là cao đây này. Còn tất cả những điều mình đang nói với em trên, nghĩ cho cùng em vượt qua thiên hạ đã rất khó. Cái này mới là cái đóng góp của em đây. Vấn đề thứ 4, tức là:
Sự biến đổi, sự chuyển đổi và thách đố chính sách. Đây là cái lớn nhất trong các cái tôn giáo mà em đang nghiên cứu. Cái này mình rất nhiều tâm tư đây. Ở đây mình có mấy ý góp với em.
Cái vấn đề thứ nhất, đó là cái vấn đề biến đổi hoặc chuyển đổi (vừa rồi thấy Trương Văn Chung, mình giúp thầy rất nhiều trong đó có cái...) Cái sự biến đổi của tôn giáo là điều rất bình thường, lúc nào nó chả biến đổi, nhưng cái chuyển đổi mới là quan trọng. Chuyển đổi đừng lẫn với cải đạo, chuyển đổi rộng hơn, tìm quyển sách của thầy Trương Văn Trung, đọc lại cái đó, mới ra cách nay chưa được 1 năm, in ở nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, em đọc chưa? Cuốn đó rất hay, thầy lấy được tất cả các ý kiến của thế giới, dịch nó ra rồi đúc nó lại thôi, lý thuyết về chuyển đổi tôn giáo.
Vấn đề thứ nhất, cái mà nói về chuyển đổi của tôn giáo ở miền Nam hiện nay, mặc dù thầy Trung đưa ra lý thuyết học ở phương Tây này nhưng mà nói chưa ra....
170
Cái khía cạnh nhất chuyển đổi tôn giáo ở miền Nam hiện nay. Cái này bản thân mình, mình vẫn chưa hoàn toàn tự tin hết đâu, phải nghiên cứu thêm. Tức là nghiên cứu mình có một số mẫu nắm cho chắc nè, 1. Cao Đài bây giờ chuyển theo kiểu gì đây (?) ... nó tương đối ổn định, nó không chuyển đổi gì mấy cả. Trong giáo lý, trong hành xử... Cái mà băn khoăn hiện nay là nó cạnh tranh ... băn khoăn là làm sao các hệ phái của Cao Đài quá nhiều thì ... thì cái đó có, thế thôi. Chưa thấy chuyển đổi, cái này có lần mình đã hỏi... chưa trả lời được mình. Nhưng cái nhóm thứ hai, cậu phải nghiên cứu rất rõ, mình đã nói với bạn rồi, tức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Rất rõ, mình đã nói ý này rồi, Hậu xem lại đi. Đấy là một mẫu và thứ ba nữa Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Hòa Hảo, các trí thức giỏi của đạo này họ cũng đã thấy vấn đề rồi. Rất khó em ạ, lối tu tại gia, rồi thông thiên, rồi cái Trần điều, thế rồi mấy ông gánh, các thứ của bên ấy... Em đến đấy nhiều chưa? Đấy, em thấy không, cũng chi bộ sinh hoạt như thế nhưng mà bế tắc lắm, tớ nói thẳng là bế tắc lắm. Nó chưa đủ cái tính hiện đại để chuyển cái đạo ấy cho nó thành tính hiện đại. Cái này nó về lý thuyết nó rất phức tạp, em hãy mở lại cuốn sách của mình, em ghi đi (tôn giáo và tính hiện đại),... Về lý thuyết, mình mới nói thêm tôn giáo và tính hiện đại.
Bây giờ mình quay trở lại nhé, lời kết của mình trong ý thứ nhất, chắc chắn là tôn giáo miền Nam, các loại tôn giáo mà tôi đang nghiên cứu đây, nó phải biến đổi, nó phải chuyển đổi nhưng hiện nay nó vô cùng khó khăn, đường hướng của sự chuyển đổi chưa thật rõ nét. Bởi vì vác đạo này một mặt nó vẫn muốn tồn tại hợp pháp, mà đã tồn tại hợp pháp thì nó phải có giáo lý, giáo luật, đường hướng, hiến chương... đúng không? Được Nhà nước thông qua rồi, bây giờ nó thay đổi rất khó, đúng không? Bởi nó muốn thay đổi thì nó phải có những đầu óc lớn, nó suy nghĩ và nó... ra cơ... đó là 1 cái điều, nhưng mà nó lại có cái điều thứ hai, khổ một nỗi cuộc sống nó vẫn đòi hỏi phải thay đổi thì hiện nay cái thay đổi của nó là đang thay đổi cục bộ. Có thể với đạo này thì hiện nay nó thay đổi là thôi bây giờ tu tập, các thứ thì có khác đi như là Tịnh độ cư sĩ Phật hội đấy thì mình thấy bây giờ nó đang chuyển sang cái tức là gì gỉ, có hai câu nổi, phương châm nó có hai cái là Học Phật - tu thân đấy, đúng không? Thì bây giờ nó chuyển theo cái tu thân nó có thể nó gắn với thị trường và đời sống hơn, bởi vì nếu không nó cũng chết thôi mà, bởi vì mình nói với em rồi, đúng không.
Còn Hòa Hảo ấy, nói với em ... nó cũng lớn và ảnh hưởng của nó cũng ấy, những vấn đề nội bộ ... cũng trong hội đồng tư vấn tôn giáo của mình đấy, thì anh ấy cũng nói với mình về điều này. Tức là chúng tôi cũng biết có những điều rất là hạn chế của...
Một ý nữa, mà ý này em lưu ý thêm: đứng về lý thuyết và nhu cầu thực tiễn, các tôn giáo này cần phải tiếp tục chuyển đổi và có lẽ dự báo sự chuyển đổi thì nó có hai sự điều chỉnh thê này này.
Cái điều chỉnh thứ nhất đấy, là cái điều chỉnh về cái ta gọi là giáo lý, giáo luật. Chắc chắn rồi, nó phải điều chỉnh cái này. Nó giống như nhà Phật khi làm chấn hưng Phật giáo, cách mạng giáo lý, giáo chế, giáo sản... tất nhiên kinh Phật thì chẳng bao giờ dám sửa nhưng cái lý giải kinh Phật vận dụng vào cuộc sống
171
thì có thể sửa. Tức là đọc kinh Phật cũng như đọc kinh Thánh khác nhau. Đó là một cái.
Cái thứ hai nữa là đặc biệt, tức là vấn đề thích ứng trong cái tổ chức và cái sinh hoạt tôn giáo, phải thay đổi rất lớn thì mới giải quyết được và trong cái dự báo này, em chỉ cần nêu ra được 3 cái đạo này có sự mà nói phải có sự thay đổi thì đó là sự thành công với em, người khác chưa nói kỹ được.
Lúc nãy mình mới nói với em có mỗi một chuyện thôi, bây giờ phải dựa trên cơ cấu, tức là dựa trên phòng thuốc. Liệu ... nó còn tồn tại được bao giờ đây. Nhà nước thì như thế, thuốc rẻ như thế, bây giờ... ngày xưa thì nông dân nghèo khổ, ông cho người ta tí thuốc chữa bệnh tốt nhưng mà bây giờ, xin lỗi thuốc online nó bán đầy như thế này, thế mà bây giờ ông lại chịu thuê khóa nữa không bán được, thê là... đào tạo được mấy đâu, nó có đi học nữa đâu mà dại gì nó đi học cái này. Nếu nó là người Tịnh độ thì nó đi học y tá, y sĩ thật sự để nó có việc làm chứ, nó dại gì đi học cái lớp Đông y này để làm cái trò này, nó lấy đâu ra tiền nó sống đây. Hậu thấy không? Rất đúng, cái đấy là cái mình đã phát hiện ra, 3 lần vừa rồi mình đi cùng đoàn chủ tịch khảo sát trong đó, mình nói ngay với các anh lãnh đạo trong Tịnh độ, họ thừa nhận, các bác ấy thừa nhận. Mình đã trao đổi với họ trực tiếp chứ không phải không đâu, tại ngay tại tổ đình Tịnh độ lớn nhất ở quận 8 hay 9 sài Gòn đấy, chỗ anh gì... Ban trị sự của nó đó, đại khái như thế. Cái đó là như vậy, tương tự cái mô típ như thế đấy, em hãy suy nghĩ đi, tức là tôi nêu ra được những vấn đề mà đòi hỏi ở hai trục, nhất định phải có sự diễn giải đổi mới nhất định về phương diện lý thuyết về tôn giáo. Và cái thứ hai về tổ chức và hành đạo, không thể nào không thay đổi được.
Các đạo này (bây giờ mình mới mở dấu ngoặc mình mới nói với Hậu nhé), em đặt một câu hỏi ngược lại: các lực lượng chống đối, thế lực thù địch, nó vẫn còn tồn tại cả thôi, trong Hòa Hảo, trong Cao Đài 2 đạo chính á, nhà nước mình đã bắt tù mấy ông Lê Quang Liêm ..., nhớ không? ... Tại sao cái sự phản ứng của họ không có hiệu quả? Câu hỏi này để nghiên cứu thôi, có đúng không? Tại sao không có hiệu quả mà trước đây ở bất cứ chế độ chính trị nào nó cũng đều có hiệu quả cả. Bây giờ thử hỏi rằng là, bây giờ người dân Cao Đài, Hòa Hảo ... (phần này lược trích...) ........................ Còn vấn đề cuối cùng là vấn đề ... pháp lý, đấy thì cái đó rất là rõ rồi. ........................ Trong cái trường hợp này, thì giải pháp tình thế, đây là của ... thì có những tôn giáo nó đúng là tôn giáo mới. Trong khi đó cũng loại hình tôn giáo mới thì nhà nước lại chặt chẽ ..., nhưng trong đó có mấy cái này cứ tự nhiên công nhận thôi: ... nhưng về mặt pháp lý, phải tìm ra được ngôn ngữ pháp lý, cái logic pháp lý ... chặt chẽ hơn để các tôn giáo vẫn thấy ... thế tục, công bằng... ít nhất phải tạo ra được sự thông cảm cao nhất có thể, hiện nay nó không đâu, hiện nay nó để thế thôi chứ nó không đâu...... chắc chắn sẽ còn nữa đó là vấn đề đạo Mẫu, nó lớn lắm, bây giờ nó lớn lắm, chắc chú biết chứ gì? Bây giờ đạo Mẫu của xứ Bắc kỳ này, bây giờ thực sự là một lực lượng xã hội khá lớn. Thí dụ thế, tóm
172
lại mình đã nói với Hậu là điểm thứ 4 này nè, sự chuyển đổi và liên đới với chính trị, chính sách là vấn đề hay nhất, hãy lưu tâm, chú ý...
TG: ...cũng xoay quanh vấn đề chuyển đổi..., thì với những sự chuyển đổi hiện nay, thấy rằng riêng đối với bản thân tôn giáo đó... dưới góc độ nghiên cứu, ... nói đến tính tổ chức cần phải có sự thay đổi, cái hình thức hoạt động của nó cần có sự thay đổi...?
TL: Theo mình như thế này, ... Không, tôi chỉ nói những điều nó có tính chất khách quan, logic sự vật, đây là logic của tôn giáo học, tôi là người nghiên cứu, tôi dự báo trước, dự báo này nó có thể các hệ luận các tôn giáo tham khảo, thậm chí nhà nước cũng có thể tham khảo. Đấy là vấn đề thứ nhất.
Còn vấn đề thứ hai, vì mình là người của nhà nước, thế tục thì vẫn phải nói rõ tôi nghiên cứu cái này tôi muốn đóng góp về phía nhà nước này, về chính sách, Tôi phải đóng góp. Nói rõ là tôi phải đóng góp. Tôi đóng góp cho nhà nước thì có một nội dung lớn là tôi đóng góp về phía nhà nước. Tất nhiên khi đóng góp như thế tôi không bao giờ tôi bênh nhà nước một cách quá mức mà gọi là phi cả logic nữa, hoặc là chỉ đứng trên cái yêu cầu chính trị chay. Tôi là không bao giờ tôi làm những việc này, tôi bênh nhà nước tôi bênh trên phương diện học thuật. Đấy, hai phương châm đấy cố gắng hài hòa, ngòi bút của mình phải tinh luyện đến mức mình phải đảm bảo những cái đó.
Bây giờ hãy trở lại cái vấn đề thứ nhất, yêu cầu thứ nhất, bây giờ trong sự chuyển đổi, biến đổi của các tôn giáo thì có một phương thức như thế này. Em có thể lấy một vài cái ví dụ tiêu biểu của các tôn giáo thế giới, đấy mà nó đã thành công để mà làm cái gương, đấy thế giới là thê này đây nè, thì không gì khác bằng hai tôn giáo rõ nhất, đó là Phật giáo và Tin lành. Thí dụ, Phật giáo mình nói với bạn có hai cái chỉ số, Phật giáo nhất là Bắc tông, chứ còn Nam tông hơi khác một tí, Bắc tông là gì, tức là tu tạo tâm là chính đúng không? Một cái Phật giáo khép kín tu tại tâm là chính đúng không? Ngộ là thế thôi rồi mới giải thoát đúng không? Mà là giải thoát cá nhân, mỗi cá nhân kết hợp giải thoát tập thể, đó chứng này chứng kia. Đấy rồi cái vấn đề thứ hai, không coi trọng về cái chức, đúng không? Nhà Phật các sangha của nó là nội bộ thôi, tính xã hội rất kém đúng không? Không có, nhưng mà rất là chậm, nhưng cuối cùng thì Phật giáo hiện đại ngày nay thay đổi ngay chứ không phải như trước nữa. Và có như thế thì ngày nay nó mới giữ được vị trí trên thế giới. Đấy cái này nó hơi phức tạp nhưng nó vẫn có thể dẫn đơn giản nhưng vẫn có thể thuyết phục được. Đấy, hình ảnh của Phật giáo trong Vesak bây giờ, đại hội Vesak, ... Bây giờ nó đã có tính quốc tế, hiệp hội quốc tế rất cao rồi. Nhà Phật đấy, các sangha các thứ rất mới ở cấp độ quốc gia, cấp độ khu vực và cấp độ toàn cầu. Rồi ở phương diện cái mà ta vừa gọi tức là cái triết lý, rồi là Phật pháp ấy, nó có những điều chỉnh, tức là đối với đạo Phật, cái thay đổi lớn nhất của nó, chắc chắn cũng là một chủ nghĩa nhập thế mới thôi. Đấy tính hiện đại đòi hỏi nó phải nhập thế và bây giờ Phật giáo rất giàu, trở thành Phật giáo khác hẳn ngày xưa rồi. Ngày xưa càng nghèo càng tốt, càng nhỏ càng tốt, càng xa càng tốt, đúng không? Như mình nói với em đấy,
173
nhưng bây giờ càng to càng tốt, càng cao càng tốt, càng giàu càng tốt, đúng không? Đấy là rất rõ, vậy thì xin các anh đặc biệt là Tịnh độ cư sĩ Phật hội hãy nhìn vào đấy, ông không thể nào ông chơi cái trò này mãi được đâu. Chắc chắn như thế, ví dụ thế. Mà ngay cả cái đạo thuộc đề tài như anh em Hòa Hào, à quên như anh em Cao Đài thì thí dụ như việc gọi là phổ thông giáo lý mà, cách dạy như thế, ... Em đọc em thấy nó chán ngắt, nghĩa nó đụng vào như thế, trong khi đó Công giáo, Tin lành càng ngày nó càng hiện đại, nhất là Tin Lành.
Cái lời bài giảng của các linh mục, các mục sư rất thông minh và gắn với cuộc sống đến bây giờ, nhưng Cao Đài... mà toàn âm Hán Việt thôi các thứ, thì làm sao, nói chung thì bọn trẻ làm sao nó nghe được, nó nễ bố mẹ nó thì nó đi vào thánh thất nó nghe một tí nó ra vẻ đạo đức nó phải nghe thôi, không bao giờ nó nghe cái đó cả, có đúng không?... Thỉnh thoảng ông lại in... thế thì bây giờ làm gì người ta nghe được, có đúng không? Mà cơ bút ấy ngày xưa thì nó là hay, bởi cái đất Nam Bộ thập kỷ 20, 30 thì những đàn cơ ấy nó cũng xúc động gây được lòng người thật, chứ còn với hệ thống ngôn ngữ mấy chục năm nay nó chẳng có thay đổi gì mới nữa thì bây giờ...
.............. TG: Em đi vào các cơ sở của họ, chủ yếu là nhóm của Bửu Sơn Kỳ Hương thì việc tiếp xúc của các vị gọi là có chức vụ trong đấy...
TL:... tính nhập thế kém, anh không hòa đồng. Một lý luận chung, khắp thế giới người ta đều nói rằng, nếu tôn giáo mà cứ biệt lập với xã hội thì cái tôn giáo đó chỉ còn teo dần lại thôi, ngày xưa thì còn có thể được... TAHN, lâu quá mình chưa trở lại nhưng mình đủ sức hiểu, lần mình đi lần theo bước chân của Huỳnh Phú Sổ đó mà khi cụ lên đó làm đệ tử trên đấy, tu thân trên đấy rồi về lại dưới Tổ Đình An Hòa tự... Tóm lại, Hậu chỉ cần dự báo một số cái, không cần quá sâu đâu, vì mình
đang nghiên cứu thì phần dự báo đó sẽ lôi cuốn người ta. .................... TG: Dạ, em cảm ơn nhiều ạ
1.2.2. Trích phỏng vấn sâu chức sắc, chức việc các tôn giáo CAO ĐÀI BẠCH Y KIÊN GIANG
Người được phỏng vấn: HT - Chức sắc Cao Đài Bạch Y Ngày phỏng vấn: 19 tháng 3 năm 2019 Người phỏng vấn: Tác giả Địa điểm phỏng vấn: Mong Thọ, Châu Thành, Kiên Giang
------------------- Nội dung phỏng vấn
TG: Quan niệm của Cao Đài về mê tín dị đoan thưa bác? TL: Thầy có dạy rằng trên đời đều do sự sắp đặt của Thượng đế, nên mình đừng có cầu khấn làm gì, không thay đổi được gì đâu, mất công, càng làm cho đau khổ, tốn kém... đó là mê muội. Cái gì mê tín thì mình bỏ, không cần thiết thì bỏ
174
Còn ai mê muội thì vẫn làm, không đúng theo lời Thầy dạy đâu, khổ thân thôi.
TG: Vậy đạo mình có biện pháp gì không bác? TL: Cũng không có biện pháp gì đâu, chỉ khuyên răn thôi, chứ làm sao xử phạt được gì, chuyện đó là khác, có xử phạt khác.
TG: Xử phạt khác là sao ạ? TL: Đó là uy quyền của Cao Đài, con người hong có làm thay được đâu. TG: thưa Bác, đạo Cao Đài có nhiều chi phái, điều đó là do đâu ạ? TL: Cao Đài là như vậy chứ, có hơn chục chi phái, xưa giờ vậy rồi, hong có lạ đâu. Tại sao lại như thế, ai cũng biết... ai biết đạo Cao Đài cũng đều biết, nhưng như thế không phải mâu thuẫn đâu mà do Thương đế sắp đặt đó, trong kinh dạy vậy đó. Thượng đế sắp đặt để làm gì, không phải tạo ra sự tranh giành gì đâu mà có nhiều để có phát triển, có nhiều con con đường để lựa chọn thôi. Không ai băt ai đi theo ai đâu, theo sáp đặt thì đi theo quyền của mình nhưng cũng đều hướng về Thượng đế thôi. Cũng tùy những điều kiện nữa, tùy những chi nữa, có sự cải tiến thôi, không phải cố định bắt là phải như thế, như thế... tùy điều kiện nhưng không ra khỏi quy phạm Cao Đài.
TG: Nhưng khác nhau vậy có gây ra điều gì không bác? TL: Đó, đã nói lúc xong, không khó khăn gì đâu, đường nào mình đi cũng có lý của Cao Đài, có cách tạo dựng nên hình ảnh đạo đức, đạo lý Cao Đài. Các tôn giáo xưa cũng vậy mà, các kỳ phổ độ cũng vậy mà. Thượng đế chia ra nhiều tôn giáo để phù hợp với cái căn, cái tôn giáo nào cũng đều phổ độ con người, nhưng Cao Đài là thống nhất, dung hòa tất cả các tôn giáo để lãnh đạo chung, nhưng trước khi lãnh đạo chung thì mỗi cái đều có cái riêng của mình, không có điều gì khó khăn đâu. Quan trọng là các chi phái có làm đúng với điều đức Cao Đài Tiên Ông dạy hay không mà thôi, đó là bản thân từng chi phái, có ảnh hưởng đến cái chung nhưng không lớn và rồi cuối cùng cũng sẽ thống nhất mà thôi.
TG: Thưa Bác, tín đồ Cao Đài của mình, theo Bắc có giữ đúng luật đạo không ạ, này con không dám bàn sâu tìm hiểu, nhưng theo bác thì điều này có ảnh hưởng không với tổ chức tôn giáo mình?
TL: luật pháp ở đời phạt tù, tử hình mà người ta còn phạm... thì người theo đạo, bất kể đạo nào, người ta có chấp hành đúng hết luật không? Khó, khó lắm, mình phải biết điều này, tại mình đang tu mà, mà không thể không hoàn toàn không vi phạm được, cái quan trọng là mức độ nào và có sửa hay không nữa, do đức Tiên Ông hết, Tiên Ông quy luật như thế thì sẽ có thưởng phạt, có đến Long Hoa, không gì lo việc này. Với lại phong tục của con người, truyền thống rồi, đôi khi muốn sửa cũng đâu phải dễ đúng không? Còn nữa nè, xã hội mà... cái hiện đại ngày nay nó làm cho con người ta lu mờ hết đúng hong. Hỏi chú nè, chú ở cạnh bạn chú, bạn chú nó nhậu... mời chú, chú từ chối được hong? Rồi chú tiếp xúc với cuộc đời, chú có tham mê vật chất hong... tín đồ Cao Đài phải biết ở mức độ nào nhưng không thể không tham gia được, cái đó là sự đời mà. Nhưng nhắc lại là phải có mức độ, còn nếu không thì phạm tội nặng, không được hoàn công về với Cao Đài đâu.
175
Rồi trong gia đình của mình nữa, mỗi người mỗi công việc, khó tránh sao giao tiếp rồi với môi trường làm ăn, bạn bè, đồng nghiệp... chưa nói còn là tính cách nữa. Nên nhu vậy việc phạm luật đạo là khó tránh nhưng sao phải biết ở mức độ nào. Mỗi người có một cái duyên phận, khi họ đạt tới duyên phận nhất định thì họ sẽ nghiêm chỉnh thực hành luật đạo. Phạm luận đạo nhưng miễn sao không hại gì, nó còn có vợ, có chồng nữa, chồng vợ nó không theo Cao Đài thì phải chấp nhận thôi. TG: Bác, người theo Cao Đài của mình có lấy người ngoài đạo nhiều không?
TL: Xưa ít, giờ nhiều à, mà nói ra thì xưa, nay cũng có nhưng luật đạo không quá khắt khe đâu... ngay xưa nói cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, nhưng rõ rằng bây giờ con đặt đâu cha mẹ ngồi đó (cười)... Quan niệm vợ chồng là quyên số, không ép được đâu, tiến bộ rồi... trước là phải cưới người trong đạo đó, nhung không quá khắt khe, còn nay vợ chồng tùy duyên. Cái duyên đó cũng do Đức Tiên Ông sắp đặt thôi. Nhìn chung là mình khuyên con cái lấy người trong đạo, nhưng bây giờ xã hội rộng mở rồi. Nó đi làm ăn xã, quen con cái người ta rồi đòi cưới hỏi, mình phải làm sao, phải chiều nó thôi. Mình kêu nó vào đạo, làm lễ nhưng cũng tùy nó, vào thì tốt, không vào thì cũng không sao, quan trọng là tui nó sống hạnh phúc với nhau. Vậy đó chú.
TG: Thưa bác, tín đồ Cao Đài có bắt buộc không phải đến Thánh thất đúng luật đạo, vậy tình hình hiện nay sao ạ?
TL: Nếu mà nói bắt buộc thì cũng khó đó. Ngày xưa, chú hiểu rồi, theo đạo thuần thành lắm, đến ngày mà không tới thánh thất thì cảm giác có lỗi lầm đó, dù đi lại hơi khó khăn nhưng người ta vẫn đi, cả những lúc bệnh người ta cũng đi, bởi làm lễ mới cảm nhận được sự quan tâm, gần gũi với Tiên Ông. Cho nên ai ai là đạo thì việc đến lễ Tiên Ông là trách nhiệm của mình, anh em vui vẻ đoàn kết lắm, huynh đệ tương trợ nhau nhiều lắm, dẫu có khó nhưng không đáng lo.
Còn bây giờ, tuy tín đồ cũng còn nhiều đó, tụi nhỏ vào đạo nhiều đó, nhưng ít lắm, họ làm lễ đúng ít lắm, đi làm hết rồi, còn dân gốc thôi, cụ thôi... (cười)... nói ra thì vậy đó chú. Tụi nhỏ vào theo cha mẹ, theo đạo rồi lớn lên đi học rồi đi làm hết, đi làm ăn hết, khi có dịp về thì vào lạy cái đi nữa. Cái này chắc chú cũng hiểu phải không? Làm sao trách được tụi nó bây giờ, cố duy trì mối đạo thôi. Mà nó đi làm thì nhà cửa mới khá được, bám ở nhà làm cái gì, thực trạng chung hết rồi, quá rõ, không bàn nữa.
Chỉ có chuyện này là làm sao cho tụi nhỏ nhớ đạo, không bỏ đạo... bỏ đạo thì chắc không bỏ vì đó là truyền thống mà, nhưng nếu lâu dài thì là có chuyện đó, không bình thường đâu. Nói thật, bây giờ đạo Cao Đài cũng đang bó tay thiệt rồi đó, phải tìm giải pháp thôi, không có giải pháp là tín hiệu xấu đó. Theo chú làm sao bây giờ? Chú nghĩ thử coi, trong đạo cũng bàn đến rồi nhưng khó quá. Mà được cái này, đạo là ở tâm đúng không? Tín đồ cần có ý thức chuyện đó, Tiên Ông cũng nói như vậy mà, cốt ở tâm mình mà thôi, mình cũng có thể cúng tại nhà, hay sự thành tâm của mình thôi, quan trọng là không bỏ đạo. Việc
176
thưởng phạt nhắc lại là của Tiên Ông, còn mình chỉ là người dẫn dắt, hướng dẫn mà thôi. Tín đồ họ cũng có quyền công dân của họ nữa, xấu tốt còn trên nhiều yếu tố nữa. Vậy đó chú.
TG: Dạ trong cách thờ của tín đồ tại gia á bác, những điều mình chú ý trong cách thức là gì ạ
TL: thờ Thầy là thờ chung luôn rồi, nên không phải thờ đến các vị khác như thêm Đức Quan Thánh, Mẹ Sanh, chỉ cần Đức Cao Đài thôi. Cũng có nhà thờ luôn cả ngài Ngô Minh Chiêu nữa, nhưng có cũng được, để vào hầu Đức Cao Đài, nhưng không thì chỉ cần có Đức Cao Đài thôi, đó là tất cả. À, nói về Ngài Ngô Minh Chiêu đó, chú biết không? Đó là, ông ấy là phần thân của Đức Thầy đó như các ông khác vậy đó, chú có đọc chưa đó là ông Phật Ấn Độ và ông Jesus đó, các ông này được Tiên Ông giao xuống phàm độ. Ông Phạm Công Tắc là người được...đầu tiên được chỉ định chức Giáo tông của đạo mà ông không nhận đó. Ổng phải giữ sứ mạng bí pháp của đạo, nên chỉ chuyên tu thôi, không màng đến quyền thế gian, vì đó khi chuẩn bị lập đạo, Thượng đế thử thách ông cái là để xem rằng ông còn có mê quyền chức nữa hay không, nên mới giáng cơ giao chức Giáo tông, chức cao nhất của đạo Cao Đài... không nhận, vì biết là thử lòng thôi. Không cần vì biết mình nắm giữ sự thiêng liêng, hướng đạo thôi, dẫn dắt thôi, không cần quyền chức đâu. Ông bị nhiều lời đồn lắm, cũng là sự thử thách nữa, không sao hết, tu mà.
Đạo Cao Đài thì do Thượng đế sáng lập, và chính Thượng đế là Giáo chủ, chắc chú đọc nhiều chú nắm rồi phải không? Thượng đế xuống phàm để độ thông qua những chiết thân của mình, ông Ngô Minh Chiêu là như vậy đó... vậy đó, nên nền đạo không có xưng cao sang gì hết, là huynh đệ, tỷ muội thôi... duy nhất chỉ có ông Ngô Minh Chiêu là Thầy thôi.
TG: Bác, việc xin keo của hiện nay bác có theo không? TL: Tin chớ, nhưng tùy cơ duyên của mỗi người nghen, có người xin hoài không được đó, theo duyên số đó. Hay như việc nhận vào tu nữa, cũng theo duyên số, khó giải thích lắm đó.
Mà nè, người tín đồ Cao Đài rất chú ý đến thờ Cửu huyền Thất tổ đó, đó là truyền thống xưa nay của đạo, của dân tộc nữa, con người phải có gốc tổ tông đúng hong, người Cao Đài rất quan trọng cái đó, ông bà của mình mà. Thờ chữ Cửu huyền thất tổ là đầy đủ trong đó rồi, không cần phải để hình ông bà trên bàn thờ cũng được nghe chú, đủ hết là Cửu Huyền Thất Tổ.
TG: Cửu huyền Thất Tổ quan trọng với đạo vậy hả bác? TL: Mình thờ là truyền thống của cha ông để lại. Đạo Cao Đài là đạo thâu toàn bộ tinh hoa của các tôn giáo cũng như văn hóa dân tộc nên không có sự phân biệt. Do đó, cháu thấy tín đồ Cao Đài gần như là vẫn giữ nguyên cá phong tục truyền thống cha ông để lại, không bỏ đi những điều tốt đẹp, những lễ nghĩa liêm sĩ mà còn bổ sung thêm cho nó trở nên phong phú hơn. Còn việc thờ những vị khác cung có đó ở nhà tín đồ, như ông Địa và ông Thần tài thì đây là văn hóa dân gian thôi, nhứt là mấy người buôn bán mà, may mắn, phù hộ.
177
Là tín đồ cũng phải ăn chay nghen, ít nhiều phải ăn chay. Tùy sức, nhưng phải có. Tụi nhỏ ít ăn thôi, cha mẹ phải hướng dẫn, ăn gì cho nó ăn chung, nhưng lớn dần nó tự hiểu à, ăn chay đúng đạo mà còn tốt cho sức khỏe đúng hong. Tự dung cảm thấy ăn chay tốt, ban đầu khuyên, nhưng dần quen rồi thấy tốt, hong ăn là cảm giác có tội đó.
TG: Tín đồ có đi làm công quả thường xuyên không bác? TL: Có chứ, công quả là đức hạnh mà, phải chuyên tâm làm chứ, mới có phước được, phước là ở chỗ đó, mình không có giàu có như người ta, không bố thí như người ta thì phải chuyên tâm công quả, Đức Tiên Ông dạy như vậy. Nhưng cũng tùy theo ý thức của mỗi người thôi, không ép họ được, có gắng khuyên, nhắc họ thôi. Vậy đó chú, có một số điều cần chú ý vậy, có gì chú hỏi tiếp nghen.
PHỎNG VẤN PHẬT GIÁO HIẾU NGHĨA TÀ LƠN
Người được phỏng vấn: BD Chức việc PGHNTL - An Bình tự, Kiên Giang Ngày phỏng vấn: 16/4/2019 Người thực hiện: Tác giả
............................. Nội dung phỏng vấn: TG: Dạ, nói chung về phần viết lược sử PGHNTL, anh đánh giá sao?(tác giả hỏi lại bản đã nghiên cứu trước đây về lược sử)
TL: Nói chung thì viết thì viết cho tất cả các tín đồ đều hiểu, bắt đầu từ chữ Phật, Phật giáo, Hiếu Nghĩa, Tà Lơn. Tên đạo. Rồi cái giải nghĩa chữ tu, tu là gì, tu như thế nào? Rồi sơ lược lịch sử các vị Phật.
Trước tiên mà nói theo cái Phật, bắt đầu từ Đức Phật Thích Ca, truyền bá về pháp môn. Lược sử 28 vị tổ Tây Thiên và tổ Đông độ... chính là đi vào tôn giáo. Thờ Phật ở đây là thờ Phật nào, giữa sự khác biệt trong thánh Tây thiên mình thờ trong các tôn giáo, Phật giáo khác. Thí dụ như nói thờ Phật, thường thường thờ Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát nhưng với PGHNTL thì thờ A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Chuẩn Đề Vương Bồ Tát. Ý nghĩa ta sao? Rồi ý nghĩa thờ nơi chùa. Thường thường chùa thờ duy nhất là Phật và Tổ pháp nhưng PGHNTL thờ Phật, Thánh, Thần, cả Ngũ hành... nó khác là khác như vậy.
Đối với chùa đôi khi lại có cúng chay (cúng Phật), tại sao có cúng mặn?, nguyên nhân bắt đầu từ tu nhân đạo mà thờ thánh thần, thờ cữu huyền, thờ thánh thần... nên có cúng mặn. Nó có những cái như vậy, rồi cách cúng lạy, cách thờ phượng...
TG: Dạ, có để ý thấy, đạo mình khi lạy thì úp hai bàn tay xuống, có khác gì bên Phật giáo, Hòa Hảo họ thường ngữa tay lên, nét để phân biệt các đạo? TL: Nếu nói theo luật đạo theo nguyên tác lễ là ngũ thể gián đầu địa: 2 gối, 2 chõ, đầu sát đất, 2 bàn tay úp, cũng như các bàn tay.
178
TG: Ý nghĩa của số lần lạy? 72, 20, 12... TL: Phần lạy trong đó có phần lạy lễ, có 2 phần nếu mà nói về lạy trình: có 2 lạy, lạy lễ 12 lạy, 24 hoặc 36 lạy. Nếu nói theo cách đạo, trong du di thì có những cái, đối với từng cuộc lễ, theo hướng nào thì lễ ai. Trong lễ đủ 12, 24 là lạy theo sám hối. Cúng lạy chứ không phải lễ trình.
TG: Lễ lạy theo số chẵn, ảnh hưởng theo Nho giáo? TL: Đọc theo... lược sử... (phần này trong ghi âm... tác giả có bản lược sử nên không gỡ băng phỏng vấn)
Những đặc trưng, cần biết của đạo (là theo đặc thù tôn giáo - có sự đặc biệt xíu, riêng của tôn giáo)... đọc lược sử đạo: ngày khai đạo, các ngày lễ lớn... Mục tiêu hành đạo “Đạo pháp - Hiếu nghĩa - Dân tộc, an bình, bác ái, từ tâm”. Tu theo hạnh QTABT, biểu tượng hoa sen và bầu linh dược... 8 cánh sen (5 chùa, 3 am). Thờ Phật, Thánh, Thần... tạo điều kiện để các tín đồ đến các cơ sở để làm lễ tự.
Áo lễ: màu vàng, tay rộng, dài quá gối, may theo kiểu lục bình, cài áo bằng dây 3 điểm, khi cài lại thì thể hiện bằng chữ “vương” thể hiện tu cho quốc vương, thủy thổ. Tóm tắt đạo có 8 lời khuyên, 10 răn, 20 cấm. Tín đồ thực hiện lễ ngày rằm và 30 hàng tháng (tháng thiếu 29).
Hệ thống tổ chức đạo: 5 chùa, 3 am (trong đó có 1 cốc đường)... Hệ thống quản lý đạo: Hội đồng trị sự quản lý toàn đạo, có cấp trung ương và cơ sở. Từng chùa thì có Ban quản tự, chùa, am.
Cờ phướng đạo: màu vàng ngang 0,90m, dài 8m10 Phần nghi thức, có phần đức Thầy để lại, đã có trong phần kinh sách. Đọc di bút của Đức Thầy (Nguyễn Ngọc An): (tác giả có bản di bút, không gỡ đầy đủ băng phỏng vấn, chỉ trích yếu một số nội dung chính):
Di bút của Đức giáo sư - giáo chủ PGHNTL, viết ngày 15/7/1956 (AL): Lời Thầy khuyên gửi các trò nam/Họa vẽ bức thơ xem thật lòng/Nhắn với các con về đạo hiếu/cùng là giáo nghĩa mấy lời ni/Rằng phải quyết tâm hành chánh đạo/Bỏ điều gian ác dứt lợi khinh/Ăn ở theo xưa tròn chữ hiếu/Ham mê văn vật lắm làm chi.
Nay cậu Bảy ngõ lời cho các trò xem, thấy đạo Hiếu nghĩa chính gốc là tổ đình thì người theo đạo phải có đầu tóc là như xưa, giữ y bổn đạo là người con, làm trong hiếu đạo, cơ thể cha sanh, mẹ tạo mà phải quý giá giữ gìn... chứ có theo đời vật chất văn mình mà phải tội tình với tổ phụ. Vì quốc sự thời cuộc đảo điên, khiến cho nhân dân phải chịu cảnh lầm than, lâm vào khói lửa binh đao, ấy cũng là cai quyền của tạo hóa khiến ra, còn đạo hiếu nghĩa của chúng ta cũng đã trải qua nhiều cuộc dập dờn theo sóng lượn, cuộc hóa công nhiều họa phạm, đạo vô vi cảnh giới các con, mà các con phải chịu quay về quy y Phật pháp. Vậy Thầy hỏi các con tu là gì? Sao ta phải theo Phật để phụng thờ tôn giáo? Có ích lợi gì
Có phải tu là xả thân, xả phú cầu bần, xã thân cầu đạo quyết theo Phật pháp đặng phép nhiệm mầu, của Phật từ bi cứu vớt mình cho khỏi đời sống dục
179
tình và 4 điều chuyển kiếp ở đời sanh, lão, bệnh, tử... Dục tình là 4 vách tài, sắc, tửu khí, nào là tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, đủ thứ tham, nó làm cho con người chơi vơi giữa bể khổ, khiếp trầm luân, bất cứ sang hèn giàu hèn đó ai cho khỏi sanh vào 3 cõi 6 đường, biết bao giờ về đặng non thành, lưới nơi ai giữ mà gần cảnh tiên. Vậy mà các trò mãi cứ thương thân, trưởng dưỡng như ác thú, không có đè nén tâm viên ý mã, đi lạc đường lạc sá, tội khổ khéo lây bởi không có nắm chơn thầy theo đường chánh đạo.
Nếu học thì đây chỉ bảo, rằng các con nói đạo nghe rất thông... mặc dù chữ hảo tâm tốt ở nơi lòng, đại diện. Nếu tu tâm thì xây dựng, để đặng bực lớn lao, đặng bề ngoài lẫn cả bề trong, phải cho xác thân... (Phần lược sử xin xem thêm Lược sử Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, tổ đình An Bình Tự).
............... TG: Về cách thờ phượng trong chùa, có tìm hiểu sơ qua... xin hỏi thêm về cách thờ phượng tại gia? Có những nét gì ạ?
TL: Trước hết là thờ phượng tại chùa, gồm có chánh điện và hậu đường, chính điện Tây phương Tam thánh: 3 ngôi, chính giữa A Di Đà, giáo chủ tiếp dẫn Tây phương Phật, QTABT cứu khổ cứu nạn, Chuẩn Đề Vương Bồ Tát, giáo chủ giải trừ nghiệp chướng, tai nạn. Trước mặt chánh điện thờ Tổ pháp gồm có tam vị thánh tổ: Tiền tổ, trung tổ, hậu tổ... nơi chuyển các kinh điển, giáo lý của đức Phật. Trong tôn giáo gọi là long thần hộ pháp. Ngang chánh điện phía bên tả là Nam Phương Phật (Nam vương Thanh Đế hóa Công Vương Phật), bên hữu: Bắc Phương Hắc Đế Đường Công Vương Phật, phía sau: tổ đình sư cố, sư ông Đạo Lập - Thanh - Minh - Đắc - An, bên tả là Nam quốc tiên đế Trăm quan cựu thần, quan quân vì dân vì nước. Bên hữu thờ cữu huyền thất tổ bá tánh trăm họ. Từ chánh điện nhìn ra bên hữu thờ Quan Thánh Đế Quân, tức nhiên là Quan Công. Bên tả thờ Cửu Phẩm Lệnh Bà (9 vị: Lênh bà Cữu Thiên Huyền Nữ, Lê Sơn Thánh Mẫu, Kim Đa Thánh Mẫu, Diêu Trì Thánh Mẫu, Lục Nương Thánh Mẫu, Thánh A La sát, Chúa Tiên, Chúa Ngọc). Trước của tiền môn thờ Nữ Công Vương Phật: Trung ương huỳnh đế Chí Công Vương Phật, Đông Phương Bạch Đế Lãn Công Vương Phật, Tây Phương Xích Đế Ngũ Công Vương Phật, Nam Phương Thanh Đế Hóa Công Vương Phật, Bắc Phương Hắc Đế Đường Công Vương Phật. Ngoài sân là bàn Thông thiên, có 2 bàn, bàn trên là Tam vị Thánh Tổ Kim Cang (tổ giáo huấn thập nhị công nghệ, 12 người), bàn dưới thờ Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ... Hai miễu hai bên quay mặt về hướng Đông, bên tả thờ Thạch Thần, Ông Tà; bên hữu thờ bà Chúa Xứ, Sơn Thần. Hậu đường, ở phía sau thờ các vị tiền vãn, hậu vãn, các vị từ ở chùa có công với chùa, đặc điểm ở chùa Hiếu nghĩa là không có thờ dân.
TG: này là khác rồi, khác với Phật giáo. TL: Quan niệm của đạo là tu là để cứu độ, giải thoát, còn mình không tu thì thôi chứ vô đó thì không ai cứu cho mình nổi.
180
Hành lễ ngày xưa là hành lễ tứ thời nhưng bây giờ do điều kiện kinh tế thức đêm hôm nên nay thống nhất ba thời là Mẹo, Ngọ, Dậu (4g, 11g, 18g), dâng hương cầu nguyện, lạy Phật, cầu quốc thới dân an. Hành lễ các ngày lễ lớn tại chùa thì vẫn cúng 2 thời như thường nhật, tụng kinh thường nhật, có tụng kinh Phổ Môn.
Cách thờ cúng của các tín đồ tại gia, thường là các ngôi vị thờ tại gia chủ yếu như sau là: bàn Phật, bàn Cữu huyền, bàn Thông thiên và Ngũ Công Vương Phật. Cách cúng lạy tại gia thì 2 thời sáng và chiều (Mẹo, Dậu). Phần thờ tự các ngôi tại chùa cũng như tại gia đều sử dụng Trần điều và bài vị, hiện tại tại chùa có các tượng Phật thì cái này chắc chú cũng hiểu rồi hả? TG: Dạ, có nghe nói nhưng chắc có thể xin giải thích thêm, vì trong cái giai đoạn đó?
TL: Thì cái thời kỳ của Công binh xưởng quân khu rút về đóng tại chùa, thì ông Mười Ty - trưởng công an, khi mà người ta hiến, người ta làm đạn làm súng này nọ đó... thì các tượng Phật này nè, nó vừa thích hợp... vừa ổng vừa tiếc, thấy thích hợp với chùa nên ổng đem lên ổng hiến, chứ thực chất chùa này thờ Trần điều. Còn các tượng Phật, các vị Phật nhỏ nhỏ đó là do cái chùa phía bên kia, chỗ trường Chính trị bây giờ đó, trong đó cũng có cái chùa nữa, sau khi ông chủ chùa qua đời rồi mới thỉnh các vị tượng bên đó về đây.
TG: Vậy là bắt đầu từ khi mình có tượng thờ là khoảng năm nào? TL: khoảng đó năm nào mình cũng không nhớ, từ khi còn Đức Giáo Sư. Về cách lạy 12, 14 lạy chắc chú cũng năm rổi. Còn lễ phục sắc đạo thì trước giải phóng, trong tín đồ cũng vẫn có màu áo của người đạo.
TG: Có sự phân các màu hay chỉ có một màu vàn thôi? TL: Áo thường của người đạo thường mặc đó là áo màu vàng. Nhưng mà sau này, có một thời gian do điều kiện kinh tế, thì đâu có màu được thì dần dần từng bước mình không thể làm được cái chuyện đó, sau rồi từ khi có màu trùng hợp như thế thì anh em đã may, nên một số anh em vẫn mặc màu nâu dà đó.
TG: Nhưng mà thời kỳ của Đức Giáo Sư đó, các vị chủ chùa sau này có cái gì để phân biệt giữa các thứ bậc cũng như các vai vế, vai trò ở trong chùa không ạ? TL: Khi cúng lễ có mão, gọi là cái lớp... cai mão đó giờ trên chùa còn 1 cái, rảnh rảnh có thể lên trển lấy xem cũng được.
TG: Dạ xin chụp ảnh luôn ạ, vì đó là những ảnh tư liệu luôn ạ TL: nhưng mà cũng do điều kiện từ sau giải phóng, kinh tế khó khăn nên không đủ điều kiện thực hiện cái này.
Về điều kiện quy y của tín đồ, PGHNTL trước tiên phải hiểu vào đạo đê làm gì, mục đích vào đạo như thế nào, mục đích vào đạo và thờ ai. Điều kiện chung, phải tự nguyện, 2 là người chưa đến tuổi trưởng thành dưới 18 t phải được sự đồng ý của cha mẹ và người giám hộ, 3 là phải thuộc kinh kệ và hiểu biết cách nguyện vái, cúng lạy, 4 là chấp nhận những điều luật, điều răn, điều khuyên, điều cấm của đạo, 5 là tự nguyện quy y không nhờ người thay thế.
181
Quy y vào ngày rằm tháng giêng, rằm tháng 7, tháng 10. Những trường hợp đặc biệt cho các con các cháu trong đạo có thể tháng khác nhưng phải là vào ngày rằm. Lễ vật quy y đối với tín đồ là không quy định một lễ vật nào hoặc một khoảng chi phí nào.
Nghi thức quy y, luật quy y: Đến lễ tín đồ quy y đến giữa bàn Phật, thờ Tổ pháp và chủ tự, cùng với các thành viên trong hội đồng trị sự đạo. Đầu tiên trao lòng phái cho tín đồ, trao hương cho tín đồ quy y, tín đồ quy y cầm hương và xá 4 hướng, sau đó quỳ xuống và quy mặt về hướng bàn Phật, tín đồ cầm lồng phái và nhang chấm ngang trán và nghe đọc luật đạo. Người đọc luật đạo quỳ phía trước, truyền như sau: Nam mô A Di Đà Phật, đạo Lập Thanh Minh bố cáo giáo truyền quy luật, đây là quy luật của Phật Quan Âm, người nào vào đạo Hiếu Nghĩa Tà Lơn này hãy tùng theo các điều quy luật sau đây để ghi nhớ tu sửa bản thân cho đúng theo hạnh hiếu nghĩa, bất phạm sai, là lời của đức giáo chủ dạy răn cấm, lời của Đức Quan Âm dạy than rằng: ... là làm theo y kinh luật thì không ai đụng đến cọng long chân của mình được, còn không đúng theo kinh luật của Phật dạy để đi gây hung ác, làm nhiều điều không chân chính thì dù cho 1000 ông Phật đi cũng không cứu nổi huống gì có một mình bà, bà cứu làm sao cho được... vậy chúng ta là tín đồ dầu có quy y theo đạo Hiếu nghĩa thì cần nên giữ đúng các điều luật ở dưới đây thì mới mong có Phật giá hộ. 1 là tôn trọng kỉnh phục Đức Phật tổ Quan Âm Thiên Hoàng, 2 là tôn trọng kỉnh phục Đức Địa Hoàng sanh hóa vạn vật, 3 là tôn trọng kỉnh phục Tổ giáo huấn thập nhị công nghệ 12 nghề, 4 là tôn trọn kỉnh phục Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nuôi dưỡng người, 5 là tôn trọng quốc vương thủy thổ ngọn rau tấc đất nước nhà, 6 là tôn trọng giáo sư dạy dỗ tâm lành, từ thiện, 7 là phụ mẫu sanh thành hình vóc, tóc da thân thể, 8 là kỉnh nhường ông bà, cô bác, huynh đệ, xóm làng, song thân luân lý.
Tôn giáo Hiếu nghĩa cấm: 1. Cấm sát sanh vô cớ, nghĩa là không có cơ mà giết loài thú vật lục súc, 2 cấm ẩm tửu loạn ngôn, nghĩa là uống rượu xong nói quấy làm sai luật đạo, mất uy tín đạo, 3 cấm tà dâm dục quấy, nghĩa là vợ người mà muống, gái lịch sự mà ham, muốn thì phải qua xin thưa thốt với người, 4 là cấm theo đạo bất giáo, nghĩa là biết đạo phải dìu đắt đồng bào tâm lành, 5 cấm vọng ngữ tổn thân, 6 cấm gian tặc của người, nghĩa là tham lam, trộm cướp... Phạm luật điều 1 quỳ hương 4 giờ, thứ 2 ăn chay trường 49 ngày, 3 thâu phái thế độ, trục xuất ra khỏi đạo Hiếu Nghĩa, đó là người phá đạo.
Lời giáo truyền hiếu nghĩa, nam nữ bất quân, nữ bất nhị quân, nữ nhất phu cấm bất nhị phu, nam nữ một đạo cấm bất hai đạo, nam nữ hiếu phụ mẫu cấm bất hiếu phụ mẫu, tôn trọng kỉnh phục tạo hình vóc tóc da thân thể, thân tái tạo, lập thân hành đạo, nuối dưỡng phúc và hiếu. (Tham khảo thêm Thập cấm của Triết Thánh Đạo, tác giả có bản đánh máy)
Sau khi nghe đọc luật đạo quy y, tín đồ khấn nguyện: Nam Mô A Di Đà Phật, Nam mô QTABT, Nam mô Chuẩn Đề vương Bồ tát, nam mô đức Sư Cố, sư Ông, cữu huyền thất tổ bá tánh trăm họ... hôm nay là ngày, tháng, năm, tên
182
họ, tuổi, quỳ trước... 1 là tuyệt đối trung thành với đạo, 2 là giữ toàn quy y giới luận, 3 là lánh dữ làm lành, 4 thiên về học đạo. Xin thệ trước Phật tổ, Quan Âm, Tiên Hoàng, Địa Hoàng chứng minh. Hôm nay còn là tín đồ của Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, quy y theo kinh luật, nếu bất y kinh luật thần thánh thiên thần nan cứu độ. Nam mô A Di Đà Phật.
Đọc xong lạy 4 lạy đứng lên xá 4 hướng. Tín đồ theo PGHNTL là theo văn hóa dân tộc, theo lễ nghi dãn tộc đã có từ ngàn xưa theo lễ nghĩa và lưu truyền đạo đức cho đến ngày nay. Vừa là bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng nhân loại vừa là đạo đức lễ nghĩa tâm linh đạo giáo, vì vậy trong việc tu nhân đạo của PGHNTL cần trân trọng và gìn giữ lễ nghi của tôn giáo, trong mỹ tục lễ nghĩa, lễ nghi đó là đạo. Có 4 lễ trọng: lễ tết, lễ tang, lễ giỗ, lễ cưới (đọc trong luật đạo, triết thánh đạo)
................. Việc hỏi liên quan đến Tà Lơn, trước đây ít ai được về, sau này cùng đi với đức Thầy về trển cùng với ông Nguyễn Ngọc Tý, về với am An tự An Minh... trong hàng môn nhân đệ tử, nếu nói tu theo hạnh này thì song song với một bà sư cô Diệu Hương, cũng đã qua đời. Tu cùng một môn phái, nhưng khi xuống nuối mở đạo, trong giái đoạn thời kỳ như thế nào đó... trong 1 thời kỳ đó có một cô Diệu Hương tu theo hạnh đạo này, theo đươc biết về Việt Nam mấy lần, nhưng khi mất thì mất ở Tà Lơn. Nếu mà nói sư cô Diệu Hương này là có các cụ ở chùa... chùa Thới Sơn (TG: Bửu Sơn Kỳ Hương). Ý muốn nói như thế này, khi mở đạo đi về hướng nào thì mình không rõ, nhưng trong thời kỳ của Đức Giáo Sư có cô Diệu Hương hay về đây và về chùa Thới Sơn qua khỏi Nhà Bàng, sư cô có lập một cái am nhỏ để thờ phượng, cúng kiếng ở đó, cũng thường hay tới lui qua bên chùa. Mà sư cô cũng có một người con nuôi ở trong chùa, nghe nói đã chết.
TG: nhân duyên sao Đức Giáo sư mở được Tiên An tự? TL: Khi từ Campuchia trở về VN, trở về quê hương tìm người thân, không tìm được. Vừa đi trị bệnh cứu người, giảng đạo, tìm lại một số anh em ngày xưa... nếu nói lịch sử hình thành Kiên Lương ngày xưa thì khi đức Thầy về đây thì Kiên Lương có 1o mấy nhà, trong quá trình đi giảng đạo trị bệnh dần dần kéo bà con về đây để hình thành khu vực, gần giống như người hậu hiền mở vùng đất này.
TG: Sau khi mở Tiên An Tự, các đời chủ chùa có những ai ạ? TL: Đầu tiên là ông Chánh, ông Lợi...ông Ngộ... qua 4 đời chủ chùa. Chùa An Bình Tự sau khi đức giáo sư viên tich thì ông Nguyễn Ngọc Lượng... đến nay, chùa thứ 3 Long An tự do Trần Văn Ngô chủ chùa, đến Trần Văn Châu, Trần Văn Kiêm; Nam An Tự... Lê Ngọc Phến, 1960 Bùi Văn Bính, rồi Bùi Văn Dần. Chùa Dân An Tự, ông Võ Ngọc Năm, 1997 ông Nguyễn Ngọc Bé đến nay. Các am... Trung Thiên Tự. .............................
183
Người được phỏng vấn: CC Chức việc: Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Tại: Tiên An Tự, Tân Hội, Tân Hiệp, Kiên Giang Ngày 18/4/2019 Người phỏng vấn: Tác giả
Nội dung phỏng vấn TG: Việc đào tào trong đạo Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn sao bác? TL: Nếu không có nghe là không có biết hết trơn, đừng nói không biết mà không học, học mới biết chứ TG: Dạ, nên con hỏi thêm những người tuổi trẻ, có quan tâm, có học đạo hay không?
TL: Nói chung ở chỗ này nè, đời hay đạo cũng vì cái chữ học hỏi mới tìm hiểu được, chứ nếu đạo mà không học cũng không biết mà đời không học thì làm sao biết được. Lực lượng trong đạo còn yếu kém, lực lượng trong đạo chưa phát triển gì bao nhiêu còn mấy ông cựu trào này thì sắp sửa về hưu hết rồi.
Tu đây giới thiệu với chú chùa Tiên An tự là ông Hai, bác Hai ông này, đã viên tịch rồi, giờ tới ông già Ông Tám làm chức chủ chùa mấy năm, rồi giờ ổng lên thế, ông phó thì nhà bên đó (gần chùa) cũng con ông thứ Bảy. Ông Chín là cố vấn (người theo đạo lâu).
Thôi bây giờ đề nghị tóm tắt vậy đi, như bây giờ em á, được cái đi tới nơi chùa này chùa kia, xin em để nói ra những nghi thức... như thế nào thì sau nếu có những thắc mắc thì tui đây nắm được tui trả lời. Nói chung chú Hậu đây đã đi tìm hiểu, tìm lại tôn giáo xa xưa của Giáo sư của mình.
TG: Vậy chùa mình được xây dựng như thế nào? TL: Theo bờ bên nay, ngày xưa chỉ là lá thôi, sau này dời qua bên sông, vì nghe nói bên nay không phải đất nhà, xây dựng lại bên kia và năm 1996 xây bằng xi măng cốt thép (năm dời sang bờ bên kia là không nhớ). Cái trước đó là không quá năm Mậu Thân, sau năm Mậu Thân mới dời về sang bên kia.
Thật lòng nói theo tui biết, chúng tui có đây 400 mấy tín đồ à, tháng năm gì cũng vậy, chúng tui thấy có trách nhiệm làm tròn cái ngày quy y, tu Phật... cho đến ngày hôm nay chúng tôi vẫn giữ, nhưng về phần đóng góp cho xã hội chùa nghèo đóng góp không tới đâu. Cho rằng Tiên An Tự này nếu được gì, đạt gì như thế nào thì... tui giờ cũng lớn tuổi rồi. Tui biết đạo HNTL này thì cỡ khoảng (tui sinh năm 1928) cho đến nay tui vẫn tôn thờ, thầy tui nói rằng tu cho quốc vương thủy thổ, chống lại ngoại bang, tu tại gia chính là sự việc tại gia. Nhiều đạo, nhưng chúng tui không nói gì đến các đạo khác. Tiên An Tự này, theo tín đồ tôn giáo giờ ra sao, bây giờ tương đối nó gần khang trang. Tui nói ít em cũng hiểu nhiều hơn.
TG: Việc truyền đạo diễn ra như thế nào ạ? TL: Ngày này không có bóc thăm, ngày xưa thì có, còn nay tui nói chú chỗ này nè, thấy trong con cháu họ tộc nói chung, ai đủ khả năng thì bầu lên làm chủ. Trong tổ chức chùa có Ban Quản tự, nhưng tên thì nhớ nhưng chức vụ
184
không nhớ đâu, ông Phùng Ngọc Lợi, Trương Văn Lưu, Võ Văn Thưởng, Võ Từng Ngộ nè... nhiều lắm nhưng nhớ hong nổi.
TG: chỉ cần kể ban thôi, không cần nhớ tên? Ban Quản tự, Ban Xã hội, Ban Tế tự, Ban Hành giáo... trực thuộc thì thấy làm vậy thôi chứ còn nguyên tắc thì không rành lắm. Người ở tại chùa đốt nhang hằng ngày, mở cửa cho đạo là là không có, ban Quản tự chia đốt ngang 1 người 3 ngày. 1 người trực tiếp là chưa có
TG: Chú On về đây cùng với chú Ba Ngộ không? TL: Cuối năm 74 khúc này còn giặc dữ lắm, đánh giữ lắm. Tui đi năm 71 trốn quân dịch, bác Ngộ đi năm 64 đi lên đức giáo sư. Lên đó để học đạo thôi, lên đó năm 21 tuổi. Lúc ổng làm cách mạng không biết đâu, nghe nói thôi chứ chỉ khi ổng chết mới biết, nó đánh bom cháy hết, nhà, bóp giấy tờ của Ổng (Giáo sư).
TG: Lúc đức Giáo sư trúng bom, lúc đó chú ở đâu? TL: Chạy theo ổng luôn, ông này với ông Chín Bé khiêng, tui cổng ông Công. Tui nói chú Hậu nghe, tui chỉ biết ông thầy ổng phán sao thì nghe vậy thôi chứ không dám hỏi. Cái vấn đề là biết lạy cúng, học kinh kệ, lao động cuốc đất, trồng cây vậy thôi... chứ nói hỏi là không có dám hỏi đâu. Bà con lại đông lắm, mà cuốc đất làm ruộng ăn thôi chứ mà đâu có dám hỏi. Đất rừng vậy mà làm ruộng được đó.
Khi lên cúng, xin ổng Thưa Thầy con về, ổng không cho về là không dám về, vì về là có công việc, có tai nạn nên hong dám, ổng cho mới được, không cho không dám nên mình mới gọi là thầy được. Mình đi thì mình biết.
Lúc tổ đình sập, lúc trước đó (trước tết) ổng kêu bổn đạo lại ổng nói tới năm này nè sẽ hoại và không còn gì hết. Mấy ông kia nói mua cọc sắt, chì gai rào xung quanh chùa còn hơn cả cái đồn nữa, bự vầy nè, có ai lại hỏi vô cúng, mở cửa rồi cột lại, ổng nói hoại, mà mới rào bằng dây chì được 3 vách là bình địa hết trên. Ổng nói mà mình không dám hỏi mà ổng cũng không giải nghĩa cho mình hiểu. Ổng nói thì tới khi nào tới thì mình mới biết. Buổi tối mấy ông Bắc Việt tràn vô đen con hết trơn, rồi tối nó bắn.
TG: Cái lúc mà ở dưới bàn thờ, chánh điện còn trú được thôi phải không ạ?
TL: Trời ơi tui nói trực thăng nó có pháp mà, đương thắp nhang vậy nè, nó phóng một trái ở trât bởi đọt cây sao, nhưng mà tới bức đọt cây sao. Lúc đó đánh 3 hồi chuông mà mới đánh có 1 hồi à, miễng, ngói đổ lúc đó ông nào cũng cầm nhang chui xuống bàn Phật ngồi. Tới nói ông nào chui trước được thì ngồi, ông nào sau thì thò cái đầu ra. Tui chạy lui sau bàn sư cố, là cái bàn sau. Mấy bàn kia chỉ có bàn tổ đình là xi măng, còn mấy bàn kia bằng cây không... tui với mấy ông đằng kia chạy lui sau đó hén... đến hồi tàn rồi thì đầu đạn bằng ngón tay ngón tay nó bắn trên nóc xuống. Phía trước nó phóng 1 đạn pháo mà rui mè... đổ hết trơn, mà khiêng khoảng mấy khiêng vậy đó, chui mẹ dưới bàn Phật ngồi mà nó bắn lai rai hoài vậy đó. Chùa sập, sập hết từ trên nóc xuống đến bàn ông Phật thì còn, còn nhiêu là đi hết.
185
TG: Lúc đó có thờ tượng Phật rồi phải không? Giờ tượng vẫn còn y nguyên?
TL: Có như cũ hết, y nguyên hết. Lúc mình chạy đi thì chùa chưa sập... tượng không sứt mẻ gì hết. Vị trí nào còn nguyên vị trí đó. Thời kỳ đạn bom vậy đó, nhưng cúng vẫn là cúng không dám trái lời, lúc đó chết sanh tử thì sợ.
Sáng ngày đó, có điềm gì đó, có con chim bự nó bay vô nhà hậu, nó vô hồi nào mình hong biết, mình cúng rồi nó tung lên nóc hoài, nó kiếm đường ra chứ không gì hết, rồi nó đập bạch bạch cả nửa tiếng nó mới ra được. Lúc đó mình đâu nghĩ chuyện gì khác.
Lúc ông Thầy bị thương, ông Tám bị thương, nó bắn 1 dây bao nhiêu trái rồi nó ngưng, ông Thầy bó bằng cái khăn, kiếm y tế nhưng không gặp... lúc đó mấy ông Bắc Việt lù hết trơn nhưng vô hầm hết rồi. TG: Lúc mà tử nạn, đức Giáo sư còn lại bao nhiêu đệ tử, bác nhớ hong?
TL: Ổng nè, ông Tám nè, Ông nè, Chín Bé, Ba Lộc, Tui nè, Khánh nè, Banh nè, Công, Dân thì vô ra, với con cháu... lúc ổng tắt thở. Mấy người đó chui bàn Phật nhưng sau đó chạy đi đâu mất, lúc đó tui chạy đi y tá nhưng không được, nhưng sau đó khiêng đi nhà thương chỗ trường Đảng, lúc đó nó còn năng không à, dân ngoài đó kêu đưa tay lên nó mới thôi bán... nó bắn sáng nước hết.
TG: Lúc công binh xưởng về chùa thì chú có đó chưa? TL: chưa, năm 40 mấy, 3 tượng lớn là đúng còn mấy tượng nhỏ nó có cái chùa bên trường Đảng đem sang, chùa bị cháy, bà chủ chùa già... sau đó mới đem sang đây. Lúc đó mấy tượng bằng đồng thì thành đạn hết trơn, công binh xưởng nấu, bằng gan thì để lại... Phật đồng thành đạn. Mấy chuông cũ xưa mất hết, bể nát hết cả đại hồng chung. Lúc ông Đạo Năng mất thì ông này ở.
TG: Bác biết phép thuật của ông Đạo Năng không? TL: Việc nói thì ai nghe hỏng nghe, tin hỏng tin thôi, tùy theo, chớ cái ngày trước tôi vô đạo á, ông già của ổng thì đệ tử ông thầy, ông thầy ra coi cái ngày thập linh thì điều ông đạo Năng đi lên núi, có những cái quái lạ, nói sự thật, đi thì ổng hong nói gì, chạy về cạnh Hà Tiên Bảy núi rồi, bữa nay bây đem tao đi đâu đây, chưa có ai dăm trả lời thì bởi hong hiểu mà, cho nên ổng quay về thổi 1 cái... xe nghen, ở cái xứ Long Xuyên biết bao nhiêu thợ, đồ biết bao nhiêu đồ mới, thay đổi hong được đâu.
Rồi từ đó, ổng nói phải bây biết bây nói tao trước á, tao cho đi liền, nghĩa là mình nói lý luận mà, dòng dài hén. Thôi bây giờ đi, cũng thổi một cái, vậy là xe chạy. Mới chạy lên Tà Lơn, bị phạt hay gì không biết, mình nói ra đây mình nhớ thôi. Ổng lạy từ 11h đến 12h, nói dạ dạ xin vâng, chỉ có nói bao nhiêu thôi, mà phải nói là,,ổng cứ vậy hoài, thời gian kéo dài cũng lâu. Sư ông nói rằng như vầy được rồi, thầy của tui điều về, ổng còn phản ứng nữa kìa. Ông Đạo Năng này phải nói là, không phải ổng người ác mà dựa vào cái gốc gì, không phải ông thần, ông thánh gì mình không biết, ổng còn thử thầy nhiều cái khoảng, ghê tỡm lắm, thì lúc đó mới điều về tại An Bình tự bây giờ. Cúng lạy thì ổng cũng y hệt vậy, nhưng mà ở trong cái chỗ thầy với ổng ngồi có 2 bàn như vậy, ngồi kế bàn
186
có nhung lụa, 2 ông ngồi 2 ghế đai 2 bên ngồi vậy. Ổng có tánh linh khác, nếu mà nói về người thần tượng mình không nói được, nhưng về tánh linh ngồi vầy (có xem mô phỏng thực tế), đệ nhị ngồi với sư huynh đây, ổng vẫn như lơ, ổng có phép khác, ổng mới lên bưng chung nước cúng Phật thôi, ổng thổi ông thầy đi, bất ngờ không hiểu. Cho nên ở áo choàng và áo trong cháy hết, mà ở trong vẫn có cái thẹo, thì từ đó ông thầy ổng nghĩ 1 lúc, ổng mới lên bưng chung nước giữa cúng Phật, ổng phun 1 cái thì ông đạo Năng bình thường, nhất năng bá ứng, ổng thổi một phát nói ra 1 tiếng là 100 quân. Ông đạo Năng, ổng nói mày hong ngon thì thả tao ra đi, ông thầy mới niệm câu chú vậy là bó tay hắn (đạo Năng) mới là tuột cây cột, phải nói là từ trưa tới chiều, nói với tín đồ nhiều ông trên 80, 90 tuổi. Thầy thả hắn ra để coi hàng ôn binh gì, lúc thả ra thì ông này còn nhiều hành động dữ tợn như thể ông tướng múa men đủ thứ. Còn ông Thầy chỉ hô nhất năng bá ứng thôi, từ từ ông chịu thua, ông đạo Năng còn nhiều cái ghê lắm. Kể ra ổng giống như phép thuật Tề Thiên. Ổng cầm cái cưa xuống cắt cổ ông thầy mình... nên mới giữ ngôi vị mình. Ông Thầy hỏi, ông Đạo Năng à, làm gì vậy? ổng nói nếu không có bà đó tui cắt cổ ông rồi (bà Thầy), bởi vì bà thầy đã coi thể linh tính gì không biết., bả ngồi kế bên đó để may vá gì đó. Hong có bà này tao cắt cổ ổng tao làm chủ chùa, từ đó đó, sáng á đi ra vâng vâng dạ dạ, hết thời hành sự rồi hành lễ cũng vâng vâng dạ dạ... rồi sau đó phục luôn, chính nhà ổng tui ở nè.
Hồi trước, mình nói bùa phép người ta nói mình nói dốc nghe chú Hậu, như ông Tý đó, ông đệ tử thứ nhất của ông Thầy đó, ở thứ Chín đó (bác ông này nè) Nam An Tự. Cháu của ổng đó, ổng đưa 2 tay nói bắt nó, bắt nó... ngã chết, mình nói cái đó dạng như nói dốc phải hong.
TG: Dạ, con cảm ơn ....................................................
PHỎNG VẤN TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
Người được phỏng vấn: NVT Chức việc: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Tại Hội quán: Hưng An Tự - Kiên Giang Ngày 20/4/2019 Người phỏng vấn: Tác giả
TG: Dạ, chú cho con biết vài nét về sự ra đời của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam?
TL: Cái này người ta cũng có nói, tui cũng có biết về cơ bản là cũng do hoàn cảnh xã hội, chiến tranh, đói khổ, khủng hoảng... nên các ông ngày xưa đã lập đạo, không phải chỉ có Tịnh độ Phật hội không thôi mà còn có thêm các tôn giáo khác nữa, lúc nãy chú có nói là Bửu Sơn, Hòa Hảo, Cao Đài... hình như ra đời trước Phật hội phải hong? Đó, cái chung là vậy, ra đời như thế nên rất đặc biệt ở đây. Chú có tìm hiểu rồi chắc chú nắm chắc. Nhưng cũng nói rõ là TĐCSPH không phải do sự sai khiến của ai mà là do bổn đạo hình thành, cái công lớn nhất là đức Tông Sư Minh Trí.
187
TG: Chú có thể kể nhiều hơn về Đức Tông sư cho con nắm thêm không? Như về lịch sử, hoạt động của Đức Tông Sư? TL: Để tui đọc về tiểu sử nghen, nói không chắc đúng hết: Thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhờ Bà chị nuôi dưỡng và cho học chữ Nho trong làng.
Năm 19 tuổi (1905-Ất Tỵ), vâng lịnh tỷ huynh thành lập gia đình. Năm 25 tuổi (1911-Tân Hợi), Ngài thừa Nho hoá y, dùng Y đạo để cứu nhơn độ thế, thể theo Y phương minh của nhà Phật. Năm 29 tuổi (1915-Ất Mẹo), Ngài ly gia cắt ái chu du khắp nơi. Trải qua bao tang thương biến đổi, với kinh nghiệm bản thân Ngài khoát nhiên đại ngộ.
Khi ấy Ngài nhận xét rằng, Đạo Phật quá cao sâu mầu nhiệm, các chùa chỉ lo tụng đọc, dân gian chưa biết Đạo Phật là gì, bỗng dưng ta đem đạo pháp tối thượng ra dạy, thế nào cũng thất bại. Chính mình trước tiên cũng nhờ pháp môn Lễ Bái Lục Phương. Trong buổi đầu mở Đạo, ta cũng phải dùng pháp môn nầy chớ không thể làm khác được. Ngài bèn đem pháp môn Lễ Bái Lục Phương để lập một tông phái gọi là Lục Phương Tông để truyền bá cho người đời tu học.
Năm 33 tuổi (1919 - Kỷ Mùi), Ngài an trí thê nhi, ly gia cắt ái, mượn nghề y đi đó đây, trước là cứu đồng bào, sau nữa, truyền bá giáo lý Lễ Bái Lục Phương. Có khi Ngài lại mượn nghề buôn chiếu bán khoai để tiện bề ngao du khắp nơi.
Thuở ấy (năm 1921 - Tân Dậu), tại Hậu Giang (Bạc Liêu) người ta truyền nhau rằng: Có Đạo Di Đà mới ra đời, trong Đạo nầy có ông thầy thuốc Bắc hay lắm, trị đâu mạnh đó. Ông không nhận tiền bạc của ai cả, chỉ trừ kẻ giàu có ; nhưng Ông cũng không thọ lãnh tiền bạc cho nhiều như các thầy khác.
Thật ra thì Ngài truyền bá đạo Phật mà không ai hiểu: Bằng cớ là đệ tử của Ngài lúc ấy chuyên lo trì niệm Lục tự Di Đà và lạy Lục phương. Trong thời kỳ nầy, những người tu hành theo pháp môn Lễ Bái Lục Phương, vì sợ bị Tây bắt, nên ai nấy đều lạy Phật, công phu ở trong mùng, lối xóm không hề biết được. (Thời kỳ đó chưa có các Hội Phật học). Còn thành lập Tịnh độ Cư sĩ chú có muốn tìm hiểu không? Tui đọc luôn.
TG: Dạ, khỏi chú, chút nữa chú cho con xin copy 1 bản về tiểu sử và quyển chú đang đọc được không? Để con nghiên cứu cho đúng với tinh thần đạo mình. Được, lát tui gửi cho 1 quyển. TG: Con cảm ơn! Nhưng chú ơi, chú có thể tóm lược những hoạt động chính của tôn giáo mình cho con nắm căn bản ạ?
TL: Ừ, Đức Tông Sư thì ai cũng biết, người theo đạo gọi ông là Tông Sư, người lập đạo tên Nguyễn Văn Bồng ở Sa Đéc (Đồng Tháp). Mục đích chính là thực hành pháp môn niệm Phật A Di Đà, chữa bệnh bằng thuốc nam giúp cho người nghèo khổ, thiếu thốn, không có tiền chữa bệnh, tu theo nhơn đạo, hình thức là lễ bái lục phương, đem đạo từ bi đến cho bá tánh. Còn người tu là tu tại gia, được phân công các công việc đạo mà thực hiện. Làm sao trong việc đạo của mình phải làm tròn và làm đúng “Phước huệ song tu” hay nói là Phước túc - Huệ tu. TG: Chú có thể nói rõ hơn về pháp môn này cho con hiểu thêm?
188
TL: Tịnh độ là tịnh đủ tam nghiệp: ý tu, ý hành thì ý tịnh; khẩu tu, khẩu hành thì khẩu tịnh; thân tu, thân hành thì thân tịnh. Cho nên phần Tâm, Thân là quan trọng, mà Tâm là quan trọng nhất. Mà muốn cho Tâm tịnh thì thân phải tịnh, muốn thân tịnh thì thân phải khỏe, mà muốn khỏe thì phải không có bệnh. Muốn không có bệnh thì phải có thuốc. Vì đó nên tôn giáo này từ đầu đã làm chuyện hốt thuốc cho mọi người, thuốc không đơn giản là thuốc chữa bệnh thân mà còn là thuôc tâm là giáo lý tu hành huệ, giúp cho con người giảm bớt nỗi đau khổ.
TG: Đó có phải là tu phước không ạ? TL: Đúng rồi, đó là tu phước, dùng y đạo, làm việc thiện, giúp đỡ con người có được cuộc sống vui, bớt khổ... mà thuốc là thuốc cổ truyền Việt Nam, chùa, hội quán nào cũng có hết, phát triển mạnh lắm, xưa đến nay. Nhưng nay cũng gặp khó khăn đó.
TG: Khó khăn đó là gì ạ? TL: Khó về nguồn thuốc, cây rừng ngày càng ít, người thì đi tìm thuốc nhiều nhưng cũng không bằng như xưa, khó khăn nữa là người đến hốt thuốc có nhưng cũng này nọ, đòi hỏi rồi người phụ trách phòng thuốc cũng gặp khó... nhưng được cái là vẫn duy trì và có trách nhiệm lắm. TG: Đó là phước, còn Huệ thì sao ạ? TL: Huệ là thông hiểu giáo lý, muốn hiểu thì phải học thôi, mà nói thật, giờ cũng khó nữa, thời giờ phải có học, có lớp không phải như xưa, nhưng học lớp thì khó, khó vì người dạy có, người học thì ít, khó mở lớp. Mấy em cháu nó không thiết lắm, nó thích đi thôi. Ở đây chú biết rồi, có gì khó hiểu đâu, nó đi làm ăn, điều bắt buộc mà, nó hong theo đạo như cha mẹ thì cũng chịu chứ làm sao. Thôi, cái quan trọng là nó làm thiện, không làm điều bậy trái với ý đạo, có tội là được rồi.
Nói tóm lại, Đức Tông sư đã để lại cái đạo lý, cái việc làm phước thiện. Mình phải cố gắng vậy, có cố gắng đến đâu thì cố, mỗi con người đều có số khác nhau, niệm Phật nhiều thì được chuyển nghiệp, đem đến cái hạnh lành, còn không thì nhận hậu quả của việc ác mình làm, đúng vậy không? Là vậy đó chú.
TG: Chú ơi, biểu tượng thiêng liêng của đạo mình là gì? Chú giới thiệu cho con biết với?
TL: Chú thấy hong, trên quyển kinh này có chữ gì (?)... chữ Nhất... mà hong phải nhất mình hiểu đâu nghen... cũng có nghĩa là nhất tâm, nhất trí thực hành. Đâu đâu cũng vậy, chữ Nhất là thiêng liêng, lát tui gửi cho chú bản viết nói về chữ Nhất, ngắn gọn thôi trong quyển giảng nghĩa đó.
TG: Dạ, con cảm ơn chú. Thưa chú, ở góc độ, trách nhiệm của chú đối với đạo. Chú thấy những điều gì hiện nay đối với tôn giáo mình mà chú còn nhiều băn khoăn không ạ?
TL: ...Ừ, có chớ, có nhiều nhưng sức tui rồi một số người nữa đã già, nhiều khi muốn lắm nhưng không biết làm gì hơn, biết sao giờ. Nãy tui cũng có nói, lứa trẻ bây giờ. Tụi nó không vào đạo nhiều như trước, nó chỉ tới lạy cái rồi về ngày rằm, đầu năm, nó hong ở lại công quả đâu, không trách được, nó phải đi
189
kiếm cơm chứ, rồi đủ thứ học hành, làm việc, mạng, cafe, vui chơi, yêu đương... thôi, đó là không tránh khỏi. Nhưng cái lo hơn là xuống cấp của đạo đức, của xã hội nó làm cho con người ngày càng chai lì, ác hơn chú thấy hong, nó khác với gì Đức Tông sư dạy.
Còn gì thêm, trong đạo đó, cũng không giấu diếm gì, khó thiệt, con người, cho đến tổ chức đạo hong còn thuần nhất, lợi ích tiền bạc vật chất nhiều rồi, mà không có nó sao sống đúng không? Mà cũng từ nó mà gây ra nhiều cái tệ, hong cần bàn chú cũng biết. Đạo nói chung chứ không phải chỉ có Tịnh độ cư sĩ không đâu. Ai mạnh hơn thắng, mà Tịnh độ của tui thì là tôn giáo nhỏ thôi, chú cũng biết mà.
Còn nói về y sĩ, y sinh ngày nay đã được chứng nhận hẳn hoi của nhà nước, các phòng Phước Thiện mở rộng hoạt động, cho đến nay thuốc vẫn đáp ứng được nhưng trong tương lai thì sao, nhà cửa nhiều, con người nhiều, đất trồng thuốc ít, ai trồng, rừng ngày càng mất... một số ý vậy đó chú. Chú nghiên cứu thêm coi có gì nữa hong, tui thì tui nhận thấy vậy, ai buồn tui chịu nhưng đó là sự thật đó chú.
TG: Theo chú, có những cách nào để phát triển đạo hơn không? TL: Tui không bàn đến việc này đâu, của giáo hội. Nhưng có ý này, tổ chức của Tịnh độ từ xưa nay là tốt. Nhưng phải dự đoán được tương lai, mà dự đoán gì nữa, nó đã vậy rồi, do đó cần phải hiệp lực thôi. Nơi nào cũng vậy, người đến vào đạo phải hết lòng và chấp hành lối sống đạo, có vậy mới là người của đạo.
TG: Dạ, con cảm ơn chú!
190
PHỤ LỤC 2
TỔ CHỨC GIÁO HỘI, THỜ TỰ
VÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA CÁC TÔN GIÁO
KHÁI QUÁT CƠ CẤU TỔ CHỨC GIÁO HỘI
CỦA CÁC TÔN GIÁO RA ĐỜI Ở NAM BỘ
*TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA ĐẠO CAO ĐÀI Theo Tân luật, Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài hệ thống tổ chức và phẩm vị chức sắc gồm có:
Chức sắc Cửu Trùng đài gồm: Nam phái: được chia theo cửu phẩm tương ứng với cửu phẩm thần tiên ở cõi thiêng liêng.
Giáo tông tương ứng với Thiên Tiên Chưởng pháp tương ứng với Nhơn Tiên Tiên Đầu sư tương ứng với Địa Tiên Phối sư tương ứng với Thiên Thánh Giáo sư tương ứng với Nhơn Thánh Thánh Giáo hữu tương ứng với Địa Thánh Lễ sanh tương ứng với Thiên Thần Chức việc tương ứng với Nhơn Thần Thần Tín đồ tương ứng với Địa Thần + Giáo tông là chức sắc cao nhất trong đạo, có nhiệm vụ thay mặt Đức Chí Tôn để bảo vệ duy trì chân lý đạo Cao đài, có quyền về phần hữu hình (phần xác) không có quyền về phần hồn.
+ Chưởng pháp gồm có 3 vị (Thái - Ngọc - Thượng) có quyền xem xét luật lệ trước khi thi hành, Chưởng pháp là người thay mặt Hiệp Thiên đài nơi Cửu Trùng đài.
+ Đầu sư gồm 3 vị (Thái - Thượng - Ngọc) là người có quyền lập luật song phải dâng cho Giáo tông phê chuẩn cai trị phần đời và phần đạo của tín đồ. + Phối sư mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) có 12 người, cộng lại là 36 người, trong đó có 3 vị Chánh Phối sư. Chánh Phối sư được phép thay quyền cho Đầu sư, song không có quyền cầu phá luật lệ. Phối sư là người lãnh quyền của Chánh Phối sư ban cho, công việc đều tuân lệnh theo Chánh Phối sư. + Giáo sư có 72 vị, mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) là 24 người, có nhiệm vụ dạy dỗ nhơn sanh trong đường đạo và đường đời. + Giáo hữu có 3000 vị, mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) gồm 1.000 người, có nhiệm vụ phổ thông chơn đạo.
191
+ Lễ sanh không phải hàng chức sắc (không hạn định số lượng) là những người có đức hạnh, được đi khai đàn cho mỗi tín đồ. + Chức việc là những người giúp Lễ sanh và Đầu họ đạo trong các công việc đạo sự, bao gồm Chánh Trị sự, Phó Trị sự và Thông sự.
+ Tín đồ là người nhập môn theo đạo, gồm 2 bậc. Hạ thừa thực hiện chay giới từ 6 đến 10 ngày trong tháng, giữ Ngũ giới cấm, Tứ đại điều quy và tuân theo Thế luật của đạo. Thượng thừa là người giữ trường trai, phế thân hành đạo, tu luyện tại các cơ sở đạo. Chức sắc Nữ phái: Không có 2 phẩm Giáo tông và Chưởng pháp như nam phái mà chỉ có từ phẩm Đầu sư trở xuống. Chức sắc nữ phái không chia ba phái Thái - Thượng - Ngọc mà chỉ có một vị Đầu sư và Chánh Phối sư, các phẩm còn lại bằng 1/3 nam phái. Ngoài các phẩm được ghi trong Pháp Chánh truyền, nữ phái còn có một phẩm nữa là Giáo nhi có nhiệm vụ dạy dỗ các nữ Đồng nhi.
Chức sắc Hiệp Thiên đài: + Hộ pháp là người đứng đầu cơ quan Hiệp Thiên đài có nhiệm vụ giữ gìn luật pháp đạo, có quyền xét xử và ban thưởng chức sắc, tín đồ. Hộ pháp là Chưởng quản Hiệp Thiên đài kiêm Chưởng quản chi Pháp.
+ Thượng phẩm là người thay mặt Hộ pháp chưởng quản chi Đạo có nhiệm vụ cai quản các thánh thất, thuyên bổ, kiểm soát việc tu hành và làm luật sư cho chức sắc và tín đồ.
+ Thượng sanh lo về phần đời là người thay mặt Hộ pháp chưởng quản chi Thế có nhiệm vụ kiểm soát nhân phẩm cung cách hành đạo của chức sắc, và dìu dắt, độ rỗi nhơn sanh vào đạo... + Thập nhị thời quân: gồm 12 vị thời quân phụ tá cho Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh, chia thành 3 chi: Pháp - Đạo - Thế.
- Chi Pháp: + Bảo pháp làm nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ luật đạo. + Hiến pháp làm nhiệm vụ tìm kiếm phương pháp và truyền bá tư tưởng về luật đạo. + Khai pháp làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện tốt luật đạo.
+ Tiếp pháp làm nhiệm vụ tiếp nhận luật đạo và cho ban hành luật đạo. - Chi Đạo: + Bảo đạo làm nhiệm vụ giám sát việc chấp hành giáo luật của chức sắc, tín đồ. + Hiến đạo làm nhiệm vụ tìm kiếm và truyền bá tư tưởng để giúp nhơn sanh chấp hành đúng luật đạo . + Khai đạo làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện luật pháp Nhà nước theo giáo luật. + Tiếp đạo làm nhiệm vụ giúp các đạo hữu giảm bớt khó khăn, bất công trong đạo. - Chi Thế:
192
+ Bảo thế làm nhiệm vụ giám sát việc chấp hành luật pháp của chức sắc, tín đồ. + Hiến thế làm nhiệm vụ tìm kiếm và truyền bá tư tưởng để giúp nhơn sanh chấp hành đúng pháp luật Nhà nước. + Khai thế làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện luật đạo theo pháp luật. + Tiếp thế làm nhiệm vụ giúp nhơn sanh giảm bớt khó khăn, bất công trong cuộc sống.
+ Thập nhị Bảo quân làm phụ tá cho 12 vị Thập nhị Thời quân: Bảo huyền Linh quân chuyên về Thần linh học Bảo Tinh quân chuyên về Thiên văn học Bảo Cơ quân chuyên về Luật pháp Bảo văn Pháp quân chuyên về Nghệ thuật Bảo Học quân chuyên về Giáo dục Bảo y quân chuyên về Y học Bảo vật quân chuyên về Vạn vật và kỹ nghệ Bảo sỹ quân chuyên về Văn chương Bảo sanh quân chuyên về Xã hội Bảo nông quân chuyên về Nông nghiệp Bảo công quân chuyên về Công chánh Bảo thương quân chuyên về Kinh tế + Tiếp dẫn đạo nhân là người có nhiệm vụ truyền bá chơn đạo + Chưởng ấn người làm chủ một phiên toà đạo. + Cải trạng có nhiệm vụ biện hộ và bào chữa cho bị can mắc luật đạo. + Giám đạo là người kiểm soát, thanh tra luật pháp đạo. + Thừa sử có nhiệm vụ bảo vệ luật pháp đạo và hoà giải các vụ kiện cáo trong đạo.
+ Truyền trạng là người chuyển giao các đơn từ, cáo trạng. + Sĩ tải là người lưu trữ văn thư, công văn của đạo. + Luật sự (phẩm thấp nhất trong Hiệp Thiên đài) là người còn phải học tập về giáo lý và luật đạo.
*CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM TĐCSPHVN chính thức thành lập năm 1934, khi đó có 7 hội quán. Năm 1956 có 110 hội quán, năm 1971 có 181 hội quán, năm 1975 có 185 hội quán. Năm 2006 có 206 hội quán. TĐCSPHVN quản lý theo hệ thống từ Trung ương xuống đến các Tỉnh/Thành hội. Tỉnh/Thành hội trực tiếp quản lý Quận/Huyện, Phường/Xã và Ấp hội. Có 4 cấp quản lý, đến nay vẫn giữ nguyên mô hình này.
Hiện tại TĐCSPHVN có 206 hội quán, mỗi hội quán đều có Phòng Thuốc Nam phước thiện, hiện diện ở 23 tỉnh, thành phố từ Khánh Hoà (Nha Trang) tới Cà Mau ; trụ sở chính đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng phường 10 quận 6 TP Hồ Chí Minh.
193
*CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA TỨ ÂN HIẾU NGHĨA Trong quá trình tồn tại và phát triển, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không chủ trương lập các tổ chức hành chính của đạo từ Trung ương đến cơ sở như một số tôn giáo khác. Người đứng đầu là Đức Bổn sư, dưới Đức Bổn sư là các đại đệ tử, hay còn gọi là các cao đồ. Trong số các cao đồ được phân ra những chức năng cụ thể khác nhau: những người phát huy ý tưởng của Đức Bổn sư được gọi là ông Trò; những người thay mặt Đức Bổn sư chăm lo việc đạo của một nhóm tín đồ được gọi là ông Gánh.
Gánh của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nơi tập hợp tín đồ cùng thọ giáo với một ông Gánh. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 24 Gánh, đứng đầu Gánh là Trưởng Gánh, Trưởng Gánh không phải do bầu cử mà suy cử, thông thường do cha truyền con nối hoặc truyền hiền, họ là người có nhiều hiểu biết về đạo pháp và uy tín trong tín đồ.
Trước đây, các Trưởng Gánh và đại diện Gánh đã thống nhất hình thành một tổ chức gọi là “Đạo hội” nhằm phối hợp chăm lo, điều hành mọi công việc của toàn đạo. “Đạo hội” là tổ chức cao nhất trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có trụ sở đặt tại chùa Tam Bửu - Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang bao gồm các vị Trưởng Gánh và Đại diện Gánh.
*CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA BỬU SƠN KỲ HƯƠNG Do đặc điểm không có chức sắc, không hình thành tổ chức Giáo hội nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển theo phương pháp truyền thừa, truyền giảng giáo lý của Thầy tổ cho các đệ tử thân tín, hết lớp trước truyền lại cho lớp sau, tùy thuộc vào khả năng truyền giảng và uy tín của các ông Đạo.
Vì vậy, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có chức việc quản tự tại các chùa, không phân chia đơn vị tín đồ làm cơ sở của đạo, cho nên nền tảng tổ chức cơ bản của đạo chính là chùa Bửu Sơn Kỳ Hương bởi vì chùa là tổ chức độc lập, là nơi thờ tự chung của cộng đồng cư sĩ, tín đồ sinh hoạt lễ nghi tôn giáo ở mỗi địa phương do ông Đoàn Minh Huyên hoặc đệ tử của ông dựng lên. Chùa còn là đầu mối điều hành, tổ chức và quản lý mọi hoạt động nghi lễ tôn giáo.
*CƠ CẤU TỔ CHỨC PHẬT GIÁO HÒA HẢO Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo có tổ chức 2 cấp: cấp toàn đạo có tên gọi là Ban Trị sự TW Phật giáo Hoà Hảo; cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là Ban Trị sự Phật giáo Hoà Hảo cơ sở.Từ khi đạo Phật giáo Hoà Hảo có tư cách pháp nhân (năm 1999), về tổ chức đến nay đã trải qua ba kỳ đại hội (nhiệm kỳ là 5 năm): Đại hội lần I: năm 1999, Đại hội lần II: năm 2004, Đại hội lần III: năm 2009 và xây dựng được Hiến chương của Giáo hội, trụ sở Giáo hội tại An Hoà tự, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Giáo hội có Văn phòng và các Ban chuyên môn giúp cho hoạt động của đạo.
*CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA PHẬT GIÁO HIẾU NGHĨA TÀ LƠN Người sáng lập Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn là ông Nguyễn Ngọc An, được gọi là Giáo sư. Đức Giáo sư tự gọi mình là Cậu Bảy và gọi tín đồ là đệ tử, hàng đệ tử gọi nhau là huynh, đệ. Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn hiện nay có hai cấp: cấp cơ sở là Ban quản tự và cấp Trung ương là: Hội đồng Trị sự đạo.
194
Ban quản tự (từ 7 đến 16 người), có trách nhiệm quản lý ở từng chùa, am, cốc đường, gồm: Trưởng ban , Phó ban, Thủ tự, Thủ bổn, Giáo đạo, Thư ký, Hội viên tế tự, Hội viên xã hội, Kiểm soát.
SƠ ĐỒ ĐIỆN THỜ - BÁT QUÁT ĐÀI (ĐẠO CAO ĐÀI)
Quả càn khôn
(Thiên Nhãn)
Phật Thích Ca
Lão Tử
Khổng Tử
Quan Thánh Đế Quân
Quan Âm Bồ Tát
Lý Thái Bạch
Chúa Jesus
Khương Tử Nha
(TG tổng hợp)
(ảnh sưu tầm)
195
SƠ ĐỒ BÀY TRÍ ĐIỆN THỜ
TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
THỜ CHÍNH ĐIỆN
Phật A Di Đà
Quán Thế Âm
Phật Thích Ca
Đức Tông sư Minh Trí
Bồ Tát
Phật Di Lặc
BAN THỜ HẬU ĐIỆN
Đức Hộ Pháp
Đức Tổ sư Đạt Ma
Già Lam Chơn Tế Phật
(Quan Công)
(TG tổng hợp)
196
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CÁC TÔN GIÁO
(Ảnh: Ban thờ tại chính điện An Hòa Tự - Phật giáo Hòa Hảo, TG chụp ngày 28/7/2018)
(Ảnh: Ban thờ chính điện Tòng Sơn Cổ tự - Bửu Sơn Kỳ Hương, TG chụp ngày 28/7/2018)
197
(Ảnh: Ban thờ Phật Thầy Tây An tại Tây An Cổ tự, Châu Đốc - TG chụp ngày 29/7/2018)
(Ảnh: Trần điều, tại chùa Tam Bửu - Tứ Ân Hiếu Nghĩa, TG chụp ngày 29/7/2018)
198
(Ảnh: Trần điều và ban thờ tại chính điện, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn,
TG chụp tại An Bình tự, ngày 20/4/2011)
(Ảnh: Ban thờ chính điện Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, TG chụp tại Hưng Thanh tự. Rạch Giá - Kiên Giang, ngày 14/5/2018)
199
(Ảnh: Ban thờ Thông thiên, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, TG chụp tại chùa Phi Lai, ngày 29/7/2018)
(Ảnh: Ban Thông Thiên Bửu Sơn Kỳ Hương, TG chụp tại chùa Phước Điền, ngày 29/7/2018)
200
(Ảnh: Đạo phục Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo,
TG chụp tại An Hòa Tự, ngày 28/7/2018)
(Ảnh: Đạo phục Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, TG chụp tại An Bình Tự, ngày 7/4/AL (2011))
201
(Ảnh: Đạo phục Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, TG chụp tại Hưng An tự. Rạch Giá - Kiên Giang, ngày 10/8/2018)
(Ảnh: Đạo phục đạo Cao Đài, sưu tầm)
202
(Ảnh: Khách hành hương tại cơ sở thờ tự Phật giáo Hòa Hảo, TG ch ụp ngày 29/7/2018)
(Ảnh: phòng cắt may đạo phục Phật giáo Hòa Hảo, TG chụp tại Tổ đình An Hòa, ngày 29/8/2018)