ĐÀO TO NHÂN LỰC NGÀNH BẢO HIỂM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
HỘI NHẬP VÀ CÁCH MẠNG 4.0
TS. Hoàng Bích Hồng1
Tóm tắt: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế
giới và có tác động trực tiếp tới Việt Nam. Đây là cơ hội để thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường khả năng thu hút các nguồn lực về vốn, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý…, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới.
Ngành bảo hiểm cũng không nằm ngoài xu thế đó, tính đến nay đã có 64 doanh nghiệp bảo hiểm với nhiều
hình thức sở hữu đang hoạt động, các doanh nghiệp ngày càng mở rộng quy mô và từng bước vươn ra thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp về thị phần và nhân lực, thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn và chất lượng cao. Điều
đó đòi hỏi các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học (có đào tạo ngành bảo hiểm) phải có các biện pháp
kịp thời nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Từ khóa: đào tạo, nhân lực, ngành bảo hiểm, hội nhập, cách mạng 4.0.
Abstract: The 4th Industrial Revolution and international economic integration are happening strongly
in the world and having a direct impact on Vietnam. This is an opportunity to promote the development
of the economy through promoting the industrialization and modernization of the country, enhancing the
ability to attract capital, technology, management experience from abroad... as well as bring opportunities
for businesses to reach the foreign market. Insurance industry is not out of that trend; up to now, there are
64 insurance enterprises with many kinds of ownership, which are expanding their scale and reaching out to
the international market. However, the insurance industry faces many challenges such as fierce competition
among enterprises on market share and human resources, lack of professional and high qualified human
resources. This problem requires training institutions, especially universities (with insurance industry
training) to take timely measures to improve the quality of training, to meet the needs of the labor market.
Keywords: training; human resources; insurance industry; integration; revolution 4.0.
1. VÀI NÉT VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
Bảo hiểm vai trò quan trọng trong nền kinh tế, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về bảo
hiểm càng gia tăng, bởi không một nhân hay tổ chức nào thể biết trước phòng tránh
hoàn toàn rủi ro, bảo hiểm phương thức hiệu quả giúp họ nguồn tài chính đủ lớn khắc
phục hậu quả của những rủi ro đó. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự
1 Email: hoangbichhong.ulsa@gmail.com, Khoa Bảo hiểm,Trường Đại học Lao động – Xã hội.
433
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và ngành bảo hiểm còn rất nhiều tiềm năng phát triển
trong tương lai, thể thấy điều đó qua việc gia tăng của số lượng, quy mô và doanh thu phí của
các doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu về thị trường bảo hiểm
2015 2016 2017
Tổng số doanh nghiệp bảo hiểm 61 63 64
Tổng tài sản (tỷ đồng) 202.378 248.247 316.300
Doanh thu phí bảo hiểm (tỷ đồng) 70.162 87.364 107.821
Đầu tư trở lại nền kinh tế (tỷ đồng) 160.258 198.150 247.815
Đóng góp vào GDP (%) 2,02 2,29 2,64
Số việc làm được tạo ra (người) 584.719 603.089 786.795
(Nguồn: Cục Quản lí và Giám sát Bảo hiểm, Bộ Tài chính)
Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của thị trường bảo hiểm đều cho thấy xu hướng phát
triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam, nó cũng phù hợp với xu hướng chung của các quốc gia
phát triển trên thế giới, tuy nhiên, tốc độ phát triển của ngành chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc
tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đều tăng trên 20% mỗi năm, nhưng so sánh năm
2017 với 2016 thì tốc độ tăng doanh thu phí thấp hơn tốc độ tăng số người làm việc trong ngành
bảo hiểm, nói cách khác, năng suất lao động theo doanh thu phí giảm. Điều đó cho thấy, yêu cầu
về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành bảo hiểm là tất yếu, để tạo nên sự phát triển ổn định
của thị trường bảo hiểm, trước bối cảnh công nghiệp 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược thị trường bảo hiểm Việt Nam 2015-2020 đã chỉ rõ, công tác phát triển nguồn nhân
lực bảo hiểm Việt Nam là một yêu cầu quan trọng. Thị trường bảo hiểm cần xây dựng phát triển
nguồn nhân lực với cấu, trình độ hợp lý, năng động, có năng lực nhằm đảo bảo năng lực cạnh
tranh của thị trường Việt Nam trong giai đoạn hội nhập với thị trường quốc tế. Nguồn nhân lực của
thị trường bảo hiểm có thể được phân chia thành 2 nhóm cán bộ đại bảo hiểm, trong đó, số
cán bộ chiếm khoảng 4% tổng số.
Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, Cục Quản giám
sát bảo hiểm năm 2015, đối với nhóm cán bộ bảo hiểm, về trình độ: đại học chiếm 79%, trên đại
học chiếm 5%, còn lại cao đẳng, trung cấp 16%; Về độ tuổi: trung bình 30; Về thâm niên công
tác tại doanh nghiệp bảo hiểm: 50% cán bộ thâm dưới 3 năm, 5% thâm niên từ 3-5 năm, 35%
thâm niên từ 5 năm trở lên. Đối với nhóm đại lý, về trình độ bao gồm phổ thông trung học, trung
cấp, cao đẳng đại học trở lên, trong đó số lượng đại trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học
chiếm nhiều nhất, thứ hai là nhóm đại lý tốt nghiệp từ đại học trở lên, mức độ duy trì đại lý thấp,
đặc biệt trong khối các DNBH nhân thọ, theo số liệu thống của các doanh nghiệp bảo hiểm
thì số lượng đại lý gia nhập và rời khỏi thị trường bảo hiểm trong một năm là tương đương nhau,
số đại lý bảo hiểm nhân thọ duy trì thời gian từ 3 năm trở lên chỉ chiếm 12%.
Nhìn một cách tổng quát, nguồn nhân lực hiện có của ngành bảo hiểm đã đáp ứng nhu cầu cơ
bản cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của từng doanh nghiệp bảo hiểm của thị trường bảo
434 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
hiểm Việt Nam, góp phần phát triển thị trường với tốc độ tăng trưởng bình quân luôn ở mức 2 con
số. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế:
- Số cán bộ được đào tạo chuyên sâu về bảo hiểm còn thấp, kể cả ở cấp độ quản lý và cán bộ
chuyên môn, nhiều cán bộ nghiệp vụ tốt nghiệp từ các ngành khác, điều đó ảnh hưởng đến chất
lượng cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đội ngũ đại lý phần lớn là tốt nghiệp phổ
thông trung học, kể cả đại trình độ trung cấp cao đẳng thì cũng không được đào tạo chuyên
môn về bảo hiểm (vì hiện tại không có trường đào tạo chuyên ngành bảo hiểm ở trình độ này), họ
chỉ được đào tạo ngắn ngày về sản phẩm để chào bán ra thị trường, hơn nữa để doanh thu cao
nên họ tìm mọi cách để bán được sản phẩm, chưa tư vấn đầy đủ cho người lao động dẫn đến tình
trạng hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn hoặc khiếu nại ở khách hàng, gây ra những ảnh hưởng không
tốt đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tăng nhanh trong khi đó số lượng các cơ sở đào tạo về bảo
hiểm không nhiều chưa chuyên sâu đã gây thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng
cao cho thị trường bảo hiểm, dẫn đến hiện tượng chuyển dịch nhân sự cấp cao giữa các doanh
nghiệp, gây xáo trộn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Do thiếu hụt nguồn
nhân lực chất lượng cao, có kinh nghiệm khan hiếm, các doanh nghiệp cạnh tranh quyết liệt trong
việc thu hút nhân sự (về chế độ đãi ngộ, lương, môi trường làm việc), ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm chưa triển khai xây dựng vị trí việc làm, chưa xác định nhu
cầu về nhân sự nên không có cơ sở để xác định nhu cầu về số và chất lượng nhân lực của toàn thị
trường bảo hiểm. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường, nhất các doanh nghiệp quy
mô nhỏ chưa có được hệ thống tổ chức chuẩn mực, nên chưa xây dựng hệ thống mô tả công việc,
tiêu chuẩn yêu cầu công việc cụ thể đối với từng vị trí công việc, do đó thiếu sở cho việc xác
định nhu cầu nhân sự trong hiện tại và cả tương lai. Khi chưa xác định được cầu lao động thì cũng
khó để có được nguồn cung phù hợp.
- Đại bảo hiểm chưa được thực sự coi là một nghề, đa phần đại bán thời gian, không
có ý định gắn lâu dài nên chưa làm hết chức trách của đại lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của
hệ thống đại lý bảo hiểm theo hướng chuyên nghiệp.
2. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁCH MẠNG 4.0 VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI VỚI NGÀNH BẢO HIỂM
Mặc dù ngành bảo hiểm là ngành cung cấp dịch vụ nhưng việc tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm
lại đặc thù, khác hẳn với các sản phẩm dịch vụ khác, khách hàng phải đóng phí bảo hiểm vào
đầu kì, ngay khi kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng việc hưởng dịch vụ (nhận tiền bồi thường/chi
trả) phải sau này mới được nhận, hoặc thậm chí không được nhận nếu rủi ro không xảy ra, vì vậy,
để khách hàng tin tưởng, tự nguyện mua bảo hiểm thì việc cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp bảo
hiểm cần phải đảm bảo tính chuyên nghiệp, thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với nhu cầu
của khách hàng. Cuộc cách mạng 4.0 hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại hội nhưng cũng
đem đến thách thức lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm, ảnh hưởng đến mọi mặt của ngành Bảo
hiểm, như vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào các công đoạn của một chu trình sản phẩm
dịch vụ bảo hiểm, hay vấn đề cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài - nguồn
vốn lớn và kinh nghiệm lâu năm…
435
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Kỹ thuật số robot thế hệ mới sẽ tác động lớn tới chu trình của sản phẩm bảo hiểm. Ở giai
đoạn tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm, việc sử dụng dữ liệu lớn (Big Data), và ứng dụng vạn
vật kết nối mang lại những phân tích tin cậy, chính xác nhanh hơn nhiều so với các phương
pháp truyền thống trước đây. Từ đó, các doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế và phát triển được những
sản phẩm bảo hiểm mang tính thể hoá cao, phù hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường. Đến
giai đoạn giới thiệu, chào bán sản phẩm, ngoài các kênh truyền thống như quảng cáo sản phẩm
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đại lý…, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đẩy mạnh kênh phân
phối qua giao dịch điện tử, như sử dụng kênh mạng xã hội để hỗ trợ việc tiếp cận và tương tác với
khách hàng thì sẽ nhanh độ bao phủ rộng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, trí tuệ nhân tạo dữ liệu
lớn sẽ giúp tối ưu hóa sản phẩm cho mỗi khách hàng, lập bảng minh họa phí bảo hiểm quyền
lợi hưởng, hỗ trợ hoàn thiện thủ tục, tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả hai bên. Ngay khi khách
hàng đồng ý tham gia bảo hiểm, nhờ cơ sở dữ liệu lớn, doanh nghiệp bảo hiểm thể tra xuất
dữ liệu về khách hàng nhanh chóng, hệ thống còn cung cấp sở dữ liệu giúp đánh giá rủi ro, trên
cơ sở đó tính phí bảo hiểm cho khách hàng một cách hợp lý nhất.
Sở hữu nguồn dữ liệu lớn cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm phòng tránh, ngăn ngừa trục
lợi bảo hiểm hoặc hành vi lựa chọn bất lợi, như phát hiện bảo hiểm trùng, lịch sử tham gia bảo
hiểm... Đến giai đoạn phục vụ sau bán hàng, các công cụ trực tuyến giúp quản trị hợp đồng bảo
hiểm mọi nơi, mọi lúc, rất thuận tiện cho khách hàng. Sử dụng robot nhận và xử lý tự động những
yêu cầu, trả lời những thắc mắc của khách hàng; công nghệ định vị, địa phương hóa, thể hoá
chăm sóc khách hàng...
Mặc cách mạng 4.0 hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho ngành bảo hiểm nhiều lợi
ích nhờ công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như gia tăng kênh bán hàng, phương tiện tương
tác, hội được sở dữ liệu lớn, toàn diện, giúp giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp bảo hiểm, hay doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể vươn ra thị trường quốc
tế…, nhưng cũng mang lại nhiều rủi ro cho thị trường bảo hiểm. Thứ nhất, tự động hóa sẽ làm cho
ngành bảo hiểm cần sử dụng ít lao động đi, một bộ phận người lao động không có trình độ chuyên
môn hoặc không thích ứng được với những thay đổi nhanh chóng của thị trường sẽ bị đào thải. Thứ
hai, sự phát triển của khoa học, công nghệ trong các lĩnh vực như Vật lý, Y học, Sinh học… sẽ làm
giảm rủi ro cho con người, hơn nữa, ứng dụng công nghệ hiện đại giúp các cá nhân, doanh nghiệp
quản rủi ro tốt hơn, khi đó nhu cầu về bảo hiểm sẽ giảm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải đối
mặt với nguy cơ khách hàng rút khỏi thị trường bảo hiểm truyền thống. Thứ ba, vấn đề về an ninh
mạng, cơ sở dữ liệu cá nhân, khi vấn đề bảo mật không được làm tốt hoặc khi có những sự cố đối
với cơ sở dữ liệu, các thông tin của doanh nghiệp hoặc khách hàng có thể bị đánh cắp, ảnh hưởng
tới việc kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp. Thứ tư, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước
(có quy mô vốn nhỏ và ít kinh nghiệm) phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài (có quy mô nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hoạt động), không chỉ cạnh tranh để chiếm
lĩnh thị phần mà còn cạnh tranh để giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao.
Để đáp ứng nhu cầu của thị trường bảo hiểm trong thời gian tới, đòi hỏi nhân lực ngành bảo
hiểm phải không ngừng học hỏi, rèn luyện để thích ứng với những thay đổi. Trước hết, cán bộ
bảo hiểm cần am hiểu chuyên môn, công nghệ thông tin và ngoại ngữ, ở mỗi bộ phận thậm chí
mỗi vị trí khác nhau, cán bộ bảo hiểm cần có am hiểu sâu về chuyên môn của công việc do mình
436 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
đảm nhận, sử dụng khai thác nguồn dữ liệu của đơn vị và thành thạo ngoại ngữ để học hỏi kinh
nghiệm, làm việc với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, cán bộ bảo hiểm cần tính năng động,
sáng tạo, chủ động, dễ dàng thích nghi với những công nghệ mới, nhạy bén với sự thay đổi của thị
trường và có thái độ tích cực với công việc.
3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TO NHÂN LỰC NGÀNH BẢO HIỂM
Đối với hoạt động đào tạo nhân lực cho ngành bảo hiểm, có thể chia thành hai nhóm, đào tạo
chính quy dài hạn trong các trường đại học và đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
ngắn hạn tại Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm, Bộ Tài chính và các trung tâm thuộc các
công ty bảo hiểm.
- Đối với đào tạo chính quy tại các trường đại học
Hoạt động bảo hiểm tồn tại Việt Nam từ rất lâu, song suốt cả một thời kỳ dài chỉ có hai đơn
vị tham gia thực hiện, đó là Bảo Việt - thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại và hệ thống
bảo hiểm hội (thuộc Bộ Lao đông - Thương binh hội Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam) thực hiện loại hình BHXH. Sau khi nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhiều lĩnh
vực kinh tế- xã hội, trong đó có bảo hiểm, chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc của kinh tế thị
trường, theo đó ngành bảo hiểm có những bước phát triển đáng kể. Sau năm 1995, thị trường bảo
hiểm sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm ngày
càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của xã hội, bên cạnh đó là sự ra đời của hệ thống cơ quan BHXH,
với nhiệm vụ tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH…, theo đó nhu cầu về nhân lực cho
ngành bảo hiểm ngày càng gia tăng.
Hiện tại, phía Bắc, chỉ một số trường đại học đào tạo ngành bảo hiểm như: Đại học
Kinh tế quốc dân, Học viện Tài chính, Đại học Lao động - Xã hội, ở phía Nam Trường Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, quy tuyển sinh hệ đại học khoảng 600 sinh viên/năm, cao học
nghiên cứu sinh 25 người/năm. Đối với hệ đại học, đối tượng tuyển sinh học sinh tốt nghiệp
phổ thông trung học, thời gian đào tạo 4 năm, chương trình đào tạo gồm 120 tín chỉ. Chương
trình đào tạo do các trường đại học xây dựng dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, gồm hai khối kiến thức là kiến thức giáo dục đại cương và kiến thức giáo dục chuyên
nghiệp, trong đó khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm: (i) Kiến thức sở ngành
khối ngành, (ii) Kiến thức ngành/chuyên ngành, (iii) Kiến thức bổ trợ (có thể có), (iii) Thực tập và
khóa luận/thi/học thay thế thi tốt nghiệp khối kiến thức này tối thiểu 64%. Do chương trình
được phân bổ thành các khối kiến thức nên việc đưa các học phần vào chương trình đào tạo còn bị
cứng nhắc, các học phần ở các khối kiến thức cơ sở ngành, kiến thức bổ trợ ở các trường còn phụ
thuộc vào thế mạnh của các trường nên số lượng các học phần chuyên ngành về bảo hiểm còn thấp,
chủ yếu là kiến thức lý thuyết, các chương trình đào tạo vẫn chưa cung cấp đủ những kiến thức và
kỹ năng nâng cao để sinh viên ra trường có thể nhanh chóng tiếp cận với công việc khả năng
thích ứng với những thay đổi.
Theo đánh giá của nhiều quan, doanh nghiệp trong ngành bảo hiểm, tại các trường đại học
chương trình đào tạo vẫn chưa bám sát nhu cầu của ngành bảo hiểm, có thể nhận thấy khoảng cách
tương đối lớn giữa kiến thức sinh viên được học trường đại học công việc thực tế khi đi làm.
Nội dung đào tạo chủ yếu thuyết, chưa thực sự chú trọng giới thiệu các khía cạnh liên quan