
21
0
DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
- THỰC TIỄN VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN
ThS. Nguyễn Chu Du
Trường Đại học Công đoàn
Nguyễn Thị Thùy Dung
Trường Đại học Luật Hà Nội
Tóm tắt
Làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST).
Bên cạnh thuận lợi là số vốn đầu tư của hoạt động khởi nghiệp không lớn nhưng lợi
nhuận thu về của doanh nghiệp lại tương đối cao thì các doanh nghiệp cũng phải đối
mặt với nhiều khó khăn và rào cản pháp lý lớn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
tập trung phân tích thực tiễn và xu thế phát triển của DNKNST thời đại 4.0.
Từ khóa: Doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, cách mạng công nghiệp 4.0.
1. Khái quát về DNKNST
Làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 tác động ngày càng mạnh mẽ tới mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp trong thời kỳ này dựa trên động lực
không có trần giới hạn là công nghệ và đổi mới sáng tạo. Song, cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đang tạo ra nhiều thách thức khiến một số doanh nghiệp, một số ngành lạc
nhịp về công nghệ phải thu hẹp đáng kể và bị đào thải.
Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung đã đẩy mạnh hoạt
động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup). Trong tiếng Anh, thuật ngữ “start-up”
có hai nghĩa: Một là, phản ánh một trạng thái bắt đầu của một công việc kinh doanh
hoặc một dự án; Hai là, một doanh nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên
cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng
tăng trưởng nhanh. Theo nghiên cứu của Paul Graham, DNKNST là doanh nghiệp
được lập ra với kỳ vọng tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng gắn với ý tưởng sáng
tạo mới là yếu tố quan trọng nhất xác định đó là một doanh nghiệp khởi nghiệp. Các
yếu tố khác (như doanh nghiệp mới thành lập, thuộc lĩnh vực công nghệ, được quỹ
đầu tư rủi ro tài trợ, vv.) chỉ có ý nghĩa phụ trợ (Paul Graham, 2005). Theo Mandela
Schumacher - Hodge cho rằng, đối với một doanh nghiệp khởi nghiệp thì tính đột phá
là điều bắt buộc. DNKNST có thể tạo ra những thứ chưa hề có trên thị trường hoặc
tạo ra một giá trị tốt hơn so với những thứ đang có sẵn. Công nghệ thường là đặc tính
tiêu biểu của sản phẩm từ một doanh nghiệp khởi nghiệp. Mặc dù, ngay cả khi sản

211
phẩm không dựa nhiều vào công nghệ, thì doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần áp
dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh và tham vọng tăng trưởng (Lê Xuân
Trường, 2018).
Tại Việt Nam khái niệm DNKNST mới được đưa vào văn bản chính thức
đầu tiên là “loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai
thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới”( Quyết định số 844/QĐ–
TTg ngày 18/5/2016). Trên thực tế, các quy định liên quan đến hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp đã xuất hiện từ những năm đầu 2010, khi Nghị định về trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chính phủ (Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009) được ban hành. Tuy nhiên hệ thống pháp lý hỗ
trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp được đề cập chính thức tại các văn bản quy
phạm pháp luật của Việt Nam từ năm 2016, cho đến nay vẫn đang trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện.
2. DNKNST thực tiễn và xu thế phát triển
2.1. Hệ thống chính sách của Nhà nước về DNKNST
Việt Nam thực hiện một số nhiệm vụ lớn, mang tính chiến lược đó là cơ cấu
lại nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và thực hiện mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
dựa theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở
rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả (Văn kiện Đại hội XI,
2011). Nghị quyết Quốc hội cũng khẳng định: xác định mục tiêu tổng quát là tập
trung nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển, xác định trọng
tâm chính sách của Chính phủ là vấn đề phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân
trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài, cải thiện môi trường kinh
doanh (Quốc hội, 2016) Nghị quyết của Chính phủ với mục tiêu đặt ra là sẽ xây
dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững; cả nước
có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp quy mô
lớn, nguồn lực mạnh; khu vực tư nhân Việt Nam đóng góp khoảng 48 - 49% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 30- 35% GDP; năng suất lao động xã hội
tăng khoảng 5%/năm. Hàng năm, khoảng 30- 35% doanh nghiệp Việt Nam có hoạt
động đổi mới sáng tạo (Chính phủ, 2016).
Ngoài các văn bản chung về DNKNST các cơ quan Nhà nước đã ban hành các
văn bản, quy định pháp luật về hỗ trợ khuyến khích các DNKNST. Theo đó “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ khởi nghiệp sáng tạo (đối tượng được hỗ trợ theo Luật) là doanh
nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công
nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”. Điều kiện để
doanh nghiệp được nhận hỗ trợ đó là, Thứ nhất, có thời hạn không quá 5 năm kể từ

21
2
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký DN lần đầu; Thứ hai, chưa chào bán chứng
khoán ra công chúng (Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ gồm 5 hình
thức như sau: (i) Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ trang thiết bị tại cơ
sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử
nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới; (ii) Hỗ trợ
đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư
vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo
lường, chất lượng; (iii) Hỗ trợ về thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kế nối
mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng
tạo; (iv) Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; (v) Cơ chế cấp bù lãi suất đối với
khoản vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ khởi nghiệp sáng tạo thông qua các tổ chức
tín dụng (Nghị định số 39/2018/NĐ-CP).
Chi tiết hóa các hình thức hỗ trợ của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là
các chính sách cụ thể về: Thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nghị định 34/2018/NĐ-CP; Nghị định 39/2019/NĐ-
CP); Đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đã tạo khung pháp
luật cơ bản cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, quỹ đầu tư
khởi nghiệp sáng tạo, cơ chế sử dụng ngân sách địa phương đầu tư vào doanh nghiệp
nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư khởi
nghiệp sáng tạo (Nghị định số 38/2018/NĐ-CP);
Hiện thực hóa các chính sách chung Chính phủ đã triển khai Đề án “Hỗ trợ hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 với mục tiêu: Thứ
nhất, giai đoạn đầu đến năm 2020 hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo; thiết lập được cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia;
hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi
được vốn thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập,
với tổng giá trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng; Thứ hai, đến năm 2025, hỗ trợ phát
triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư
từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính
khoảng 2.000 tỷ đồng.(Quyết định số 844/QĐ-TTg)
Để thực hiện tốt Đề án trên, Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai 12 dự án
và 03 đề tài cụ thể sẽ được triển khai với mục tiêu: Nâng cao năng lực cho các thành
phần của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, liên kết các hệ sinh thái khởi

213
nghiệp quốc gia và xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ hỗ
trợ DNKNST (Quyết định số 171/QĐ-BKHCN; Quyết định số 3362/QĐ-BKHCN
Ngoài ra, còn một số đề án khác hỗ trợ sinh viên, phụ nữ khởi nghiệp (Quyết
định số 1665/QĐ-TTg, Quyết định số 939/QĐ-TTg). Bên cạnh đó, còn các nghị quyết
của các HĐND tỉnh, các quyết định, kế hoạch, chương trình của UBND tỉnh về khởi
nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Nhìn chung, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 cùng với các văn bản
hướng dẫn đã tạo nhiều thuận lợi để doanh nghiệp nhỏ và vừa được khởi nghiệp sáng
tạo với các mục tiêu như sau.
Bảng 1. Các mục tiêu chính sách phát triển khởi nghiệp của Việt Nam
Loại
Mục tiêu
Pháp luật
- Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.
Thông tin
- Vận hành Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia
Số lượng dự án
được hỗ trợ
- Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 800 dự án
- Giai đoạn hai (2025): 2.000 dự án
Số lượng doanh
nghiệp được hỗ trợ
- Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 200 doanh nghiệp, trong đó 50
doanh nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 1.000 tỷ đồng
- Giai đoạn hai (2025): 600 doanh nghiệp, trong đó 100 doanh
nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 2.000 tỷ đồng
(Nguồn: VCCI 2017, Tổng hợp từ Đề án 844)
2.2. Đánh giá hệ thống pháp lý và chính sách hỗ trợ DNKNST
Nhìn chung, các quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tại
Việt Nam còn thiếu đồng bộ, cụ thể và vẫn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các
quy định chủ yếu còn mang tính chung chung, có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải
với đối tượng được hỗ trợ là gần như toàn bộ các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà
chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối tượng đặc thù, đặc biệt là các doanh
nghiệp khởi nghiệp.
Mặc dù các quy định, hướng dẫn để triển khai hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp ở
các địa phương đã được cụ thể hóa, rõ ràng hơn, song việc thu hẹp, tập trung vào các
nhóm đối tượng nhất định vẫn chưa được đảm bảo. Không ít trường hợp, các quy
định, hướng dẫn của các địa phương chỉ đơn thuần là lựa chọn và nhắc lại một số nội
dung của Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm
2025”. Tính đến thời điểm hiện tại, Đề án ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg
gần như là văn bản duy nhất đặt ra các mục tiêu cụ thể mang tính định lượng về phát
triển doanh nghiệp khởi nghiệp với các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn. Song, Đề án

21
4
này cũng như các đề án khác chỉ mang tính định hướng, không ràng buộc trách nhiệm
đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có biện pháp xử lý nào trong trường
hợp không đạt được mục tiêu. Từ đó, đã dẫn đến việc thực hiện hỗ trợ DNKNST bị
hạn chế, khó khăn.
3. Thực trạng DNKNST ở Việt Nam hiện nay
3.1. Số lượng DNKNST tại Việt Nam:
Tuy số lượng doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam tương đối cao nhưng
trên thực tế, các DNKNST trong số đó lại rất ít.
Bảng 2: Số lượng DNKNST ở Việt Nam
Năm
Số lượng DNKNST
2015
1.800
2016
3.000
2017
3.860
2018
4.460
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ VCCI, Đề án 844)
Mặc dù số lượng DNKNST còn chiếm số lượng nhỏ so với tổng số doanh
nghiệp hiện nay tuy vậy, nếu tính trên đầu người thì số các công ty khởi nghiệp của
Việt Nam cao hơn các quốc gia khác như Trung Quốc (2.300 công ty khởi nghiệp),
Ấn Độ (7.500 công ty khởi nghiệp) và Indonesia (2.100 công ty).
So sánh giữa các DNKNST cho thấy, số lượng DNKNST trong các lĩnh vực
công nghệ thông tin cao hơn các lĩnh vực khác. Riêng trong lĩnh vực công nghệ, Việt
Nam được đánh giá là thị trường mới nổi giàu tiềm năng.
Theo thống kê của tổ chức Topica Founder Institute (TFI), năm 2017, Việt
Nam tiếp nhận 92 thương vụ đầu tư KNST với tổng số vốn hơn 291 triệu USD, tăng
gần gấp đôi về mặt số lượng thương vụ và gần 50% về mặt tổng số vốn đầu tư so với
năm 2016 (50 thương vụ với 205 triệu USD). Trong số đó, có 8 thương vụ thoái vốn
thành công thông qua mua bán và sáp nhập (M&A) trị giá 128 triệu USD. Năm 2015,
giá trị đầu tư là 137 triệu USD và giá trị thoái vốn là khoảng 300 triệu USD (do có
thương vụ bán Misfit trị giá 260 triệu USD).
Mặc dù có sự tăng trưởng tương đối mạnh mẽ, nhưng nguồn vốn đầu tư cho
DNKNST (hay còn gọi là “startup”) tại Việt Nam vẫn tương đối khiêm tốn so với
khu vực và trên thế giới. Theo Tech in Asia3, năm 2017, khu vực Đông Nam Á đã
thu hút 7,86 tỷ USD đầu tư vào khởi nghiệp, như vậy số vốn đầu tư Việt Nam thu hút
được chiếm tỷ phần rất nhỏ, chưa đến 5%. Theo tạp chí uy tín về khởi nghiệp