intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đột biến T790m thứ phát gây kháng thuốc ức chế hoạt tính EGFR Tyrosine Kinase ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Việt Nam

Chia sẻ: Chua Quen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết báo cáo một trường hợp lâm sàng điển hình của hiện tượng kháng TKI: bệnh nhân ung thư phổi thể biểu mô tuyến giai đoạn muộn di căn phổi đối bên và di căn xương, có đột biến LREA exon 19 gen EGFR gây tăng đáp ứng với erlotinib; sau 15 tháng điều trị bằng erlotinib, bệnh tiến triển, chẩn đoán phân tử trên mảnh mô sinh thiết lại từ khối u đã phát hiện đột biến mới T790M exon 20 gen EGFR gây kháng TKI. Nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của chẩn đoán phân tử cho tình trạng kháng TKI thông qua tái sinh thiết khối u khi bệnh tiến triển trở lại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đột biến T790m thứ phát gây kháng thuốc ức chế hoạt tính EGFR Tyrosine Kinase ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Việt Nam

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> ĐỘT BIẾN T790M THỨ PHÁT GÂY KHÁNG THUỐC ỨC CHẾ<br /> HOẠT TÍNH EGFR TYROSINE KINASE Ở BỆNH NHÂN<br /> UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ TẠI VIỆT NAM<br /> Lê Hoàn, Nguyễn Minh Hà, Trần Vân Khánh, Vương Ngọc Dương,<br /> Ngô Quý Châu, Mai Trọng Khoa, Tạ Thành Văn, Trần Huy Thịnh<br /> Trường Đại học Y Hà Nội<br /> <br /> Tình trạng kháng thứ phát với thuốc ức chế hoạt tính tyrosine kinase (TKI, tyrosine kinase inhibitor) của<br /> EGFR (Epidermal Growth Factor Receptor) ở bệnh ung thư phổi khiến bệnh tiến triển trở lại. Tình trạng này<br /> xảy ra sau khoảng 10 - 20 tháng điều trị ở hầu hết các bệnh nhân có đáp ứng tốt ban đầu với TKI. Nguyên<br /> nhân được xác định là do những biến đổi gen, trong đó sự xuất hiện của đột biến mới T790M trên gen EGFR<br /> chiếm 50% các trường hợp. Chúng tôi báo cáo một trường hợp lâm sàng điển hình của hiện tượng kháng<br /> TKI: bệnh nhân ung thư phổi thể biểu mô tuyến giai đoạn muộn di căn phổi đối bên và di căn xương, có đột<br /> biến LREA exon 19 gen EGFR gây tăng đáp ứng với erlotinib; sau 15 tháng điều trị bằng erlotinib, bệnh tiến<br /> triển, chẩn đoán phân tử trên mảnh mô sinh thiết lại từ khối u đã phát hiện đột biến mới T790M exon 20 gen<br /> EGFR gây kháng TKI. Nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của chẩn đoán phân tử cho tình trạng<br /> kháng TKI thông qua tái sinh thiết khối u khi bệnh tiến triển trở lại.<br /> <br /> Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ, Kháng TKI, Đột biến T790M<br /> <br /> <br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Ung thư phổi hiện có tỷ lệ mắc và tử vong chương trình của tế bào ung thư. Với sự ra<br /> đứng hàng đầu trong các loại ung thư ở cả hai đời của các chất ức chế hoạt tính tyrosine<br /> giới. Bệnh đang có xu hướng tăng nhanh ở kinase (TKI) của con đường tín hiệu khởi<br /> các nước đang phát triển, trong đó có Việt nguồn từ thụ thể yếu tố phát triển biểu mô<br /> Nam. Dù nhiều thành tựu trong chẩn đoán và (EGFR), việc lựa chọn liệu pháp điều trị cho<br /> điều trị được ứng dụng, vẫn có khoảng 70% bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn<br /> bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn muộn đã được mở rộng. Chỉ định liệu pháp<br /> với hiệu quả điều trị hạn chế và giảm chất điều trị thích hợp cho nhóm bệnh nhân này<br /> lượng sống. (EGFR TKI đường uống hoặc hóa trị truyền<br /> Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ y thống) được dựa trên các bằng chứng về tình<br /> sinh học phân tử đã khơi nguồn cho phương trạng phân tử của bệnh hơn là các tiêu chuẩn<br /> pháp điều trị nhắm trúng các đích phân tử lâm sàng [1].<br /> nằm trên con đường tín hiệu chi phối sự tăng Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân ung<br /> trưởng, tăng sinh, biệt hóa và chết theo thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn<br /> mang đột biến gen EGFR làm tăng tính nhạy<br /> cảm với EGFR TKI có tỷ lệ đáp ứng với thuốc<br /> Địa chỉ liên hệ: Lê Hoàn, Bộ môn Nội tổng hợp, Trường<br /> EGFR TKI rất cao, trên 60%, và kéo dài được<br /> Đại học Y Hà Nội<br /> Email: lehoanac@yahoo.com thời gian sống bệnh không tiến triển (PFS)<br /> Ngày nhận: 8/8/2015 trung bình trên 9 tháng [2]. Tuy nhiên, dưới áp<br /> Ngày được chấp thuận: 10/9/2015 lực chọn lọc của các tế bào khối u với thuốc,<br /> <br /> <br /> TCNCYH 97 (5) - 2015 123<br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> sau khoảng 10- 20 tháng điều trị, bệnh tiến sinh thiết đúc paraffin tìm đột biến gen EGFR<br /> triển trở lại ở hầu hết các bệnh nhân có đáp bằng kỹ thuật PCR khuếch đại đặc hiệu alen<br /> ứng tốt ban đầu, thể hiện tình trạng “trơ” của đột biến với mồi Scorpion (Scorpion-ARMS,<br /> tế bào khối u với thuốc [3]. Y học đã ghi nhận Therascreen kit, Qiagen) với độ nhạy phát<br /> một số cơ chế gây nên tình trạng kháng thuốc hiện 1 DNA đột biến/100 DNA. Xét nghiệm<br /> EGFR TKI; trong đó có sự xuất hiện một số gen tại Trung tâm Nghiên cứu Gen-Protein,<br /> đột biến mới tại chính phân tử EGFR (đột biến Trường Đại học Y Hà Nội ghi nhận bệnh nhân<br /> T790M tại exon 20, đột biến L747S hoặc có đột biến mất đoạn điển hình LREA tại exon<br /> D761Y tại exon 19, đột biến T854A tại exon 19 làm tăng tính nhạy cảm với thuốc EGFR<br /> 21…), sự khuếch đại gen cMET (gen mã hóa TKI, không kèm theo đột biến nào khác trên<br /> thụ thế yếu tố phát triển tế bào gan), sự gen EGFR (Hình 2A). Bệnh nhân được chẩn<br /> chuyển dạng biểu mô - trung mô hoặc sự đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn<br /> chuyển từ dạng không tế bào nhỏ sang dạng IV (T2N0M1) thể biểu mô tuyến và được điều trị<br /> tế bào nhỏ [4 - 6]. Đột biến thứ phát T790M tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu-<br /> trên exon 20 gen EGFR là nguyên nhân phổ Bệnh viện Bạch Mai, theo dõi đáp ứng thuốc<br /> biến nhất, chiếm khoảng 50% các trường hợp theo tiêu chuẩn RECIST v1.1, thời gian PFS<br /> [4; 5; 7; 8]. Chẩn đoán phân tử thông qua tái được tính từ lúc bệnh nhân tiếp nhận điều trị<br /> sinh thiết khối u để xác định cơ chế kháng đích cho đến khi bệnh tiến triển.<br /> thuốc từ đó lựa chọn hướng điều trị mới cho Tháng 1 năm 2014, bệnh nhân được chỉ<br /> bệnh nhân đóng vai trò quan trọng. định điều trị bằng erlotinib bước 1 đường<br /> uống 150mg/ngày, kết hợp với bisphospho-<br /> II. GIỚI THIỆU MỘT TRƯỜNG HỢP<br /> nate và điều trị triệu chứng. Sau 6 tháng điều<br /> UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO<br /> trị, bệnh nhân hoàn toàn hết đau, đã quay trở<br /> NHỎ KHÁNG THUỐC ĐIỀU TRỊ ĐÍCH lại công việc, bệnh đạt đáp ứng một phần (các<br /> Bệnh nhân nữ, là nhân viên văn phòng. tổn thương tại phổi đã xóa gần hết, hình ảnh<br /> Bản thân bệnh nhân và chồng không hút đặc xương tại vị trí tổn thương di căn trước<br /> thuốc lá và tiền sử gia đình không có ai mắc đây ở xương sườn, thân đốt sống) (Hình 1B).<br /> bệnh ung thư. Bệnh nhân được chẩn đoán Sau 14 tháng điều trị, bệnh đạt mức ổn định.<br /> ung thư phổi không tế bào nhỏ vào tháng 12 Tại thời điểm tháng thứ 15 sau điều trị liên tục<br /> năm 2013, khi 40 tuổi. Tại thời điểm chẩn erlotinib, bệnh nhân xuất hiện đau ngực trái và<br /> đoán, bệnh nhân đau vùng cột sống nhiều, đau vùng cột sống ngực, kết quả PET - CT ghi<br /> không tự đi lại được. Hình ảnh PET - CT cho nhận tổn thương di căn mới ở phổi đối bên và<br /> thấy khối u thùy dưới phổi trái, kích thước 3,0 cột sống (Hình 1C). Nghi ngờ có tình trạng<br /> x 2,7 cm tăng hấp thu FDG max SUV = 8,57, kháng erlotinib, bệnh nhân được tái sinh thiết<br /> tổn thương xương đa ổ tăng hấp thu FDG ở cùng vị trí tổn thương phổi trái và kết quả<br /> mạnh, đặc biệt tại xương sườn số 6 trái và đốt giải phẫu bệnh xác định là ung thư thể biểu<br /> sống ngực 7 - 8 (Hình 1A). Sinh thiết khối u mô tuyến, kết quả phân tích gen EGFR cho<br /> phổi trái dưới hướng dẫn của CT, giải phẫu thấy xuất hiện thêm đột biến T790M tại exon<br /> bệnh cho kết quả ung thư thể biểu mô tuyến, 20, bên cạnh đột biến xóa đoạn LREA ban<br /> xét nghiệm gen được tách chiết từ mẫu mô đầu (Hình 2B).<br /> <br /> <br /> <br /> 124 TCNCYH 97 (5) - 2015<br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A B C<br /> <br /> <br /> Hình 1. Hình ảnh PET - CT của bệnh nhân<br /> <br /> A: Tại thời điểm chẩn đoán, PET - CT ghi nhận khối u thùy dưới phổi trái, kích thước 3.0 x 2.7<br /> cm tăng hấp thu FDG max SUV = 8,57, tổn thương xương đa ổ tăng hấp thu FDG mạnh, đặc biệt<br /> tại xương sườn số 6 trái và đốt sống ngực 7 - 8.<br /> B: Tại thời điểm 6 tháng sau điều trị erlotinib, u thùy giữa phổi trái xơ hóa gần như hoàn toàn,<br /> hình ảnh đặc xương tại vị trí tổn thương di căn trước đây ở xương sườn, thân đốt sống.<br /> C: Tại thời điểm 15 tháng sau điều trị erlotinib, bệnh có dấu hiệu tiến triển với tổn thương di<br /> căn mới ở phổi phải và cột sống.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 2. Kết quả xác định đột biến gen EGFR bằng kỹ thuật Scorpion ARMS<br /> <br /> <br /> <br /> TCNCYH 97 (5) - 2015 125<br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> A: Tại thời điểm trước điều trị erlotinib, khi phân tích mẫu DNA bằng kỹ thuật Scorpion ARMS,<br /> xuất hiện đường cong tín hiệu của đột biến xóa đoạn LREA exon 19 bên cạnh đường cong tín<br /> hiệu của gen nội chuẩn. Không xuất hiện thêm bất kỳ đường cong tín hiệu tương ứng với bất kỳ<br /> đột biến gen EGFR nào khác, chứng tỏ tại thời điểm này, bệnh nhân chỉ có đột biến LREA làm<br /> tăng tính nhạy cảm với thuốc EGFR TKI.<br /> B: Tại thời điểm bệnh tiến triển, khi phân tích mẫu DNA bằng kỹ thuật Scorpion ARMS, bên<br /> cạnh đường cong tín hiệu của gen nội chuẩn và của đột biến LREA, đã xuất hiện thêm đường<br /> cong tín hiệu của đột biến T790M exon 20, chứng tỏ tại thời điểm này, bệnh nhân đã xuất hiện<br /> thêm đột biến thứ phát T790M gây kháng thuốc EGFR TKI.<br /> <br /> Đạo đức trong nghiên cứu vị trí 2369 trên exon 20 bị biến đổi thành<br /> Đối tượng tham gia nghiên cứu là hoàn nucleotid thymidine (T), dẫn đến acid amin<br /> toàn tự nguyện và có quyền rút khỏi nghiên threonine (T) trên phân tử protein EGFR<br /> cứu khi không muốn tham gia nghiên cứu. (được mã hóa bởi codon 790 trên exon 20), bị<br /> Các thông tin liên quan đến người tham gia biến đổi thành acid amin methionine (M).<br /> nghiên cứu được đảm bảo bí mật. Đề tài đã Được xếp vào loại đột biến “gác<br /> được thông qua hội đồng đạo đức của cổng” (gatekeeper mutation), sự biến đổi cấu<br /> Trường Đại học Y Hà Nội. trúc protein EGFR tại vị trí đột biến T790M<br /> không tạo ra sự phong tỏa về vị trí không gian<br /> III. BÀN LUẬN đối với thuốc TKI mà nó làm hồi sinh ái lực<br /> Đây là một trường hợp lâm sàng điển hình, của EGFR với ATP, đối kháng lại cơ chế ức<br /> là bằng chứng minh họa cho tình trạng phát chế kinase theo kiểu cạnh tranh ATP của TKI<br /> triển đột biến thứ phát dưới áp lực chọn lọc [6]. Theo đó, các TKI ức chế thuận nghịch như<br /> thuốc điều trị của tế bào ung thư. Khi chưa erlotinib hoặc gefitinib có hiệu quả rất giới hạn<br /> điều trị erlotinib, khối u phổi nguyên phát có với thể đột biến T790M, trong khi các TKI<br /> đột biến xóa đoạn LREA exon 19 trên gen không thuận nghịch như afatinib có thể vượt<br /> EGFR, đột biến làm mất 15 nucleotid tại exon qua hiện tượng này nhờ hình thành các nối<br /> 19 của gen EGFR và mất tương ứng 5 acid cộng hóa trị với vùng gắn ATP, do đó giúp kéo<br /> amin (được mã hóa từ codon 746 đến codon dài hiệu quả ức chế hoạt tính tyrosine kinase<br /> 750) của phân tử protein EGFR. Sự biến đổi [7]. Thử nghiệm in vitro cho thấy nồng độ tối<br /> cấu trúc tại vùng giữ chức năng tyrosine thiểu của gefitinib, erlotinib trong máu để ức<br /> kinase (exon 18 - 21) của protein EGFR gây chế protein EGFR có đột biến T790M cao gấp<br /> giảm ái lực của protein EGFR với ATP tại khe 300 lần nồng độ cần thiết để ức chế protein<br /> gắn ATP. Do đó, phân tử thuốc EGFR TKI EGFR chỉ có đột biến LREA hoặc L858R [8].<br /> không phải cạnh tranh với ATP và EGFR trở Hệ quả là dòng tế bào ung thư phổi không tế<br /> nên nhạy cảm hơn với thuốc [1]. Theo thời bào nhỏ mang đột biến T790M (dòng H1975)<br /> gian tiếp xúc liên tục với một EGFR TKI, trong có khả năng chịu đựng với gefitinib, erlotinib<br /> trường hợp này là erlotinib, gen EGFR của tế tốt hơn nhiều so với dòng tế bào ung thư phổi<br /> bào ung thư đã xuất hiện một đột biến mới là không tế bào nhỏ mang đột biến LREA (dòng<br /> đột biến điểm T790M. So sánh với trình tự H3255) hoặc L858R (dòng HCC827).<br /> gen EGFR lành tính, nucleotid cytosine (C) tại Vai trò tiên đoán âm tính của thể đột biến<br /> <br /> <br /> 126 TCNCYH 97 (5) - 2015<br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> T790M đối với thuốc EGFR TKI thế hệ 1 từ đó mở ra cho bệnh nhân cơ hội được chỉ<br /> (erlotinib và gefitinib) đã được đề cập khi các định sử dụng những thuốc điều trị đích mang<br /> bằng chứng lâm sàng cho thấy bệnh nhân lại không chỉ hiệu quả về kéo dài thời gian<br /> mang đột biến T790M nguyên phát được sống mà còn cả nâng cao chất lượng sống.<br /> hưởng lợi rất ít từ liệu pháp erlotinib và có thời<br /> IV. KẾT LUẬN<br /> gian PFS ngắn hơn đáng kể so với các bệnh<br /> nhân không có đột biến T790M [9; 10]. Như Thông qua một trường hợp ung thư phổi<br /> vậy, việc sớm xác định được các biến đổi không tế bào nhỏ kháng lại erlotinib điển hình<br /> phân tử trên gen EGFR sẽ giúp chỉ định liệu sau 15 tháng điều trị được phát hiện sự xuất<br /> pháp điều trị hiệu quả, ngay cả khi tồn tại đột hiện đột biến mới T790M tại gen EGFR. Tầm<br /> biến kháng thuốc T790M. quan trọng của chẩn đoán phân tử thông qua<br /> Các phân tích đặc điểm phân tử của khối u tái sinh thiết khối u khi bệnh tiến triển được<br /> cho thấy rằng tại mỗi thời điểm trong tiến trình ghi nhận.<br /> của bệnh, các đánh giá đáp ứng lâm sàng của<br /> Lời cảm ơn<br /> bệnh nhân đều được giải thích bởi các kết<br /> quả xét nghiệm gen, không chỉ gen EGFR mà Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Trung<br /> trong tương lai, còn có nhiều đích phân tử tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu - Bệnh viện<br /> tiềm năng khác như KRAS, ALK, MET…Ngoài Bạch Mai đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện<br /> nguyên nhân do đột biến thứ phát T790M, nghiên cứu. Đề tài được thực hiện với sự hỗ<br /> điều hòa ngược dòng HER2 hoặc khuếch đại trợ kinh phí của đề tài cấp nhà nước “Nghiên<br /> gen cMET là những cơ chế thường gặp gây cứu những biến đổi trong bộ gen tế bào ung<br /> kháng thứ phát với thuốc EGFR TKI thế hệ 1 thư phổi và lơ-xê-mi kinh dòng hạt kháng<br /> [4]. Trên bệnh nhân này, các rối loạn phân tử thuốc điều trị đích” thuộc chương trình<br /> khác chưa được xác định ngoài đột biến gen KC.04.16/11-15<br /> EGFR. Hy vọng trong thời gian tới, các phòng<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> xét nghiệm sinh học phân tử ung thư tại nước<br /> ta sẽ có đầy đủ nhân lực cũng như trang thiết 1. Dienstmann R., Martinez P., Felip E.<br /> bị để xác định được các rối loạn phân tử này, (2011). Personalizing therapy with targeted<br /> để bệnh nhân được hưởng lợi ích cao nhất từ agents in non-small cell lung cancer.<br /> liệu pháp cá thể hóa điều trị đích trong bệnh Oncotarget, 2(3), 165 – 177.<br /> ung thư phổi không tế bào nhỏ. 2. Ohashi K., Maruvka Y., Michor F. and<br /> Quyết định lựa chọn loại thuốc điều trị đích Pao W (2013). Epidermal Growth Factor Re-<br /> dựa trên các bằng chứng về sinh học phân tử ceptor Tyrosine Kinase Inhibitor–Resistant<br /> sẽ dẫn đến những đáp ứng trong tế bào và Disease. J Clin Oncol, 31, 1 - 12.<br /> biểu hiện lâm sàng bên ngoài tương ứng. Do 3. Nurwidya F., Takahashi F., Murakami<br /> đó, sinh thiết ban đầu và tái sinh thiết mỗi khi A et al (2014). Acquired resistance of non-<br /> quyết định thay đổi thuốc điều trị đích là vô small cell lung cancer to epidermal growth<br /> cùng cần thiết. Dù là một thủ thuật xâm lấn, factor receptor tyrosine kinase inhibitors.<br /> nhưng việc tái sinh thiết khối u có thể cung Respiratory Investigation, 52(2), 81 - 91.<br /> cấp những dữ kiện xác thực và đáng tin cậy 4. Engelman J.A., Zejnullahu K., Mitsu-<br /> nhất về tiến triển của bệnh ở cấp độ phân tử, domi T et al (2007). MET amplification leads<br /> <br /> <br /> TCNCYH 97 (5) - 2015 127<br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> to gefitinib resistance in lung cancer by activa- 8. Avizienyte E., Ward R.A. and Garner<br /> ting ERBB3 signaling. Science, 316, 1039 - A.P. (2008). Comparison of the EGFR<br /> 1043. resistance mutation profiles generated by<br /> 5. Sequist L.V., Waltman B.A., Dias- EGFR-targeted tyrosine kinase inhibitors and<br /> Santagata D et al (2011).Genotypic and the impact of drug combinations.Biochem J,<br /> histological evolution of lung cancers acquiring 415(2),197 - 206.<br /> resistance to EGFR inhibitors. Sci Transl Med, 9. Su K.Y., Chen H.Y., Li K.C et al (2012).<br /> 375, 26. Pretreatment epidermal growth factor receptor<br /> 6. Yun C.H., Mengwasser K.E., Toms A.V (EGFR) T790M mutation predicts shorter<br /> et al (2008). The T790Mmutation in EGFR EGFR tyrosine kinase inhibitor response dura-<br /> kinase causes drug resistance by increasing- tion in patients with non - small-cell lung can-<br /> the affinity for ATP. Proceedings of the Na- cer. Journal Clin Oncol, 30(4), 433 - 440.<br /> tional Academy ofSciences of the United 10. Rosell R., Molina M.A., Costa C et al<br /> States of America, 105(6), 2070 - 2075. (2011). Pretreatment EGFR T790M mutation<br /> 7. Li D., Ambrogio L., Shimamura T et al and BRCA1 mRNA expression in erlotinib-<br /> (2008). BIBW2992, anirreversible EGFR/ treated advanced non-small-cell lung cancer<br /> HER2 inhibitor highly effective in preclinical patients with EGFR mutations. Clin Cancer<br /> lung cancer models. Oncogene, 27(34), Res, 17(5), 1160 – 1168.<br /> 4702 - 4711.<br /> <br /> Summary<br /> ACQUIRED RESISTANCE TO EGFR TYROSINE KINASE<br /> INHIBITORS BY THE EGFR T790M MUTATION IN A NON - SMALL CELL<br /> LUNG CANCER PATIENT IN VIETNAM<br /> Acquired resistance of EGFR (Epidermal Growth Factor Receptor) tyrosine kinase inhibitors<br /> (TKIs) in non-small cell lung cancer patients cause recurrent of the disease. This phenomenon<br /> prevails after 10 - 20 months of treatment in most of the patients that were the primary responded<br /> to EGFR TKIs. It was shown to be related to several genetic alterations in which the most frequent<br /> (50%) is the secondary mutation T790M in exon 20 of the EGFR gene. This study reports a typi-<br /> cal clinical case with TKI acquired resistance: patient with the advanced adenocarcinoma of the<br /> lung which had already metastasized to the bone and the latter lung, harbored an LREA deletion<br /> mutation in exon 19 of the EGFR gene. The tumor progressed after 15 months of erlotinib treat-<br /> ment. The re-biopsy tumor revealed a secondary T790M mutation in exon 20, conferring resis-<br /> tance to erlotinib. The study demonstrated a critical role of molecular diagnostics for TKI acquired<br /> resistance through rebiopsies at the time of disease progressions.<br /> <br /> Keywords: Non-small cell lung cancer, TKI acquired resistance, Secondary T790M mutation<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 128 TCNCYH 97 (5) - 2015<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0