NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI




Hội Chưử Đồng Tử (Hai Eế Phu, Ảnh: Nguyễn Văn Cự
ứ_ hình thức lễ hội động văn hoá tình
TỪ #ã XỨA, con người lao động kiếm sống, họ đã có
hội là những hoạt thân của loài người từ bao đời nay. khi nhu cầu diễn tả niềm vui trước những thành qua đạt được của mình. Sau khi hái lượm trở về, họ lại quây
quần quanh đống lửa - trung tâm của
săn bắn,
thị tộc - vừa ăn uống vừa nhảy múa, để mạnh, niềm vui và mong muốn thần linh phù hộ cho mình đạt Đó là lễ hội sớm nhất của người trong lịch sử. Lễ hội đi liền với trò chơi dân gian làm sinh động lôi cuốn lòng ngươi một tự nguyện và say mô.
biêu thị sức được thành quả trong công việc. những hình thức các cộng đồng
cách Trên thế giới. đân tộc nào cũng có lê
hội. Nó như là một loại hình tỉnh thần đặc
sinh hoạt
văn hoá biệt mang tính
GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI TRUYÊN THÔNG TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
NGUYÊN VĂN MẠNH(*)
tập thể, nhằm thoả mãn nhu cầu tâm linh, củng cố ý thức cộng đồng. Lễ hội chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội, tâm lí - tích cách và tín ngưỡng - tôn giáo của các tộc người trên khắp hành tỉnh của chúng ta.
Tuy nhiên, lễ hội phát huy giá trỊ và phát triên mạnh mẽ nhất ở những vùng cư dân sống quần tụ trong tinh thần cộng đồng làng xã, như cư dân nông nghiệp ruộng nước, nông nghiệp nương rẫy và cả cư dân ở những vùng ven biển, đầm phá... Đối với cư dân nương rẫy, do sống trong môi trường khắc nghiệt của vùng rừng núi, họ phải cố kết với nhau để chống lại sự hiểm trỏ, huyền bí của tự nhiên; đối với cư dân nông nghiệp ruộng nước do nhu cầu thời vụ và trị thuỷ, họ phải sống quần tụ thành những làng xã ổn định; đối với cư dân vùng đầm phá ven biển, do nhu cầu nghề nghiệp họ cũng phải liên kết với nhau trong quan hệ cộng đồng bền chặt... Và chính tình thần cộng đồng đó là cái nôi nuôi dưỡng các hình thức lễ hội; nơi đó dân cư của làng có dịp vul chơi, giao lưu tình cảm xóm làng, quê hương và gửi gắm cho nhau những ước vọng về một cuộc sống âm no hạnh phúc...
(Tlr
FS, Trường Đại học khoa học Huế. 1
NGUYÊN VĂN MẠNH
————=====—— _ —
Ở Việt Nam, các dân tộc nước ta đều sống trong các tổ chức làng, bản. Làng, bản là một kết cấu xã hội có tính cộng đồng cao, biểu hiện ở cộng đồng dân cư, cương vực kinh tế - văn hoá - xã hội của nó. Cư dân của làng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau từ rất lâu đời, trong "tình làng, nghĩa xóm". Nơi ấy, trong tâm thức của dân làng là "quê cha đất tổ", là nơi có phần mộ ông, bà, tổ tiên, eó vợ con họ hàng thân thuộc. Làng liên quan đến dòng họ, tông tộc, máu mủ ruột rà. Nhiều làng người Việt được xây dựng trên cơ sở 2 -3 dòng họ, thậm chí chỉ một dòng họ (làng huyết tộc). Hơn nữa làng còn có quan hệ bà con lối xóm trong cái tình nghĩa "bán anh em xa mua láng giềng gân", đã từng sớm hôm "tối lửa tắt đèn có nhau". Như vậy làng, trong quan hệ nhiều chiều, đã tạo cơ sở cho sự ra đời một loại hình văn hoá thôn quê mà lễ hội làng là một biểu hiện sinh động nhất của nó.
Lễ hội làng là một đặc trưng nổi bật nhất của đồng bào các dân tộc nước ta. Dân cư của làng sau những ngày tháng lao động miệt mài một nắng hai sương, họ dành ra những khoảng thời gian để nghỉ ngơi, vui chơi và thờ phụng thần linh. Đó cũng là dịp để mọi người cùng nhau trổ hết tài năng của mình, sáng tạo những trò chơi hay, điệu múa, hát độc đáo để cùng nhau chuẩn bị lễ vật, chuẩn bị nghi thức cho việc cúng tế. Đó cũng là dịp để mọi người truyền thụ cho nhau những kinh nghiệm sản xuất, những kinh nghiệm sống, những làn điệu dân ca, dân vũ... Với ý nghĩa đó "... Lễ hội là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng nghệ thuật như mĩ thuật, nghệ thuật giải trí, kịch văn hoá và với ý nghĩa đó, lễ hội tổn tại và có liên quan mật thiết với sự phát
.”.. “% 1. Là 1 triển của văn hoá"?),
Lễ hội còn là chỗ dựa tỉnh thần của nhân dân để mỗi người hướng về tổ tông,
dòng tộc, về thế giới tâm linh để con người giao cảm với thần linh, với thiên nhiên. Và từ đó, tất cả mọi người tham gia lễ hội hưng phấn, thăng hoa trong một không khí vui vẻ, vừa trang nghiêm, vừa trần tục, vừa linh thiêng. Đúng như nhà văn hoá người Nga M.Bachie đã từng nói: "Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức lễ tế và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và qui tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng và các biểu tượng vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát li tạm thời thực tại hữu hiệu, đạt tới hiện thực lí tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cán CÓ,
Rõ ràng, lễ hội là "thời điểm mạnh của sinh hoạt cộng đồng"®) để. mọi người cùng nhau chuẩn bị lễ vật và trò diễn và cùng nhau vui chơi, giao cảm tình quê hương, cùng nhau hưởng thụ các giá trị vật thể và phi vật thể, Cũng thông qua đó, các công trình kiến trúc đình chùa, các cơ sở thờ tự của làng và cả con người, cả không gian tĩnh lặng của làng cũng trở lên có hồn hơn.
Lễ hội vì thế mang đầy đủ các giá trị nhân bản sau đây:
1. Giá trị công đồng.
Lễ hội trước hết là hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, sau đó là những hoạt động vul chơi, hội hè, giải trí mang tính tập thể cao, bởi lễ hội có sức hấp dẫn VỚI mọi người và cũng đòi hỏi sự tham gia của mọi thành viên trong làng. Trên bình diện cả làng, lễ hội được duy trì trên nền của tín ngưỡng, tôn giáo của làng. Do đó, về nhu cầu tâm linh, lễ hội NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5
————————==————————————ễẽE=EễEE============
đã tập hợp tất cả mọi thành viên trong làng tham gia. Trong quá trình thực hiện lễ hội, các dòng họ, các gia đình có trách nhiệm đóng góp lễ vật để đâng cho thần lĩnh, tham gia chuẩn bị cơ sở vật chất và cùng nhau tiến hành các trò điễn xướng cho quá trình lễ hội. Và cuối cùng, là chủ nhân của những lễ vật thơm ngon, tình khiết, mọi người phải được hưởng thụ những sản vật ấy (lấy may) và như một lẽ thường tình, cùng được thưởng thức những món ăn ngon. Lễ hội làng còn biểu hiện sức mạnh cộng đồng, mối quan hệ ứng xử, giao tiếp tốt đẹp giữa các thành viên với nhau. giữa cá nhân với cộng đồng... Tất cä điều đó đã tạo nên giá trị cộng đồng của lễ hội làng.
9. Giá trị giáo dục.
Lễ hội là những hoạt động văn hoá tỉnh thần thể hiện tình cảm của con người với thần thánh, tổ tiên để cầu mong mọi lực lượng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, nghề nghiệp phát đạt, con người khoẻ mạnh, bình an. Bằng nội dung của mình, lẽ hội bao giờ cũng chứa dựng trách nhiệm nhắc nhở mọi thành viên của cộng đồng những bài học về đạo lí của ông cha, về lịch sử của làng, về tỉnh thân lạc quan, yêu lao động... Và cứ thế, lễ hội giúp cho các thành viên của làng nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình với tổ tiên và sống sao cho xứng đáng với ông bà, dòng tộc. Bởi vậy, lễ hội có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục đạo đức, truyền thống cho mọi thành viên của làng nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.
3. Giá trị phún únh hiện thực cuộc sống 0uà bởdo tàng uăn hoá truyền thống.
Lễ hội là một hình thức tái hiện lại cuộc sống quá khứ và hiện tại bằng các
hình thức lễ tế và trò diễn. Đó là cuộc sống lao động sáng tạo và chống lại thiên tai, địch hoạ được thể hiện dưới dạng những hoạt động văn hoá tỉnh thần vô cùng sinh động như các hình thức tế lễ, trang phục truyền thống, cờ phướn, những bài văn tế, những món ăn cổ truyền, những điệu múa, hát, nhạc cụ, trò chơi dân gian... Và nhờ những hoạt động tâm linh, tôn giáo và văn nghệ dân gian đó mà các kiến trúc đình, chùa, đền, miếu của dòng họ, của làng cũng trở nên có hồn hơn. Vì thế các thành viên của làng càng có ý thức sắp xếp, trùng tu, tôn tạo các công trình kiến trúc đặc sắc của làng.
Cũng thông qua lễ hội, các kinh nghiệm lao động san xuất, kinh nghiệm sông của ông cha được tái hiện để con cháu học tập, noi theo.
Như vậy, lễ hội càng phát triển, dân làng càng có điều kiện tái hiện cuộc sống của mình bằng các hình thức nghệ thuật diễn xướng và càng có điều kiện bảo tồn các di sản văn hoá truyền thống như trang phục, ầm thực, ea múa nhạc, các trò chơi dân gian...
4. Giá trị uăn hoá tám lính.
Lễ hội đã đáp ứng nhu cầu tâm linh và đời sống văn hoá tỉnh thần của cộng đồng dân cư làng. Bởi vì trong quá trình lao động sáng tạo, để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình, cộng đồng làng không chỉ có biến đổi cái tự nhiên để tạo ra sản phẩm văn hoá mà còn hoà vào với thế giới hữu hình và vô hình trong tự nhiên. Và không ít trương hợp con người bất lực trước sức mạnh tự nhiên, họ phải nhờ đến sự phù hộ, che chở của tổ tiên, dòng tộc, thành hoàng và các vị thần linh khác trong cuộc sống, trong lao động sản xuất... Họ cầu mong thần linh phù hộ cho cuộc sống bình an, cây trồng bội thu, có thành 6
NGUYÊN VĂN MẠNH


quả cao trong nghề nghiệp và cảm tạ thân linh đã phù hộ cho với lòng ngưỡng mộ chân thành. Chỉ có với lễ hội, các cộng đồng cư dân mới có địp được thoả mãn đời sống tâm linh, được nghỉ ngơi và vui chơi hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Như vậy, lễ hội với những hình thức cúng tế, dâng lễ vật, cầu nguyện thần linh.... đã làm cho nó ấn chứa trong mình giá trị văn hoá tâm linh.
5. Giá trị binh tế.
Giá trị kinh tế của lễ hội thể hiện ở hai mặt: làm cho con người vui tươi, lạc quan, hăng say hơn trong quá trình lao động sáng tạo và tạo nên môi trường du lịch văn hoá hết sức hấp dẫn. Ở mặt thứ nhất, lễ hội như là một nhân tố tạo nên sự thư dãn tinh thần, là sự biểu hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, với thần thánh và với cộng đồng xã hội. Mỗi con người, khi tham gia vào các hoạt động lễ hội đều tìm thấy cho mình sự hồn nhiên, hưng phấn, những cảm xúc tràn ngập và sự vui tươi lạc quan. Nhờ không khí linh thiêng mà vui tươi, nghiêm trang mà rộn ràng của ngày lễ hội mà mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều thấy được tháo bỏ những quản bách, những bực dọc, mệt mỏi của cuộc sống cộng đồng làng xã ngưng đọng. Trên tỉnh thần đó, lễ hội có tác dụng thúc đẩy quá trình lao động sáng tạo làm cho con người hăng say hơn, vui tươi hơn, làm ra của cải, vật chất nhiều hơn.
Ở mặt khác, lễ hội dân gian là một bao tàng văn hoá, nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc, nơi phản ánh tâm thức của con người một cách trung thực nhất. Với nghành du lịch, lễ hội dân gian là một sản phẩm
văn hoá đặc biệt, nhằm giới thiệu cho du khách đất nước và con người Việt Nam hôm qua, hôm nay và các giá trỊ văn hoá đặc sắc ẩn chứa trong tầng sâu ác trò diễn, các câu ca, điệu múa, các lễ vật cúng tế; vả lại, từ trong thảm sâu tâm linh, con người vẫn có nhu cầu đi lễ hội để thực thi những tín ngưỡng tôn giáo, để cầu mong một cuộc sống bình an cho chính ban thân, cho gia đình và cộng đồng. Người ta đến với lễ hội để tìm hiểu văn hoá truyền thống của dân tộc, để tham quan cảnh sắc đẹp đẽ, kì thú của các làng quê... Tất cä điều đó như những lời mời gọi thiết tha các du khách đến với lễ hội và như một lẽ thường tình nghành du lịch không thể không sử dụng lễ hội dân gian với tư cách là một sản phẩm văn hoá để giới thiệu đất nước con người Việt Nam cho bạn bè bốn phương. Lễ hội vì thế đã mang trong mình giá trị kinh tế đặc biệt.
Tóm lại, lễ hội truyền thống là hình thức phản ánh khát vọng của con người muốn vươn đến cuộc sống vui tươi, ấm no, hạnh phúc, đồng thời nó cũng phản ánh tình cảm thiêng liêng chân thành của các lớp dân cư trong làng xã đối với những người có công với dân, với nước, với những lực lượng vô hình phù hộ cho họ trong nghề nghiệp.Ø
N.V.M
(1) Lỡi nói cua Giáo sư Nhật Bản Kurabayashi, dẫn theo Hồ Hoàng Hoa, Lễ hột một nét đẹp trong sinh hoạt uăn hod cộng đồng. Nxb Khoa học xã hội , Hà Nội, 156, 1T.2d:
(2) M.Bachie, Sáng tác của Rabơle cô Uuà phục hưng, Nxb Khoa học, Matxcova, 1890 (bản tiếng Nga)
(3) Chữ của GS Định Gia Khánh, dân theo Nguyễn Chí Bền, Văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, tr.112.