TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

65

CÁ SẤU TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM

NGUYỄN THANH LỢI

1. Cá sâu trong các nền văn hóa ở phương Tây, ngưòi ta chú ý đến tính háu ăn của cá sấu nhưng đặc biệt biến nó thành biểu tượng của sự hai mặt. Trong thần thoại Trung Hoa, cá sấu đã sáng chế ra trống và bài hát, đóng vai trò nhất định trong sự hòa điệu của vũ trụ. Các truyền thuyết Campuchia đặt cá sấu vào môĩ quan hệ vổi ánh sáng của ngọc trai và kim cương. Thông qua con vật này, chúng ta gặp lại biểu tượng của chổp hoặc gắn bó với mưa.

Tại Ấn Độ, cá sấu là vật cưỡi của Mantra Vam, hạt giống ngôn từ của nước. Trên tranh tượng thờ, nó không khác gì makara, vật cưỡi của thần Varuna là chúa tể của nưốc. Trong huyền thoại và tín ngưỡng dân gian Campuchia, chúa tể của đất và nước không phải là con rắn Nagar ỏ Angkor, mà là con vật có tên đồng âm và hoàn toàn tương đương, đó chính là Nak (cá sấu). Asura Ball, ỏ Campuchia là Kron Pâli, chủ đất, tức cá sấu. á sấu (crocodilĩa) là loài bò sát ở nứớc. Cơ thể của chúng dài từ 2 - 5m, có khi đến 6m. Cá có đầu dẹt, bằng, mõm dài, đuôi rất khỏe, dẹt bên hình bơi chèo, phủ các phiến sừng. Chân cá sấu ngắn, to, mắt nằm cao, lỗ mũi, lỗ tai có van chắn nước. Da cá dày, da lưng và da bụng có các bản xương dày. Răng hình chóp nón. Não phát triển, thị giác và thính giác cũng rất phát triển. Con cái đẻ trứng thành các ổ, giấu trong cát hay bụi lau sậy, trứng có vỏ vôi chắc. Chúng có tập quán hoạt động về đêm, hung dữ, ăn động vật, đặc biệt là thích tấn cồng người. Cá sấu phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, sông ỏ sông, hồ, ao, đầm, số ít sống ỏ ven bờ biển(1).

Cò cá sấu được dùng trong các tang lễ ồ Campuchia, gắn với truyền thuyết về Kron Pâli, ngự trị ỏ thế giới âm ti, rất gần với hình ảnh cá sấu của thần Seth của Ai Cập hay Typhon của Hy Lạp - biểu tượng của bóng tôì và sự chết. Cá sấu cũng gắn bó với vương quốc của những ngưòi chết ở nhiều nước châu Á.

Từ buổi đầu khai phá vùng đất Nam Bộ, những cư dân nơi đây không chỉ đôì mặt với rừng rậm hoang vu mà còn đốĩ mặt với thú dữ. Đánh cọp, đuổi sấu là những hoạt động diễn ra thường xuyên nơi miền đất mới này, nó đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong tâm thức của ngưòi dân nơi đây.

Đốỉ với người Pueblo - Mixtèque và người Aztèque (Mêhicô cổ), đất được sinh ra từ cá sấu sống dưới biển nguyên thủy. Trong Codex Borgia, cá sấu được họa hình như là biểu tượng của đất. Cá sấu trong sách chép tay Chỉlam Balam là một trong những tên của con rồng trời sẽ phun nước làm nên đại hồng thủy vào ngày tận thế. Cư dân miền sông nước này giết sấu để trừ mối họa, đồng thời cũng khai thác nguồn lợi từ đó. Sự đốỉ đầu đó đã để lại dấu ấn rõ nét trong tín ngưỡng, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, địa danh... của một thồi khẩn hoang, lập ấp, những câu chuyện tưỏng như hoang đường mà rất giàu tính hiện thực.

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

66

Theo dị bản về cuộc sáng thế của người Maya, cá sấu nguyên thủy đã mang quả đất trên lựng mình trong một vỏ sò.

Như một thần linh âm ti, cá sấu hay xuất hiện như một nhân vật thay thế cho Jaguar vĩ đại, chúa tể của các thế giới dưới đất, thông qua biểu tượng cây súng.

ở Mélanésie, cá sấu - tể phụ sáng lập ra đẳng cấp xã hội thứ tư, xuất hiện sau cùng với rắn là con vật thay thế.

quỷ ác dữ, biểu tượng của bản chất tội lỗi. Phồn thực và tàn bạo, nó là hình ảnh của thần chết, vậy nên đóng vai trò dẫn dắt linh hồn. Những người chết ỏ Ai Cập đôi khi được thể hiện dưối hình dạng những con cá sấu. Nó giống như những con khủng long thồi tiền sử và những con rồng trong thần thoại. Với tư cách ấy, nó là vị chủ của những bí ẩn về sự sống và sự chết, là đấng truyền phép vĩ đại, là biểu tượng của tri thức huyền bí, là ánh sáng hoặc bị che khuất đi hoặc biến thành sét đánh(3).

Trong thần thoại Ai Cập, cá sấu Sebek(2) tham gia chầu chực ở các cuộc cân linh hồn được gọi là Ông Sấu nghiên. Nó nuốt chửng những linh hồn không biện minh được cho mình. Nhiều đền thd cá sấu được lập ở các vùng có nhiều đầm hồ. Có cả một thành phô" được mang tên riêng của cá sấu: Crocodilopolis. Nó được tôn xưng là bò tót trong những bò tót, là con vật đực vĩ đại, là thần phồn thực, vừa thủy tính, âm ti tính, lại thiên tính, thái dương tính. Nhiều nhóm cư dân trên một sô" đảo thuộc Indonesia, Philippin giữ một thái độ cung kính đặc biệt đô"i với cá sấu. Trên nhiều đảo thuộc châu Đại Dương còn lưu truyền những cổ tích và huyền tích nói về việc phụ nữ bị cá sâu phủ. Hệ truyện này rất gần với hệ truyện lớn của Đông Nam Á lục địa kể chuyện phụ nữ bị rắn phủ. Cá sấu tương đồng vối rắn, vì đều là đại diện của thê" giới bên dưới.

Qua công trình Étude sur les rites agraires des Cambodgỉens (Nghiên cứu về các lễ tiết nông nghiệp của người Campuchia) của E. Porée Maspéro, ta có thể thấy được chức năng thần nưóc của cá sấu, chức năng chúa đất của nó, vị trí của nó trong các nghi lễ và kiêng kị, hình tượng của nó trong cổ tích và huyền tích(4).

2. Mấi quan hệ giữa cá sâ"u và Trong Kinh Thánh, cá sấu mang tên Léviathan, được miêu tả như một trong những quái vật của cõi hỗn mang nguyên thủy, ở phương Tây, cá sấu gần gũi với rồng về ý nghĩa, nhưng nó mang trong mình một sự sông cể sơ hơn, vô cảm hơn, có khả năng tiêu hủy không thương tiếc sự sống của con người. Nó là một biểu tượng phản diện, bỏi vì nó biểu thị một thiên hướng tôĩ tăm và hung bạo của cái vô thức tập thể. rồng

Trong một nghiên cứu của mình, Huệ Thiên cho rằng “sấu” trong “cá sấu” là một yếu tô' cổ Hán Việt với âm đọc là sứu, có nghĩa là gia súc. Chữ này có mặt trong chữ đà, là tên của một giông cá sấu. Trong giáp cô"t văn, “đà long” đều là hình Cá sấu còn giữ vị trí trung gian giữa hai nguyên tô" là đất và nưốc vổi những mâu thuẫn cơ bản. Nó chuyển động trong bùn, làm cho cây cỏ sinh trưởng dồi dào, nên là biểu tượng của phồn thực. Nhưng nó cũng ăn lấy ăn để và phá hủy, lại xuất hiện đột ngột từ nước và lau sậy, do đó là

TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

67

(Nam Bộ) = cá sấu cũng có gốc klu / khu (Mường)(7).

con cá sấu quen'động tác thả mình dưới nưốc, chỉ để lộ một nửa của mỗi con mắt lên khỏi mặt nước. Và đà cũng gọi là đà long, trư bà long, Dương Từ ngạc, tên khoa học là Alligator sinensis, v ề mặt ngữ âm, thì từ sứu biến thành sấu rất gần, như chúng ta có các cặp từ: ưu (tư) - âu (sầu), cữu - cậu, lưu (cữu) - lâu (dài), ngưu - ngâu... Cái nghĩa gốc của nó đã bị tuyệt tích, chôn vùi dưới các tầng ngữ nghĩa mới mà đến năm 1991, Vương Lập Thuyên mới tìm lại được(5).

Ngưòi Đông Sơn có tục xăm mình liên quan đến con giao long dưới nước. Nhiều bộ sử Trung Quốc đã ghi chép: “Ngưòi Việt vẽ mình, cắt tóc để tránh cái hại giao long” (Hán thư, Địa lí chí hạ). Sách Lĩnh Nam chích quái cũng đề cập đến chuyện này : “dân miền chân núi làm nghề chài cá, thường bị giao long làm hại, mới kêu với Hùng Vương nói: Loài ở chân núi vổi loài thủy tộc khác nhau. Loài kia ưa đồng loại mà ghét dị loại cho nên làm hại. Bèn khiến người ta lấy mực mà xăm mình thành thủy quái, từ đó không còn cái nạn giao xà làm hại nữa. Cái tục xăm mình của ngưòi Bách Việt bắt đầu từ đó”(8). Con giao long này có thể là thuồng luồng, rắn nước mà cũng có thể là cá sấu, đều là các con vật dữ, thường xuyên làm hại cư dân sông nưốc.

Trước nay, ỏ nưốc ta đã có nhiều tranh cãi về nguồn gốc của cá sấu. Đốỉ lập với ý kiến của Đào Duy Anh' nhà nghiên cứu Văn Tân cho rằng, tô tem của người Việt xưa đầu tiên là loài rắn (có thể là một giống cá sấu) rồi biến thành rồng. Ông viết: “thời Hùng Vương, thì người Việt xăm mình theo hình con giao long, nhưng đến thời Trần thì người Việt lại xăm mình theo hình con rồng”<6).

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con rồng trong truyền thuyết có nguồn gốc từ con ’cá sấu(9). Trần Kinh Hòa sử dụng ngôn ngữ học để chứng minh chữ “giao” (long) và “ngạc” (cá sấu) cũng là biến thái của chữ ghi nhận tiếng kêu của con cá sấu<10>.

3. Cá sấu trong các hiện vật khảo cổ học

Như các biểu tượng kiến trúc khác, biểu tượng rắn đã hóa thành các môtíp rắn, thằn lằn, cá sấu, rồng... có mặt ồ các yếu tô' khác nhau của kiến trúc Đông Nam Á. Ngay trong ngôn ngữ của khu vực, các con vật có gốc sông nưổc khác như trâu, rùa, cá sấu, ốc, voi... cũng đều có gốc từ chỉ sông / nưởc. Cá sấu (Bắc Bộ) = cù / ku (Nam Bộ) = buaya (Indonesia) = mpu / aya (Papua) = rrìya (Ê Đê) = bia (Gia Rai) = krapơ (Khơ Me) = ngạc (Hán Việt)... Ngưòi Mường gọi con rắn là klu / khu, đồng thời cũng là chỉ con cá sấu. Trong khi đó có sự tương đồng giữa nak (Khơ Me) = cá sấu = nước (Việt) = naga (Sancrit) = rắn / voi... Rất có thể, từ (cá) sấu (Bắc Bộ) có thể có gốc từ tâu = một từ chỉ trâu (tương ứng t / th / s) trong khi cù Hoa văn hình cá sấu được trang trí trên nhiều di vật bằng đồng ỏ các di chỉ thuộc nền văn hóa Đông Sơn. Đó là cá sấu trên thạp đồng Đào Thịnh, trên khóa thắt lưng Ninh Bình, trên các rìu đồng ở Đông Sơn, Núi Sõi, Sơn Phú hoặc trên các rìu, giáo và dao găm bằng đồng khác được Bảo tàng mĩ thuật sưu tầm rải rác ồ Thanh Hóa từ di chỉ Đông Sơn. Ngoài thạp đồng Đào Thịnh và khóa thắt lưng

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

68

Ninh Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện bốn chiếc rìu, ba chiếc giáo và một dao găm có trang trí hình cá sấu.

bằng chữ Nôm ném xuống sông, cá sấu bèn bỏ đi. Vua cho Nguyễn Thuyên đổi thành Hàn Thuyên giông như tích đuổi cá sấu bên Tàu.

Trên thạp Đào Thịnh I khắc họa hình cá sấu đang giao nhau xen giữa hai chiếc thuyền. Thân cá sấu.dài, đuôi to, mồm nhọn, cả hai được chạm theo lối trắc diện, quay bụng vào nhau và dính chân dính đuôi, mình được tô điểm bằng nhiều chấm dải. Bản Văn tế cá sấu của Hàn Thuyên nay không còn. Nhưng trong sách Việt cổ văn còn ghi lại bài chữ Hán với tựa đề Tế Lô giang ngạc ngư văn (Văn tế cá sấu ở sông Lô). Vấn đề truy nguyên.văn bản này hiện vẫn còn đang tiếp tục(13).

Hai đôi cá sấu ỏ hai mặt của rìu xéo Đông Sơn khắc họa có phần cách điệu hơn. Chúng quay bụng vào nhau nhưng chỉ dính phần chân, còn đuôi đều cuộn tròn lại, mồm nhọn đang há biểu lộ sự dữ tợn.

Cá sấu ỏ vùng đất phía Nam được Trịnh Hoài Đức mô tả trong Gia Định thành thông chí là có đầu vuông, mi mắt có khía, đuôi chẻ, khía răng cưa, răng nanh lỏm chỏm, không có mang tai, có bốn chân, không vảy, cái đuôi rất mạnh. Có loại sấu màu vàng và đen, to bằng chiếc xuồng, đặc biệt rất hung dữ. Những ngưồi đi ghe xuồng trên sông hay bị dùng đuôi đập vào cho rớt xuống sông rồi gặm tha vào bờ để ăn thịt(14).

5. Công cuộc chinh phục sâu Các đôi ở khóa thắt lưng Ninh Bình, tính cách điệu càng cao hơn. Bôn đôi cá sấu ỏ bốn góc của hiện vật cũng bô' cục quay bụng vào nhau nhưng chi tiết mất hết nên cả hai trở thành một khôi chung và trông như một bông hoa với hai cánh tròn cuốn lại, rất khó nhận ra.

ở khóa thắt lưng Bắc Kỳ và Đông Sơn thì hình cá sấu được bô' cục từng đôi quay đầu vào nhau, mắt tròn to, thân chạy dài cho đến đuôi thành cả một mảng liền. Có người cho đó là hình của giao long trong các truyền thuyết và có thể là tiền thân của con rồng Việt(11).

Kiểu thuyền và những hình khắc trên thuyền rất giông những môtíp trang trí trên trống đồng Đông Sơn như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, cổ Loa...(12)

4. Cá sâu trong thư tịch cổ

Có lẽ tài liệu xưa nhất ghi chép về cá sấu ô Nam Bộ là Gia Định thành thông chí: “Sông Tiên Thủy (tục gọi Sóc Sãi Hạ) ỏ về phía đông sông Hàm Luông, cách trấn về phía đông 96 dặm. Sông rộng 4 tầm, sâu 1 tầm, làng xóm chợ búa rất đông đúc, ghe thuyền tụ tập... Ngoài cửa sông có nhiều cá sấu, có con to bằng chiếc xuồng, tính rất hung dữ, người đi qua phải coi chừng. Dân trong vùng phàm có những ngòi nhỏ, dùng chở gạo củi, hay tưới rửa, thì ỏ miệng ngòi phải trồng cọc dày kín, để ngăn dòng nước cho khỏi nạn cá sâ'u”(15).

Theo Aubaret trong Gia Định thông chí thì: “Rạch Tiên Thủy, năm trước có một con sấu thật to, mình dài đến 60 Tương truyền vào năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), có cá sấu vào sông Phú Lương (sông Hồng), Nguyễn Thuyên được lệnh triều đình lập đàn tê' và làm bài văn tê'

TẠP CHÍ VHDG SỐ2/2011

69

lao giết chết con sấu to bằng chiếc xuồng năm lá, dài trên 6m. Đây là con sấu dữ tợn, một “hung thần” trên sông Cái Răng.

pieds, cái thân của nó năm người ôm mà không giáp, gọi nó là ông rồng, và sức nó mạnh đến nỗi nó dùng đuôi quất một cái đủ văng người xuống nưốc để ăn tươi nuốt sống, và ghe xuồng gì đều bị nó quất bể tan tành” .

Sấu có nhiều loại: sấu cá, sấu bưng, sấu mun, sấu hoa cà... Sấu bắt được, người ta trói hai bên bò ghe, thả dưới nưốc, chèo ghe bán dọc đưòng từ Nam Vang xuồng Cần Thơ (nay còn chỗ gọi rạch Đầu Sấu) hoặc bắn lên Sài Gòn.

Vùng bưng Ca Am (kênh Vĩnh Tế, An Giang) là nơi có nhiều cá sấu lửa. Sông Vàm Nao (nốì sông Tiền và sông Hậu), dài khoảng 7km nhưng lại là một trong những nơi có mật độ sấu cao nhất. Các loại cỏ như nghể, đế, lục bình từ miệt trên trôi xuống kẹt lại. Dân đi đào kênh Vĩnh Tế trôn về lội ngang sông này đa phần đều bị sấu ăn thịt<17>.

Đôì với sấu lửa hung tợn, cách bắt phổ biến là dùng mồi vịt hay mồi chó. Mồi được móc vào lưỡi câu to, bén và nối với sợi dây câu chắc, dài. Thợ săn ôm mồi lội xuống nước, nhử cá sấu đến. Khi cá há miệng định táp, thợ câu nhanh tay ném con mồi vào miệng nó. Sấu bị mắc câu, vùng vẫy dữ dội. Đến khi sấu mệt, ngưồi ở trên bờ kéo sợi câu, mang sấu lên.

Trong hai tháng của năm 1880, ngưồi dân ở Cổ Cò (Sóc Trăng) đã bắt được 189 con cá sấu để lãnh thưởng, diệt trừ môĩ hiểm họa°8).

Khoảng những năm 1900 - 1910, cọp, sấu còn hoành hành ỏ miền quê Bến Tre, Gò Công, An Hóa chứ không riêng vùng sình lầy phía Cà Mau.

Một kiểu đi săn khác rất độc đáo, không cần dùng mồi và khá mạo hiểm. Thợ săn lội đứng trên sông, một tay quạt nước, tay kia cầm nón lá che đầu và lưỡi câu. Sấu đánh hơi người, lội đến há miệng táp, người đi săn nhanh tay ném lưỡi câu vào miệng sấu. Kiểu săn này chỉ có ngưồi gan dạ và giàu kinh nghiệm mới dám thực hiện(20>.

ở cù lao Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy, Tiền Giang) mãi đến năm 1915, cá sấu vẫn còn rất dạn dĩ, phá phách dữ dằn, khiến Đốc phủ Mầu, dữ khét tiếng, đã phải bỏ kế hoạch ngăn rạch nuôi cá trên vùng đất này°9).

Ngoài cách câu sấu bằng mồi vịt hoặc người thợ câu mang phao nổi hai bên hông để tự làm mồi, dân vùng u Minh Hạ còn có sáng kiến đốt lửa để bắt sấu, loại sấu cá, sông ở ao giữa rừng(21).

Trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam, nhà văn Đoàn Giỏi dành hẳn một chương vôi tiêu đề Phường săn cá sấu, thuật lại việc bắt sấu ngày xưa.

Cụ Trần Văn Tốt, 86 tuổi, gia đình đã nhiều đời sống bằng nghề đáy tại vàm Đầu Sấu: “Ông nội tôi tên là Trần Văn Lang, qua đời năm 1942 và cha tôi là Trần Văn Mùi, qua đòi năm 1965 đã từng kể cho con cháu biết rạch Đầu Sấu xưa kia rất hoang vắng, dưới sông có nhiều cá to, sấu lổn thường hại người. Khoảng đầu thế kỉ XX có một phường săn cá sấu người Chà rất nổi tiếng đã giúp dân làng phóng Ngày trước cá sấu nhiều lắm, bàu nào cũng có. Mỗi bàu ít nhất năm bảy con trỏ lên, gọi là ao cá sấu(22). Chọn ao cá sấu

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

70

hoa cà(23), rồi phát sậy, phát cỏ rũ xuống, phơi nắng vài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờ càng cạn dần, dài chừng mười thước. Sau đó, bỏ sậy, cỏ khô phủ kín mặt bàu và đốt lửa.

ăn thịt cá sấu vì sỢ bị trả thù (khi đi thuyền về xứ nếu không may có thể bị chìm). Sấu bắt về, nuôi trong chuồng (gọi là cầu sấu), trói chân lại, cắm cây nọc xuống để cầm giữ. Sấu vẫn sông nếu bị cắt từng khúc đuôi, lóc thịt ở lưng, miễn đừng phá vỡ bụng. Đầu đường Hàm Nghi (Sài Gòn), xưa có tên là rạch cầu Sấu(25), Miệt Hậu Giang cũng có nhiều địa danh Cầu Sấu, nơi dự trữ sấu để bán, đọc trại ra là Đầu Sấu<26).

Sấu cá ỏ Nam Bộ xưa được đem bán khắp nơi, nhưng vào năm 1832, vua Minh Mạng lại ra sắc chỉ cấm các địa phương Nam Bộ không được mang bán sấu ra kinh đô Huế và các trấn ồ Bắc Thành<27).

Khi lửa tắt thì mặt bàu phủ kín dưối một lớp tro dày hai ba đốt tay. Cá sấu nổi lên thỏ thì bị tro cay mắt, còn lặn lâu quá thì bị ngạt nên đập đuôi chạy lên bờ. Chúng cứ nốỉ đuôi nhau trườn theo con mương đào sẵn. Thấy người, con nào cũng há họng toan đớp. Thợ săn liền đút vô họng nó một khúc gỗ mâp, dài chừng ba tấc. Nó táp phập một cái, hai hàm răng dính chặt như ngậm kẹo mạch nha, không há ra được. Các thợ săn lập tức cầm mác xắn trên sông lưng, cắt gân đuôi. Lúc này cái đuôi cá sâu đã mất tác dụng. Người đi săn dùng dây lạt trói thúc ké hai chân sau lên lưng, hai chân trước thả tự do, mõm bị khớp lại. Mỗi bàu bắt được vài chục con trong một ngày.

Ngày xưa, người dân miền Tây Nam Bộ còn ăn cả thịt cá sấu, kì đà, kì nhông. Thịt cá sấu trắng, khô, có sợi như thịt cá đuối, giòn thơm, có vị của cá và gà. Cá sấu có thể nấu được nhiều món, nhưng ngon nhất vẫn là khúc th ịt đuôi. Trưốc năm 1945, thường có những bè cá sấu chở hàng trăm con về bán ỏ chợ Mỹ Tho, chợ Cần Thơ, bán dần dần mà không con nào bị chết(28).

Ngoài là loại thịt “đặc sản” này, về Đông y, vẩy cá sấu có tính ấm, chữa nổi cục ở ngực vùng tim, hàn nhiệt, đau âm hộ lan lên tới bụng dưới, băng lậu, bạch đổi, lỏ ngứa làm thôi thịt, lở ngứa mạn tính, động kinh, đau thắt lưng, sốt rét(29).

Cứ ba con dùng bôn đoạn tre buộc xâu lại thành một hàng ngang. Lấy hai cây tre dài kiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng về phía trước. Sau đó phát sậy dọn một đường như đường cộ trâu thẳng ra bò sông theo hướng gần nhất. Thợ săn nhảy lên lưng bầy sấu, dùng cây mun điều khiển chúng bò ra bờ sông. Thuyền lái mua chực sẵn hoặc gặp khi không có lái thì khiêng từng con bỏ xuống thuyền chở đi bán<24). 7. Cá sấu trong tín ngưỡng

6. Cá sấu - món đặc sản

Tục thờ cá sấu được xem là tín ngưỡng cổ xưa của ngưòi Khơ Me. Cá sấu được xem như một ác thần cai quản một phần sông nước. Người Việt về sau cũng theo tín ngưỡng này và họ cá sấu như một biến thể của thần sông. Cá sấu là món lạ ngày trước của dân trung lưu. Trong đám giỗ luôn làm thịt một hai con cá sấu, sang trọng hơn làm heo. Đuôi sấu ngon nhất, luộc chấm mắm nêm, ăn với chuối chát. Ngưòi Hoa không

TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2011

71

lên mây, được Thượng đế phong làm thủy thần cai quản cả vùng sông Cái Lón(30).

8. Cá sấu trong ca dao và truyện

kể dân gian

Từ sông Cái Lớn vào đến ngã Ba Tàu, chỗ đầu doi vàm xếp (xã Vĩnh Phước B, huyện Gò Quao, Kiên Giang), cách bờ sông khoảng vài chục mét có ngôi miếu thờ thần Cá Sấu. Ngưòi dân trong vùng rất tôn kính và phong làm thần Sông.

Công cuộc chinh phục vùng đất mới, lớp cư dân Tây Nam Bộ buộc phải đối đầu với những th ế lực tự nhiên, trong đó có loài sấu dữ, luôn luôn rình rập làm hại người. Nhất là trong ca dao, điều này được phản ánh rất rõ nét, đậm đặc tâm thức của những người đi mỏ cõi trước một vùng đất trù phú, hết sức hoang sơ và không kém phần khắc nghiệt:

- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn. Xuôhg bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma. Tương truyền vị thần ấy là một con sấu Mun cụt đuôi to cỡ chiếc tàu hay nổi lên tại đây. Con sấu khổng lồ này có cái đuôi dài hơn những con sấu khác, được gọi là “Ô ngạc ngư”. Toàn thân màu đen mốc, sông lưng nổi gai từng khúc, miệng đầy răng lởm chỏm. Sấu hay thích đùa giỡn với con mồi trước khi ăn thịt, nó là nỗi kinh hoàng của người dân đi ngang qua khu vực ngã ba sông này.

- u Minh khôh khổ quá chừng Xuôhg sông sấu bắt, lên rừng cọp tha.

• u Minh nước mặn phèn chua Trăm ngàn cá sấu thi đua vẫy vùng.

- u Minh, Bạch Giá, Thị Quá, Sơn Trường Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

Một lần, sấu Mun định hại hai mẹ con đậu ghe nơi bến sông, bị ông thầy pháp chém đứt khúc đuôi dài gần 2m. Từ đó về sau, sấu trỏ nên hiền lành, không hại một ai. Sấu rất thích xem hát bội. Có lần vì mải xem nên mắc cạn. Người dân kể lại, họ nghe tiếng cô hồn là những người bị sấu Mun ăn thịt lâu nay, không siêu thoát, hè nhau đẩy ông sấu này xuống lại vùng nước sâu!

- Đồng Nai xứ sở lạ lùng Dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um.

Ngày kia, có một con cá sấu đỏ, tên là “Xích ngạc ngư” kéo tới xâm phạm lãnh địa của sấu Mun, rất hung hăng, đập chìm ghe, bắt ngưòi liên tục. Sấu Mun lao tới quyết chiến với sấu đỏ, hai bên đánh nhau suốt ba ngày, ba đêm. Sấu đỏ bị giết, còn sấu Mun cũng mất tích. Dân chúng cho rằng, có lẽ sấu Mun bị thương nặng nên tìm về doi đất vàm xếp mà chết. Họ lập miếu thờ, phong tặng là “Thủy thần sông Cái Lớn”. Người dân cả quyết rằng, sấu Mun không chết mà trầm tích tại ngã ba Tàu tu hành, hóa rồng bay Không phong phú như truyện kể về cọp, nhưng các truyền thuyết, truyện tích về sấu cũng giúp ta hiểu được quan niệm nhân sinh, thế ứng xử với thiên nhiên của người dân Tây Nam Bộ. Đó là các truyện Ông Đình Tây và sấu Năm Chèo-, Truyền thuyết thần Ô Ngư Ngạc; Truyền thuyết núi Thuyền (Khơ Me); Sấu Ba Kè và vua Gia Long-, Bị sấu đớp mà thoát được; Cá sấu xem hát bội; Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng; Bưng sấu hì; Đá cá sấu...

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

72

9. Sâu trong địa danh

Rạch Cái Cấm bao quanh cù lao Thanh Tân, nay thuộc xã Tân Thanh Bình, huyện Mỏ Cày (Bến Tre). Cái Cấm là “rạch cấm”, vì ngày xưa rạch này có nhiều cá sâu nên quan câ'm dân đi qua rạch một mình.

Rạch Cái K hế chảy từ cầu Đôi đến

Đầu Sấu (thành phô' cần Thơ), dài 5km. Dấu vết của “ngạc ngư” thể hiện trong các địa danh ở Tây Nam Bộ lại hết sức da dạng, phong phú. Có cả những địa danh Khơ Me trong sô' đó. Chẳng hạn, đìa Sấu (Cai Lậy, Tiền Giang), nơi tập trung nhiều cá sấu; rạch Đầu Sấu ở xã Vĩnh Đại, huyện Vinh Hưng (Long An).

Rạch Đường Chừa (Vĩnh Long), vì con đường có một khúc phải chừa lại do không đắp được vì sợ cá sấu ăn thịt những người đắp đường.

Bưng Sấu H ì (vũng nước lổn giũa đồng) ồ giữa đồng Tháp Mười, (Đồng Tháp). Một cặp vợ chồng kia có đứa con 10 tuổi bị sấu ăn thịt. Khi chồng gọi kiếm con, chỉ nghe tiếng sấu kêu hì. Sau đó, người địa phương giết được bầy sâu và đặt tên như trên<32).

Cầu Đầu Sấu ỏ quận Cái Răng (Cần Thơ) là “đầu con cá sấu” vì người Việt xưa rất sợ cá sấu nên thường thờ đầu cá sấu bên sông (theo Sơn Nam). Khoảng năm 1940, nơi đây vẫn còn cảnh làm thịt sấu tại đầu vàm. Sấu thịt được chỗ về từ Nam Vang và An Giang bằng xuồng, ghe. Buôn bán rất sung, ngưòi mua khá đông, giông như một lò mổ. Lúc đó, vàm này đã có tên là vàm Đầu Sấu. Tại khu vực 1, phưòng An Bình (thành phô' c ần Thơ) hiện nay vẫn còn một ngôi chùa cổ kính mang tên là chùa Ông Vàm Đầu Sấu.

Ngã ba Tàu ở Kiên Giang. Một trong các giả thuyết để giải thích nguồn gô'c địa danh này là do có một con cá sấu bị ngưòi đi đô'n dừa nước chặt đứt khúc đuôi nên trông như một chiếc tàu.

Hang Sấu thuộc xã Viên An, huyện Ngọc Hiển (Cà Mau), xưa có rất nhiều cá sấu. Đặc biệt nơi đây có một cái hang cá sấu rất lớn, người dân qua lại khu vực này thường bị cá sấu tâ'n công.

10. Lời kết Ấp Đầu Sấu Đông, ấp Đầu Sấu Tây (xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, Bạc Liêu). Đầu Sấu trong tiếng Khơ Me là Khai Kropơ. Trong truyền thuyết Núi Thuyền (Phnom Sampâu) của người Khơ Me, ngọn đồi nổi lên ngay chỗ con sấu chết gọi là Đồi Sấu (Phnom Krapư), hai cái đầm chỗ sấu quậy đầu và đuôi gọi là Bưng Mũi (Bâng Chromoc) và Bling Đuôi (Bâng Kantuôi)(31).

Rạch Bỏ Lược (Cà Mau). Truyền thuyết kể về một người mẹ có con bị cá sấu ăn thịt. Để trả thù, bà lấy mác đâm con cá sấu và cả hai cùng chết, chỉ để lại một cái lược bà đang chải tóc.

Trong công cuộc chinh phục vùng đất mới Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung, bằng trí tuệ và lòng quả cảm, những lớp cư dân nơi đây đã đương đầu vổi những sức mạnh tự nhiên, những loài thú dữ như cọp beo, sấu, rắn... Vươn lên chế ngự nó, nhằm tạo ra những đỉều kiện để khai thác, canh tác, bảo đảm cuộc sông an lành là công việc đòi hỏi sự bền bỉ, lâu dài. Rạch Cái Cá ở xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú (Bến Tre), gọi là “rạch cá” vì dưới rạch này trước đây có nhiều cá sấu.

TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2011

Đông Sơn, Hội Dân tộc học Việt Nam, tr. 216 - 220.

(8) . Hà Văn Tấn chủ biên (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 359.

73

(9) . E. Porée Maspéro, Étude sur les rites agraires des Cambodgiens (Nghiên cứu về các lễ tiết nông nghiệp của ngưòi Campuchia), 3 tome, Mouton et Co., Paris, 1962, 1964, 1969. Dẫn theo Trần Từ (1996), sđd, tr. 169 - 170.

Việc “đánh sấu” trên hết chĩ xuất phát từ việc làm điều thiện, điều nghĩa, phản ánh cái tinh thần khí khái của người dân Nam Bộ trong việc diệt trừ thú dữ.

Thông qua hình ảnh con cá sấu, ta dưòng như hiểu rõ hơn bức tranh hiện thực về văn hóa dân gian của vùng đất này với những sắc thái hết sức đặc trưng của miền sông nưổc.o

N.T.L

(10) . Trần Kinh Hòa (1960), “Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ”, Tạp chí Đại học (Huế), SỐ 15, tr. 175 - 217; so 16, tr. 130 - 153.

CHỨ THÍCH

(11) . Hà Văn Tấn chủ biên (1994), sđd, tr.

380.

(1) . Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr. 320.

(12) . Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam từ thời tiền sử đến nửa đầu thời kỳ phong kiến, Trưồng Đại học mĩ thuật Hà Nội, tr. 72-73;

Hà Văn Phùng (2008), Thạp đồng Đông

Sơn, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 36.

Xem thêm: Tạ Chí Đại Trưòng (2000), Thần, người và đất Việt (bản mới), Văn học xb, California, Hoa Kỳ, tr. 63.

(2) . Vị thần Cá sấu, tượng trưng cho sức mạnh và tài năng của vị Pharaon trong cuộc chiến. Các phẩm chất mà thần phô bày có thể thấy được nơi cá sấu sông Nil, gợi niềm kinh sợ về sự nhanh nhẹn và linh hoạt của nó trong việc chộp lấy con mồi, cùng sức mạnh ghê gốm của cặp hàm. (Rachel Storm (2003), Huyền thoại phương Đồng, Chương Ngọc dịch, Nxb. Mĩ thuật, tr. 25).

(13) . Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Ván Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004), Từ điển văn học (bộ mổi), Nxb. Thế giới, tr. 1190 - 1191.

(3) . Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Tái bản lần 2, Nxb. Đà Nẵng - Trưòng Viết văn Nguyễn Du, tr. 119-121.

(14) . Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch, Huỳnh Vần Tói giói thiệu, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Biên Hòa, tr. 213.

(15) . Trịnh Hoài Đức (2005), sđd, tr. 72.

(4) . Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb, tr. 169-17Ỏ.

(16) . Vương Hồng sển (1993), Tự vị tiếng

Việt miền Nam, Nxb. Văn hóa, tr. 613.

(5) . Huệ Thiên (1999), “Sấu là một yếu tô' cổ Hán Việt”, Tạp chí Thông tin khoa học cồng nghệ và mồi trường Thừa Thiên • Huế, số 4, trĩ 127- 128.

(17) . Nguyễn Hữu Hiệp (2003), An Giang văn hóa một vùng đất, Nxb. Vần hóa - Thông tin, tr. 105.

(18) . Nguyễn Phúc Nghiệp (1998), “Sấu dữ trên sông nước Tiền Giang và Nam Bộ”, trong sách Những trang ghi chép về lịch sử văn hóa Tiền Giang, Nxb. Trẻ, tr. 87.

(6) . Trịnh Minh Hiên, Trần Mạnh Phú (1970), “Tìm hiểu nghệ thuật và tín ngưỡng trong thòi đại Hùng Vương”, trong Viện Khảo cổ học, Hùng Vương dựng nước, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 230.

(19) . Nguyễn Phúc Nghiệp (1998), sđd, tr.

84.

(7) . Tạ Đức (1999), Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngồn ngữ

NGHIÊN C Ứ U -TR A O Đ ổl

(20) . Nguyễn Phúc Nghiệp (1998), sđd, tr.

85 - 86.

(21) . Sơn Nam (1959), Tìm hiểu đất Hậu

Giang, Phù Sa xb, Sài Gòn, tr. 87.

là nghé là tiếng sấu kêu. Sấu nghé vì sấu kêu như tiếng nghé ngọ của trâu con. Rạch cầu Sấu ở đầu đường Hàm Nghi, quận 1 (Thành phô" Hồ Chí Minh), có từ đầu nhà Nguyễn, từ khu ao đầm phía trong chảy ra rạch Bến Nghé. Năm 1892, con rạch này đã bị lấp.

(22) . Cá sấu nhỏ, da xanh, có vằn hoa lấm tấm, trọng lượng dưới 100kg. Loại này chỉ ăn những con vật nhỏ, gặp ngưdi thưdng bỏ chạy.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sơn Nam (1970), Đồng bằng sông Cửu Long hay là văn minh miệt vườn, An Tiêm xb, Sài Gòn.

2. Sơn Nam (1959), Tìm hiểu đất Hậu

Giang, Phù Sa xb, Sài Gòn.

3. Sơn Nam (1993), Đồng bằng sồng Cửu Long nét sinh hoạt xưa, Nxb. Thành phô" Hồ ChíMinh.

(23) . Theo nhà văn Anh Động, loại này gọi là “sếu cá”, trọng lượng không quá 50kg mỗi con. Chúng sông ố những rẻo bìa rừng giáp biển, nhiều lung bàu quanh năm sình lầy nước đọng, nơi chuôi nước, bồn bồn mọc rậm rạp. Người ta còn xây nò để bắt sấu cá, nhưng phải chắc chắn hơn. (Anh Động (2006), u Minh cá đồng và thủy tộc, Nxb. Thanh niên, tr. 12).

4. Sơn Nam (1973), Lịch sử khẩn hoang

(24) . Đoàn Giỏi (2008), Đất rừng phương

miền Nam, Đông Phô" xb, Sài Gòn.

Nam, Nxb. Hội Nhà văn, tr. 208 - 209..

5. Lê Trung Hoa, Từ điển từ nguyên địa

danh, Bản thảo.

6. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và giả thuyết, Nxb. Khoa học xã hội.

(25) . Làng An Hòa gần cầu Bông (Thành phô" Hồ Chí Minh) có địa danh cầu Sấu, kiểu vòng rào bô" trí trên bãi sông để khoảng 40 con sếu dành làm thịt bán. (Sơn Nam (1981), Bến Nghé xưa, Nxb. Văn nghệ, Thành phô" Hồ Chí Minh, tr. 70).

7. Tô Hoàng Vũ, Trần Văn Nam chủ biên (2008), Văn hóa văn nghệ dân gian cần Thơ, Nxb. Văn nghệ - Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật thành phô" cần Thơ.

(26) . Sơn Nam (1993), Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Tái bản lần thứ nhất, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 75.

(27) . Nguyễn Phúc Nghiệp (1998), sđd, tr.

84.

8. Nhiều tác giả (2008), Đồi nét phác thảo văn hóa dân gian Cà Mau, Hội Văn học nghệ thuật Cà Mau - Nxb. Phương Đông xb.

9. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường (1992), Nghìn năm bia miệhg, 2 tập, Nxb. Thành phố HỒ Chí Minh.

(28) . Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (2006), Văn hóa ứng xử với mồi trường sông nước của người Việt miền Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Trưòng Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phô" Hồ Chí Minh, tr. 231.

(29) . Nguyễn Đoàn Bảo Tuyền (2006),

10. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945), Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn.

tlđd, tr. 239.

(30) . Nguyễn Diệp Mai (2007), sắc thái văn hóa sồng nước vùng u Minh, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, tr. 78 - 79, 88 - 90.

11. Hà Thăng, Nguyễn Hoa Bằng, Nguyễn Lâm Điền chủ biên (1997), Văn học dân gian đồng bằng sông cửu Long, Nxb. Giáo dục.

(31) . Nguyễn Diệp Mai (2007), tlđd, tr.

92.

(32) . Đại Nam nhất thống chí giải thích địa danh Bến Nghé (Thành phô" Hồ Chí Minh)

12. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nxb. Thành phô" Hồ Chí Minh.