Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, T p 2, S 6 (2016) 683-693
683
Diễn hóa hình tượng Quan Vũ từ nhân vật lịch sử
đến nhân vật văn học
Trần Văn Trọng*
Tóm tắt: Quan (Quan Công, Quan Vân Trường, Quan Đế) là nhân v t lịch sử đời Tam
Qu c được đời sau tôn làm thánh, thờ miếu sánh ngang với Khổng Tử. Hình
tượng Quan được h u thế tôn sùng với tài năng công trác tuyệt, phẩm chất khí tiết
trong sạch nhân cách trung nghĩa cao đẹp lại chủ yếu hình tượng do văn học nghệ
thu t sáng tạo lên. Bài viết nghiên cứu quá trình diễn hóa (diễn biến thay đổi) hình tượng
nhân v t này từ nhân v t lịch sử thành hình tượng văn học cũng như giải nguyên nhân
của sự diễn hóa từ b i cảnh văn hóa tư tưởng xã hội.
Từ khóa: Quan Vũ; diễn hóa; diễn hóa hình tượng; nhân v t văn học; nhân v t lịch sử.
Ngày nhận 08/8/2016; ngày chỉnh sửa 17/11/2016; ngày chấp nhận đăng 30/11/2016
*Trong lịch sử văn a Trung Qu c,
hai nhân v t lịch sử được h u thế đặc biệt
tôn sùng, l p miếu thờ là Khổng Tử và Quan
Vũ. Không Tử thủy tổ Nho gia, từ khi
Nho học được tôn m “qu c giáo”, địa vị
của ông không đáng bàn cãi Văn
miếu được l p nên nhằm xiển dương Nho
học cũng lẽ đương nhiên. Tuy nhiên,
Quan chỉ một nhân v t tướng triều
Thục Hán đời Tam Qu c lại được h u thế
nhất tâm ngưỡng phục l p miếu để thờ,
ngang với Văn miếu thờ Khổng Tử, th m
chí đời Thanh, miếu còn nhiều hơn Văn
miếu. Còn một điểm khá đặc biệt, Khổng Tử
một nhân v t lịch sử, một nhà tưởng,
đời sau ngưỡng vọng ông song chân
dung, diện mạo lịch sử của nhân v t y
cũng không btạo tác quá khác biệt so với
mẫu g c. Trong khi đó, đ i với Quan Vũ,
quá trình từ nhân v t lịch sử đến nhân v t
của tín ngưỡng, tôn giáo đã có sự tham gia
tạo tác của n học nghệ thu t, m cho nh
ợng nhân v t trong văn học trong tín
ngưỡng đã nhiều điểm khác biệt so với
* Trường Đại học Hải Phòng; emai: trongxa@gmail.com
mu g c lịch sử ban đầu. Hiện ợng đặc
biệt này đáng được quan tâm nghiên cứu,
giải xem xét trong quá trình diễn hóa hình
ợng Quan , vai trò của văn học nghệ
thu t, nhất văn học nghệ thu t thời T ng
Nguyên đã góp phần quan trọng trong sáng
tạo hình ợng nhân v t Quan như hình
dung xưa nay về nhân v t này như thế nào?
1. Những tiền đề của sự diễn hóa
hình tượng nhân vật
Quan Vũ, tên chữ Vân Trường, người
đất Giải Châu, nay thuộc tỉnh Sơn y. Ông
cùng Lưu Bị Trương Phi kết nghĩa đào
viên, thề đồng sinh đồng tử, phất cờ khởi
nghĩa, giúp Lưu Bị xây dựng đế nghiệp, sau
thất bại để mất Kinh Châu bị Đông Ngô
giết chết, thọ 58 tuổi. Nhân v t Quan Vũ
được miêu tả với bộ mặt đỏ, râu dài, mình
cao chín thước, cưỡi ngựa Xích Th ngày đi
nghìn dặm, sử dụng thanh long đao nặng
tám mươi hai cân những chiến công hiển
hách như chém đầu Hoa Hùng khi chén
rượu tiễn đưa còn ng, chém Nhan Lương,
T. V. Trọng / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, 6 (2016) 683-693
684
giết Văn Xú, “qua năm ải chém sáu ớng”,
bắt Vu Cấm, giết Bàng Đức, thà chết không
chịu hàng Đông Ngô...Hình dung về diện
mạo, tài năng phi thường, tính cách trung
can nghĩa đảm của nhân v t Quan được
định hình bởi tiểu thuyết Tam Qu c diễn
nghĩa của La Quan Trung. Tuy nhiên, quá
trình tạo tác định hình chân dung, tính
cách của Quan như tiểu thuyết đã miêu
tả một lịch sử lâu dài, trong đó đóng góp
to lớn của văn học nghệ thu t đã khiến nh n
thức h u thế thường đồng nhất nhân v t
Quan lịch sử với nhân v t Quan văn
học.
Quá trình diễn hóa hình ợng nhân v t
Quan Vũ từ lịch sử đến văn học có lẽ diễn ra
trên dưới ngàn năm kể từ khi Quan được
các sử gia đời Tấn (thế k IV) ghi chép cho
đến trước khi La Quán Trung sáng tác Tam
Qu c diễn nghĩa (thế kỷ XIV), trong đó quá
trình văn học hóa nhân v t được tiến hành
mạnh nhất vào giai đoạn T ng Nguyên.
Không kể những ghi chép lịch sử quan
phương của các sử gia phong kiến, người ta
thấy các loại hình sáng tác văn học thời
T ng Nguyên rất phát triển bấy giờ đều
tham gia vào quá trình văn học hóa nhân
v t. Các thể loại khúc, thoại bản, tạp kịch
đã tham gia cải tác làm tiền đề cho tiểu
thuyết diễn nghĩa sáng tạo hình tượng nhân
v t bất hủ.
Các thể loại văn học như khúc, thoại
bản, tạp kịch thời T ng Nguyên khai thác
khá nhiều về đề i Tam Qu c nói chung
Quan Vũ nói riêng. Riêng khúc, loại hình
nghệ thu t sân khấu của người T ng, phát
triển mạnh giữa thời Bắc T ng đã khai thác
rất nhiều đề tài từ Tam Qu c. Cao Thừa cho
biết Nhân Tông thường cùng bọn thị dân
nói chuyện Tam Qu c hoặc chọn những con
vật phục vụ cho ng tác biểu diễn
khúc (Cao Thừa 1989). Cụ thể hơn, Trương
Lỗi còn còn dẫn câu chuyện đứa trẻ con
kinh thành khi xem tiết mục khúc mỗi
khi đến cảnh chém Quan Vũ, khóc sướt
mướt, nước mắt ướt đầm dải áo (Trương
Lỗi 1983) thì thể thấy sân khấu Bắc T ng
khai thác đề tài Quan Công lâm nạn khá cảm
động lòng người.
Bên cạnh khúc, thoại bản đời T ng
phát triển khá mạnh. Những câu chuyện khai
thác về sự kiện, nhân v t Tam Qu c được
các thuyết thoại nhân kể, trong đó có chuyện
Quan chắc hẳn khá nhiều, tiếc rằng hiện
không còn một bản kể nào. Đời Nguyên
xuất hiện bản kể Tam Qu c chí bình thoại
nói về quá trình tam phân ba nước Ngụy
Thục Ngô mang màu sắc luân hồi báo ứng
nhà Ph t. Bản kể y được cho rằng m i
quan hệ kế thừa từ các bản kể của thuyết
thoại nhân đời T ng. Riêng chuyện Quan
được kể với tám đầu m i như sau: Thiên
Công ban thánh thư, chạy tr n Trác qu n,
kết nghĩa đào viên, đầu quân báo qu c... cho
đến các sự kiện bắt Vu Cấm tr n thủy
chiến, sau đó bị bắt bỏ mạng tại Đông
Ngô. Ngoài thoại bản Tam Qu c chí bình
thoại, sách Tuyên Hòa di sự đời T ng còn
đề c p đến truyền thuyết Quan hiển
thánh trị thủy quái Diêm Trì vào những
năm Sùng Ninh triều T ng Huy Tông (Lỗ
Tấn 2002).
Đời Nguyên, tạp kịch thể loại phát
triển hưng thịnh nhất. Theo kết quả nghiên
cứu của Khâu Chấn Thanh, tạp kịch Nguyên
đã để lại s lượng sáng tác lấy đề tài từ Tam
Qu c khá đồ sộ với hơn 40 vở (Khâu Chấn
Thanh 1983), trong đó có 13 vở lấy nhân v t
Quan làm chủ đề chính như: Quan đại
vương độc phó đơn đao hội, Quan Trương
song phó Tây Thục mộng (Quan Hán
Khanh), Hổ lao Quan tam chiến B
(Trình Đức Huy), Quan đại vương nhị tróc
hồng y quái (Thiện Phu), Thọ Đình hầu nộ
trảm Quan Bình, Quan Vân Trường đại phá
Xuy Vưu, Quan đại vương nguyệt hạ trảm
Điêu Thuyền, Quan n Trường cổ thành tụ
nghĩa, Quan Vân Trường đơn đao phách tứ
T. V. Trọng / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, 6 (2016) 683-693
685
khấu, Thọ Đình hầu n quan trảm tướng,
Quan Vân Trường thiên độc hành, Trảm
ái Dương, Quan Vân Trường đào viên kết
nghĩa (khuyết danh).
Những sáng tác văn học nghệ thu t trong
hàng ngàn m, nhất là khúc, thoại bản,
tạp kịch thời T ng Nguyên đã trở thành
liệu cùng quan trọng để tác giả tiểu
thuyết La Quán Trung sáng tạo lên hình
tượng nh t v t bất hủ: Tuyệt nghĩa Quan Vũ.
2. Quá trình din hóa hình tượng t nhân vt
lch s đến nhân vt văn hc
Các tác phẩm, đặc biệt các tác phẩm văn
học thời T ng Nguyên đã gia công, cải biên
khiến cho hình tượng Quan Vũ từ lịch sử
đến văn học nhiều sự khác biệt. Quá trình
diễn hóa hình tượng thhiện mấy nét lớn
sau:
2.1. Cải biên, thêm bớt, bổ sung tình tiết
vào các sự kiện lịch sử
Dựa trên nền tảng sự thực lịch sử được
các sử gia ghi chép, các tác phẩm văn học đã
tiến hành gia công, bổ sung thêm bớt các
tình tiết làm cho các sự kiện lịch sử liên
quan đến nhân v t được sáng như: Giết
Nhan Lương, Văn Xú, cạo xương chữa
thu c, nước ng p bảy cánh quân...
Đọc Tam Qu c diễn nghĩa, độc giả đều
biết chiến công lẫy lừng của Quan
chém chết hai đại ớng của Viên Thiệu
Nhan ơng Văn Xú, gián tiếp gây nên
thất bại thảm bại của quân Viên Thiệu. Sự
kiện lịch sử y đã được Trần Thọ, sử gia
đời Tấn ghi chép trong Tam Qu c chí-Quan
truyện như sau: Năm Kiến An thứ 5,
Viên Thiệu cử đại tướng Nhan Lương công
phá Đông qu n, Tào Tháo cử Trương Liêu
Quan làm tiền bộ tiên phong nghênh
chiến. từ xa thấy Nhan Lương vẻ
hiền lành, liền thúc ngựa phi vào trong đám
vạn quân đâm Nhan Lương, cắt lấy thủ cấp
đem về(Trần Thọ 1975). Sự kiện Văn
bị giết được chép như sau: Viên Thiệu qua
sông truy kích quân Tào đến tận phía nam
Diên Tân; Tào Tháo phải bỏ cả quân nhu,
lương thực chạy tr i chết; quân Viên Thiệu
thấy thế tranh nhau thu nhặt chiến lợi phẩm;
quân Tào quay lại th sức chém giết, đại
phá được Viên Thiệu, giết được Văn
(Trần Thọ 1975). Sự kiện giết Nhan ơng
của Quan trong chính sử ghi chép sau
này đã được thoại bản Tam Qu c chí bình
thoại tiến hành gia ng, bổ sung chi tiết:
Đại tướng Nhan Lương dẫn 10 vạn đại
quân chinh phạt Tào, liên tiếp đánh bại
tướng tiên phong Hạ Hầu Đôn, đại tướng
Tào Nhân. Tào Tháo than rằng-Nhan Lương
thật anh hùng, bây giờ biết tính làm sao?
Quan Vũ cười đáp, người này tuy nhỏ
thể nâng đao trên ngựa, ta trên cao thể
thấy hết sự vui mừng, trấn giữ đại doanh
Viên Thiệu không một chút nghi ngờ trở
ngại nào, (tôi) thmột đao chém rơi đầu
Nhan Lương xu ng đất (Chung Triệu Hoa
1989). Hồi 25 của Tam Qu c diễn nghĩa lại
cực tả sự thần dũng của Quan gấp nhiều
lần so với thoại bản: Quan Công nhảy phắt
lên mình ngựa, cắp ngược thanh long đao,
tế xu ng núi, mắt phượng trợn lên, mày tằm
dựng ngược, xông thẳng vào trận bên kia, đi
đến đâu quân Bắc rẽ như sóng nước.
Quan Công đến thẳng chỗ Nhan Lương.
Nhan Lương đang đứng dưới lọng, thấy
Quan Công đến, vừa mu n hỏi thì ngựa
Xích Th chạy mau đã đến trước mặt. Nhan
Lương trở tay kkhông kịp, Quan Công đưa
một lưỡi đao, Lương chết ngay dưới chân
ngựa” (La Quán Trung 1995). Như v y, việc
giết Nhan ơng khá ràng, so với ghi
chép lịch sử thì thoại bản tiểu thuyết
sự gia công, bổ sung tình tiết làm sáng ngời
sự thần dũng của Quan Vũ. Tuy nhiên, cái
chết của Văn lại không được sử sách nói
do ai giết. Thiên đế kỷ sách Tam
Qu c chí của Trần Thọ chỉ chép sau khi Tào
T. V. Trọng / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, 6 (2016) 683-693
686
Tháo phá được Viên Thiệu, giết được Văn
không nói đại tướng nào? Các
tác giả sau Trần Thọ đ i với cái chết của
n đều quy cho Quan Vũ, song ghi
chép khác nhau. Hồng Mại trong Dung trai
tục bút miêu tả Quan giết hai tướng
Nhan Lương, Văn của Viên Thiệu trong
đám vạn quân (Hồng Mại 1996). Đến Tam
Qu c chí bình thoại, các thuyết thoại nhân
đã tiến hành chi tiết hóa, bổ sung tình tiết,
miêu tả cụ thể Quan sau khi giết Nhan
Lương, Văn liền đem quân khiêu chiến,
xông đến đánh Văn Xú, Văn Xú bại tr n
chạy tr n, truy kích tới 30 dặm, giơ đao
chém xu ng, Văn Xú liền giơ tay đỡ bị
chém đứt làm hai đoạn. Còn trong Tam
Qu c diễn nghĩa, La Quán Trung miêu tả
chi tiết này thành một đoạn văn phô trương.
Đầu tiên miêu tả Văn trong đám loạn
quân c sức đánh nhau với hai tướng
Trương Liêu, Từ Hoảng với sự dũng mãnh
khác thường, Quan xuất hiện phi ngựa
vung đao giết chết Văn Xú.
Một sự kiện trong Tam Qu c cũng được
lịch sử ghi chép khá ờng t n, nhưng đến
thoại bản tiểu thuyết đã sự biến đổi-sự
kiện Quan khơi ng làm nước lụt bảy
cánh quân Vu Cấm. Sự kiện này được Trần
Thọ chép mùa thu, mưa lâu ngày, nước
sông Hán Thủy tràn bờ, mặt đất nước ngập
hàng trượng, đến lúc này bảy cánh quân của
Vu Cấm không thể chịu được nữa...Vũ liền
tấn công Vu Cấm, Cấm đầu hàng, duy chỉ có
Bàng Đức không đánh mất khi tiết chịu
chết (Trần Thọ 1975). Sự kiện được sử
sách ghi chép đơn thuần thiên tai làm
hỏng nhân sự thì đến các tác phẩm văn học
đã biến thành chuyện Quan đa mưu túc
trí, lợi dụng địa hình, khai sông cho nước
ng p thành thu được thắng lợi. Tam Qu c
chí bình thoại chép s kiện y như sau:
Quan thấy Vu Cấm đóng trại gần con
sông nhỏ, không để ý mưa lâu ngày, Quan
cho khai sông, nước sông tràn ngập bờ.
Quân Vu Cấm đều bị chết nước lụt”. Hồi
74 trong Tam Qu c diễn nghĩa, La Quan
Trung lẽ dựa trên nền tảng Tam Qu c chí
bình thoại đã thêm thắt, miêu tả cảnh mưa
thu lâu ngày, Quan bỗng nghĩ ngay k
mưu, phái người ra đóng ngoài cửa sông,
mưa ngày càng kéo dài, nước sông ngày
càng dâng cao dữ dội, Quan Vân Trường
liền cho nước lụt ng p thành, quân Tào
trong thành biến thành ba ba, thuồng luồng
chết kể. Như v y, tsự kiện lịch sử qua
thoại bản đến tiểu thuyết, Quan đã tr
thành viên đại tướng tài ba, không những
thần ng còn b c thầy “túc trí đa
mưu” có tài dùng binh.
2.2. Diễn giải di chuyển sự kiện-
tình tiết, làm thay đổi ý nghĩa sự kiện-
tình tiết ban đầu
Trong Tam Qu c, một s sự kiện như
hàng Hán không hàng Tào, C thành tụ
nghĩa, đơn đao phó hội... những loại sự
kiện lịch sử đã bị tác giả văn học diễn giải
khác đi so với sự kiện ban đầu nhằm làm
cho hình tượng Quan thêm sáng ngời
đẹp đẽ theo quan điểm tư tưởng của thời đại.
Sự kiện Quan ra điều kiện “hàng Hán
không hàng Tào” được Trần Thọ chép trong
Tam Qu c chí-Quan truyện như sau:
Năm Kiến An thứ 5, Tào Tháo đông chinh,
Tiên chủ nương nhờ Viên Thiệu. Tào công
bắt được Quan trở về, bái làm tướng
quân, đ i xử rất hậu”. Sau y, được tin
Lưu Bị chưa chết bèn gói hết những thứ
được ban thưởng đem trả, viết thư cáo từ”.
Như v y, việc Quan Vũ hàng Tào được ghi
chép chưa thấy nói đến điều kiện hàng
Hán và Quan bị Tào Tháo bắt chứ không
phải Tào Tháo mời, sở để Quan
đưa điều kiện hàng Hán. Sự kiện này được
Tam Qu c chí bình thoại chép thành Quan
đặt 3 điều kiện để về với Tào Tháo: Ta
phu nhân một n chia hai phòng; nếu
biết tin hoàng thúc đâu thì sẽ đi m; hàng
T. V. Trọng / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, 6 (2016) 683-693
687
Hán chứ không hàng Tào”(Chung Triệu Hoa
1989). Tào Tháo đồng ý tất cả các điều kiện
Quan đầu hàng. Đến Tam Qu c diễn
nghĩa, La Quán Trung đã tiến thêm một
bước bsung b i cảnh quy hàng của Quan
Vũ: Khi Quan Vũ bị vây kh n, Trương Liêu
lên núi khuyên hàng, nói Quan nếu liều
chết sẽ có ba tội lớn-tội thứ nhất là bỏ huynh
đệ chết một mình quên mất lời thề đồng sinh
đồng tử khi kết nghĩa vườn đào, tội thứ hai
để hai chị dâu không biết ơng dựa vào
đâu, tội thứ ba không thể cùng huynh đệ
khuông phò nhà Hán. Nếu Quan hàng
Tào sẽ ba lợi lớn-thứ nhất có thể bảo
vệ hai chị dâu không quên lời y thác của
huynh trưởng, thứ hai không bội ước lời
thề kết nghĩa, thứ ba là thể bảo vệ được
tính mạng của mình. Quan khi nghe
Trương Liêu phân tích xong cũng đưa ra ba
điều kiện: Thứ nhất chỉ hàng Hán chứ
không hàng Tào, thứ hai Tào Tháo phải
đ i xử t t với hai phu nhân, thứ ba sau
này nghe tin Lưu Bị đâu sẽ l p tức đi m.
Tào Tháo đáp ứng cả ba điều kiện, Quan
hỏi ý kiến hai chị dâu rồi sau đó mới hàng
Tào. Tiểu thuyết đã trên sở thoại bản bổ
sung thêm ba cái tội, ba điều lợi, ba điều
kiện hàng Tào đã m rạng rỡ vẻ đẹp trung
nghĩa hiếm thấy của Quan Vũ.
Nếu sự kiện “hàng Hán không hàng Tào”
được các tác phẩm văn học bổ sung, gia tăng
tình tiết hợp theo chiều hướng ca ngợi
trung can nghĩa đảm của Quan theo tiêu
chuẩn nho gia đề cao “phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy bất năng
khuất” thì sự kiện “đơn đao phó hội” hoàn
toàn một sự kiện không liên quan gì đến
Quan nhưng đã được các tác giả đời sau
di chuyển từ nhân v t Lỗ Túc gán cho Quan
không ngoài mục đích tôn ng đề cao
phẩm chất nghĩa dũng của nhân v t y.
“Đơn đao phó hội” v n chỉ liên quan đến
nhân v t Lỗ Túc của Đông Ngô. Tam Qu c
chí-Lỗ Túc truyện chép sự kiện này như sau:
mời Túc gặp mặt, binh dừng lại
trước 100 bộ, nhưng Túc một mình một đao
dự hội (Trần Thọ 1975). Bùi Tùng Chi khi
dẫn Ngô thư cũng chép lại sự kiện y
tương tự: Túc mu n cùng hội đàm, chư
tướng nghi ngờ biến, khuyên Túc không
nên qua. Túc nói-việc ngày hôm nay là thích
hợp cởi mở với nhau. Lưu Bị gánh vác trọng
trách qu c gia, quyết định mọi việc, nào
dám to gan phạm lệnh! Liền đi nhanh tới
gặp ”. Truyền thuyết dân gian chép sự
kiện y cũng quy “đơn đao phó hội” cho
Lỗ Túc. Đại để tình tiết liên quan đến việc
Lỗ Túc đòi Kinh Châu, đưa thư mời Quan
dự tiệc. Quan đồng ý, nói: Gặp
nhau sáng kiến của Tử Kính; Làm chủ
nhà đương nhiên phải là ta; Ta dọn bàn tiệc
bắc sông Tứ mời Tử Kính ngày mai nhất
định quá bên này này dự tiệc”. Quân
khuyên Lỗ Túc không nên dự tiệc Quan
con chồn đi chúc tết con gà, không
nên sang”. Lỗ Túc không nghe, nói Quan
không sang đây, cũng nghi ngờ ta
như vậy; Nếu ta cũng không chịu đi trước
một bước thì gặp nhau thế nào dược (T ng
Công Yếu 1997). Như v y, những ghi chép
lịch sử gần với thời đại Tam Qu c cho thấy
nhân v t chính “đơn đao phó hội” Lỗ Túc
chứ không phải Quan Vũ.
Tuy nhiên, đến thoại bản Tam Qu c chí
bình thoại, tạp kịch Quan đại vương độc
phó đơn đao hội của Quan n Khanh
tiểu thuyết Tam Qu c diễn nghĩa đã biến sự
kiện của Lỗ Túc thành sự kiện liên quan đến
Quan Vũ, hay nói cách khác các c phẩm
văn học đời sau đã “di hoa tiếp mộc“. Cả
thoại bản tạp kịch nội dung sự kiện này
được thu t lại Lỗ Túc đem một vạn quân
qua sông, mời Quan một mình đến dự
hội. Quan Vân Trường biết bên trong
âm mưu mờ ám, nhưng không hề sợ hãi,
mặc giáp phục, lưng cài thanh long đao đến
quân doanh của Lỗ Túc. Hình tượng Quan
trong thoại bản đặc biệt tạp kịch