NGHIÊN CỨU - TRAO Đ ổl
54
QBANNIỆM CỦANGƯỪI VIỆTVÊ SÔNG CHẾT, MÃ CHAY, GIỖ CHẠP
đầu của m ột chu kì sống mới, một kiếp sống mới. Theo Đạo Phật, không có kiếp sống đầu tiên và kiếp sống cuối cùng; sau khi chết, linh hồn của con người sẽ được tái sinh, đầu thai vào một kiếp khác. Kiếp đó hạnh phúc hay khổ đau, tùy thuộc vào bản thân họ đã sống thiện hay ác trong quá khứ.
QUA TỤC NGữ
Những tư tưởng của Phật giáo có ảnh hưởng đến những quan niệm của người
NGÔ THỊ HÒA BÌNH
ân tộc nào cũng có m ột số phong tục, tập quán, thuộc về vãn hóa của riêng mình. Đó là những nghi lễ, phép tắc mà
người ta đã thỏa thuận với nhau, và được đa số ủng hộ, cho đó là những việc nên làm và phải làm. Người Việt cũng có một số phong tục và tập quán liên quan đến việc ma chay, giỗ chạp cho người trong gia đình đã qua đời. Những phong tục tập quán đó được phản ánh chân thực, sinh động và sâu sắc
trong kho tàng tục ngữ người Việt.
Việt, nhưng người Việt không sao chép nguyên xi tư tưởng Phật giáo. Người Việt quan niệm “sinh tử hữu mệnh”, mọi sự sống chết đều đã được định đoạt sẵn như một quy luật ở đời: “Horn một ngày chẳng ở, kém một ngày chẳng đi” . Nên dù “sinh hữu hạn, tử vô kì” (sống thì có hạn, còn chết thì không biết trước lúc nào), người già vẫn đón nhận cái chết một cách rất bình tĩnh. Họ quan niệm chết như một sự giải thoát, cho nên họ đón nhận cái sống và cái chết bằng một thái độ thản nhiên như một tất yếu “sinh kí tử quy” (sống gửi thác về), đồng thời lấy nổ làm cứu cánh để xác định phép đối nhân xử thế, đúc kết những bài hộc luân Màng tục ngữ về sống chết, ma chay, giỗ chạp chiếm tì lệ không lớn trong kho tàng tục ngữ cổ truyền của người Việt. Trong bộ
sách Kho tàng tục ngữ người Việt do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2002, có 161/16.038 câu tục ngữ về sống chết, ma chay, giỗ
lí. Người Việt có cách nhìn, cách nghĩ riêng về “đại sự” ấy từ lâu đời và tiếp thu tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, tạo nên nhiều tập tục lưu truyền qua hàng nghìn năm, trong đó có lẽ họ quan tâm đến “cái chết” nhiều hơn.
chạp. Tuy ít nhưng mảng tục ngữ này đã phản ánh khá rõ một số quan niệm về nhân sinh trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân Người Việt cho răng chết chưa phải đã hết mà là tiếp tục cuộc sống mới ở “thế giới của người Việt.
bên kia” nên họ xem việc tang ma như là việc đưa tiễn từ cuộc sống trần gian tới một cuộc sống khác. Xem tang ma như việc đưa tiễn và với thói quen sống bằng tương lai, người già có tâm lí đón chờ cái chết. Chắt, chút để tang cụ kị. Chắt đội khăn vàng, chút đội khăn đỏ. Người chết già được xem như là điều mừng
Sống chết là hai đầu cực của cuộc đời, nhưng đều không thuộc quyền quyết định của con người. Phật giáo cho rằng sống chết là quy luật tất yếu của thế gian, như mặt trời lặn rồi lại mọc, mọc, rồi lại lặn m à thôi. Sống chết chỉ cỏ nghĩa là thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt vui: "Trẻ làm ma, già làm hội"
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2011
55
lên ngôi đã sai đóng quan tài, mỗi năm sơn một lần, rồi đem cất đi! Ta đâu dám làm sai thể chế của tiên vương. Người khỏe mạnh còn lo chùyện bất ngờ, huống chi người yếu đuối lại dám bỏ qua ư?)(1).
tổ chức như là cuộc đưa
Ngữời Việt rất trọng nơi "an nghỉ cuối cùng". Có người chưa chết đã tự chuẩn bị cho mình hoặc do con cháu lo trước cái gọi là "sinh phần", kể cả cỗ áo quan (cỗ hậu, cỗ thọ). Họ quan niệm rằng, nếu sinh phần có địa thế đẹp, được chăm sóc chu đáo thì con cháu sẽ được phù hộ học hành đỗ đạt, có cuộc sống yên lành, ấm no, hạnh phúc... Nhiều câu tục ngữ thể hiện tập tục ấy: "Sổng nhà thác mồ", "Sống về mồ mả không sống về cả bát cơm", "Không mả đố ả làm nên"... Họ xem đất, ngắm hướng rất kĩ, cho rằng nó quan hệ đến tiền đồ của con cháu, của dòng tộc, có đất phát khoa cử, có đất phát quan trường, cũng có đất làm khuynh gia bại sản... nên việc chọn nơi chôn cất không thể coi thường.
Trong tang ma, người Việt bị giằng kéo giữa hai cách nhìn đối lập. M ột quan niệm cho rằng chết chưa phải là hết, linh hồn tiếp tục về thế giới bên kia nên tang ma tiễn, bởi được họ quan niệm "vạn vật hữu linh" một quan niệm coi cái chết là sự li biệt, xa cách nghìn trùng nên coi việc tang ma là việc xót thương đau đón. Vì chịu ảnh hưởng nhiều của Khổng giáo, người Việt rất coi trọng chữ hiếu đổi với* ông bà, cha mẹ, cho nên khi ông bà hoặc cha mẹ chết, người ta tổ chức nghi lễ ma chay rất chu đáo với những nghi thức chặt chẽ. Vả lại nếu không có cụ Khổng thi người Việt vẫn sẽ rất chu tất đối với người thân đã khuất.
Quan niệm của dân gian cho rằng phải cẩn trọng khi chôn cất, phải cẩn thận khi chọn hướng đất đâ gặp gỡ cách suy nghĩ, quan niệm của vua chúa về vấn đề này. Vua Tự Đức từng viết trong bài văn bia Khiêm
Trong đám tang của người Việt cổ truyền, khi người già mất đi trừ nhà nghèo khó, bất khả kháng thì không có đám tang nào là không có tiếng kèn, tiếng trống. Kèn trống chính là nhạc, m à nhạc cần cho lễ nghi: "Sống dầu đèn, chết kèn trống".
cung kí: " Nhân chi ư sinh tử đại hỉ, nhiên diệc thường hỉ! Nhan yểu Bành thọ, Di thiện Chích ác, kì sinh giả cố tự bất đồng, kì tử giả vô bất đồng dã. Cái bất hủ giả danh dã, sở dĩ biệt ư cầm thú, lễ dã, diệc tình dã. Quân tức vị nhi vi bài, tuế nhất tất chi tàng yên. Dư cảm vi tiên vương chi chế! Cường
giả do ưu, mỉ thường thân nhược giả hà cảm tất?" (Đối vói con người, sổng chết là vấn đề lớn đấy, nhưng thật cũng thường thôi! Nhan chết yểu, Bành sổng dai, Di hiền lành, Chích hung dữ, sống thì không ai giống ai, mà chết thì không thể không giống
Kèn trống cần cho đám tang như người sống cần dầu đèn để thắp, về câu này, có người lại hiểu rằng: Lúc sổng người ta tổn dầu đèn để thắp cho sáng sủa, khi chết lẳng lặng không ai hay nên cần kèn trống cho đình đám, khỏi tủi hổ vong linh. Kèn trống nổi lên lúc tế lễ cùng phường bát âm nổi điệu "nam ai", "nam thương" đem lại sự buồn thảm để hòa cùng hoặc thay thế tiếng
khóc tạo một không khí xót thương trước cảnh biệt li. Người sống như muốn níu giữ người quá cố ở lại với con cháu lâu chừng nào, tốt chừng ấy, trước khi về cõi vĩnh hằng, tốt chừng ấy, trước khi về cõi vĩnh hằng. nhau vậy. Cho nên, danh là cái không mục nát, còn thân là cái không thể không mục nát. Thế thì vội gì lo đến việc về sau? Chỉ vì chôn là cất giấu. Nó làm cho con người khác với loài chim muông, ấy là do lễ, mà cũng dò tình nữa. Các vị vua xưa khi mới
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
56
Kèn trống nổi lên còn báo cho tang chủ biết là có người đến phúng viếng. Phúng là lễ vật đi điếu người chết, viếng là thăm; phúng viếng là đem lễ vật đến hỏi thăm:
"Tri sanh giả điếu, tri tử giả ai".
(Biết kẻ sống thì làm lễ điếu, biết kẻ
chết thì làm lễ thương).
Biết có đám tang, họ hàng và láng giềng, thôn xóm thường mang lễ (trầu, cau, trà, rượu, hoa, bức trướng, câu đối...) đến viếng. Tục lệ đó thể hiện niềm xót thương với người đã khuất và thể hiện tính cộng đồng của xã hội người Việt.
Nam thôi phục chế: áo may biên hướng ngoại, quần may biên hướng nội, mũ bằng rơm, dây cột mão dây thắt lưng bện bằng dây gai dây chuối hay dây đay. Nữ thôi phục chế: áo may biên hướng ngoại, quần may biên hướng nội. Con hai, con gái chưa chồng, con dâu, đội khăn xô mũ rơm, mặc áo xô, thắt lưng bằng dây chuối... Để tang cha, quần áo may xổ gấu (trảm thôi). Để tang mẹ, quần áo may vén gấu (tề thôi). Cũng từ sự xót thương người đã khuất nên trong đám tang, người thân của người đẫ khuất không còn tâm trí để nghĩ đến diện mạo nên mặc áo xô, đầu tóc bù xù, áo trái, gấu xổ. Con dâu, con gái thì tóc xõa, đội mũ mấn có miếng vải xô che mặt: "Cha buông mẹ vén". Áo phải khâu đường
Theo quan niệm của người Việt, khi người cha chết, con trai thường chống gậy tre, khi người mẹ chết thì chống gậy vông. sóng lưng lộn mép vải ra ngoài, giữa lưng có một miếng vải khâu bám vào, gọi là "phụ
bản" vói ngụ ý: mang trên lưng một sự đau buồn thương tiếc. Khăn xô có dải sau lưng
gọi là "khăn ngang".
Đưa tang còn có tục, tang cha thì con trai chống gậy theo sau, con gái bưng miệng đi giật lùi phía trước đầu quan tài "Cha đưa mẹ đón". Điều này biểu hiện triết
lí âm dương qua cặp nghĩa hướng ngoại (dương, cha), hướng nội (âm, mẹ).
Cây tre tượng trưng cho người đàn ông (cho người quân tử) lại sinh rất nhiều con (măng), thuộc về cha sinh. Cây vông có lá dùng để bọc thịt gói nem tượng trưng cho sự cưu mang của người mẹ(2\ Theo quan niệm âm dương, đám ma cha thì con chống gậy tre vì thân tre tròn, biểu tượng dương; cành vông đẽo hình vuông, biểu tượng âm nên con chống tang mẹ. Gậy tre tròn tượng trưng cho trời. Theo thuyết âm dương của Nho giáo thì trời thuộc về dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng cho đất. Đất thuộc về âm, chỉ người mẹ. Vì vậy, đưa đám cha phải chống gậy tròn, đưa đám mẹ thì chống gậy vuông: "Cha gậy ưe, mẹ gậy Trước quan tài đưa đám theo tục lệ cổ truyền có "minh tinh làm bằng lụa hoặc bằng vóc, nhiễu đỏ độ dài bảy, tám thước lấy phấn trắc đề tên chức tước, họ tên hụy hiều người mất, treo vào một cán tee hoặc làm như hình án trụ" thường được giương lên cao(3). Tục vông, bà gậy vông, ông gậy tre". ngữ đã ghi lại tục này:
Trong Văn công Thọ M ai gia lễ của. Hà Tấn Phát có ghi lại những quy định về tang + “Cao như minh tinh + Ngất ngưởng như minh tinh nhà có”. phục trong tang m a của người xưa:
“Để tang cha may trảm thôi phục; Để tang mẹ may tư thôi phục
(tề thôi phục)”. Ngày nay, đám tang được tổ chức gọn gàng. Hồn bạch, thể kì, minh tinh được thay bằng tấm ảnh chân dung người chết. Linh cữu được chở bằng xe hơi. Nhiều nghi thức,
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2011
57
hủ tục bị xoá bỏ (thương vay khóc mướn, lăn đường, cờ quạt rầm rộ, kèn trống ầm ĩ).
người. Khi một đứa trẻ chào đời, người ta lập tức báo cáo trước bàn thờ tổ tiên phù hộ cho nó. Đến tuổi trưởng thành, người ta lập gia thất trước sự chứng giám của tổ tiên, họ tộc, quan hệ gia đình được mở rộng hơn trong mối quan hệ vợ chồng, con cái, cháu chắt. Khi chết đi, người ta lại được con cháu đưa tiễn và xót thương. Cứ như thế, mỗi người đếu gắn bó sâu sắc với gia đình và gia tộc của mình. Bởi vậy ý thức của họ bao giờ cũng ghi nhớ về tổ tiên, dòng họ. Người Việt có lệ người sống để tang cho người chết. Để tang có nghĩa thể hiện sự đau buồn của người sống, sự kính trọng, tiếc thương với người chết. Con để tang cha mẹ, anh chị em để tang nhau, cháu để tang ông bà, cô chú, bác ruột và ngược lại, người bề trên để tang cho người bề dưới, thậm chí láng giềng cũng để tang nhau. Tục ngữ người Việt nói rất cụ thể về tục để tang này;
+ “Chị em ba tháng, láng giềng ba ngày”
+ “Cô đi chín tháng, cô về một năm”
+ “Chồng cô vợ cậu chồng dì, trong ba
người ấy chết thì không tang".
Trong thời gian để tang, người có tang bị hạn chế nhiều mặt, không làm điều ngang trái, không được lấy vợ lấy chồng,
không được ăn mặc đẹp, không được vui chơi: "Có tang không đi ngang về dọc". Điều đó thể hiện sự tôn kính của người sống với người đã khuất.
Tang ma của người Việt nói chung có khá nhiều tập tục đã phản ánh quan niệm và tín ngưỡng của nhân dân ta. Được thể hiện
trong kho tàng tục ngữ người Việt một cách khá đặc trưng. Dù là tín ngưỡng, tức là cũng có nhiều điều tin vào bói toán, thầy địa lí hay quan niệm về hai cõi âm dương, thì hơn hết tập tục tang ma của người Việt chính là biểu hiện của tình thương biến thành hành động, tất cả đều thể hiện tình cảm của người sống đối với người đã khuất. Đó chính là nét đẹp phong tục của dân tộc Việt, phần tất yếu để những nét đẹp phong tục tồn tại cho đến ngày nay.
Cho đến nay, việc thờ cúng tổ tiên tồn tại ở nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của con người mỗi nơi mỗi khác. Ở một số quốc gia, vai trò mờ nhạt trong đời sống tinh thần cộng đồng - nhất là những quốc gia và dân tộc đưa tôn giáo thành độc tôn nhất thần. Nhưng ở m ột số nước châu Á trong đó có Việt Nam thì việc thờ cúng tổ tiên có vai trò quan trọng trong tâm linh của mỗi cá nhân, cộng đồng xã hội. Mọi người quan niệm tín ngưỡng này như là một phong tục truyền thống, vừa rihư một đạo lí làm người, lại vừa như một hình thức sinh hoạt tâm linh. Tuy nhiên, phần quan trọng nhất trong việc thờ phụng tổ tiên là cúng giỗ. Khác với người phương Tây coi trọng ngày sinh, người Việt coi trọng hơn cả là ngày cúng giỗ. Ngày giỗ được gọi bằng từ Hán Việt là húy nhật hay kị nhật, tức là ngày lễ kỉ niệm ngày mất của ông bà cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kị. Nguyên ngày trước “lễ giỗ” còn gọi là “lễ chính kị”, chiều hôm trước lễ chính kị có “lễ tiên thường” nghĩa là nếm trước, con cháu sắm sanh một ít lễ vật mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà giàu có thường mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ (tiên thường và chính kị). Ngày nay hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế m à người ta giản lược, chỉ cúng một lễ chính vào đúng hoặc trước Người Việt rất gắn bó với gia đình, dù đi đâu về đâu, lúc khó khăn hoạn nạn, điều đầu tiên họ nghĩ tới vẫn là gia đình. Bởi gia đình luôn ở trong ý thức của mỗi
NGHIÊN CỨ U-TRAOĐỔI
58
lễ chính kị. Ngày đó ngoài việc chăm phần mộ thì tùy gia cảnh, tùy vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Đây là dịp để gặp mặt người thân trong dòng họ để tưởng nhớ những người đã khuất.
mô và sự chi tiêu phù hợp. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình mời người thân dòng họ, anh em bằng hữu. Nhà nghèo chỉ cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản dị cúng người đã mất, để tỏ lòng thành kính. Lòng thủy chung thương xót người đã khuất nên đánh giá bằng việc con cháu có nhớ đến ngày giỗ hay không, không nên đánh giá bằng việc làm giỗ lớn hay nhỏ.
Với nếp nghĩ "dương sao âm vậy" nên trong quan niệm của người đời xưa, người chết cũng cần ăn uống, nhà cửa, quần áo, hút thuốc, ăn trầu, cần tiền đi lại và mọi khoản chi dùng như khi còn sống...
Trong mỗi nhà, người Việt lập bàn thờ ông bà ở noi trung tâm, trang trọng nhất, theo quan niệm của nhân dân ta: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Họ thành kính dâng lên tổ tiên những miếng ngon, vật lạ trong những ngày rằm, mồng một hoặc những khi đi xa về gần. Hằng năm dẫu bận rộn, con cháu vẫn nhớ để làm giỗ cho cha mẹ, tổ tiên. Giỗ có thể làm to hoặc nhỏ tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng gia đình và mối liên hệ giữa người sống với người chết.
+ "Trâu bò được ngày phá đỗ, con cháu được ngày giỗ ông"
+ "Giỗ mồ côi béo bụng".
Giỗ cha mẹ ông bà thường làm giỗ to, còn giỗ các vị cao tằng tổ khảo thì làm com canh cho khỏi bỏ giỗ: "Bắt người bỏ giỗ, không ai bắt 'người cỗ bé".
Người chết cũng được chia một phần gia tài. Nhiều nơi còn dựng các nhà mồ, trong nhà mồ cũng có đầy đủ các nồi đồng, mâm gỗ, ấm đất, bát đĩa, dao rựa, chăn chiếu quần áo, mũ nón...đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người chết cũng được chia cà trâu, lợn, gà, thóc, gạo... Sau ba năm, tang chủ làm lễ khấn vái và ra mồ xin lại những đồ vật còn dùng được, và súc vật còn sống, kể cả súc vật vừa mới đẻ ra...
Cũng có khi có tiếng tăm, vì khoe khoang mà người ta làm cỗ rất to để "oai" với thiên hạ, nên tục ngữ mới có những câu ưào phúng, mỉa mai như:
+ "Sống chẳng cho ăn, chết đọc văn tế
môi
+ "Sống thì chẳng cho ăn nào, chết thì cúng giỗ mâm cao cỗ đầy"
+ "Một lễ sống bằng đống lễ chết".
Trong những ngày giỗ, người ta thường làm cơm, mời anh em họ hàng thân cận. Ngày giỗ làm rất linh đình và cũng rất tốn kém: Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt vàng mã, tức là thay thế bằng các đồ vật làm bằng tre, gỗ, rơm, rạ, đất sét hoặc giấy tượng trưng, nhưng kích thước thu nhỏ lại để người cõi âm mang đi. Nhờ có "phép thiêng biến ít thành nhiều", áo quần của người chết mặc khi còn sống, để lại nhà mồ sau ba năm mục nát, không nỡ dùng vào việc khác, người ta đốt đi dần dần sinh ra được thay thế bằng quần áo giấy. Vì vậy mới có câu tục ngữ: "Đi với ma mặc áo giẫy". + "Một ngày giỗ cha, ba ngày húp-nước"
+ "Trước giỗ cha sau va vào miệng".
Ngày nay, tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng gia đình m à người ta làm giỗ với quy Tục lệ đốt vàng m ã đặ bén rễ và ăn sâu vào tâm thức của người Việt và tồn tại cho đến ngày nay. Nhiều người cho đó là một trong những nét đẹp văn hoá của phong tục
TẠP CHÍ VHDG SỐ 3/2011
59
nặng 20 tấn năm ngay sau Bái Đình trong lăng Tự Đức.
(2) Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2000), Kho tàng tục ngữ người Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, tr. 422.
(3) Nguyễn Xuân Kính (2000), Kho tàng tục ngữ người Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, tr. 378.
thờ cúng tổ tiên, nét đẹp đó cần được giữ gìn và cải tiến cho phù hợp với từng thời kì lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
2. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2004), Phong tục Việt Nam,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
4. Hà Tấn Phát (1961), Văn công Thọ Mai
gia lễ, Nxb. Hồng Dân, Sài Gòn.
5. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2003), Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 1: Tục ngữ), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đứng trước đổi thay của cuộc sống, những giá trị văn hóa và tinh thần bị xa lánh ta vẫn thấy một mạch ngầm lặng lẽ chảy suốt chiều dài lịch sử m à vẫn không vơi cạn, vẩn đục: đó là quan niệm của nhân dân về sự sống và cái chết, về tang ma, giỗ chạp lối sống đậm đà tình làng nghĩa xóm, từ "cộng cư, cộng đồng đến cộng cảm, cộng mệnh". "Sinh kí tử quy" (Sống gửi thác về), "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ", "Nghĩa tử là nghĩa tận"... Đó còn là nhân sinh quan, vũ trụ quan của người dân coi cái chết là sự trở về thế giới bên kia, một thế giới giống như thế giới trần tục. Từ bao đời nay những quan niệm ấy, những lối sống ấy vẫn không thay đổi. Đó là thuần phong m ĩ tục, là lối sống ân tình, là đạo lí dân tộc, xứng đáng được trân trọng, gìn giữ.
6. Nguyễn Xuân Kính chủ biên (2003), Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 2: Tục ngữ), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
N.T.H.B
CHỨ THÍCH
7. Nguyễn Xuân Kính (2000), Kho tàng tục
ngữ người Việt (tậpl, 2), Nxb. Văn hóa - Thông tin.
(1) Văn bia Khiêm cung ký do vua Tự Đức soạn thảo được khắc trên tấm bia bằng đá Thanh
XẮC ĐỊNH LẠI HỆ THÕNG...
(Tiếp theo tràng 67)
Mạng Chính yểu, bản dịch cùa Võ Khắc Văn, Lê Phục Thiện, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tập III, 1974, tr. 188 -189.
(6) Nội các triều Nguyễn (1868), Hội điển, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1993, tập 7, tr. 116-117.
(12) Nghi ngờ tính chính xác của dấu phẩy này, chúng tôi đặt nó trong ngoặc vuông để suy xét thêm. Chúng tôi cho rằng nếu đây là dấu hai chấm (:) như ưong đoạn trích của Minh Mạng chính yểu ở trên thì phù hợp hơn.
(7) Thiều Chửu (1997), Hán Việt tự điển, Nxb. Thành phổ Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 81.
(8) Đào Duy Anh (1957), Từ điển Hán - Việt,
Trường Thi xuất bản lần thứ ba, Sài Gòn, tr. 329..
(13) Quổc sử quán triều Nguyễn (1864), Đại Nam Thực lục, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Khoa học, Hà Nội, tập XI, 1964, tr 38.
(9) Nội các triều Nguyễn, Hộỉ điển, bản dịch
của Viện Sử học đã dẫn, tập 7, tr. 118.
(10) Nội các triều Nguyễn, Hội điển, bản
dịch của Viện Sử học đã dẫn, tập 9, tr 595.
(14) Phan Thuận Thảo (2007), “Nghi vấn về cơ cấu dàn Nhã nhạc thời Nguyễn”, Thông báo Khoa học, Viện Âm nhạc Việt Nam, (số 20), tr. 118-121.
(11) Quốc sử quán triều Nguyễn (1897), Minh