
LỜI MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan
xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH, HĐH
đất nước cần phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn
lực mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn vốn
bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát triển, tận
dụng lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời gian bắt kịp với các
nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa làm chủ đạo, bằng
cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế được sự phụ thuộc vào
bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược, đảm
bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế trong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới,
Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải
nhiều khó khăn trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình
độ đội ngũ cán bộ lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động
kinh doanh còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp tác, để vững
bước trên con đường phát triển CNXH theo định hướng của Đảng, chúng ta
phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu tận dụng khai thác mọi nguồn lực
trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII và được khẳng định lại ở Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX:
“Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên
ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông thu hút được nguồn lực trong điều
kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng sự ra đời của
các trung gian tài chính, đặc biệt là các NHTM.

Là một trong những NHTM CP đi đầu trong lĩnh vực huy động vốn, vừa
thực hiện chức năng kinh doanh, vừa thực hiện vai trò thành viên đóng góp
một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống NHTM CP XNK Việt Nam. Tuy nhiên
công tác này vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt
vai trò và chức năng của mình việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt
hơn công tác huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.
Là một sinh viên chuyên ngành tài chính tín dụng, bằng những vốn kiến
thức đã được tiếp thu ở trường cộng với sự hiểu biết có hạn từ thực tế trong
quá trình thực tập tại NHTM CP XNK Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi
nhánh Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động
huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, dịch vụ, khoá
luận nghiên cứu thực trạng hoạt động của NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội
nói chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Từ đó, đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn tại Eximbank Hà Nội, đáp ứng vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn.
3- Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những lý luận cơ bản về vốn và
sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong đó trọng tâm là nâng
cao hiệu quả công tác huy động vốn.
Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NHTM CP XNK Hà Nội
trong 3 năm từ 2002 đến 2004. Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
tại Eximbank Hà Nội.
4- Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với

các học thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng
hợp…
5- Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận chia thành 3 chương.
Chương 1: Lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động
kinh doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHTM CP XNK chi
nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn
tại NHTM CP XNK chi nhánh Hà Nội.

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài
với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng
thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và
thực hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh
toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát
triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân
hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây
cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này
đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân
hàng được phân thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm ngân hàng được được phép
phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau chuyển thành NHTW.
Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian
tín dụng và trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế .
Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là
ngân hàng hai cấp trong đó có Việt Nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân
hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực
hiện chức năng kinh doanh tiền tệ.
Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau
về NHTM. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác
định : “ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt

động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán’’. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm
2004, điều 20 giải thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui
định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân
hàng.” và “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình độ cao của
kinh tế hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh,
hệ thống tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể
cất cánh, phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh.
Ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của
ngân hàng thương mại được thể hiện ở một số mặt sau:
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Khi nhắc tới vai trò của ngân hàng thương mại thì không thể không
nhắc tới vai trò cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các
chủ thể trong nền kinh tế. Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
điều đầu tiên các chủ doanh nghiệp phải quan tâm đó là vốn. Nếu không có
vốn thì doanh nghiệp sẽ bị mất cơ hội đầu tư, mất đi lợi nhuận mà lẽ ra có thể
thu được.
Do nhược điểm của thị trường tài chính dẫn đến ảnh hưởng tới tính liên
tục của chu trình tài chính như sự không khớp nhịp giữa cung vốn và cầu vốn
qua vấn đề thời gian và lượng vốn, rủi ro đạo đức, rủi ro mất khả năng thanh
toán, …NHTM với tư cách là một chủ thể kinh doanh trên lĩnh vực tài chính
tiền tệ có thể khắc phục được những nhược điểm trên. NHTM chính là người
đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi

