HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Mã số: ĐTSV.2023.007

: Nguyễn Thị Bảo Ngọc : 2105XDDA

Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thế Công

Hà Nội, 2023

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Mã số: ĐTSV.2023.007

: Nguyễn Thị Bảo Ngọc

Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia : Cao Xuân Tùng Lâm

Vũ Quỳnh Anh Nguyễn Xuân Tùng Dương Hoài Nam

Lớp : 2105XDDA

Hà Nội, 2023

LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cả nhóm dưới sự

hướng dẫn của Thầy: Nguyễn Thế Công. Các số liệu và tham khảo là trung thực,

chính xác và được trích dẫn đầy đủ. Chúng tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam

đoan này.

LỜI CẢM ƠN

Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Thầy Nguyễn

Thế Công người đã tận tình dìu dắt và chỉ bảo trong suốt quá trình học tập và thực

hiện đề tài nghiên cứu này. Cảm ơn thầy đã tận tình chỉ bảo và góp ý giúp nhóm

tác giả hoàn thành bài tốt nhất.

Nhóm chúng tôi đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong

học kỳ qua để hoàn thành bài nghiên cứu. Nhưng do kiến thức hạn chế và không

có nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình

nghiên cứu và trình bày. Rất kính mong sự góp ý của quý thầy cô để bài nghiên

cứu của nhóm được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa,nhóm chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của

các thầy cô đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu này.

Xin trân trọng cảm ơn!

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH Chủ nghĩa xã hội

CNYN Chủ nghĩa yêu nước

TNSV Thanh niên sinh viên

XHCN Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................ MỤC LỤC ..............................................................................................................

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ..................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 4

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4

6. Giải thuyết khoa học ................................................................................... 5

Chương 1 .............................................................................................................. 6

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ GIÁO DỤC CHỦ

NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN ........................................................... 6

1.1. Lý luận chung về chủ nghĩa yêu nước ..................................................... 6

1.1.1 Khái niệm “chủ nghĩa yêu nước” ........................................................... 6

1.1.2. Cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam .................................. 7

1.1.3. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ........................................ 8

1.2. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên .......................................... 16

1.2.1. Sự cần thiết phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên ............ 16

1.2.2. Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên ........................ 17

Chương 2 ............................................................................................................ 20

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI (NAY LÀ HỌC VIỆN HÀNH

CHÍNH QUỐC GIA) ........................................................................................ 20

2.1. Những yếu tố tác động đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia) ..... 20

2.1.1. Đặc điểm của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội (nay là Học

viện Hành chính quốc gia) ............................................................................ 20

2.1.2. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục chủ nghĩa

yêu nước cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội nói

riêng. ............................................................................................................. 23

2.1.3. Hoạt động của Bộ Giáo Dục - Đào Tạo trong công tác giáo dục chủ

nghĩa yêu nước cho sinh viên. ...................................................................... 25

2.2. Thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên đại học Nội vụ

Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia) ............................................ 32

2.2.1. Những kết quả đạt được......................................................................32

2.2.1.1. Nâng cao lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sâu sắc cho sinh viên.....32

2.2.1.2. Xây dựng hoài bão, khát vọng, ý chí thực hiện mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

cho sinh viên........................................................................................................36

2.2.1.3. Bồi đắp tinh thần sẵn sàng làm mọi việc vì dân, vì nước với ý chí

nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng cho sinh viên.....................................................................................37

2.2.1.4. Nâng cao ý thức kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành động xâm

phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc cho sinh viên........................................38

2.2.1.5. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế

trong sáng trong sinh viên...................................................................................39

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân .........................................................40

2.2.2.1. Về những hạn chế của sinh Đại học Nội vụ Hà Nội trong việc tiếp thu,

giữ gìn, phát huy những giá trị của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa ..40

2.2.2.2. Những nguyên nhân của hạn chế trong việc tiếp thu, giữ gìn, phát huy

những giá trị của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa...............................42

Chương 3 ............................................................................................................ 44

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG

CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC

CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRONG THỜI

GIAN TỚI .......................................................................................................... 44

3.1. Phương hướng cơ bản ............................................................................ 44

3.1.1. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên trên cơ sở vận dụng sáng

tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

phương hướng nhiệm vụ phát triển của Học viện Hành chính quốc gia ...... 44

3.1.2. Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trên cơ

sở kế thừa, phát huy những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống,

đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu của công

cuộc đổi mới đất nước. .................................................................................. 46

3.1.3. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Hành chính

quốc gia theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội..48

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chủ

nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trong thời gian

tới.........................................................................................................................50

3.2.1. Giải pháp về tổ chức chỉ đạo - quản lý................................................50

3.2.2. Tổ chức tốt các hoạt động giảng dạy lý luận chính trị và CNYN cho

sinh viên...............................................................................................................52

3.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ cho sinh viên học

tập, nghiên cứu khoa học ....................................................................................55

3.2.4. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa thể thao .......................................56

3.2.5. Tổ chức có hiệu quả các chuyến tham quan thực tế, về nguồn, đền ơn

đáp nghĩa. ...........................................................................................................56

3.2.6. Tổ chức các hoạt động xã hội, phát triển mạnh mẽ phong trào hoạt

động cách mạng trong sinh viên ........................................................................56

3.2.7. Nâng cao vai trò khả năng tự giáo dục chủ nghĩa yêu nước của sinh

viên.....................................................................................................................58

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 59

DANH MỤC THAM KHẢO ............................................................................ 61

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, biết bao giá trị

truyền thống được hun đúc nên và đồng hành cùng quá trình phát triển của dân

tộc. Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước được xem giá trị hàng đầu trong

hệ thống các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước được

kết tinh từ tinh hoa của dân tộc trong suốt mấy nghìn năm qua, là sản phẩm tinh

thần cao quý, là chuẩn mực đạo đức và chính trị của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa

yêu nước (CNYN) chính là động lực vô cùng to lớn, tạo thành sức mạnh vô địch

giúp dân tộc Việt Nam chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Khẳng định điều này,

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng

nàn. Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã ghi những trang oanh liệt

của nhân dân đấu tranh để xây dựng nước nhà và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc

mình” [28, tr.313].

Kế thừa tư tưởng của Người, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng

xác định nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là

“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đồng thời

xác định hệ giá trị của văn hóa Việt Nam, trong đó chủ nghĩa yêu nước được đặt

lên vị trí hàng đầu. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH

đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thành công sự

nghiệp này, một động lực quan trọng hàng đầu là khơi dậy và phát huy cao độ

những giá trị truyền thống lịch sử dân tộc, trong đó đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước.

Đây là nhiệm vụ chiến lược cần quán triệt trong tư tưởng, nhận thức và hành động

của toàn Đảng, toàn dân, nhất là đối với thanh niên sinh viên, vì đây là lực lượng

đông đảo có vai trò rất quan trọng, là bộ phận nòng cốt trong việc gìn giữ và phát

huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời họ có trách nhiệm bổ

sung thêm những nội dung mới làm phong phú chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

trong thời đại hiện nay. Mặc dù, chủ nghĩa yêu nước là một giá trị văn hóa phổ

biến của dân tộc, nhưng tự nó cũng không thể thấm sâu vào huyết quản, định

1

hướng tư tưởng và hành động của thế hệ trẻ nếu như họ không được thường xuyên

giáo dục, rèn luyện. Nếu không kiên trì bồi dưỡng, trao truyền những truyền thống

quí báu cho lớp trẻ sẽ tạo ra nguy cơ đứt đoạn với quá khứ, thậm chí đi đến lệch

chuẩn, lệch giá trị. Vì vậy, giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho toàn dân nói chung,

trong đó có thế hệ trẻ và sinh viên nói riêng là một yêu cầu khách quan của sự

nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Tuy nhiên, nhận thức của sinh

viên về CNYN không hoàn toàn thống nhất, thậm chí một bộ phận thanh niên sinh

viên xa rời những giá trị truyền thống của dân tộc, lúng túng trong việc xác định

lí tưởng và niềm tin. Họ chỉ chú trọng việc bồi dưỡng tri thức nhưng lại nghiêng

về khoa học tự nhiên rồi dần lãng quên các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống,

họ không thể tìm ra sự dung hòa giữa những giá trị truyền thống và hiện đại nên

không định hình được giá trị cho mình, vì vậy dễ bị cuốn theo những quan điểm,

tư tưởng lệch lạc và biểu hiện ra ngay trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Đây là

một nguy cơ lớn đối với xã hội. Chính vì vậy, giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho

sinh viên càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

có sứ mạng mở cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu

học tập đa dạng với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáp ứng yêu

cầu nguồn nhân lực của ngành nội vụ và cho xã hội trong công cuộc xây dựng đất

nước và hội nhập quốc tế. Do đó, việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho bộ phận

sinh viên của trường càng có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Chính vì những lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước

cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu khoa học của

mình.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho toàn dân nói chung

và cho sinh viên nói riêng là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Đã

có nhiều công trình nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước xuất phát từ nhiều góc độ

khác nhau và đã được công bố, tiêu biểu là các công trình dưới đây:

Những công trình bàn về chủ nghĩa yêu nước

- Trần Văn Giàu [1980]: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

2

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu sự hình thành, phát triển

của chủ nghĩa yêu nước qua tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam từ thời Văn

Lang cho đến nay. Theo Giáo sư: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt

qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại”. Bùi Văn Nguyên [1980]:

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội. Cuốn sách đã khái quát tinh thần quyết chiến quyết thắng của nghĩa

quân Lam Sơn, đó là tình yêu nước nồng nàn của mỗi người dân Việt Nam. Phạm

Bá Toàn [1998]: Quá trình hình thành và phát triển giá trị của chủ nghĩa yêu nước

trong tiến trình văn hóa Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Học viện CTQG Hồ

Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của chủ

nghĩa yêu nước trong tiến trình phát triển của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Trên

cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy

CNYN Việt Nam và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong thời đại

hiện nay.

- Lương Gia Ban [1998]: Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả đã trình bày con đường phát triển

của CNYN Việt Nam: từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến lập trường của giai

cấp công nhân, CNYN XHCN, qua đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm phát

huy CNYN trong giai đoạn mới.

Về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, sinh viên có các công trình:

- Đặng Thanh Phương: Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên sinh

viên ở thủ đô trong giai đoạn hiện nay, luận văn Thạc sỹ Triết học, chuyên ngành

Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội,

2004. Luận văn đã phân tích nội dung của CNYN và chỉ rõ sự cần thiết phải nâng

cao hiệu quả của công tác giáo dục CNYN cho TNSV Thủ đô trong giai đoạn hiện

nay. Từ đó, đề xuất một số phương hướng chủ yếu và giải pháp cơ bản để năng

cao hiệu quả công tác giáo dục CNYN cho TNSV thủ đô. Nhìn chung, các công

trình nghiên cứu trên đề cập tới CNYN như những giá trị tinh thần truyền thống,

giá trị văn hóa của dân tộc, trong dòng chảy phát triển của lịch sử. Những công

trình này là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho tác giả trong quá trình viết luận

3

văn. Song các công trình nghiên cứu trên thường tập trung ở những vấn đề có tính

lý luận chung nhất của CNYN Việt Nam: CNYN truyền thống, CNYN trong giai

đoạn lịch sử mới của dân tộc, đưa ra những kết luận, nhận định khoa học có giá

trị cao. Mặc dù vậy, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một các chuyên

biệt, có hệ thống về giáo dục CNYN cho sinh viên ở trường trong giai đoạn hiện

nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục CNYN cho sinh viên ở Trường

Đại học Nội Vụ (nay là Học viện Hành chính quốc gia) và đề xuất phương hướng

và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chủ nghĩa

yêu nước cho sinh viên của Học viện trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục

chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên

- Đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh

viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia) trong

giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu

quả công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Hành chính

quốc gia trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà

Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia)

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia)

- Về thời gian: Từ năm 2020 đến nay

5. Phương pháp nghiên cứu

4

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác -

Lênin, trong đó chú ý một số phương pháp như: lịch sử - logic, phân tích, tổng

hợp, so sánh, điều tra xã hội học…

6. Giải thuyết khoa học

- Từ góc độ nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết công tác giáo dục

chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học

viện Hành chính quốc gia) đã có nhiều thành tựu, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn

có những mặt hạn chế nhất định, cần phải đưa ra những giải pháp để khắc phục

những hạn chế đó, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục CNYN cho sinh viên trong

thời gian tới.

5

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ GIÁO DỤC CHỦ

NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN

1.1. Lý luận chung về chủ nghĩa yêu nước

1.1.1 Khái niệm “chủ nghĩa yêu nước”

Theo từ điển tiếng Việt: Chủ nghĩa yêu nước là “Lòng yêu thiết tha đối với

Tổ quốc của mình, thường biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc” [56,

tr.173]. Có thể hiểu, yêu nước là gắn bó, yêu mến thiết tha của con người đối với

quê hương xứ sở, non sông, với cộng đồng các dân tộc đã và đang cùng sinh sống,

dựng xây, bảo vệ trên phạm vi lãnh thổ, quốc gia.

Nội dung chính của chủ nghĩa yêu nước là truyền thống nhân ái, cố kết cộng

đồng dân tộc, tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc, biết sống cùng Tổ quốc,

khi cần dám hi sinh cho Tổ quốc tồn tại vững bền.

Chủ nghĩa yêu nước là sự chuyển hóa về chất từ tình cảm yêu nước thành

tư tưởng, quan niệm yêu nước. Bởi lẽ nội hàm của khái niệm “chủ nghĩa” là chủ

trương và lý luận có hệ thống về các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa...

Nó là tư tưởng, quan niệm, hoặc hệ quan niệm có tính triết học, chính trị, xã hội,...

bắt nguồn từ những lợi ích của một chủ thể nào đó, đã được hệ thống hóa mang

tính hướng dẫn nhận thức và hành động cho con người trong ứng xử đời sống.

Khái niệm “nước” trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong quá trình phát triển

của dân tộc ngày càng được mở rộng, nó bao gồm nhiều nội dung nhưng nằm

trong mối quan hệ mật thiết với nhau:

Thứ nhất, nước chỉ biên giới, lãnh thổ, lĩnh vực, bờ cõi để phân biệt các

nước trên lĩnh vực tự nhiên địa lý.

Thứ hai: nước còn bao hàm những con người, nhân dân, các dân tộc, các

giai cấp, tầng lớp cùng sinh sống và thiết lập mối quan hệ của họ với nhau trên

một vùng lãnh thổ nhất định.

Thứ ba: nước còn bao gồm làng xã, quê hương, Tổ quốc và những chế độ

chính trị nhất định trong mỗi thời kỳ lịch sử.

6

1.1.2. Cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Chủ nghĩa yêu nước là "nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã

hội mà nội dung của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá

khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc". Chúng ta

có thể thấy rằng, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc

Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền

thống, và là hằng số trong mỗi người Việt Nam, "là tiêu điểm của mọi tiêu điểm".

Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn

chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân

tộc, luôn tự hào về dân tộc.

Chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình

dị, đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những

người thân yêu ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình yêu Tổ

quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự

phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự kết tinh của tư tưởng, tình cảm,

tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và

giữ nước. Truyền thống bản sắc đó được thể hiện thành vô số giá trị văn hóa tiêu

biểu và việc nghiên cứu, khái quát những giá trị ấy cho đến hiện nay dường như

vẫn chưa có điểm dừng. Mặc dù vậy, hầu hết các học giả, các nhà nghiên cứu văn

hóa, lịch sử, chính trị… và cả Đảng ta đều thống nhất khẳng định, yêu nước là giá

trị hàng đầu trong truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII đã nhấn mạnh:

“Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những

tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng

ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí

tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình

- làng xã - tổ quốc …”.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo, giữ vai trò

định hướng và chi phối toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta

7

qua các thời kỳ. Hơn nữa, chủ nghĩa yêu nước còn trở thành giá trị văn hóa mang

tính phổ biến và được xã hội hóa sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, được các

thế hệ người Việt Nam xác định như một trong những tiêu chí, giá trị cao nhất

quy định phương châm sống và hành động của mình. Từ đó, tạo thành động lực

tinh thần to lớn, thúc đẩy những hành động tích cực vì đất nước của con người và

cộng đồng người Việt Nam.

1.1.3. Nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

1.1.3.1. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống

Dân tộc Việt Nam trải qua hàng năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc

truyền thống yêu nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức cố kết cộng

đồng dân tộc do phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại bang xâm

lăng hoặc có ý đồ đồng hoá, kể cả đồng hoá cưỡng bức.

Trong tiềm thức mỗi người dân Việt Nam, dù thuộc tộc người đa số hay

thiểu số, đều chứa đựng tình yêu quê hương đất nước nồng nàn kết tinh thành ý

thức của dân với nước, được thể hiện sinh động trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ

của thiết chế Gia đình - Làng - Nước, thành sắc thái độc đáo của văn hoá Việt

Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngợi ca truyền thống yêu nước của nhân dân

Việt Nam: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý

báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi

sục, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy

hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".

Lòng yêu nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm của "con dân" với

Nước đã đúc kết thành truyền thống và hơn thế trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt

Nam. Một đánh giá rất có sức thuyết phục mang tính khoa học - thực tiễn phản

ánh tính quy luật hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là truyền thống yêu

nước của người Việt Nam. Đó không chỉ là một tình cảm, một phẩm chất tinh

thần, mà đã phát triển thành một chủ nghĩa - chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân

tộc chân chính thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử dân

tộc. Cái dòng chủ lưu ấy - chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống - có thể

8

hình dung trên những nét tiêu biểu là:

- Tình cảm, ý thức hướng về cội nguồn, tổ tiên như một yếu tố tâm linh của

người Việt Nam: "Dù ai đi ngược về xuôi - Nhớ ngày giỗ tổ mồng Mười tháng

Ba".

- Ý thức ngưỡng mộ, tôn sùng, ghi ơn những anh hùng có công với nước,

với dân.

- Gắn bó vận mệnh đất nước với tồn tại của từng gia đình: "Nước mất,

nhà tan".

- Ý thức cố kết cộng đồng trong xây dựng quê hương đất nước, trong đấu

tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt và chống ngoại xâm.

- Ý thức về tinh thần độc lập, tự chủ về lãnh thổ, chủ quyền quốc gia v.v..

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống là sức mạnh tư tưởng Việt Nam

- một nguồn sức mạnh to lớn được kết tinh hun đúc qua trường kỳ lịch sử. Đó

chính là tiền đề tư tưởng-văn hoá, nguồn gốc trực tiếp hình thành nên chủ nghĩa

yêu nước Hồ Chí Minh - bộ phận, nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí

Minh.

Nội dung của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam rất phong phú,

được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau:

Trước hết là tình yêu quê hương, xứ sở, làng xóm. Trong quan niệm cổ

truyền: đất nước = đất + nước là hai yếu tố cơ bản của nền nông nghiệp lúa nước

lấy Nhà (gia đình) làm đơn vị kinh tế, lấy làng, xóm làm cộng đồng cơ sở. Nước

gắn liền với Nhà và Làng xóm: việc nước, việc làng, việc nhà.

Thứ hai, sự gắn bó, cố kết cộng đồng hướng về dân, lấy dân làm gốc. Nước

được coi là tập hợp của nhiều làng và vùng liên bang. Nước hay quốc gia dân tộc

là một cộng đồng gắn bó với nhau trong lịch sử, trong cuộc sống, trong vận mệnh

chung. Trong nước có nhiều tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau, thường được

gọi là “tứ dân” gồm sĩ, nông, công, thương; trong đó đông nhất là “nông”, “dĩ

nông vi bản”, “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Do đó, dân

được ví như nước và nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền.

Thứ ba, có lịch sử và văn hoá chung ý niệm lịch sử và văn hoá chung có

9

vai trò rất quan trọng trong nhận thức và tình cảm của chủ nghĩa yêu nước. Huyền

thoại, truyền thuyết, truyện lịch sử, lễ hội dân gian... là những biểu hiện của sự

thống nhất ấy. Nguyễn Trãi đã xác định sự tồn tại của Đại Việt là trên cơ sở văn

hiến, bờ cõi, phong tục của Đại Việt. Nguyễn Huệ xác định mục tiêu cao nhất của

đánh giặc giữ nước là để bảo vệ văn hoá, dân tộc, bảo vệ phong tục tập quán của

nhân dân. Trong quan niệm về bảo vệ văn hoá dân tộc chủ yếu là bảo vệ bản lĩnh

bản sắc dân tộc gắn liền với độc lập, chủ quyền quốc gia, không mang tính bảo

thủ, cố chấp.

Thứ tư, ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Bước trưởng thành của tinh thần

yêu nước, yêu quê hương xứ sở và nâng lên thành ý thức bảo vệ non sông đất

nước, giang sơn, tổ quốc, sơn hà, xã tắc – nghĩa là ý niệm sâu sắc về lãnh thỗ quốc

gia. Thế kỷ XV, Lê Thánh Tông đã ra lệnh: “Một thước núi, một tấc sông của ta

không thể vứt bỏ... Ai dám đem một thước núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để

làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”. Khi có sự phân biệt Đàng Trong hay Đàng

Ngoài, nhân dân hai miền không ai coi mỗi miền là quốc gia riêng. Lê Đản cuối

thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX viết rằng: “Ai chia, ai hợp không cần biết, Nam Bắc

xưa nay vẫn một nhà”, Bùi Dương Lịch đầu thế kỷ XIX viết rằng: “Nam Bắc đều

là đất nước đây, Núi sông chẳng vạch quốc gia này”.

Thứ năm, ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. ý thức

cao nhất của chủ nghĩa yêu nước là ý thức coi độc lập dân tộc là thiêng liêng, là

bất khả xâm phạm. Mỗi lần Tổ quốc bị xâm lăng thì luôn luôn đặt lợi ích đất nước

lên trên hết và sẵn sàng gạt bỏ mọi lợi ích riêng, chấp nhận mọi sự gian nan, thử

thách, hy sinh vì độc lập dân tộc.

Bước sang thế kỷ XIX cho đến khi Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam là một

xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ được triều Tây Sơn,

triều Nguyễn được dựng lên từ năm 1802 đã thi hành một chính sách đối nội, đối

ngoại bảo thủ, phản động, tăng cường đàn áp, bóc lột bên trong và thực hiện bế

quan toả cảng đối với bên ngoài; cự tuyệt mọi cải cách... nên không mở ra được

khả năng cho Việt Nam tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy,

đã không phát huy được thế mạnh của dân tộc và đất nước; không tạo ra được

10

tiềm lực vật chất, tinh thần đủ sức để bảo vệ Tổ quốc, chống âm mưu xâm lược

của thực dân phương Tây. Để rơi vào cảnh mất nước, trách nhiệm ấy trước hết

thuộc về vua chúa nhà Nguyễn.

Từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp

rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được

thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sục sôi, song trước

sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Lãnh đạo của

họ là các sĩ phu văn thân mang ý thức hệ phong kiến, còn nặng tư tưởng tôn quân,

chưa thật tin vào thắng lợi cuối cùng. Điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng

phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử.

Bước sang đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt được các cuộc đấu tranh

vũ trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác lần thứ nhất.

Xã hội Việt Nam bắt đầu có sự chuyển biến và phân hoá, các tầng lớp tiểu tư sản

và mầm mống của giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Giữa lúc ấy, các “tân thư”

được chuyển vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta

chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào như

Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy tân, Việt Nam Quang Phục hội. Nhưng

các phong trào ấy cũng lần lượt bị dập tắt vì phong trào đó chủ yếu vẫn do các sĩ

phu phong kiến, cựu học truyền bá nên không tránh khỏi hạn chế và thất bại.

Như vậy, bước sang thế kỷ XIX, khi tình hình đất nước đã thay đổi, chủ

nghĩa yêu nước truyền thống gắn với hệ tư tưởng phong kiến triều Nguyễn đã trở

nên bất cập trước thời cuộc. Phong trào cứu nước của nhân dân Việt Nam muốn

giành được thắng lợi phải theo một con đường mới.

11

1.1.3.2. Chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tổng hòa các yếu tố tri thức, tình cảm, ý

chí của con người Việt Nam, tạo thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy họ sẵn

sàng cống hiến sức lực, trí tuệ, xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đó là giá trị cao đẹp, bền vững của dân tộc được hình thành, phát triển trong suốt

quá trình dựng nước và giữ nước, trở thành chuẩn mực cao nhất định hướng suy

nghĩ, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng, cùng hướng tới

mục tiêu chung vì sự trường tồn và phát triển của đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là nguồn sức mạnh thường trực trong lòng

dân tộc ta. Nhưng sức mạnh ấy phụ thuộc rất lớn vào khả năng đánh thức, hiện

thực hóa nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tinh thần yêu nước cũng như

các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng

dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận

của chúng ta là làm cho những của quý kín đảo ấy đều được đưa ra trưng bày.

Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần

yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công

việc kháng chiến” [39]. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật chất và

đời sống tinh thần của xã hội. Thực tiễn cũng cho thấy, bất cứ tiềm năng tinh thần

dù to lớn bao nhiêu nếu muốn biến thành sức mạnh vật, chất đều cẩn phải được

thường xuyên khơi dậy, bồi đắp chuyển hóa thành các hành động cụ thể, thành

các phong trào xã hội thiết thực; nếu không nó sẽ bị xói mòn, tàn lụi, phai mờ,

mất đi giá trị. Vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan

trọng là tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi

món vũ khí tinh thẩn ấy.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại hiện nay không đối lập mà kế thừa

và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên tầm cao mới, chất lượng mới.

Đó là chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, “Đòi hỏi phải gắn liền một lòng yêu

Tổ quốc với yêu chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa” [40].

Trong mỗi thời đại, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có những đặc trưng khác

nhau. Trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, công

12

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có

những đặc trưng cơ bản sau đây:

Lòng yêu nước thiết tha trên cơ sở lập trường chính trị của giai cấp công

nhân. Khi giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị đảm nhận sứ mệnh lịch sử

lãnh đạo cách mạng, một giai cấp có khả năng nắm vững và giải quyết đúng đắn

vấn đề dân tộc, đưa dân tộc tiến lên thì cũng đồng thời làm cho chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam mang hệ tư tưởng mới, tiên tiến nhất của thời đại, hệ tư tưởng

cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Giai cấp công nhân trở thành

đại biểu chân chính cho dân tộc, đại biểu quyền lợi cho dân tộc và cho nhân dân

lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn chặt và thống nhất với lợi ích nhân

dân lao động, lợi ích của dân tộc.

Tinh thần vươn lên rửa cái nhục nghèo nàn, lạc hậu, thua kém nước khác.

Yêu nước gắn với yêu đồng bào là phấn đấu phát triển kinh tế vì lợi ích cộng đồng,

quốc gia. Nếu như độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng mà các thế hệ cha anh đã

từng xả thân phấn đấu thực hiện, thì khát vọng đưa nước ta phát triển và vững

bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, cần được thổi bùng trong các thế hệ hôm nay. Cần

nhận thức sâu sắc rằng, dân tộc ta một dân tộc cần cù, thông minh, dũng cảm, đã

từng đánh thắng những tên đế quốc sừng sỏ nhất thế giới, nhất định không cam

chịu là một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Những gì mà các

nước tiên tiến trên thế giới đã làm được trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công

nghệ… nhất định chúng ta cũng sẽ làm được. Đây không chỉ là niềm tin, lòng tự

tôn dân tộc mà còn là lương tâm, trách nhiệm của thế hệ đi sau đối với các thế hệ

đi trước.

Yêu nước trong điều kiện hiện nay chính là sự cố gắng phấn đấu học tập,

tu dưỡng và rèn luyện; là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo và tiết kiệm của mỗi

người dân để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đó là tham gia

tích cực và có hiệu quả vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu một cách

chính đáng cho bản thân, gia đình, qua đó góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Mỗi cá nhân, dù ở cương vị nào cũng phải nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ của

mình. Đối với doanh nghiệp đó không chỉ là những hành động như nộp nghĩa vụ

13

thuế, làm công tác từ thiện… mà còn phải là đặt lợi ích của người tiêu dùng làm

mục tiêu phát triển; đồng thời, đặt mình trong guồng máy chung của nền kinh tế

đất nước, tạo thương hiệu quốc gia, sẵn sàng chia sẻ những khó khăn, thử thách,

vận hội với đất nước. Đối với nhân dân, đó là tình làng, nghĩa xóm, lối sống nhân

nghĩa, ưu tiên sử dụng các sản phẩm trong nước... Đối với đội ngũ cán bộ, công

chức đó là ý thức trách nhiệm với công việc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ quốc... Yêu nước là thực hiện tốt mọi nghĩa vụ và trách nhiệm công

dân, phấn đấu từng bước vươn lên theo kịp các nước trong khu vực và thế giới.

Noi theo những cá nhân, tập thể “anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”, những

biểu hiện tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay.

Trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ (cách mạng công

nghiệp 4.0) hiện nay, mỗi người dân đất Việt cần thể hiện lòng yêu nước của mình

bằng hành động mạnh dạn trên trận tuyến kinh tế và tri thức, khoa học và công

nghệ; phát huy tính năng động, nhạy bén và sáng tạo, đi tắt đón đầu trong nghiên

cứu và ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất, đem lại năng suất,

chất lượng và hiệu quả cao; hạ giá thành sản phẩm, xây dựng nên những thương

hiệu Việt có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế; biến Việt Nam thành “quốc

gia khởi nghiệp” và sáng tạo.

Chủ nghĩa yêu nước ngày nay là nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng

vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tương lai tươi sáng của đất nước,

tiền đồ của dân tộc, tránh tâm lý tự ti, bi quan, dao động. Tuyệt đối trung thành

với mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và

nhân dân ta đã lựa chọn. Tự giác chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương

của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tự giác tham gia, ủng hộ, bày

tỏ thái độ tích cực với sự phát triển chung của phong trào xã hội chủ nghĩa, phong

trào giải phóng dân tộc, chống khủng bố, phong trào vì hòa bình và tiến bộ xã hội

trong khu vực và trên toàn thế giới.

Thực hiện hội nhập với khu vực và thế giới, đa dạng hóa, đa phương hóa

quan hệ với các nước phải luôn giữ vững sự độc lập tự chủ, khắc phục thái độ thụ

động, ỷ lại. Yêu nước trong điều kiện hiện nay phải gắn liền với việc nêu cao ý

14

thức độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường; tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài,

rất cần nguồn lực trong nước, sức mạnh nội lực bên trong… Hội nhập với thế giới

để tiến lên nhưng không hòa tan, không đánh mất bản sắc của dân tộc mình. Nếu

như chủ nghĩa yêu nước đã giúp dân tộc ta đứng vững, vươn lên qua hơn 1.000

năm Bắc thuộc, hơn 100 năm thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, thì hiện

tại cũng chính chủ nghĩa yêu nước ở một tầm cao mới là nền tảng để dân tộc ta

vững bước trên con đường hội nhập. Yêu nước là giữ gìn hình ảnh đất nước trong

con mắt bạn bè quốc tế; xây dựng và phát huy lòng tự hào dân tộc; xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân, tham gia các hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi

trường.

Chủ nghĩa yêu nước hiện nay là tinh thần đoàn kết, đấu tranh chống lại

những thói hư, tật xấu, cái bảo thủ trì trệ trong tư duy suy nghĩ và cách làm. Đặc

biệt, yêu nước hiện nay phải là dũng cảm đấu tranh chống các tệ nạn quan liêu,

tham nhũng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và xã hội, bảo vệ sự trong

sạch của bộ máy Đảng Nhà Nước.

Chủ nghĩa yêu nước ngày nay là nêu cao ý thức bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhận thức sâu sắc về “đối tác” và “đối tượng”, nêu

cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu

và hành động chống phá của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa

bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “phi chính trị hóa ” lực lượng

vũ trang; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ bản sắc văn hóa, nền độc lập, tự

do của Tổ quốc. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược -

xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Đứng trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, trong đó

có tình hình tranh chấp trên Biển Đông, yêu cầu chung là phải thể hiện chủ nghĩa

yêu nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Kiên quyết bảo vệ vững chắc

độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, sẵn

sàng đối phó với mọi tình huống, bảo vệ môi trường hòa bình và sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

15

1.2. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên

1.2.1. Sự cần thiết phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên

1.2.1.1. Tác động từ những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình

thế giới và khu vực

- Tình hình thế giới, khu vực trong những năm vừa qua và dự báo những

năm tới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường.

- Mặc dù hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu

thế lớn. Nhưng tình hình chính trị - an ninh thế giới đang thay đổi nhanh chóng,

diễn biến phức tạp.

- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á

có vai trò ngày càng lớn trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết

kinh tế trong khu vực. Nhưng đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một

số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả

bên trong và bên ngoài.

- Vấn đề tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền, biển đảo trong khu vực và trên

Biển Đông còn diễn ra gay gắt, phức tạp.

1.2.1.2. Quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa

Quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế của nước ta những năm qua và xu thế

toàn cầu hóa đã và đang đem lại những biến đổi nhiều mặt trong đời sống xã hội

đất nước, trong đó, lĩnh vực văn hóa - tư tưởng có sự khởi sắc và đạt được những

thành tựu nhất định bên cạnh đó lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng đang phải đối

mặt với nhiều thử thách gay gắt.

1.2.1.3. Sự biến đổi kinh tế - xã hội đất nước

- Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi

xướng và lãnh đạo, được tiến hành qua hơn 30 năm, đến nay, đã và đang giành

được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

- Mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành

động của giới trẻ, là những lực cản không nhỏ, làm ảnh hưởng tiêu cực đến việc

giáo dục, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.

1.2.1.4. Vai trò của sinh viên trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

16

hóa đất nước

Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam ngày càng trở nên giàu đẹp

thì chúng ta cần phải có nguồn lực con người vững mạnh, đó phải là những con

người mới xã hội chủ nghĩa, những con người phát triển toàn diện về mọi mặt,

vừa hồng vừa chuyên với chiến lược phát triển con người toàn diễn phục vụ sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ trẻ Việt Nam là đối tượng cần phải

chú ý đầu tiên, bởi vì họ là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì vậy, việc

giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên có một ý nghĩa hết sức quan trọng,

khẳng định điều đó là tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X Đảng ta xác định - Thanh

niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định

tương lai vận mệnh dân tộc, là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm

công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khoẻ và sáng tạo.

Trong đời sống xã hội, con người chịu ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa

mà trong đó họ sống và hoạt động. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng, nó là

nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh và bản sắc của dân tộc đó. Chủ nghĩa yêu

nước là một yếu tố rất quan trọng mà nhà quản lý cần xây dựng và duy trì nhằm

tạo động lục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Nhìn một cách tổng thể,

chủ nghĩa yêu nước bao gồm những giá trị và chuẩn mực chung được biểu hiện

thành những nguyên tắc sống, những nguyên tắc ứng xử có tác dụng chỉ dẫn hành

vi của cá nhân trong xã hội.

Đối với trường học, giáo dục chủ nghĩa yêu nước có nhiệm vụ đặc biệt quan

trọng góp phần đào tạo ra một thế hệ biết về lịch sử của đất nước mình biết ơn

trong những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã mất bao công sức để gây dựng

nên, biết rõ vai trò và trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước. Giáo dục

chủ nghĩa yêu nước là một nhiệm vụ rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và

giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão có lý tưởng, có

ước mơ tốt đẹp.

1.2.2. Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên

1.2.2.1. Giáo dục lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sâu sắc

17

Giáo dục lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sâu sắc cho sinh viên là một

việc làm vô cùng cần thiết nhằm xây dựng cho mỗi người sinh viên Việt Nam có

lòng tự hào dân tộc sâu sắc: Để sinh viên Việt Nam có được lòng tự hào về đất

nước Việt Nam tươi đẹp, non sông hùng vĩ; tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang

của đất nước, của dân tộc anh hùng, bất khuất, nhiều lần chiến thắng giặc ngoại

xâm hùng mạnh; tự hào về các anh hùng dân tộc; tự hào về nền văn hóa Việt Nam

với những giá trị tinh thần bền vững, sức mạnh trường tồn của dân tộc ta.

Giáo dục lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sẽ giúp bồi đắp cho sinh viên

niềm tự hào về quá khứ, hiện tại của đất nước, của dân tộc, là cơ sở để đó xây

dựng cho sinh viên xây dựng niềm tự hào mới: ý thức sâu sắc về mục tiêu, lý

tưởng của Đảng và của cả dân tộc ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội...

1.2.2.2. Giáo dục hoài bão, khát vọng, ý chí thực hiện mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, của dân tộc ta là độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội. Hoài bão, khát vọng của con người trong thời kỳ mới thấm

sâu chủ nghĩa yêu nước là vươn lên, thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.2.2.3. Giáo dục tinh thần sẵn sàng làm mọi việc vì dân, vì nước với ý chí

nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng

Yêu nước biểu hiện bằng những việc làm cụ thể cùng cả nước và vì cả nước

giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Biểu hiện cụ thể, sinh động của chủ nghĩa yêu nước khi trở thành máu thịt

trong mỗi con người là nhu cầu tự thân cần sống và hoạt động vì Tổ quốc và nhân

dân mình; là lối sống và thói quen đặt lợi ích của dân tộc lên trên, lên trước, hết

lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân.

1.2.2.4. Giáo dục ý thức kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành động

xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc

Ngày nay, mỗi người Việt Nam phải cảnh giác và kiên quyết làm thất bại

18

âm mưu xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu

tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của

Tổ quốc; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lăng phí,

... những hành động làm yếu đi sức mạnh tổng hợp của đất nước.

1.2.2.5. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc

tế trong sáng

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế là yêu cầu có tính nguyên tắc, nhưng phải phù

hợp khả năng và điều kiện cho phép. Thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới trên

đất nước ta hiện nay là sự đóng góp to lớn của dân tộc ta với phong trào cách

mạng thế giới.

19

Chương 2

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI (NAY LÀ HỌC VIỆN HÀNH

CHÍNH QUỐC GIA)

2.1. Những yếu tố tác động đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh

viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia)

2.1.1. Đặc điểm của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội (nay là

Học viện Hành chính quốc gia)

Một là, cơ cấu về độ tuổi, ngành học và tâm sinh lý

Hiện nay, sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội Hà Nội (nay là Học viện Hành

chính quốc gia, gọi tắt là sinh viên Học viện) phần lớn có độ tuổi trung bình từ

19-25. Đây là độ tuổi thanh niên ở giai đoạn hai, giai đoạn mà con người có sự

trưởng thành cả về mặt sinh học cũng như về mặt xã hội. Nhìn chung, họ có trình

độ học vấn cao, hiểu biết rộng và có nhiều tài năng trẻ xuất hiện trong hàng ngũ

sinh viên. Họ nhạy bén với cái mới, dễ thích ứng với khoa học hiện đại, có khả

năng hội nhập cao.

Đại bộ phận sinh viên chủ động tích cực học tập, tham gia nghiên cứu khoa

học, sáng tạo, nỗ lực rèn luyện. Ngoài việc học tập những chuyên ngành chính,

nhiều sinh viên còn phấn đấu học thêm ngoại ngữ, tin học và các môn bổ trợ

khác… đa số sinh viên có lối sống lành mạnh, đạo đức trong sáng, giữ được bản

sắc văn hóa dân tộc, đoàn kết, tương thân tương ái, không để kẻ xấu lợi dụng, kích

dộng gây mất ổn định, chính trị xã hội.

Sinh viên là nguồn động lực quan trọng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

về chất lượng nguồn lao động phục vụ cho sự nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

- Về mặt sinh học, giai đoạn này học, sự phát triển thể chất đạt đến độ viên

mãn trong cuộc đời một con người cả về chiều cao lẫn cân nặng, vóc dáng săn

chắc, khỏe mạnh. Theo chuyên gia y học, có tới 14-16 tỷ nowrron thần kinh chứa

trong bộ não con người ở giai đoạn này, biểu hiện sự phát triển hoàn thiện đạt tới

mức tối đa của trọng lượng não của người bình thường. so với tuổi thiếu niên thì

ở, sinh viên độ tuổi thanh niên, sinh viên ít nhiều đã được tiếp xúc với thực tế nên

20

tích lũy được số kinh nghiệm xã hội nhất định. Lúc này nơron thần kinh của họ

phát triển nhiều hơn, nên nhận thức ở lứa tuổi sinh viên nhậy bén hơn, đủ khả

năng để phán xét mọi việc tinh tường hơn.

- Về mặt xã hội, ở giai đoạn này sinh viên đã biết xác định lý tưởng sống

cho mình. Họ luôn trăn trở rằng mình phải làm một điều gì có ích cho xã hội, cho

vận mệnh của đất nước. họ đã ý thức về trách nhiệm của một công dân chân chính.

Họ có nhiệt huyết của tuổi trẻ, ấp ủ đầy hoài bão và mơ ước luôn đi tiên phong

trong mọi hoạt động lĩnh vực xã hội “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh

niên”.

Sinh viên Học viện cũng nằm trong xu hướng trung đó, họ hăng hái tham

gia vào các hoạt động xã hội, trong môi trường hoạt động xã hội họ phát triển và

trưởng thành hơn. Tuy nhiên, đây cũng là độ tuổi nhân cách đang được hình thành

và phát triển mạnh mẽ nên chưa có ổn định, vững chắc mà luôn luôn ở trạng thái

dao động. Cần được định hướng đúng đắn để họ phát triển và hoàn thiện nhân

cách

-Về trình độ: Sinh viên Học viện là những người có mặt bằng văn hóa đã

tốt nghiệp phổ thông 12 năm và trúng tuyển vào đại học. Họ là những người có

điểm chuẩn ở top cao trong những sinh viên được tuyển vào trường trung bình từ

18 đến 21 điểm tuy nhiên trong thực tế hiện nay có thể tới trình độ nhận thức của

sinh viên không đồng đều. Phần lớn sinh viên Học viện là những người sống xa

gia đình (chỉ một số rất nhỏ sống cùng gia đình tại Hà Nội). Họ thuê nhà trọ, hoặc

sống trong ký túc xá… Đây là một môi trường sinh hoạt tập thể chính môi trường

này đã tạo nên nét đặc thù trong tâm lý tính cách của sinh viên Học viện. Mọi vấn

đề trong nhận thức của họ sẽ dễ lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác theo

cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.

Cũng giống như hầu hết sinh viên Việt Nam, ở độ tuổi trẻ, sinh viên Học

viện là nhóm người được trang bị những kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội và

tư duy trong suốt những năm học phổ thông. Họ là những người có khả năng nhận

thức nhanh các vấn đề từ chiều tượng đến cụ thể. Sự nhạy bén trong cảm giác sự,

hoàn thiện trong các cấp độ tư duy là nét đặc thù trong hoạt động nhận thức của

21

sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia).

Hai là, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là quân dự bị bổ sung cho

đội ngũ cán bộ tuyên truyền đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà

nước trong tương lai.

Trường Đại học nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia) với

đặc trưng là đơn vị sự nghiệp của Bộ Nội vụ, với sứ mệnh mở cơ hội học tập cho

mọi người với chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu học tập đa dạng với nhiều hình

thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của ngành nội

vụ và cho xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Cùng

với sứ mệnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Học viện Hành

chính Quốc gia còn là một cơ sở đào tạo đại học về quản lý nhà nước hàng đầu,

có uy tín trong hệ thống giáo dục quốc dân trường giảng dạy các khối ngành xã

hội nên nhìn chung sinh viên có ý thức tốt chấp hành nội quy, quy chế của nhà

trường, các chuẩn mực đạo đức đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội.

Được nhận thức và định hướng nghiêm túc, chặt chẽ, công tác giáo dục vì thế

cũng được phổ biến rộng rãi và phát triển hiệu quả hơn.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đào tạo đại học chính quy đối với hai khối

lý luận nghiệp vụ đặc trưng của mỗi khối ngành đòi hỏi sinh viên phải thực hiện

sự nghiêm túc trong học tập hăng hái tham gia sinh hoạt đoàn, hoạt động ngoại

khóa đặc biệt là ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước. Ngay từ năm

học thứ nhất sinh viên đã được tổ chức cho đi thực tế, làm quen với công việc của

người cán bộ, trực tiếp tiếp xúc và thực hành tác nghiệp. Phương pháp giảng dạy

này đã góp phần lớn vào việc hình thành nên đặc trưng tính năng động, sáng tạo,

khả năng tổ chức sự kiện, quản lý của sinh viên. Sự nhạy bén, khả năng thích ứng

nhanh giúp cho công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường thực hiện triệt để. Do

có sự tự ý thức, tự đánh giá, tự giáo dục và hợp tác của sinh viên.

-Tuy nhiên, với đặc trưng nghề nghiệp tương lai, cùng với tác phong học

tập và rèn luyện, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội hướng về hoạt động tự

do, hoạt động cá nhân. Vì thế, một bộ phận sinh viên còn có những tư tưởng đề

cao vai trò của bản thân, cá nhân chủ nghĩa, văn hóa học đường, văn hóa ứng xử,

22

văn hóa đạo đức bị coi thường. Công tác giáo dục đạo đức cũng gặp khó khăn từ

chính cá tính và ý thức của sinh viên. Ví dụ những hiện tượng sinh viên sử dụng

trang phục không phù hợp với môi trường học đường, không quan tâm Nghiên

cứu các môn đại cương mà chỉ chú ý tới các môn chuyên ngành, sinh viên vô lễ

với thầy cô, cán bộ công nhân viên nhà trường…

2.1.2. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục chủ

nghĩa yêu nước cho sinh viên nói chung và sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội

nói riêng.

Vấn đề giáo dục con người mới, đào tạo đội ngũ kế tục sự nghiệp cách

mạng luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo, đó là xây dựng những con người có

lòng yêu nước. Điều này được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng

qua các thời kỳ Đại hội.

Tại ĐH VIII Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) về Xây dựng và phát

triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã đề ra phương hướng

chung là “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý

thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN” [15 tr.54];

“Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới có tinh thần yêu

nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên

đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với dân nhân dân trên thế

giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã

hội” [15, tr58-59]. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta

yêu cầu con người mới "Kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc phát huy

tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [16,

tr.114].

Nghị quyết trung ương 7 khóa X bàn về công tác thanh niên đã chỉ rõ:

Mục tiêu của thanh niên là: Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam

giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa,

vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức, khỏe tri thức

kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công

23

dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh niên nuôi dũng ước mơ, hoài bão lớn, xung

kích, sáng tạo, làm chủ khoa học-công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời

đại. Hình thành một lớp thanh niên yêu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và

xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu “dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”; góp phần to lớn vào sự

nghiệp đầy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.

Đảng nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điện kiện, môi trường thuận lợi để

thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành, được học tập, có việc làm, nâng

cao thu nhập, có đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh (Đảng cộng sản Việt Nam,

Nghị quyết trung ương 7 khoá X).

Cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, nhà nước đã ban hành “Luật giáo

dục” (1998) và những chính sách quan trọng nhằm bồi dưỡng, giáo dục và phát

huy thanh niên tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội..., coi công

tác sinh viên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết

định sự thành bại của cách mạng.

Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước còn thể hiện rõ chính sách đầu

tư cho giáo dục và đào tạo. Mặc dù, còn nhiều khó khăn nhưng những năm qua,

chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt 20% tổng chi ngân sách.

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đại học XI của Đảng cũng

tập trung làm tốt công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu

nhi, xây dựng hình mẫu thanh niên trong thời kỳ mới.

Chương trình cũng vận động tổ chức thanh biên xung kích tham gia phát

triển kinh tế - xã hội; trong đó trọng tâm là các phong trào: thanh niên chung tay

xây dựng nông thôn mới; tham gia ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, chương trình cũng hướng vào phát triển nguồn nhân lực trẻ, hỗ

trợ, định hướng cho thanh niên trở thành người có trình độ, đáp ứng yêu cầu của

giai đoạn mới. Cùng với đó là đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn,

xây dựng tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh.

Có thể nói, những chủ trương, nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng

24

và Nhà nước về giáo dục thế hệ trẻ đã trở thành những tư tưởng chỉ đạo, định

hướng, đã đem lại chuyển biến nhất định, góp phần trong công tác giáo dục CNYN

cho sinh viên Trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội.

Tuy nhiên công tác giáo dục CNYN cho thanh niên sinh viên còn bộc lộ

những hạn chế. Các quan điểm của Đảng, các nghị quyết, chủ trương vẫn chưa

thực sự đưa vào cuộc sống, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong

giai đoạn mới. Giữa các ban, ngành, đoàn thể có lúc, có nơi nhận thức về công tác

giáo dục sinh viên nói chung và giáo dục CNYN cho sinh viên nói riêng chưa sâu

sắc, thiếu nhất quán. Chưa xây dựng được nội dung chương trình cụ thể để giáo

dục CNYN cho thanh niên sinh viên, mà chỉ lồng ghép trong những nội dung về

xây dựng văn hoá, xây dựng lối sống, tư tưởng chính trị, đạo đức... Đây là những

khó khăn hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giáo dục CNYN cho thanh

niên sinh viên nói chung và sinh viên Đại học nội vụ nói riêng.

2.1.3. Hoạt động của Bộ Giáo Dục - Đào Tạo trong công tác giáo dục chủ

nghĩa yêu nước cho sinh viên.

Mục tiêu của Giáo dục - đào tạo là "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài" nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước. Để đạt

mục tiêu này phải coi trọng giáo dục phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng,

nhất là CNYN cho học sinh sinh viên. Để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân

dân giao cho, bộ Giáo dục - đào tạo đã có những chủ trương, biện pháp thực hiện

đổi mới mục tiêu, chương trình và phương pháp đào tạo cho sinh viên. Biểu hiện

cụ thể bằng biện pháp tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, nhân

cách, đạo đức, lối sống, hình thành trong sinh viên tinh thần yêu nước, yêu quê

hương, gia đình và tinh thần tự tôn dân tộc, lý tưởng XHCN.

Hiện nay bộ Giáo dục - Đào tạo đã có những chủ truơng, biện pháp, nâng

cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học xã hội và nhân văn, các

môn khoa học Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là những môn giữ vị trí

quan trọng hàng đầu trong công tác giáo dục CNYN cho thanh niên sinh viên. Bộ

giáo dục - đào tạo có những quy định về nội dung và thời lượng thích hợp cho các

môn học khi xây dựng chương trình khung với các môn: Triết học Mác - Lênin,

25

Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là những môn học nằm trong nội dung giáo dục

chính khoá theo chương trình bắt buộc với sinh viên trong các trường đại học và cao

đẳng.

Bộ giáo dục - Đào tạo tổ chức triển khai thực hiện đề án "Một số biện pháp

nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh" trong các trường đại học, cao đẳng được thủ tướng chính phủ phê

duyệt tại Quyết định số 494/NĐ-TTg/2002 ngày 24/06/2002 của Thủ tướng Chính

phủ. Đây là căn cứ pháp lý để Đại học Nội Vụ áp dụng nhằm nâng cao chất lượng

giảng dạy và học tập các môn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của giáo dục CNYN cho của sinh viên Đại

học Nội vụ.

Cùng với những hoạt động trên, Bộ Giáo dục - Đào tạo chỉ đạo các trường

tăng cường rèn luyện bản lĩnh chính trị và giáo dục CNYN cho sinh viên, thông

qua các hoạt động ngoại khoá như: tổ chức nghe thời sự, hội thảo, nói chuyện

chuyên đề, phối hợp tổ chức thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, những năm qua Đại học Nội Vụ đã

tổ chức những hoạt động thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Những hoạt động

này giúp cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội có khả năng tự giáo dục,

tuyên truyền, tổ chức, xây dựng bản lĩnh chính trị và ý thức chính trị và giáo dục

CNYN cho sinh viên.

Bộ Giáo dục - Đào tạo cùng các bộ, ban, ngành, địa phương tổ chức các

hoạt động có tác dụng giáo dục CNYN cho thanh niên sinh viên; phối hợp với đài

Phát thanh và truyền hình Việt Nam tổ chức hoạt động văn hoá - văn nghệ; các

cuộc thi mang ý nghĩa dục CNYN cho thanh niên sinh viên. Những hoạt động này

được sinh viên Đại học Nội vụ tích cực tham gia.

Ngoài ra, Đại học Nội vụ còn phối hợp với Bộ công an trong các chương

trình quản lí sinh viên bảo đảm an ninh trật tự trong trường học, ngăn chặn hoạt

động của các thế lực phản động chống phá đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà

nước từ trong những thế hệ thanh niên sinh viên; phối hợp với Uỷ ban Thể thao

26

tổ chức các hoạt động thể dục thể thao cho sinh viên nhằm giáo dục thể chất "khoẻ

vì nước" "khoẻ để giữ nước" ....

Các biện pháp và hoạt động trên có tác dụng chỉ đạo, định hướng cho công

tác giáo dục đào tạo trong Đại học Nội vụ, đồng thời có ý giáo dục CNYN cho

sinh viên trường.

Đại học Nội vụ tiếp tục phát động kỳ thi "nghiêm túc, chất lượng, công

bằng" phong trào sinh viên tình nguyện vì kỷ cương học đường, chống gian lận

trong học tập thi và kiểm tra ... Bên cạnh đó, tổ chức cổ vũ phong trào thi đua rèn

luyện tốt nhằm tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hoá thông

qua các diễn đàn trao đổi về nề nếp sống, lối sống; các cuộc vận động phong trào

xây dựng và bảo vệ nếp sống văn minh thanh lịch góp phần hình thành thế hệ

thanh niên sinh viên có văn hoá cao, giàu lòng nhân ái, trung thực, yêu lao động

...

Thường xuyên phối hợp thực hiện tốt công tác và phòng chống và đấu tranh

với các tệ nạn xã hội, cam kết không vi phạm các tệ nạn xã hội. Tổ chức cho thanh

niên sinh viên tham gia vào các phong trào "sinh viên tình nguyện trong xây dựng

môi trường giảng đường, ký túc xá, nhà trọ, nhằm phát huy tinh thần xung kích

chủ động của sinh viên trong môi trường xanh, sạch, đẹp (thông qua hoạt động

ngày thứ 7 tình nguyện, ngày chủ nhật xanh) phong trào "tình nguyện chung sức

cùng cộng đồng " nhằm mục đích phát huy trí tuệ, sáng tạo và tiềm năng của sinh

viên trong việc tham gia xây dựng Thủ đô, bảo vệ nước Việt Nam XHCN, nâng

cao ý thức trách nhiệm công dân của thanh niên sinh viên.

Tạo môi trường rộng lớn cho sinh viên tham gia các hoạt động đền ơn đáp

nghĩa, uống nước nhớ nguồn, các hoạt động nhân tạo. Tham gia phát triển kinh tế

- xã hội, xoá đói giảm nghèo. Đẩy mạnh hoạt động hiến máu nhân đạo ... Qua đó

sinh viên được rèn luyện, tiếp cận thực tiễn, đóng góp công sức vào công việc

chung của Tổ quốc.

2.1.4. Đội ngũ cán bộ giáo viên Trường Đại học Nội vụ trong nhiệm vụ

giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên.

2.1.4.1 Sự chỉ đạo của Đảng uỷ và Ban giám hiệu Trường Đại học Nội vụ

27

Hà Nội (nay là Ban Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia) đối với công tác

giáo dục CNYN cho sinh viên.

Đảng uỷ và Ban Giám hiệu của Trường Đại học Nội vụ (Ban Giám đốc của

Học viện Hành chính quốc gia) có trách nhiệm lãnh đạo công tác giáo dục chính

trị- tư tưởng, giáo dục đạo đức lối sống nhằm đào tạo ra những sinh viên có lòng

yêu nước, có "đức" có "tài". Để đạt mục tiêu này, Đảng uỷ và Ban Giám hiệu (Ban

Giám đốc) đã chỉ đạo và phối hợp với các lực lượng làm tốt công tác giáo dục

chính trị - tư tưởng, giáo dục truyền thống dân tộc cho sinh viên như : liên tục tổ

chức các buổi học tập và tuyên truyền Nghị Quyết đại hội, gần đây là học tập Nghị

quyết Trung ương 4 khoá XI và quán triệt nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, tổ

chức báo cáo thời sự trong nước và quốc tế, các chuyên đề về kinh tế - chính trị,

văn hóa, xã hội giúp sinh viên nắm vững các quan điểm của Đảng và chính sách

của nhà nước đồng thời giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận với tình hình thực

tiễn. Qua đó, sinh viên nhận thức rõ những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp

đổi mới của đất nước, những thòi cơ và thách thức mới, củng cố niềm tin vào sự

nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN. Điều này càng cần thiết đối với sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vì đặc thù của Đại học là nơi đào tạo những người

trực tiếp làm công tác theo đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, những

người tiếp tục nghiên cứu và định hướng cho con đường xây dựng CNXH ở nước

ta.

Đảng ủy và Ban Giám đốc đã đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức

sinh hoạt chính trị, tăng cường các hình thức hội thảo, sinh hoạt chuyên đề, vận

dụng các chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, của Bộ Giáo dục –

Đào tạo vào nội dung chính khóa, mở rộng các hình thức giáo dục truyền thống

dân tộc, giáo dục CNYN cho sinh viên.

Công tác xây dựng Đảng cũng được Đảng ủy và Ban Giám hiệu (Ban Giám

đốc) chú trọng đặc biệt. Đi đôi với việc đổi mới và chỉnh đốn tổ chức Đảng, Đảng

ủy Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã rất quan tâm đến công tác phát triển Đảng

trong sinh viên và nâng cao trình độ trí tuệ và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ

đảng viên và sinh viên. Số Đảng viên được kết nạp trong trường hằng năm chiếm

28

tỉ lệ cao, chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ủy, Ban hiệu trưởng. Đặc biệt, sau

khi có chỉ thị 34-CY/TƯ của Bộ Chính trị về “Tăng cường công tác chính trị- tư

tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng

viên trong trường học”, Đảng ủy của trường đã nhận thức đúng vai trò, vị trí công

tác phát triển đảng viên, thống nhất quan điểm lãnh đạo về chỉ đạo công tác xây

dựng, phát triển Đảng trong sinh viên. Đảng ủy của trường đã quy định rõ về điều

kiện, tiêu chuẩn kết nạp Đảng của sinh viên, những yêu cầu giữa tổ chức Đảng,

Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong công tác này, nhằm tuyên truyền, lựa chọn

cho Đảng những sinh viên ưu tú, đi tiên phong trong công cuộc đổi mới đất nước.

Đảng ủy và ban hiệu trưởng trường còn tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật

chất, kinh phí cho Đoàn thanh niên hoạt động, khuyến khích phát triển phong trào

sinh viên tình nguyện trong trường; động viên phong trào văn hóa-văn nghệ, thể

dục thể thao; chăm lo nơi ăn ở, điều kiện học tập cho sinh viên.

Những năm qua, Trường có nhiều hoạt động thu hút sinh viên tham gia

nhằm tìm hiểu lịch sử dân tộc, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước như các khoa có câu lạc bộ học tập (CLB sách, CLB triết học, CLB tư

tưởng Hồ Chí Minh…), đài phát thanh Làn sóng trẻ của sinh viên,… Sau mỗi kì

học, mỗi năm học, Đảng ủy và Ban hiệu trưởng họp rút kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ

đạo, phát huy những mặt tốt và uốn nắn những lệch lạc, đồng thời đề ra những

chủ trương, biện pháp cho những hoạt động tiếp theo.

2.1.4.2. Vai trò của đội ngũ giảng viên với công tác giáo dục CNYN cho

sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội

Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch

làm giảng viên lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cán bộ phóng viên

báo chí, biên tập viên, xuất bản; cán bộ làm công tác tư tưởng và các khoa học xã

hội nhân văn; là cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ mục tiêu nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phục vụ cho việc hoạch định đường lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng, báo chí và truyền thông. Vì thế, đội

ngũ giảng viên của Học viện không chỉ có nhiệm vụ trang bị thế giới quan và

phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh

29

viên mà còn phải coi trọng giáo dục lý tưởng Đảng, đạo đức cộng sản chủ nghĩa;

giáo dục tình hình, nhiệm vụ, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp

phần quan trọng vào công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, truyền thống cách

mạng, CNYN cho sinh viên. Tuy nhiên, do thiếu giảng viên nên nhiều khâu trong

quy trình đào tạo bị cắt bỏ như tổ chức xêmina, đi thăm quan thực tế dẫn đến chất

lượng học tập bị hạn chế. Trong những năm qua, đội ngũ giảng viên đã tham gia

các hội thảo khoa học nhằm tổng kết thực tiễn, đổi mới nội dung, phương pháp

giảng dạy. tham gia tập huấn quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước góp

phần quan trọng trong công tác giáo dục chính trị, cập nhật những thông tin trong

lĩnh vực lý luận để đưa nội dung vào chương trình giảng dạy. Ngoài ra, đội ngũ

giảng viên môn lý luận còn tham gia tổ chức các cuộc thi Olympic môn Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thi tìm hiểu về lịch sử Đảng, về truyền thống lịch

sử dân tộc, tạo nên phong trào thi đua học tập, tìm hiểu sâu rộng kiến thức, tạo

hứng thú với các môn học lý luận. Những hoạt động này đã thu hút được đông

đảo sinh viên tham gia, góp phần cải tiến phương pháp giảng dạy...

2.1.4.3. Vai trò Đoàn thanh niên với công tác giáo dục CNYN cho sinh viên

Đại học Nội vụ Hà Nội

Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, nhất là tổng

khủng hoảng kinh tế hiện nay, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn phát huy vai trò là lực lượng xung

kích cách mạng, là trường học XHCN của tuổi trẻ Việt Nam làm tốt nhiệm vụ

tuyên truyền giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, CNYN và định hướng các

giá trị XHCN cho thanh niên, sinh viên.

Đoàn thanh niên Đại học đã vận dụng linh hoạt đường lối, nghị quyết của

Đảng vào cuộc sống. Đoàn Thanh niên kế thừa và phát huy những hình thức,

phương pháp mới để tác động một cách có hiệu quả đến tâm tư, nguyện vọng của

sinh viên. Nội dung giáo dục CNYN của Đoàn Thanh niên được thể hiện trong

mục tiêu, chương trình và nội dung hành động. Sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội

phải là những người “vững vàng về chính trị, năng động sáng tạo, tài giỏi về

30

chuyên môn, tươi sáng tâm hồn, khoẻ mạnh thể chất, nêu cao tinh thần tự nguyện,

vững bước vào thế kỷ mới, xứng đáng là người sinh viên thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”.

+ Các hoạt động giáo dục chính trị- tư tưởng

Ngay từ đầu năm học, cùng với Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên đã phối

hợp với các phòng ban tổ chức học tập chủ trương, đường lối, chính sách pháp

luật của Nhà nước. Cùng với các hoạt động giáo dục tư tưởng - chính trị, các hoạt

động giáo dục truyền thống cho các sinh viên Đại học được tổ chức thông qua

ngày kỷ niệm lớn của đất nước, dân tộc với nhiều nội dung phong phú và hấp

dẫn,... Đây là những hoạt động có giá trị cao, có tính giáo dục cao, được xã hội

ghi nhận, góp phần khơi dậy và phát huy niềm tự hảo của sinh viên thế hệ mới.

Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học được

Đoàn Thanh niên tổ chức, triển khai sâu rộng với cách làm sáng tạo, thu hút đông

đảo sinh viên tham gia... Các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên đã góp

phần quan trọng, đạt hiệu quả trong việc hình thành động cơ, thái độ học tập đúng

đắn, nâng cao chất lượng học tập, tăng cường ý thức tự rèn luyện, vượt khó vươn

lên.

Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên Đại học còn phối hợp với các khoa học

chuyên môn để tổ chức các câu lạc bộ chuyên ngành, như câu lạc bộ Triết học,

câu lạc bộ Chủ nghĩa xã hội khoa học, câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, tạo môi

trường thuận lợi, khuyến khích sinh viên học tập xây dựng đất nước.

Các hoạt động văn hoá - thể thao nâng cao đời sống tinh thần cũng đóng

vai trò quan trọng trong công tác giáo dục CNYN cho sinh viên. Hoạt động văn

hoá văn nghệ với nội dung phong phú, hình thức đa dạng như hội thi, hội diễn,

liên hoan tiếng hát sinh viên, thi sinh viên thanh lịch... đã trở thành những phong

trào tổ chức rộng rãi, thường xuyên tại các cơ sở hội cấp trưởng, cụm đến thành

phố. Học viện có đội văn nghệ xung kích với khoảng 92 sinh viên, hát và tuyên

truyền các ca khúc tập trung vào các chủ đề ca ngợi Đảng, ca ngợi đất nước truyền

thống dân tộc.

Tổ chức hoạt động sinh viên tình nguyện

31

Đoàn thanh niên tổ chức nhiều hoạt động sinh viên tinh nguyện như Tiếp

sức mùa thi, sinh viên tình nguyện ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa như Hà Giang,

hoạt động tình nguyện của đồng hương các tỉnh, chương trình “Áo ấm cho em"...

Các hoạt động tình nguyên ngày càng phát triển về quy mô, nội dung và hình thức,

đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn cống hiến của sinh viên, có tác dụng tích

cực và đem lại hiệu quả.

2.2. Thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên đại học Nội

vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc gia)

2.2.1. Những kết quả đạt được

2.2.1.1. Nâng cao lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sâu sắc cho sinh viên

Trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đảng ủy Trường, nay là Đảng ủy Học

viện, Ban Giám hiệu Trường, nay là Ban Giám đốc, có thể nói công tác giáo dục

CNYN của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành chính quốc

gia) đã có những kết quả đáng ghi nhận. Công tác giáo dục truyền thống lịch sử,

ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, lòng tự hào dân tộc cho sinh viên được triển khai

mạnh mẽ. Bởi vậy, đa phần sinh viên của Học viện có lòng tự hào, tự tôn, tự trọng

dân tộc sâu sắc. Sinh viên của Học viện luôn được bồi đắp lòng tự hào, tự tôn, tự

trọng của dân tộc qua từng chương trình đào tạo, từng học phần, từng bài giảng,

từng buổi trải nghiệm thực tế, từng hoạt động phong trào đoàn thể. Sinh viên được

học tập, được giáo dục về lòng tự hào, tự tôn dân tộc qua mấy nghìn năm lịch sử

dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Sinh viên được học hệ thống các học phần

như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở văn hóa

Việt Nam… để hiểu hơn về nguồn cội của mình, hiểu hơn về lịch sử dựng nước

và giữ nước của dân tộc, để hiểu và tự hào về bản sắc văn hóa của dân tộc. Sinh

viên còn được Học viện tổ chức những chuyến đi thực tế đến những địa chỉ văn

hóa, địa chỉ đỏ của cách mạng như: Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng

Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Di tích K9 – Đá chông, Nhà tù Hỏa

Lò, Nghĩa Trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên… ,

Bởi vậy, thông qua những hoạt động đó, sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội có được lòng tự hào về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về non sông hùng vĩ;

32

càng tự hào hơn về truyền thống lịch sử vẻ vang của đất nước, của dân tộc anh

hùng, bất khuất, kiên trung, đã nhiều lần chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại xâm

hùng mạnh; tự hào về các anh hùng dân tộc; tự hào về nền văn hóa Việt Nam với

những giá trị tinh thần bền vững, sức mạnh trường tồn của dân tộc ta.

Công tác giáo dục lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc đã giúp bồi đắp cho

sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội niềm tự hào về quá khứ, về hiện tại của

đất nước, của dân tộc, và đó là cơ sở để xây dựng cho sinh viên niềm tự hào mới:

ý thức sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và của cả dân tộc ta là độc lập dân

tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội...

Hiện nay, qua học tập và được giáo dục chủ nghĩa yêu nước họ đã có những

nhận thức cơ bản về CNYN, có niềm tin vào sự nghiệp xây dựng CNXH, sự

nghiệp đổi mới của Đảng. Khi được hỏi có 74% sinh viên quan tâm và tin tưởng

vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi

xướng và lãnh đạo. Qua đó, thấy rằng phần lớn sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội

đã nhận thức và tin tưởng vào con đường xây dựng CNXH ở nước ta.

Thái độ và ý thức chính trị của sinh viên được tăng lên, lập trường tư tưởng

vững vàng hơn, không bị dao động trước sự chi phối bên ngoài. Các hoạt động

chính trị được sinh viên tham gia hăng hái như: lễ hội, mít tinh, diễu hành nhân

kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước.

Niềm tin của sinh viên Đại học vào Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước

được thể hiện ở sự quan tâm của sinh viên với các sự kiện chính trị diễn ra trong

nước, sự hiểu biết của sinh viên về lịch sử đất nước. Qua điều tra ở Đại học Nội

vụ Hà Nội; 100% TNSV đều trả lời đúng những câu hỏi về mốc thời gian ra đời

của Đảng, về công cuộc đổi mới đất nước, về đại hội đổi mới đất nước, về Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Về chất lượng, các đồng chí đảng viên mới đều là sinh viên có học lực khá

giỏi, nhiều năm là cán bộ lớp, đoàn hội hoặc tham gia tích cực vào các phong trào

của nhà trường. Họ là những người đi tiên phong, phát huy vai trò đảng viên

giương mẫu trong lao động, học tập được quần chúng tin yêu, trở thành nòng cốt

cho phong trào sinh viên nói chung.

33

Ý thức được trách nhiệm của mình trong việc kế thừa, phát huy tinh thần

yêu nước, niềm tự hào về Tổ quốc..., sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

đang tiếp bước truyền thống của cha anh, phấn đấu vươn lên trong học tập, tích

cực tham gia các hoạt động xã hội do Đoàn Thanh niên và Hội sinh viên phát

động. Khi được hỏi có đến 10% sinh viên thường xuyên tham gia hoạt động tình

nguyện, 80% đôi khi tham gia.

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, công tác giáo

dục ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hướng tới xây dựng nền văn hóa mới

trong sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được tổ chức thường xuyên dưới

nhiều hình thức và nội dung phong phú nên đã thu hút được đông đảo sinh viên

tích cực tham gia, thể hiện thông qua các phong trào hoạt động có nội dung văn

hóa như: phong trào văn hóa văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao, các phong

trào tình nguyện, phong trào vì lợi ích cộng đồng...

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được Đoàn thanh niên Đại học, chi đoàn

các lớp triển khai có hiệu quả một mặt góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh

thần, định hưởng lối sống, nếp sống văn hóa cho sinh viên, mặt khác sinh viên

đóng góp vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.

Đoàn thanh niên Trường thường xuyên tuyên truyền các ca khúc cách mạng

tham gia biểu diễn giao lưu với các trường đại học, trong chiến dịch mùa hè tình

nguyện... Vào các dịp lễ thường tổ chức các hoạt động để chào mừng như ngày

Nhà giáo Việt Nam, ngày 26/3 Thành lập Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh,...

Các chương trình văn hóa, văn nghệ này luôn được sự hưởng ứng, tham gia

nhiệt tình của các đoàn viên ở tất cả các chi đoàn, góp phần nâng cao tinh thần

yêu nước và đời sống văn hóa lành mạnh cho sinh viên.

Các phong trào thể dục thể thao cũng diễn ra sôi nổi và thu hút nhiều sinh

viên tham gia, tiêu biểu như: giải bóng đá nam, bóng đá nữ sinh viên, thi kéo co,

nhảy bao bố, hội trại... Các phong trào này rèn luyện sức khỏe, tinh thần thể dục

thể thao cho sinh viên.

Phong trào “Sinh viên tình nguyện" có bước phát triển mới cả về số lượng

và chất lượng. Đây là phong trào ra đời từ chính thực tiễn hoạt động của sinh viên

34

và đã có sức cuốn hút mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến sinh viên. Các hoạt động

tình nguyện được Đoàn Thanh niên Đại học quan tâm chỉ đạo và thực hiện. Sinh

viên tham gia tình nguyện về các vùng sâu vùng xa, hay các nhóm thanh niên tình

nguyện của đồng hương về chính mảnh đất quê hương mình. Chương trình “Tiếp

sức mùa thi" ngày càng cụ thể, thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu

quả mùa thi. Trong các năm qua, chương trình “Tiếp sức mùa thì đã thu hút được

đông đảo viên tình nguyện tham gia: tư vấn, giới thiệu tuyến đường, nhà trọ cho

các thí sinh tham gia dự thi. Các hoạt động tình nguyện giúp cho sinh viên có ý

thức trách nhiệm với quê hương, đất nước, hun đúc thêm lòng yêu nước, có tinh

thần đùm bọc, chia sẻ, đoàn kết với nhau và luôn được nhân dân yêu quý, tạo điều

kiện ăn ở thuận lợi.

Thông qua những hoạt động cụ thể đó, phần lớn sinh viên nắm được quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển

văn hóa dân tộc.

Mặt khác, bằng hình thức tổ chức cho sinh viên tham gia vào các hoạt động

cụ thể, có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng nền văn hóa mới, phát huy

được sức mạnh của sinh viên trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị

truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ của thời đại; xây

dựng lối sống lành mạnh có văn hóa, có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội, phát

huy truyền thống tương thân, tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, yêu lao động,

mang trí tuệ và tài năng của mình cống hiến cho sự phát triển của đất nước.

2.2.1.2. Xây dựng hoài bão, khát vọng, ý chí thực hiện mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội

cho sinh viên

Có thể nói bằng với nhiều hình thức và Phương pháp khác nhau, với mục

triết lý: “học thật, thi thật để ra đời làm thật” đã in sâu vào trong tâm thức của

từng người sinh viên Nội vụ Hà Nội để họ có hoài bão, có khát vọng vươn lên, tự

khẳng định mình. Sinh viên của Học viện luôn nỗ lực trong học tập và rèn luyện,

học tập tốt, rèn luyện tốt, lao động tốt để thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

35

Có thể nói, sinh viên của Học viện luôn được giáo dục, đưa vào các phong

trào học tập, rèn luyện để khẳng định bản thân mình ngay từ khi còn ngồi trên ghế

nhà trường, đó là phong trào học tập tốt, rèn luyện tốt, để trở thành những sinh

viên có học lực giỏi, xuất sắc, có điểm rèn luyện xuất sắc và một số trong đó đã

được học những lớp cảm tình Đảng và được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đó

chính là những hành trang tốt để sau khi tốt nghiệp, sinh viên của Học viện sẽ tự

tin vững bước trên con đường lập thân, lập nghiệp, sống có hoài bão, có ước mơ

cao đẹp, có lý tưởng để cống hiến cho mục tiêu, cho lý tưởng, cho hoài bão và

khát vọng của mình.

Một trong những nội dung quan trọng của công tác giáo dục CNYN trong

thời đại mới là: xây dựng khát vọng và hoài bão cho sinh viên vươn lên lập thân,

lập nghiệp, không chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, do vậy sinh viên được nuôi dưỡng

những ước mơ, hoài bão của mình. Nhà trường chính là môi trường và là cơ sở để

nuôi dưỡng những ước mơ, hoài bão đó để sinh viên luôn không ngừng học tập,

nghiên cứu khoa học, làm giàu tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn,... để góp

phần đưa đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại phát triển theo

hướng XHCN.

Nhận thức được nội dung này, nhìn chung phần lớn sinh viên Trường Đại

học Nội vụ Hà Nội đều có thái độ học tập đúng đắn, năng động, tự vươn lên lập

thân, lập nghiệp, có ý chí tự lập, tự cường, khát khao sống có ích cho xã hội. Có

nhiều sinh viên vươn lên vượt khó, giành thành tích cao trong học tập tham gia

các câu lạc bộ học tập. Tính năng động của sinh viên thể hiện ngày càng rõ; có

sinh viên cùng lúc học thêm song bằng ở trường. Các sinh viên ra trường đã nhanh

chóng trau dồi kiến thức bằng việc tiếp tục học sau đại học; họ còn học thêm tin

học và ngoại ngữ; bổ túc thêm một số kỹ năng cần thiết cho công việc sau này

như học nghiệp vụ sư phạm,... Những điều này đã thể hiện tinh thần ham học hỏi,

có ý chí tiến thủ, vươn lên của sinh viên.

Nhìn chung sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đều có tinh thần yêu

nước và tự hào dân tộc, tích cực tham gia học tập và rèn luyện, có ý chỉ vượt khó,

cần cù, sáng tạo... Đa số sinh viên đều xác định tinh thần yêu nước và tự hào dân

36

tộc là giá trị tư tưởng quan trọng. Có đến 95-100% sinh viên cho rằng học tập là

mục tiêu quan trọng đối với sinh viên, 85-90% sinh viên có khát vọng muốn đóng

góp công sức vào sự nghiệp xây dựng đất nước và phấn đấu cho lý tưởng dân

giàu, nước mạnh.

Sinh viên có tinh thần nghiên cứu khoa học ngày càng cao. Các đề tài mà

sinh viên hướng tới đều là các vấn đề mang tính thời sự, tính khoa học, có ý nghĩa

lý luận và thực tiễn cao, phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Qua các công trình

nghiên cứu này, sinh viên được rèn luyện tư duy khoa học được tiếp cận với nhiều

cách nghiên cứu, điều tra xã hội học, qua đó nâng cao hơn về tư duy, nhận thức,

tăng thêm tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ

đổi mới.

2.2.1.3. Bồi đắp tinh thần sẵn sàng làm mọi việc vì dân, vì nước với ý chí

nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng cho sinh viên

Với đặc thù là một đơn vị sự nghiệp của Bộ Nội vụ, Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội (mà nay là Học viện Hành chính quốc gia) luôn chú trọng đến việc bồi

đắp cho sinh viên tinh thần sẵn sàng làm mọi việc vì dân vì nước. Bởi vậy, hầu

hết sinh viên của Nhà trường đều có tinh thần cống hiến sức trẻ và trí tuệ vào công

cuộc xây dựng đất nước, vì hạnh phúc của Nhân dân. Có nhiều chương trình ý

nghĩa và nhân văn được tổ chức, với sự góp mặt của sinh viên như: Phong trào

đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ những hoàn cảnh khó khăn, ủng hộ đồng bào bị bão lũ,

hiến máu nhân đạo… được tổ chức một cách bài bản và thường xuyên, tạo thành

phong trào xã hội rộng lớn, thu hút đông đảo sinh viên của Nhà trường tham gia.

Trong thời gian qua, trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh

Covid-19, cùng với cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị, Tuổi trẻ sinh

viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã nêu cao tinh thần xung kích, tình nguyện,

chủ động triển khai nhiều hoạt động ý nghĩa, kịp thời, hiệu quả, góp phần chung

tay cùng cộng đồng đẩy lùi dịch bệnh với tinh thần “Đâu cần thanh niên có, đâu

khó có thanh niên” và tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, thể hiện rõ vai trò

là lực lượng sẵn sàng xung kích trong công tác phòng chống dịch Covid-19, Đoàn

37

Trường đã chủ động tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền về công tác

phòng, chống dịch bệnh, như: xây dựng các infographic, tin, bài, ấn phẩm; tích

cực khai thác mạng xã hội tuyên truyền, nắm chắc tình hình dư luận và định hướng

thông tin trong thanh thiếu niên và nhân dân, thường xuyên cập nhật, chia sẻ, đăng

tải kịp thời, chính xác các tin, bài về tình hình diễn biến của dịch Covid-19. Qua

đó, giúp người dân cập nhật chính xác tình hình dịch bệnh diễn ra trong nước, khu

vực và thế giới cũng như các biện pháp phòng, chống cho bản thân, gia đình, cộng

đồng. Các đoàn viên thanh niên của Trường còn không ngại hiểm nguy khi tham

gia vào các hoạt động tình nguyện nhằm đảm bảo chăm lo an sinh xã hội cho

người dân trên địa bàn trong thời gian tăng cường các biện pháp giãn cách xã hội.

Điều đó cho thấy sinh viên của Nhà trường đã được bồi đắp tinh thần quý báu vì

dân vì nước, sống có trách nhiệm không chỉ với bản thân, mà còn có trách nhiệm

với gia đình, với đất nước, với toàn xã hội.

2.2.1.4. Nâng cao ý thức kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành động

xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc cho sinh viên

Công tác giáo dục CNYN cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã

giúp nâng cao ý thức kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành động xâm phạm

lợi ích của quốc gia, dân tộc cho sinh viên. Công tác này giúp cho sinh viên Nhà

trường luôn cảnh giác và kiên quyết làm thất bại âm mưu xâm phạm lợi ích của

Tổ quốc, của nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,

chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, thanh niên luôn là lực lượng đi đầu,

chủ yếu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhất là, trong điều kiện kinh tế - xã

hội phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, tuổi trẻ có nhiều

điều kiện, cơ hội để phát huy truyền thống anh hùng cách mạng của các thế hệ đi

trước, vươn lên khẳng định mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,

trong điều kiện mới cũng đặt ra cho thế hệ trẻ mà đặc biệt là sinh viên trong đó có

sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội không ít những thách thức, nhất là những

tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, khi sự trải nghiệm cuộc sống của họ

chưa đủ để có thể sàng lọc, miễn dịch trước những tiêu cực xã hội đa chiều, phức

38

tạp. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch lợi dụng những đặc điểm của tâm lý tuổi trẻ

là dễ tiếp cận cái mới, thích tự do, muốn được khẳng định mình, nhưng nhận thức

các vấn đề chính trị - xã hội còn chưa đủ độ chín nên tìm mọi cách tuyên truyền,

kích động, mua chuộc, tha hóa nhằm băng hoại lực lượng dự bị hùng hậu này của

cách mạng.

Nắm bắt được điều đó, các cấp ủy Đảng, các đơn vị và toàn thể cán bộ,

giảng viên của Nhà trường luôn chú trọng đến công tác giáo dục CNYN cho sinh

viên nhằm nâng cao được ý thức đấu tranh với những hành động xâm phạm lợi

ích của quốc gia, của dân tộc.

2.2.1.5. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc

tế trong sáng trong sinh viên

Chúng ta đều biết, việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế là yêu cầu có tính nguyên

tắc, nhưng phải phù hợp khả năng và điều kiện cho phép. Có thể nói rằng, việc

chúng ta thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta hiện nay chính

là sự đóng góp to lớn của dân tộc ta với phong trào cách mạng thế giới.

Bởi vậy, ngoài việc tuyên truyền giáo dục đường lối và chính sách của Đảng

Nhà nước, sinh viên Nhà trường còn tích cực hỗ trợ các lưu học sinh quốc tế sang

Việt Nam học tập như: Lưu học sinh Lào, Campuchia, tham gia các hoạt động

giao lưu với các lưu học sinh quốc tế như: Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn

nghệ, thể thao, tổ chức Tết Bun Pi May – Tết cổ truyền Lào… Những hoạt động

đó bước đầu đã thu được kết quả tốt trong việc giáo dục ý thức đoàn kết hợp tác

với sinh viên các nước bạn, xây dựng tình bạn tốt đẹp giữa sinh viên Đại học Nội

vụ Hà Nội nói riêng, sinh viên Việt Nam nói chung với sinh viên và nhân dân các

nước trên thế giới.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Về những hạn chế của sinh Đại học Nội vụ Hà Nội trong việc tiếp

thu, giữ gìn, phát huy những giá trị của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa

* Một bộ phận thanh niên sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội ý thức chính trị

kém, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước

39

Mặc dù đa số sinh viên của Nhà trường có ý thức chính trị vững vàng.

nhưng còn một bộ phận sinh viên ít quan tâm đến sinh hoạt chính trị, thờ ơ với

các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, với công cuộc đổi

mới đất nước.

Ngoài ra, một bộ phận sinh viên thiếu hiểu biết về tri thức văn hóa, lịch sử

dân tộc. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là trường mang tính xã hội nhân văn, nên

tỷ lệ sinh viên có hiểu biết về văn hóa, lịch sử tương nhưng sự hiểu biết chưa sâu,

chưa mang tính khái quát cao. Việc phấn đấu vào Đảng của một số sinh viên còn

mờ nhạt, hoặc vì lợi ích cá nhân. Một bộ phận thanh niên sinh viên ngại tham gia

vào các hoạt động chính trị xã hội, hoặc nếu có thời gian rảnh rỗi họ mới tham gia...

Thái độ chính trị của một số sinh viên còn mơ hồ, thụ động, do nhận thức

còn nghèo nàn, hời hợt về những vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội của dân tộc,

của đất nước, thời đại. Không ít sinh viên tỏ ra hoang mang, dao động, trước

những luận điệu của kẻ thù. Họ chưa hiểu hết về đường lối phát triển kinh tế thị

trưởng theo định hướng XHCN, vì thế mà mờ nhạt lý tưởng phấn đấu trên con

đường lập thân lập nghiệp.

*Một bộ phận sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có thái độ và động

cơ học tập chưa đúng đắn, chưa tích cực học tập và rèn luyện, ý chí phần đẩu

chưa cao.

Học tập là nhiệm vụ hàng đầu đối với mỗi sinh viên, đó là quá trình mỗi

sinh viên tích lũy cho mình tri thức, những kinh nghiệm, rèn luyện những phẩm

chất, kỹ năng chuẩn bị hành trang cho quá trình lập thân, lập nghiệp, góp phần

vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay một số ít sinh viên chưa xác

định rõ mục đích và động cơ học tập, biểu hiện của thực trạng này là xuất hiện

tình trạng bỏ học, đi học muộn.Tình trạng sinh viên chưa nghiêm túc trong giờ

học, thiếu tập trung, làm việc riêng, nói chuyện trong lớp; khâu chuẩn bị bài chưa

nghiêm túc. Một bộ phận sinh viên chưa có ý thức tự học, chưa chủ động trong

việc học, thụ động tiếp thu kiến thức của thầy cô. Một số sinh viên học không

đúng theo nguyện vọng của mình nên tỏ ra chán nản hoặc học còn mang tính đối

40

phó, chưa có niềm say mê, tìm tòi, nghiên cứu thực sự nên chất lượng học tập

chưa được cao.

Việc chưa xác định rõ động cơ và mục đích học tập khiến cho sinh viên mất

đi ý chí phấn đấu và quyết tâm vươn lên vượt khó khăn để khẳng định minh. Việc

không chịu khó học tập, không tự ý thức vươn lên lĩnh hội trị thức, củng cố trình

độ lý luận, trình độ tin học, ngoại ngữ khiến cho những sinh viên đó ngày cảng

tụt hậu hơn so với bạn bè, một vài sinh viên không đủ điều kiện tốt nghiệp. Một

số sinh viên do thiếu sự định hướng và quyết tâm trong học tập, bị kẻ xấu lôi kéo

đã sa vào những tệ nạn xã hội. Để lại hậu quả đáng tiếc cho bản thân, gia đình,

nhà trường và cho xã hội.

Ngoài ra, công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên chưa thực sự

bám sát với nhiệm vụ chính trị, còn nặng về lý thuyết, chưa cổ vũ, phát huy được

sự nhiệt tình, say mê nghiên cứu khoa học của sinh viên, chưa gắn nhiệm vụ học

tập của sinh viên với ý thức, trách nhiệm công dân.

*Một bộ phận sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có biểu hiện về lối

sống, đạo đức chưa đúng đắn, xa rời các giá trị truyền thống văn hoả tốt đẹp của

dân tộc.

Một bộ phận sinh viên có lối sống thực dụng, hưởng thụ phóng túng, có

những biểu hiện và hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức trái với thuần phong, mỹ

tục. Những sinh viên này tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ giá trị tinh thần, coi trọng lợi

ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích cộng đồng. Lối sống, thị hiếu văn hoá của một bộ phận

sinh viên đáng lo ngại.

Những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống nếu không được ngăn chặn

kịp thời sẽ dẫn đến sự tha hóa trong nhân cách mỗi sinh viên, làm băng hoại những

giá trị đạo đức dân tộc, ảnh hưởng xấu đến cá nhân mỗi sinh viên và đến những

sinh viên khác, đến gia đình, cộng đồng và xã hội. Chính vi vậy, việc giáo dục

chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay nhằm

góp phần đẩy lùi những biểu hiện xấu đang tác động tới sinh viên, đồng thời định

hưởng cho sinh viên những giá trị tiến bộ góp phần hoàn thiện nhân cách, xây

dựng đạo đức, lối sống sinh viên trong tình hình mới.

41

2.2.2.2. Những nguyên nhân của hạn chế trong việc tiếp thu, giữ gìn, phát

huy những giá trị của chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa.

* Nguyên nhân khách quan

Kinh tế thị trường khơi dậy tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân. Sự

mở cửa và quan hệ hợp tác đa phương, giúp con người tiếp cận được nhiều giá trị

mới từ bên ngoài, tạo điều kiện hội nhập thế giới hiện đại, khắc phục những hạn

chế trong tính cách truyền thống. Tuy nhiên, kinh tế thị trưởng đặt ra không ít

những thách thức: mặt trái của kinh tế thị trường là mảnh đất của chủ nghĩa cá

nhân, tính vụ lợi, ích kỷ, tôn thờ các giá trị vật chất, lối sống thực dụng, xem nhẹ,

thờ ơ, thậm chi phí bằng các giá trị tinh thần, văn hóa đạo đức của dân tộc. Sự

cạnh tranh trong cơ chế thị trường tiềm tàng có nguy cơ đánh một truyền thống

văn hóa dân tộc, mất hàn sắc văn hoá là nguyên nhân làm gia tăng khuynh hướng

cực đoan, hẹp hòi ích kỷ, tham nhũng, tệ nạn xã hội. Không ít sinh viên vì đồng

tiền mà chà đạp lên tình nghĩa anh em, bạn bè, thầy cô...Nguyên nhân là do một

số giáo viên chưa thực sự quan tâm, tìm hiểu hoàn cảnh, cũng như nguyện vọng

mong muốn của sinh viên, dẫn tới một bộ phận sinh viên không hiểu những giá

trị đạo đức, CNYN của dân tộc dẫn đến làm trái, thậm chí thờ ơ, bàng quan. Một

số thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên nhà trường chưa thực sự gương mẫu cho

sinh viên noi theo. Các hiện tượng như ra vào lớp chưa đúng giờ, nói năng với

ngôn ngữ thô tục, cán bộ phục vụ các phương tiện học tập cho sinh viên còn nhiều

điều đáng khiển trách.

Xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá

đang diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có tư tưởng văn hoá.

Sự hợp tác văn hoá song phương và đa phương trong khuôn khổ pháp luật, các tổ

chức khu vực và thế giới, đã làm tăng sự giao lưu giữa Việt Nam với thế giới làm

cho sinh viên có sự hiểu biết nhanh hơn về thế giới... Kinh tế thị trường dang mở

ra nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của đất nước. Để hỏa nhập, con người ta

buộc phải thường xuyên cập nhật và đổi mới. Song những cái mới đó, đôi khi

giống như “luồng gió độc”, pha trộn và lai tạp, nó lan tràn trong cộng đồng như

một “thứ virus lây bệnh”, và “lây” dễ dàng trong sinh viên - thành phần công dân

42

còn khá non trẻ, ham thích khám phá cái mới mẻ, nếu không có lập trường,không

có bản lĩnh chính trị tư tưởng vững vàng, sinh viên rất dễ bị lôi cuốn theo, làm

cho họ xem nhẹ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

*Những nguyên nhân chủ quan

Trong quá trình xây dựng đất nước những năm qua, do quá chú trọng đến

phát triển kinh tế nên việc giáo dục lịch sử, truyền thống dân tộc, giao dục đạo

đức cho thế hệ trẻ có phần bị xem nhẹ, do vậy, công tác giáo dục truyền thống,

giáo dục CNYN cho thanh niên sinh viên chưa được đặt đúng vị trí và tam quan

trọng của nó. Việc quản lý của nhà nước trên các lĩnh vực này còn lỏng lẻo, nhất

là trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Các chủ thể giáo dục chưa đặt hết tâm huyết

vào nhiệm vụ giáo dục.

Một bộ phận thanh niên sinh viên chưa thực sự có ý thức phấn đấu học tập,

chưa tích cực tham gia xây dựng đất nước, suy nghĩ còn nông cạn hẹp hỏi, nên dễ

bị lôi kéo, hoặc hoang mang, dao động.Một bộ phận sinh viên mới lên nhập học

tại thành phố, vẫn chưa quen với sự thay đổi môi trường nông thôn với thành thị

nên rụt rè, thụ động. Điều nay đã chỉ phối đến khả năng tiếp thu nội dung công

tác giáo dục do giảng viên, cán bộ công nhân viên nhà trường truyền thụ.

Những hạn chế trong công tác giáo dục CNYN cho sinh viên nếu ra trên

đây cần sớm được khắc phục thông qua một hệ thống các quan điểm và giải pháp

phù hợp.

43

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG

CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC

CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRONG THỜI

GIAN TỚI

3.1. Phương hướng cơ bản

3.1.1. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên trên cơ sở vận dụng

sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

phương hướng nhiệm vụ phát triển của Học viện Hành chính quốc gia

Để công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa cho sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (Học viện Hành chính quốc gia hiện nay) đạt hiệu

quả cao, đúng định hướng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa thì trước hết

cần phải bám sát đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục. Trong

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Phát triển

giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt

Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập

quốc tế” [18, tr.130]. Đảng ta chỉ rõ những biện pháp cụ thể “đổi mới cơ chế quản

lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập

trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống,

năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành và khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài

chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc

học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường

với gia đình và xã hội”[18, tr.131]. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và

đào tạo tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam.

Đối với công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh

viên. Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ rõ nội dung giáo dục phẩm chất

chính trị bao gồm:

Giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng cộng sản, niềm tin đối với sự lãnh đạo

của Đảng, bản lĩnh chính trị.

Giáo dục ý thức chấp hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,

44

pháp luật của Nhà nước.

Giáo dục thái độ tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội, phân

biệt, đánh giá các sự kiện chính trị, xã hội; nhận ra và phê phán những âm mưu,

thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch.

Việc giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia hiện nay

phải lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tuân thủ

những nguyên lý, nội dung giáo dục mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –

Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác.

Xây dựng cho sinh viên thế giới quan khoa học, lập trường giai cấp công nhân, lý

tưởng cộng sản, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Xây dựng

nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần

vào sự nghiệp cách mạng chung của các nước trên thế giới.

Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia hướng tới lý

tưởng độc lập dân tộc và CNXH.

Trong cuộc sống của mình, con người không thể sống mà không có lý

tưởng. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thoả mãn các nhu cầu các lợi

ích. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế

hệ trẻ. Người dạy: Thanh niên sinh viên có giác ngộ lý tưởng mới giúp họ hiểu

được lý tưởng đó cao đẹp như thế nào, mới xây dựng cho họ niềm tin vào CNXH

và lý tưởng cách mạng. Khi thanh niên sinh viên giác ngộ được lý tưởng cách

mạng, họ sẽ phấn đấu để biến lý tưởng ấy bằng ý chí, tài năng, trí tuệ, lòng nhiệt

tình của tuổi trẻ, để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, coi đó là lẽ sống cao

quý, là mục tiêu phấn đấu của mình. Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện

Hành chính quốc gia theo hướng đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục phù

hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của thanh niên sinh viên.

Sinh viên là những người có trình độ, lại rất nhạy bén với cái mới lạ, họ rất

dễ tiếp nhận những giá trị mới lạ từ bên ngoài vào. Điều đó thuận lợi cho việc

hình thành nên những phẩm chất của người sinh viên hiện đại, như có trình độ

học vấn cao, có bản lĩnh, tự tin, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động, sáng

45

tạo... Chính vì thế, giáo dục CNYN cho sinh viên phải gắn liền với giáo dục chính

trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức, lối sống và nhất là phải gắn

với tâm lý lứa tuổi.

Giáo dục CNYN trên cơ sở giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, giáo dục bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng cho sinh viên, qua đó

sinh viên có thể đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù

địch để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước XHCN.

Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia phải theo

định hướng phát triển của Học viện. Phấn đấu đưa Học viện trở thành một trong

những trường đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có lý luận vững vàng, có năng

lực có phẩm chất trong sáng, có lòng yêu nước nồng nàn, có niềm tin vào chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ con đường đi lên xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở nước ta.

3.1.2. Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trên

cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống,

đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đáp ứng yêu cầu của công cuộc

đổi mới đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước truyền thống là sản phẩm của quá trình phát triển hàng

ngàn năm của lịch sử dân tộc, là nguyên tắc đạo đức và chính trị quan trọng nhất

của con người Việt Nam, biểu hiện phẩm chất cao đẹp nhất, tinh cảm thiêng liêng

nhất của mỗi người dân Việt Nam đối với Tổ quốc.

Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia phải kế thừa

những giá trị của CNYN truyền thống, giúp sinh viên hiểu rõ cội nguồn lịch sử,

truyền thống văn hóa, tự hảo về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, thẩm

đượm giá trị nhân văn, đức hy sinh, khát vọng vươn tới hòa bình. Thông quá đó,

sinh viên thấy được trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc, với nhân dân, tin

tưởng vào hiện tại và tương lai phát triển của dân tộc. Đồng thời, việc giáo dục

chủ nghĩa yêu nước hiện nay cần phải tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đưa

CNYN Việt Nam phát triển ngang tầm với yêu cầu của sự phát triển đất nước và

xu thế phát triển của thời đại.

46

Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước truyền thống phải được tăng cường, đối mới

và phát triển cao hơn, phù hợp với những dòi hỏi mới của thời đại. Cần phải hiểu,

việc giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị CNYN truyền thống chính là làm

phong phú thêm nội dung của CNYN truyền thống trong giai đoạn mới của lịch

sử xã hội.

Lòng yêu nước của con người Việt Nam đã được hình thành từ lâu đời trong

lịch sử. Khơi dậy, phát huy lỏng yêu nước trong giai đoạn ngày nay chính là yếu

nước gắn với yêu CNXH và tinh thần quốc tế vô sản. Việc kể thừa, phát huy giá

trị CNYN truyền thống phải theo nguyên tắc nhất định, một mặt chống thái độ hư

vô, mặt khác phải chống thái độ bảo thủ, đề cao quá mức CNYN truyền thống mà

phủ nhận những cái mới của CNYN hiện đại.

Biểu hiện của CNYN hiện đại trong mỗi sinh viên Học viện Hành chính

quốc gia là ý chí quyết tâm đưa đất nước thoát ra khỏi đói nghèo, lạc hậu tiêu độc

lập dân tộc và CNXH mà công việc cụ thể trước mắt là học tập tham gia có hiệu

quả vào các phong trào hoạt động thực tiễn.

Việt Nam tiến hành CNH, HDH trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra

một cách sôi động. Mở cửa, giao lưu hội nhập đang là điều kiện sống còn cho sự

phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá. Trên con đường hội nhập và phát triển ấy,

Việt Nam dang dứng trước những cơ hội và thách thức mới. Sinh viên Học viện

Hành chính quốc gia trong thời kỳ đổi mới phải là người biết kế thừa những giá

trị của CNYN truyền thống, nâng CNYN truyền thống lên một tầm cao phù hợp

với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của dân tộc và thời đại.

Giáo dục CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trong giai

đoạn hiện nay cần chú ý đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho sinh

viên và khơi dậy ý thức tự hào mới và phong trào thi đua yêu nước.

Quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho sinh viên Học viện Hành

chính quốc gia hiện nay phải tập trung vào lợi ích thiết thân của họ, tạo điều kiện

thuận lợi cho sinh viên ăn ở, học tập và đi lại, đặc biệt chú ý đến xây dựng ký túc

xá, đáp ứng nhu cầu về nơi ở. Ông cha ta có câu: “an cư lạc nghiệp”, sinh viên có

nơi ở thuận tiện với cơ sở vật chất đầy đủ sẽ giúp các em học tốt hơn, đóng góp

47

công sức của mình vào xây dựng đất nước, từ đủ hình thành ý thức tự hào dân tộc

cho thanh niên sinh viên.

Niềm tự hảo về truyền thống dân tộc, tự hào về thành tích chiến đấu, xây

dựng của các thế hệ đi trước chưa đủ để đáp ứng nhiệm vụ mới đặt ra, mà phải

trang bị cho sinh viên những tri thức về CNXH, con đường xây dựng CNXH.

Những tri thức cơ bản này các em đã được học ở các môn học Mác Lênin, đặc

biệt là môn CNXH khoa học. Từ việc hiểu biết CNXH khoa học là gì, con đường

đi lên XHCN Việt Nam, sự ưu việt của chế độ XHCN và sẽ hình thành niềm tự

hào XHCN, cố gắng vươn lên trong lao động học tập khác phục khó khăn, cùng

với cả nước quyết tâm xây dựng thành công CNXH.

Bên cạnh việc giáo dục ý thức tự bảo mới là giáo dục thái độ lao động mới.

Sinh viên cần được giáo dục truyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo

của dân tộc; nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của lao động trong xã hội, có thái độ

đúng đắn và có tình yêu đối với lao động. Lao động với tinh thần hãng say sáng

tạo, lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, có kỷ luật, làm

việc tốt với năng suất, chất lượng cao. Qua thái độ với lao động hình thành trách

nhiệm, lòng tự hào của sinh viên với đất nước, sẵn sàng ở bất cứ đâu, làm bất cứ

việc gì khi Tổ quốc cần, làm giàu cần, làm giàu cho Tổ quốc, giáo dục ý thức lao

động, niềm tự hào lao dộng, là phương thức thực hiện lý tưởng và hoài bão sống

của tuổi trẻ Việt Nam.

Chủ nghĩa yêu nước chỉ có thể thấm sâu vào trong huyết quản của mỗi sinh

viên khi họ hoà minh vào trong phong trào thực tiễn, đặc biệt là các phong trào

thi đua yêu nước.

Yêu cầu đặt ra cho Đảng uỷ, Ban Giảm đốc Học viện, Đoàn thanh niên, các

Khoa, Trung tâm là phải có cơ chế khen thưởng kịp thời trong các phong trào thi

dua của thanh niên sinh viên, nhằm tạo khí thế sôi nổi, thúc đẩy phong trào thi

đua phát triển, đưa thi đua lên một mức cao hơn. Tạo điều kiện dễ sinh viên phát

huy giá trị của CNYN truyền thống và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.

3.1.3. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Hành chính

quốc gia theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội

48

Trong công tác giáo dục CNYN cho sinh viên, giáo dục của gia đình, nhà

trường và xã hội đều có vai trò nhất định. Nếu giáo dục gia đình giữ vai trò nền

tảng, là môi trường giáo dục đầu tiên để hình thành và phát triển tinh thần yêu

nước XHCN thì giáo dục nhà trường và xã hội trên cơ sở mục tiêu giáo dục góp

phần bổ sung, định hướng và hoàn thiện chủ nghĩa yêu nước cho mỗi sinh viên.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục CNYN cần phải có sự kết hợp

chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.

Công tác giáo dục CNYN là một quá trình liên tục nhằm bồi đắp và xây

dụng cho sinh viên ý thức dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa

xã hội, tự hào về lịch sử và truyền thống của dân tộc mình. Quá trình liên tục đó

đòi hỏi phải có sự gắn kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Nếu công tác kết

hợp không chặt chẽ, hiệu quả giáo dục sẽ không cao, sẽ tạo ra sự dứt gẫy trong

quá trình giáo dục, đồng thời tạo ra những kẽ hở để cho yếu tố tiêu cực tác động

đến sinh viên.

Bên cạnh việc thực hiện trách nhiệm cần phải xây dựng cơ chế phối hợp

nhằm tạo ra mối liên hệ, gắn bỏ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Cần

xây dựng mối liên hệ thống qua tổ chức, phải thống nhất nội dung và phương pháp

giáo dục chủ nghĩa xã hội cho sinh viên cần theo sát tình hình, diễn biến tư tưởng

của sinh viên, khen thưởng những sinh viên có kết quả học tập và rèn luyện tốt,

kịp thời phát hiện những hiện tượng bất thưởng, những trào lưu xấu, những sinh

viên vi phạm quy chế, vi phạm pháp luật... Thông qua mỗi liên hệ giữa gia đình,

Học viện, Đoàn Thanh niên, Ban quản lý Đào tạo để đề ra cách giải quyết.

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo

dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trong

thời gian tới

3.2.1. Giải pháp về tổ chức chỉ đạo - quản lý

Để công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước đạt hiệu quả cao, cần phải đưa ra

giải pháp về tổ chức chỉ đạo – quản lý.

Trước hết cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy về công tác giáo dục

CNYN cho sinh viên Học viện Hành chính quốc gia trong tình hình mới.

49

Để nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng, trước hết cần phải

thay đổi việc nhận thức của Đảng ủy, Đoàn Thanh niên, đối với công tác giáo dục

chính trị - tư tưởng, đạo đức nói chung, giáo dục CNYN nói riêng. Bên cạnh việc

giáo dục kiến thức chuyên môn, khoa học và công nghệ cho sinh viên, phải coi

giáo dục đạo đức là “gốc”, là nền tảng của quá trình giáo dục nhằm thực hiện mục

tiêu giáo dục con người toàn diện, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có

đủ dức và tài, dáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới, hội nhập của đất nước.

Trong giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên thì giáo dục CNYN là vấn đề

quan trọng nhất, có ý nghĩa thiết thực nhằm phát huy nguồn lực con người đóng

góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đưa nhiệm vụ giáo dục CNYN

vào công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng, các khoa, phòng. Đoàn Thanh niên, Hội

sinh viên; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra đối với công tác giáo dục chủ

nghĩa yêu nước, kịp thời phát hiện những diễm hạn chế để đề ra hướng khắc phục.

Kết hợp với những hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trên cơ sở

đường lối của Đảng cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo

dục, xây dựng những chuyên đề về giáo dục CNYN trong sinh viên. Tăng cường

chỉ đạo biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo, nghiên cứu về CNYN, lịch sử,

văn hóa. Tổ chức chỉ đạo triển khai công tác giáo dục CNYN trong Học viện.

Từ chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đảng ủy, Đoàn Thanh niên Học

viện Hành chính quốc gia cần chủ động quán triệt, lãnh đạo thực hiện nghiêm túc

công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục CNYN cho sinh viên. Đưa nội

dung giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục CNYN vào chương trình giảng dạy

của tất cả các môn học và hoạt động của Đoàn Thanh niên. Lãnh đạo Học viện

cần chú ý đến những điểm khác biệt đặc thù của sinh viên từng ngành để có những

phương pháp khác nhau cho phù hợp với đặc điểm của từng ngành.

Bên cạnh việc đề ra đường lối, chính sách, chỉ đạo, triển khai thực hiện thì

Đảng ủy, Đoàn Thanh niên cần xây dựng cơ chế phối hợp trong việc quản lý, kiểm

tra, giám sát công tác giáo dục CNYN. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát phải

bao gồm những nội dung: việc thực hiện đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục;

việc triển khai thực hiện trên cơ sở đường lối và mục tiêu giáo dục đã đề ra; chất

50

lượng và hiệu quả thực tế của công tác giáo dục; phương hướng và nhiệm vụ giáo

dục trong thời gian tới, đồng thời phát hiện những hạn chế trong công tác giáo dục

qua đó kịp thời khắc phục.

Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, đánh giá, rút kinh nghiệm đối với

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Nếu phát hiện

những hạn chế cần đề ra phương hướng khắc phục, dỗi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý và tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền, đổi mới

phương thức hoạt động, phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên trong việc giáo dục

chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên.

3.2.2. Tổ chức tốt các hoạt động giảng dạy lý luận chính trị và CNYN cho

sinh viên

- Tổ chức tốt hoạt động giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Với đặc thù của Học viện Hành chính quốc gia, công tác giảng dạy các môn

khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh và đường lối của Đảng Cộng sản

Việt Nam càng phải quan tâm và coi đây là nền tảng của sự nghiệp giáo dục chủ

nghĩa yêu nước nhằm trang bị cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan, phương

pháp luận khoa học, cùng có lập trường từ tưởng, bản lĩnh chính trị cho sinh viên,

qua đó, nâng cao tinh thần cách mạng bảo vệ Đảng, bảo và chế độ xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ thành qua cách mạng của nhân dân, đấu tranh chống” diễn biến hòa

bình” và âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Để tổ chức tốt hoạt động giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh hiện nay phải gắn với việc đổi mới nội dung, phương pháp

giảng dạy. Nội dung giảng dạy phải làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng của Đảng ta trong quá

trình lãnh đạo cách mạng. Đối với Đại học Nội vụ Hà Nội, các nội dung giảng dạy

chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng phải sâu sắc hơn, khoa học

hơn. Tại Đại học hiện nay có những môn học chuyên ngành nghiên cứu như Triết

học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí

Minh, Chính trị học,... Vì thế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy của giảng

51

viên và học tập nghiên cứu của sinh viên. Các khoa cần lồng ghép những nội dung

của công tác giáo dục CNYN vào trong giảng dạy qua từng bài giảng.

Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phải linh hoạt, kích thích người

học hãng hái tham gia vào bài giảng, định hướng cho sinh viên biết vận dụng

những tri thức đã học để giải quyết những vấn đề trong thực tế cuộc sống. Đồng

thời, việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy hiện nay phải khắc phục được

những hạn chế như: sự trùng lặp giữa nội dung các môn học, khắc phục phương

pháp giảng dạy thụ động “thầy đọc trò ghi”, khô cứng, giáo điều, xa rời thực tế.

-Nâng cao chất lượng giáo dục các môn lịch sử, văn hóa giúp sinh viên

hiểu rõ cội nguồn lịch sử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đặt

nhiệm vụ giáo dục CNYN trong mối quan hệ tổng thể với việc giáo dục những

giá trị truyền thống khác của dân tộc như: đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo,

nhân nghĩa thủy chung, coi trọng đạo lý, tôn sư trọng đạo... Qua đó khơi dậy lòng

tự hào, ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm của sinh viên đối với việc giữ gìn và

phát huy những giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa góp phần vào việc xây dựng

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Để nâng cao chất lượng giáo dục các môn lịch sử, văn hóa hiện nay, cẩn tổ

chức tốt các hoạt động dạy và học trên lớp, ngoài phương pháp thuyết trình truyền

thống, giáo viên cần sử dụng những hình ảnh, đoạn phim tư liệu minh họa cho nội

dung bài giảng, tăng cường áp dụng những phương pháp dạy học tích cực. Đồng

thời phải phát huy được tối đa những lợi thế của từng phương pháp, tạo không khí

sôi nổi trong lớp học, kích thích người học tham gia vào bài giảng, dẫn dắt người

học vào từng vấn đề, gợi mở và hướng dẫn người học giải quyết những vấn đề đã

đặt ra.

Nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử, văn hóa cho sinh viên hiện nay cần

phải gắn với việc tổ chức tốt các hoạt động ngoại khóa, các diễn đàn, hội thảo

khoa học, các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử. Tổ chức cho sinh viên tham quan giới

thiệu những di tích lịch sử, văn hóa của đất nước và thành phố nhằm khơi dậy

niềm tự hào về một dân tộc anh hùng, bất khuất.

-Tổ chức tốt việc giảng dạy môn giáo dục quốc phòng giáo dục thể chất

52

giúp sinh viên nắm được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. nhận diện

rõ những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch ở nước ta hiện nay.

- Từ góc độ an ninh - quốc phòng, yêu nước trong thời đại ngày nay là luôn

có ý thức cao trong việc xây dựng đất nước giàu mạnh và trong việc tôn trọng,

bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần và vật chất cũng như bảo vệ đất đai,

lãnh thổ mà cha ông, tổ tiên để lại. Trong điều kiện mới hiện nay, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang xâm nhập lẫn nhau, nương tựa

vào nhau đến mức xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của

xây dựng. Vì vậy, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trở thành hai nhiệm vụ chiến lược

tuy hai mà một, gắn bó chặt chẽ với nhau, vô cùng quan trọng của toàn Đảng, toàn

dân ta. Thông qua đó giúp sinh viên tự nhận thức được vai trò và trách nhiệm của

mình đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, rèn luyện sức khỏe, tích cực tham gia vào

các lớp giáo dục quốc phòng do Học viện tổ chức.

- Tăng cường giáo dục pháp luật, xây dựng văn hóa pháp luật, nâng cao ý

thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm công dân của sinh viên. Đây cũng là con

đường để mỗi sinh viên tự trang bị cho mình một “sức đề kháng” trước những tệ

nạn, những nguy cơ, trào lưu xấu có thể ảnh hưởng đến đời sống sinh viên. Sự

hiểu biết về pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật sẽ là cơ sở để sinh viên tích cực

tham gia đấu tranh phê phán, loại bỏ những tệ nạn xã hội, những quan điểm sai

trái, cơ hội phản động. Đặc biệt, yêu nước trong thời đại hiện nay còn phải dám

đấu tranh chống lại nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền; bảo vệ công lý, lẽ phải,

bảo vệ sự trong sạch của Đảng. Qua đó góp phần cùng các cơ quan chức năng bảo

vệ an ninh Tổ quốc cuộc sống bình yên của nhân dân.

-Nâng cao chất lượng đồng đều các môn học, nhất là các môn chuyên

ngành, cần liên tục cập nhật kiến thức mới, đặc biệt là kiến thức về thực tiễn gắn

liền với công cuộc đổi mới ở nước ta, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.

Đưa nội dung giáo dục CNYN vào nội dung các môn học thông qua việc giáo dục

ý thức nghề nghiệp, tình yêu lao động, các phong trào thi đua. Đối với sinh viên

Đại học Nội vụ Hà Nội cần tăng cường giáo dục tinh thần, trách nhiệm của người

làm công tác tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp của người làm công tác giảng dạy

53

các môn lý luận và đạo đức của người làm báo. Góp phần đào tạo sinh viên có

trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực ứng dụng thực tế, nhạy bén trong

tiếp cận với những kiến thức mới. Việc giáo dục CNYN, giáo dục truyền thống,

đạo đức cách mạng sẽ góp phần hoàn thiện nhân cách cho sinh viên, hình thành

nên những con người có đủ “đức” và “tài”.

3.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ cho sinh viên

học tập, nghiên cứu khoa học

Công tác hỗ trợ học tập và nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quan trọng nhằm

nâng cao trình độ, sự đam mê tìm hiểu, nghiên cứu khoa học của sinh viên, đó

nâng cao tầm hiểu biết cho sinh viên về mọi mặt, làm hành trang qua quý báu giúp

cho họ đi tiếp chặng đường của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Các hình thức của hoạt động này như tổ chức dọc sách báo ở thư viện, ký túc xá,

tổ chức các diễn đàn, toạ đàm thuyết trình về văn học, lịch sử, thơ ca nhạc họa,

thông tin kinh tế - xã hội, kỹ thuật công nghệ mới, nghe thời sự, chính sách, các

lớp học năng khiếu, tổ chức các “câu lạc bộ khoa học”. Đây là những hoạt động

rất bổ ích, hỗ trợ cho hoạt động học tập của sinh viên.

Cần chú trọng các hình thức hỗ trợ như: tín dụng học tập, học bổng, giải

thưởng, quan tâm giúp đỡ những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên là

người dân tộc thiểu số. Tham mưu với các cấp, các ngành tạo điều kiện về môi

trường học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tiếp cận với thị trường lao

động, giúp sinh viên nhận thức được trình độ năng lực bản thân trước yêu cầu

ngày càng cao về nguồn nhân lực.

Học viện cần xây dựng kế hoạch cụ thể, khuyến khích sinh viên tham gia

nghiên cứu khoa học, tăng cường đầu tư kinh phí, mở rộng hệ thống thư viện, tạo

điều kiện để sinh viên đi thực tế phục vụ việc nghiên cứu, hỗ trợ sinh viên trong

việc tìm kiếm thông tin. Có chính sách khuyến khích giáo viên tham gia hướng

dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học.

3.2.4. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa thể thao

Đây là hoạt động thu hút đông đảo sinh viên Học viện tham gia. Hoạt động

văn hoá, thể thao là thế mạnh thu hút tập hợp sinh viên sử dụng hữu ích thời gian

54

nhàn rỗi, nhằm nâng cao đời sống tinh thần, rèn luyện thể chất, là một trong những

nội dung xây dựng con người mới. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo, kết hợp với Đoàn

Thanh niên, tổ chức tốt các chương trình, hội diễn văn nghệ mang nội dung giáo

dục CNYN như: tuyên truyền các ca khúc truyền thống cách mạng, ca ngợi Đảng,

ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, các chương trình văn nghệ chào mừng ngày sinh

viên, ngày 8/3, ngày 26/3, ngày 20/10, ngày 20/11... Những cuộc thi tìm hiểu lịch

sử dân tộc, hưởng ứng Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh, “sinh viên thanh lịch”, ..., các câu lạc bộ học tập, câu lạc bộ văn

hóa nghệ thuật, câu lạc bộ máu, chào mừng khóa mới... Thông qua đó, biểu dương

những tấm gương sinh viên ưu tú có thành tích cao trong học tập và rèn luyện.

3.2.5. Tổ chức có hiệu quả các chuyến tham quan thực tế, về nguồn, đền

ơn đáp nghĩa.

Học viện cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho sinh viên đi tham quan thực tế

hàng năm tới những di tích lịch sử, di tích cách mạng, bảo tàng, công trình văn

hóa của đất nước như: Di tích lịch sử Đền Hùng, Khu Di tích Cổ Loa, Văn miếu

Quốc Tử Giám, Pắc Bó, Tân Trào, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tảng Lịch sử Quân

sự Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam... Cần tạo môi trường thuận lợi để

giáo dục CNYN cho sinh viên như áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại

thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, xuất bản, phát thanh,

truyền hình), các trang mạng xã hội với nội dung tuyên truyền lịch sử dân tộc và

diễn hình tiên tiến trong lao động, học tập.

3.2.6. Tổ chức các hoạt động xã hội, phát triển mạnh mẽ phong trào hoạt

động cách mạng trong sinh viên

Hoạt động xã hội là nét tiêu biểu, nổi trội mang ý nghĩa chính trị và xã hội

sâu sắc đối với hoạt động của Đoàn Thanh Niên Học viện. Kế thừa và phát huy

những kết quả của các phong trào sinh viên trong những năm qua, đặc biệt là

phong trào thanh niên tình nguyện, tổ chức tốt “Phong trào thi đua học tập tốt, rèn

luyện tốt” trong sinh viên Học viện Hành chính quốc gia.

Cần tổ chức tốt và có hiệu quả các hoạt động phong trào như: sinh viên tình

nguyện, tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo, sinh viên giữ gìn an ninh trật tự, an

55

toàn giao thông, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo... Khuyến

khích sinh viên tham gia phong trào “Tình nguyện chung sức cùng cộng đồng”

nhằm mục đích phát huy trí tuệ, sáng tạo và tiềm năng của sinh viên trong việc

tham gia xây dựng thủ đô, bảo vệ đất nước Việt Nam XHCN, nâng cao ý thức

trách nhiệm công dân của TNSV. Thông qua đó, giáo dục cho sinh viên ý thức

tôn trọng pháp luật, ý thức vì cộng đồng, giáo dục truyền thống tương thân tương

ái, tinh thần đoàn kết, yêu lao động, ý thức vượt qua khó khăn, thấy rõ trách nhiệm

của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Khích lệ sinh viên tích cực tham gia vào quá trình đổi mới phương pháp

học theo hướng phát huy tích cực chủ động của sinh viên, phát động phong trào

sinh viên đi đầu trong học ngoại ngữ và tin học. Định kỳ tổ chức các hội nghị khoa

học, sáng tạo của sinh viên. Động viên khuyến khích sinh viên nghiên cứu khoa

học, hỗ trợ sinh viên tiếp cận với những khoa học công nghệ mới... nhằm tạo động

lực giúp sinh viên biết tự vươn lên phát huy năng lực tư duy độc lập, sáng tạo

trong học tập, nghiên cứu khoa học.

Tiếp tục phát động kỳ thi “Nghiêm túc, chất lượng, công bằng” phong trào

sinh viên tình nguyện vì kỷ cuơng học đường, chống gian lận trong học tập thi và

kiểm tra... Bên cạnh đó tổ chức cổ vũ phong trào thi đua rèn luyện tốt nhằm tăng

cường giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hoá thông qua các diễn đàn

trao đổi về nếp sống, lối sống; các cuộc vận động phong trào xây dựng và bảo vệ

nếp sống văn minh thanh lịch góp phần hình thành sinh viên Học viện Hành chính

quốc gia có văn hoá cao, giàu lòng nhân ái, trung thực, yêu lao động...

3.2.7. Nâng cao vai trò khả năng tự giáo dục chủ nghĩa yêu nước của

sinh viên

Trong quá trình tự giáo dục, sinh viên hoạt động với tư cách là chủ thể giáo

dục. Tiền đề quan trọng của quá trình tự giáo dục là sự hình thành tự ý thức. Yếu

tố chủ đạo của nội dung là những phẩm chất ý chí và đạo đức. Tức là kích thích

sinh viên chủ động nâng cao trình độ nhận thức và rèn luyện nhằm hình thành văn

hóa đạo đức. Các biện pháp phổ biến nhất để tự giáo dục là tự cam kết, tự phân

tích, tự kiểm tra và tự đánh giá. Phép biện chứng của sự điều khiển quá trình tự

56

giáo dục là biến những yêu cầu sư phạm từ bên ngoài thành những yêu cầu của

bản thân người được giáo dục: biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.

Quá trình này rất quan trọng với sinh viên, bởi giáo dục CNYN, giáo dục

đạo đức là giáo dục những yếu tố phi vật chất, tinh thần tự nguyện, tự ý thức của

sinh viên đóng vai trò chủ đạo. Mỗi cá nhân thông qua sự tự phản xét của lương

tâm về hành vi của mình để củng cố các chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới

hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dư

luận xã hội, họ tự điều chỉnh hành vi và điều chỉnh ngay cả những chuẩn xã hội.

mực đạo đức cá nhân khi nhận thấy nó sai lệch với chuẩn mực xã hội.

Tự giáo dục là một yếu tố tồn tại của quá trình giáo dục. Nâng cao khả năng

tự giáo dục CNYN cho sinh viên chính là tạo ra những điều kiện tâm lý tốt nhất

để nhân cách sinh viên đề kháng được những mặt trái của xã hội và những âm

mưu của “Diễn biến hoà bình”, nhằm chống phá con đường đi lên CNXH ở nước

ta. Nội dung giáo dục của những chủ thể giáo dục cũng như những tác động tự

phát của môi trường không thể tách rời quá trình tự giáo dục của sinh viên. Sự

giáo dục của các chủ thể chỉ có ý nghĩa khi sinh viên tự nhận thức lĩnh hội được

chân giá trị của nội dung giáo dục, biến nó thành những nguyên tắc chi phổi trong

suy nghĩ và hoạt động của chính mình.

Việc biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục là khâu cực kỳ

quan trọng và có tính quyết định của quá trình giáo dục mà thiếu nó thì gia đình,

nhà trường và xã hội (chủ thể giáo dục ) dù có hoàn hảo cũng không đem lại kết

quả như mong muốn. Theo Hồ Chí Minh thì phải kết hợp hai mặt giáo dục và tự

giáo dục cho thế hệ trẻ, “Phải lấy gương người tốt việc tốt hằng ngày để giáo dục

lẫn nhau”.

Tự giáo dục là “tự thân vận động” là sự hướng nội, là sự chiến thắng bản

thân mình, nên đòi hỏi sinh viên phải có ý chí, nghị lực và quyết tâm cao, ra sức

phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và tự giác trong việc rèn đức, luyện tài.

Thiếu tính tự giác thì không thể phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và

không có gì để nói về tự giáo dục cả.

Để nâng cao vai trò hiệu quả của quá trình tự giáo dục, rèn luyện của sinh

57

viên, đòi hỏi họ phải tham gia tự giác, tích cực vào các hoạt động của Đoàn Thanh

niên, Hội sinh viên, các câu lạc bộ, nhà văn hoá. Phong trào “ rèn luyện vì ngày

mai lập nghiệp”, “vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “người

sinh viên – nhà trí thức – chuyên gia tương lai” đang thu hút đông đảo thanh niên

tham gia. Đây là môi trường tốt để sinh viên thể hiện mình, đồng thời là dịp để xã

hội nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trò của sinh viên - lớp người năng động

chịu khó, ham học hỏi, luôn có xu hướng vươn lên phía trước, hướng về tương lai

với hoài bão, ước mơ tốt đẹp.

Bên cạnh đó, sinh viên cần chủ động đưa ra ý kiến, khuyến nghị với thầy

cô, khoa, Đại học để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học

Nội vụ Hà nội hiện nay thông qua các hòm thư góp ý, qua những buổi nói chuyện

trực tiếp, những buổi giao ban cuối tháng để sinh viên có dịp đưa ra những ý kiến

đóng góp nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy và hình thức giáo dục chủ

nghĩa yêu nước để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức.

Tóm lại, những giải pháp cơ bản trên mang tính chất định hướng nhằm giáo

dục cho sinh viên lòng yêu nước, yêu CNXH, quyết tâm xây dựng đất nước giàu

đẹp công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XNCN.

58

KẾT LUẬN

Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng phổ biến của nhân dân các quốc gia, dân

tộc trên thế giới, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước,

CNYN lại có quá trình hình thành và phát triển mang tính đặc thù. Chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam là sản phẩm của lịch sử dân tộc Việt Nam, của cuộc đấu tranh xây

dựng và bảo vệ đất nước trong những điều kiện nhiên và hoàn cảnh lịch sử. Nó

được xem như sợi chỉ đỏ, là sản phẩm tinh thần cao quý của dân tộc, thấm sâu vào

tư tưởng, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam và là như chuẩn mực cao nhất

của đạo lý, đứng đầu bậc thang giá trị truyền thống. Trong chiến tranh cũng như

hoà bình, CNYN luôn phát huy tác dụng lớn lao của nó, là động lực tinh thần nội

sinh tạo nên quyết tâm, ý chí, nghị lực và trí tuệ của con người Việt Nam để nhanh

chóng vượt qua biết bao thử thách khắc nghiệt, chiến thắng thiên tai, dịch hoạ,

vượt qua nghèo nàn và lạc hậu, vươn lên tiến kịp trào lưu văn minh thời đại. Công

cuộc đổi mới đất nước đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh

tế tri thức nhằm thực hiện thắng lợi, sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Bên cạnh

những thuận lợi vẫn còn không ít khó khăn trước những thách thức của toàn cầu

hoá, mở cửa và giao lưu, hội nhập. CNYN chính là nhân tố cơ bản của bản lĩnh

dân tộc, đảm bảo sự phát triển bền vững và sự ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm

giữ gìn bản sắc dân tộc trong giao lưu hội nhập quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước là

mẫu số chung của con người Việt Nam trong đó có bộ phận quan trọng là sinh

viên. Sinh viên có vai trò to lớn đối với sự phát triển đất nước. Bản thân sinh viên

có những phẩm chất quý báu chứa đựng những tiềm năng phát triển về thể chất,

tinh thần, trí tuệ, tài năng, phẩm chất đạo đức, thẩm mỹ... Họ thực sự là lực lượng

nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tương lai.

Nhiệm vụ vô cùng nặng nề và vinh quang mà dân tộc ta trao cho sinh viên, là ra

sức học tập, tiếp thu trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến để xây dựng đất nước,

đồng thời có trách nhiệm trong việc gìn giữ, kế thừa, phát huy các giá trị CNYN,

tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại, làm giàu đẹp thêm

truyền thống quý báu của dân tộc. Trong những năm qua, công tác giáo dục CNYN

59

cho thanh niên sinh viên nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

(nay là Học viện Hành chính quốc gia) nói riêng đã được quan tâm, chỉ đạo kịp

thời, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, ban ngành chức năng mà

trực tiếp là của Bộ Nội vụ. Điều đó có tác động tích cực đến sinh viên trong việc

tiếp thu, gìn giữ, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc. Tuy vậy, công tác

giáo dục CNYN cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội (nay là Học viện Hành

chính quốc gia) còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập do những điều kiện chủ quan

và khách quan. Bản thân một bộ phận sinh viên còn thiếu ý thức rèn luyện, phấn

đấu trong lao động, học tập, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực và hành vi trái với

đạo lý và truyền thống của dân tộc. Thực trạng ấy, Đảng ta yêu cầu: Đối với thế

hệ trẻ phải chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị,

tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp; giải quyết việc làm,

phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp bảo

vệ Tổ quốc. Giáo dục CNYN cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ

cần thiết và cấp bách, nhằm giác ngộ sâu sắc CNYN cho sinh viên từ nhận thức,

tình cảm thái độ đến ý chí hành động yêu nước, tạo động lực cho sự nghiệp phát

triển đất nước và bảo vệ tổ quốc. Để đạt được điều đó phải có một hệ thống những

phương hướng và giải pháp cụ thể, đồng bộ. Giáo dục CNYN cho sinh viên Đại

học Nội Vụ trên cơ sở những giá trị của CNYN truyền thống, bồi đắp những giá

trị mới phù hợp với yêu cầu của lịch sử, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi

thanh niên sinh viên, nhằm tạo ra lớp sinh viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,

trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên lập thân,lập

nghiệp, có khát vọng chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, thi đua tình nguyện tham gia

phát triển kinh tế xã hội..., góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

tổ quốc Việt Nam XHCN.

60

DANH MỤC THAM KHẢO

1. Ban Tư Tưởng – Văn hoá Trung ương (1989): Cơ sở lý luận và thực tiễn

để xây dựng chương trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam

cho cán bộ, đảng viên, Đề tài HK-BĐ 07, Hà Nội.

2. Ban Tư Tưởng – Văn hoá Trung ương (2000): Tài liệu giáo dục chủ nghĩa

yêu nước Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Ban Tư Tưởng – Văn hoá Trung ương (2004):Báo cáo đề án khảo sát

thực trạng tư tưởng và công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho học sinh, sinh viên

các trường đại học và cao đẳng, Đề án KH-BĐ (2002), Hà Nội

4. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2011): Báo cáo tổng kết công tác sinh viên giai

đoạn 2009-2010, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục- Đào tạo [2003]: Báo cáo tổng kết công tác sinh viên giai

đoạn 1998-2000, Hà Nội

6. C.Mác — Ph. Ăngghen (1994): Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

7. C. Mác — Ph. Ăngghen (1995): Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

8. Chương trình KHCN cấp Nhà nước KHXH 04 (2000): Xây dựng lối sống

đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đề tài

KHXH 04.03, Hà Nội.

9. Chương trình KHCN cấp Nhà nước KX-07 (1994): Tìm hiểu hoạt động

giáo dục truyền thống yêu nước bảo vệ tổ quốc trong lịch sử dân tộc thể kỷ X đến

trước 1930, Đề tài KX-07-09, Nxb QGND, Hà Nội

10. Đại học Quốc gia Hà Nội [2003]: Đạo đức sinh viên trong quá trình

chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Thực

trạng, vấn đề và giảp pháp, Đề tài nghiên cứu hoa học đặc biệt, mã số QG 01.18,

Hà Nội.

11. Đảng cộng sản Việt Nam (1993): Văn kiện đại hội lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

61

12. Đảng cộng sản Việt Nam (1993): Văn kiện đại hội lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

13. Đảng cộng sản Việt Nam (1996): Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng cộng sản Việt Nam (1997): Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban

chấp hành Trung Ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng cộng sản Việt Nam (1998): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng cộng sản Việt Nam (2003): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đặng Thanh Phương (2004): Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh

niên sinh viên ở Thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học,

chuyên ngành CNXHKH, Học viên Chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

20. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1999): Tổng quan tình hình

thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

21. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2002): Báo cáo tổng kết chiến

dịch mùa hè thanh niên tình nguyện 2002.

22. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2002): Báo cáo tổng kết công

tác Đoàn và phong trào thanh niên khối trường học Hà Nội năm học 2001-2002.

23. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2003): Báo cáo tổng kết công

tác Đoàn và phong trào thanh niên khối đại học- cao đẳng Hà Nội năm học 2002-

2003 và 12 thi đua tuổi trẻ học đường Thủ đô.

24. Dương Trung Quốc (2004): Tổ tiên rực rỡ - anh em thuận hoà, Tạp chí

Cộng sản, (8), tr.14-18.

25. Dương Tự Đam (1996): Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên

62

trong sự nghiệp xây dựng đổi mới ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Viện

Nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.

26. Hemery D. (2001): Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Nxb

Lao động, Hà Nội.

27. Hồ Chí Minh (1980): Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà nội.

28. Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Hồ Chí Minh (1998): Về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội và

con đường đi đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Hồ Chí Minh (2004): Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Hồ Chí Minh (2004): Về giáo dục thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

35. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn

khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002): Giáo trình chủ nghĩa xã hội

khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Hội sinh viên Việt Nam (2003): Báo cáo tổng kết công tác và hội phong

trào sinh viên Hà Nội năm học 2002-2003.

37. Hội sinh viên Việt nam (2003): Báo cáo tổng kết công tác xã hội và

phong trào sinh viên học sinh năm 2000-2001.

38. Hội sinh viên Việt Nam (2004): Báo cáo tổng kết công tác hội và phong

trào sinh viên Hà Nội năm học 2003-2004.

39. Lương Gia Ban (1988): Sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ

nghĩa quốc tế vô sản trong cách mạng Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học,

Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.

40. Lương Gia Ban (1989): Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nxb CTQG, Hà Nội.

41. Lưu Minh Trị - Hoàng Tùng (1999): Thăng Long – Hà Nội, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

63

42. Mai Trang: Thanh niên Thủ đô tình nguyện trên đất Huế, Báo Hà Nội

mới, (11065), tr 2.

43. Nguyễn Khắc Đạm (1998): Thành luỹ phố phường và con người Hà

Nội trong lịch sử, Nxb Văn hoá- Thông tin Hà Nội.

44. Nguyễn Mạnh Hưởng (2000): Giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong điều

kiện hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận (6) tr.28-31.

45. Nguyễn Phú Trọng (2000): Sức sống 990 năm Thăng Long – Hà Nội,

Tạp chí cộng sản, (19), tr 8-16.

46. Nguyễn Phú Trọng (2004): Thủ đô Hà Nội sau 50 năm nhìn lại, Tạp chí

Cộng sản, (19), tr 3–8.

47. Nguyễn Thị Mỹ Trang (2004): Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh

niên sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong

thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48. Nguyễn Thị Ngân (2000): Xây dựng ý thức và tình cảm của dân tộc

chân chính cho người Việt Nam trước những thách thức hiện nay, Luận án tiến sỹ

Triết học, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

49. Nguyễn Việt Cường (1999):“HIV/AIDS trong sinh viên, đôi điều trắc

trở”, Tạp chí AIDS và cộng đồng, tr19.

50. Phạm Minh Hạc (1996): Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Quốc Việt (1995): Truyền thống, niềm tự hào, sức mạnh của thế hệ trẻ,

Báo Quân đội Nhân dân, (10, tr2.)

52. Trần Dân Tiên (1994), những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ

tịch, Nxb CTQG, Hà Nội.

53. Trần Thị Hồng Thuý (2000): Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa

yêu nước Việt Nam truyền thống, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Trần Văn Giàu (1980): Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Trần Xuân Trường (2001): Chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh,

64

Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

56. Trung tâm từ điển học (1994): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

57. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003): Tổng quan tình hình sinh

viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VI (1998 – 2003), Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

58. Trường Đại học Mỏ - Địa chất (2000): Tìm hiểu thực trạng, phương

hướng và những giải pháp giáo dục nhân cách sinh viên ở các trường đại học và

cao đẳng trong điều kiện hiện nay, Báo cáo đề tài cấp bộ, mã số: B98-36-42-TĐ,

Hà Nội.14

59. Trường Đại học Mỏ - Địa chất (2003): Giáo dục truyền thống dân tộc

cho sinh viên các trường đại học hiện nay — Thực trạng và giải pháp, Báo cáo

cấp bộ, mã số: B2001-36-28, Hà Nội.

60. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971): Lịch sử Việt Nam, Tập 1,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. V. I. Lênin (1978): Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

62. V. I. Lênin (1979): Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

63. Võ Nguyên Giáp (1998): Văn hoá Việt Nam - truyền thống và cốt cách

dân tộc, Tạp chí cộng sản, (15), tr.9-12.

64. Vũ Viết Mỹ (1996): Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đi đến chủ

nghĩa xã hội khoa học, Tạp chí lịch sử Đảng, (3) tr16-18.

65