TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Mã số: ĐTCT.2017.84

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Minh Tâm

HÀ NỘI - 2019

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Mã số: ĐTCT.2017.84

Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Minh Tâm

Thành viên đề tài : Bùi Xuân Diện

Nguyễn Phương Anh

HÀ NỘI - 2019

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................ 8

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN ................................................................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên ............. 9 1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................... 14 1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên ............................................ 22 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................... 30 2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ..................................................................................................................... 30 2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................................................................................... 50 2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường ..... 63 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ............................................................................................................ 67

3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ......................................................................... 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. ............................................................................................ 69 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 82

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 85

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật của trường Đại học Nội vụ

Hà Nội tính đến tháng 3/2019 ............................................................................... 37

Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ chính quy

Năm học 2017-2018 .............................................................................................. 39

Bảng 3. Chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao đẳng, đại

học ......................................................................................................................... 42

Bảng 4. Chương trình môn học Luật Hành chính dành cho bậc cao đẳng, đại học ... 42

Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật ........................... 46

Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật .......................... 47

Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử ................... 50

liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện ................................ 50

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................................................................ 50

Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên ............................................................ 52

Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên ......................................... 53

Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung ................. 54

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật ......................... 51

Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên của nhà

trường .................................................................................................................... 64

Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn ............................... 65

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giáo dục pháp luật (GDPL) là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của

ngành giáo dục. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa hiện nay, GDPL càng trở nên quan trọng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh

mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi tôn trọng pháp luật, góp

phần ổn định và nâng cao môi trường giáo dục toàn diện. Trong những năm vừa

qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản

pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác GDPL của ngành giáo dục. Điều 5, Luật

Giáo dục năm 2012 khẳng định mục tiêu của giáo dục đại học là: “ Đào tạo nhân

lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra

tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc

phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Đào tạo người học có phẩm chất chính trị,

có đạo đức; có kiến thức kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và

ứng dụng phát triển khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có

sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp; thích nghi với môi

trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”. Như vậy, ngành Giáo dục nói

chung và các Trường Đại học nói riêng có trọng trách lớn lao đối với sự phát

triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật,

văn hóa pháp lý trong nhân dân. Hoạt động GDPL luôn gắn bó với hoạt động

giáo dục nói chung. GDPL không chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành giáo

dục mà còn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục.

Trong những năm qua, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác

GDPL, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của

Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác GDPL. Nghị quyết số

08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến, GDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là

thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để

1

tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Nhiều văn bản

pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ

biến GDPL như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng

Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay,

Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác

phổ biến, GDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp

công tác phổ biến, GDPL… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của

Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã

khẳng định: “Phổ biến, GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư

tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng”; Luật Phổ biến, GDPL ngày 20/6/2012 và các văn bản hướng dẫn tổ chức,

thực hiện…

Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước về GDPL, thời

gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ đạo, tổ chức, triển

khai thực hiện GDPL cho sinh viên có trọng tâm, trọng điểm gắn với các ngành

nghề đào tạo đặc thù của từng trường. Về cơ bản, sinh viên các trường đại học đã

được học thì đều hiểu biết về pháp luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tôn trọng

pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của các nhà trường, thực hiện tốt các quy

tắc và lối sống công cộng. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện

xuống cấp về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm

trọng làm cho cả xã hội phải quan tâm, lo lắng.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội vụ, được thành lập theo

Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ sở

giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội

vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học

và sau đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên

quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa

học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như các cơ sở đào tạo khác

2

trong hệ thống giáo dục, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức thực hiện

công tác phổ biến, GDPL thông qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính

khóa, giáo dục ngoại khóa và đạt được một số kết quả nhất định. Đã có những

thay đổi theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều sang phát

huy tính chủ động, tích cực của sinh viên; giảng viên đưa ra nhiều tình huống cụ

thể và phương pháp giảng dạy mới nhằm tăng tính tích cực, sáng tạo của sinh

viên, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả GDPL. Tuy nhiên, bên cạnh những kết

quả đạt được thì công tác GDPL vẫn còn một số hạn chế như việc trang bị kiến

thức pháp luật tuy đã bước đầu hình thành kỹ năng, ý thức pháp luật và thói quen

chấp hành pháp luật cho sinh viên nhưng hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, công

tác GDPL trong những năm qua đã được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường

cùng các đoàn thể và đặc biệt là đội ngũ giảng viên chuyên ngành triển khai thực

hiện sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho sinh viên, góp phần ngăn

chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng

cường sự đoàn kết nội bộ, góp phần giữ vững trật tự trị an trong nhà trường.

Để việc thực hiện công tác GDPL cho sinh viên thực sự mang lại hiệu quả,

có tác động tích cực nhằm nâng cao ý thức tuân thủ và xây dựng thói quen chấp

hành pháp luật cho sinh viên, thì việc tìm hiểu thực trạng công tác GDPL là thực

sự cấp thiết, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và nghiêm túc. Từ những lý do

trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội” nhằm đưa ra một số định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu

quả GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, thu hút

sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn.

Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố:

- Tác giả Dương Thị Thanh Mai với luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996):

“Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam - hình thức đặc thù của

giáo dục pháp luật” [13] đã phân tích vai trò của giáo dục pháp luật trong quá

3

trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Luận án nêu rõ những đặc

trưng của công tác giáo dục pháp luật và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu

quả giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp.

- Tác giả Đinh Xuân Thảo với Luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996): “Giáo

dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở

nước ta hiện nay” [21] đã nêu thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường đại

học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, từ đó rút ra kinh nghiệm, phương

hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên.

- Một số luận văn liên quan như: Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch sử nhà

nước và pháp luật (2011) của tác giả Trần Phúc Lộc: “Giáo dục pháp luật cho

thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp” [42] đã

phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích

rõ đặc điểm, vai trò và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên;

Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác

giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Đề xuất giải pháp

nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà

Nội; Luận văn thạc sĩ Triết học (2013) của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền: “Vấn

đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực

tế ở Hà Tĩnh)” [30] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục ý thức

pháp luật; phân tích rõ đặc điểm, cấu trúc, tầm quan trọng và nội dung của việc

giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay; nêu thực trạng và đưa

ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà

Tĩnh hiện nay; Tác giả Lê Thị Thùy với luận văn thạc sĩ Luật học (2015): “Giáo

dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”

[25] đánh giá khách quan về thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên trường

cao đẳng nghề Thanh Hóa, thông qua đó có phương pháp đổi mới chương trình

dạy và học bộ môn giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng công tác giáo dục

pháp luật trong nhà trường; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Trung

Nghĩa (2000): “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân

4

Việt Nam hiện nay” [29] đã nêu việc phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác

thường xuyên, quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội,

pháp luật của nhà nước của cán bộ, chiến sĩ. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây

dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới.

- Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các

trường đại học - Một yêu cầu cấp bách hiện nay” [46], Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật đã khái quát thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học

và nêu ra các giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học như:

nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy giáo dục pháp luật cho sinh viên; hoàn thiện

pháp luật về giáo dục pháp luật cho sinh viên; chuẩn hóa nội dung chương trình,

giáo trình giảng dạy chính khóa; đổi mới phương pháp dạy và học pháp luật trong

chương trình chính khóa; xây dựng chương trình giáo dục pháp luật ngoại khóa

và đổi mới cách thức hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa; nâng cao chất

lượng giảng viên giảng dạy pháp luật trong các trường đại học; tăng cường công

tác xã hội hóa trong các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường

đại học.

- Bài viết trên Trang Web của Trường Đại học Vinh: “Giáo dục pháp luật

kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh” của ThS. Đinh

Văn Liêm và SV Trương Hồ Khánh Ly (2016) [22] đã tập trung tìm hiểu thực

trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại

học Vinh, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo

dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung, sinh viên Trường Đại

học Vinh nói riêng.

- Tác giả Phùng Thị Loan với bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh

viên hiện nay” [31] đưa ra một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong

các trường đại học hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội không

những đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có ý thức:

5

sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

của xã hội.

Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về GDPL cho

sinh viên như: “GDPL trong các trường không chuyên luật” đề tài cấp Bộ của

Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2000); “Giáo dục pháp luật cho sinh

viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam” của tác giả Phan Hồng

Dương (2014) [28]; “Vai trò của giáo dục đạo đức, GDPL cho sinh viên hiện

nay” của tác giả Nguyễn Thị Hoàn [27]; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng

dạy và học môn Pháp luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay”

của tác giả Lê Văn Thơi [26]

Nhận xét chung: Đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề

về phổ biến, giáo dục pháp luật. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu

khác nhau, đưa ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt

động GDPL trên nhiều góc độ, do vậy việc chọn đề tài nghiên cứu này mang cả ý

nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDPL đối với sinh

viên nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng. Để thực hiện

đề tài, tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc nghiên cứu của một số công trình khoa

học liên quan đến đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về GDPL cho sinh viên đồng thời kết hợp

với phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng GDPL cho sinh viên của trường

Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian từ năm 2014 - 2018, từ đó đề xuất các giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà

Nội trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL cho sinh viên;

- Phân tích thực trạng, đánh giá chất lượng việc GDPL cho sinh viên của

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân;

6

- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL

cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động GDPL cho sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Giáo dục pháp luật cho sinh viên.

- Về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL

cho sinh viên không chuyên ngành luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng việc GDPL cho sinh viên của

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ năm 2014 - 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập, phân tích

và khai thác thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài

liệu của Đảng, Nhà nước; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống

kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến GDPL nói

chung và cho sinh viên nói riêng.

- Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với 326 sinh viên để

thu thập các thông tin liên quan đến thực trạng: hiểu biết pháp luật của sinh

viên, công tác giáo dục pháp luật của nhà trường; nhu cầu của sinh viên đối với

công tác giáo dục pháp luật của nhà trường.

- Phương pháp chuyên gia: Quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã

xin ý kiến các chuyên gia là những người có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn

7

trong hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên... để làm rõ cơ sở lý luận, xây

dựng khung lý thuyết... của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Về lý luận: đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác GDPL

cho sinh viên.

- Về thực tiễn: Đề tài đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần nâng cao

chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đáp ứng nhu

cầu của xã hội về đào tạo sinh viên có phẩm chất, đạo đức và ý thức tôn trọng

pháp luật, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có đủ phẩm

chất và năng lực trong tương lai.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Đề

tài gồm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh

viên.

- Chương 2: Thực trạng và chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật

cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO SINH VIÊN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên

1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”

1.1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật”

Giáo dục pháp luật là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà

nước với sự tham gia của các thiết chế xã hội. Đến nay đã có khá nhiều quan

điểm, cách tiếp cận khác nhau về GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên nói

riêng. Nhìn chung, GDPL thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa

hẹp.

Theo nghĩa rộng, GDPL là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hóa

pháp lý của các thành viên xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của những điều

kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (chế độ

chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường sống…) là nhân tố ảnh

hưởng, nó có thể tác động tự phát theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân tố

chủ quan bao giờ cũng là sự tác động tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định

theo chiều hướng xác định nhằm đạt được mục đích của chủ thể tác động [42].

Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức,

có mục đích của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân (chủ thể giáo

dục) tác động lên đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, xây dựng

thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và tạo lập thói quen tuân thủ pháp luật [42].

Theo Đặc san Tuyên truyền Pháp luật số 08/2012 của Hội đồng phối hợp

công tác Phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ thì Phổ biến, giáo dục pháp

luật hiểu theo nghĩa rộng là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công

đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, GDPL (xây dựng chương trình, kế

hoạch phổ biến, GDPL; triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL thông

qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, GDPL; hướng dẫn, kiểm tra,

9

đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL).

Hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối

tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù

hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành [24].

Tổng hợp các phân tích trên đây, quan niệm về GDPL được hiểu một cách

đầy đủ như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có

chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp tổ chức

khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm hình

thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tôn trọng pháp luật, tình cảm và hành vi

phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa pháp luật

[24].

1.1.1.2. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”

Tiếp cận đầu tiên với khái niệm có thể thấy đây là GDPL cho một đối tượng

cụ thể, đó là sinh viên.

Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “Student” có nghĩa là

người làm việc, học tập, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. “Sinh viên” là để

chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang học ở bậc

phổ thông.

Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh viên” được dùng để chỉ người học

ở bậc đại học. Đây là môi trường với đầy đủ tiêu chuẩn chất lượng cao trong hệ

thống giáo dục quốc dân về tài chính, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên các môn

học, ngành nghề, nhân viên hành chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ

giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Ở đó sinh viên được truyền đạt kiến

thức hoàn chỉnh về một ngành nghề cụ thể, chuẩn bị đầy đủ lý thuyết và một phần

thực tiễn cho công việc sau này khi tham gia vào cuộc sống xã hội.

Từ đó có thể nêu khái niệm GDPL cho sinh viên như sau: “GDPL cho sinh

viên là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích của các chủ thể GDPL

trong các trường đại học thông qua các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại

khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ

10

bản, định hướng, phát triển nhân cách, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh

hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp

luật, có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo,

có ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ pháp luật”

Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn của đề tài, sinh viên được hiểu là người học

có trình độ đào tạo đại học, cao đẳng không chuyên luật theo hình thức chính quy

tập trung của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

1.1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho sinh viên

Giáo dục pháp luật cho sinh viên mang các đặc điểm khác biệt so với GDPL

cho các đối tượng khác.

Thứ nhất, GDPL cho sinh viên có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây

dựng, thực hiện pháp luật. Quá trình đưa pháp luật đến với đời sống không thể

thiếu hoạt động GDPL, đây là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống.

Không phải lúc nào pháp luật cũng được mọi người biết đến, ủng hộ hay chấp

hành nghiêm chỉnh. Bản chất của pháp luật là phản ánh ý chí, nguyện vọng của

đông đảo quần chúng nhân dân nhưng nếu không được nhân dân biết đến thì cũng

không có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, GDPL là phương thức truyền tải những

thông tin, những nội dung và quy định của pháp luật với sinh viên, giúp họ hiểu

biết, nắm bắt kịp thời, có hiệu quả. Từ đó, sinh viên có thể nhận thức đúng đắn để

tránh vi phạm pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật vì sinh viên là lứa

tuổi đang phát triển, chưa có nhận thức chín chắn, dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con

đường phạm pháp.

Thứ hai, đối tượng GDPL là sinh viên, là công dân thành niên, là người học

ở trình độ đào tạo cao của hệ thống giáo dục quốc dân, thuộc tầng lớp dân trí cao

nên chủ thể GDPL phải là những người có tri thức pháp luật ở mức độ cao hơn

đối tượng, có tri thức nhất định về nghề nghiệp mà đối tượng được đào tạo, có

nghiệp vụ sư phạm bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp để không chỉ là tuyên

truyền, phổ biến pháp luật mà mục đích cuối cùng là mục tiêu của giáo dục đại

học Việt Nam. Chủ thể GDPL đại diện cho trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã

hội thực hiện nhiệm vụ. Giáo dục pháp luật cho sinh viên là mối quan hệ GDPL

11

giữa các đối tượng công dân thành niên có học thức, có trình độ và có chuyên

môn nghề nghiệp nhất định, cho nên song hành với việc truyền thụ tri thức pháp

luật cơ bản thì việc giáo dục tri thức pháp luật liên quan đến ngành nghề đào tạo

là rất quan trọng và cần được đảm bảo.

Thứ ba, nội dung chương trình của GDPL cho sinh viên phải đảm bảo các

yêu cầu chung của công dân, yêu cầu riêng của trình độ ngành nghề mà sinh viên

theo học trong tính liên thông, hệ thống với các cấp học tiểu học, trung học trước

đó. Việc chuẩn bị nội dung, cân đối về chương trình còn phải đáp ứng yêu cầu

đào tạo nghề và đảm bảo đúng quy định.

Thứ tư, nội dung GDPL cho sinh viên được thể hiện qua hình thức và

phương pháp GDPL phù hợp với đối tượng trong và ngoài môi trường của họ, đó

là các nhà trường đại học. Ở đó giáo dục chính khóa đóng vai trò quan trọng và

giáo dục ngoại khóa là không thể thiếu. Hiện nay với môi trường sống năng động,

khoa học công nghệ phát triển thì chủ thể GDPL cho sinh viên cần rèn luyện họ

trở thành những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, có kiến thức pháp luật

và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Bên cạnh những phương pháp truyền

thống thì cần tăng cường áp dụng những phương pháp hiện đại, có sử dụng công

nghệ để nâng cao hiệu quả, dễ tiếp thu, tác động nhanh vào nhận thức của sinh

viên.

1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên

Vai trò của GDPL bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của giáo dục và pháp

luật. Bên cạnh đó, vai trò của GDPL còn xuất phát từ bản chất và đặc điểm của

đối tượng mà nó tác động. Giáo dục pháp luật cho sinh viên có vai trò như sau:

Thứ nhất, GDPL góp phần thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò quan

trọng, là phương tiện để thể chế hóa đường lối của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo đó

được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phương tiện để nhân dân

phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Thứ hai, GDPL góp phần cung cấp kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật cho sinh viên. GDPL góp phần nâng cao nhận thức và hiểu

12

biết về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của mọi thành

viên trong xã hội, trong đó có sinh viên. GDPL trong nhà trường có vai trò to lớn

đối với sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Bác Hồ đã dạy “có tài

mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì

cũng khó”. Xét trên mọi phương diện, giáo dục đạo đức, lối sống, GDPL đóng

góp một phần quan trọng tạo nên nhân cách của mỗi con người. Đảng và Nhà

nước ta rất quan trâm coi trọng công tác GDPL, nhất là từ khi có đường lối đổi

mới của Đảng từ Đại hội lần thứ XII đến nay, văn kiện lần thứ XII của Đảng đã

xác định rõ: đưa việc dạy pháp luật vào các trường học của Đảng, của Nhà nước

(kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân.

Sinh viên là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất

nước. Để có nắm vững kiến thức về pháp luật, có hành vi xử sự phù hợp với các

chuẩn mực pháp luật trong cuộc sống thì sinh viên phải được giáo dục, đào tạo

thông qua việc GDPL trong trường học. Trách nhiệm GDPL của trường đại học là

cung cấp cho sinh viên tri thức pháp luật, am hiểu quyền và nghĩa vụ của mình

theo quy định của pháp luật, được phép làm những việc mà pháp luật cho phép và

không làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm, từ đó áp dụng vào công tác thực

tiễn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bản thân, gia đình, xã hội và sẵn

sàng để hội nhập quốc tế. Vì vậy có thể nói, GDPL cho sinh viên chính là hình

thành ở sinh viên, tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật để có hành

vi xử sự hợp pháp, tích cực, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tạo nên nếp sống văn

hóa pháp lý.

Thứ ba, GDPL góp phần hình thành nhân cách trong sinh viên. Giáo dục

pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tiễn cuộc

sống của sinh viên. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà

các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định bằng việc

tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. GDPL trong trường đại học không chỉ

làm sâu sắc hơn tri thức pháp luật cho sinh viên mà còn hướng đối tượng vào việc

tuân thủ, thi hành đúng và trau dồi kỹ năng áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc

sống, nghề nghiệp tương lai. Nhìn thấy được giá trị mà pháp luật mang lại khi đi

13

vào cuộc sống, sinh viên có ý thức “Sống và làm việc theo pháp luật” bền vững.

Hơn thế nữa, khi ý thức đó được nâng lên thành tình cảm, thiện cảm với pháp

luật, sinh viên lúc này từ đối tượng GDPL có thể sẽ trở thành một chủ thể tuyên

truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng nơi họ sinh sống.

1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên

1.2.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên

Trước yêu cầu mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập

quốc tế, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8

khóa XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định

một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào

tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao

động, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công

nghệ. Do vậy, mục tiêu của GDPL là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý

thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, tự giác tìm hiểu pháp luật; xây dựng lối sống và

làm việc theo pháp luật cho sinh viên. Đưa công tác giáo dục pháp luật phát triển ổn

định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện

đầy đủ quyền được thông tin pháp luật của sinh viên.

Nội dung GDPL thường xuyên được cập nhật kịp thời các kiến thức và quy

định pháp luật của Nhà nước phù hợp với trình độ của sinh viên, đảm bảo sự thống

nhất, đồng bộ giữa hình thức GDPL chính khóa và GDPL ngoại khóa. Bảo đảm

100% sinh viên được trang bị kiến thức pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật.

1.2.2. Nguyên tắc của giáo dục pháp luật cho sinh viên

Các nguyên tắc về giáo dục pháp luật được quy định tại Luật Phổ biến, giáo

dục pháp luật năm 2012 của Quốc Hội. Điều 5 Luật này quy định các nguyên tắc

phổ biến, giáo dục pháp luật gồm:

- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.

- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.

- Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi,

trình độ của đối tượng được phổ biến, GDPL và truyền thống, phong tục tập quán

tốt đẹp của dân tộc.

14

- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hàng

ngày của người dân.

- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.

Giáo dục pháp luật cho sinh viên cũng phải bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc

nêu trên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất.

1.2.3. Chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật cho sinh viên

1.2.3.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên

Chủ thể GDPL cho sinh viên là tất cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân mà theo

chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc thực hiện GDPL.

Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012, các

cơ quan, tổ chức có trách nhiệm GDPL cho sinh viên là các bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội; Toàn án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước; chính

quyền các cấp ở địa phương; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức

thành viên của Mặt trận; các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề

nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp;

các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và các thành viên trong gia đình.

Trong đó, chủ thể làm công tác GDPL trong các trường đại học là Đảng ủy,

Ban Giám hiệu, giảng viên, bao gồm giảng viên giảng dạy pháp luật và những giảng

viên khác. Xét về tính chuyên nghiệp, chủ thể GDPL chia thành 2 loại: chủ thể

chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Trong GDPL cho sinh viên, chủ thể

GDPL chuyên nghiệp là giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp

luật. Chủ thể GDPL không chuyên nghiệp là những người mà chức năng chính

không phải là GDPL, nhưng một trong những nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt

động để thực hiện mục đích GDPL như cán bộ quản lý, lãnh đạo, công chức, viên

chức. Về cơ bản, chủ thể GDPL cho sinh viên các trường đại học bao gồm:

Thứ nhất, các Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các

trường đại học. Họ vừa là chủ thể tổ chức hoạt động GDPL vừa là chủ thể trực tiếp

GDPL cho sinh viên. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thường xuyên nhất của Đảng ủy,

15

Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các trường đại học trong hoạt động

GDPL cho sinh viên là tổ chức các hoạt động GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó,

trong nhiều trường hợp họ còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động GDPL cho sinh

viên với vai trò giảng viên, báo cáo viên. Thực tế ở nhiều trường đại học, vai trò của

Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường là yếu tố đầu tiên, quyết định đối với công tác

này.

Thứ hai, giảng viên giảng dạy pháp luật. Giảng viên giảng dạy pháp luật giữ

vai trò quyết định trong hoạt động GDPL cho sinh viên. Giảng viên giảng dạy pháp

luật là người cung cấp tri thức pháp luật, hướng dẫn lĩnh hội và là tấm gương trong

việc thực hiện pháp luật đối với sinh viên. Họ là những người có kiến thức rộng,

vững về chuyên môn nghiệp vụ. Cùng với hoạt động giảng dạy, giảng viên còn có

hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện hàng năm, định kỳ học tập nâng cao

trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Giảng

viên giảng dạy pháp luật còn phải thường xuyên cập nhật những quy định mới của

pháp luật, những văn bản mới được sửa đổi để kịp thời phổ biến tới sinh viên. Thực

hiện những yêu cầu trên, giảng viên ngày càng hoàn thiện mình hơn và nhờ đó việc

GDPL mang lại hiệu quả cao hơn.

Thứ ba, viên chức, giảng viên giảng dạy các chuyên ngành khác chuyên ngành

pháp luật. Đây là những người có chức năng, nhiệm vụ chính không phải là GDPL

cho sinh viên nhưng thông qua hoạt động chuyên môn của mình góp phần thực hiện

các mục đích, mục tiêu của GDPL cho sinh viên.

Ngoài các chủ thể nêu trên, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các

cấp, cán bộ, công chức, viên chức, báo cáo viên pháp luật và tuyên truyền viên pháp

luật cũng là những chủ thể GDPL cho sinh viên.

Như vậy, ta thấy giảng viên dạy pháp luật là chủ thể GDPL có học vấn, chuyên

môn đạt chuẩn chức danh giảng dạy, có khả năng sư phạm, họ vừa là người giảng

dạy, truyền thụ tri thức pháp lý, vừa là người giáo dục nhân cách, ảnh hưởng không

nhỏ đến sự hoàn thiện nhân cách của sinh viên.

1.2.3.2. Đối tượng giáo dục pháp luật

Đối tượng của GDPL không ai khác chính là sinh viên. Họ là những người

16

thành niên, đã trải qua học tập và rèn luyện trong suốt quá trình học phổ thông.

Khi tốt nghiệp đại học, sinh viên trở thành những người lao động có tri thức và

trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao. Sinh viên, người được GDPL chịu sự tác

động có tổ chức định hướng, vì thế sự hiểu biết, trình độ, đặc điểm tâm sinh lý,

nghề nghiệp của người được giáo dục là yêu cầu hàng đầu. Đồng thời người giáo

dục có trách nhiệm nắm vững tri thức pháp luật, biết cách giáo dục, nhất định

phải là tấm gương mẫu mực về sự tôn trọng và chấp hành pháp luật.

Trong hoạt động học tập của mình, sinh viên phải lĩnh hội hệ thống tri thức

của chuyên ngành mình lựa chọn một cách sâu sắc, bên cạnh đó phải tham gia

các hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là kết quả, là ứng dụng

tích cực, chủ động của những gì đã được tiếp thu từ giáo dục, đào tạo. Hoạt động

này chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Ngoài ra cùng với học tập và nghiên cứu

khoa học, sinh viên còn tham gia hoạt động học nghề. Việc học nghề của những

cử nhân tương lai chủ yếu tập trung vào những hành động, những kỹ thuật, những

nguyên tắc chung có tính chất trí óc là chính.

Bên cạnh hoạt động học tập của sinh viên là các hoạt động chính trị - xã hội

khác. Đây cũng là nội dung hoạt động đặc trưng ở sinh viên. Việc tham gia của

họ vào các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên… vừa

có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhân cách toàn diện của họ, vừa góp

phần không nhỏ vào sự thành công của các thể chế chính trị - xã hội.

Bao quát hơn tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên là

những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen với

nhau. Hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống

tâm lý, nhân cách, hành động của sinh viên.

1.2.4. Nội dung của giáo dục pháp luật cho sinh viên

Nội dung GDPL là yếu tố quan trọng của quá trình GDPL. Việc xác định

đúng nội dung GDPL là sự đảm bảo cần thiết để GDPL có hiệu quả thiết thực.

Xây dựng được nội dung GDPL phù hợp sẽ giúp việc GDPL có hiệu quả cho cả

việc học và khả năng ứng dụng của người học. Để xây dựng nội dung chương

trình GDPL tốt phải căn cứ vào nhiều yếu tố, như căn cứ vào đối tượng học, mục

17

tiêu của giáo dục đại học, mục tiêu của GDPL, mục tiêu đào tạo của ngành. Nội

dung cơ bản của GDPL được xác định với các mức độ thích hợp cho từng loại đối

tượng trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tượng.

Nội dung GDPL cho sinh viên không phải được xây dựng cố định mà phải

được hiệu chỉnh hoặc được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của xã hội và thực

tiễn của pháp luật. Vì vậy, người dạy phải luôn cập nhật những vấn đề mới,

những thay đổi trong xã hội, trong các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, những thay đổi của pháp luật, những nhu cầu của xã hội đối với

người lao động để xây dựng, điều chỉnh nội dung giảng dạy cho phù hợp, giúp

người học cập nhật được những kiến thức và có khả năng ứng dụng kiến thức tốt

vào cuộc sống.

Nội dung GDPL tại các trường đại học được chia thành hai nhóm:

Nhóm thứ nhất là nhóm kiến thức chung về pháp luật. Những kiến thức

chung này bao quát được các nội dung như sau: Những vấn đề lý luận chung về

nhà nước và pháp luật (Quy định tại Điều 24 Luật phổ biến, GDPL số

14/2012/QH13 ngày 20/6/2012). Trong đó, sinh viên được làm quen với những

vấn đề khái quát chung về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

những vấn đề khái quát chung về pháp luật; các quy phạm pháp luật và hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật; các quan hệ pháp luật; quy định về thực hiện

pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý và một số ngành luật cơ bản

trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Mục tiêu của phần này là sinh viên nắm bắt được những kiến thức cơ bản về

nhà nước và pháp luật như nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước và pháp

luật. Từ đó sinh viên xác định được vai trò của nhà nước và pháp luật trong đời

sống xã hội, xây dựng niểm tin ở sinh viên vào bộ máy nhà nước Việt Nam và

nắm được những nội dung mở đầu về pháp luật.

Nhóm thứ hai là những quy định hiện hành về kiến thức pháp luật phù hợp

với ngành nghề của từng đối tượng học, giúp người học lĩnh hội kiến thức pháp

lý cần thiết trong lĩnh vực hoạt động của mình trong nghề nghiệp tương lai. Nội

dung GDPL theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực

18

tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng giáo dục, các quyền và nghĩa vụ của

công dân trong lĩnh vực hoạt động và các trình tự giải quyết tranh chấp phổ biến

liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.

Như vậy, chúng ta thấy rằng nội dung GDPL cho sinh viên hiện nay là

tương đối rộng, khá bao quát để sinh viên nắm bắt được những kiến thức chung

về Nhà nước và pháp luật và cả kiến thức pháp lý có liên quan đến lĩnh vực

chuyên môn.

1.2.5. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên

1.2.5.1. Hình thức giáo dục pháp luật cho sinh viên

Hình thức GDPL cho sinh viên là hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình

GDPL thể hiện nội dung GDPL. Hình thức GDPL có vai trò rất quan trọng trong

việc nâng cao hiệu quả GDPL. Việc lựa chọn hình thức GDPL phải trên cơ sở

phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đối tượng giáo dục và dựa trên tiêu chí: tính

phù hợp với đối tượng GDPL; tính khả thi trong điều kiện thực hiện; tính hiệu

quả của hình thức được chọn. Theo đó GDPL cho sinh viên là quá trình tổ chức

GDPL, chuyển tải nội dung GDPL cho sinh viên - một đối tượng đặc biệt, ở trong

một môi trường đặc biệt và sẽ giữ vị trí đặc biệt trong tương lai của gia đình,

cộng đồng, quốc gia, quốc tế. Vì vậy, hình thức GDPL cho đối tượng này đòi hỏi

tính linh hoạt, đa dạng và khách quan.

Giáo dục pháp luật tại các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện thông qua

2 hình thức, đó là:

Một là, GDPL cho sinh viên được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động

dạy học chính khóa là môn học pháp luật đại cương, các môn pháp luật chuyên

ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học. Hình thức dạy học

chính khóa được quy định trong các chương trình đào tạo các ngành hiện nay do

Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Hiện nay, môn học Pháp luật đại cương hay Lý

luận Nhà nước và Pháp luật là bắt buộc kể từ khi thực hiện Chỉ thị số

45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng

cường công tác phổ biến, GDPL trong ngành giáo dục. Theo quy định của Bộ

Giáo dục và Đào tạo thì môn Pháp luật đại cương phải bao gồm những kiến thức

19

về Nhà nước và Pháp luật, quan hệ trách nhiệm pháp lý, các quy phạm pháp luật,

văn bản pháp luật, hệ thống pháp luật, cấu trúc bộ máy nhà nước, chức năng thẩm

quyền, địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Việt Nam.

Với hình thức này, chương trình đào tạo được triển khai theo quy định

chung, nội dung phù hợp với đối tượng giáo dục là sinh viên; hệ thống tài liệu

đầy đủ. Song vẫn còn hạn chế ở chỗ, nội dung GDPL vẫn nặng về lý thuyết, chủ

yếu cung cấp nội dung các điều luật mà chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng ứng

xử, kỹ năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề thực tế của cuộc sống,

chưa thu hút sự hứng thú học tập của đông đảo sinh viên. Theo kết quả khảo sát

100 giảng viên và 900 sinh viên học năm thứ hai ở các trường đại học về chương

trình giảng dạy môn pháp luật đại cương cho thấy, tỷ lệ giảng viên và sinh viên

đánh giá chương trình môn pháp luật đại cương không đáp ứng được yêu cầu là

5% và 11% [46]

Hai là, GDPL được tổ chức dưới hình thức các hoạt động ngoại khóa và các

hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Trừ “tuần sinh hoạt công dân” đầu khóa là

bắt buộc, còn các hoạt động GDPL khác là do các trường đại học chủ động tổ

chức thực hiện. Hình thức GDPL ngoại khóa chủ yếu được thực hiện thông qua

các hình thức như: các hội nghị tập huấn; biên soạn, phát hành các loại tài liệu, tờ

rơi..; lồng ghép tích hợp trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: tham gia

các câu lạc bộ pháp luật; tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật; tham gia

các hoạt động tình nguyện; tham dự các phiên tòa thật sự hoặc tổ chức phiên tòa

giả định cho sinh viên thực hiện tại trường; lồng ghép vào các hoạt động như thi

diễn kịch, diễn văn nghệ, các buổi nói chuyện chuyên đề, giới thiệu các văn bản

mới trong những buổi sinh hoạt thường kỳ…

Ưu điểm của hình thức này là các hoạt động giáo dục được tổ chức đa dạng,

linh hoạt, phong phú và hấp dẫn hơn đối với sinh viên. Nội dung truyền tải ngắn

gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và sinh động hơn, tránh được sự khô khan, cứng

nhắc, tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của sinh viên. Tuy nhiên hạn chế

của các hoạt động này là tổ chức không thường xuyên.

Như vậy có 2 hình thức để thông qua đó chủ thể làm công tác giáo dục thực

20

hiện GDPL, tuy nhiên tùy vào từng đối tượng người học mà hình thức thực hiện

sẽ khác nhau. Qua đó ta thấy người làm công tác giáo dục phải hiểu rõ đặc điểm

đối tượng người học để tìm ra những hình thức giáo dục sao cho phù hợp nhằm

mang lại hiệu quả tốt nhất.

1.2.5.2. Phương pháp giáo dục pháp luật

Phương pháp GDPL là hệ thống cách thức sử dụng để tiến hành hoạt động

GDPL. Là một thành tố cấu thành quá trình giáo dục, phương pháp GDPL cho

sinh viên chịu tác động định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục nói chung

và của giáo dục đại học nói riêng được quy định bởi nội dung GDPL và đặc điểm

của đối tượng GDPL là sinh viên đại học. Hiện nay, theo quan điểm tiếp cận của

khoa học giáo dục thì phương pháp GDPL gồm có các nhóm phương pháp, đó là

các phương pháp tác động đến nhận thức, các phương pháp tác động đến tình

cảm, các phương pháp hình thành hành vi thói quen. Còn theo quan điểm tiếp cận

của các nhà khoa học pháp luật thì phương pháp GDPL bao gồm: phương pháp

áp dụng trong các hoạt động GDPL cụ thể (phương pháp thuyết giảng, phương

pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai…) và các phương pháp tổ chức GDPL.

Theo đó, về cơ bản, phương pháp GDPL cho sinh viên bao gồm các nhóm

phương pháp sau:

Thứ nhất, nhóm phương pháp thuyết phục. Đây là nhóm phương pháp cơ

bản tác động lên nhận thức và tình cảm của sinh viên nhằm hình thành khái niệm,

tri thức và niềm tin đúng đắn về pháp luật, tạo điều kiện cho sinh viên hình thành

thói quen và hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Phương tiện được sử dụng

trong nhóm phương pháp này phong phú và đa dạng như ngôn ngữ, sách báo,

khẩu hiệu, các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phát thanh, truyền hình, internet.

Những phương pháp được sử dụng trong nhóm là: phương pháp diễn giảng;

phương pháp vấn đáp; phương pháp thảo luận; phương pháp sử dụng sách giáo

khoa, tài liệu và internet (được sử dụng nhiều khi giảng viên hướng dẫn sinh viên

tự học, tự nghiên cứu nhằm mở rộng thêm kiến thức); phương pháp dạy học nêu

vấn đề (giảng viên đưa ra tình huống mâu thuẫn, có vấn đề, tạo cho sinh viên cảm

21

hứng tranh luận sôi nổi để giải quyết vấn đề)

Thứ hai, nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm

ứng xử trong quan hệ xã hội. Quá trình GDPL cho sinh viên không chỉ hình thành

cho sinh viên tri thức pháp luật, niềm tin vào các chuẩn mực pháp luật, hơn nữa

là phải thể hiện được bằng hành vi, thói quen tuân theo pháp luật. GDPL là sự

thống nhất giữa ý thức và hành vi, là quá trình biến những nhận thức, tình cảm

thành hành vi hợp pháp, những hành vi ứng xử thành thói quen tuân theo pháp

luật của sinh viên. Mục đích chủ yếu của nhóm phương pháp này là hình thành ở

sinh viên những hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, hình thành phẩm

chất, trách nhiệm công dân. Những phương pháp được sử dụng trong nhóm này

là phương pháp quan sát thực tế, tham gia các sự kiện pháp lý có liên quan;

phương pháp đóng kịch; phương pháp minh họa bằng hình ảnh, video clip, số

liệu, các bảng thống kê…

Thứ ba, nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi

ứng xử xã hội. Nhóm phương pháp này có khả năng to lớn trong việc động viên

sinh viên phát huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt

hiệu quả cao nhất khi tham gia vào các hoạt động GDPL cũng như tham gia vào

các hoạt động xã hội. Đặc điểm của phương pháp này là có tác dụng tích cực,

thúc đẩy các hành vi hợp pháp của sinh viên, khắc phục, ngăn ngừa những hành

vi lệch chuẩn, không hợp pháp. Cụ thể ở đây là việc khen và chê, khuyến khích

và trách phạt. Khuyến khích, khen thưởng là phương pháp để củng cố và kích

thích những động cơ và hành vi đúng đắn. Trách phạt là phương pháp nhằm ức

chế, kìm hãm và điều chỉnh hành vi không phù hợp với các chuẩn mực xã hội.

1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên

1.3.1. Chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về

giáo dục pháp luật

Các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục

vừa là cơ sở pháp lý vừa là một yếu tố thúc đẩy hoạt động GDPL nói chung và

GDPL cho sinh viên nói riêng. Trong những năm qua, công tác phổ biến, GDPL

22

đã nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, rất nhiều văn bản chỉ đạo, hướng

dẫn đã được ban hành nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác này.

Hiến pháp năm 2013 nước ta ghi nhận: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng

đầu”. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân

cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có nghề,

năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp

phần làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.

Mục tiêu cơ bản của GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên đã được định rõ

trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và

lần thứ 6 khóa IX là: “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó

với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí

kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam, có ý

thức cộng động và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công

nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công

nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ

nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ” [16]

“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo

đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với các ý tưởng độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và

năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. GDPL nói

chung và GDPL trình độ đại học nói riêng có vai trò cực kỳ quan trọng là đào tạo ra

những con người phát triển toàn diện, nhiều người lao động có tri thức, có trí tuệ, có

khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh

để cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc gia và quốc tế. Một trong

những mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói

riêng là giáo dục nhân cách, phát huy và phát triển hệ thống giá trị của dân tộc; nâng

cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để đào tạo bồi dưỡng nhân tài

23

trên nền tảng nhân cách tốt đẹp.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển

đất nước thời kỳ quá độ đã nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công

nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,

góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt

Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là

quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” [19].

Thực hiện tinh thần của Đại hội, ngày 04/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

đã kí ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI

(Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và

đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết 29 - Hội nghị

TW8 (khóa XI) là Nghị quyết chuyên đề có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Giáo

dục đào tạo, là yêu cầu, cũng đồng thời là cơ sở cho quá trình đổi mới mạnh mẽ giáo

dục và đào tạo của đất nước giai đoạn hiện nay.

Kế thừa và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII xác định: Giáo

dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản

của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển toàn diện năng lực và phẩm

chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu

quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo

dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở

giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển

nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,

đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm

xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý

giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi

nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền

giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực [20]

1.3.2. Nhận thức và năng lực của chủ thể giáo dục pháp luật

Nhận thức đúng về vị trí, vai trò của GDPL cho sinh viên của các lực lượng

24

giáo dục sẽ trở thành yếu tố tích cực thúc đẩy việc xác định mục tiêu nội dung,

hình thức tổ chức phù hợp mang lại hiệu quả giáo dục. Ngược lại, nếu nhận thức

của các lực lượng giáo dục không đúng sẽ ảnh hưởng tới việc xác định mục tiêu,

nội dung, hình thức tổ chức sai lầm hay việc thực hiện qua loa, hình thức dẫn đến

hiệu quả giáo dục thấp.

Năng lực của chủ thể GDPL được hiểu là kiến thức, kỹ năng, sự hiểu biết về

các quy định của pháp luật ở một trình độ nhất định trở lên và phương pháp

truyền đạt tốt giúp người nghe, người học nắm được, hiểu đúng về các quy định

của pháp luật. Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả công tác GDPL cho

sinh viên. Công tác GDPL cho sinh viên rất đa dạng và phong phú từ nội dung

đến hình thức, phương pháp GDPL, do đó đòi hỏi người tổ chức phải có năng lực

và kỹ năng cần thiết như: Nắm vững các quy định của pháp luật, năng lực thiết kế

các hoạt động GDPL, năng lực huy động và phối hợp với các lực lượng giáo dục

trong và ngoài trường, kỹ năng nắm bắt tâm lý của các đối tượng… Chất lượng,

hiệu quả của GDPL cho sinh viên phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ

này. Nếu năng lực của cán bộ, giảng viên tốt, không những chủ động điều phối

được những yếu tố chủ quan tác động theo định hướng, mà còn khắc phục những

ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố khách quan để công tác GDPL cho sinh viên

mang lại kết quả thực sự. Ngược lại, nếu năng lực của cán bộ, giảng viên thực

hiện công tác GDPL chưa tốt, không am hiểu sâu về pháp luật thì công tác GDPL

sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không đạt được mục tiêu giáo dục.

1.3.3. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật

Một hệ thống pháp luật được đánh giá là hoàn thiện khi đảm bảo được các

tiêu chuẩn cơ bản là tính toàn diện, tính thống nhất, tính phù hợp và trình độ kỹ

thuật pháp lý được sử dụng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Một là,

mức độ toàn diện của hệ thống pháp luật tạo điều kiện cơ bản, thuận lợi để tổ

chức và triển khai hoạt động GDPL cho sinh viên, là cơ sở để cung cấp toàn diện,

đầy đủ, có hệ thống các kiến thức pháp luật cơ bản và những ngành luật cụ thể

liên quan đến các ngành đào tạo của sinh viên. Hai là, mức độ thống nhất của hệ

25

thống pháp luật bao hàm cả thống nhất về hình thức và nội dung. Điều này đòi

hỏi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống

nhất, hài hòa về nội dung mà còn phải đảm bảo tính thứ bậc của mỗi văn bản về

giá trị pháp lý của chúng. Khi đó các trường đại học mới có cơ sở để xây dựng

chương trình, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo thống nhất chung trong toàn

hệ thống các trường cũng như phù hợp với đặc thù của từng nhóm đối tượng sinh

viên đang học ở từng ngành, lĩnh vực khác nhau. Qua đó việc GDPL cho sinh

viên được triển khai có chất lượng, hiệu quả. Ba là, mức độ phù hợp của hệ thống

pháp luật thể hiện hệ thống pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các

quan hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội đó phát triển theo một trật tự mà Nhà

nước mong muốn thiết lập. Hệ thống pháp luật được xây dựng, ban hành phù hợp

với thực tiễn cuộc sống sẽ giúp hoạt động GDPL cho sinh viên thiết thực, có hiệu

quả, hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức pháp luật thực sự cần thiết

với tư cách chủ thể pháp luật, phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai,

với những tình huống pháp luật cụ thể mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Ngược lại,

nếu hệ thống pháp luật không phù hợp, không bám sát thực tiễn thì nó không giúp

giải quyết được những vướng mắc họ gặp phải trong thực tiễn cuộc sống, làm cho

hoạt động GDPL sẽ chỉ là hình thức. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật với các quy

phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác là điều kiện góp phần thuận lợi cho

hoạt động GDPL cho sinh viên phát huy hiệu quả. Trong các trường đại học, việc

GDPL và giáo dục đạo đức cho sinh viên là hai nội dung có quan hệ gắn bó mật

thiết với nhau, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.

Thứ tư là trình độ kỹ thuật pháp lý. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện đòi hỏi

phải được xây dựng bởi trình độ kỹ thuật pháp lý cao.

Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng

trực tiếp đến công tác GDPL cho sinh viên, vì vậy muốn đạt được mục đích của

công tác GDPL cho sinh viên, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống

pháp luật trên cơ sở các tiêu chí trên.

26

1.3.4. Tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh viên

Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi

thể chế chính trị. Họ là những công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền

hạn và nghĩa vụ trước nhà nước và pháp luật. Đại đa số các em có ý thức học tập,

ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và sáng tạo…, đây là mặt thuận lợi trong công

tác GDPL cho sinh viên. Nếu các chủ thể biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó sẽ

có thể đạt được kết quả tốt nhất cho quá trình GDPL cho sinh viên.

Tuy nhiên, do còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực tiếp

sản xuất ra của cải vật chất nên thanh niên sinh viên chưa hoàn toàn tự lập về mọi

mặt. Việc GDPL cũng gặp những khó khăn như: do tuổi đời còn trẻ, một số ít

sinh viên còn coi nhẹ việc học, chưa tự giác học…dẫn đến chưa nhận thức được

vai trò và ý nghĩa quan trọng của pháp luật và ý thức tự giác thực hiện pháp luật.

Tính tích cực và chủ động của sinh viên có tác động rất lớn tới kết quả của

công tác GDPL. Họ là đối tượng của công tác GDPL, vì vậy đây là hoạt động

chính của sinh viên. Khi tổ chức thực hiện GDPL, chủ thể GDPL cần phát huy

được tính tự quản, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của sinh viên. Ngoài ra

những hoạt động này cần phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên nhằm

thu hút, hấp dẫn sinh viên tham gia vào các hoạt động do chủ thể giáo dục tổ

chức.

1.3.5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục pháp luật

Trên cơ sở Thông tư số 03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 của Bộ Tư pháp

quy định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, khi

đánh giá thực trạng GDPL cho sinh viên và đề xuất giải pháp cần phải quan tâm

đến các nội dung:

- Mức độ sinh viên tự học tập, chủ động tìm hiểu pháp luật;

- Mức độ biết pháp luật, hiểu pháp luật của sinh viên;

- Mức độ triển khai các hoạt động giáo dục pháp luật;

- Mức độ ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của giáo dục pháp luật cho sinh viên.

27

1.3.6. Cơ sở vật chất và trang thiết bị

Điều kiện vật chất, trong đó đặc biệt là điều kiện tài chính, ảnh hưởng rất

nhiều đến quá trình GDPL cho sinh viên. Nếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật đáp

ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác GDPL được nâng cao.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước đã có nhiều quan

tâm đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại cho công tác GDPL cho

sinh viên, nhưng trong thực tế, điều kiện này chưa đáp ứng tốt nhất cho việc thực

hiện công tác này.

Muốn nâng cao chất lượng công tác GDPL cho sinh viên, không thể tách rời

yếu tố cơ sở vật chất - thiết bị dạy học. Cơ sở vật chất - thiết bị dạy học hiện đại

là điều kiện để người giảng viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, là điều

kiện để nâng cao chất lượng đào tạo. Thiết bị dạy học vừa là công cụ, phương

tiện giảng dạy, vừa là đối tượng của nhận thức. Nó là thành tố không thể thiếu

trong cấu trúc toàn vẹn của quá trình giáo dục, giảng dạy, góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo, là cầu nối giữa giảng viên và sinh viên, làm cho hai nhân tố này

tác động tổng hợp với nhau trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung và phương

pháp đào tạo.

1.3.7. Môi trường xã hội

Môi trường là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế. Môi trường xã hội

bên ngoài nhà trường có ảnh hưởng lớn đến GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó,

môi trường giáo dục của gia đình bao gồm lối sống, hành vi đạo đức, thói quen

thực hiện pháp luật… của gia đình cũng ảnh hưởng lớn đến nhân cách và việc

thực hiện pháp luật của sinh viên.

Chính vì vậy, một xã hội ổn định, ít biến động về chính trị sẽ đưa đến sự ổn

định về hệ thống pháp luật, cũng góp phần thuận lợi cho việc GDPL cho sinh viên.

Môi trường thực hiện GDPL cho sinh viên ở nước ta có nhiều thuận lợi: Hệ thống

chính trị ổn định; công tác GDPL được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư về cơ

sở vật chất cũng như các nguồn lực…

28

Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã phân tích một cách toàn diện và cơ bản nhất những vấn đề lý

luận về GDPL cho sinh viên. Qua đó thấy được việc thực hiện công tác GDPL

cho sinh viên được Đảng và Nhà nước ta thực sự quan tâm và coi trọng trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

GDPL được hiểu một cách chung nhất là hoạt động có định hướng, có tổ

chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp tổ

chức khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm

hình thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tôn trọng pháp luật, tình cảm và

hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa

pháp luật.

Khái niệm GDPL cho sinh viên cũng giống như khái niệm GDPL nêu trên

nhưng có phần cụ thể hơn, đó là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích

của các chủ thể GDPL trong các trường đại học thông qua các hoạt động giáo dục

chính khóa và ngoại khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị

tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân cách và tư cách công dân,

nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự

đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật, có tri thức pháp luật về chuyên môn

nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo.

Để thực hiện có hiệu quả công tác GDPL cho sinh viên, đội ngũ cán bộ, giảng

viên thực hiện GDPL cần nắm vững nội dung, chương trình, hình thức và phương

pháp GDPL cho sinh viên, đặc biệt là nội dung GDPL. Nội dung GDPL cho sinh

viên không phải được xây dựng cố định mà phải thường xuyên được cập nhật hoặc

thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của xã hội và thực tiễn của pháp luật. Ngoài ra

tác giả cũng phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh

viên như: nhận thức, năng lực của chủ thể GDPL; sự hoàn thiện của hệ thống pháp

luật, tính chủ động, sáng tạo của sinh viên; cơ sở vật chất, kỹ thuật; môi trường xã

hội.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội

2.1.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội

Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa

XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định một

trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động,

gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công nghệ.

Mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào

tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu

học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát

huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân… Trong đó, mục tiêu

đối với giáo dục đại học là tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân

tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của

người học. Giáo dục pháp luật phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản và toàn

diện nền giáo dục và đào tạo, chuyển đổi quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị

kiến thức sang phát triển toàn diện nhằm hình thành phẩm chất đạo đức nhân văn

và năng lực nhận thức, kỹ năng thực hành cho người học.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội xác định việc GDPL cho sinh viên phải đảm

bảo các mục tiêu chung về GDPL cho sinh viên:

Thứ nhất, hình thành và mở rộng tri thức pháp luật cho sinh viên. Thông qua

GDPL để sinh viên được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật, vai trò điều

chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực của pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.

Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật,

giúp sinh viên hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá đúng đắn các hành vi.

30

Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin vào các giá trị pháp luật, tạo

cơ sở hình thành hành vi hợp pháp cho sinh viên, đồng thời giúp sinh viên điều

khiển hành vi của mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã

nhận thức được.

Thứ hai, hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho sinh viên.

Niềm tin pháp luật đóng góp vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi,

lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ hợp pháp. Có

niềm tin vào tính công bằng của pháp luật, sinh viên sẽ có hành vi phù hợp với các

đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Có tri thức về pháp luật chưa có

nghĩa là đã có tình cảm đúng đắn và lòng tin vào pháp luật. Đó mới chỉ là cơ sở

nhận thức, tạo niềm tin, động cơ bên trong ở mỗi sinh viên. Do vậy, việc biến nhận

thức thành niềm tin pháp luật, động cơ bên trong cho sinh viên là yêu cầu quan

trọng để sinh viên tham gia quan hệ xã hội với đầy đủ tư cách công dân với ngành

nghề được đào tạo. Thiếu tự tin, thiếu tình cảm sẽ không tạo ra được các hành vi

hợp pháp và khả năng chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh mà thay vào đó là những

phản ứng ngược, vi phạm pháp luật, lách luật.

Thứ ba, giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp

luật cho sinh viên. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin pháp luật là tiền

đề để giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật,

hình thành động cơ và hành vi tích cực hợp pháp. Những hành vi hợp pháp của

mỗi người, thường được biểu hiện qua các việc làm như tuân thủ pháp luật, thực

hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, biết đấu tranh với

các hành vi vi phạm pháp luật… để đạt đến mục đích cuối cùng của GDPL cho

sinh viên chính là hình thành ở mỗi sinh viên ý thức pháp luật bền vững.

Bên cạnh việc đảm bảo yêu cầu chung về GDPL cho sinh viên, Trường Đại

học Nội vụ Hà Nội cũng đặt ra những mục tiêu đảm bảo vị trí việc làm đáp ứng

từng chuyên ngành đào tạo của nhà trường. Trường đào tạo cử nhân có phẩm chất

chính trị và đạo đức nghề nghiệp, được trang bị những kiến thức cơ bản và chuyên

sâu về pháp luật nói chung, pháp luật trong lĩnh vực nội vụ nói riêng; cùng thực

31

tiễn pháp lý và những kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan;

đặc biệt là có tư duy phản biện để phân tích, đánh giá, kiến nghị hoàn thiện chính

sách, pháp luật; có kỹ năng thực hành; có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo giải

quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành góp phần vào sự phát triển ngành Nội vụ

và kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể:

Giáo dục pháp luật cung cấp cho sinh viên về các ngành luật cơ bản trong hệ

thống pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới; cùng hệ

thống pháp luật chuyên sâu trong khu vực công và các lĩnh vực quản lý đặc thù của

ngành nội vụ như: công vụ, công chức; chính quyền địa phương; thanh tra, khiếu

nại, tố cáo; thi đua, khen thưởng; địa giới hành chính…

Giáo dục pháp luật rèn luyện cho sinh viên hệ thống kỹ năng quan trọng, cần

thiết để có thể làm việc độc lập, sáng tạo, đạt hiệu quả cao trong công việc, như: kỹ

năng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng hệ thống các quy định

của pháp luật; vận dụng quy định của pháp luật để giải quyết tình huống pháp lý

phát sinh trong các lĩnh vực của vị trí việc làm.

Giáo dục pháp luật hình thành cho người học ý thức tổ chức kỷ luật cao; có

tinh thần chủ động và phối hợp trong công việc; có thái độ nghiêm túc, khách

quan, có đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện công vụ, nhiệm vụ được giao.

Tóm lại, GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là nhằm giúp

sinh viên nắm được những tri thức cơ bản, quan trọng để các em có ý thức về vị trí,

trách nhiệm và lý tưởng của người công dân, nâng cao năng lực tự nhận thức và

hành động để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội. Trên nền tảng tri thức nhằm hình thành và bồi dưỡng tình cảm

lành mạnh của sinh viên, rèn luyện cho các em thói quen, hành vi và lối sống theo

pháp luật. Đồng thời, luyện cho sinh viên kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào

thực tế, nắm vững các chuẩn mực pháp luật và tuân thủ các chuẩn mực đó trong

mọi hành vi của mình.

32

2.1.2. Nguyên tắc giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội

Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp thông tin thực

hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, bảo đảm sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý,

tính cách, thực tiễn cuộc sống của sinh viên và thực tiễn xã hội, thu hút sự tham

gia của họ vào các hoạt động thực tiễn.

Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp thông tin thực

tiễn pháp luật - xã hội một cách chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực;

đảm bảo nguyên lý học đi đôi với hành; hình thành tri thức pháp luật để có hành

vi xử sự hợp pháp; ứng dụng kiến thức pháp luật vào cuộc sống; giáo dục kỹ

năng phòng tránh vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội.

Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo tính hệ thống, kịp thời,

thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; nội dung và hình thức phù hợp

với đối tượng sinh viên; đảm bảo sự thống nhất của ba mục đích: mục đích nhận

thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi phù hợp pháp luật.

Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL trong nhà trường; xây dựng và thực

hiện mô hình kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng, xã hội trong hoạt

động GDPL cho sinh viên; lồng ghép hợp lý nội dung GDPL vào hoạt động của

các tổ chức Đoàn, Hội… Tạo lập diễn đàn giao lưu chia sẻ thông tin, kinh

nghiệm, thu hút sinh viên vào các hoạt động tìm hiểu pháp luật. Kết hợp, lồng

ghép GDPL với giáo dục đạo đức, giáo dục quyền con người, giáo dục kỹ năng

sống.

2.1.3. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội

Chủ thể GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là lãnh đạo các

cơ quan quản lý GDPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Ban Giám hiệu

nhà trường, các khoa, phòng, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, các cán bộ,

giảng viên, viên chức…và quan trọng nhất là đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp

luật trong nhà trường…

33

2.1.3.1. Thực trạng đội ngũ quản lý giáo dục pháp luật

Trong thời gian qua, việc tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên tại

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của

Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường. Căn cứ vào nội dung, hình thức GDPL, Ban

Giám hiệu nhà trường có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL và bố trí giảng

viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật. Nhà trường quy định rõ chức

năng, nhiệm vụ của đơn vị thuộc và trực thuộc trường trong thực hiện GDPL cho

sinh viên:

Khoa Pháp luật hành chính là đơn vị chuyên môn thuộc Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội, có chức năng tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục, đào tạo trình độ

đại học, sau đại học; tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ gắn với chuyên môn

của Khoa; thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế; khoa học và công nghệ phù hợp

với mục tiêu, phương hướng phát triển của Trường. Những nội dung thuộc lĩnh

vực chuyên môn cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học của khoa Pháp luật

hành chính luôn theo định hướng tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, phát

triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học

phù hợp với nhu cầu phát triển các lĩnh vực, ngành nghề thuộc phạm vi quản lý

Nhà nước của Bộ nội vụ và yêu cầu hội nhập quốc tế. Khoa Pháp luật hành chính

cũng được giao là đơn vị chủ trì tổ chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, ngày 9/11 hàng năm.

Phòng Công tác sinh viên nhà trường là đơn vị có chức năng tham mưu và

giúp Hiệu trưởng trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, và công tác sinh

viên của Trường. Phòng có nhiệm vụ tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân - Học

sinh, sinh viên” vào đầu khóa, đầu năm và cuối khóa theo Quy định của Bộ Giáo

dục và Đào tạo; tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động giáo dục đạo đức,

pháp luật, văn hóa, văn nghệ, thể thao, kỹ năng mềm nâng cao đời sống văn hóa

tinh thần và thể chất cho sinh viên. Ngoài ra, phòng còn là đầu mối giải quyết và

trả lời khiếu nại, tố cáo của sinh viên; kết hợp chặt chẽ với công an, chính quyền

34

địa phương để thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị, trật

tự an toàn, bảo vệ tài sản và tính mạng của sinh viên nội trú…

Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội là một bộ phận trong hệ thống chính trị của Nhà trường, có nhiệm vụ

tập hợp, tổ chức, giáo dục và rèn luyện đoàn viên, thanh niên, sinh viên. Đoàn

trường có chức năng tổ chức các chương trình, hoạt động, các phong trào học tập,

nghiên cứu khoa học; văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để rèn luyện kỹ năng

mềm, tạo môi trường rèn luyện cho đoàn viên sinh viên, góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo của Nhà trường. Trong thời gian qua, Đoàn trường phối hợp với

các đơn vị liên quan trong Trường tổ chức nhiều hoạt động mang tính giáo dục

pháp luật cho sinh viên theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban

chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khóa X “Tăng cường giáo dục

đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh thiếu niên giai đoạn

2013-2017” gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh. Công tác GDPL cho sinh viên được Đoàn trường lồng ghép vào nhiều

nội dung hoạt động như tổ chức các phong trào thi đua học tập, nghiên cứu khoa

học, phát triển tài năng cũng như các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể

thao. Bên cạnh đó, phong trào đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và

việc làm cũng tạo ra sân chơi để sinh viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ

những ý tưởng hay, cách làm hiệu quả, tạo công việc làm thêm cho những sinh

viên có hoàn cảnh khó khăn. Thông qua những hoạt động này, đoàn viên thanh

niên đã có những sân chơi bổ ích, nâng cao đời sống tinh thần, góp phần làm

giảm tệ nạn xã hội trong nhà trường, tạo bầu không khí phấn khởi thi đua rèn

luyện, học tập trong đoàn viên, thanh niên.

Các khoa thuộc trường có trách nhiệm phối hợp với khoa Pháp luật hành

chính để triển khai hiệu quả nội dung giáo dục chính khóa (môn pháp luật đại

cương và các môn Luật có liên quan đến ngành học của sinh viên) và các hoạt

động giáo dục pháp luật ngoại khóa ngoài giờ lên lớp.

Như vậy, các đơn vị chuyên môn trong trường tùy theo chức năng, nhiệm vụ

đã nghiêm túc triển khai công tác GDPL cho sinh viên đạt được một số kết quả

35

nhất định, trang bị cho sinh viên những tri thức pháp luật và niềm tin, ý thức pháp

luật cũng như trách nhiệm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Các

đơn vị đã có sự phối hợp trong việc tổ chức giảng dạy, tuyên truyền cũng như các

hoạt động trong tuần lễ sinh hoạt đầu khóa, cuối khóa.

Tuy nhiên thực tế cho thấy sự phối hợp trong tổ chức GDPL cho sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả. Ngoài các đơn vị

được giao nhiệm vụ giảng dạy và thực hiện công tác GDPL cho sinh viên, nhiều

đơn vị còn chưa thực sự quan tâm và chủ động thực hiện công tác này.

2.1.3.2. Thực trạng đội ngũ làm công tác giảng dạy pháp luật

Điều 31 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định: “Căn cứ vào nội dung,

hình thức GDPL ở từng cấp học và trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục của hệ

thống giáo dục quốc dân có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL, bố trí giáo viên

dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định

của pháp luật”. Ban Giám hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội căn cứ vào nội

dung, hình thức GDPL của bậc đại học, có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL,

bố trí giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật. Công tác GDPL

trong thời gian qua chủ yếu tập trung ở Khoa Pháp luật hành chính, do giảng viên

của Khoa đảm nhận.

Tiêu chuẩn của giảng viên tham gia giảng dạy chương trình GDPL chính

khóa yêu cầu phải có đạt tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy

trong các cơ sở giáo dục đại học công lập, có đạo đức nghề nghiệp, có lòng yêu

nghề và nhiệt huyết với sự nghiệp giáo dục (Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-

BGD ĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề

nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập) [8]. Để

được đứng lớp, người giảng viên phải trải qua quy trình thẩm định trình độ

chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của mình ở 03 cấp: giảng báo cáo cấp bộ

môn, cấp Khoa và cấp Trường. Sau khi hoàn thành việc giảng báo cáo, họ mới

được chính thức giao nhiệm vụ giảng dạy. Đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp

luật của trường hiện nay đã tăng cả về số lượng và chất lượng, được chuẩn hóa,

được tạo điều kiện để nâng cao năng lực chuyên môn. Trong quá trình giảng dạy,

36

nhà trường tổ chức những buổi dự giảng giảng viên, khảo sát sự hài lòng của sinh

viên đối với giảng viên qua nhiều tiêu chí cũng như kiến nghị của mình về giảng

viên. Nhà trường còn khảo sát đánh giá về mặt khả năng và tác phong sư phạm

cũng như kiến thức chuyên môn. Sau khảo sát, đối với những giảng viên còn có

các mặt hạn chế, nhà trường yêu cầu giảng viên phải đề xuất phương hướng khắc

phục cụ thể. Nhờ vậy, giảng viên luôn phải cố gắng hoàn thiện mình để nâng cao

nghiệp vụ, hoàn thiện các kỹ năng của người giảng viên, đáp ứng yêu cầu của nhà

trường và sự hài lòng của người học. Mỗi năm người giảng viên phải bảo đảm

hoàn thành đủ số giờ nghiên cứu khoa học theo quy định là 190 giờ/năm (Theo

Thông tư 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy

định chế độ làm việc đối với giảng viên). Hiện nay, tỷ lệ giảng viên là tiến sĩ

chuyên ngành Luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội so với số lượng viên

chức, giảng viên nhà trường có trình độ tiến sĩ là 20%, tỉ lệ thạc sĩ là 5,97% và cử

nhân là 5,38%. Điều này cho thấy, tỉ lệ giảng viên có trình độ chuyên môn cao,

nghiên cứu sâu về ngành Luật của Trường là khá cao.

Ngoài giảng viên cơ hữu, định kì nhà trường mời giảng viên thỉnh giảng của

các trường đại học chuyên ngành có kinh nghiệm hoặc chuyên gia của các cơ

quan, tổ chức khác có uy tín tham gia giảng dạy, hội thảo chuyên đề hoặc giao

lưu với sinh viên.

Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật của trường Đại học

Nội vụ Hà Nội tính đến tháng 3/2019

Số lượng viên chức, giảng viên

Số lượng viên chức, giảng

Về trình độ chuyên môn

Tỷ lệ (%)

chuyên ngành Luật

viên của Trường

Tiến sĩ

9

45

20

Thạc sĩ

16

268

5,97

Cử nhân

7

130

5,38

(Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ cung cấp)

37

2.1.4. Đối tượng giáo dục pháp luật

Về lứa tuổi, giới tính, sinh viên đang ở lứa tuổi thanh niên, từ 18 đến 22

tuổi. Họ là những thanh niên tuổi đời còn trẻ, chưa định hình rõ rệt về nhân cách,

ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức đang được đào tạo chuyên môn. Sinh viên

có thể nhận thức rõ ràng về năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của

những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó các em sẽ xác định rõ

mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong

giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Sinh viên Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội là những trí thức tương lai của ngành Nội vụ, các em rất thích

khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân,

thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với

thử thách để khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là

tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp,

một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu

thích và đam mê với nghề đã lựa chọn.

Theo thống kê thì số lượng sinh viên nữ của Trường chiếm tỷ lệ khá cao,

chiếm 78,59% tổng số sinh viên toàn trường. Sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội đã được tiếp cận với Luật bình đẳng giới và có những chuyển biến tích

cực trong nhận thức về bình đẳng giới.

Về tập quán, vùng miền sinh sống, số lượng sinh viên nhà trường là người

dân tộc thiểu số khá nhiều, (1001 sinh viên trên tổng số sinh viên toàn trường là

5878, chiếm tỷ lệ 17%) ngoài những đặc điểm tính cách vốn có của sinh viên nói

chung, họ còn thể hiện nhiều đặc điểm tính cách đặc trưng của dân tộc, vùng,

miền mình. Bên cạnh đó, phần lớn họ đều xuất thân từ các gia đình sống ở vùng

sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Địa bàn cư trú, xuất thân,

dân tộc, tôn giáo, tập quán, văn hóa, truyền thống… của các đối tượng sinh viên

đa dạng, đan xen; với những thói quen, phương pháp tiếp cận không đồng nhất, ý

thức học tập không đồng đều. Vừa để đóng tiền học, vừa để trang trải cuộc sống,

nhiều sinh viên nhà trường đã đi làm thêm trong quá trình học tập tại trường.

38

Điều này lại dẫn đến một thực tế là các em buộc phải thuê nhà ở bên ngoài cho

tiện việc làm thêm, số sinh viên sống ở ký túc xá nhà trường không nhiều, việc

quản lý các em gặp không ít khó khăn. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả GDPL đối

với sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn.

Về kiến thức đầu vào của sinh viên, nhà trường tuyển sinh các mã ngành:

khối A, khối C và khối D. Sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được đào tạo

những ngành nghề trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác đáp

ứng nhu cầu xã hội. Để có những sinh viên học tập tốt, có tư duy độc lập, sáng

tạo trong nghiên cứu khoa học, sinh viên luôn phải tìm kiếm, khám phá, tìm tòi,

học hỏi những cái mới, họ cần phải có thông tin, tri thức từ nhà trường, từ xã hội.

Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ

chính quy Năm học 2017-2018

Đơn vị tính: Người

Tổng số sinh viên chia

Trong đó

theo năm đào tạo

Tổng số

Ngành đào tạo

Dân

Năm

Năm

Năm

Năm

Ghi chú

sinh viên

Nữ

tộc ít

thứ

thứ

thứ

thứ

người

2

3

4

1

Khoa học thư viện

262

211

51

50

102

59

26

Lưu trữ học

750

683

150

127

223

250

151

Quản trị nhân lực

1240

985

251

314

386

289

227

Quản trị văn phòng

1111

936

240

308

318

245

213

Quản lý nhà nước

1278

893

177

318

462

321

198

Quản lý văn hóa

536

381

120

128

184

104

91

Luật

384

286

292

92

62

Chính trị học

185

132

133

52

17

Hệ thống thông tin

132

113

132

16

Tổng số sinh viên

5878

4620

1001 1546 1389 1675 1268

(Nguồn: Phòng Công tác sinh viên)

39

Đối tượng GDPL chính là sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. Sinh

viên nhà trường có hoạt động chủ đạo là học tập, tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ

xảo nghề nghiệp. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi

thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh

viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều

chỉnh sự phát triển bản thân phù hợp với xu thế xã hội. Sinh viên có thể nhận

thức rõ ràng về năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc

điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó các em sẽ xác định rõ mục tiêu học

tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp,

thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà

sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập

cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ và phương pháp học tập của các em.

Sinh viên là những trí thức tương lai, các em rất thích khám phá, tìm tòi cái mới,

đồng thời thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang

bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.

Nhìn chung, sinh viên nhà trường đã có sự tuân thủ nghiêm túc pháp luật,

các quy định, quy chế của bộ, ngành, địa phương, nhà trường, khoa đào tạo; chủ

động lĩnh hội các kiến thức được đào tạo; chủ động tích cực học tập và tiếp xúc

với doanh nghiệp, cơ quan sử dụng lao động theo đúng ngành nghề đào tạo để

chuẩn bị việc làm khi ra trường. Trong học tập, ngoài việc lắng nghe giảng viên

giảng dạy trên lớp thì các em còn tự trao đổi phương pháp học tập, chủ động

trong việc học, tự mình đọc sách, tài liệu, nghiên cứu thông tin. Phần lớn sinh

viên tự thích nghi với môi trường sống, tham gia các hoạt động của trường. Ngoài

việc học tập, nghiên cứu trong nhà trường, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội đã tham gia vào các hoạt động xã hội, thiện nguyện, công ích do Đoàn thanh

niên tổ chức sôi nổi, nhiệt huyết, mang lại các giá trị hữu ích cho xã hội như các

phong trào: “Mùa thi nghiêm túc, chất lượng cao”; “Sinh viên 5 tốt”; “Nói

không với tiêu cực trong thi cử”; “Ngày hội sách và bản quyền thế giới”; tham

gia các cuộc thi “sinh viên nội vụ tài năng và tri thức”; duy trì và nâng cao chất

40

lượng các câu lạc bộ Nhà quản trị nhân lực, câu lạc bộ Võ thuật, câu lạc bộ Sách

Nội vụ, Hội vận động hiến máu nhân đạo..

2.1.5. Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức dạy và học kiến thức pháp luật

theo 2 nhóm nội dung chính quy định tại Điều 23 Luật Phổ biến, giáo dục pháp

luật: “Nội dung GDPL trong chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học

trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, kiến thức pháp luật liên quan

đến ngành, nghề đào tạo”:

- Trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật

Việc GDPL cho sinh viên có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp sinh viên nắm

vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của

Đảng về nhà nước và pháp luật; giúp sinh viên nắm các kiến thức cơ bản về nhà

nước và pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền và lợi ích

của công dân. Tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định mới liên

quan đến giáo dục, các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo

dục ý thức tôn trọng, chấp hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành

pháp luật; tác động của chính sách pháp luật; nội dung chính sách pháp luật về hỗ

trợ và khởi nghiệp, về phòng chống bạo lực học đường, về cải cách hành chính,

về an toàn thực phẩm, về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng…

Nhà trường đã triển khai giảng dạy môn pháp luật đại cương cho toàn bộ

sinh viên của tất cả các ngành đào tạo, bảo đảm cho sinh viên khi ra trường nắm

được lý luận cơ bản về pháp luật để có thể tự tìm hiểu các ngành luật cần thiết.

Bước đầu đưa công tác GDPL phát triển ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, tạo

chuyển biến trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập và tìm

hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật của sinh viên. Việc

trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật cho sinh viên góp phần đào

tạo lực lượng sinh viên có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm,

41

tích cực học tập, rèn luyện để sau khi ra trường, trên các cương vị của mình cơ

bản thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ.

Bảng 3. Chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao

đẳng, đại học

Phân bổ giờ tín chỉ theo hình

thức tổ chức dạy học

Nội dung

Tổng giờ

Bài tập/

Thực

Lý thuyết

Thảo luận

hành

Chương 1. Khái quát chung về Nhà nước

03

01

0

04

Chương 2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ

02

01

0

03

nghĩa Việt Nam

Chương 3. Khái quát chung về pháp luật

03

01

0

04

Chương 4. Quy phạm pháp luật - Hệ thống

04

02

0

06

văn bản quy phạm pháp luật

Chương 5. Quan hệ pháp luật

02

01

0

03

Chương 6. Thực hiện pháp luật – Vi phạm

03

02

0

05

pháp luật - Trách nhiệm pháp lý

Chương 7. Một số ngành luật cơ bản trong

03

02

0

05

hệ thống pháp luật Việt Nam

Tổng

20 giờ TC 10 giờ TC 0 giờ TC 30 giờ TC

(Nguồn: Phòng Quản lý đào tạo, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội)

Bảng 4. Chương trình môn học Luật Hành chính dành cho bậc cao

đẳng, đại học

Phân bổ giờ tín chỉ theo hình

thức tổ chức dạy học

Nội dung

Tổng giờ

Bài tập/

Thực

Lý thuyết

Thảo luận

hành

Chương 1. Khái quát chung về Luật Hành

01

0

06

05

chính

01

0

03

Chương 2. Các nguyên tắc cơ bản trong

02

42

quản lý nhà nước

Chương 3. Quy phạm pháp luật hành

04

01

0

05

chính, quan hệ pháp luật hành chính

Chương 4. Cơ quan hành chính nhà nước

04

02

0

06

Chương 5. Cán bộ, công chức, viên chức

04

02

0

06

Chương 6. Tổ chức xã hội và cá nhân

03

0

0

03

Chương 7. Quyết định hành chính

03

0

0

03

Chương 8. Thủ tục hành chính

02

01

0

03

Chương 9. Vi phạm pháp luật hành chính

05

02

0

07

và trách nhiệm pháp lý hành chính

Chương 10. Bảo đảm pháp chế và kỷ luật

02

01

0

03

nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước

Tổng

35 giờ TC 10 giờ TC 0 giờ TC 45 giờ TC

(Nguồn: Phòng Quản lý đào tạo, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội)

- Trang bị kiến thức pháp luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

Hiến pháp, các bộ luật luôn giữ vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối

quan hệ xã hội, đòi hỏi sinh viên phải nắm vững không chỉ kiến thức về Hiến

pháp, pháp luật nói chung mà phải nắm vững pháp luật liên quan đến chuyên môn

của mình để sau đó có thể vận dụng vào công việc chuyên môn sau khi ra trường,

hướng đến mục tiêu “Tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn

pháp luật cho mọi người trong xã hội” [26].

Là cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Nội vụ, do vậy chương trình GDPL trang bị

kiến thức pháp luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo của Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội được tập trung vào mục tiêu là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ

pháp luật trong một số lĩnh vực chuyên ngành về: Luật học, Chính trị học, Quản

lý nhà nước, Quản lý văn hóa, Quản trị nhân lực, Quản trị văn phòng, Lưu trữ

học, Khoa học thư viện…, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ngành Nội

vụ, nhân lực quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp góp phần thực hiện yêu

cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

43

Các môn học liên quan đến kiến thức pháp luật nhà trường đã triển khai

giảng dạy gồm: Pháp luật đại cương; Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam;

Luật Hành chính; Luật Lao động; Luật Hiến pháp (Việt Nam và nước ngoài);

Pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Lý luận về nhà nước và pháp luật; Pháp

luật về chính quyền địa phương; Pháp luật về thi đua, khen thưởng; Pháp luật về

thanh tra, khiếu nại, tố cáo… Những nội dung được lồng ghép trong các giờ học

chính khóa của sinh viên gồm các quy định mới liên quan đến giáo dục; các hành

vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo dục ý thức tôn trọng, chấp

hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; quyền, nghĩa vụ cơ

bản của công dân…

Ngoài ra, nhà trường còn tổ chức các hoạt động GDPL ngoại khóa và các

hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp với chủ trương của Đảng, các nội dung

chính sách pháp luật về mọi mặt của đời sống xã hội: an ninh quốc phòng, ý thức

trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; phòng chống tham nhũng, lãng phí;

phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường,

bảo vệ tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu; an toàn thực phẩm; bảo vệ

quyền lợi của người tiêu dùng; an toàn giao thông; phòng, chống bạo lực học

đường; cải cách hành chính; pháp luật về Internet và an toàn thông tin mạng; hoạt

động đối ngoại và hội nhập quốc tế…

Trong những năm vừa qua, Nhà trường đã giao các đơn vị thuộc trường tổ

chức một số Hội thảo khoa học, hội nghị, nói chuyện chuyên đề về một số nội

dung: “Tổ chức chính quyền địa phương: Quy định pháp luật - thực tiễn của

Pháp và Việt Nam”; Hội nghị phổ biến, tuyên truyền pháp luật về biển đảo và

công tác biên giới trên đất liền; “Những điểm mới trong Luật Tổ chức chính

quyền địa phương”; “Những điểm mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước Việt Nam”; Kế hoạch triển khai thực hiện Ngày pháp luật Việt Nam hàng

năm…

Qua nghiên cứu chuẩn đầu ra, vị trí việc làm của các chuyên ngành do nhà

44

trường đào tạo, có thể thấy các học phần pháp luật đã cơ bản đáp ứng được yêu

cầu trong nội dung GDPL liên quan đến ngành nghề đào tạo. Sau khi ra trường,

sinh viên sẽ được trang bị các kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh vực đào tạo

của mình. Ví dụ như ngành Quản lý nhà nước, ngoài học phần Pháp luật đại

cương, sinh viên còn được học Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Luật Hiến

pháp, Luật Hành chính, Pháp luật về chính quyền địa phương, Pháp luật về Thi

đua - Khen thưởng, Pháp luật về Thanh tra, khiếu nại, tố cáo; ngành Quản trị văn

phòng có các học phần về Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, Luật Lao động… Theo

đó, sinh viên đã cơ bản nắm được những kiến thức pháp luật cần thiết để ứng

dụng vào thực tiễn cuộc sống cũng như ngành nghề mình đã chọn.

2.1.6. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội

2.1.6.1. Hình thức giáo dục pháp luật chính khóa cho sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội

Để hoàn thiện quá trình giáo dục, thời gian qua Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội đã từng bước thực hiện các đổi mới, trong đó có đổi mới hình thức GDPL

trong chương trình giáo dục chính khóa. Những thay đổi này thực sự đã đóng góp

lớn vào quá trình GDPL cho sinh viên, làm thay đổi theo hướng đa dạng hóa và

chuyển dần từ truyền thụ một chiều theo kiểu học truyền thống sang hướng tích

cực hóa người học.

Hình thức GDPL chính khóa trong nhà trường được chú trọng và ưu tiên

hơn, có thời lượng nhiều hơn để giảng viên và sinh viên thực hiện việc giảng dạy

và học tập. Chương trình GDPL chính khóa có quy định rõ về nội dung, giảng

viên có lịch giảng cụ thể, có phương pháp đánh giá được công bố rõ cho người

học vào đầu môn học. Trong quá trình giảng dạy, học tập do khoa chuyên môn

thực hiện, công tác GDPL còn được sự hỗ trợ, phối hợp của nhiều cá nhân, phòng

ban, đơn vị trong Trường như: Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo đại học,

Phòng Khảo thí bảo đảm chất lượng, Phòng Công tác sinh viên. Kết quả học tập

45

phải được thực hiện bằng điểm số rõ ràng, cụ thể và hình thức học tập chính khóa

là bắt buộc nên sinh viên phải đầu tư thời gian và công sức trong học tập. Vì

những lý do trên mà cho đến nay hình thức giáo dục pháp luật chính khóa vẫn đạt

được nhiều kết quả hơn so với hình thức GDPL ngoại khóa.

2.1.6.2. Hình thức giáo dục pháp luật ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp cho sinh

viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Ngoài các giờ học chính khóa với các môn học về pháp luật được đưa vào

giảng dạy ở các ngành học, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội còn chú trọng triển

khai tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến, GDPL ngoại khóa và các hoạt

động GDPL cho sinh viên ngoài giờ lên lớp. Các hình thức đã được tổ chức triển

khai gồm có: Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề nâng cao hiểu biết, ý thức

chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, Nhà trường còn tổ

chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến, GDPL khác như phát sách báo, tờ rơi,

treo băng rôn, khẩu hiệu; thông qua hệ thống mạng Internet; thông qua tài liệu phổ

biến pháp luật; xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật tại Thư viện của nhà

trường; lồng ghép nội dung GDPL trong tuần sinh hoạt công dân đầu năm học, các

buổi sinh hoạt lớp, chi đoàn; lồng ghép trong các đợt sinh hoạt chính trị chuyên đề,

sinh hoạt chính trị nhân các ngày lễ lớn; lồng ghép trong các hoạt động văn hóa văn

nghệ, thể dục thể thao; lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ: Câu lạc bộ

Nhà quản trị nhân lực, Câu lạc bộ Sách Nội vụ, Câu lạc bộ Thanh niên vận động

hiến máu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội…)

Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng

Hấp dẫn

Bình thường

Không hấp dẫn

51,8 41,1

6,4

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương

59,5 36,2

3,1

2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên

52,1 41,1

4,3

3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)

Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật

46

32,8 52,1

12,0

4. Phát sách báo, tờ rơi

42

45,7

8,3

48,4 41,7

6,7

56,4 35,6

5,8

5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường

59,5 32,8

4,6

8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ

62,9 29,1

4,0

9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên

60,7 31,9

4,6

10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

63,5 30,4

3,4

11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

Trong số các hình thức giáo dục pháp luật mà nhà trường đã áp dụng, ý kiến

đánh giá hình thức tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật “hấp dẫn” chiếm tỷ lệ

cao nhất (63,5%); tiếp đến là hình thức: Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề

về pháp luật cho sinh viên (62,9%); Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

(60,7%); các hình thức: Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên và

Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ đều có tỷ lệ lựa chọn là 59,5%;

Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường có tỷ

lệ 56,4%. Ngoài ra, hai hình thức Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh

hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học) và Học phần pháp luật, pháp luật đại

cương cũng có tỷ lệ ở mức trên 50% (tỷ lệ cụ thể lần lượt là 52,1% và 51,8%).

Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng

Hiệu quả 64,7

Bình thường 30,4

Không hiệu quả 3,7

63,8

31,0

4,3

59,5

33,1

4,6

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)

36,8

52,5

8,6

4. Phát sách báo, tờ rơi

Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật

47

Hiệu quả

Bình thường

Không hiệu quả

44,2 44,5

7,4

57,4 34,7

5,5

60,7 32,8

4,0

60,7 31,3

4,9

64,4 27,9

4,9

61,0 31,6

4,0

5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

61,3 32,2

3,7

11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

Sinh viên đánh giá khá cao mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục

pháp luật mà nhà trường đã áp dụng. Ngoại trừ hai hình thức: Phát sách báo tờ rơi

và Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá có tỷ lệ sinh viên

đánh giá “Hiệu quả” ở mức dưới 45%, còn lại tất cả các hình thức khác đều có tỷ

lệ sinh viên đánh giá hiệu quả ở mức từ 57,4% đến 64,7%. Trong đó ba hình thức

có tỷ lệ đánh giá ở mức “Hiệu quả” cao nhất là: Giáo dục trong các học phần

pháp luật, pháp luật đại cương; Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp

luật cho sinh viên; Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên (xem

bảng 6).

Những hoạt động GDPL ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp đã được Ban Giám

hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cùng các khoa chuyên môn, các tổ chức

chính trị - xã hội quan tâm, tổ chức thực hiện đã phần nào tạo được sự chuyển

biến về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của

sinh viên, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục

toàn diện của Nhà trường.

2.1.6.3. Phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội chủ yếu áp dụng các phương pháp giảng

dạy tiên tiến, tích cực, với mục tiêu lấy người học làm trung tâm, phát huy tính

48

chủ động, sáng tạo của người học trong việc tiếp cận, lĩnh hội tri thức. Những

phương pháp thường được sử dụng trong GDPL tại Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội:

Một là, nhóm các phương pháp dạy học sử dụng ngôn ngữ như phương pháp

diễn giảng; phương pháp vấn đáp; phương pháp thảo luận; phương pháp sử dụng

sách giáo khoa, tài liệu và internet (được sử dụng nhiều khi giảng viên hướng dẫn

sinh viên tự học, tự nghiên cứu nhằm mở rộng thêm kiến thức); phương pháp dạy

học nêu vấn đề (giảng viên đưa ra tình huống mâu thuẫn, có vấn đề, tạo cho sinh

viên cảm hứng tranh luận sôi nổi để giải quyết vấn đề)

Hai là, nhóm các phương pháp dạy học trực quan, là phương pháp dạy học

mà giảng viên huy động các giác quan của sinh viên tham gia vào quá trình học

tập, làm cho việc nhận thức trở nên cụ thể, dễ dàng và chính xác hơn. Nhóm này

bao gồm các phương pháp: phương pháp minh họa (bằng hình ảnh, clip quay, số

liệu, các bảng thống kê, những tình huống, sự kiện pháp lý có liên quan; phương

pháp quan sát thực tế; phương pháp dạy học có sử dụng phương tiện hiện đại

(máy tính, projector…)

Có nhiều phương pháp để giảng viên thực hiện nhằm chuyển tải nội dung

GDPL và tạo cảm hứng học tập cho sinh viên. Trong một nội dung giảng dạy,

giảng viên thường kết hợp nhiều phương pháp phù hợp với nội dung và mục tiêu

của bài học, với đối tượng… để đạt hiệu quả cao nhất cho cả người dạy và người

học.

Ngoài các phương pháp nói trên, giảng viên phải kết hợp với phương pháp

khuyên giải khi GDPL cho sinh viên. Phương pháp này đòi hỏi chủ thể GDPL

phải hiểu rõ đối tượng của mình, hiểu các em đang cần uốn nắn, hỗ trợ những gì.

Với phương pháp khuyên giải, giảng viên phải thật sự trở thành những người gần

gũi với sinh viên, lắng nghe sự chia sẻ của các em để có thể cảm hóa các em qua

những tình huống pháp luật có liên quan, qua những quy định pháp luật, những

chuẩn mực đạo đức để hướng các em trở thành người tốt. Có thể nói rằng, trong

GDPL cho sinh viên phải kết hợp cả giáo dục đạo đức và giáo dục kỹ năng sống.

49

2.1.7. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ giáo dục pháp luật cho sinh

viên

Hiện nay cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác GDPL cho

sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã được quan tâm đầu tư. Mỗi giảng

đường, lớp học đều có trang bị hệ thống máy chiếu projector. Tại Trung tâm

Thông tin - Thư viện của trường được cập nhật và bổ sung thường xuyên rất

nhiều sách báo, tài liệu liên quan đến pháp luật. Tủ sách pháp luật của nhà trường

đa dạng, phong phú với rất nhiều đầu sách giấy và sách điện tử, giúp sinh viên tra

cứu thông tin pháp luật dễ dàng, thuận tiện.

Tuy nhiên cơ sở vật chất của nhà trường vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu

thực tiễn của công tác này. Chủ yếu các hoạt động GDPL cho sinh viên vẫn được

thực hiện tại các phòng học và tại hội trường, chưa có sự đầu tư cho phòng học

giả lập các văn phòng, công ty luật hay mô hình tòa án.

Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử

liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Nội dung

Số lượng

TT

Sách giấy

1

2250

Sách điện tử

2

588

Oxford Scholarship Online eBook. Law Collection - chủ đề chính :

3

282

Luật quốc tế, Luật nhân quyền Luật hình sự, Luật châu Âu…

IG Publishing -Danh mục bộ sưu tập sách điện tử Peer Practice

4

129

Title Listing Chủ đề chính : Luật, Hành chính công, Luật dân sự…

(Nguồn: Trung tâm Thông tin - Thư viện cung cấp)

2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội

2.2.1. Những kết quả cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh viên

Trong những năm vừa qua, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội luôn chú trọng

việc tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên.

Nhìn vào biểu đồ 1 cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá cao mức độ hữu

50

ích của các nội dung pháp luật đã được giáo dục từ nhà trường. Tỷ lệ cho rằng các thông tin này hữu ích ở mức rất cao, trong khoảng từ 42,9% đến 55,8%. Tỷ lệ cho rằng các thông tin này ở mức rất hữu ích cũng tương đối cao, nằm trong khoảng từ 30,1% đến 48,5%. Điều đó có thể cho thấy việc định hướng các nội dung trong chương trình giáo dục pháp luật của nhà trường dành cho sinh viên là phù hợp và đáp ứng được nhu cầu hiểu biết của các em.

55.8

60

50.9

49.4

48.5

47.5

47.2

46.0

45.7

45.4

45.4

50

42.9

42.9

40.2

37.4

37.4

36.8

40

33.7

33.1

31.3

30.1

30

20

10

0

Dân sự Hình sự Hành chính

Giáo dục, y tế

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Lao động, việc làm

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn xã hội

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên

Rất hữu ích

Hữu ích

Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật

Việc tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật của nhà trường cũng tương

đối đa dạng về hình thức. Hầu như các ý kiến đều cho rằng thông qua các hình

thức giáo dục pháp luật chính khóa và ngoại khóa, những nội dung pháp luật

được chuyển tải đến sinh viên một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ hơn,

sinh động hơn, tránh được sự cứng nhắc, khô khan; đối tượng tiếp nhận các kiến

thức pháp luật một cách thoải mái và hoàn toàn chủ động, hiểu biết về pháp luật

và khả năng áp dụng pháp luật của đối tượng được nâng cao hơn. Thông qua các

hình thức giáo dục pháp luật, bên cạnh nâng cao hiểu biết nội dung pháp luật, kỹ

năng tuyên truyền giáo dục pháp luật của sinh viên cũng được gọt dũa, được tôi

luyện, trở nên tinh hơn, hiệu quả hơn. Nhờ vậy, pháp luật có điều kiện lan toả, dễ

đi vào cuộc sống của sinh viên hơn, phát huy hiệu quả tốt hơn.

Khi tìm hiểu về nhận thức, mức độ hiểu biết của sinh viên đối với một số

51

Luật phổ biến và có tác động trực tiếp đến các mặt trong đời sống của sinh viên

hiện nay như: Quyền và nghĩa vụ của thanh thiếu niên, sinh viên; dân sự; hình sự;

hành chính; hôn nhân và gia đình; bảo vệ môi trường; Lao động việc làm; Y tế,

giáo dục; Giao thông đường bộ; Phòng chống tệ nạn xã hội, kết quả khảo sát cho

thấy: trong các luật được kể ra, phần lớn sinh viên cho rằng mình có biết một vài

nội dung cụ thể (dao động trong khoảng từ 46% đến 54,6%); tỷ lệ cho rằng đã

nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể nằm trong khoảng từ 18,7% đến

35,9%. Tỷ lệ sinh viên cho rằng mình có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong

lĩnh vực này chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ dao động trong khoảng từ 1,8% đến 6,7%.

Vẫn còn khoảng từ 1,8% đến 4,3% sinh viên cho rằng mình chưa nghe nói đến

quy định của Luật về các lĩnh vực này (Bảng 8).

Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng

Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên

Chưa nghe nói đến Có biết một vài nội dung cụ thể Biết phần lớn các quy định trong lĩnh vực này Có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong lĩnh vực này Đã nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể

28,2 47,5 16,6 2,5 5,5

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự Hình sự 3,1 4,3 52,8 50,0 7,7 9,5 1,8 2,1 34,7 34,0

Hành chính 3,7 46,0 12,0 2,5 35,9

Hôn nhân và gia đình Bảo vệ môi trường Lao động, việc làm 3,1 1,8 4,0 50,6 52,8 48,2 14,7 14,7 11,0 2,8 6,7 3,4 28,8 23,9 33,4

Giáo dục, y tế 3,1 54,6 11,0 4,3 27,0

3,1 50,9 20,9 6,4 18,7

3,7 50,0 18,7 6,1 21,5 Giao thông đường bộ Phòng, chống tệ nạn XH

52

Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng, đối với tất cả các lĩnh vực Luật thì “Sách

báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình” vẫn là kênh cung cấp thông tin, kiến

thức phổ biến nhất đối với sinh viên (36,5% đến 44,2%). Nguồn cung cấp các

kiến thức Luật quan trọng thứ hai đối với sinh viên đó là “Thầy cô giáo” (17,2%

đến 31,6%). Tỷ lệ sinh viên cho rằng hiểu biết luật của mình là do đọc trực tiếp từ

các văn bản Luật chiếm tỷ lệ thứ ba (12,6% đến 23,9%). Ngoài ra sinh viên còn

tiếp cận các thông tin, kiến thức Luật từ một số nguồn khác như: Bố mẹ, họ hàng,

làng xóm; Bạn bè; Tổ chức đoàn thể… Tuy nhiên tỷ lệ sinh viên tiếp cận thông

tin từ các nguồn này đều thấp và không đáng kể (Bảng 9)

Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng

Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên

Khác Bạn bè Thầy cô giáo Đọc trực tiếp từ Luật Tổ chức đoàn thể Bố mẹ, họ hàng, làng xóm

19,9 36,2

3,1

1,5

31,6

5,8

1,8

23,9 41,1

2,8

3,1

25,5

2,5

1,2

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

23,6 39,9

3,7

2,5

26,4

1,8

2,1

Hình sự

22,7 36,5

2,8

3,1

28,2

4,3

2,5

Hành chính

17,5 37,1

12,6

2,5

25,2

3,4

1,8

Hôn nhân và gia đình

13,2 43,9

4,6

2,5

24,2

9,5

2,1

Bảo vệ môi trường

16,3 44,2

6,7

7,7

17,2

3,4

4,6

Lao động, việc làm

12,6 40,2

7,7

4,6

25,5

6,4

3,1

Giáo dục, y tế

22,7 41,4

5,8

4,0

17,8

5,2

3,1

Giao thông đường bộ

5,2

5,5

19,9

7,4

2,5

Phòng, chống tệ nạn XH 18,7 40,8

Đọc trên sách báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình

53

Phần lớn sinh viên đánh giá về hiểu biết pháp luật của sinh viên trong trường

Đại học nội vụ Hà Nội nói chung ở mức “Bình thường” (tỷ lệ này ở mức từ

42,3% đến 58%). Một số lĩnh vực Luật pháp được sinh viên đánh giá là hiểu biết

của sinh viên ở mức “Tốt” chiếm tỷ lệ cao là: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên,

thiếu niên, sinh viên (41,7%); Giáo dục, y tế (37,1); Phòng, chống tệ nạn xã hội

(36,8%); Giao thông đường bộ (33,4%); Lao động, việc làm (30,7%); đối với các

lĩnh vực khác, tỷ lệ cho rằng hiểu biết của sinh viên ở mức Tốt chỉ nằm trong

khoảng từ 25,2% đến 27,9% (bảng 10).

Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng

Rất tốt

Tốt

Kém

Bình thường

Không biết

9,5

41,7

42,3

4,3

2,1

3,7

27,3

55,5

9,5

4,0

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

3,4

26,4

56,4

9,8

4,0

Hình sự

5,5

27,9

55,8

7,4

3,4

Hành chính

3,1

25,2

58,0

8,6

5,2

Hôn nhân và gia đình

4,6

32,2

50,9

9,5

2,8

Bảo vệ môi trường

3,7

30,7

56,4

6,1

3,1

Lao động, việc làm

4,0

37,1

50,9

5,8

2,1

Giáo dục, y tế

5,5

33,4

51,8

6,7

2,5

Giao thông đường bộ

4,9

2,5

6,4

36,8

49,4

Phòng, chống tệ nạn xã hội

Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung

Có một thực tế đáng báo động, đó là có tới 68,1% sinh viên được hỏi cho

rằng: Có tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội

nhưng không phổ biến; 13,5% ý kiến cho rằng tình trạng vi phạm pháp luật của

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội là khá phổ biến và chỉ có 13,5% ý kiến

sinh viên được hỏi cho rằng không có tình trạng sinh viên đại học nội vụ Hà Nội

vi phạm pháp luật. Trong đó có 48,8% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm

Luật Giao thông đường bộ; 39% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật

Bảo vệ môi trường; 31% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm các quy định

54

về quyền và nghĩa vụ của thanh, thiếu niên, sinh viên; 13,2% cho rằng có tình

trạng vi phạm Luật dân sự; 12,6% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật

phòng chống tệ nạn xã hội; 8,6% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật

Hôn nhân gia đình. Ngoài ra, tỷ lệ cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm các

Luật khác như Hành chính; Lao động, việc làm; Giáo dục, y tế lần lượt là (6,4%;

4,6% và 3,7%).

Thực tế cho thấy trong thời qua Đoàn Thanh niên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội đã phối hợp với các đơn vị kết hợp phổ biến giáo dục pháp luật với quá

trình dạy học; tăng cường giáo dục phổ biến pháp luật thông qua tuyên truyền

miệng; qua các buổi sinh hoạt đoàn thể để phổ biến, giáo dục pháp luật, thi tìm

hiểu pháp luật để sinh viên được nghe, xem trực tiếp nội dung phổ biến, giáo dục

pháp luật để nắm bắt kịp thời các thông tin pháp luật, các văn bản pháp luật mới;

qua các cuộc ra quân tuyên truyền, cổ động; văn hóa, văn nghệ...

2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả giáo dục pháp luật cho sinh viên - Lãnh đạo Nhà trường rất quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật:

Trong thời gian qua Lãnh đạo Nhà trường luôn chú trọng công tác GDPL

cho sinh viên, xem việc GDPL cho sinh viên gắn bó hữu cơ với hoạt động giáo

dục nói chung, giúp sinh viên hình thành tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi

phù hợp với pháp luật hiện hành, có ý thức tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, Đảng ủy,

Ban Giám hiệu Nhà trường chủ động lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, quán triệt

Quyết định số 1928/QĐ - TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ đề ra

mục tiêu: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật trong nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn

trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà giáo, cán bộ quản lý cơ

sở giáo dục và người học, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện” [36], Luật Phổ biến, Giáo dục pháp luật năm 2012

[34]. Đảng ủy, Ban Giám hiệu chủ đạo thực hiện nghiêm túc chương trình khung

giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành ở đó có học phần pháp

55

luật đại cương hoặc các học phần liên quan đến pháp luật. Thực hiện Nghị quyết

số 67/2007/NQ - CP của Chính phủ và Chỉ thị số 45/2007/CT -BGDĐT của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay Nhà trường đã đưa môn pháp luật đại

cương vào chương trình chính khóa của các ngành đào tạo.

Nâng cao chất lượng giảng dạy môn học Nhà nước và Pháp luật trong

chương trình giáo dục đào tạo là nội dung được lãnh đạo cũng được Nhà trường

quan tâm hàng đầu. Công tác đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp

dạy học phù hợp với cấp học, thực tiễn pháp lý được chỉ đạo thường xuyên. Việc

thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật mới, tổ chức tốt hoạt

động chấp hành pháp luật; quán triệt và thực hiện nghiêm pháp luật. Xây dựng

môi trường văn hóa pháp luật trong sạch, tự giác và nghiêm minh trong các nhà

trường luôn được lãnh đạo Nhà trường chú trọng. Trong đó Nhà trường đặc biệt

chú trọng đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên theo hướng hiện đại,

thiết thực và phù hợp với ngành, chuyên ngành đào tạo của sinh viên; đặt giáo

dục pháp luật trong mối quan hệ mật thiết với giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo

đức và giáo dục truyền thống.

Ngày 20/6/2012, Quốc hội khóa 13 đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục

pháp luật, trong đó quy định lấy ngày 09/11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc lấy ngày ra đời bản Hiến pháp đầu

tiên là Ngày pháp luật hàng năm càng có ý nghĩa hơn trong việc thể hiện tinh thần

tôn vinh các giá trị, vai trò của Hiến pháp, pháp luật trong cuộc sống mỗi con

người và trong sự phát triển của quốc gia, qua đó làm cho tinh thần thượng tôn

pháp luật thực sự thấm sâu vào ý thức, hành vi, hoạt động của mọi người dân, cơ

quan, tổ chức và toàn xã hội. Từ năm 2012 cho đến nay, hầu như hàng năm

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đều tổ chức các buổi tọa đàm, nói chuyện chuyên

đề về giáo dục pháp luật do Đảng ủy chủ trì tổ chức. Ví dụ, năm 2015, Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội tổ chức chương trình nói chuyện chuyên đề “Những điểm

mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam” do PGS.TS Đinh

Xuân Thảo - Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ

56

Quốc hội trình bày.

Với vai trò là một cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Nội vụ, Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho

toàn thể cán bộ công chức, viên chức, người lao động và sinh viên trong Nhà

trường. Buổi nói chuyện chuyên đề chính là dịp để mỗi cá nhân trong Trường

nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật mà cụ thể là những điểm mới về tổ chức và

hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Thông qua hình thức này, sinh viên

được nghe nhiều thông tin hữu ích cũng như trực tiếp trao đổi, chia sẻ với diễn

giả về một số vấn đề liên quan đến nội dung luật quy định hoạt động bộ máy nhà

nước ta.

- Nội dung của giáo dục pháp luật bám sát các quy định của nhà nước

Thực hiện GDPL theo đúng các nội dung được quy định tại Luật phổ biến,

GDPL; Chương trình phổ biến, GDPL giai đoạn 2008-2012 (kéo dài hết 2016);

Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành

Chương trình phổ biến, GDPL giai đoạn 2017-2021; Quyết định số 3957/QĐ-

BGDĐT ngày 28/9/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch tiếp tục

triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”…

- Hình thức, phương pháp giảng dạy đã có những đổi mới kịp thời, phù hợp

với quy định của pháp luật và nhu cầu của sinh viên.

Để hoàn thiện quá trình giáo dục, thời gian qua, giảng viên Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội đã từng bước thực hiện các đổi mới, trong đó có đổi mới hình

thức GDPL trong chương trình giáo dục chính khóa. Những thay đổi này thực sự

đã đóng góp lớn vào quá trình GDPL cho sinh viên, làm thay đổi theo hướng đa

dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều theo kiểu học truyền thống sang

hướng tích cực hóa người học. Chương trình GDPL ngoại khóa được tổ chức với

ngày càng đa dạng về hình thức, hấp dẫn về nội dung, thu hút sự tham gia của

đông đảo sinh viên.

Công tác GDPL cho sinh viên đã áp dụng những phương pháp giáo dục khoa

57

học, phù hợp với đối tượng, tâm lí, trình độ của sinh viên. Bên cạnh đó, Nhà

trường đã có sự phối hợp với các ban ngành liên quan như: Cảnh sát giao thông,

lực lượng công an, các cơ quan truyền thông… trong việc GDPL cho sinh viên,

góp phần nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên. Giáo dục pháp luật cho sinh

viên cần có sự cương quyết, sử dụng các biện pháp cứng rắn; tuy nhiên bên cạnh

đó cần sử dụng những biện pháp mềm dẻo để khuyên răn, giáo dục, thuyết phục

giúp sinh viên nhận thức được những điều đúng - sai, từ đó lựa chọn các hành vi

đúng chuẩn mực.

- Cơ sở vật chất của Trường phục vụ giáo dục pháp luật cơ bản bảo đảm:

Hiện nay cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác GDPL cho

sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã được quan tâm đầu tư. Mỗi giảng

đường, lớp học đều có trang bị hệ thống máy chiếu projector. Tại Trung tâm

Thông tin - Thư viện của trường được cập nhật và bổ sung thường xuyên rất

nhiều sách báo, tài liệu liên quan đến pháp luật. Tủ sách pháp luật của nhà trường

đa dạng, phong phú với rất nhiều đầu sách giấy và sách điện tử, giúp sinh viên tra

cứu thông tin pháp luật dễ dàng, thuận tiện.

2.2.3. Những hạn chế trong giáo dục pháp luật cho sinh viên

Cũng như các cơ sở đào tạo khác, trong thời gian qua, mặc dù công tác

GDPL đã được chú trọng, đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức, tuy nhiên,

nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả công tác này vẫn chưa rõ nét, chưa khắc phục

được tính hình thức, phong trào.

Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên còn nặng về phổ biến các quy

định của pháp luật, đã định hướng cho sinh viên rèn luyện kỹ năng ứng xử, kỹ

năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề của cuộc sống tuy nhiên chưa

đáp ứng được nhu cầu thực tế của sinh viên.

Hình thức GDPL mặc dù đã được áp dụng khá đa dạng, phong phú, song

nhìn chung hiệu quả còn chưa cao. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ở

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã đề cập đến nhiều nội dung như tuyên truyền,

phổ biến các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo dục ý thức

58

tôn trọng, chấp hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; tác

động của chính sách, pháp luật; quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội dung

chính sách, pháp luật về: an ninh quốc phòng, ý thức trách nhiệm về nhiệm vụ

bảo vệ Tổ quốc; phòng chống tham nhũng, lãng phí; phòng, chống tội phạm, vi

phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng

phó với biến đổi khí hậu; an toàn thực phẩm; an toàn giao thông; phòng, chống

mua bán người, bạo lực gia đình, bạo lực học đường; về cải cách hành chính, cải

cách tư pháp và hoạt động tư pháp; về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,

nâng cao năng lực cạnh tranh; về hỗ trợ khởi nghiệp; hoạt động đối ngoại và hội

nhập quốc tế... Sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhấn mạnh việc tăng

cường tuyên truyền, phổ biến thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật, gắn với

những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội,

gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.

Còn có tình trạng sinh viên vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy còn có một

số sinh viên lười học, trốn học, nghiện Internet,… Việc sinh viên tham gia chơi lô

đề, cá độ bóng đá hay đánh bạc trong khu ngoại trú ở trọ nhà dân không thể

không có.

Lĩnh vực pháp luật mà sinh viên vi phạm nhiều nhất từ kết quả khảo sát là

những quy định pháp luật về giáo dục, giao thông, tệ nạn xã hội. Một số hành vi

sinh viên thường vi phạm như điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe; chở

quá số người qui định; không chấp hành hiệu lệnh đèn tín hiệu giao thông; sử

dụng điện thoại, thiết bị âm thanh khi điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp; đi xe

dàn hàng ngang; sử dụng ô khi điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy; đi bộ

qua đường không đúng nơi qui định...

2.2.4. Những nguyên nhân cơ bản của hạn chế trong giáo dục pháp luật

cho sinh viên

- Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục pháp luật

cho sinh viên chưa chặt chẽ

Quyết định Số: 705/QĐ-TTg ngày 25 tháng 05 năm 2017 khẳng định: Tiếp

59

tục đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng, tổng kết,

nhân rộng các mô hình có hiệu quả đã và đang được triển khai thực hiện. .. Nâng

cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đáp ứng yêu

cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tăng cường bồi dưỡng, tập

huấn chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy môn giáo dục công dân, môn

pháp luật…Tuy nhiên sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo

dục pháp luật cho sinh viên ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vẫn có dừng lại ở

mức độ nhất định.

Gia đình bao giờ cũng là môi trường ảnh hưởng đầu tiên và xuyên suốt quá

trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên. Sinh viên luôn chịu tác

động bởi không khí thương yêu, hòa thuận, đùm bọc trong gia đình. Sinh viên

cũng chịu sự ảnh hưởng cực lớn từ cách thức xử sự và mối quan hệ của cha mẹ

họ với nhau, với các thành viên ruột thịt khác. Cha mẹ họ luôn là hình ảnh mẫu

mực về người lớn, người chịu trách nhiệm đối với gia đình và xã hội... nên sinh

viên có chiều hướng giống các đức tính của cha mẹ mình nhiều hơn là không

giống họ. Thực tế khảo sát những trường hợp vi phạm pháp luật của sinh viên,

chúng tôi thấy rằng chính cha mẹ của các em đã tạo ra những mặc cảm tiêu cực

dẫn đến vi phạm pháp luật (sinh viên bắt đầu nghỉ học thất thường để hy vọng tìm

kiếm việc làm thêm và làm thêm; ban đầu là với mong muốn chia sẻ gánh nặng

gia đình, nhưng lâu thì quen dần với việc bỏ học, bị bạn bè, thầy cô than phiền,

xa lánh… và sau đó, có thể là sẽ bỏ học, theo rủ rê của bạn bè xấu để vi phạm

pháp luật. Hành vi ban đầu trong những tình thế đó thường là trộm cắp vặt, hành

động du côn “trả thù” những bạn cùng lớp trường đã chế giễu, coi thường họ

trước đây).

Như đã trình bày, công tác giáo dục pháp luật ở Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội trong thời gian qua đã dẫn lôi cuốn sinh viên. Tuy nhiên tình trạng vi phạm

pháp luật của sinh viên trong thời gian qua cho thấy những tác động của “mặt

trái” của lối sống thực dụng, tiền tệ hoá các quan hệ xã hội. Điều này đưa đến các

hậu quả tiêu cực trên nhiều góc độ, như sự mất phương hướng và một bộ phận

60

sinh viên, sự xung đột giữa các thế hệ trong gia đình, trong các tầng lớp xã hội có

vị trí, có trình độ, điều kiện sống khác nhau làm phát sinh và phát triển của những

vi phạm pháp luật của sinh viên. Những sinh viên có điều kiện vật chất khá giả

của gia đình và sự quản lý lỏng lẻo cũng thường khiến họ nhanh chóng sa đà vào

những thú vui hưởng thụ vật chất tầm thường (trò chơi bạo lực, đua xe cảm giác

mạnh, ăn nhậu, quậy phá, nghiện hút…) đến những hành vi phạm pháp. Kết quả

học tập sa sút, bỏ học nhiều ngày, thậm chí cả tháng gia đình mới biết, và thay vì

nhận ra thiếu sót quản lý của mình, các bậc phụ huynh lại quay sang trách phạt,

đổ lỗi tại con đã tự làm hư hỏng bản thân.

Gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong giáo dục

pháp luật vì đây là những môi trường cơ bản hình thành nhân cách của sinh viên.

Nhà trường (thầy cô và bạn học) là người ảnh hưởng mạnh đến quá trình hình

thành tính cách của sinh viên. Môi trường nhà trường cũng là nơi sinh viên trải

nghiệm nhận thức và thái độ giao tiếp với cộng đồng. Nhà trường là nơi đầu tiên

sinh viên được tự do vượt ra sự che chở và điều khiển của cha mẹ, họ phải học

cách tự đưa ra quyết định, suy nghĩ cho bản thân và có trách nhiệm về các hành

động của mình. Đây cũng là giai đoạn, mà theo nghiên cứu tâm lý là “đầy rẫy

những mơ hồ, hụt hẫng và mâu thuẫn” và khi vượt qua được các rối loạn này,

sinh viên mới có khả năng trưởng thành, độc lập, có khả năng cho/nhận và liên

kết với người khác.

Thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy đã có không ít trường hợp, do gia

đình sinh viên đã đặt ra những “chỉ tiêu” phấn đấu quá cao so với năng lực của

sinh viên và nhà trường cũng đề ra chỉ tiêu học tập quá nhiều đối với các em nên

nhiều em đã phát sinh xung đột từ tình trạng stress; trước tiên có thể là vấn đề thể

chất như ăn, ngủ, rối loạn vận động và tiếp đến là các vấn đề hành vi như không

vâng lời, trốn nhà, trốn học…

- Sự bùng nổ của thông tin không chính thống:

Công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ cũng găp

không ít khó khăn khi hiện nay công nghệ thông tin phát triển mạnh, công

61

nghiệp giải trí điện tử ra đời cung cấp các sản phẩm băng, đĩa games điện tử,

games oline, sách, tranh ảnh điện tử… với các nội dung vô cùng phong phú và

phức tạp. Trong đó, nhiều sản phẩm có nội dung tập trung vào hai khuynh hướng

vi phạm pháp luật như bạo lực, tình dục... Các dòng sản phẩm văn hóa tốt, xấu

trộn lẫn từ bên ngoài nhập vào “như mưa lũ”; với cơ chế kiểm soát còn nhiều bất

cập, chưa kịp sàng lọc và sinh viên chưa được trang bị cơ chế “tự vệ” nên đương

nhiên các em sẽ phải hấp thụ một cách tự nhiên, dù ít hay nhiều, dù tự giác hay

không tự giác các khuynh hướng thẩm mỹ tiêu cực đó.

- Sự phối hợp trong giáo dục pháp luật giữa các đơn vị trong trường còn

hạn chế:

Thực tế cho thấy việc GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

trong thời gian qua còn thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị trong trường. Nhiều

đơn vị còn mờ nhạt trong GDPL cho sinh viên. Công tác GDPL cho sinh viên ở

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian qua chủ yếu tập trung ở Khoa

Pháp luật Hành chính, Đoàn Thanh niên Trường…thiếu vắng sự phối hợp giữa

các khoa. Ngoài chức năng đào tạo, khoa còn có các chức năng khác như Xây

dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo

đức, lối sống cho đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên và người học, tổ chức đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên và cán

bộ nhân viên thuộc Khoa.

- Cơ hội tiếp cận thông tin về giáo dục pháp luật của sinh viên còn hạn chế:

Việc chưa am hiểu kiến thức pháp luật dẫn đến sinh viên vi phạm các quy

định của pháp luật hoặc chịu thiệt thòi là câu chuyện mà sinh viên Trường Đại

học Nội vụ Hà Nội cũng như các trường khác. Thực tế cho thấy đa số sinh viên

phải thuê trọ hoặc ở ký túc xá. Do không am hiểu về pháp luật, nhiều trường hợp

xảy ra tranh chấp với chủ trọ vấn đề đặt cọc, hợp đồng thuê trọ hoặc đăng ký cho

bạn qua đêm, chủ trọ thu tiền điện cao hơn giá quy định.

Môn pháp luật đại cương đã đưa vào khung chương trình đào tạo. Tuy

nhiên, môn học này thường chỉ được bố trí 2 đến 3 tín chỉ (khoảng 30 - 45 tiết, so

62

với hệ thống pháp luật quá nhiều văn bản luật (gần 20 ngành luật) như hiện nay,

chừng đó là không đủ để sinh viên nắm bắt được những kiến thức cần thiết của

pháp luật Việt Nam. Việc mời báo cáo viên, tổ chức các hoạt động như một số

trường từng làm vẫn chưa đủ, do xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mới, pháp luật

cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi để phù hợp. Do đó, các

nguồn cung cấp kiến thức về pháp luật cho sinh viên chỉ dừng lại mức độ nhất

định.

Nguồn kiến thức pháp luật mà sinh viên tiếp nhận chủ yếu từ giảng viên.

Các nguồn khác còn rất hạn chế, trong đó phải kể đến là các tổ chức đoàn thể.

Như đã trình bày, hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật chỉ mang tính phong

trào có thể mạnh là thu hút được nhiều sinh viên tham gia, nhưng hạn chế là chỉ

mang tính bề nổi, thiếu thực chất.

2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường

Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên đánh giá rất cao vai trò của việc triển

khai các hình thức để giáo dục pháp luật cho sinh viên. Có 50,9% sinh viên cho

rằng nhà trường “rất cần thiết” phải tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên;

44,5% cho rằng nhà trường “cần thiết” giáo dục pháp luật cho sinh viên và tỷ lệ

cho rằng nhà trường “không cần thiết” phải tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh

viên chỉ chiếm 3,7%.

63

Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên

của nhà trường

0.9

3.7

50.9

44.5

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần thiết

Khác

Sales

Khi đánh giá về các nội dung pháp luật mà nhà trường nên tập trung trong

công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên, tỷ lệ lựa chọn của sinh viên đối với các

nội dung cụ thể được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: (1) Quyền và nghĩa

vụ của thanh, thiếu niên, sinh viên (64,1%); (2) Phòng chống tệ nạn xã hội

(47,2%); (3) Lao động, việc làm (44,5%); (4) Bảo vệ môi trường (36,8%); (5)

Giao thông đường bộ (35,9%); (6) Dân sự (32,8%); (7) Hành chính (32,5%); (8)

Hình sự (31,3%); (9) Hôn nhân và gia đình (27,9%); (10) Giáo dục, Y tế (25,8%);

(11) Một số nội dung khác (5,2%).

64

Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn

64.1

47.2

44.5

36.8

35.9

32.8

32.5

31.3

27.9

25.8

5.2

70 60 50 40 30 20 10 0

Khác

Dân sự Hình sự Hành chính

Giáo dục, y tế

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Lao động, việc làm

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn xã hội

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên

Nội dung

Nội dung

65

Tiểu kết chương 2

Trong điều kiện đưa nâng cao hiệu quả nội dung giáo dục pháp luật thông

qua hoạt động giảng dạy pháp luật vào chương trình chính khóa còn những hạn

chế nhất định do phải đảm bảo chương trình, thời lượng các môn học và tránh

gây quá tải cho học sinh - sinh viên thì việc giảng dạy pháp luật thông qua các

hoạt động ngoại khóa tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã đạt được nhiều hiệu

quả. Song song với các hoạt động chính khóa, hoạt động ngoại khóa được Nhà

trường quan tâm thực hiện nhằm kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, học đi

đôi với hành, đồng thời bổ sung thêm những kiến thức, hiểu biết về các giá trị

pháp luật cho sinh viên. Trong những năm qua, hoạt động ngoại khóa của Nhà

trường được mở rộng bằng rất nhiều hình thức đa dạng như: Tổ chức các cuộc thi

tìm hiểu pháp luật, Tổ chức các hoạt động tập thể, nói chuyện chuyên đề....

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã thực hiện việc triển khai nội dung giáo

dục pháp luật cho HSSV nhằm giúp sinh viên nhận thức được các hành vi vi

phạm kỷ luật trong trường và hình thành được thói quen sống và làm việc theo

pháp luật. Cùng với quá trình triển khai nội quy, quy chế đào tạo của nhà trường

thì môn học Pháp luật đại cương, Luật Hành chính và các môn Luật chuyên

ngành... có mục tiêu chính là giáo dục nhân cách, xây dựng ý thức pháp luật cho

công dân. Giáo dục pháp luật đã thực sự trở thành nội dung giáo dục văn hóa phổ

thông trong Nhà trường. Trong quá trình thực hiện bên cạnh những thành tích mà

công tác giáo dục pháp luật đã đạt được thì vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế

cần phải nghiên cứu xem xét nhằm đưa ra những giải pháp tích cực góp phần

nâng cao chất lượng GDPL.

66

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC

PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

3.1.1. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải phù hợp với chủ trương đổi

mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo nước nhà.

Giáo dục pháp luật cho sinh viên hiện nay cần quán triệt sâu sắc mục tiêu,

quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” là đổi mới những

vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội

dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện.

Để nâng cao chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội, cần phải thực hiện nội dung, chương trình GDPL theo quy định chuẩn của

Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng thời cũng phải đáp ứng những đòi hỏi khách quan

về vấn đề hoàn thiện chương trình GDPL.

Giáo dục pháp luật trong Trường Đại học phải đáp ứng yêu cầu hướng đến

mục tiêu chung, mục tiêu của giáo dục, giáo dục đại học, GDPL và mục tiêu của

công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho việc mở cửa, hội

nhập kinh tế quốc tế.

3.1.2. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải phù hợp với đặc điểm, yêu

cầu đào tạo đội ngũ công chức, viên chức ngành nội vụ.

Với sứ mạng: “Mở cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ

nhu cầu học tập đa dạng với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáp

ứng yêu cầu nguồn nhân lực của ngành nội vụ và cho xã hội trong công cuộc xây

dựng đất nước và hội nhập quốc tế” [45], hoạt động GDPL cho sinh viên nhà

trường phải phù hợp đặc điểm, yêu cầu đào tạo đội ngũ công chức, viên chức

ngành nội vụ. Đó là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả đào

tạo, bồi dưỡng, góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp

có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự

67

nghiệp phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội góp phần

vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức “Sống, học tập

và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Yêu cầu đầu tiên của giáo dục pháp

luật là nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật về cả tư tưởng, nội dung và

ý nghĩa từ đó nâng cao nhận thức và chủ động đề ra các biện pháp hữu hiệu để

thực hiện tốt pháp luật và chỉ có như vậy mới thực sự đưa các quy định của pháp

luật vào cuộc sống.

3.1.3. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải đi đôi với hoàn thiện hệ

thống pháp luật hiện hành.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nội dung lớn của xây dựng nhà nước

pháp quyền. Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện thì việc thực hiện pháp luật càng

thuận lợi, không vướng mắc, ít phát sinh tiêu cực, hạn chế. Hệ thống pháp luật

hoàn thiện không chỉ tạo thuận lợi cho nhận thức, cho thực hành của chủ thể, đối

tượng giáo dục mà còn tạo nên những cơ chế hỗ trợ, tác động thuận lợi cho chủ

thể chuyên tâm, trách nhiệm, đầu tư cho công tác GDPL đạt hiệu quả cao, sinh

viên được thụ hưởng những mặt tích cực của công tác sẽ dẫn đến niềm tin, tình

cảm đối với pháp luật một cách chủ động.

3.1.4. Giáo dục pháp luật cho sinh viên nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ

trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp

luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật.

Giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là chuyển tải quy định của pháp luật

mà phải làm cho sinh viên hiểu rõ bản chất của quy định pháp luật để thấy hết ý

nghĩa của quy phạm pháp luật để bản thân đối tượng tự ý thức, chủ động thực

hiện pháp luật, có tình cảm pháp luật, tự nguyện phát triển ý thức thành kỹ năng

thực hành trong thực tiễn cuộc sống bằng cơ sở lí luận căn bản, đầy đủ, hệ thống

áp dụng và những tình huống thực tiễn sinh động, thiết thực với từng đối tượng

GDPL. Thực hiện GDPL luôn gắn với giáo dục đạo đức và hình thành cho đối

tượng giáo dục có thói quen xử sự bằng hành vi hợp pháp, phù hợp với pháp luật

68

và đạo đức xã hội. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, GDPL phải gắn với giáo

dục chính trị, tư tưởng và đạo đức vì nó có tác động với nhau và làm tốt các nội

dung này không chỉ nâng cao chất lượng GDPL mà còn nâng cao chất lượng giáo

dục một cách toàn diện cho sinh viên.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội.

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

3.2.1.1. Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các chương

trình, kế hoạch về giáo dục pháp luật cho sinh viên

Đây là giải pháp đầu tiên, mang tính quyết định cho việc nâng cao hiệu quả

của công tác GDPL cho sinh viên.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho pháp

luật đi vào cuộc sống, nhằm giúp hoạt động GDPL đạt hiệu quả cao.

Hệ thống pháp luật cần phải minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng chéo, chặt

chẽ, từ đó dễ đi vào đời sống, được xã hội chấp nhận và ủng hộ. Hiện nay, hệ

thống pháp luật nước ta đã tương đối đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực

quan trọng trong đời sống. Pháp luật không ngừng hoàn thiện và phát triển, thể

chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần

ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng cho việc quản lý nhà nước bằng

pháp luật.

Tuy nhiên, pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, điều này làm

giảm hiệu lực của pháp luật, giảm hiệu quả thực thi pháp luật. Hạn chế chung của

các văn bản pháp luật hiện nay là thiếu tính cụ thể, rõ ràng; nhiều quy định thiếu

tính khả thi; chồng chéo nhau; các bộ luật liên tục bị sửa đổi, bổ sung, thay thế.

Những khuyết điểm của hệ thống pháp luật làm nội dung GDPL cũng phải

thường xuyên thay đổi cho phù hợp, gây lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc.

Bởi vậy, cần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp đảm bảo các văn

bản quy phạm pháp luật phải cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, áp dụng lâu

69

dài, hạn chế việc sửa đổi nhiều lần.

Thứ hai, cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về phổ biến, GDPL cho sinh

viên. Đó là việc rà soát lại hệ thống pháp luật đã ban hành liên quan đến GDPL

cho sinh viên, tiếp đó cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, chương

trình, kế hoạch cụ thể về hoạt động GDPL cho sinh viên.

Thực tiễn đã cho thấy việc ban hành các văn bản pháp luật về GDPL trong

nhà trường trên cơ sở tổng kết thực tiễn có vai trò thống nhất nhận thức và hành

động rất lớn. Cần xây dựng cụ thể các quy định về chương trình, giáo trình, giảng

viên, quy định về phối hợp trong và ngoài nhà trường, quy định về các điều kiện

đảm bảo cho công tác GDPL. Để thực hiện tốt giải pháp này, các nhà trường cần

tiến hành rà soát các văn bản quy định về GDPL trong nhà trường, kiến nghị bãi

bỏ văn bản lỗi thời, hết hiệu lực, đã có văn bản thay thế; sửa đổi, bổ sung mới

quy định, văn bản cho phù hợp với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật.

3.2.1.2. Đổi mới về chế độ, chính sách đối với người làm công tác giáo dục

pháp luật

Giảng viên thực hiện công tác GDPL có vai trò quyết định trong việc dạy và

học pháp luật trong nhà trường. Do đó, ngoài việc tăng cường nâng cao chất

lượng đội ngũ này cả về năng lực chuyên môn cũng như trình độ lý luận chính trị,

cần đổi mới về chế độ, chính sách đối với những người làm công tác GDPL.

Trước tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính cần kết hợp, nghiên

cứu, đề xuất với Chính phủ sớm thực hiện sửa đổi phụ cấp ưu đãi đối với giảng

viên trực tiếp giảng dạy pháp luật trong các cơ sở giáo dục công lập theo hướng

điều chỉnh mức phụ cấp. Quyết định 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của

Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang

trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, Thông tư số

01/2006/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC ngày 23/01/2006 do Bộ Giáo dục và Đào

tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết định trên đã

quá lâu, mức phụ cấp cho giảng viên giảng dạy pháp luật trở nên không phù hợp

với đời sống kinh tế xã hội vốn đã có nhiều thay đổi. Theo Thông tư này mức

70

phục cấp cho giảng viên giảng dạy pháp luật đang ở mức thấp nhất so với mức

phụ cấp của tất cả những giáo viên ở những cấp đào tạo khác. Điều này cho thấy

vai trò của giảng viên giảng dạy pháp luật chưa được ghi nhận đúng mức, và

cũng xuất phát từ việc chưa đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của môn học

pháp luật. Do đó, đề xuất thay đổi mức phụ cấp cho giảng viên giảng dạy pháp

luật lên ngang bằng với giảng viên giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh là 45% vì tính đặc thù của môn học này cũng phải thường

xuyên nghiên cứu và bổ sung, cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất, vận dụng

thực tiễn đa lĩnh vực, phức tạp và GDPL là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Có

như vậy mới góp phần cải thiện đời sống giảng viên, khuyến khích được giảng

viên giảng dạy pháp luật tự bồi dưỡng mình tốt hơn, gắn bó với nghề hơn.

3.2.1.3. Phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên trong quá trình giáo

dục pháp luật

Chất lượng GDPL của sinh viên phụ thuộc vào tính tích cực học tập, rèn

luyện, tu dưỡng của chính sinh viên. Để các tác động của GDPL được sinh viên

tiếp nhận và lĩnh hội một cách thỏa đáng cần phải có sự mong muốn nội tâm của

chính sinh viên về việc trang bị cho mình những hiểu biết về pháp luật được giáo

dục. Mặt khác, với tư cách là chủ thể của nhận thức, việc tự học tập, tự rèn luyện

sẽ giúp cho sinh viên tiếp thu hiệu quả nhất sự giảng dạy của giảng viên, hình

thành niềm tin pháp luật, tình cảm với pháp luật để đi đến thực hiện những hành

vi đúng đắn, phù hợp với những đòi hỏi của xã hội.

Giáo dục cho sinh viên phát huy tính tích cực, tự giác, xây dựng động cơ

học tập, rèn luyện đúng đắn và thường xuyên nâng cao thái độ, trách nhiệm,

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật đòi hỏi Ban Giám hiệu các trường, các phòng,

khoa chuyên môn cần thường xuyên xây dựng kế hoạch, biện pháp GDPL cho

sinh viên. Để đạt hiệu quả GDPL đòi hỏi sinh viên phải phát huy tinh thần tích

cực, tự giác, chủ động, độc lập. Thực tiễn cho thấy, nếu có ý chí quyết tâm cao,

biết tập trung tư tưởng, có phương pháp và tận dụng được mọi điều kiện thì việc

học tập sẽ đạt hiệu quả cao.

71

Để thực sự phát huy được năng lực tự học, tự giác, giảng viên và sinh đều

phải thực hiện được những yêu cầu sau:

- Đối với giảng viên:

Khi xây dựng đề cương chi tiết của môn học pháp luật nên nêu rõ nội dung

nào sinh viên cần tự nghiên cứu, mục đích kiến thức cần đạt được, giới thiệu giáo

trình chính và tài liệu tham khảo cho nội dung tự nghiên cứu;

Khi bắt đầu môn học, giảng viên cần dành khoảng thời gian thích hợp hướng

dẫn sinh viên phương pháp tự học một cách khoa học: cách đọc hiểu tài liệu, cách

phát hiện bản chất của vấn đề, cách ghi chép, tổng hợp thông tin thu được, cách

ghi nhớ, giúp các em vượt qua khó khăn (nhất là ở giai đoạn đầu).

Giảng viên có kế hoạch tham gia đánh giá quá trình tự học của sinh viên

dưới nhiều hình thức như trao đổi, thảo luận… Giảng viên phải có ý kiến nhận

xét kịp thời.

- Đối với sinh viên:

Để nâng cao năng lực tự học, trước hết sinh viên cần phải tin tưởng vào khả

năng tự học của mình; đồng thời phải phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để

các yếu tố khách quan, nhất là sự hướng dẫn của giảng viên.

Cụ thể, cần xác định được mục đích, động cơ, nhu cầu học tập; xây dựng

thời gian biểu hợp lý giữa các môn học, địa điểm, thời gian, hình thức tự học…

Có phương pháp học tập khoa học trên lớp: cách lắng nghe giảng viên; cách ghi

chép; tập trung và phối hợp chặt chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông

tin từ giảng viên, bạn học; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe

giảng. Biết cách đọc tài liệu để phát hiện bản chất vấn đề, biết cách tóm tắt và ghi

chép.

3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh

viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

3.2.2.1. Đổi mới tư duy, nhận thức về giáo dục pháp luật cho sinh viên

Với nhà trường, việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy GDPL là giải pháp

quan trọng hàng đầu bởi lẽ một trong những vấn đề cơ bản trong hoạt động giáo

72

dục nói chung là cần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về toàn bộ quá trình

giáo dục. Định hướng nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về giáo dục và

GDPL nhằm thay đổi cách nhận thức và tiếp cận của chủ thể GDPL và đối tượng

GDPL trong trường đại học, hướng đến sự thay đổi về mục tiêu, nội dung,

chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục cũng như kiểm tra, đánh giá giúp

sinh viên thấy được bản chất, vai trò của pháp luật đối với mỗi cá nhân sinh viên

trong quá trình học tập ở nhà trường, trong đời sống hàng ngày và trong nghề

nghiệp tương lai.

Để góp phần thực hiện các định hướng trên, Đảng ủy, Ban Giám hiệu

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã làm rất tốt công tác chỉ đạo hoạt động đến

từng phòng, khoa liên quan. Tuy nhiên, khi triển khai cũng đã gặp nhiều khó

khăn, dẫn đến việc thực hiện chưa thực sự hiệu quả. Yêu cầu của giải pháp không

chỉ dừng lại ở lý luận mà phải được cụ thể hóa trong từng hành động, đó là:

Thứ nhất, không chỉ coi trọng giảng dạy GDPL chính khóa mà cần có sự

quan tâm, đầu tư cho GDPL ngoại khóa nhiều hơn. Hiện thực hóa các kế hoạch

thực hiện Chương trình phổ biến, GDPL của ngành giáo dục và tiếp tục triển

khai Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường đến

năm 2021 , Tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện trong giai đoạn tiếp theo

trên cơ sở tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.

Thứ hai, thay đổi tư duy đề cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp

mà coi nhẹ kiến thức pháp luật, đạo đức. Cần cung cấp cho sinh viên những kiến

thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, phù hợp với ngành nghề đào tạo, nhu cầu

phát triển của xã hội và hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tư duy

học tập suốt đời. Bên cạnh đó, cần lồng ghép công tác giáo dục đạo đức, lối sống

vào nội dung GDPL.

Thứ ba, xác định rõ GDPL là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội, của

Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành nhưng thường xuyên và trực tiếp là nhiệm

vụ của các cơ sở đào tạo, mà ở đây là Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Đề xuất

nên xây dựng quy định về nhân sự có chuyên môn luật trong cơ cấu lãnh đạo của

73

nhà trường. Nhân sự này vừa là lãnh đạo, vừa là người trực tiếp chỉ đạo, thực

hiện công tác GDPL trong nhà trường, sẽ nắm vững về chuyên môn, tâm huyết

với công tác GDPL cho sinh viên. Điều này không chỉ mang lại hiệu quả cho

riêng công tác GDPL mà còn hiệu quả trong các vấn đề pháp lý của nhà trường,

đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay. Đề

xuất nhà trường ban hành hệ thống các quy chế, quy định của trường về công tác

GDPL, trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng đơn vị chức năng trong công

tác GDPL, chính sách thi đua - khen thưởng và kỷ luật đối với đơn vị và cá nhân

thực hiện. Ngoài ra, đề tài kiến nghị thành lập một bộ phận chuyên trách thực

hiện công tác GDPL cho sinh viên nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.

3.2.2.2. Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức, phương pháp giáo dục pháp

luật cho sinh viên

Nâng cao chất lượng dạy, học pháp luật trong nhà trường học là con đường

đem lại hiệu quả GDPL cao. Muốn vậy cần đổi mới hình thức, phương pháp dạy

học và hình thức ngoại khóa pháp luật. GDPL không chỉ tiến hành trên lớp mà

còn cùng các em sinh viên đi vào thực tế cuộc sống, vừa trang bị kiến thức vừa

giúp các em tích lũy vốn sống và rèn luyện để trở thành chủ thể pháp luật có tri

thức, có văn hóa pháp lý.

Ngoài việc hoàn thiện nội dung chương trình GDPL chính khóa, nhà trường

cần xây dựng kế hoạch thực hiện GDPL ngoại khóa giai đoạn 2018-2021. Nội

dung xây dựng tập trung đa dạng hóa các hình thức như: tổ chức các cuộc thi tìm

hiểu pháp luật, lồng ghép các nội dung pháp luật vào các hoạt động văn hóa, văn

nghệ; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề; tổ chức các hoạt động sinh viên

tình nguyện tham gia các phong trào bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội; tổ

chức tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng; phát hành các tài liệu, tờ rơi;

tập trung xây dựng chuyên trang phổ biến, GDPL trên website của nhà trường.

Chú trọng sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại để tổ chức các hoạt động

GDPL ngoại khóa cho sinh viên một cách rộng rãi và kịp thời; tổ chức các hoạt

động thực tiễn phù hợp gắn với từng ngành học và từng năm học. Chú trọng tổ

74

chức cho sinh viên tham gia các hoạt động mang tính thực hành chính trị, xã hội,

các hoạt động nghiên cứu khoa học về các vấn đề pháp luật trong thực tiễn gắn

với hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt

Nam và các tổ chức xã hội khác.

Để thực hiện giải pháp này, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần tổ chức cho

sinh viên tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, GDPL tại địa phương.

Mục đích của hình thức giáo dục này là định hướng sinh viên trở thành người đi

tuyên truyền, phổ biến những vấn đề xã hội đang quan tâm.

Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật và hành động bảo vệ pháp luật từ đó hình

thành hành vi pháp luật

Việc lựa chọn hình thức phù hợp là vấn đề quan trọng nhưng chưa đủ, chủ

thể GDPL còn cần sử dụng phương pháp GDPL tối ưu để thực hiện. Nói chung

phương pháp dạy học môn pháp luật hiện nay cần đạt những yêu cầu sau:

- Hướng người học đến thói quen tự học, tự nghiên cứu, tạo thói quen học

tập thường xuyên;

- Khai thác tiềm năng trí tuệ của tập thể người học;

- Tăng cường sử dụng các thiết bị kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin

vào quá trình GDPL, giúp giảng viên và người học tìm kiếm, xử lý thông tin,

thực hành để đạt hiệu quả cao;

Một số phương pháp điển hình cần được nhân rộng hơn ở Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội:

Thứ nhất, phương pháp sử dụng sách, tài liệu, internet. Phương pháp này

thường được giảng viên vận dụng để hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu

để nắm vững nội dung bài học, để đào sâu, mở rộng kiến thức. Sách và các tài

liệu tham khảo rất phong phú nhưng không có sự hướng dẫn của giảng viên thì

sinh viên sẽ không biết cách khai thác, một phần do chưa có thói quen tự học. Vì

vậy, giảng viên cần giới thiệu cho các em các loại sách, tài liệu cần đọc, hướng

dẫn các em tra cứu internet, những địa chỉ website cần thiết, lên kế hoạch giao

việc cho sinh viên thực hiện đồng thời giao thời hạn phải hoàn thành công việc.

75

Thứ hai, phương pháp quan sát thực tế. Giảng viên tổ chức cho sinh viên

trực tiếp quan sát các sự vật, hiện tượng xã hội đang diễn ra trong môi trường

thực tế. Quan sát thực tế là phương pháp giảng dạy gắn nhà trường với cuộc sống,

gắn lý thuyết với thực tế sẽ đem lại hiệu quả giáo dục cao hơn.

Thứ ba, phương pháp dạy học sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại.

Phương pháp này giúp cho các bài giảng pháp luật trở nên sinh động hơn với sự

kết hợp hình ảnh, âm thanh, video, clip…

Có nhiều phương pháp mà giảng viên có thể sử dụng bên cạnh phương pháp

diễn giảng truyền thống, khơi gợi sự đam mê học hỏi của người học, để việc dạy

và học trở nên thú vị, kiến thức pháp luật được truyền đạt mà không bị xem là

khô khan, khó nhớ nữa. Như vậy cả thầy và trò đều đạt được mục đích của mình.

3.2.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật

Xuất phát từ thực trạng của công tác GDPL, chúng ta thấy rằng xây dựng

đội ngũ cán bộ giảng viên làm công tác GDPL có trình độ, có năng lực hiện nay

là một việc làm rất cần thiết và cấp bách. Đội ngũ này có vai trò quan trọng trong

việc mang lại hiệu quả cho công tác GDPL nên phải đảm bảo có chuyên môn,

vững kiến thức, chắc nghiệp vụ sư phạm và lòng yêu nghề.

Để có đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác GDPL có trình độ, năng lực,

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, có chính sách cụ thể và thiết thực để nâng cao đời sống và điều

kiện làm việc cho cán bộ, giảng viên làm công tác GDPL để tăng cường tình yêu

nghề, tạo điều kiện cho họ có thời gian trau dồi năng lực chuyên môn, đầu tư cho

công việc của mình.

Thứ hai, tạo điều kiện cả về thời gian và hỗ trợ kinh phí cho giảng viên học

tập nâng cao trình độ chuyên môn cũng như tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp

vụ (như bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, phương pháp giảng dạy hoặc bồi dưỡng

về xây dựng ngân hàng câu hỏi thi…)

Thứ ba, có chế độ khen thưởng cho giảng viên, cán bộ làm tốt công tác

GDPL

76

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện quy trình đánh giá năng lực giáo viên và cán

bộ làm công tác GDPL.

Thứ năm, thực hiện khảo sát theo định kỳ để lấy ý kiến người học về năng

lực của giảng viên, cán bộ làm công tác GDPL.

Thứ sáu, cần có cán bộ chuyên trách thực hiện hoạt động GDPL để đảm bảo

tính hiệu quả cho hoạt động GDPL ngoại khóa. Vì giảng viên không có nhiều

thời gian đầu tư cho hoạt động GDPL ngoại khóa. Do đó cần có cán bộ chuyên

trách hoặc cán bộ hỗ trợ cho giảng viên làm công tác này.

3.2.2.4. Ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục pháp luật của

Trường

Để xác định hiệu quả của hoạt động GDPL cho sinh viên, chúng ta cần một

hệ thống đồng bộ, rõ ràng và thống nhất. Hay nói cách khác, việc xây dựng công

cụ đánh giá một cách hệ thống, đồng bộ, toàn diện thực trạng tiếp cận pháp luật là

rất cần thiết, nhằm định lượng kết quả hoạt động GDPL cho sinh viên nhà trường

theo từng năm hoặc từng giai đoạn cụ thể. Ngày 10/3/2018, Bộ Tư pháp đã ban

hành Thông tư số 03/2018/TT-BTP quy định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công

tác phổ biến, giáo dục, pháp luật. Nội dung Thông tư gồm các nhóm tiêu chí thực

hiện chức năng quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí

triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí về các điều

kiện đảm bảo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí đánh giá hiệu

quả phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xã hội và nhóm tiêu chí khác.

Căn cứ vào Thông tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện, Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội cần xác định nội dung các nhóm tiêu chí dựa trên chức năng,

nhiệm vụ được giao cho từng đơn vị chức năng thuộc Trường. Căn cứ vào mức

độ và kết quả triển khai thực hiện sẽ có điểm số tương ứng. Tất cả các tiêu chí

phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo tính khả thi, khoa học, có phương pháp,

công cụ đánh giá cụ thể, gắn kết chặt chẽ với trách nhiệm thực hiện công tác

GDPL của các đơn vị thuộc trường.

77

3.2.2.5. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục pháp luật

(tăng cường tài liệu, cơ sở vật chất, nguồn kinh phí …)

Kinh phí và các nguồn lực là điều kiện cần để bảo đảm cho việc tổ chức và

thực hiện GDPL cho sinh viên. Kinh phí được bảo đảm và nguồn lực dồi dào sẽ

tạo điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện công tác GDPL và hoàn thành mục tiêu

giáo dục. Điều này cũng đặc biệt có ý nghĩa trong việc duy trì công tác GDPL và

bảo đảm cho hiệu quả của công tác này được phát huy lâu dài. Vì vậy, để quản lý

và tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên một cách hiệu quả, đòi hỏi các

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội không ngừng đẩy mạnh tăng cường kinh phí và

các nguồn lực cho GDPL. Để công tác GDPL hoạt động có chiều sâu, đạt hiệu

quả cao đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng về kinh phí (gồm nguồn

kinh phí và quản lý, sử dụng kinh phí bảo đảm thực hiện công tác GDPL), cơ sở

vật chất, phương tiện làm việc phục vụ công tác này (giáo trình, sách giáo khoa;

tài liệu phổ biến, GDPL, tủ sách pháp luật, thiết bị dạy học và các phương tiện

vật chất khác). Từ đó hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác

GDPL cho sinh viên như: Xây dựng các phòng học giả lập các văn phòng, công

ty luật hay mô hình tòa án…

Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế nước ta nói chung, việc tăng cường

nguồn lực vật chất cho việc thực hiện công tác GDPL còn gặp nhiều khó khăn, vì

vậy, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, rà soát lại các nguồn lực sẵn có cho việc thực hiện công tác GDPL

cho sinh viên để có sự đánh giá, phân bổ kinh phí và nguồn lực thực hiện chính

sách một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Kinh phí dành cho công tác GDPL phải

tương xứng với vị trí, vai trò quan trọng của công tác này và cần được đưa thành

mục riêng trong kế hoạch kinh phí của nhà trường.

Hai là, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch xây dựng Tủ sách pháp luật theo

Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/01/2010 về

việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật. Chú trọng đầu tư các tài liệu

hỏi đáp về pháp luật, tài liệu bình luận khoa học pháp luật, hướng dẫn áp dụng

78

pháp luật, các hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh từng ngành, nghề, lĩnh vực

đào tạo.

Ba là, khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư vào

các hoạt động GDPL cho sinh viên, tăng cường các giải pháp đẩy mạnh thu hút

các nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho công tác GDPL

cho sinh viên.

3.2.2.6. Bồi dưỡng sinh viên chuyên ngành luật tham gia vào quá trình phổ

biến, giáo dục pháp luật

Để nâng cao hiệu quả công tác GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

cho sinh viên, nhà trường nên thành lập Câu lạc bộ tuyên truyền pháp luật, mà

thành viên nòng cốt sẽ đến từ khoa Pháp luật hành chính. Sinh viên chuyên ngành

luật sẽ có những kiến thức chuyên môn sâu về hệ thống pháp luật nói chung cũng

như các quy định, quy chế đối với sinh viên nói riêng. Để sinh viên chuyên ngành

luật có thể hoàn thành tốt việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nhà trường cần

bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các buổi tuyên truyền, cách trả lời câu hỏi, giải đáp

các câu hỏi pháp lý… Qua những buổi tuyên truyền pháp luật, họ sẽ có thể mang

đến những thông tin kịp thời, bổ ích, về các vấn đề xã hội liên quan đến thanh

niên để hỗ trợ các kiến thức pháp luật, giải đáp thắc mắc… cho các sinh viên

khác trong trường, đồng thời cũng tạo môi trường nâng cao các kỹ năng cần thiết

cho bản thân sinh viên chuyên ngành luật, giúp ích rất nhiều cho công việc của họ

sau khi ra trường. Ngoài ra, câu lạc bộ có thể tuyên truyền pháp luật bằng các

phiên tòa giả định. Nội dung vụ án của phiên tòa giả định có thể xây dựng dựa

theo tư liệu thực tiễn xét xử, tái hiện quá trình xét xử vụ án nhằm cung cấp cho

người xem về trình tự thủ tục tại phiên tòa, những nguyên nhân, tình tiết dẫn đến

hành vi phạm tội và những hậu quả về tính mạng, sức khỏe vật chất lẫn tinh thần

đối với hành vi phạm tội. Qua việc tổ chức các phiên tòa giả định, pháp luật sẽ

được truyền tải, đưa vào cuộc sống, giúp cho sinh viên dễ hiểu, biết cách xử sự

phù hợp, đúng quy định của pháp luật khi đối mặt với các tình huống phát sinh

trong cuộc sống.

79

3.2.2.7. Tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp thực hiện giáo dục

pháp luật cho sinh viên

Tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp tổ chức cho sinh viên tham dự

những phiên tòa xét xử những vụ án vị thành niên phạm tội; thăm quan trụ sở các

cơ quan hành pháp, tư pháp; giao tiếp với các luật gia, các trung tâm pháp lý…

góp phần tích cực vào hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên, giúp sinh viên

nâng cao tri thức pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật.

Ngoài ra, có thể phối hợp cùng các cơ quan tư pháp ở địa phương thực hiện

“Phiên tòa giả định” để phổ biến, tuyên truyền về các nội dung như bạo lực học

đường, vi phạm an toàn giao thông… Với phiên toàn giả định, trình tự thủ tục

được rút gọn, trọng tâm phiên tòa đi sâu, làm rõ những nội dung quy định của

pháp luật. Hình thức này sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn người xem, nội dung

theo từng vụ án cụ thể nên người xem dễ tiếp thu và ghi nhớ lâu.

3.2.2.8. Xã hội hóa hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên

Mục tiêu của giải pháp này nhằm huy động các lực lượng có tiềm năng tham

gia vào quá trình đào tạo để tăng cường GDPL; gắn nhà trường với gia đình và xã

hội, gắn lý thuyết với thực tiễn. Xây dựng môi trường giáo dục gắn kết với môi

trường pháp luật trong cuộc sống và sinh hoạt của sinh viên là yếu tố đảm bảo

cho hiệu quả hoạt động GDPL. Huy động giảng viên giảng dạy các môn học khác

tổ chức dạy học và các hoạt động giáo dục hướng vào mục tiêu GDPL.

Giáo dục pháp luật cho sinh viên là công việc chủ yếu của nhà trường, đặc

biệt là của các giảng viên, đồng thời là trách nhiệm của ngành giáo dục và các

ngành có liên quan. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các ngành các

cấp phải tổ chức hỗ trợ, ủng hộ và tạo điều kiện cho công tác GDPL cho sinh

viên.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần năng động hơn trong việc đề nghị các cơ

quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát), các cơ quan bảo vệ pháp luật (công an),

các văn phòng luật sư, các doanh nghiệp (có thực hành, thực tập) phối hợp trong

việc bồi dưỡng kiến thức và thực tiễn pháp lý cho đội ngũ giảng viên sinh viên

80

nhà trường. Đây là những đối tượng có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm

thực tế, khi tham gia phổ biến, GDPL cho sinh viên sẽ có sức thuyết phục và tăng

độ hấp dẫn đối với sinh viên. Tăng cường tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề

pháp luật cho sinh viên.

Nhà trường cần mở rộng quan hệ, hợp tác với các trường chuyên đào tạo về

Luật trong nước cũng như quốc tế để có thể phát triển, nâng cao năng lực cho đội

ngũ cán bộ giảng viên chuyên ngành luật hoặc tìm kiếm cơ hội trao đổi sinh viên

trong các chương trình học tập về ngành luật.

3.2.2.9. Tăng cường tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong công tác giáo

dục pháp luật

Khi triển khai thực hiện công tác GDPL cho sinh viên ở Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội cần chú ý đến công tác tổng kết, đánh giá, khen thưởng. Cụ thể, nhà

trường nên duy trì việc xây dựng kế hoạch GDPL hàng năm, có chế tài ràng buộc

trách nhiệm pháp lý cho đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện; thực hiện

nghiêm túc chế độ báo cáo theo kế hoạch và có đánh giá kết quả thực hiện. Hội

đồng Thi đua – Khen thưởng của nhà trường căn cứ vào kết quả, hiệu quả công

tác GDPL cho sinh viên để làm căn cứ đề nghị khen thưởng cho đơn vị, cá nhân

thực hiện tốt nhiệm vụ.

81

Tiểu kết chương 3

Việc tăng cường GDPL cho sinh viên rất quan trọng và cần thiết. GDPL cho

sinh viên không chuyên luật phải được tiến hành trên cơ sở quan điểm của Đảng,

pháp luật của Nhà nước và các nguyên lý giáo dục nhằm đảm bảo cho hoạt động

này được thường xuyên, liên tục theo tư duy đổi mới, quy luật phát triển và đáp

ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội.

Đề tài đưa ra một số quan điểm nâng cao hiệu quả GDPL cho sinh viên để

làm cơ sở thực hiện nghiên cứu, đề xuất 2 nhóm giải pháp chung cho công tác

GDPL cho sinh viên nói chung và nhóm giải pháp cho sinh viên Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội nói riêng.

Các quan điểm nâng cao hiệu quả GDPL cho sinh viên đó là GDPL phải phù

hợp với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo nước

nhà; phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ ngành nội vụ;

phải đi đôi với hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành; phải nhằm tạo chuyển

biến mạnh mẽ trong nhận thức, ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm

hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật; phải đảm bảo các

quyền, lợi ích của sinh viên.

Với nhóm giải pháp chung, đó là tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật

về GDPL cho sinh viên, đổi mới về chế độ chính sách đối với người làm công tác

GDPL và phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên trong quá trình GDPL.

Với nhóm giải pháp riêng cho Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong công tác

GDPL, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức về GDPL cho sinh viên; đổi mới hình

thức, phương pháp GDPL; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy

pháp luật; tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng GDPL; tăng cường xã

hội hóa công tác GDPL cho sinh viên và tăng cường tổng kết, đánh giá, rút kinh

nghiệm công tác này.

82

KẾT LUẬN

Giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan được định hướng

trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,

tổ chức xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm từng bước đưa pháp luật

vào cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí và văn hóa cho cán bộ và nhân dân.

Giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trường Đại học, Cao

đẳng là một đòi hỏi tất yếu khách quan, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp

giáo dục thế hệ trẻ. Giáo dục pháp luật trong trường Đại học, cao đẳng là quá

trình chuyển biến hệ thống các quy tắc xử sự từ những đòi hỏi bên ngoài của xã

hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin,

nhu cầu, thói quen của sinh viên.

Giáo dục pháp luật trong Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có mục đích, yêu

cầu và đặc điểm riêng phù hợp với đặc thù của đối tượng giáo dục là sinh viên

ngành Nội vụ. Nội dung chương trình giáo dục pháp luật trong Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội phải đảm bảo yêu cầu về tính liên tục, tính khoa học, có hệ thống,

thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Lựa chọn hình thức và phương thức giáo

dục pháp luật sao cho đạt mục tiêu phải dựa trên các điều kiện về chủ thể giáo

dục pháp luật, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện nội dung chương trình

có tính đến đặc thù của đối tượng sinh viên ngành Nội vụ.

Trong thực tế còn một bộ phận nhỏ cán bộ - giảng viên và sinh viên chưa

nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò giáo dục pháp luật đối với sự hình thành và

phát triển nhân cách toàn diện của sinh viên, vai trò nâng cao chất lượng giáo dục

và đào tạo cũng như thương hiệu của Nhà trường. Hiện nay hình thức giáo dục

trong trường còn chưa mang tính thường xuyên, sự phối hợp giữa các lực lượng

giáo dục còn lỏng lẻo, nội dung chưa thực sự phong phú vì vậy trên thực tế vẫn

còn một số sinh viên vi phạm kỷ luật. Công tác giáo dục pháp luật chưa đóng góp

nhiều vào việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

Để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục pháp luật trong Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội cần phải:

83

Xây dựng chương trình, kế hoạch và nội dung giáo dục pháp luật cho

học sinh, sinh viên. Để hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên của

Trường đạt hiệu quả, ngoài việc giảng dạy học phần Pháp luật đại cương,

Luật Hành chính... theo chương trình chính khoá thì cần phải tiếp tục phổ

biến các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực và những văn bản mới

ban hành đến toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên nhằm nâng cao nhận

thức và ý thức tự giác chấp hành pháp luật, góp phần phòng ngừa và hạn chế

vi phạm pháp luật.

Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh

viên. Việc đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục sẽ tạo ra động lực để chủ

thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật phát huy được hết

tiềm năng và trí tuệ của mình, tạo ra không khí mới trong giảng dạy và học

tập. Qua đó tạo điều kiện cho sinh viên tiếp thu tri thức pháp luật tốt hơn, rèn

luyện hành vi và kỹ năng thực hiện pháp luật.

Kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên:

Công việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật kết hợp giáo dục đạo đức

cho học sinh, sinh viên thực sự là một quá trình gian khó, cần thường xuyên,

kiên trì và cần có sự phối hợp một cách chặt chẽ, hiệu quả của gia đình - nhà

trường - xã hội. Có như vậy, trước mắt hạn chế được hiện tượng học sinh, sinh

viên vi phạm pháp luật và về lâu, về dài sẽ hình thành được những thế hệ công

dân tốt, có ý thức kỷ luật cao, có hiểu biết và tôn trọng pháp luật, qua đó cũng

góp phần nâng chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức hiện nay.

Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục pháp

luật: Để nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giáo dục pháp luật thì

nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện các điều kiện giáo dục pháp luật. Điều

kiện đầu tiên có tính chất quyết định đối với chất lượng công tác giáo dục pháp

luật là các lực lượng giáo dục pháp luật, bên cạnh đó là giáo trình, tài liệu

tham khảo, tạp chí chuyên ngành pháp luật và các phương tiện bổ trợ khác.

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.

2. Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo Tổng kết Chỉ thị số

32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà

Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Hệ thống các văn bản về phổ biến, giáo dục

pháp luật, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 2412/QĐ-BGDĐT ngày 25/4/2008 về

phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của ngành giáo dục thực

hiện Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ và Quyết

định số 37/2008/QĐ-TTG ngày 12/3/2008 của Thủ tướng chính phủ.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28/9/2017 ban

hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 10/2016/TT-BGDĐT ban hành ngày

05/4/2016 về Quy chế công tác sinh viên đối với chương trình đào tạo đại học

chính quy.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tư pháp (2010), Thông tư liên tịch số

30/2010/TTLT-BGDĐT-BTP ngày 16/11/2010 hướng dẫn việc phối hợp thực

hiện công tác phổ biến, giáo dục trong nhà trường.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ (2014), Thông tư liên tịch số

36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số và tiêu chuẩn

chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học

công lập.

9. Bộ Nội vụ, Quyết định số 468/QĐ-BNV ngày 03/4/2018 của Bộ Nội vụ Quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội.

85

10. Bộ Tư pháp (2018), Thông tư số 03/2018/TT-BTP quy định bộ tiêu chí đánh

giá hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật.

11. Chính phủ, Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 về việc tiếp tục

thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW.

12. Chính phủ, Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số

điều và biện pháp thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật.

13. Dương Thị Thanh Mai (1996), “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở

Việt Nam” (bằng thực tiễn hoạt động của Tòa án và luật sư)”, Luận án Phó Tiến sĩ

Luật học.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp

hành Trung ương (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đinh Xuân Thảo (1996), “Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung

học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay”, Luận án Phó Tiến sĩ Luật

học.

22. Đinh Văn Liêm, Trương Hồ Khánh Ly (2016), “Giáo dục pháp luật kết hợp

giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh”, bài viết trên Trang Web

của Trường Đại học Vinh.

23. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

86

24. Hội động phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ

(2012), Đặc san tuyên truyền pháp luật, số 08/2012, Chủ đề Luật phổ biến, giáo

dục pháp luật, Hà Nội.

25. Lê Thị Thùy (2015), “Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề

qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ Luật học.

26. Lê Văn Thơi, “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Pháp

luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay”

27. Nguyễn Thị Hoàn, “Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho

sinh viên hiện nay”

28. Phan Hồng Dương (2014), “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường

không chuyên luật ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học.

29. Phạm Trung Nghĩa (2000), “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan

quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học.

30. Phạm Thị Thanh Huyền (2013), “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh

viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)”, Luận văn thạc sĩ Triết

học.

31. Phùng Thị Loan (2015), bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh

viên hiện nay”, nguồn ĐHSP HN2, Tạp chí khoa học số.

32. Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật phổ biến, giáo dục pháp

luật số 14/2012/QH13, ngày 20/6/2012

33. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Thanh niên số

53/2005/QH11 của Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005.

34. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11,

ngày 27/6/2005,

35. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Giáo dục đại học số

8/2012/QH13, ngày 18/6/2012

36. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009

phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

trong nhà trường”

87

37. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 26/2010/QĐ-TTg ngày

25/01/2010 về việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.

38. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26/11/2010

phê duyệt Đề án tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật

cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015.

39. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012

ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày

19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI).

40. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày

19/5/2013 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối

hợp phổ biến, giáo dục pháp luật.

41. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 ban

hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021.

42. Trần Phúc Lộc (2011), “Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố

Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch

sử nhà nước và pháp luật.

43. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (2012), Quyết định 664/QĐ-ĐHNV ngày

17/4/2018 về việc thành lập Khoa Pháp luật hành chính thuộc Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội.

44. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (2012), Quyết định 209/QĐ-ĐHNV ngày

24/4/2012 về việc thành lập Phòng Công tác sinh viên thuộc Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội.

45. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Quyết định số 2154/QĐ-ĐHNV ngày

21/12/2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ban hành Quy chế tổ

chức và hoạt động của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Vũ Thị Hồng Vân, “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học -

Một yêu cầu cấp bách hiện nay”, bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

88

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Kính thưa Anh/Chị, Để có những luận cứ thực tiễn trong việc đánh giá thực trạng phổ biến,

Chúng tôi cam kết những thông tin do Anh/Chị cung cấp chỉ phục vụ cho

giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, chúng tôi kính đề nghị Anh/Chị vui lòng trả lời những câu hỏi dưới đây. Để trả lời các câu hỏi, xin Anh/Chị đọc kỹ và khoanh tròn vào số thứ tự hoặc đánh dấu (X) vào ô tương ứng với phương án mà Anh/Chị cho là phù hợp nhất. mục đích nghiên cứu khoa học và sẽ được bảo mật tuyệt đối. Rất mong sự ủng hộ, giúp đỡ của Anh/Chị để cuộc điều tra thu được kết quả tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Câu 1. Xin Anh/Chị cho biết đôi nét về bản thân? 2. Nữ a. Giới tính: 1. Nam

b. Tuổi (ghi cụ thể): ………… tuổi

c. Là sinh viên năm .................. thuộc ngành ........................................................

d. Hiện nay Anh/Chị đang sống ở:

1. Sống cùng bố mẹ 2. Sống cùng anh, chị em ruột 3. Sống cùng gia đình họ hàng 4. Thuê nhà ở cùng bạn bè 5. Thuê nhà ở 1 mình 6. Ở trong ký túc xá của trường 7. Sống cùng người yêu 8. Khác....................................

e. Anh/Chị có tham gia các tổ chức nào sau đây:

1. Hội sinh viên của trường 3. CLB do Khoa chuyên môn tổ chức

2. CLB do Đoàn trường tổ chức 4. Tổ chức khác..............................

89

Câu 2. Xin Anh/Chị cho biết mức độ hiểu biết của Anh/Chị về pháp luật trong

Chưa nghe nói đến

Có biết một vài nội dung cụ thể

Biết phần lớn các quy định trong lĩnh vực này

Có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong lĩnh vực này

Đã nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

Hình sự

Hành chính

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Lao động, việc làm

Giáo dục, y tế

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn XH

một số lĩnh vực cụ thể sau đây?

Khác............................ Câu 3. Nếu Anh/Chị đã nghe nói hoặc có hiểu biết nhất định về các quy định

của pháp luật trong một số lĩnh vực kể trên, xin vui lòng cho biết Anh/Chị tiếp

Bạn bè

Khác

Thầy cô giáo

Bố mẹ, họ hàng, làng xóm

Đọc trực tiếp từ Luật

Tổ chức đoàn thể

Đọc trên sách báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

Hình sự

cận các thông tin đó từ nguồn nào?

90

Hành chính

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Lao động, việc làm

Giáo dục, y tế

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn XH

Khác.........................

Câu 4. Theo ý kiến của Anh/Chị, hiện nay kiến thức, hiểu biết của sinh viên

Rất tốt

Tốt

Kém

Bình thường

Không biết

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

Hình sự

Hành chính

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Lao động, việc làm

Giáo dục, y tế

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn xã hội

Khác...............................................

Trường Đại học Nội vụ đối với các lĩnh vực pháp luật sau như thế nào?

Câu 5. Theo ý kiến của Anh/Chị, sinh viên của Trường Đại học Nội vụ có tình

trạng vi phạm pháp luật hay không?

1. Tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên khá phổ biến 2. Có tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên nhưng không phổ biến 3. Không có tình trạng sinh viên vi phạm pháp luật 4. Không biết/ khó trả lời............................................................................

91

Câu 6. Nếu có tình trạng vi phạm pháp luật, thì theo Anh/Chị sinh viên Đại học Nội vụ thường vi phạm trong lĩnh vực pháp luật nào?

6. Bảo vệ môi trường

7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên

2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................

Câu 7. Kể từ khi vào học trong trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến nay, nhà trường và các tổ chức đoàn thể trong trường có tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho Anh/Chị hay không?

1. Có 2. Không

Câu 8. Nếu nhà trường và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường có tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, xin Anh/Chị vui lòng cho biết:

Câu 8.1. Các nội dung, lĩnh vực cụ thể đã được triển khai?

6. Bảo vệ môi trường

7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên

2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................

Rất hữu ích

Hữu ích

Bình thường

Không hữu ích

Không có ý kiến

Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự

Hình sự

Hành chính

Hôn nhân và gia đình

Bảo vệ môi trường

Câu 8.2. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hữu ích, thiết thực của các nội dung, lĩnh vực với Anh/Chị?

92

Lao động, việc làm

Giáo dục, y tế

Giao thông đường bộ

Phòng, chống tệ nạn xã hội

Khác ...................

Câu 8.3. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đã được thực hiện?

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học) 4. Phát sách báo, tờ rơi 5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến 11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật 12. Khác.......................................................................................................

Hấp dẫn

Bình thường

Rất hấp dẫn

Không hấp dẫn

Không có ý kiến

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương

2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)

4. Phát sách báo, tờ rơi

Câu 8.4. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hấp dẫn của các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật trên?

93

5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

12. Khác.............................................

Hiệu quả

Bình thường

Rất hiệu quả

Không hiệu quả

Không có ý kiến

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)

4. Phát sách báo, tờ rơi

5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

Câu 8.5. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hiệu quả của các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật trên?

94

Hiệu quả

Bình thường

Rất hiệu quả

Không hiệu quả

Không có ý kiến

12. Khác............................................

Câu 8.6. Việc tiếp cận các thông tin, kiến thức pháp luật của Anh/Chị ở trong trường có thuận lợi gì?

1. Các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật thiết thực, phù hợp nhu cầu 2. Việc tiếp cận các tài liệu đơn giản, thuận tiện 3. Hình thức phổ biến kiến thức pháp luật đa dạng, hấp dẫn 4. Có nhiều thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin, kiến thức về pháp luật 5. Thuận lợi khác...........................................................................................

Câu 8.7. Anh/Chị gặp khó khăn gì trong việc tiếp cận các thông tin, kiến thức pháp luật ở trong trường?

1. Nội dung phổ biến giáo dục pháp luật không đáp ứng nhu cầu 2. Không tiếp cận được các nguồn tài liệu 3. Hình thức phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật kém hấp dẫn 4. Không có thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin, kiến thức về pháp luật 5. Khó khăn khác ..............................................................................

Câu 9. Theo Anh/Chị, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có cần thiết phải tiến hành việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường hay không?

1. Rất cần thiết 2. Cần thiết 3. Không cần thiết 4. Khác

Câu 10. Nếu Anh/Chị cho là Trường Đại học Nội vụ Rất cần thiết hoặc Cần thiết phải tiến hành việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường, thì theo Anh/Chị: Câu 10.1. Nhà trường nên tập trung vào các lĩnh vực pháp luật cụ thể nào?

6. Bảo vệ môi trường

7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên

95

2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................

Câu 10.2. Nhà trường nên sử dụng hình thức nào để phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên?

1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương

2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên

3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)

4. Phát sách báo, tờ rơi

5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá

6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn

7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường

8. Lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ

9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên

10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến

11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật

12. Khác.......................................................................................................

Câu 10.3. Việc giáo dục, phổ biến pháp luật cho sinh viên nên giao cho đơn vị, tổ chức nào chủ trì thực hiện?

1. Phòng Quản lý đào tạo

2. Phòng Công tác sinh viên

3. Các khoa chuyên môn

4. Đoàn thanh niên

5. Ban chủ nhiệm các Câu lạc bộ dành cho sinh viên

6. Khác........................................................................................................

96

Câu 11. Xin Anh/Chị đề xuất ý kiến của mình nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường, Anh/Chị có đề xuất cụ thể gì

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

TRÂN TRỌNG CẢM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA ANH/CHỊ!

97