TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTCT.2017.84
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Minh Tâm
HÀ NỘI - 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTCT.2017.84
Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Minh Tâm
Thành viên đề tài : Bùi Xuân Diện
Nguyễn Phương Anh
HÀ NỘI - 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................ 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN ................................................................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên ............. 9 1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................... 14 1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên ............................................ 22 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................... 30 2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ..................................................................................................................... 30 2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................................................................................... 50 2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường ..... 63 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ............................................................................................................ 67
3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ......................................................................... 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. ............................................................................................ 69 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 82
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 85
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật của trường Đại học Nội vụ
Hà Nội tính đến tháng 3/2019 ............................................................................... 37
Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ chính quy
Năm học 2017-2018 .............................................................................................. 39
Bảng 3. Chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao đẳng, đại
học ......................................................................................................................... 42
Bảng 4. Chương trình môn học Luật Hành chính dành cho bậc cao đẳng, đại học ... 42
Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật ........................... 46
Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật .......................... 47
Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử ................... 50
liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện ................................ 50
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................................................................ 50
Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên ............................................................ 52
Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên ......................................... 53
Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung ................. 54
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật ......................... 51
Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên của nhà
trường .................................................................................................................... 64
Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn ............................... 65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục pháp luật (GDPL) là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
ngành giáo dục. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay, GDPL càng trở nên quan trọng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi tôn trọng pháp luật, góp
phần ổn định và nâng cao môi trường giáo dục toàn diện. Trong những năm vừa
qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản
pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác GDPL của ngành giáo dục. Điều 5, Luật
Giáo dục năm 2012 khẳng định mục tiêu của giáo dục đại học là: “ Đào tạo nhân
lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra
tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc
phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Đào tạo người học có phẩm chất chính trị,
có đạo đức; có kiến thức kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và
ứng dụng phát triển khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có
sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp; thích nghi với môi
trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”. Như vậy, ngành Giáo dục nói
chung và các Trường Đại học nói riêng có trọng trách lớn lao đối với sự phát
triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật,
văn hóa pháp lý trong nhân dân. Hoạt động GDPL luôn gắn bó với hoạt động
giáo dục nói chung. GDPL không chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành giáo
dục mà còn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục.
Trong những năm qua, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác
GDPL, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác GDPL. Nghị quyết số
08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, GDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là
thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để
1
tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Nhiều văn bản
pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ
biến GDPL như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay,
Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác
phổ biến, GDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp
công tác phổ biến, GDPL… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã
khẳng định: “Phổ biến, GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng”; Luật Phổ biến, GDPL ngày 20/6/2012 và các văn bản hướng dẫn tổ chức,
thực hiện…
Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước về GDPL, thời
gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ đạo, tổ chức, triển
khai thực hiện GDPL cho sinh viên có trọng tâm, trọng điểm gắn với các ngành
nghề đào tạo đặc thù của từng trường. Về cơ bản, sinh viên các trường đại học đã
được học thì đều hiểu biết về pháp luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tôn trọng
pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của các nhà trường, thực hiện tốt các quy
tắc và lối sống công cộng. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận sinh viên có biểu hiện
xuống cấp về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm
trọng làm cho cả xã hội phải quan tâm, lo lắng.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội vụ, được thành lập theo
Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ sở
giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội
vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học
và sau đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên
quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa
học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như các cơ sở đào tạo khác
2
trong hệ thống giáo dục, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức thực hiện
công tác phổ biến, GDPL thông qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính
khóa, giáo dục ngoại khóa và đạt được một số kết quả nhất định. Đã có những
thay đổi theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều sang phát
huy tính chủ động, tích cực của sinh viên; giảng viên đưa ra nhiều tình huống cụ
thể và phương pháp giảng dạy mới nhằm tăng tính tích cực, sáng tạo của sinh
viên, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả GDPL. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đạt được thì công tác GDPL vẫn còn một số hạn chế như việc trang bị kiến
thức pháp luật tuy đã bước đầu hình thành kỹ năng, ý thức pháp luật và thói quen
chấp hành pháp luật cho sinh viên nhưng hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, công
tác GDPL trong những năm qua đã được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường
cùng các đoàn thể và đặc biệt là đội ngũ giảng viên chuyên ngành triển khai thực
hiện sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho sinh viên, góp phần ngăn
chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng
cường sự đoàn kết nội bộ, góp phần giữ vững trật tự trị an trong nhà trường.
Để việc thực hiện công tác GDPL cho sinh viên thực sự mang lại hiệu quả,
có tác động tích cực nhằm nâng cao ý thức tuân thủ và xây dựng thói quen chấp
hành pháp luật cho sinh viên, thì việc tìm hiểu thực trạng công tác GDPL là thực
sự cấp thiết, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và nghiêm túc. Từ những lý do
trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội” nhằm đưa ra một số định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn.
Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố:
- Tác giả Dương Thị Thanh Mai với luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996):
“Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam - hình thức đặc thù của
giáo dục pháp luật” [13] đã phân tích vai trò của giáo dục pháp luật trong quá
3
trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Luận án nêu rõ những đặc
trưng của công tác giáo dục pháp luật và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp.
- Tác giả Đinh Xuân Thảo với Luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996): “Giáo
dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở
nước ta hiện nay” [21] đã nêu thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, từ đó rút ra kinh nghiệm, phương
hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên.
- Một số luận văn liên quan như: Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch sử nhà
nước và pháp luật (2011) của tác giả Trần Phúc Lộc: “Giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp” [42] đã
phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích
rõ đặc điểm, vai trò và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên;
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà
Nội; Luận văn thạc sĩ Triết học (2013) của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền: “Vấn
đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực
tế ở Hà Tĩnh)” [30] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục ý thức
pháp luật; phân tích rõ đặc điểm, cấu trúc, tầm quan trọng và nội dung của việc
giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay; nêu thực trạng và đưa
ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay; Tác giả Lê Thị Thùy với luận văn thạc sĩ Luật học (2015): “Giáo
dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”
[25] đánh giá khách quan về thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên trường
cao đẳng nghề Thanh Hóa, thông qua đó có phương pháp đổi mới chương trình
dạy và học bộ môn giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng công tác giáo dục
pháp luật trong nhà trường; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Trung
Nghĩa (2000): “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân
4
Việt Nam hiện nay” [29] đã nêu việc phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác
thường xuyên, quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội,
pháp luật của nhà nước của cán bộ, chiến sĩ. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây
dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới.
- Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các
trường đại học - Một yêu cầu cấp bách hiện nay” [46], Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật đã khái quát thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học
và nêu ra các giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học như:
nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy giáo dục pháp luật cho sinh viên; hoàn thiện
pháp luật về giáo dục pháp luật cho sinh viên; chuẩn hóa nội dung chương trình,
giáo trình giảng dạy chính khóa; đổi mới phương pháp dạy và học pháp luật trong
chương trình chính khóa; xây dựng chương trình giáo dục pháp luật ngoại khóa
và đổi mới cách thức hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa; nâng cao chất
lượng giảng viên giảng dạy pháp luật trong các trường đại học; tăng cường công
tác xã hội hóa trong các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
đại học.
- Bài viết trên Trang Web của Trường Đại học Vinh: “Giáo dục pháp luật
kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh” của ThS. Đinh
Văn Liêm và SV Trương Hồ Khánh Ly (2016) [22] đã tập trung tìm hiểu thực
trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Vinh, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung, sinh viên Trường Đại
học Vinh nói riêng.
- Tác giả Phùng Thị Loan với bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên hiện nay” [31] đưa ra một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong
các trường đại học hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội không
những đảm bảo yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có ý thức:
5
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội.
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về GDPL cho
sinh viên như: “GDPL trong các trường không chuyên luật” đề tài cấp Bộ của
Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2000); “Giáo dục pháp luật cho sinh
viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam” của tác giả Phan Hồng
Dương (2014) [28]; “Vai trò của giáo dục đạo đức, GDPL cho sinh viên hiện
nay” của tác giả Nguyễn Thị Hoàn [27]; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
dạy và học môn Pháp luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay”
của tác giả Lê Văn Thơi [26]
Nhận xét chung: Đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề
về phổ biến, giáo dục pháp luật. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu
khác nhau, đưa ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt
động GDPL trên nhiều góc độ, do vậy việc chọn đề tài nghiên cứu này mang cả ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDPL đối với sinh
viên nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng. Để thực hiện
đề tài, tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc nghiên cứu của một số công trình khoa
học liên quan đến đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về GDPL cho sinh viên đồng thời kết hợp
với phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng GDPL cho sinh viên của trường
Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian từ năm 2014 - 2018, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà
Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL cho sinh viên;
- Phân tích thực trạng, đánh giá chất lượng việc GDPL cho sinh viên của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân;
6
- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL
cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động GDPL cho sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Giáo dục pháp luật cho sinh viên.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL
cho sinh viên không chuyên ngành luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng việc GDPL cho sinh viên của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ năm 2014 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài
liệu của Đảng, Nhà nước; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống
kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến GDPL nói
chung và cho sinh viên nói riêng.
- Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với 326 sinh viên để
thu thập các thông tin liên quan đến thực trạng: hiểu biết pháp luật của sinh
viên, công tác giáo dục pháp luật của nhà trường; nhu cầu của sinh viên đối với
công tác giáo dục pháp luật của nhà trường.
- Phương pháp chuyên gia: Quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã
xin ý kiến các chuyên gia là những người có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
7
trong hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên... để làm rõ cơ sở lý luận, xây
dựng khung lý thuyết... của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác GDPL
cho sinh viên.
- Về thực tiễn: Đề tài đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần nâng cao
chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đáp ứng nhu
cầu của xã hội về đào tạo sinh viên có phẩm chất, đạo đức và ý thức tôn trọng
pháp luật, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có đủ phẩm
chất và năng lực trong tương lai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Đề
tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh
viên.
- Chương 2: Thực trạng và chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”
1.1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật”
Giáo dục pháp luật là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà
nước với sự tham gia của các thiết chế xã hội. Đến nay đã có khá nhiều quan
điểm, cách tiếp cận khác nhau về GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên nói
riêng. Nhìn chung, GDPL thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.
Theo nghĩa rộng, GDPL là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hóa
pháp lý của các thành viên xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (chế độ
chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường sống…) là nhân tố ảnh
hưởng, nó có thể tác động tự phát theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân tố
chủ quan bao giờ cũng là sự tác động tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định
theo chiều hướng xác định nhằm đạt được mục đích của chủ thể tác động [42].
Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có mục đích của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân (chủ thể giáo
dục) tác động lên đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, xây dựng
thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và tạo lập thói quen tuân thủ pháp luật [42].
Theo Đặc san Tuyên truyền Pháp luật số 08/2012 của Hội đồng phối hợp
công tác Phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ thì Phổ biến, giáo dục pháp
luật hiểu theo nghĩa rộng là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công
đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, GDPL (xây dựng chương trình, kế
hoạch phổ biến, GDPL; triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL thông
qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, GDPL; hướng dẫn, kiểm tra,
9
đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL).
Hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối
tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành [24].
Tổng hợp các phân tích trên đây, quan niệm về GDPL được hiểu một cách
đầy đủ như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp tổ chức
khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm hình
thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tôn trọng pháp luật, tình cảm và hành vi
phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa pháp luật
[24].
1.1.1.2. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”
Tiếp cận đầu tiên với khái niệm có thể thấy đây là GDPL cho một đối tượng
cụ thể, đó là sinh viên.
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “Student” có nghĩa là
người làm việc, học tập, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. “Sinh viên” là để
chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang học ở bậc
phổ thông.
Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh viên” được dùng để chỉ người học
ở bậc đại học. Đây là môi trường với đầy đủ tiêu chuẩn chất lượng cao trong hệ
thống giáo dục quốc dân về tài chính, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên các môn
học, ngành nghề, nhân viên hành chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Ở đó sinh viên được truyền đạt kiến
thức hoàn chỉnh về một ngành nghề cụ thể, chuẩn bị đầy đủ lý thuyết và một phần
thực tiễn cho công việc sau này khi tham gia vào cuộc sống xã hội.
Từ đó có thể nêu khái niệm GDPL cho sinh viên như sau: “GDPL cho sinh
viên là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích của các chủ thể GDPL
trong các trường đại học thông qua các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại
khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ
10
bản, định hướng, phát triển nhân cách, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh
hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp
luật, có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo,
có ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ pháp luật”
Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn của đề tài, sinh viên được hiểu là người học
có trình độ đào tạo đại học, cao đẳng không chuyên luật theo hình thức chính quy
tập trung của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
1.1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Giáo dục pháp luật cho sinh viên mang các đặc điểm khác biệt so với GDPL
cho các đối tượng khác.
Thứ nhất, GDPL cho sinh viên có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây
dựng, thực hiện pháp luật. Quá trình đưa pháp luật đến với đời sống không thể
thiếu hoạt động GDPL, đây là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống.
Không phải lúc nào pháp luật cũng được mọi người biết đến, ủng hộ hay chấp
hành nghiêm chỉnh. Bản chất của pháp luật là phản ánh ý chí, nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân nhưng nếu không được nhân dân biết đến thì cũng
không có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, GDPL là phương thức truyền tải những
thông tin, những nội dung và quy định của pháp luật với sinh viên, giúp họ hiểu
biết, nắm bắt kịp thời, có hiệu quả. Từ đó, sinh viên có thể nhận thức đúng đắn để
tránh vi phạm pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật vì sinh viên là lứa
tuổi đang phát triển, chưa có nhận thức chín chắn, dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con
đường phạm pháp.
Thứ hai, đối tượng GDPL là sinh viên, là công dân thành niên, là người học
ở trình độ đào tạo cao của hệ thống giáo dục quốc dân, thuộc tầng lớp dân trí cao
nên chủ thể GDPL phải là những người có tri thức pháp luật ở mức độ cao hơn
đối tượng, có tri thức nhất định về nghề nghiệp mà đối tượng được đào tạo, có
nghiệp vụ sư phạm bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp để không chỉ là tuyên
truyền, phổ biến pháp luật mà mục đích cuối cùng là mục tiêu của giáo dục đại
học Việt Nam. Chủ thể GDPL đại diện cho trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã
hội thực hiện nhiệm vụ. Giáo dục pháp luật cho sinh viên là mối quan hệ GDPL
11
giữa các đối tượng công dân thành niên có học thức, có trình độ và có chuyên
môn nghề nghiệp nhất định, cho nên song hành với việc truyền thụ tri thức pháp
luật cơ bản thì việc giáo dục tri thức pháp luật liên quan đến ngành nghề đào tạo
là rất quan trọng và cần được đảm bảo.
Thứ ba, nội dung chương trình của GDPL cho sinh viên phải đảm bảo các
yêu cầu chung của công dân, yêu cầu riêng của trình độ ngành nghề mà sinh viên
theo học trong tính liên thông, hệ thống với các cấp học tiểu học, trung học trước
đó. Việc chuẩn bị nội dung, cân đối về chương trình còn phải đáp ứng yêu cầu
đào tạo nghề và đảm bảo đúng quy định.
Thứ tư, nội dung GDPL cho sinh viên được thể hiện qua hình thức và
phương pháp GDPL phù hợp với đối tượng trong và ngoài môi trường của họ, đó
là các nhà trường đại học. Ở đó giáo dục chính khóa đóng vai trò quan trọng và
giáo dục ngoại khóa là không thể thiếu. Hiện nay với môi trường sống năng động,
khoa học công nghệ phát triển thì chủ thể GDPL cho sinh viên cần rèn luyện họ
trở thành những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, có kiến thức pháp luật
và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Bên cạnh những phương pháp truyền
thống thì cần tăng cường áp dụng những phương pháp hiện đại, có sử dụng công
nghệ để nâng cao hiệu quả, dễ tiếp thu, tác động nhanh vào nhận thức của sinh
viên.
1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Vai trò của GDPL bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của giáo dục và pháp
luật. Bên cạnh đó, vai trò của GDPL còn xuất phát từ bản chất và đặc điểm của
đối tượng mà nó tác động. Giáo dục pháp luật cho sinh viên có vai trò như sau:
Thứ nhất, GDPL góp phần thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò quan
trọng, là phương tiện để thể chế hóa đường lối của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo đó
được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phương tiện để nhân dân
phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, GDPL góp phần cung cấp kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên. GDPL góp phần nâng cao nhận thức và hiểu
12
biết về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của mọi thành
viên trong xã hội, trong đó có sinh viên. GDPL trong nhà trường có vai trò to lớn
đối với sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Bác Hồ đã dạy “có tài
mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Xét trên mọi phương diện, giáo dục đạo đức, lối sống, GDPL đóng
góp một phần quan trọng tạo nên nhân cách của mỗi con người. Đảng và Nhà
nước ta rất quan trâm coi trọng công tác GDPL, nhất là từ khi có đường lối đổi
mới của Đảng từ Đại hội lần thứ XII đến nay, văn kiện lần thứ XII của Đảng đã
xác định rõ: đưa việc dạy pháp luật vào các trường học của Đảng, của Nhà nước
(kể cả các trường phổ thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân.
Sinh viên là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Để có nắm vững kiến thức về pháp luật, có hành vi xử sự phù hợp với các
chuẩn mực pháp luật trong cuộc sống thì sinh viên phải được giáo dục, đào tạo
thông qua việc GDPL trong trường học. Trách nhiệm GDPL của trường đại học là
cung cấp cho sinh viên tri thức pháp luật, am hiểu quyền và nghĩa vụ của mình
theo quy định của pháp luật, được phép làm những việc mà pháp luật cho phép và
không làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm, từ đó áp dụng vào công tác thực
tiễn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bản thân, gia đình, xã hội và sẵn
sàng để hội nhập quốc tế. Vì vậy có thể nói, GDPL cho sinh viên chính là hình
thành ở sinh viên, tri thức pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật để có hành
vi xử sự hợp pháp, tích cực, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tạo nên nếp sống văn
hóa pháp lý.
Thứ ba, GDPL góp phần hình thành nhân cách trong sinh viên. Giáo dục
pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tiễn cuộc
sống của sinh viên. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà
các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định bằng việc
tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. GDPL trong trường đại học không chỉ
làm sâu sắc hơn tri thức pháp luật cho sinh viên mà còn hướng đối tượng vào việc
tuân thủ, thi hành đúng và trau dồi kỹ năng áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống, nghề nghiệp tương lai. Nhìn thấy được giá trị mà pháp luật mang lại khi đi
13
vào cuộc sống, sinh viên có ý thức “Sống và làm việc theo pháp luật” bền vững.
Hơn thế nữa, khi ý thức đó được nâng lên thành tình cảm, thiện cảm với pháp
luật, sinh viên lúc này từ đối tượng GDPL có thể sẽ trở thành một chủ thể tuyên
truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng nơi họ sinh sống.
1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trước yêu cầu mới của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định
một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công
nghệ. Do vậy, mục tiêu của GDPL là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý
thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, tự giác tìm hiểu pháp luật; xây dựng lối sống và
làm việc theo pháp luật cho sinh viên. Đưa công tác giáo dục pháp luật phát triển ổn
định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện
đầy đủ quyền được thông tin pháp luật của sinh viên.
Nội dung GDPL thường xuyên được cập nhật kịp thời các kiến thức và quy
định pháp luật của Nhà nước phù hợp với trình độ của sinh viên, đảm bảo sự thống
nhất, đồng bộ giữa hình thức GDPL chính khóa và GDPL ngoại khóa. Bảo đảm
100% sinh viên được trang bị kiến thức pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Các nguyên tắc về giáo dục pháp luật được quy định tại Luật Phổ biến, giáo
dục pháp luật năm 2012 của Quốc Hội. Điều 5 Luật này quy định các nguyên tắc
phổ biến, giáo dục pháp luật gồm:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.
- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.
- Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi,
trình độ của đối tượng được phổ biến, GDPL và truyền thống, phong tục tập quán
tốt đẹp của dân tộc.
14
- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hàng
ngày của người dân.
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên cũng phải bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc
nêu trên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất.
1.2.3. Chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.3.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên
Chủ thể GDPL cho sinh viên là tất cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân mà theo
chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc thực hiện GDPL.
Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012, các
cơ quan, tổ chức có trách nhiệm GDPL cho sinh viên là các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội; Toàn án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước; chính
quyền các cấp ở địa phương; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận; các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề
nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp;
các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và các thành viên trong gia đình.
Trong đó, chủ thể làm công tác GDPL trong các trường đại học là Đảng ủy,
Ban Giám hiệu, giảng viên, bao gồm giảng viên giảng dạy pháp luật và những giảng
viên khác. Xét về tính chuyên nghiệp, chủ thể GDPL chia thành 2 loại: chủ thể
chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Trong GDPL cho sinh viên, chủ thể
GDPL chuyên nghiệp là giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp
luật. Chủ thể GDPL không chuyên nghiệp là những người mà chức năng chính
không phải là GDPL, nhưng một trong những nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt
động để thực hiện mục đích GDPL như cán bộ quản lý, lãnh đạo, công chức, viên
chức. Về cơ bản, chủ thể GDPL cho sinh viên các trường đại học bao gồm:
Thứ nhất, các Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các
trường đại học. Họ vừa là chủ thể tổ chức hoạt động GDPL vừa là chủ thể trực tiếp
GDPL cho sinh viên. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thường xuyên nhất của Đảng ủy,
15
Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các trường đại học trong hoạt động
GDPL cho sinh viên là tổ chức các hoạt động GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó,
trong nhiều trường hợp họ còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động GDPL cho sinh
viên với vai trò giảng viên, báo cáo viên. Thực tế ở nhiều trường đại học, vai trò của
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường là yếu tố đầu tiên, quyết định đối với công tác
này.
Thứ hai, giảng viên giảng dạy pháp luật. Giảng viên giảng dạy pháp luật giữ
vai trò quyết định trong hoạt động GDPL cho sinh viên. Giảng viên giảng dạy pháp
luật là người cung cấp tri thức pháp luật, hướng dẫn lĩnh hội và là tấm gương trong
việc thực hiện pháp luật đối với sinh viên. Họ là những người có kiến thức rộng,
vững về chuyên môn nghiệp vụ. Cùng với hoạt động giảng dạy, giảng viên còn có
hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện hàng năm, định kỳ học tập nâng cao
trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Giảng
viên giảng dạy pháp luật còn phải thường xuyên cập nhật những quy định mới của
pháp luật, những văn bản mới được sửa đổi để kịp thời phổ biến tới sinh viên. Thực
hiện những yêu cầu trên, giảng viên ngày càng hoàn thiện mình hơn và nhờ đó việc
GDPL mang lại hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, viên chức, giảng viên giảng dạy các chuyên ngành khác chuyên ngành
pháp luật. Đây là những người có chức năng, nhiệm vụ chính không phải là GDPL
cho sinh viên nhưng thông qua hoạt động chuyên môn của mình góp phần thực hiện
các mục đích, mục tiêu của GDPL cho sinh viên.
Ngoài các chủ thể nêu trên, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp, cán bộ, công chức, viên chức, báo cáo viên pháp luật và tuyên truyền viên pháp
luật cũng là những chủ thể GDPL cho sinh viên.
Như vậy, ta thấy giảng viên dạy pháp luật là chủ thể GDPL có học vấn, chuyên
môn đạt chuẩn chức danh giảng dạy, có khả năng sư phạm, họ vừa là người giảng
dạy, truyền thụ tri thức pháp lý, vừa là người giáo dục nhân cách, ảnh hưởng không
nhỏ đến sự hoàn thiện nhân cách của sinh viên.
1.2.3.2. Đối tượng giáo dục pháp luật
Đối tượng của GDPL không ai khác chính là sinh viên. Họ là những người
16
thành niên, đã trải qua học tập và rèn luyện trong suốt quá trình học phổ thông.
Khi tốt nghiệp đại học, sinh viên trở thành những người lao động có tri thức và
trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao. Sinh viên, người được GDPL chịu sự tác
động có tổ chức định hướng, vì thế sự hiểu biết, trình độ, đặc điểm tâm sinh lý,
nghề nghiệp của người được giáo dục là yêu cầu hàng đầu. Đồng thời người giáo
dục có trách nhiệm nắm vững tri thức pháp luật, biết cách giáo dục, nhất định
phải là tấm gương mẫu mực về sự tôn trọng và chấp hành pháp luật.
Trong hoạt động học tập của mình, sinh viên phải lĩnh hội hệ thống tri thức
của chuyên ngành mình lựa chọn một cách sâu sắc, bên cạnh đó phải tham gia
các hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là kết quả, là ứng dụng
tích cực, chủ động của những gì đã được tiếp thu từ giáo dục, đào tạo. Hoạt động
này chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Ngoài ra cùng với học tập và nghiên cứu
khoa học, sinh viên còn tham gia hoạt động học nghề. Việc học nghề của những
cử nhân tương lai chủ yếu tập trung vào những hành động, những kỹ thuật, những
nguyên tắc chung có tính chất trí óc là chính.
Bên cạnh hoạt động học tập của sinh viên là các hoạt động chính trị - xã hội
khác. Đây cũng là nội dung hoạt động đặc trưng ở sinh viên. Việc tham gia của
họ vào các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên… vừa
có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhân cách toàn diện của họ, vừa góp
phần không nhỏ vào sự thành công của các thể chế chính trị - xã hội.
Bao quát hơn tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên là
những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen với
nhau. Hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống
tâm lý, nhân cách, hành động của sinh viên.
1.2.4. Nội dung của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Nội dung GDPL là yếu tố quan trọng của quá trình GDPL. Việc xác định
đúng nội dung GDPL là sự đảm bảo cần thiết để GDPL có hiệu quả thiết thực.
Xây dựng được nội dung GDPL phù hợp sẽ giúp việc GDPL có hiệu quả cho cả
việc học và khả năng ứng dụng của người học. Để xây dựng nội dung chương
trình GDPL tốt phải căn cứ vào nhiều yếu tố, như căn cứ vào đối tượng học, mục
17
tiêu của giáo dục đại học, mục tiêu của GDPL, mục tiêu đào tạo của ngành. Nội
dung cơ bản của GDPL được xác định với các mức độ thích hợp cho từng loại đối
tượng trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tượng.
Nội dung GDPL cho sinh viên không phải được xây dựng cố định mà phải
được hiệu chỉnh hoặc được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của xã hội và thực
tiễn của pháp luật. Vì vậy, người dạy phải luôn cập nhật những vấn đề mới,
những thay đổi trong xã hội, trong các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, những thay đổi của pháp luật, những nhu cầu của xã hội đối với
người lao động để xây dựng, điều chỉnh nội dung giảng dạy cho phù hợp, giúp
người học cập nhật được những kiến thức và có khả năng ứng dụng kiến thức tốt
vào cuộc sống.
Nội dung GDPL tại các trường đại học được chia thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất là nhóm kiến thức chung về pháp luật. Những kiến thức
chung này bao quát được các nội dung như sau: Những vấn đề lý luận chung về
nhà nước và pháp luật (Quy định tại Điều 24 Luật phổ biến, GDPL số
14/2012/QH13 ngày 20/6/2012). Trong đó, sinh viên được làm quen với những
vấn đề khái quát chung về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
những vấn đề khái quát chung về pháp luật; các quy phạm pháp luật và hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật; các quan hệ pháp luật; quy định về thực hiện
pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý và một số ngành luật cơ bản
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Mục tiêu của phần này là sinh viên nắm bắt được những kiến thức cơ bản về
nhà nước và pháp luật như nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước và pháp
luật. Từ đó sinh viên xác định được vai trò của nhà nước và pháp luật trong đời
sống xã hội, xây dựng niểm tin ở sinh viên vào bộ máy nhà nước Việt Nam và
nắm được những nội dung mở đầu về pháp luật.
Nhóm thứ hai là những quy định hiện hành về kiến thức pháp luật phù hợp
với ngành nghề của từng đối tượng học, giúp người học lĩnh hội kiến thức pháp
lý cần thiết trong lĩnh vực hoạt động của mình trong nghề nghiệp tương lai. Nội
dung GDPL theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực
18
tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng giáo dục, các quyền và nghĩa vụ của
công dân trong lĩnh vực hoạt động và các trình tự giải quyết tranh chấp phổ biến
liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Như vậy, chúng ta thấy rằng nội dung GDPL cho sinh viên hiện nay là
tương đối rộng, khá bao quát để sinh viên nắm bắt được những kiến thức chung
về Nhà nước và pháp luật và cả kiến thức pháp lý có liên quan đến lĩnh vực
chuyên môn.
1.2.5. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.5.1. Hình thức giáo dục pháp luật cho sinh viên
Hình thức GDPL cho sinh viên là hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình
GDPL thể hiện nội dung GDPL. Hình thức GDPL có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả GDPL. Việc lựa chọn hình thức GDPL phải trên cơ sở
phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đối tượng giáo dục và dựa trên tiêu chí: tính
phù hợp với đối tượng GDPL; tính khả thi trong điều kiện thực hiện; tính hiệu
quả của hình thức được chọn. Theo đó GDPL cho sinh viên là quá trình tổ chức
GDPL, chuyển tải nội dung GDPL cho sinh viên - một đối tượng đặc biệt, ở trong
một môi trường đặc biệt và sẽ giữ vị trí đặc biệt trong tương lai của gia đình,
cộng đồng, quốc gia, quốc tế. Vì vậy, hình thức GDPL cho đối tượng này đòi hỏi
tính linh hoạt, đa dạng và khách quan.
Giáo dục pháp luật tại các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện thông qua
2 hình thức, đó là:
Một là, GDPL cho sinh viên được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động
dạy học chính khóa là môn học pháp luật đại cương, các môn pháp luật chuyên
ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học. Hình thức dạy học
chính khóa được quy định trong các chương trình đào tạo các ngành hiện nay do
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Hiện nay, môn học Pháp luật đại cương hay Lý
luận Nhà nước và Pháp luật là bắt buộc kể từ khi thực hiện Chỉ thị số
45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng
cường công tác phổ biến, GDPL trong ngành giáo dục. Theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo thì môn Pháp luật đại cương phải bao gồm những kiến thức
19
về Nhà nước và Pháp luật, quan hệ trách nhiệm pháp lý, các quy phạm pháp luật,
văn bản pháp luật, hệ thống pháp luật, cấu trúc bộ máy nhà nước, chức năng thẩm
quyền, địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Việt Nam.
Với hình thức này, chương trình đào tạo được triển khai theo quy định
chung, nội dung phù hợp với đối tượng giáo dục là sinh viên; hệ thống tài liệu
đầy đủ. Song vẫn còn hạn chế ở chỗ, nội dung GDPL vẫn nặng về lý thuyết, chủ
yếu cung cấp nội dung các điều luật mà chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng ứng
xử, kỹ năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề thực tế của cuộc sống,
chưa thu hút sự hứng thú học tập của đông đảo sinh viên. Theo kết quả khảo sát
100 giảng viên và 900 sinh viên học năm thứ hai ở các trường đại học về chương
trình giảng dạy môn pháp luật đại cương cho thấy, tỷ lệ giảng viên và sinh viên
đánh giá chương trình môn pháp luật đại cương không đáp ứng được yêu cầu là
5% và 11% [46]
Hai là, GDPL được tổ chức dưới hình thức các hoạt động ngoại khóa và các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Trừ “tuần sinh hoạt công dân” đầu khóa là
bắt buộc, còn các hoạt động GDPL khác là do các trường đại học chủ động tổ
chức thực hiện. Hình thức GDPL ngoại khóa chủ yếu được thực hiện thông qua
các hình thức như: các hội nghị tập huấn; biên soạn, phát hành các loại tài liệu, tờ
rơi..; lồng ghép tích hợp trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: tham gia
các câu lạc bộ pháp luật; tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật; tham gia
các hoạt động tình nguyện; tham dự các phiên tòa thật sự hoặc tổ chức phiên tòa
giả định cho sinh viên thực hiện tại trường; lồng ghép vào các hoạt động như thi
diễn kịch, diễn văn nghệ, các buổi nói chuyện chuyên đề, giới thiệu các văn bản
mới trong những buổi sinh hoạt thường kỳ…
Ưu điểm của hình thức này là các hoạt động giáo dục được tổ chức đa dạng,
linh hoạt, phong phú và hấp dẫn hơn đối với sinh viên. Nội dung truyền tải ngắn
gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và sinh động hơn, tránh được sự khô khan, cứng
nhắc, tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của sinh viên. Tuy nhiên hạn chế
của các hoạt động này là tổ chức không thường xuyên.
Như vậy có 2 hình thức để thông qua đó chủ thể làm công tác giáo dục thực
20
hiện GDPL, tuy nhiên tùy vào từng đối tượng người học mà hình thức thực hiện
sẽ khác nhau. Qua đó ta thấy người làm công tác giáo dục phải hiểu rõ đặc điểm
đối tượng người học để tìm ra những hình thức giáo dục sao cho phù hợp nhằm
mang lại hiệu quả tốt nhất.
1.2.5.2. Phương pháp giáo dục pháp luật
Phương pháp GDPL là hệ thống cách thức sử dụng để tiến hành hoạt động
GDPL. Là một thành tố cấu thành quá trình giáo dục, phương pháp GDPL cho
sinh viên chịu tác động định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục nói chung
và của giáo dục đại học nói riêng được quy định bởi nội dung GDPL và đặc điểm
của đối tượng GDPL là sinh viên đại học. Hiện nay, theo quan điểm tiếp cận của
khoa học giáo dục thì phương pháp GDPL gồm có các nhóm phương pháp, đó là
các phương pháp tác động đến nhận thức, các phương pháp tác động đến tình
cảm, các phương pháp hình thành hành vi thói quen. Còn theo quan điểm tiếp cận
của các nhà khoa học pháp luật thì phương pháp GDPL bao gồm: phương pháp
áp dụng trong các hoạt động GDPL cụ thể (phương pháp thuyết giảng, phương
pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai…) và các phương pháp tổ chức GDPL.
Theo đó, về cơ bản, phương pháp GDPL cho sinh viên bao gồm các nhóm
phương pháp sau:
Thứ nhất, nhóm phương pháp thuyết phục. Đây là nhóm phương pháp cơ
bản tác động lên nhận thức và tình cảm của sinh viên nhằm hình thành khái niệm,
tri thức và niềm tin đúng đắn về pháp luật, tạo điều kiện cho sinh viên hình thành
thói quen và hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Phương tiện được sử dụng
trong nhóm phương pháp này phong phú và đa dạng như ngôn ngữ, sách báo,
khẩu hiệu, các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phát thanh, truyền hình, internet.
Những phương pháp được sử dụng trong nhóm là: phương pháp diễn giảng;
phương pháp vấn đáp; phương pháp thảo luận; phương pháp sử dụng sách giáo
khoa, tài liệu và internet (được sử dụng nhiều khi giảng viên hướng dẫn sinh viên
tự học, tự nghiên cứu nhằm mở rộng thêm kiến thức); phương pháp dạy học nêu
vấn đề (giảng viên đưa ra tình huống mâu thuẫn, có vấn đề, tạo cho sinh viên cảm
21
hứng tranh luận sôi nổi để giải quyết vấn đề)
Thứ hai, nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm
ứng xử trong quan hệ xã hội. Quá trình GDPL cho sinh viên không chỉ hình thành
cho sinh viên tri thức pháp luật, niềm tin vào các chuẩn mực pháp luật, hơn nữa
là phải thể hiện được bằng hành vi, thói quen tuân theo pháp luật. GDPL là sự
thống nhất giữa ý thức và hành vi, là quá trình biến những nhận thức, tình cảm
thành hành vi hợp pháp, những hành vi ứng xử thành thói quen tuân theo pháp
luật của sinh viên. Mục đích chủ yếu của nhóm phương pháp này là hình thành ở
sinh viên những hành vi phù hợp với quy định của pháp luật, hình thành phẩm
chất, trách nhiệm công dân. Những phương pháp được sử dụng trong nhóm này
là phương pháp quan sát thực tế, tham gia các sự kiện pháp lý có liên quan;
phương pháp đóng kịch; phương pháp minh họa bằng hình ảnh, video clip, số
liệu, các bảng thống kê…
Thứ ba, nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử xã hội. Nhóm phương pháp này có khả năng to lớn trong việc động viên
sinh viên phát huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt
hiệu quả cao nhất khi tham gia vào các hoạt động GDPL cũng như tham gia vào
các hoạt động xã hội. Đặc điểm của phương pháp này là có tác dụng tích cực,
thúc đẩy các hành vi hợp pháp của sinh viên, khắc phục, ngăn ngừa những hành
vi lệch chuẩn, không hợp pháp. Cụ thể ở đây là việc khen và chê, khuyến khích
và trách phạt. Khuyến khích, khen thưởng là phương pháp để củng cố và kích
thích những động cơ và hành vi đúng đắn. Trách phạt là phương pháp nhằm ức
chế, kìm hãm và điều chỉnh hành vi không phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên
1.3.1. Chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về
giáo dục pháp luật
Các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục
vừa là cơ sở pháp lý vừa là một yếu tố thúc đẩy hoạt động GDPL nói chung và
GDPL cho sinh viên nói riêng. Trong những năm qua, công tác phổ biến, GDPL
22
đã nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, rất nhiều văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn đã được ban hành nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác này.
Hiến pháp năm 2013 nước ta ghi nhận: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có nghề,
năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp
phần làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Mục tiêu cơ bản của GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên đã được định rõ
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và
lần thứ 6 khóa IX là: “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam, có ý
thức cộng động và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ” [16]
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với các ý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. GDPL nói
chung và GDPL trình độ đại học nói riêng có vai trò cực kỳ quan trọng là đào tạo ra
những con người phát triển toàn diện, nhiều người lao động có tri thức, có trí tuệ, có
khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh
để cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc gia và quốc tế. Một trong
những mục tiêu quan trọng hàng đầu của giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói
riêng là giáo dục nhân cách, phát huy và phát triển hệ thống giá trị của dân tộc; nâng
cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực và là nguồn gốc để đào tạo bồi dưỡng nhân tài
23
trên nền tảng nhân cách tốt đẹp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển
đất nước thời kỳ quá độ đã nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” [19].
Thực hiện tinh thần của Đại hội, ngày 04/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã kí ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết 29 - Hội nghị
TW8 (khóa XI) là Nghị quyết chuyên đề có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Giáo
dục đào tạo, là yêu cầu, cũng đồng thời là cơ sở cho quá trình đổi mới mạnh mẽ giáo
dục và đào tạo của đất nước giai đoạn hiện nay.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII xác định: Giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản
của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu
quả. Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở
giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,
đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm
xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực [20]
1.3.2. Nhận thức và năng lực của chủ thể giáo dục pháp luật
Nhận thức đúng về vị trí, vai trò của GDPL cho sinh viên của các lực lượng
24
giáo dục sẽ trở thành yếu tố tích cực thúc đẩy việc xác định mục tiêu nội dung,
hình thức tổ chức phù hợp mang lại hiệu quả giáo dục. Ngược lại, nếu nhận thức
của các lực lượng giáo dục không đúng sẽ ảnh hưởng tới việc xác định mục tiêu,
nội dung, hình thức tổ chức sai lầm hay việc thực hiện qua loa, hình thức dẫn đến
hiệu quả giáo dục thấp.
Năng lực của chủ thể GDPL được hiểu là kiến thức, kỹ năng, sự hiểu biết về
các quy định của pháp luật ở một trình độ nhất định trở lên và phương pháp
truyền đạt tốt giúp người nghe, người học nắm được, hiểu đúng về các quy định
của pháp luật. Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả công tác GDPL cho
sinh viên. Công tác GDPL cho sinh viên rất đa dạng và phong phú từ nội dung
đến hình thức, phương pháp GDPL, do đó đòi hỏi người tổ chức phải có năng lực
và kỹ năng cần thiết như: Nắm vững các quy định của pháp luật, năng lực thiết kế
các hoạt động GDPL, năng lực huy động và phối hợp với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài trường, kỹ năng nắm bắt tâm lý của các đối tượng… Chất lượng,
hiệu quả của GDPL cho sinh viên phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ
này. Nếu năng lực của cán bộ, giảng viên tốt, không những chủ động điều phối
được những yếu tố chủ quan tác động theo định hướng, mà còn khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố khách quan để công tác GDPL cho sinh viên
mang lại kết quả thực sự. Ngược lại, nếu năng lực của cán bộ, giảng viên thực
hiện công tác GDPL chưa tốt, không am hiểu sâu về pháp luật thì công tác GDPL
sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không đạt được mục tiêu giáo dục.
1.3.3. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Một hệ thống pháp luật được đánh giá là hoàn thiện khi đảm bảo được các
tiêu chuẩn cơ bản là tính toàn diện, tính thống nhất, tính phù hợp và trình độ kỹ
thuật pháp lý được sử dụng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Một là,
mức độ toàn diện của hệ thống pháp luật tạo điều kiện cơ bản, thuận lợi để tổ
chức và triển khai hoạt động GDPL cho sinh viên, là cơ sở để cung cấp toàn diện,
đầy đủ, có hệ thống các kiến thức pháp luật cơ bản và những ngành luật cụ thể
liên quan đến các ngành đào tạo của sinh viên. Hai là, mức độ thống nhất của hệ
25
thống pháp luật bao hàm cả thống nhất về hình thức và nội dung. Điều này đòi
hỏi các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống
nhất, hài hòa về nội dung mà còn phải đảm bảo tính thứ bậc của mỗi văn bản về
giá trị pháp lý của chúng. Khi đó các trường đại học mới có cơ sở để xây dựng
chương trình, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo thống nhất chung trong toàn
hệ thống các trường cũng như phù hợp với đặc thù của từng nhóm đối tượng sinh
viên đang học ở từng ngành, lĩnh vực khác nhau. Qua đó việc GDPL cho sinh
viên được triển khai có chất lượng, hiệu quả. Ba là, mức độ phù hợp của hệ thống
pháp luật thể hiện hệ thống pháp luật được hình thành do nhu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội đó phát triển theo một trật tự mà Nhà
nước mong muốn thiết lập. Hệ thống pháp luật được xây dựng, ban hành phù hợp
với thực tiễn cuộc sống sẽ giúp hoạt động GDPL cho sinh viên thiết thực, có hiệu
quả, hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức pháp luật thực sự cần thiết
với tư cách chủ thể pháp luật, phù hợp với yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai,
với những tình huống pháp luật cụ thể mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Ngược lại,
nếu hệ thống pháp luật không phù hợp, không bám sát thực tiễn thì nó không giúp
giải quyết được những vướng mắc họ gặp phải trong thực tiễn cuộc sống, làm cho
hoạt động GDPL sẽ chỉ là hình thức. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật với các quy
phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác là điều kiện góp phần thuận lợi cho
hoạt động GDPL cho sinh viên phát huy hiệu quả. Trong các trường đại học, việc
GDPL và giáo dục đạo đức cho sinh viên là hai nội dung có quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
Thứ tư là trình độ kỹ thuật pháp lý. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện đòi hỏi
phải được xây dựng bởi trình độ kỹ thuật pháp lý cao.
Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác GDPL cho sinh viên, vì vậy muốn đạt được mục đích của
công tác GDPL cho sinh viên, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật trên cơ sở các tiêu chí trên.
26
1.3.4. Tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh viên
Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi
thể chế chính trị. Họ là những công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền
hạn và nghĩa vụ trước nhà nước và pháp luật. Đại đa số các em có ý thức học tập,
ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và sáng tạo…, đây là mặt thuận lợi trong công
tác GDPL cho sinh viên. Nếu các chủ thể biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó sẽ
có thể đạt được kết quả tốt nhất cho quá trình GDPL cho sinh viên.
Tuy nhiên, do còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất nên thanh niên sinh viên chưa hoàn toàn tự lập về mọi
mặt. Việc GDPL cũng gặp những khó khăn như: do tuổi đời còn trẻ, một số ít
sinh viên còn coi nhẹ việc học, chưa tự giác học…dẫn đến chưa nhận thức được
vai trò và ý nghĩa quan trọng của pháp luật và ý thức tự giác thực hiện pháp luật.
Tính tích cực và chủ động của sinh viên có tác động rất lớn tới kết quả của
công tác GDPL. Họ là đối tượng của công tác GDPL, vì vậy đây là hoạt động
chính của sinh viên. Khi tổ chức thực hiện GDPL, chủ thể GDPL cần phát huy
được tính tự quản, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của sinh viên. Ngoài ra
những hoạt động này cần phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên nhằm
thu hút, hấp dẫn sinh viên tham gia vào các hoạt động do chủ thể giáo dục tổ
chức.
1.3.5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục pháp luật
Trên cơ sở Thông tư số 03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 của Bộ Tư pháp
quy định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, khi
đánh giá thực trạng GDPL cho sinh viên và đề xuất giải pháp cần phải quan tâm
đến các nội dung:
- Mức độ sinh viên tự học tập, chủ động tìm hiểu pháp luật;
- Mức độ biết pháp luật, hiểu pháp luật của sinh viên;
- Mức độ triển khai các hoạt động giáo dục pháp luật;
- Mức độ ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của giáo dục pháp luật cho sinh viên.
27
1.3.6. Cơ sở vật chất và trang thiết bị
Điều kiện vật chất, trong đó đặc biệt là điều kiện tài chính, ảnh hưởng rất
nhiều đến quá trình GDPL cho sinh viên. Nếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật đáp
ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác GDPL được nâng cao.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước đã có nhiều quan
tâm đầu tư trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại cho công tác GDPL cho
sinh viên, nhưng trong thực tế, điều kiện này chưa đáp ứng tốt nhất cho việc thực
hiện công tác này.
Muốn nâng cao chất lượng công tác GDPL cho sinh viên, không thể tách rời
yếu tố cơ sở vật chất - thiết bị dạy học. Cơ sở vật chất - thiết bị dạy học hiện đại
là điều kiện để người giảng viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, là điều
kiện để nâng cao chất lượng đào tạo. Thiết bị dạy học vừa là công cụ, phương
tiện giảng dạy, vừa là đối tượng của nhận thức. Nó là thành tố không thể thiếu
trong cấu trúc toàn vẹn của quá trình giáo dục, giảng dạy, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo, là cầu nối giữa giảng viên và sinh viên, làm cho hai nhân tố này
tác động tổng hợp với nhau trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung và phương
pháp đào tạo.
1.3.7. Môi trường xã hội
Môi trường là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế. Môi trường xã hội
bên ngoài nhà trường có ảnh hưởng lớn đến GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó,
môi trường giáo dục của gia đình bao gồm lối sống, hành vi đạo đức, thói quen
thực hiện pháp luật… của gia đình cũng ảnh hưởng lớn đến nhân cách và việc
thực hiện pháp luật của sinh viên.
Chính vì vậy, một xã hội ổn định, ít biến động về chính trị sẽ đưa đến sự ổn
định về hệ thống pháp luật, cũng góp phần thuận lợi cho việc GDPL cho sinh viên.
Môi trường thực hiện GDPL cho sinh viên ở nước ta có nhiều thuận lợi: Hệ thống
chính trị ổn định; công tác GDPL được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư về cơ
sở vật chất cũng như các nguồn lực…
28
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã phân tích một cách toàn diện và cơ bản nhất những vấn đề lý
luận về GDPL cho sinh viên. Qua đó thấy được việc thực hiện công tác GDPL
cho sinh viên được Đảng và Nhà nước ta thực sự quan tâm và coi trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
GDPL được hiểu một cách chung nhất là hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp tổ
chức khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm
hình thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tôn trọng pháp luật, tình cảm và
hành vi phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa
pháp luật.
Khái niệm GDPL cho sinh viên cũng giống như khái niệm GDPL nêu trên
nhưng có phần cụ thể hơn, đó là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích
của các chủ thể GDPL trong các trường đại học thông qua các hoạt động giáo dục
chính khóa và ngoại khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị
tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân cách và tư cách công dân,
nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự
đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật, có tri thức pháp luật về chuyên môn
nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo.
Để thực hiện có hiệu quả công tác GDPL cho sinh viên, đội ngũ cán bộ, giảng
viên thực hiện GDPL cần nắm vững nội dung, chương trình, hình thức và phương
pháp GDPL cho sinh viên, đặc biệt là nội dung GDPL. Nội dung GDPL cho sinh
viên không phải được xây dựng cố định mà phải thường xuyên được cập nhật hoặc
thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của xã hội và thực tiễn của pháp luật. Ngoài ra
tác giả cũng phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh
viên như: nhận thức, năng lực của chủ thể GDPL; sự hoàn thiện của hệ thống pháp
luật, tính chủ động, sáng tạo của sinh viên; cơ sở vật chất, kỹ thuật; môi trường xã
hội.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội
2.1.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội
Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định một
trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động,
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công nghệ.
Mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào
tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu
học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân… Trong đó, mục tiêu
đối với giáo dục đại học là tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân
tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của
người học. Giáo dục pháp luật phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục và đào tạo, chuyển đổi quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện nhằm hình thành phẩm chất đạo đức nhân văn
và năng lực nhận thức, kỹ năng thực hành cho người học.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội xác định việc GDPL cho sinh viên phải đảm
bảo các mục tiêu chung về GDPL cho sinh viên:
Thứ nhất, hình thành và mở rộng tri thức pháp luật cho sinh viên. Thông qua
GDPL để sinh viên được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật, vai trò điều
chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực của pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật,
giúp sinh viên hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá đúng đắn các hành vi.
30
Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin vào các giá trị pháp luật, tạo
cơ sở hình thành hành vi hợp pháp cho sinh viên, đồng thời giúp sinh viên điều
khiển hành vi của mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã
nhận thức được.
Thứ hai, hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho sinh viên.
Niềm tin pháp luật đóng góp vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi,
lòng tin vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ hợp pháp. Có
niềm tin vào tính công bằng của pháp luật, sinh viên sẽ có hành vi phù hợp với các
đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. Có tri thức về pháp luật chưa có
nghĩa là đã có tình cảm đúng đắn và lòng tin vào pháp luật. Đó mới chỉ là cơ sở
nhận thức, tạo niềm tin, động cơ bên trong ở mỗi sinh viên. Do vậy, việc biến nhận
thức thành niềm tin pháp luật, động cơ bên trong cho sinh viên là yêu cầu quan
trọng để sinh viên tham gia quan hệ xã hội với đầy đủ tư cách công dân với ngành
nghề được đào tạo. Thiếu tự tin, thiếu tình cảm sẽ không tạo ra được các hành vi
hợp pháp và khả năng chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh mà thay vào đó là những
phản ứng ngược, vi phạm pháp luật, lách luật.
Thứ ba, giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp
luật cho sinh viên. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin pháp luật là tiền
đề để giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ pháp luật,
hình thành động cơ và hành vi tích cực hợp pháp. Những hành vi hợp pháp của
mỗi người, thường được biểu hiện qua các việc làm như tuân thủ pháp luật, thực
hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, biết đấu tranh với
các hành vi vi phạm pháp luật… để đạt đến mục đích cuối cùng của GDPL cho
sinh viên chính là hình thành ở mỗi sinh viên ý thức pháp luật bền vững.
Bên cạnh việc đảm bảo yêu cầu chung về GDPL cho sinh viên, Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội cũng đặt ra những mục tiêu đảm bảo vị trí việc làm đáp ứng
từng chuyên ngành đào tạo của nhà trường. Trường đào tạo cử nhân có phẩm chất
chính trị và đạo đức nghề nghiệp, được trang bị những kiến thức cơ bản và chuyên
sâu về pháp luật nói chung, pháp luật trong lĩnh vực nội vụ nói riêng; cùng thực
31
tiễn pháp lý và những kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có liên quan;
đặc biệt là có tư duy phản biện để phân tích, đánh giá, kiến nghị hoàn thiện chính
sách, pháp luật; có kỹ năng thực hành; có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo giải
quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành góp phần vào sự phát triển ngành Nội vụ
và kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể:
Giáo dục pháp luật cung cấp cho sinh viên về các ngành luật cơ bản trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới; cùng hệ
thống pháp luật chuyên sâu trong khu vực công và các lĩnh vực quản lý đặc thù của
ngành nội vụ như: công vụ, công chức; chính quyền địa phương; thanh tra, khiếu
nại, tố cáo; thi đua, khen thưởng; địa giới hành chính…
Giáo dục pháp luật rèn luyện cho sinh viên hệ thống kỹ năng quan trọng, cần
thiết để có thể làm việc độc lập, sáng tạo, đạt hiệu quả cao trong công việc, như: kỹ
năng nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng hệ thống các quy định
của pháp luật; vận dụng quy định của pháp luật để giải quyết tình huống pháp lý
phát sinh trong các lĩnh vực của vị trí việc làm.
Giáo dục pháp luật hình thành cho người học ý thức tổ chức kỷ luật cao; có
tinh thần chủ động và phối hợp trong công việc; có thái độ nghiêm túc, khách
quan, có đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện công vụ, nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là nhằm giúp
sinh viên nắm được những tri thức cơ bản, quan trọng để các em có ý thức về vị trí,
trách nhiệm và lý tưởng của người công dân, nâng cao năng lực tự nhận thức và
hành động để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trên nền tảng tri thức nhằm hình thành và bồi dưỡng tình cảm
lành mạnh của sinh viên, rèn luyện cho các em thói quen, hành vi và lối sống theo
pháp luật. Đồng thời, luyện cho sinh viên kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào
thực tế, nắm vững các chuẩn mực pháp luật và tuân thủ các chuẩn mực đó trong
mọi hành vi của mình.
32
2.1.2. Nguyên tắc giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội
Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp thông tin thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, bảo đảm sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý,
tính cách, thực tiễn cuộc sống của sinh viên và thực tiễn xã hội, thu hút sự tham
gia của họ vào các hoạt động thực tiễn.
Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo cung cấp thông tin thực
tiễn pháp luật - xã hội một cách chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực;
đảm bảo nguyên lý học đi đôi với hành; hình thành tri thức pháp luật để có hành
vi xử sự hợp pháp; ứng dụng kiến thức pháp luật vào cuộc sống; giáo dục kỹ
năng phòng tránh vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội.
Giáo dục pháp luật trong nhà trường phải đảm bảo tính hệ thống, kịp thời,
thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; nội dung và hình thức phù hợp
với đối tượng sinh viên; đảm bảo sự thống nhất của ba mục đích: mục đích nhận
thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi phù hợp pháp luật.
Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL trong nhà trường; xây dựng và thực
hiện mô hình kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng, xã hội trong hoạt
động GDPL cho sinh viên; lồng ghép hợp lý nội dung GDPL vào hoạt động của
các tổ chức Đoàn, Hội… Tạo lập diễn đàn giao lưu chia sẻ thông tin, kinh
nghiệm, thu hút sinh viên vào các hoạt động tìm hiểu pháp luật. Kết hợp, lồng
ghép GDPL với giáo dục đạo đức, giáo dục quyền con người, giáo dục kỹ năng
sống.
2.1.3. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội
Chủ thể GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là lãnh đạo các
cơ quan quản lý GDPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Ban Giám hiệu
nhà trường, các khoa, phòng, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, các cán bộ,
giảng viên, viên chức…và quan trọng nhất là đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp
luật trong nhà trường…
33
2.1.3.1. Thực trạng đội ngũ quản lý giáo dục pháp luật
Trong thời gian qua, việc tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên tại
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường. Căn cứ vào nội dung, hình thức GDPL, Ban
Giám hiệu nhà trường có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL và bố trí giảng
viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật. Nhà trường quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ của đơn vị thuộc và trực thuộc trường trong thực hiện GDPL cho
sinh viên:
Khoa Pháp luật hành chính là đơn vị chuyên môn thuộc Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội, có chức năng tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục, đào tạo trình độ
đại học, sau đại học; tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ gắn với chuyên môn
của Khoa; thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế; khoa học và công nghệ phù hợp
với mục tiêu, phương hướng phát triển của Trường. Những nội dung thuộc lĩnh
vực chuyên môn cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học của khoa Pháp luật
hành chính luôn theo định hướng tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, phát
triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học
phù hợp với nhu cầu phát triển các lĩnh vực, ngành nghề thuộc phạm vi quản lý
Nhà nước của Bộ nội vụ và yêu cầu hội nhập quốc tế. Khoa Pháp luật hành chính
cũng được giao là đơn vị chủ trì tổ chức Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, ngày 9/11 hàng năm.
Phòng Công tác sinh viên nhà trường là đơn vị có chức năng tham mưu và
giúp Hiệu trưởng trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, và công tác sinh
viên của Trường. Phòng có nhiệm vụ tổ chức “Tuần sinh hoạt công dân - Học
sinh, sinh viên” vào đầu khóa, đầu năm và cuối khóa theo Quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo; tổ chức quản lý và thực hiện các hoạt động giáo dục đạo đức,
pháp luật, văn hóa, văn nghệ, thể thao, kỹ năng mềm nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần và thể chất cho sinh viên. Ngoài ra, phòng còn là đầu mối giải quyết và
trả lời khiếu nại, tố cáo của sinh viên; kết hợp chặt chẽ với công an, chính quyền
34
địa phương để thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn, bảo vệ tài sản và tính mạng của sinh viên nội trú…
Bên cạnh đó, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội là một bộ phận trong hệ thống chính trị của Nhà trường, có nhiệm vụ
tập hợp, tổ chức, giáo dục và rèn luyện đoàn viên, thanh niên, sinh viên. Đoàn
trường có chức năng tổ chức các chương trình, hoạt động, các phong trào học tập,
nghiên cứu khoa học; văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để rèn luyện kỹ năng
mềm, tạo môi trường rèn luyện cho đoàn viên sinh viên, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường. Trong thời gian qua, Đoàn trường phối hợp với
các đơn vị liên quan trong Trường tổ chức nhiều hoạt động mang tính giáo dục
pháp luật cho sinh viên theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh khóa X “Tăng cường giáo dục
đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh thiếu niên giai đoạn
2013-2017” gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Công tác GDPL cho sinh viên được Đoàn trường lồng ghép vào nhiều
nội dung hoạt động như tổ chức các phong trào thi đua học tập, nghiên cứu khoa
học, phát triển tài năng cũng như các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể
thao. Bên cạnh đó, phong trào đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và
việc làm cũng tạo ra sân chơi để sinh viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ
những ý tưởng hay, cách làm hiệu quả, tạo công việc làm thêm cho những sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn. Thông qua những hoạt động này, đoàn viên thanh
niên đã có những sân chơi bổ ích, nâng cao đời sống tinh thần, góp phần làm
giảm tệ nạn xã hội trong nhà trường, tạo bầu không khí phấn khởi thi đua rèn
luyện, học tập trong đoàn viên, thanh niên.
Các khoa thuộc trường có trách nhiệm phối hợp với khoa Pháp luật hành
chính để triển khai hiệu quả nội dung giáo dục chính khóa (môn pháp luật đại
cương và các môn Luật có liên quan đến ngành học của sinh viên) và các hoạt
động giáo dục pháp luật ngoại khóa ngoài giờ lên lớp.
Như vậy, các đơn vị chuyên môn trong trường tùy theo chức năng, nhiệm vụ
đã nghiêm túc triển khai công tác GDPL cho sinh viên đạt được một số kết quả
35
nhất định, trang bị cho sinh viên những tri thức pháp luật và niềm tin, ý thức pháp
luật cũng như trách nhiệm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Các
đơn vị đã có sự phối hợp trong việc tổ chức giảng dạy, tuyên truyền cũng như các
hoạt động trong tuần lễ sinh hoạt đầu khóa, cuối khóa.
Tuy nhiên thực tế cho thấy sự phối hợp trong tổ chức GDPL cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả. Ngoài các đơn vị
được giao nhiệm vụ giảng dạy và thực hiện công tác GDPL cho sinh viên, nhiều
đơn vị còn chưa thực sự quan tâm và chủ động thực hiện công tác này.
2.1.3.2. Thực trạng đội ngũ làm công tác giảng dạy pháp luật
Điều 31 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định: “Căn cứ vào nội dung,
hình thức GDPL ở từng cấp học và trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL, bố trí giáo viên
dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định
của pháp luật”. Ban Giám hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội căn cứ vào nội
dung, hình thức GDPL của bậc đại học, có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL,
bố trí giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật. Công tác GDPL
trong thời gian qua chủ yếu tập trung ở Khoa Pháp luật hành chính, do giảng viên
của Khoa đảm nhận.
Tiêu chuẩn của giảng viên tham gia giảng dạy chương trình GDPL chính
khóa yêu cầu phải có đạt tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập, có đạo đức nghề nghiệp, có lòng yêu
nghề và nhiệt huyết với sự nghiệp giáo dục (Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-
BGD ĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập) [8]. Để
được đứng lớp, người giảng viên phải trải qua quy trình thẩm định trình độ
chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của mình ở 03 cấp: giảng báo cáo cấp bộ
môn, cấp Khoa và cấp Trường. Sau khi hoàn thành việc giảng báo cáo, họ mới
được chính thức giao nhiệm vụ giảng dạy. Đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp
luật của trường hiện nay đã tăng cả về số lượng và chất lượng, được chuẩn hóa,
được tạo điều kiện để nâng cao năng lực chuyên môn. Trong quá trình giảng dạy,
36
nhà trường tổ chức những buổi dự giảng giảng viên, khảo sát sự hài lòng của sinh
viên đối với giảng viên qua nhiều tiêu chí cũng như kiến nghị của mình về giảng
viên. Nhà trường còn khảo sát đánh giá về mặt khả năng và tác phong sư phạm
cũng như kiến thức chuyên môn. Sau khảo sát, đối với những giảng viên còn có
các mặt hạn chế, nhà trường yêu cầu giảng viên phải đề xuất phương hướng khắc
phục cụ thể. Nhờ vậy, giảng viên luôn phải cố gắng hoàn thiện mình để nâng cao
nghiệp vụ, hoàn thiện các kỹ năng của người giảng viên, đáp ứng yêu cầu của nhà
trường và sự hài lòng của người học. Mỗi năm người giảng viên phải bảo đảm
hoàn thành đủ số giờ nghiên cứu khoa học theo quy định là 190 giờ/năm (Theo
Thông tư 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định chế độ làm việc đối với giảng viên). Hiện nay, tỷ lệ giảng viên là tiến sĩ
chuyên ngành Luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội so với số lượng viên
chức, giảng viên nhà trường có trình độ tiến sĩ là 20%, tỉ lệ thạc sĩ là 5,97% và cử
nhân là 5,38%. Điều này cho thấy, tỉ lệ giảng viên có trình độ chuyên môn cao,
nghiên cứu sâu về ngành Luật của Trường là khá cao.
Ngoài giảng viên cơ hữu, định kì nhà trường mời giảng viên thỉnh giảng của
các trường đại học chuyên ngành có kinh nghiệm hoặc chuyên gia của các cơ
quan, tổ chức khác có uy tín tham gia giảng dạy, hội thảo chuyên đề hoặc giao
lưu với sinh viên.
Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chuyên môn luật của trường Đại học
Nội vụ Hà Nội tính đến tháng 3/2019
Số lượng viên chức, giảng viên
Số lượng viên chức, giảng
Về trình độ chuyên môn
Tỷ lệ (%)
chuyên ngành Luật
viên của Trường
Tiến sĩ
9
45
20
Thạc sĩ
16
268
5,97
Cử nhân
7
130
5,38
(Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ cung cấp)
37
2.1.4. Đối tượng giáo dục pháp luật
Về lứa tuổi, giới tính, sinh viên đang ở lứa tuổi thanh niên, từ 18 đến 22
tuổi. Họ là những thanh niên tuổi đời còn trẻ, chưa định hình rõ rệt về nhân cách,
ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức đang được đào tạo chuyên môn. Sinh viên
có thể nhận thức rõ ràng về năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của
những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó các em sẽ xác định rõ
mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong
giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Sinh viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội là những trí thức tương lai của ngành Nội vụ, các em rất thích
khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân,
thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với
thử thách để khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là
tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp,
một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu
thích và đam mê với nghề đã lựa chọn.
Theo thống kê thì số lượng sinh viên nữ của Trường chiếm tỷ lệ khá cao,
chiếm 78,59% tổng số sinh viên toàn trường. Sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội đã được tiếp cận với Luật bình đẳng giới và có những chuyển biến tích
cực trong nhận thức về bình đẳng giới.
Về tập quán, vùng miền sinh sống, số lượng sinh viên nhà trường là người
dân tộc thiểu số khá nhiều, (1001 sinh viên trên tổng số sinh viên toàn trường là
5878, chiếm tỷ lệ 17%) ngoài những đặc điểm tính cách vốn có của sinh viên nói
chung, họ còn thể hiện nhiều đặc điểm tính cách đặc trưng của dân tộc, vùng,
miền mình. Bên cạnh đó, phần lớn họ đều xuất thân từ các gia đình sống ở vùng
sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Địa bàn cư trú, xuất thân,
dân tộc, tôn giáo, tập quán, văn hóa, truyền thống… của các đối tượng sinh viên
đa dạng, đan xen; với những thói quen, phương pháp tiếp cận không đồng nhất, ý
thức học tập không đồng đều. Vừa để đóng tiền học, vừa để trang trải cuộc sống,
nhiều sinh viên nhà trường đã đi làm thêm trong quá trình học tập tại trường.
38
Điều này lại dẫn đến một thực tế là các em buộc phải thuê nhà ở bên ngoài cho
tiện việc làm thêm, số sinh viên sống ở ký túc xá nhà trường không nhiều, việc
quản lý các em gặp không ít khó khăn. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả GDPL đối
với sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn.
Về kiến thức đầu vào của sinh viên, nhà trường tuyển sinh các mã ngành:
khối A, khối C và khối D. Sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội được đào tạo
những ngành nghề trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác đáp
ứng nhu cầu xã hội. Để có những sinh viên học tập tốt, có tư duy độc lập, sáng
tạo trong nghiên cứu khoa học, sinh viên luôn phải tìm kiếm, khám phá, tìm tòi,
học hỏi những cái mới, họ cần phải có thông tin, tri thức từ nhà trường, từ xã hội.
Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ
chính quy Năm học 2017-2018
Đơn vị tính: Người
Tổng số sinh viên chia
Trong đó
theo năm đào tạo
Tổng số
Ngành đào tạo
Dân
Năm
Năm
Năm
Năm
Ghi chú
sinh viên
Nữ
tộc ít
thứ
thứ
thứ
thứ
người
2
3
4
1
Khoa học thư viện
262
211
51
50
102
59
26
Lưu trữ học
750
683
150
127
223
250
151
Quản trị nhân lực
1240
985
251
314
386
289
227
Quản trị văn phòng
1111
936
240
308
318
245
213
Quản lý nhà nước
1278
893
177
318
462
321
198
Quản lý văn hóa
536
381
120
128
184
104
91
Luật
384
286
292
92
62
Chính trị học
185
132
133
52
17
Hệ thống thông tin
132
113
132
16
Tổng số sinh viên
5878
4620
1001 1546 1389 1675 1268
(Nguồn: Phòng Công tác sinh viên)
39
Đối tượng GDPL chính là sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. Sinh
viên nhà trường có hoạt động chủ đạo là học tập, tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo nghề nghiệp. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi
thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh
viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều
chỉnh sự phát triển bản thân phù hợp với xu thế xã hội. Sinh viên có thể nhận
thức rõ ràng về năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc
điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó các em sẽ xác định rõ mục tiêu học
tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp,
thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà
sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập
cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ và phương pháp học tập của các em.
Sinh viên là những trí thức tương lai, các em rất thích khám phá, tìm tòi cái mới,
đồng thời thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang
bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Nhìn chung, sinh viên nhà trường đã có sự tuân thủ nghiêm túc pháp luật,
các quy định, quy chế của bộ, ngành, địa phương, nhà trường, khoa đào tạo; chủ
động lĩnh hội các kiến thức được đào tạo; chủ động tích cực học tập và tiếp xúc
với doanh nghiệp, cơ quan sử dụng lao động theo đúng ngành nghề đào tạo để
chuẩn bị việc làm khi ra trường. Trong học tập, ngoài việc lắng nghe giảng viên
giảng dạy trên lớp thì các em còn tự trao đổi phương pháp học tập, chủ động
trong việc học, tự mình đọc sách, tài liệu, nghiên cứu thông tin. Phần lớn sinh
viên tự thích nghi với môi trường sống, tham gia các hoạt động của trường. Ngoài
việc học tập, nghiên cứu trong nhà trường, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội đã tham gia vào các hoạt động xã hội, thiện nguyện, công ích do Đoàn thanh
niên tổ chức sôi nổi, nhiệt huyết, mang lại các giá trị hữu ích cho xã hội như các
phong trào: “Mùa thi nghiêm túc, chất lượng cao”; “Sinh viên 5 tốt”; “Nói
không với tiêu cực trong thi cử”; “Ngày hội sách và bản quyền thế giới”; tham
gia các cuộc thi “sinh viên nội vụ tài năng và tri thức”; duy trì và nâng cao chất
40
lượng các câu lạc bộ Nhà quản trị nhân lực, câu lạc bộ Võ thuật, câu lạc bộ Sách
Nội vụ, Hội vận động hiến máu nhân đạo..
2.1.5. Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức dạy và học kiến thức pháp luật
theo 2 nhóm nội dung chính quy định tại Điều 23 Luật Phổ biến, giáo dục pháp
luật: “Nội dung GDPL trong chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học
trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, kiến thức pháp luật liên quan
đến ngành, nghề đào tạo”:
- Trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật
Việc GDPL cho sinh viên có vai trò đặc biệt quan trọng, giúp sinh viên nắm
vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và quan điểm của
Đảng về nhà nước và pháp luật; giúp sinh viên nắm các kiến thức cơ bản về nhà
nước và pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền và lợi ích
của công dân. Tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định mới liên
quan đến giáo dục, các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo
dục ý thức tôn trọng, chấp hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành
pháp luật; tác động của chính sách pháp luật; nội dung chính sách pháp luật về hỗ
trợ và khởi nghiệp, về phòng chống bạo lực học đường, về cải cách hành chính,
về an toàn thực phẩm, về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng…
Nhà trường đã triển khai giảng dạy môn pháp luật đại cương cho toàn bộ
sinh viên của tất cả các ngành đào tạo, bảo đảm cho sinh viên khi ra trường nắm
được lý luận cơ bản về pháp luật để có thể tự tìm hiểu các ngành luật cần thiết.
Bước đầu đưa công tác GDPL phát triển ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, tạo
chuyển biến trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập và tìm
hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật của sinh viên. Việc
trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật cho sinh viên góp phần đào
tạo lực lượng sinh viên có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm,
41
tích cực học tập, rèn luyện để sau khi ra trường, trên các cương vị của mình cơ
bản thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ.
Bảng 3. Chương trình môn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao
đẳng, đại học
Phân bổ giờ tín chỉ theo hình
thức tổ chức dạy học
Nội dung
Tổng giờ
Bài tập/
Thực
Lý thuyết
Thảo luận
hành
Chương 1. Khái quát chung về Nhà nước
03
01
0
04
Chương 2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
02
01
0
03
nghĩa Việt Nam
Chương 3. Khái quát chung về pháp luật
03
01
0
04
Chương 4. Quy phạm pháp luật - Hệ thống
04
02
0
06
văn bản quy phạm pháp luật
Chương 5. Quan hệ pháp luật
02
01
0
03
Chương 6. Thực hiện pháp luật – Vi phạm
03
02
0
05
pháp luật - Trách nhiệm pháp lý
Chương 7. Một số ngành luật cơ bản trong
03
02
0
05
hệ thống pháp luật Việt Nam
Tổng
20 giờ TC 10 giờ TC 0 giờ TC 30 giờ TC
(Nguồn: Phòng Quản lý đào tạo, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội)
Bảng 4. Chương trình môn học Luật Hành chính dành cho bậc cao
đẳng, đại học
Phân bổ giờ tín chỉ theo hình
thức tổ chức dạy học
Nội dung
Tổng giờ
Bài tập/
Thực
Lý thuyết
Thảo luận
hành
Chương 1. Khái quát chung về Luật Hành
01
0
06
05
chính
01
0
03
Chương 2. Các nguyên tắc cơ bản trong
02
42
quản lý nhà nước
Chương 3. Quy phạm pháp luật hành
04
01
0
05
chính, quan hệ pháp luật hành chính
Chương 4. Cơ quan hành chính nhà nước
04
02
0
06
Chương 5. Cán bộ, công chức, viên chức
04
02
0
06
Chương 6. Tổ chức xã hội và cá nhân
03
0
0
03
Chương 7. Quyết định hành chính
03
0
0
03
Chương 8. Thủ tục hành chính
02
01
0
03
Chương 9. Vi phạm pháp luật hành chính
05
02
0
07
và trách nhiệm pháp lý hành chính
Chương 10. Bảo đảm pháp chế và kỷ luật
02
01
0
03
nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước
Tổng
35 giờ TC 10 giờ TC 0 giờ TC 45 giờ TC
(Nguồn: Phòng Quản lý đào tạo, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội)
- Trang bị kiến thức pháp luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hiến pháp, các bộ luật luôn giữ vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, đòi hỏi sinh viên phải nắm vững không chỉ kiến thức về Hiến
pháp, pháp luật nói chung mà phải nắm vững pháp luật liên quan đến chuyên môn
của mình để sau đó có thể vận dụng vào công việc chuyên môn sau khi ra trường,
hướng đến mục tiêu “Tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn
pháp luật cho mọi người trong xã hội” [26].
Là cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Nội vụ, do vậy chương trình GDPL trang bị
kiến thức pháp luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo của Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội được tập trung vào mục tiêu là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
pháp luật trong một số lĩnh vực chuyên ngành về: Luật học, Chính trị học, Quản
lý nhà nước, Quản lý văn hóa, Quản trị nhân lực, Quản trị văn phòng, Lưu trữ
học, Khoa học thư viện…, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ngành Nội
vụ, nhân lực quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp góp phần thực hiện yêu
cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
43
Các môn học liên quan đến kiến thức pháp luật nhà trường đã triển khai
giảng dạy gồm: Pháp luật đại cương; Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam;
Luật Hành chính; Luật Lao động; Luật Hiến pháp (Việt Nam và nước ngoài);
Pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Lý luận về nhà nước và pháp luật; Pháp
luật về chính quyền địa phương; Pháp luật về thi đua, khen thưởng; Pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo… Những nội dung được lồng ghép trong các giờ học
chính khóa của sinh viên gồm các quy định mới liên quan đến giáo dục; các hành
vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo dục ý thức tôn trọng, chấp
hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; quyền, nghĩa vụ cơ
bản của công dân…
Ngoài ra, nhà trường còn tổ chức các hoạt động GDPL ngoại khóa và các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp với chủ trương của Đảng, các nội dung
chính sách pháp luật về mọi mặt của đời sống xã hội: an ninh quốc phòng, ý thức
trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; phòng chống tham nhũng, lãng phí;
phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường,
bảo vệ tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu; an toàn thực phẩm; bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng; an toàn giao thông; phòng, chống bạo lực học
đường; cải cách hành chính; pháp luật về Internet và an toàn thông tin mạng; hoạt
động đối ngoại và hội nhập quốc tế…
Trong những năm vừa qua, Nhà trường đã giao các đơn vị thuộc trường tổ
chức một số Hội thảo khoa học, hội nghị, nói chuyện chuyên đề về một số nội
dung: “Tổ chức chính quyền địa phương: Quy định pháp luật - thực tiễn của
Pháp và Việt Nam”; Hội nghị phổ biến, tuyên truyền pháp luật về biển đảo và
công tác biên giới trên đất liền; “Những điểm mới trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương”; “Những điểm mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Việt Nam”; Kế hoạch triển khai thực hiện Ngày pháp luật Việt Nam hàng
năm…
Qua nghiên cứu chuẩn đầu ra, vị trí việc làm của các chuyên ngành do nhà
44
trường đào tạo, có thể thấy các học phần pháp luật đã cơ bản đáp ứng được yêu
cầu trong nội dung GDPL liên quan đến ngành nghề đào tạo. Sau khi ra trường,
sinh viên sẽ được trang bị các kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh vực đào tạo
của mình. Ví dụ như ngành Quản lý nhà nước, ngoài học phần Pháp luật đại
cương, sinh viên còn được học Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Luật Hiến
pháp, Luật Hành chính, Pháp luật về chính quyền địa phương, Pháp luật về Thi
đua - Khen thưởng, Pháp luật về Thanh tra, khiếu nại, tố cáo; ngành Quản trị văn
phòng có các học phần về Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, Luật Lao động… Theo
đó, sinh viên đã cơ bản nắm được những kiến thức pháp luật cần thiết để ứng
dụng vào thực tiễn cuộc sống cũng như ngành nghề mình đã chọn.
2.1.6. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội
2.1.6.1. Hình thức giáo dục pháp luật chính khóa cho sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội
Để hoàn thiện quá trình giáo dục, thời gian qua Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội đã từng bước thực hiện các đổi mới, trong đó có đổi mới hình thức GDPL
trong chương trình giáo dục chính khóa. Những thay đổi này thực sự đã đóng góp
lớn vào quá trình GDPL cho sinh viên, làm thay đổi theo hướng đa dạng hóa và
chuyển dần từ truyền thụ một chiều theo kiểu học truyền thống sang hướng tích
cực hóa người học.
Hình thức GDPL chính khóa trong nhà trường được chú trọng và ưu tiên
hơn, có thời lượng nhiều hơn để giảng viên và sinh viên thực hiện việc giảng dạy
và học tập. Chương trình GDPL chính khóa có quy định rõ về nội dung, giảng
viên có lịch giảng cụ thể, có phương pháp đánh giá được công bố rõ cho người
học vào đầu môn học. Trong quá trình giảng dạy, học tập do khoa chuyên môn
thực hiện, công tác GDPL còn được sự hỗ trợ, phối hợp của nhiều cá nhân, phòng
ban, đơn vị trong Trường như: Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo đại học,
Phòng Khảo thí bảo đảm chất lượng, Phòng Công tác sinh viên. Kết quả học tập
45
phải được thực hiện bằng điểm số rõ ràng, cụ thể và hình thức học tập chính khóa
là bắt buộc nên sinh viên phải đầu tư thời gian và công sức trong học tập. Vì
những lý do trên mà cho đến nay hình thức giáo dục pháp luật chính khóa vẫn đạt
được nhiều kết quả hơn so với hình thức GDPL ngoại khóa.
2.1.6.2. Hình thức giáo dục pháp luật ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp cho sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Ngoài các giờ học chính khóa với các môn học về pháp luật được đưa vào
giảng dạy ở các ngành học, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội còn chú trọng triển
khai tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến, GDPL ngoại khóa và các hoạt
động GDPL cho sinh viên ngoài giờ lên lớp. Các hình thức đã được tổ chức triển
khai gồm có: Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề nâng cao hiểu biết, ý thức
chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, Nhà trường còn tổ
chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến, GDPL khác như phát sách báo, tờ rơi,
treo băng rôn, khẩu hiệu; thông qua hệ thống mạng Internet; thông qua tài liệu phổ
biến pháp luật; xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật tại Thư viện của nhà
trường; lồng ghép nội dung GDPL trong tuần sinh hoạt công dân đầu năm học, các
buổi sinh hoạt lớp, chi đoàn; lồng ghép trong các đợt sinh hoạt chính trị chuyên đề,
sinh hoạt chính trị nhân các ngày lễ lớn; lồng ghép trong các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao; lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ: Câu lạc bộ
Nhà quản trị nhân lực, Câu lạc bộ Sách Nội vụ, Câu lạc bộ Thanh niên vận động
hiến máu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội…)
Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng
Hấp dẫn
Bình thường
Không hấp dẫn
51,8 41,1
6,4
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương
59,5 36,2
3,1
2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên
52,1 41,1
4,3
3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)
Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật
46
32,8 52,1
12,0
4. Phát sách báo, tờ rơi
42
45,7
8,3
48,4 41,7
6,7
56,4 35,6
5,8
5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường
59,5 32,8
4,6
8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ
62,9 29,1
4,0
9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên
60,7 31,9
4,6
10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
63,5 30,4
3,4
11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật
Trong số các hình thức giáo dục pháp luật mà nhà trường đã áp dụng, ý kiến
đánh giá hình thức tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật “hấp dẫn” chiếm tỷ lệ
cao nhất (63,5%); tiếp đến là hình thức: Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề
về pháp luật cho sinh viên (62,9%); Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
(60,7%); các hình thức: Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên và
Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ đều có tỷ lệ lựa chọn là 59,5%;
Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường có tỷ
lệ 56,4%. Ngoài ra, hai hình thức Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh
hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học) và Học phần pháp luật, pháp luật đại
cương cũng có tỷ lệ ở mức trên 50% (tỷ lệ cụ thể lần lượt là 52,1% và 51,8%).
Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng
Hiệu quả 64,7
Bình thường 30,4
Không hiệu quả 3,7
63,8
31,0
4,3
59,5
33,1
4,6
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)
36,8
52,5
8,6
4. Phát sách báo, tờ rơi
Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật
47
Hiệu quả
Bình thường
Không hiệu quả
44,2 44,5
7,4
57,4 34,7
5,5
60,7 32,8
4,0
60,7 31,3
4,9
64,4 27,9
4,9
61,0 31,6
4,0
5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
61,3 32,2
3,7
11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật
Sinh viên đánh giá khá cao mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục
pháp luật mà nhà trường đã áp dụng. Ngoại trừ hai hình thức: Phát sách báo tờ rơi
và Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá có tỷ lệ sinh viên
đánh giá “Hiệu quả” ở mức dưới 45%, còn lại tất cả các hình thức khác đều có tỷ
lệ sinh viên đánh giá hiệu quả ở mức từ 57,4% đến 64,7%. Trong đó ba hình thức
có tỷ lệ đánh giá ở mức “Hiệu quả” cao nhất là: Giáo dục trong các học phần
pháp luật, pháp luật đại cương; Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp
luật cho sinh viên; Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên (xem
bảng 6).
Những hoạt động GDPL ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp đã được Ban Giám
hiệu Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cùng các khoa chuyên môn, các tổ chức
chính trị - xã hội quan tâm, tổ chức thực hiện đã phần nào tạo được sự chuyển
biến về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của
sinh viên, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện của Nhà trường.
2.1.6.3. Phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội chủ yếu áp dụng các phương pháp giảng
dạy tiên tiến, tích cực, với mục tiêu lấy người học làm trung tâm, phát huy tính
48
chủ động, sáng tạo của người học trong việc tiếp cận, lĩnh hội tri thức. Những
phương pháp thường được sử dụng trong GDPL tại Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội:
Một là, nhóm các phương pháp dạy học sử dụng ngôn ngữ như phương pháp
diễn giảng; phương pháp vấn đáp; phương pháp thảo luận; phương pháp sử dụng
sách giáo khoa, tài liệu và internet (được sử dụng nhiều khi giảng viên hướng dẫn
sinh viên tự học, tự nghiên cứu nhằm mở rộng thêm kiến thức); phương pháp dạy
học nêu vấn đề (giảng viên đưa ra tình huống mâu thuẫn, có vấn đề, tạo cho sinh
viên cảm hứng tranh luận sôi nổi để giải quyết vấn đề)
Hai là, nhóm các phương pháp dạy học trực quan, là phương pháp dạy học
mà giảng viên huy động các giác quan của sinh viên tham gia vào quá trình học
tập, làm cho việc nhận thức trở nên cụ thể, dễ dàng và chính xác hơn. Nhóm này
bao gồm các phương pháp: phương pháp minh họa (bằng hình ảnh, clip quay, số
liệu, các bảng thống kê, những tình huống, sự kiện pháp lý có liên quan; phương
pháp quan sát thực tế; phương pháp dạy học có sử dụng phương tiện hiện đại
(máy tính, projector…)
Có nhiều phương pháp để giảng viên thực hiện nhằm chuyển tải nội dung
GDPL và tạo cảm hứng học tập cho sinh viên. Trong một nội dung giảng dạy,
giảng viên thường kết hợp nhiều phương pháp phù hợp với nội dung và mục tiêu
của bài học, với đối tượng… để đạt hiệu quả cao nhất cho cả người dạy và người
học.
Ngoài các phương pháp nói trên, giảng viên phải kết hợp với phương pháp
khuyên giải khi GDPL cho sinh viên. Phương pháp này đòi hỏi chủ thể GDPL
phải hiểu rõ đối tượng của mình, hiểu các em đang cần uốn nắn, hỗ trợ những gì.
Với phương pháp khuyên giải, giảng viên phải thật sự trở thành những người gần
gũi với sinh viên, lắng nghe sự chia sẻ của các em để có thể cảm hóa các em qua
những tình huống pháp luật có liên quan, qua những quy định pháp luật, những
chuẩn mực đạo đức để hướng các em trở thành người tốt. Có thể nói rằng, trong
GDPL cho sinh viên phải kết hợp cả giáo dục đạo đức và giáo dục kỹ năng sống.
49
2.1.7. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ giáo dục pháp luật cho sinh
viên
Hiện nay cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác GDPL cho
sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã được quan tâm đầu tư. Mỗi giảng
đường, lớp học đều có trang bị hệ thống máy chiếu projector. Tại Trung tâm
Thông tin - Thư viện của trường được cập nhật và bổ sung thường xuyên rất
nhiều sách báo, tài liệu liên quan đến pháp luật. Tủ sách pháp luật của nhà trường
đa dạng, phong phú với rất nhiều đầu sách giấy và sách điện tử, giúp sinh viên tra
cứu thông tin pháp luật dễ dàng, thuận tiện.
Tuy nhiên cơ sở vật chất của nhà trường vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn của công tác này. Chủ yếu các hoạt động GDPL cho sinh viên vẫn được
thực hiện tại các phòng học và tại hội trường, chưa có sự đầu tư cho phòng học
giả lập các văn phòng, công ty luật hay mô hình tòa án.
Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử
liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Nội dung
Số lượng
TT
Sách giấy
1
2250
Sách điện tử
2
588
Oxford Scholarship Online eBook. Law Collection - chủ đề chính :
3
282
Luật quốc tế, Luật nhân quyền Luật hình sự, Luật châu Âu…
IG Publishing -Danh mục bộ sưu tập sách điện tử Peer Practice
4
129
Title Listing Chủ đề chính : Luật, Hành chính công, Luật dân sự…
(Nguồn: Trung tâm Thông tin - Thư viện cung cấp)
2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội
2.2.1. Những kết quả cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trong những năm vừa qua, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội luôn chú trọng
việc tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên.
Nhìn vào biểu đồ 1 cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá cao mức độ hữu
50
ích của các nội dung pháp luật đã được giáo dục từ nhà trường. Tỷ lệ cho rằng các thông tin này hữu ích ở mức rất cao, trong khoảng từ 42,9% đến 55,8%. Tỷ lệ cho rằng các thông tin này ở mức rất hữu ích cũng tương đối cao, nằm trong khoảng từ 30,1% đến 48,5%. Điều đó có thể cho thấy việc định hướng các nội dung trong chương trình giáo dục pháp luật của nhà trường dành cho sinh viên là phù hợp và đáp ứng được nhu cầu hiểu biết của các em.
55.8
60
50.9
49.4
48.5
47.5
47.2
46.0
45.7
45.4
45.4
50
42.9
42.9
40.2
37.4
37.4
36.8
40
33.7
33.1
31.3
30.1
30
20
10
0
Dân sự Hình sự Hành chính
Giáo dục, y tế
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Lao động, việc làm
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn xã hội
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên
Rất hữu ích
Hữu ích
Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật
Việc tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật của nhà trường cũng tương
đối đa dạng về hình thức. Hầu như các ý kiến đều cho rằng thông qua các hình
thức giáo dục pháp luật chính khóa và ngoại khóa, những nội dung pháp luật
được chuyển tải đến sinh viên một cách đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ hơn,
sinh động hơn, tránh được sự cứng nhắc, khô khan; đối tượng tiếp nhận các kiến
thức pháp luật một cách thoải mái và hoàn toàn chủ động, hiểu biết về pháp luật
và khả năng áp dụng pháp luật của đối tượng được nâng cao hơn. Thông qua các
hình thức giáo dục pháp luật, bên cạnh nâng cao hiểu biết nội dung pháp luật, kỹ
năng tuyên truyền giáo dục pháp luật của sinh viên cũng được gọt dũa, được tôi
luyện, trở nên tinh hơn, hiệu quả hơn. Nhờ vậy, pháp luật có điều kiện lan toả, dễ
đi vào cuộc sống của sinh viên hơn, phát huy hiệu quả tốt hơn.
Khi tìm hiểu về nhận thức, mức độ hiểu biết của sinh viên đối với một số
51
Luật phổ biến và có tác động trực tiếp đến các mặt trong đời sống của sinh viên
hiện nay như: Quyền và nghĩa vụ của thanh thiếu niên, sinh viên; dân sự; hình sự;
hành chính; hôn nhân và gia đình; bảo vệ môi trường; Lao động việc làm; Y tế,
giáo dục; Giao thông đường bộ; Phòng chống tệ nạn xã hội, kết quả khảo sát cho
thấy: trong các luật được kể ra, phần lớn sinh viên cho rằng mình có biết một vài
nội dung cụ thể (dao động trong khoảng từ 46% đến 54,6%); tỷ lệ cho rằng đã
nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể nằm trong khoảng từ 18,7% đến
35,9%. Tỷ lệ sinh viên cho rằng mình có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong
lĩnh vực này chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ dao động trong khoảng từ 1,8% đến 6,7%.
Vẫn còn khoảng từ 1,8% đến 4,3% sinh viên cho rằng mình chưa nghe nói đến
quy định của Luật về các lĩnh vực này (Bảng 8).
Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng
Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên
Chưa nghe nói đến Có biết một vài nội dung cụ thể Biết phần lớn các quy định trong lĩnh vực này Có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong lĩnh vực này Đã nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể
28,2 47,5 16,6 2,5 5,5
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự Hình sự 3,1 4,3 52,8 50,0 7,7 9,5 1,8 2,1 34,7 34,0
Hành chính 3,7 46,0 12,0 2,5 35,9
Hôn nhân và gia đình Bảo vệ môi trường Lao động, việc làm 3,1 1,8 4,0 50,6 52,8 48,2 14,7 14,7 11,0 2,8 6,7 3,4 28,8 23,9 33,4
Giáo dục, y tế 3,1 54,6 11,0 4,3 27,0
3,1 50,9 20,9 6,4 18,7
3,7 50,0 18,7 6,1 21,5 Giao thông đường bộ Phòng, chống tệ nạn XH
52
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng, đối với tất cả các lĩnh vực Luật thì “Sách
báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình” vẫn là kênh cung cấp thông tin, kiến
thức phổ biến nhất đối với sinh viên (36,5% đến 44,2%). Nguồn cung cấp các
kiến thức Luật quan trọng thứ hai đối với sinh viên đó là “Thầy cô giáo” (17,2%
đến 31,6%). Tỷ lệ sinh viên cho rằng hiểu biết luật của mình là do đọc trực tiếp từ
các văn bản Luật chiếm tỷ lệ thứ ba (12,6% đến 23,9%). Ngoài ra sinh viên còn
tiếp cận các thông tin, kiến thức Luật từ một số nguồn khác như: Bố mẹ, họ hàng,
làng xóm; Bạn bè; Tổ chức đoàn thể… Tuy nhiên tỷ lệ sinh viên tiếp cận thông
tin từ các nguồn này đều thấp và không đáng kể (Bảng 9)
Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng
Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên
Khác Bạn bè Thầy cô giáo Đọc trực tiếp từ Luật Tổ chức đoàn thể Bố mẹ, họ hàng, làng xóm
19,9 36,2
3,1
1,5
31,6
5,8
1,8
23,9 41,1
2,8
3,1
25,5
2,5
1,2
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
23,6 39,9
3,7
2,5
26,4
1,8
2,1
Hình sự
22,7 36,5
2,8
3,1
28,2
4,3
2,5
Hành chính
17,5 37,1
12,6
2,5
25,2
3,4
1,8
Hôn nhân và gia đình
13,2 43,9
4,6
2,5
24,2
9,5
2,1
Bảo vệ môi trường
16,3 44,2
6,7
7,7
17,2
3,4
4,6
Lao động, việc làm
12,6 40,2
7,7
4,6
25,5
6,4
3,1
Giáo dục, y tế
22,7 41,4
5,8
4,0
17,8
5,2
3,1
Giao thông đường bộ
5,2
5,5
19,9
7,4
2,5
Phòng, chống tệ nạn XH 18,7 40,8
Đọc trên sách báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình
53
Phần lớn sinh viên đánh giá về hiểu biết pháp luật của sinh viên trong trường
Đại học nội vụ Hà Nội nói chung ở mức “Bình thường” (tỷ lệ này ở mức từ
42,3% đến 58%). Một số lĩnh vực Luật pháp được sinh viên đánh giá là hiểu biết
của sinh viên ở mức “Tốt” chiếm tỷ lệ cao là: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên,
thiếu niên, sinh viên (41,7%); Giáo dục, y tế (37,1); Phòng, chống tệ nạn xã hội
(36,8%); Giao thông đường bộ (33,4%); Lao động, việc làm (30,7%); đối với các
lĩnh vực khác, tỷ lệ cho rằng hiểu biết của sinh viên ở mức Tốt chỉ nằm trong
khoảng từ 25,2% đến 27,9% (bảng 10).
Đơn vị tính: % so với những người có lựa chọn các hình thức tương ứng
Rất tốt
Tốt
Kém
Bình thường
Không biết
9,5
41,7
42,3
4,3
2,1
3,7
27,3
55,5
9,5
4,0
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
3,4
26,4
56,4
9,8
4,0
Hình sự
5,5
27,9
55,8
7,4
3,4
Hành chính
3,1
25,2
58,0
8,6
5,2
Hôn nhân và gia đình
4,6
32,2
50,9
9,5
2,8
Bảo vệ môi trường
3,7
30,7
56,4
6,1
3,1
Lao động, việc làm
4,0
37,1
50,9
5,8
2,1
Giáo dục, y tế
5,5
33,4
51,8
6,7
2,5
Giao thông đường bộ
4,9
2,5
6,4
36,8
49,4
Phòng, chống tệ nạn xã hội
Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung
Có một thực tế đáng báo động, đó là có tới 68,1% sinh viên được hỏi cho
rằng: Có tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội
nhưng không phổ biến; 13,5% ý kiến cho rằng tình trạng vi phạm pháp luật của
sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội là khá phổ biến và chỉ có 13,5% ý kiến
sinh viên được hỏi cho rằng không có tình trạng sinh viên đại học nội vụ Hà Nội
vi phạm pháp luật. Trong đó có 48,8% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm
Luật Giao thông đường bộ; 39% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật
Bảo vệ môi trường; 31% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm các quy định
54
về quyền và nghĩa vụ của thanh, thiếu niên, sinh viên; 13,2% cho rằng có tình
trạng vi phạm Luật dân sự; 12,6% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật
phòng chống tệ nạn xã hội; 8,6% cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm Luật
Hôn nhân gia đình. Ngoài ra, tỷ lệ cho rằng có tình trạng sinh viên vi phạm các
Luật khác như Hành chính; Lao động, việc làm; Giáo dục, y tế lần lượt là (6,4%;
4,6% và 3,7%).
Thực tế cho thấy trong thời qua Đoàn Thanh niên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội đã phối hợp với các đơn vị kết hợp phổ biến giáo dục pháp luật với quá
trình dạy học; tăng cường giáo dục phổ biến pháp luật thông qua tuyên truyền
miệng; qua các buổi sinh hoạt đoàn thể để phổ biến, giáo dục pháp luật, thi tìm
hiểu pháp luật để sinh viên được nghe, xem trực tiếp nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật để nắm bắt kịp thời các thông tin pháp luật, các văn bản pháp luật mới;
qua các cuộc ra quân tuyên truyền, cổ động; văn hóa, văn nghệ...
2.2.2. Nguyên nhân của những kết quả giáo dục pháp luật cho sinh viên - Lãnh đạo Nhà trường rất quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật:
Trong thời gian qua Lãnh đạo Nhà trường luôn chú trọng công tác GDPL
cho sinh viên, xem việc GDPL cho sinh viên gắn bó hữu cơ với hoạt động giáo
dục nói chung, giúp sinh viên hình thành tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi
phù hợp với pháp luật hiện hành, có ý thức tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, Đảng ủy,
Ban Giám hiệu Nhà trường chủ động lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, quán triệt
Quyết định số 1928/QĐ - TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ đề ra
mục tiêu: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trong nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn
trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà giáo, cán bộ quản lý cơ
sở giáo dục và người học, góp phần ổn định môi trường giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện” [36], Luật Phổ biến, Giáo dục pháp luật năm 2012
[34]. Đảng ủy, Ban Giám hiệu chủ đạo thực hiện nghiêm túc chương trình khung
giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành ở đó có học phần pháp
55
luật đại cương hoặc các học phần liên quan đến pháp luật. Thực hiện Nghị quyết
số 67/2007/NQ - CP của Chính phủ và Chỉ thị số 45/2007/CT -BGDĐT của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay Nhà trường đã đưa môn pháp luật đại
cương vào chương trình chính khóa của các ngành đào tạo.
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn học Nhà nước và Pháp luật trong
chương trình giáo dục đào tạo là nội dung được lãnh đạo cũng được Nhà trường
quan tâm hàng đầu. Công tác đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp
dạy học phù hợp với cấp học, thực tiễn pháp lý được chỉ đạo thường xuyên. Việc
thường xuyên cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật mới, tổ chức tốt hoạt
động chấp hành pháp luật; quán triệt và thực hiện nghiêm pháp luật. Xây dựng
môi trường văn hóa pháp luật trong sạch, tự giác và nghiêm minh trong các nhà
trường luôn được lãnh đạo Nhà trường chú trọng. Trong đó Nhà trường đặc biệt
chú trọng đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên theo hướng hiện đại,
thiết thực và phù hợp với ngành, chuyên ngành đào tạo của sinh viên; đặt giáo
dục pháp luật trong mối quan hệ mật thiết với giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo
đức và giáo dục truyền thống.
Ngày 20/6/2012, Quốc hội khóa 13 đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục
pháp luật, trong đó quy định lấy ngày 09/11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc lấy ngày ra đời bản Hiến pháp đầu
tiên là Ngày pháp luật hàng năm càng có ý nghĩa hơn trong việc thể hiện tinh thần
tôn vinh các giá trị, vai trò của Hiến pháp, pháp luật trong cuộc sống mỗi con
người và trong sự phát triển của quốc gia, qua đó làm cho tinh thần thượng tôn
pháp luật thực sự thấm sâu vào ý thức, hành vi, hoạt động của mọi người dân, cơ
quan, tổ chức và toàn xã hội. Từ năm 2012 cho đến nay, hầu như hàng năm
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đều tổ chức các buổi tọa đàm, nói chuyện chuyên
đề về giáo dục pháp luật do Đảng ủy chủ trì tổ chức. Ví dụ, năm 2015, Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội tổ chức chương trình nói chuyện chuyên đề “Những điểm
mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam” do PGS.TS Đinh
Xuân Thảo - Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ
56
Quốc hội trình bày.
Với vai trò là một cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Nội vụ, Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho
toàn thể cán bộ công chức, viên chức, người lao động và sinh viên trong Nhà
trường. Buổi nói chuyện chuyên đề chính là dịp để mỗi cá nhân trong Trường
nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật mà cụ thể là những điểm mới về tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Thông qua hình thức này, sinh viên
được nghe nhiều thông tin hữu ích cũng như trực tiếp trao đổi, chia sẻ với diễn
giả về một số vấn đề liên quan đến nội dung luật quy định hoạt động bộ máy nhà
nước ta.
- Nội dung của giáo dục pháp luật bám sát các quy định của nhà nước
Thực hiện GDPL theo đúng các nội dung được quy định tại Luật phổ biến,
GDPL; Chương trình phổ biến, GDPL giai đoạn 2008-2012 (kéo dài hết 2016);
Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chương trình phổ biến, GDPL giai đoạn 2017-2021; Quyết định số 3957/QĐ-
BGDĐT ngày 28/9/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch tiếp tục
triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”…
- Hình thức, phương pháp giảng dạy đã có những đổi mới kịp thời, phù hợp
với quy định của pháp luật và nhu cầu của sinh viên.
Để hoàn thiện quá trình giáo dục, thời gian qua, giảng viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội đã từng bước thực hiện các đổi mới, trong đó có đổi mới hình
thức GDPL trong chương trình giáo dục chính khóa. Những thay đổi này thực sự
đã đóng góp lớn vào quá trình GDPL cho sinh viên, làm thay đổi theo hướng đa
dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều theo kiểu học truyền thống sang
hướng tích cực hóa người học. Chương trình GDPL ngoại khóa được tổ chức với
ngày càng đa dạng về hình thức, hấp dẫn về nội dung, thu hút sự tham gia của
đông đảo sinh viên.
Công tác GDPL cho sinh viên đã áp dụng những phương pháp giáo dục khoa
57
học, phù hợp với đối tượng, tâm lí, trình độ của sinh viên. Bên cạnh đó, Nhà
trường đã có sự phối hợp với các ban ngành liên quan như: Cảnh sát giao thông,
lực lượng công an, các cơ quan truyền thông… trong việc GDPL cho sinh viên,
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên. Giáo dục pháp luật cho sinh
viên cần có sự cương quyết, sử dụng các biện pháp cứng rắn; tuy nhiên bên cạnh
đó cần sử dụng những biện pháp mềm dẻo để khuyên răn, giáo dục, thuyết phục
giúp sinh viên nhận thức được những điều đúng - sai, từ đó lựa chọn các hành vi
đúng chuẩn mực.
- Cơ sở vật chất của Trường phục vụ giáo dục pháp luật cơ bản bảo đảm:
Hiện nay cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác GDPL cho
sinh viên tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã được quan tâm đầu tư. Mỗi giảng
đường, lớp học đều có trang bị hệ thống máy chiếu projector. Tại Trung tâm
Thông tin - Thư viện của trường được cập nhật và bổ sung thường xuyên rất
nhiều sách báo, tài liệu liên quan đến pháp luật. Tủ sách pháp luật của nhà trường
đa dạng, phong phú với rất nhiều đầu sách giấy và sách điện tử, giúp sinh viên tra
cứu thông tin pháp luật dễ dàng, thuận tiện.
2.2.3. Những hạn chế trong giáo dục pháp luật cho sinh viên
Cũng như các cơ sở đào tạo khác, trong thời gian qua, mặc dù công tác
GDPL đã được chú trọng, đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức, tuy nhiên,
nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả công tác này vẫn chưa rõ nét, chưa khắc phục
được tính hình thức, phong trào.
Nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên còn nặng về phổ biến các quy
định của pháp luật, đã định hướng cho sinh viên rèn luyện kỹ năng ứng xử, kỹ
năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề của cuộc sống tuy nhiên chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế của sinh viên.
Hình thức GDPL mặc dù đã được áp dụng khá đa dạng, phong phú, song
nhìn chung hiệu quả còn chưa cao. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ở
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã đề cập đến nhiều nội dung như tuyên truyền,
phổ biến các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; chú trọng giáo dục ý thức
58
tôn trọng, chấp hành, bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; tác
động của chính sách, pháp luật; quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội dung
chính sách, pháp luật về: an ninh quốc phòng, ý thức trách nhiệm về nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc; phòng chống tham nhũng, lãng phí; phòng, chống tội phạm, vi
phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên và ứng
phó với biến đổi khí hậu; an toàn thực phẩm; an toàn giao thông; phòng, chống
mua bán người, bạo lực gia đình, bạo lực học đường; về cải cách hành chính, cải
cách tư pháp và hoạt động tư pháp; về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh; về hỗ trợ khởi nghiệp; hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tế... Sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhấn mạnh việc tăng
cường tuyên truyền, phổ biến thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật, gắn với
những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội,
gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật.
Còn có tình trạng sinh viên vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy còn có một
số sinh viên lười học, trốn học, nghiện Internet,… Việc sinh viên tham gia chơi lô
đề, cá độ bóng đá hay đánh bạc trong khu ngoại trú ở trọ nhà dân không thể
không có.
Lĩnh vực pháp luật mà sinh viên vi phạm nhiều nhất từ kết quả khảo sát là
những quy định pháp luật về giáo dục, giao thông, tệ nạn xã hội. Một số hành vi
sinh viên thường vi phạm như điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe; chở
quá số người qui định; không chấp hành hiệu lệnh đèn tín hiệu giao thông; sử
dụng điện thoại, thiết bị âm thanh khi điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp; đi xe
dàn hàng ngang; sử dụng ô khi điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy; đi bộ
qua đường không đúng nơi qui định...
2.2.4. Những nguyên nhân cơ bản của hạn chế trong giáo dục pháp luật
cho sinh viên
- Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục pháp luật
cho sinh viên chưa chặt chẽ
Quyết định Số: 705/QĐ-TTg ngày 25 tháng 05 năm 2017 khẳng định: Tiếp
59
tục đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng, tổng kết,
nhân rộng các mô hình có hiệu quả đã và đang được triển khai thực hiện. .. Nâng
cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đáp ứng yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tăng cường bồi dưỡng, tập
huấn chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy môn giáo dục công dân, môn
pháp luật…Tuy nhiên sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo
dục pháp luật cho sinh viên ở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vẫn có dừng lại ở
mức độ nhất định.
Gia đình bao giờ cũng là môi trường ảnh hưởng đầu tiên và xuyên suốt quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên. Sinh viên luôn chịu tác
động bởi không khí thương yêu, hòa thuận, đùm bọc trong gia đình. Sinh viên
cũng chịu sự ảnh hưởng cực lớn từ cách thức xử sự và mối quan hệ của cha mẹ
họ với nhau, với các thành viên ruột thịt khác. Cha mẹ họ luôn là hình ảnh mẫu
mực về người lớn, người chịu trách nhiệm đối với gia đình và xã hội... nên sinh
viên có chiều hướng giống các đức tính của cha mẹ mình nhiều hơn là không
giống họ. Thực tế khảo sát những trường hợp vi phạm pháp luật của sinh viên,
chúng tôi thấy rằng chính cha mẹ của các em đã tạo ra những mặc cảm tiêu cực
dẫn đến vi phạm pháp luật (sinh viên bắt đầu nghỉ học thất thường để hy vọng tìm
kiếm việc làm thêm và làm thêm; ban đầu là với mong muốn chia sẻ gánh nặng
gia đình, nhưng lâu thì quen dần với việc bỏ học, bị bạn bè, thầy cô than phiền,
xa lánh… và sau đó, có thể là sẽ bỏ học, theo rủ rê của bạn bè xấu để vi phạm
pháp luật. Hành vi ban đầu trong những tình thế đó thường là trộm cắp vặt, hành
động du côn “trả thù” những bạn cùng lớp trường đã chế giễu, coi thường họ
trước đây).
Như đã trình bày, công tác giáo dục pháp luật ở Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội trong thời gian qua đã dẫn lôi cuốn sinh viên. Tuy nhiên tình trạng vi phạm
pháp luật của sinh viên trong thời gian qua cho thấy những tác động của “mặt
trái” của lối sống thực dụng, tiền tệ hoá các quan hệ xã hội. Điều này đưa đến các
hậu quả tiêu cực trên nhiều góc độ, như sự mất phương hướng và một bộ phận
60
sinh viên, sự xung đột giữa các thế hệ trong gia đình, trong các tầng lớp xã hội có
vị trí, có trình độ, điều kiện sống khác nhau làm phát sinh và phát triển của những
vi phạm pháp luật của sinh viên. Những sinh viên có điều kiện vật chất khá giả
của gia đình và sự quản lý lỏng lẻo cũng thường khiến họ nhanh chóng sa đà vào
những thú vui hưởng thụ vật chất tầm thường (trò chơi bạo lực, đua xe cảm giác
mạnh, ăn nhậu, quậy phá, nghiện hút…) đến những hành vi phạm pháp. Kết quả
học tập sa sút, bỏ học nhiều ngày, thậm chí cả tháng gia đình mới biết, và thay vì
nhận ra thiếu sót quản lý của mình, các bậc phụ huynh lại quay sang trách phạt,
đổ lỗi tại con đã tự làm hư hỏng bản thân.
Gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong giáo dục
pháp luật vì đây là những môi trường cơ bản hình thành nhân cách của sinh viên.
Nhà trường (thầy cô và bạn học) là người ảnh hưởng mạnh đến quá trình hình
thành tính cách của sinh viên. Môi trường nhà trường cũng là nơi sinh viên trải
nghiệm nhận thức và thái độ giao tiếp với cộng đồng. Nhà trường là nơi đầu tiên
sinh viên được tự do vượt ra sự che chở và điều khiển của cha mẹ, họ phải học
cách tự đưa ra quyết định, suy nghĩ cho bản thân và có trách nhiệm về các hành
động của mình. Đây cũng là giai đoạn, mà theo nghiên cứu tâm lý là “đầy rẫy
những mơ hồ, hụt hẫng và mâu thuẫn” và khi vượt qua được các rối loạn này,
sinh viên mới có khả năng trưởng thành, độc lập, có khả năng cho/nhận và liên
kết với người khác.
Thực tế khảo sát của chúng tôi cho thấy đã có không ít trường hợp, do gia
đình sinh viên đã đặt ra những “chỉ tiêu” phấn đấu quá cao so với năng lực của
sinh viên và nhà trường cũng đề ra chỉ tiêu học tập quá nhiều đối với các em nên
nhiều em đã phát sinh xung đột từ tình trạng stress; trước tiên có thể là vấn đề thể
chất như ăn, ngủ, rối loạn vận động và tiếp đến là các vấn đề hành vi như không
vâng lời, trốn nhà, trốn học…
- Sự bùng nổ của thông tin không chính thống:
Công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ cũng găp
không ít khó khăn khi hiện nay công nghệ thông tin phát triển mạnh, công
61
nghiệp giải trí điện tử ra đời cung cấp các sản phẩm băng, đĩa games điện tử,
games oline, sách, tranh ảnh điện tử… với các nội dung vô cùng phong phú và
phức tạp. Trong đó, nhiều sản phẩm có nội dung tập trung vào hai khuynh hướng
vi phạm pháp luật như bạo lực, tình dục... Các dòng sản phẩm văn hóa tốt, xấu
trộn lẫn từ bên ngoài nhập vào “như mưa lũ”; với cơ chế kiểm soát còn nhiều bất
cập, chưa kịp sàng lọc và sinh viên chưa được trang bị cơ chế “tự vệ” nên đương
nhiên các em sẽ phải hấp thụ một cách tự nhiên, dù ít hay nhiều, dù tự giác hay
không tự giác các khuynh hướng thẩm mỹ tiêu cực đó.
- Sự phối hợp trong giáo dục pháp luật giữa các đơn vị trong trường còn
hạn chế:
Thực tế cho thấy việc GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
trong thời gian qua còn thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị trong trường. Nhiều
đơn vị còn mờ nhạt trong GDPL cho sinh viên. Công tác GDPL cho sinh viên ở
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian qua chủ yếu tập trung ở Khoa
Pháp luật Hành chính, Đoàn Thanh niên Trường…thiếu vắng sự phối hợp giữa
các khoa. Ngoài chức năng đào tạo, khoa còn có các chức năng khác như Xây
dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho đội ngũ giảng viên, cán bộ, nhân viên và người học, tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên và cán
bộ nhân viên thuộc Khoa.
- Cơ hội tiếp cận thông tin về giáo dục pháp luật của sinh viên còn hạn chế:
Việc chưa am hiểu kiến thức pháp luật dẫn đến sinh viên vi phạm các quy
định của pháp luật hoặc chịu thiệt thòi là câu chuyện mà sinh viên Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội cũng như các trường khác. Thực tế cho thấy đa số sinh viên
phải thuê trọ hoặc ở ký túc xá. Do không am hiểu về pháp luật, nhiều trường hợp
xảy ra tranh chấp với chủ trọ vấn đề đặt cọc, hợp đồng thuê trọ hoặc đăng ký cho
bạn qua đêm, chủ trọ thu tiền điện cao hơn giá quy định.
Môn pháp luật đại cương đã đưa vào khung chương trình đào tạo. Tuy
nhiên, môn học này thường chỉ được bố trí 2 đến 3 tín chỉ (khoảng 30 - 45 tiết, so
62
với hệ thống pháp luật quá nhiều văn bản luật (gần 20 ngành luật) như hiện nay,
chừng đó là không đủ để sinh viên nắm bắt được những kiến thức cần thiết của
pháp luật Việt Nam. Việc mời báo cáo viên, tổ chức các hoạt động như một số
trường từng làm vẫn chưa đủ, do xã hội nảy sinh nhiều vấn đề mới, pháp luật
cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi để phù hợp. Do đó, các
nguồn cung cấp kiến thức về pháp luật cho sinh viên chỉ dừng lại mức độ nhất
định.
Nguồn kiến thức pháp luật mà sinh viên tiếp nhận chủ yếu từ giảng viên.
Các nguồn khác còn rất hạn chế, trong đó phải kể đến là các tổ chức đoàn thể.
Như đã trình bày, hình thức tuyên truyền giáo dục pháp luật chỉ mang tính phong
trào có thể mạnh là thu hút được nhiều sinh viên tham gia, nhưng hạn chế là chỉ
mang tính bề nổi, thiếu thực chất.
2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên đánh giá rất cao vai trò của việc triển
khai các hình thức để giáo dục pháp luật cho sinh viên. Có 50,9% sinh viên cho
rằng nhà trường “rất cần thiết” phải tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên;
44,5% cho rằng nhà trường “cần thiết” giáo dục pháp luật cho sinh viên và tỷ lệ
cho rằng nhà trường “không cần thiết” phải tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh
viên chỉ chiếm 3,7%.
63
Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên
của nhà trường
0.9
3.7
50.9
44.5
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Khác
Sales
Khi đánh giá về các nội dung pháp luật mà nhà trường nên tập trung trong
công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên, tỷ lệ lựa chọn của sinh viên đối với các
nội dung cụ thể được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: (1) Quyền và nghĩa
vụ của thanh, thiếu niên, sinh viên (64,1%); (2) Phòng chống tệ nạn xã hội
(47,2%); (3) Lao động, việc làm (44,5%); (4) Bảo vệ môi trường (36,8%); (5)
Giao thông đường bộ (35,9%); (6) Dân sự (32,8%); (7) Hành chính (32,5%); (8)
Hình sự (31,3%); (9) Hôn nhân và gia đình (27,9%); (10) Giáo dục, Y tế (25,8%);
(11) Một số nội dung khác (5,2%).
64
Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn
64.1
47.2
44.5
36.8
35.9
32.8
32.5
31.3
27.9
25.8
5.2
70 60 50 40 30 20 10 0
Khác
Dân sự Hình sự Hành chính
Giáo dục, y tế
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Lao động, việc làm
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn xã hội
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên
Nội dung
Nội dung
65
Tiểu kết chương 2
Trong điều kiện đưa nâng cao hiệu quả nội dung giáo dục pháp luật thông
qua hoạt động giảng dạy pháp luật vào chương trình chính khóa còn những hạn
chế nhất định do phải đảm bảo chương trình, thời lượng các môn học và tránh
gây quá tải cho học sinh - sinh viên thì việc giảng dạy pháp luật thông qua các
hoạt động ngoại khóa tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã đạt được nhiều hiệu
quả. Song song với các hoạt động chính khóa, hoạt động ngoại khóa được Nhà
trường quan tâm thực hiện nhằm kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, học đi
đôi với hành, đồng thời bổ sung thêm những kiến thức, hiểu biết về các giá trị
pháp luật cho sinh viên. Trong những năm qua, hoạt động ngoại khóa của Nhà
trường được mở rộng bằng rất nhiều hình thức đa dạng như: Tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật, Tổ chức các hoạt động tập thể, nói chuyện chuyên đề....
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã thực hiện việc triển khai nội dung giáo
dục pháp luật cho HSSV nhằm giúp sinh viên nhận thức được các hành vi vi
phạm kỷ luật trong trường và hình thành được thói quen sống và làm việc theo
pháp luật. Cùng với quá trình triển khai nội quy, quy chế đào tạo của nhà trường
thì môn học Pháp luật đại cương, Luật Hành chính và các môn Luật chuyên
ngành... có mục tiêu chính là giáo dục nhân cách, xây dựng ý thức pháp luật cho
công dân. Giáo dục pháp luật đã thực sự trở thành nội dung giáo dục văn hóa phổ
thông trong Nhà trường. Trong quá trình thực hiện bên cạnh những thành tích mà
công tác giáo dục pháp luật đã đạt được thì vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế
cần phải nghiên cứu xem xét nhằm đưa ra những giải pháp tích cực góp phần
nâng cao chất lượng GDPL.
66
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
3.1.1. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải phù hợp với chủ trương đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo nước nhà.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên hiện nay cần quán triệt sâu sắc mục tiêu,
quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” là đổi mới những
vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện.
Để nâng cao chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội, cần phải thực hiện nội dung, chương trình GDPL theo quy định chuẩn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng thời cũng phải đáp ứng những đòi hỏi khách quan
về vấn đề hoàn thiện chương trình GDPL.
Giáo dục pháp luật trong Trường Đại học phải đáp ứng yêu cầu hướng đến
mục tiêu chung, mục tiêu của giáo dục, giáo dục đại học, GDPL và mục tiêu của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho việc mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế.
3.1.2. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải phù hợp với đặc điểm, yêu
cầu đào tạo đội ngũ công chức, viên chức ngành nội vụ.
Với sứ mạng: “Mở cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ
nhu cầu học tập đa dạng với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáp
ứng yêu cầu nguồn nhân lực của ngành nội vụ và cho xã hội trong công cuộc xây
dựng đất nước và hội nhập quốc tế” [45], hoạt động GDPL cho sinh viên nhà
trường phải phù hợp đặc điểm, yêu cầu đào tạo đội ngũ công chức, viên chức
ngành nội vụ. Đó là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng, góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp
có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự
67
nghiệp phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội góp phần
vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức “Sống, học tập
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Yêu cầu đầu tiên của giáo dục pháp
luật là nhận thức đúng đắn các quy định của pháp luật về cả tư tưởng, nội dung và
ý nghĩa từ đó nâng cao nhận thức và chủ động đề ra các biện pháp hữu hiệu để
thực hiện tốt pháp luật và chỉ có như vậy mới thực sự đưa các quy định của pháp
luật vào cuộc sống.
3.1.3. Giáo dục pháp luật cho sinh viên phải đi đôi với hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện hành.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nội dung lớn của xây dựng nhà nước
pháp quyền. Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện thì việc thực hiện pháp luật càng
thuận lợi, không vướng mắc, ít phát sinh tiêu cực, hạn chế. Hệ thống pháp luật
hoàn thiện không chỉ tạo thuận lợi cho nhận thức, cho thực hành của chủ thể, đối
tượng giáo dục mà còn tạo nên những cơ chế hỗ trợ, tác động thuận lợi cho chủ
thể chuyên tâm, trách nhiệm, đầu tư cho công tác GDPL đạt hiệu quả cao, sinh
viên được thụ hưởng những mặt tích cực của công tác sẽ dẫn đến niềm tin, tình
cảm đối với pháp luật một cách chủ động.
3.1.4. Giáo dục pháp luật cho sinh viên nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp
luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật.
Giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là chuyển tải quy định của pháp luật
mà phải làm cho sinh viên hiểu rõ bản chất của quy định pháp luật để thấy hết ý
nghĩa của quy phạm pháp luật để bản thân đối tượng tự ý thức, chủ động thực
hiện pháp luật, có tình cảm pháp luật, tự nguyện phát triển ý thức thành kỹ năng
thực hành trong thực tiễn cuộc sống bằng cơ sở lí luận căn bản, đầy đủ, hệ thống
áp dụng và những tình huống thực tiễn sinh động, thiết thực với từng đối tượng
GDPL. Thực hiện GDPL luôn gắn với giáo dục đạo đức và hình thành cho đối
tượng giáo dục có thói quen xử sự bằng hành vi hợp pháp, phù hợp với pháp luật
68
và đạo đức xã hội. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, GDPL phải gắn với giáo
dục chính trị, tư tưởng và đạo đức vì nó có tác động với nhau và làm tốt các nội
dung này không chỉ nâng cao chất lượng GDPL mà còn nâng cao chất lượng giáo
dục một cách toàn diện cho sinh viên.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội.
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các chương
trình, kế hoạch về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Đây là giải pháp đầu tiên, mang tính quyết định cho việc nâng cao hiệu quả
của công tác GDPL cho sinh viên.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho pháp
luật đi vào cuộc sống, nhằm giúp hoạt động GDPL đạt hiệu quả cao.
Hệ thống pháp luật cần phải minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng chéo, chặt
chẽ, từ đó dễ đi vào đời sống, được xã hội chấp nhận và ủng hộ. Hiện nay, hệ
thống pháp luật nước ta đã tương đối đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực
quan trọng trong đời sống. Pháp luật không ngừng hoàn thiện và phát triển, thể
chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần
ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng cho việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, điều này làm
giảm hiệu lực của pháp luật, giảm hiệu quả thực thi pháp luật. Hạn chế chung của
các văn bản pháp luật hiện nay là thiếu tính cụ thể, rõ ràng; nhiều quy định thiếu
tính khả thi; chồng chéo nhau; các bộ luật liên tục bị sửa đổi, bổ sung, thay thế.
Những khuyết điểm của hệ thống pháp luật làm nội dung GDPL cũng phải
thường xuyên thay đổi cho phù hợp, gây lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc.
Bởi vậy, cần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp đảm bảo các văn
bản quy phạm pháp luật phải cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, áp dụng lâu
69
dài, hạn chế việc sửa đổi nhiều lần.
Thứ hai, cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về phổ biến, GDPL cho sinh
viên. Đó là việc rà soát lại hệ thống pháp luật đã ban hành liên quan đến GDPL
cho sinh viên, tiếp đó cần xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, chương
trình, kế hoạch cụ thể về hoạt động GDPL cho sinh viên.
Thực tiễn đã cho thấy việc ban hành các văn bản pháp luật về GDPL trong
nhà trường trên cơ sở tổng kết thực tiễn có vai trò thống nhất nhận thức và hành
động rất lớn. Cần xây dựng cụ thể các quy định về chương trình, giáo trình, giảng
viên, quy định về phối hợp trong và ngoài nhà trường, quy định về các điều kiện
đảm bảo cho công tác GDPL. Để thực hiện tốt giải pháp này, các nhà trường cần
tiến hành rà soát các văn bản quy định về GDPL trong nhà trường, kiến nghị bãi
bỏ văn bản lỗi thời, hết hiệu lực, đã có văn bản thay thế; sửa đổi, bổ sung mới
quy định, văn bản cho phù hợp với hệ thống pháp luật và thực tiễn pháp luật.
3.2.1.2. Đổi mới về chế độ, chính sách đối với người làm công tác giáo dục
pháp luật
Giảng viên thực hiện công tác GDPL có vai trò quyết định trong việc dạy và
học pháp luật trong nhà trường. Do đó, ngoài việc tăng cường nâng cao chất
lượng đội ngũ này cả về năng lực chuyên môn cũng như trình độ lý luận chính trị,
cần đổi mới về chế độ, chính sách đối với những người làm công tác GDPL.
Trước tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính cần kết hợp, nghiên
cứu, đề xuất với Chính phủ sớm thực hiện sửa đổi phụ cấp ưu đãi đối với giảng
viên trực tiếp giảng dạy pháp luật trong các cơ sở giáo dục công lập theo hướng
điều chỉnh mức phụ cấp. Quyết định 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của
Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang
trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục công lập, Thông tư số
01/2006/TTLT-BGD&ĐT-BNV-BTC ngày 23/01/2006 do Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết định trên đã
quá lâu, mức phụ cấp cho giảng viên giảng dạy pháp luật trở nên không phù hợp
với đời sống kinh tế xã hội vốn đã có nhiều thay đổi. Theo Thông tư này mức
70
phục cấp cho giảng viên giảng dạy pháp luật đang ở mức thấp nhất so với mức
phụ cấp của tất cả những giáo viên ở những cấp đào tạo khác. Điều này cho thấy
vai trò của giảng viên giảng dạy pháp luật chưa được ghi nhận đúng mức, và
cũng xuất phát từ việc chưa đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của môn học
pháp luật. Do đó, đề xuất thay đổi mức phụ cấp cho giảng viên giảng dạy pháp
luật lên ngang bằng với giảng viên giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là 45% vì tính đặc thù của môn học này cũng phải thường
xuyên nghiên cứu và bổ sung, cập nhật các văn bản pháp luật mới nhất, vận dụng
thực tiễn đa lĩnh vực, phức tạp và GDPL là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Có
như vậy mới góp phần cải thiện đời sống giảng viên, khuyến khích được giảng
viên giảng dạy pháp luật tự bồi dưỡng mình tốt hơn, gắn bó với nghề hơn.
3.2.1.3. Phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên trong quá trình giáo
dục pháp luật
Chất lượng GDPL của sinh viên phụ thuộc vào tính tích cực học tập, rèn
luyện, tu dưỡng của chính sinh viên. Để các tác động của GDPL được sinh viên
tiếp nhận và lĩnh hội một cách thỏa đáng cần phải có sự mong muốn nội tâm của
chính sinh viên về việc trang bị cho mình những hiểu biết về pháp luật được giáo
dục. Mặt khác, với tư cách là chủ thể của nhận thức, việc tự học tập, tự rèn luyện
sẽ giúp cho sinh viên tiếp thu hiệu quả nhất sự giảng dạy của giảng viên, hình
thành niềm tin pháp luật, tình cảm với pháp luật để đi đến thực hiện những hành
vi đúng đắn, phù hợp với những đòi hỏi của xã hội.
Giáo dục cho sinh viên phát huy tính tích cực, tự giác, xây dựng động cơ
học tập, rèn luyện đúng đắn và thường xuyên nâng cao thái độ, trách nhiệm,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật đòi hỏi Ban Giám hiệu các trường, các phòng,
khoa chuyên môn cần thường xuyên xây dựng kế hoạch, biện pháp GDPL cho
sinh viên. Để đạt hiệu quả GDPL đòi hỏi sinh viên phải phát huy tinh thần tích
cực, tự giác, chủ động, độc lập. Thực tiễn cho thấy, nếu có ý chí quyết tâm cao,
biết tập trung tư tưởng, có phương pháp và tận dụng được mọi điều kiện thì việc
học tập sẽ đạt hiệu quả cao.
71
Để thực sự phát huy được năng lực tự học, tự giác, giảng viên và sinh đều
phải thực hiện được những yêu cầu sau:
- Đối với giảng viên:
Khi xây dựng đề cương chi tiết của môn học pháp luật nên nêu rõ nội dung
nào sinh viên cần tự nghiên cứu, mục đích kiến thức cần đạt được, giới thiệu giáo
trình chính và tài liệu tham khảo cho nội dung tự nghiên cứu;
Khi bắt đầu môn học, giảng viên cần dành khoảng thời gian thích hợp hướng
dẫn sinh viên phương pháp tự học một cách khoa học: cách đọc hiểu tài liệu, cách
phát hiện bản chất của vấn đề, cách ghi chép, tổng hợp thông tin thu được, cách
ghi nhớ, giúp các em vượt qua khó khăn (nhất là ở giai đoạn đầu).
Giảng viên có kế hoạch tham gia đánh giá quá trình tự học của sinh viên
dưới nhiều hình thức như trao đổi, thảo luận… Giảng viên phải có ý kiến nhận
xét kịp thời.
- Đối với sinh viên:
Để nâng cao năng lực tự học, trước hết sinh viên cần phải tin tưởng vào khả
năng tự học của mình; đồng thời phải phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để
các yếu tố khách quan, nhất là sự hướng dẫn của giảng viên.
Cụ thể, cần xác định được mục đích, động cơ, nhu cầu học tập; xây dựng
thời gian biểu hợp lý giữa các môn học, địa điểm, thời gian, hình thức tự học…
Có phương pháp học tập khoa học trên lớp: cách lắng nghe giảng viên; cách ghi
chép; tập trung và phối hợp chặt chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông
tin từ giảng viên, bạn học; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe
giảng. Biết cách đọc tài liệu để phát hiện bản chất vấn đề, biết cách tóm tắt và ghi
chép.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
3.2.2.1. Đổi mới tư duy, nhận thức về giáo dục pháp luật cho sinh viên
Với nhà trường, việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy GDPL là giải pháp
quan trọng hàng đầu bởi lẽ một trong những vấn đề cơ bản trong hoạt động giáo
72
dục nói chung là cần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về toàn bộ quá trình
giáo dục. Định hướng nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về giáo dục và
GDPL nhằm thay đổi cách nhận thức và tiếp cận của chủ thể GDPL và đối tượng
GDPL trong trường đại học, hướng đến sự thay đổi về mục tiêu, nội dung,
chương trình, hình thức, phương pháp giáo dục cũng như kiểm tra, đánh giá giúp
sinh viên thấy được bản chất, vai trò của pháp luật đối với mỗi cá nhân sinh viên
trong quá trình học tập ở nhà trường, trong đời sống hàng ngày và trong nghề
nghiệp tương lai.
Để góp phần thực hiện các định hướng trên, Đảng ủy, Ban Giám hiệu
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã làm rất tốt công tác chỉ đạo hoạt động đến
từng phòng, khoa liên quan. Tuy nhiên, khi triển khai cũng đã gặp nhiều khó
khăn, dẫn đến việc thực hiện chưa thực sự hiệu quả. Yêu cầu của giải pháp không
chỉ dừng lại ở lý luận mà phải được cụ thể hóa trong từng hành động, đó là:
Thứ nhất, không chỉ coi trọng giảng dạy GDPL chính khóa mà cần có sự
quan tâm, đầu tư cho GDPL ngoại khóa nhiều hơn. Hiện thực hóa các kế hoạch
thực hiện Chương trình phổ biến, GDPL của ngành giáo dục và tiếp tục triển
khai Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường đến
năm 2021 , Tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện trong giai đoạn tiếp theo
trên cơ sở tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Thứ hai, thay đổi tư duy đề cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
mà coi nhẹ kiến thức pháp luật, đạo đức. Cần cung cấp cho sinh viên những kiến
thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, phù hợp với ngành nghề đào tạo, nhu cầu
phát triển của xã hội và hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tư duy
học tập suốt đời. Bên cạnh đó, cần lồng ghép công tác giáo dục đạo đức, lối sống
vào nội dung GDPL.
Thứ ba, xác định rõ GDPL là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội, của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành nhưng thường xuyên và trực tiếp là nhiệm
vụ của các cơ sở đào tạo, mà ở đây là Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Đề xuất
nên xây dựng quy định về nhân sự có chuyên môn luật trong cơ cấu lãnh đạo của
73
nhà trường. Nhân sự này vừa là lãnh đạo, vừa là người trực tiếp chỉ đạo, thực
hiện công tác GDPL trong nhà trường, sẽ nắm vững về chuyên môn, tâm huyết
với công tác GDPL cho sinh viên. Điều này không chỉ mang lại hiệu quả cho
riêng công tác GDPL mà còn hiệu quả trong các vấn đề pháp lý của nhà trường,
đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay. Đề
xuất nhà trường ban hành hệ thống các quy chế, quy định của trường về công tác
GDPL, trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng đơn vị chức năng trong công
tác GDPL, chính sách thi đua - khen thưởng và kỷ luật đối với đơn vị và cá nhân
thực hiện. Ngoài ra, đề tài kiến nghị thành lập một bộ phận chuyên trách thực
hiện công tác GDPL cho sinh viên nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
3.2.2.2. Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức, phương pháp giáo dục pháp
luật cho sinh viên
Nâng cao chất lượng dạy, học pháp luật trong nhà trường học là con đường
đem lại hiệu quả GDPL cao. Muốn vậy cần đổi mới hình thức, phương pháp dạy
học và hình thức ngoại khóa pháp luật. GDPL không chỉ tiến hành trên lớp mà
còn cùng các em sinh viên đi vào thực tế cuộc sống, vừa trang bị kiến thức vừa
giúp các em tích lũy vốn sống và rèn luyện để trở thành chủ thể pháp luật có tri
thức, có văn hóa pháp lý.
Ngoài việc hoàn thiện nội dung chương trình GDPL chính khóa, nhà trường
cần xây dựng kế hoạch thực hiện GDPL ngoại khóa giai đoạn 2018-2021. Nội
dung xây dựng tập trung đa dạng hóa các hình thức như: tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật, lồng ghép các nội dung pháp luật vào các hoạt động văn hóa, văn
nghệ; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề; tổ chức các hoạt động sinh viên
tình nguyện tham gia các phong trào bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội; tổ
chức tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng; phát hành các tài liệu, tờ rơi;
tập trung xây dựng chuyên trang phổ biến, GDPL trên website của nhà trường.
Chú trọng sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại để tổ chức các hoạt động
GDPL ngoại khóa cho sinh viên một cách rộng rãi và kịp thời; tổ chức các hoạt
động thực tiễn phù hợp gắn với từng ngành học và từng năm học. Chú trọng tổ
74
chức cho sinh viên tham gia các hoạt động mang tính thực hành chính trị, xã hội,
các hoạt động nghiên cứu khoa học về các vấn đề pháp luật trong thực tiễn gắn
với hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt
Nam và các tổ chức xã hội khác.
Để thực hiện giải pháp này, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần tổ chức cho
sinh viên tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, GDPL tại địa phương.
Mục đích của hình thức giáo dục này là định hướng sinh viên trở thành người đi
tuyên truyền, phổ biến những vấn đề xã hội đang quan tâm.
Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật và hành động bảo vệ pháp luật từ đó hình
thành hành vi pháp luật
Việc lựa chọn hình thức phù hợp là vấn đề quan trọng nhưng chưa đủ, chủ
thể GDPL còn cần sử dụng phương pháp GDPL tối ưu để thực hiện. Nói chung
phương pháp dạy học môn pháp luật hiện nay cần đạt những yêu cầu sau:
- Hướng người học đến thói quen tự học, tự nghiên cứu, tạo thói quen học
tập thường xuyên;
- Khai thác tiềm năng trí tuệ của tập thể người học;
- Tăng cường sử dụng các thiết bị kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin
vào quá trình GDPL, giúp giảng viên và người học tìm kiếm, xử lý thông tin,
thực hành để đạt hiệu quả cao;
Một số phương pháp điển hình cần được nhân rộng hơn ở Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội:
Thứ nhất, phương pháp sử dụng sách, tài liệu, internet. Phương pháp này
thường được giảng viên vận dụng để hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu
để nắm vững nội dung bài học, để đào sâu, mở rộng kiến thức. Sách và các tài
liệu tham khảo rất phong phú nhưng không có sự hướng dẫn của giảng viên thì
sinh viên sẽ không biết cách khai thác, một phần do chưa có thói quen tự học. Vì
vậy, giảng viên cần giới thiệu cho các em các loại sách, tài liệu cần đọc, hướng
dẫn các em tra cứu internet, những địa chỉ website cần thiết, lên kế hoạch giao
việc cho sinh viên thực hiện đồng thời giao thời hạn phải hoàn thành công việc.
75
Thứ hai, phương pháp quan sát thực tế. Giảng viên tổ chức cho sinh viên
trực tiếp quan sát các sự vật, hiện tượng xã hội đang diễn ra trong môi trường
thực tế. Quan sát thực tế là phương pháp giảng dạy gắn nhà trường với cuộc sống,
gắn lý thuyết với thực tế sẽ đem lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
Thứ ba, phương pháp dạy học sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Phương pháp này giúp cho các bài giảng pháp luật trở nên sinh động hơn với sự
kết hợp hình ảnh, âm thanh, video, clip…
Có nhiều phương pháp mà giảng viên có thể sử dụng bên cạnh phương pháp
diễn giảng truyền thống, khơi gợi sự đam mê học hỏi của người học, để việc dạy
và học trở nên thú vị, kiến thức pháp luật được truyền đạt mà không bị xem là
khô khan, khó nhớ nữa. Như vậy cả thầy và trò đều đạt được mục đích của mình.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật
Xuất phát từ thực trạng của công tác GDPL, chúng ta thấy rằng xây dựng
đội ngũ cán bộ giảng viên làm công tác GDPL có trình độ, có năng lực hiện nay
là một việc làm rất cần thiết và cấp bách. Đội ngũ này có vai trò quan trọng trong
việc mang lại hiệu quả cho công tác GDPL nên phải đảm bảo có chuyên môn,
vững kiến thức, chắc nghiệp vụ sư phạm và lòng yêu nghề.
Để có đội ngũ cán bộ, giảng viên làm công tác GDPL có trình độ, năng lực,
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, có chính sách cụ thể và thiết thực để nâng cao đời sống và điều
kiện làm việc cho cán bộ, giảng viên làm công tác GDPL để tăng cường tình yêu
nghề, tạo điều kiện cho họ có thời gian trau dồi năng lực chuyên môn, đầu tư cho
công việc của mình.
Thứ hai, tạo điều kiện cả về thời gian và hỗ trợ kinh phí cho giảng viên học
tập nâng cao trình độ chuyên môn cũng như tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ (như bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, phương pháp giảng dạy hoặc bồi dưỡng
về xây dựng ngân hàng câu hỏi thi…)
Thứ ba, có chế độ khen thưởng cho giảng viên, cán bộ làm tốt công tác
GDPL
76
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện quy trình đánh giá năng lực giáo viên và cán
bộ làm công tác GDPL.
Thứ năm, thực hiện khảo sát theo định kỳ để lấy ý kiến người học về năng
lực của giảng viên, cán bộ làm công tác GDPL.
Thứ sáu, cần có cán bộ chuyên trách thực hiện hoạt động GDPL để đảm bảo
tính hiệu quả cho hoạt động GDPL ngoại khóa. Vì giảng viên không có nhiều
thời gian đầu tư cho hoạt động GDPL ngoại khóa. Do đó cần có cán bộ chuyên
trách hoặc cán bộ hỗ trợ cho giảng viên làm công tác này.
3.2.2.4. Ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục pháp luật của
Trường
Để xác định hiệu quả của hoạt động GDPL cho sinh viên, chúng ta cần một
hệ thống đồng bộ, rõ ràng và thống nhất. Hay nói cách khác, việc xây dựng công
cụ đánh giá một cách hệ thống, đồng bộ, toàn diện thực trạng tiếp cận pháp luật là
rất cần thiết, nhằm định lượng kết quả hoạt động GDPL cho sinh viên nhà trường
theo từng năm hoặc từng giai đoạn cụ thể. Ngày 10/3/2018, Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư số 03/2018/TT-BTP quy định bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công
tác phổ biến, giáo dục, pháp luật. Nội dung Thông tư gồm các nhóm tiêu chí thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí
triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí về các điều
kiện đảm bảo công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; nhóm tiêu chí đánh giá hiệu
quả phổ biến, giáo dục pháp luật đối với xã hội và nhóm tiêu chí khác.
Căn cứ vào Thông tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện, Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội cần xác định nội dung các nhóm tiêu chí dựa trên chức năng,
nhiệm vụ được giao cho từng đơn vị chức năng thuộc Trường. Căn cứ vào mức
độ và kết quả triển khai thực hiện sẽ có điểm số tương ứng. Tất cả các tiêu chí
phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo tính khả thi, khoa học, có phương pháp,
công cụ đánh giá cụ thể, gắn kết chặt chẽ với trách nhiệm thực hiện công tác
GDPL của các đơn vị thuộc trường.
77
3.2.2.5. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục pháp luật
(tăng cường tài liệu, cơ sở vật chất, nguồn kinh phí …)
Kinh phí và các nguồn lực là điều kiện cần để bảo đảm cho việc tổ chức và
thực hiện GDPL cho sinh viên. Kinh phí được bảo đảm và nguồn lực dồi dào sẽ
tạo điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện công tác GDPL và hoàn thành mục tiêu
giáo dục. Điều này cũng đặc biệt có ý nghĩa trong việc duy trì công tác GDPL và
bảo đảm cho hiệu quả của công tác này được phát huy lâu dài. Vì vậy, để quản lý
và tổ chức thực hiện công tác GDPL cho sinh viên một cách hiệu quả, đòi hỏi các
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội không ngừng đẩy mạnh tăng cường kinh phí và
các nguồn lực cho GDPL. Để công tác GDPL hoạt động có chiều sâu, đạt hiệu
quả cao đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng về kinh phí (gồm nguồn
kinh phí và quản lý, sử dụng kinh phí bảo đảm thực hiện công tác GDPL), cơ sở
vật chất, phương tiện làm việc phục vụ công tác này (giáo trình, sách giáo khoa;
tài liệu phổ biến, GDPL, tủ sách pháp luật, thiết bị dạy học và các phương tiện
vật chất khác). Từ đó hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác
GDPL cho sinh viên như: Xây dựng các phòng học giả lập các văn phòng, công
ty luật hay mô hình tòa án…
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế nước ta nói chung, việc tăng cường
nguồn lực vật chất cho việc thực hiện công tác GDPL còn gặp nhiều khó khăn, vì
vậy, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, rà soát lại các nguồn lực sẵn có cho việc thực hiện công tác GDPL
cho sinh viên để có sự đánh giá, phân bổ kinh phí và nguồn lực thực hiện chính
sách một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Kinh phí dành cho công tác GDPL phải
tương xứng với vị trí, vai trò quan trọng của công tác này và cần được đưa thành
mục riêng trong kế hoạch kinh phí của nhà trường.
Hai là, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch xây dựng Tủ sách pháp luật theo
Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/01/2010 về
việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật. Chú trọng đầu tư các tài liệu
hỏi đáp về pháp luật, tài liệu bình luận khoa học pháp luật, hướng dẫn áp dụng
78
pháp luật, các hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh từng ngành, nghề, lĩnh vực
đào tạo.
Ba là, khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư vào
các hoạt động GDPL cho sinh viên, tăng cường các giải pháp đẩy mạnh thu hút
các nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho công tác GDPL
cho sinh viên.
3.2.2.6. Bồi dưỡng sinh viên chuyên ngành luật tham gia vào quá trình phổ
biến, giáo dục pháp luật
Để nâng cao hiệu quả công tác GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
cho sinh viên, nhà trường nên thành lập Câu lạc bộ tuyên truyền pháp luật, mà
thành viên nòng cốt sẽ đến từ khoa Pháp luật hành chính. Sinh viên chuyên ngành
luật sẽ có những kiến thức chuyên môn sâu về hệ thống pháp luật nói chung cũng
như các quy định, quy chế đối với sinh viên nói riêng. Để sinh viên chuyên ngành
luật có thể hoàn thành tốt việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nhà trường cần
bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các buổi tuyên truyền, cách trả lời câu hỏi, giải đáp
các câu hỏi pháp lý… Qua những buổi tuyên truyền pháp luật, họ sẽ có thể mang
đến những thông tin kịp thời, bổ ích, về các vấn đề xã hội liên quan đến thanh
niên để hỗ trợ các kiến thức pháp luật, giải đáp thắc mắc… cho các sinh viên
khác trong trường, đồng thời cũng tạo môi trường nâng cao các kỹ năng cần thiết
cho bản thân sinh viên chuyên ngành luật, giúp ích rất nhiều cho công việc của họ
sau khi ra trường. Ngoài ra, câu lạc bộ có thể tuyên truyền pháp luật bằng các
phiên tòa giả định. Nội dung vụ án của phiên tòa giả định có thể xây dựng dựa
theo tư liệu thực tiễn xét xử, tái hiện quá trình xét xử vụ án nhằm cung cấp cho
người xem về trình tự thủ tục tại phiên tòa, những nguyên nhân, tình tiết dẫn đến
hành vi phạm tội và những hậu quả về tính mạng, sức khỏe vật chất lẫn tinh thần
đối với hành vi phạm tội. Qua việc tổ chức các phiên tòa giả định, pháp luật sẽ
được truyền tải, đưa vào cuộc sống, giúp cho sinh viên dễ hiểu, biết cách xử sự
phù hợp, đúng quy định của pháp luật khi đối mặt với các tình huống phát sinh
trong cuộc sống.
79
3.2.2.7. Tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp thực hiện giáo dục
pháp luật cho sinh viên
Tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp tổ chức cho sinh viên tham dự
những phiên tòa xét xử những vụ án vị thành niên phạm tội; thăm quan trụ sở các
cơ quan hành pháp, tư pháp; giao tiếp với các luật gia, các trung tâm pháp lý…
góp phần tích cực vào hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên, giúp sinh viên
nâng cao tri thức pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật.
Ngoài ra, có thể phối hợp cùng các cơ quan tư pháp ở địa phương thực hiện
“Phiên tòa giả định” để phổ biến, tuyên truyền về các nội dung như bạo lực học
đường, vi phạm an toàn giao thông… Với phiên toàn giả định, trình tự thủ tục
được rút gọn, trọng tâm phiên tòa đi sâu, làm rõ những nội dung quy định của
pháp luật. Hình thức này sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn người xem, nội dung
theo từng vụ án cụ thể nên người xem dễ tiếp thu và ghi nhớ lâu.
3.2.2.8. Xã hội hóa hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên
Mục tiêu của giải pháp này nhằm huy động các lực lượng có tiềm năng tham
gia vào quá trình đào tạo để tăng cường GDPL; gắn nhà trường với gia đình và xã
hội, gắn lý thuyết với thực tiễn. Xây dựng môi trường giáo dục gắn kết với môi
trường pháp luật trong cuộc sống và sinh hoạt của sinh viên là yếu tố đảm bảo
cho hiệu quả hoạt động GDPL. Huy động giảng viên giảng dạy các môn học khác
tổ chức dạy học và các hoạt động giáo dục hướng vào mục tiêu GDPL.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên là công việc chủ yếu của nhà trường, đặc
biệt là của các giảng viên, đồng thời là trách nhiệm của ngành giáo dục và các
ngành có liên quan. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các ngành các
cấp phải tổ chức hỗ trợ, ủng hộ và tạo điều kiện cho công tác GDPL cho sinh
viên.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cần năng động hơn trong việc đề nghị các cơ
quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát), các cơ quan bảo vệ pháp luật (công an),
các văn phòng luật sư, các doanh nghiệp (có thực hành, thực tập) phối hợp trong
việc bồi dưỡng kiến thức và thực tiễn pháp lý cho đội ngũ giảng viên sinh viên
80
nhà trường. Đây là những đối tượng có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm
thực tế, khi tham gia phổ biến, GDPL cho sinh viên sẽ có sức thuyết phục và tăng
độ hấp dẫn đối với sinh viên. Tăng cường tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề
pháp luật cho sinh viên.
Nhà trường cần mở rộng quan hệ, hợp tác với các trường chuyên đào tạo về
Luật trong nước cũng như quốc tế để có thể phát triển, nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ giảng viên chuyên ngành luật hoặc tìm kiếm cơ hội trao đổi sinh viên
trong các chương trình học tập về ngành luật.
3.2.2.9. Tăng cường tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong công tác giáo
dục pháp luật
Khi triển khai thực hiện công tác GDPL cho sinh viên ở Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội cần chú ý đến công tác tổng kết, đánh giá, khen thưởng. Cụ thể, nhà
trường nên duy trì việc xây dựng kế hoạch GDPL hàng năm, có chế tài ràng buộc
trách nhiệm pháp lý cho đơn vị, cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện; thực hiện
nghiêm túc chế độ báo cáo theo kế hoạch và có đánh giá kết quả thực hiện. Hội
đồng Thi đua – Khen thưởng của nhà trường căn cứ vào kết quả, hiệu quả công
tác GDPL cho sinh viên để làm căn cứ đề nghị khen thưởng cho đơn vị, cá nhân
thực hiện tốt nhiệm vụ.
81
Tiểu kết chương 3
Việc tăng cường GDPL cho sinh viên rất quan trọng và cần thiết. GDPL cho
sinh viên không chuyên luật phải được tiến hành trên cơ sở quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và các nguyên lý giáo dục nhằm đảm bảo cho hoạt động
này được thường xuyên, liên tục theo tư duy đổi mới, quy luật phát triển và đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
Đề tài đưa ra một số quan điểm nâng cao hiệu quả GDPL cho sinh viên để
làm cơ sở thực hiện nghiên cứu, đề xuất 2 nhóm giải pháp chung cho công tác
GDPL cho sinh viên nói chung và nhóm giải pháp cho sinh viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội nói riêng.
Các quan điểm nâng cao hiệu quả GDPL cho sinh viên đó là GDPL phải phù
hợp với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo nước
nhà; phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ ngành nội vụ;
phải đi đôi với hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành; phải nhằm tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức, ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm
hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật; phải đảm bảo các
quyền, lợi ích của sinh viên.
Với nhóm giải pháp chung, đó là tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật
về GDPL cho sinh viên, đổi mới về chế độ chính sách đối với người làm công tác
GDPL và phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên trong quá trình GDPL.
Với nhóm giải pháp riêng cho Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong công tác
GDPL, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức về GDPL cho sinh viên; đổi mới hình
thức, phương pháp GDPL; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy
pháp luật; tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng GDPL; tăng cường xã
hội hóa công tác GDPL cho sinh viên và tăng cường tổng kết, đánh giá, rút kinh
nghiệm công tác này.
82
KẾT LUẬN
Giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan được định hướng
trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm từng bước đưa pháp luật
vào cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí và văn hóa cho cán bộ và nhân dân.
Giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt là trường Đại học, Cao
đẳng là một đòi hỏi tất yếu khách quan, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
giáo dục thế hệ trẻ. Giáo dục pháp luật trong trường Đại học, cao đẳng là quá
trình chuyển biến hệ thống các quy tắc xử sự từ những đòi hỏi bên ngoài của xã
hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin,
nhu cầu, thói quen của sinh viên.
Giáo dục pháp luật trong Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có mục đích, yêu
cầu và đặc điểm riêng phù hợp với đặc thù của đối tượng giáo dục là sinh viên
ngành Nội vụ. Nội dung chương trình giáo dục pháp luật trong Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội phải đảm bảo yêu cầu về tính liên tục, tính khoa học, có hệ thống,
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Lựa chọn hình thức và phương thức giáo
dục pháp luật sao cho đạt mục tiêu phải dựa trên các điều kiện về chủ thể giáo
dục pháp luật, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện nội dung chương trình
có tính đến đặc thù của đối tượng sinh viên ngành Nội vụ.
Trong thực tế còn một bộ phận nhỏ cán bộ - giảng viên và sinh viên chưa
nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò giáo dục pháp luật đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện của sinh viên, vai trò nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo cũng như thương hiệu của Nhà trường. Hiện nay hình thức giáo dục
trong trường còn chưa mang tính thường xuyên, sự phối hợp giữa các lực lượng
giáo dục còn lỏng lẻo, nội dung chưa thực sự phong phú vì vậy trên thực tế vẫn
còn một số sinh viên vi phạm kỷ luật. Công tác giáo dục pháp luật chưa đóng góp
nhiều vào việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục pháp luật trong Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội cần phải:
83
Xây dựng chương trình, kế hoạch và nội dung giáo dục pháp luật cho
học sinh, sinh viên. Để hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên của
Trường đạt hiệu quả, ngoài việc giảng dạy học phần Pháp luật đại cương,
Luật Hành chính... theo chương trình chính khoá thì cần phải tiếp tục phổ
biến các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực và những văn bản mới
ban hành đến toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên nhằm nâng cao nhận
thức và ý thức tự giác chấp hành pháp luật, góp phần phòng ngừa và hạn chế
vi phạm pháp luật.
Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh
viên. Việc đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục sẽ tạo ra động lực để chủ
thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật phát huy được hết
tiềm năng và trí tuệ của mình, tạo ra không khí mới trong giảng dạy và học
tập. Qua đó tạo điều kiện cho sinh viên tiếp thu tri thức pháp luật tốt hơn, rèn
luyện hành vi và kỹ năng thực hiện pháp luật.
Kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên:
Công việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật kết hợp giáo dục đạo đức
cho học sinh, sinh viên thực sự là một quá trình gian khó, cần thường xuyên,
kiên trì và cần có sự phối hợp một cách chặt chẽ, hiệu quả của gia đình - nhà
trường - xã hội. Có như vậy, trước mắt hạn chế được hiện tượng học sinh, sinh
viên vi phạm pháp luật và về lâu, về dài sẽ hình thành được những thế hệ công
dân tốt, có ý thức kỷ luật cao, có hiểu biết và tôn trọng pháp luật, qua đó cũng
góp phần nâng chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức hiện nay.
Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục pháp
luật: Để nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giáo dục pháp luật thì
nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện các điều kiện giáo dục pháp luật. Điều
kiện đầu tiên có tính chất quyết định đối với chất lượng công tác giáo dục pháp
luật là các lực lượng giáo dục pháp luật, bên cạnh đó là giáo trình, tài liệu
tham khảo, tạp chí chuyên ngành pháp luật và các phương tiện bổ trợ khác.
84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.
2. Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo Tổng kết Chỉ thị số
32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà
Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Hệ thống các văn bản về phổ biến, giáo dục
pháp luật, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 2412/QĐ-BGDĐT ngày 25/4/2008 về
phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của ngành giáo dục thực
hiện Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ và Quyết
định số 37/2008/QĐ-TTG ngày 12/3/2008 của Thủ tướng chính phủ.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 3957/QĐ-BGDĐT ngày 28/9/2017 ban
hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường đến năm 2021”
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 10/2016/TT-BGDĐT ban hành ngày
05/4/2016 về Quy chế công tác sinh viên đối với chương trình đào tạo đại học
chính quy.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tư pháp (2010), Thông tư liên tịch số
30/2010/TTLT-BGDĐT-BTP ngày 16/11/2010 hướng dẫn việc phối hợp thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục trong nhà trường.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ (2014), Thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số và tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học
công lập.
9. Bộ Nội vụ, Quyết định số 468/QĐ-BNV ngày 03/4/2018 của Bộ Nội vụ Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội.
85
10. Bộ Tư pháp (2018), Thông tư số 03/2018/TT-BTP quy định bộ tiêu chí đánh
giá hiệu quả phổ biến giáo dục pháp luật.
11. Chính phủ, Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 về việc tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW.
12. Chính phủ, Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật.
13. Dương Thị Thanh Mai (1996), “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở
Việt Nam” (bằng thực tiễn hoạt động của Tòa án và luật sư)”, Luận án Phó Tiến sĩ
Luật học.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đinh Xuân Thảo (1996), “Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay”, Luận án Phó Tiến sĩ Luật
học.
22. Đinh Văn Liêm, Trương Hồ Khánh Ly (2016), “Giáo dục pháp luật kết hợp
giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh”, bài viết trên Trang Web
của Trường Đại học Vinh.
23. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
86
24. Hội động phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ
(2012), Đặc san tuyên truyền pháp luật, số 08/2012, Chủ đề Luật phổ biến, giáo
dục pháp luật, Hà Nội.
25. Lê Thị Thùy (2015), “Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề
qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
26. Lê Văn Thơi, “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Pháp
luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay”
27. Nguyễn Thị Hoàn, “Vai trò của giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho
sinh viên hiện nay”
28. Phan Hồng Dương (2014), “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
không chuyên luật ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
29. Phạm Trung Nghĩa (2000), “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan
quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
30. Phạm Thị Thanh Huyền (2013), “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh
viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh)”, Luận văn thạc sĩ Triết
học.
31. Phùng Thị Loan (2015), bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên hiện nay”, nguồn ĐHSP HN2, Tạp chí khoa học số.
32. Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật phổ biến, giáo dục pháp
luật số 14/2012/QH13, ngày 20/6/2012
33. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Thanh niên số
53/2005/QH11 của Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005.
34. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11,
ngày 27/6/2005,
35. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Luật Giáo dục đại học số
8/2012/QH13, ngày 18/6/2012
36. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009
phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong nhà trường”
87
37. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 26/2010/QĐ-TTg ngày
25/01/2010 về việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.
38. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26/11/2010
phê duyệt Đề án tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật
cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015.
39. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012
ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày
19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI).
40. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày
19/5/2013 quy định về thành phần và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng phối
hợp phổ biến, giáo dục pháp luật.
41. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 ban
hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021.
42. Trần Phúc Lộc (2011), “Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố
Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch
sử nhà nước và pháp luật.
43. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (2012), Quyết định 664/QĐ-ĐHNV ngày
17/4/2018 về việc thành lập Khoa Pháp luật hành chính thuộc Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội.
44. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (2012), Quyết định 209/QĐ-ĐHNV ngày
24/4/2012 về việc thành lập Phòng Công tác sinh viên thuộc Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội.
45. Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Quyết định số 2154/QĐ-ĐHNV ngày
21/12/2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Vũ Thị Hồng Vân, “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học -
Một yêu cầu cấp bách hiện nay”, bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
88
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN VỀ THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Kính thưa Anh/Chị, Để có những luận cứ thực tiễn trong việc đánh giá thực trạng phổ biến,
Chúng tôi cam kết những thông tin do Anh/Chị cung cấp chỉ phục vụ cho
giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, chúng tôi kính đề nghị Anh/Chị vui lòng trả lời những câu hỏi dưới đây. Để trả lời các câu hỏi, xin Anh/Chị đọc kỹ và khoanh tròn vào số thứ tự hoặc đánh dấu (X) vào ô tương ứng với phương án mà Anh/Chị cho là phù hợp nhất. mục đích nghiên cứu khoa học và sẽ được bảo mật tuyệt đối. Rất mong sự ủng hộ, giúp đỡ của Anh/Chị để cuộc điều tra thu được kết quả tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Câu 1. Xin Anh/Chị cho biết đôi nét về bản thân? 2. Nữ a. Giới tính: 1. Nam
b. Tuổi (ghi cụ thể): ………… tuổi
c. Là sinh viên năm .................. thuộc ngành ........................................................
d. Hiện nay Anh/Chị đang sống ở:
1. Sống cùng bố mẹ 2. Sống cùng anh, chị em ruột 3. Sống cùng gia đình họ hàng 4. Thuê nhà ở cùng bạn bè 5. Thuê nhà ở 1 mình 6. Ở trong ký túc xá của trường 7. Sống cùng người yêu 8. Khác....................................
e. Anh/Chị có tham gia các tổ chức nào sau đây:
1. Hội sinh viên của trường 3. CLB do Khoa chuyên môn tổ chức
2. CLB do Đoàn trường tổ chức 4. Tổ chức khác..............................
89
Câu 2. Xin Anh/Chị cho biết mức độ hiểu biết của Anh/Chị về pháp luật trong
Chưa nghe nói đến
Có biết một vài nội dung cụ thể
Biết phần lớn các quy định trong lĩnh vực này
Có hiểu biết sâu sắc về các quy định trong lĩnh vực này
Đã nghe nói đến nhưng không nhớ nội dung cụ thể
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
Hình sự
Hành chính
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Lao động, việc làm
Giáo dục, y tế
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn XH
một số lĩnh vực cụ thể sau đây?
Khác............................ Câu 3. Nếu Anh/Chị đã nghe nói hoặc có hiểu biết nhất định về các quy định
của pháp luật trong một số lĩnh vực kể trên, xin vui lòng cho biết Anh/Chị tiếp
Bạn bè
Khác
Thầy cô giáo
Bố mẹ, họ hàng, làng xóm
Đọc trực tiếp từ Luật
Tổ chức đoàn thể
Đọc trên sách báo, tờ rơi, mạng, truyền thanh, truyền hình
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
Hình sự
cận các thông tin đó từ nguồn nào?
90
Hành chính
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Lao động, việc làm
Giáo dục, y tế
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn XH
Khác.........................
Câu 4. Theo ý kiến của Anh/Chị, hiện nay kiến thức, hiểu biết của sinh viên
Rất tốt
Tốt
Kém
Bình thường
Không biết
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
Hình sự
Hành chính
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Lao động, việc làm
Giáo dục, y tế
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn xã hội
Khác...............................................
Trường Đại học Nội vụ đối với các lĩnh vực pháp luật sau như thế nào?
Câu 5. Theo ý kiến của Anh/Chị, sinh viên của Trường Đại học Nội vụ có tình
trạng vi phạm pháp luật hay không?
1. Tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên khá phổ biến 2. Có tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên nhưng không phổ biến 3. Không có tình trạng sinh viên vi phạm pháp luật 4. Không biết/ khó trả lời............................................................................
91
Câu 6. Nếu có tình trạng vi phạm pháp luật, thì theo Anh/Chị sinh viên Đại học Nội vụ thường vi phạm trong lĩnh vực pháp luật nào?
6. Bảo vệ môi trường
7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên
2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................
Câu 7. Kể từ khi vào học trong trường Đại học Nội vụ Hà Nội đến nay, nhà trường và các tổ chức đoàn thể trong trường có tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho Anh/Chị hay không?
1. Có 2. Không
Câu 8. Nếu nhà trường và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường có tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, xin Anh/Chị vui lòng cho biết:
Câu 8.1. Các nội dung, lĩnh vực cụ thể đã được triển khai?
6. Bảo vệ môi trường
7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên
2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................
Rất hữu ích
Hữu ích
Bình thường
Không hữu ích
Không có ý kiến
Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên Dân sự
Hình sự
Hành chính
Hôn nhân và gia đình
Bảo vệ môi trường
Câu 8.2. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hữu ích, thiết thực của các nội dung, lĩnh vực với Anh/Chị?
92
Lao động, việc làm
Giáo dục, y tế
Giao thông đường bộ
Phòng, chống tệ nạn xã hội
Khác ...................
Câu 8.3. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đã được thực hiện?
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học) 4. Phát sách báo, tờ rơi 5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến 11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật 12. Khác.......................................................................................................
Hấp dẫn
Bình thường
Rất hấp dẫn
Không hấp dẫn
Không có ý kiến
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương
2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)
4. Phát sách báo, tờ rơi
Câu 8.4. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hấp dẫn của các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật trên?
93
5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật
12. Khác.............................................
Hiệu quả
Bình thường
Rất hiệu quả
Không hiệu quả
Không có ý kiến
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương 2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên 3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)
4. Phát sách báo, tờ rơi
5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá 6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn 7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường 8. Lồng ghép trong các hoạt động của các câu lạc bộ 9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên 10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật
Câu 8.5. Anh/Chị vui lòng đánh giá về mức độ hiệu quả của các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật trên?
94
Hiệu quả
Bình thường
Rất hiệu quả
Không hiệu quả
Không có ý kiến
12. Khác............................................
Câu 8.6. Việc tiếp cận các thông tin, kiến thức pháp luật của Anh/Chị ở trong trường có thuận lợi gì?
1. Các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật thiết thực, phù hợp nhu cầu 2. Việc tiếp cận các tài liệu đơn giản, thuận tiện 3. Hình thức phổ biến kiến thức pháp luật đa dạng, hấp dẫn 4. Có nhiều thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin, kiến thức về pháp luật 5. Thuận lợi khác...........................................................................................
Câu 8.7. Anh/Chị gặp khó khăn gì trong việc tiếp cận các thông tin, kiến thức pháp luật ở trong trường?
1. Nội dung phổ biến giáo dục pháp luật không đáp ứng nhu cầu 2. Không tiếp cận được các nguồn tài liệu 3. Hình thức phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật kém hấp dẫn 4. Không có thời gian để tiếp cận các nguồn thông tin, kiến thức về pháp luật 5. Khó khăn khác ..............................................................................
Câu 9. Theo Anh/Chị, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có cần thiết phải tiến hành việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường hay không?
1. Rất cần thiết 2. Cần thiết 3. Không cần thiết 4. Khác
Câu 10. Nếu Anh/Chị cho là Trường Đại học Nội vụ Rất cần thiết hoặc Cần thiết phải tiến hành việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường, thì theo Anh/Chị: Câu 10.1. Nhà trường nên tập trung vào các lĩnh vực pháp luật cụ thể nào?
6. Bảo vệ môi trường
7. Lao động, việc làm 1. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, thiếu niên, sinh viên
95
2. Dân sự 3. Hình sự 4. Hành chính 5. Hôn nhân và gia đình 8. Giáo dục, y tế 9. Giao thông đường bộ 10. Phòng, chống tệ nạn xã hội 11. Khác....................................
Câu 10.2. Nhà trường nên sử dụng hình thức nào để phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên?
1. Học phần pháp luật, pháp luật đại cương
2. Lồng ghép trong các giờ học chính khóa của sinh viên
3. Lồng ghép trong các buổi học của tuần sinh hoạt công dân (tổ chức vào đầu năm học)
4. Phát sách báo, tờ rơi
5. Treo băng rôn, khẩu hiệu trong trường hoặc trong ký túc xá
6. Lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của lớp, của chi đoàn
7. Lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao của nhà trường
8. Lồng ghép trong hoạt động của các câu lạc bộ
9. Tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về pháp luật cho sinh viên
10. Gặp gỡ trực tiếp để tuyên truyền, phổ biến
11. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật
12. Khác.......................................................................................................
Câu 10.3. Việc giáo dục, phổ biến pháp luật cho sinh viên nên giao cho đơn vị, tổ chức nào chủ trì thực hiện?
1. Phòng Quản lý đào tạo
2. Phòng Công tác sinh viên
3. Các khoa chuyên môn
4. Đoàn thanh niên
5. Ban chủ nhiệm các Câu lạc bộ dành cho sinh viên
6. Khác........................................................................................................
96
Câu 11. Xin Anh/Chị đề xuất ý kiến của mình nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên trong nhà trường, Anh/Chị có đề xuất cụ thể gì
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA ANH/CHỊ!
97