
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC – THỂ CHẤT
PGS - TS. NGUYỄN TOÁN – TS. NGUYỄN SĨ HÀ
GIÁO TRÌNH
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO
LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2004

2
MỤC LỤC
Chương I: KHÁI LUẬN VỀ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO 3
I. TDTT là một bộ phận hữu cơ của
nền văn hóa xã hội 3
II. Một số khái niệm cơ bản, lân cận
khác có liên quan chặt chẽ với TDTT 7
III. Những chức năng cơ bản của TDTT 11
IV. Cấu trúc của TDTT 14
V. Lý luận và phương pháp TDTT
là môn khoa học và môn học 21
Chương II: MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CHUNG CÙNG CÁC
PHƯƠNG TIỆN TDTT 31
I. Mục đích chung của nền TDTT nước ta 31
II. Những nhiệm vụ chung nền TDTT nước ta 33
III. Những nguyên tắc hoạt động chung TDTT 35
IV. Phương tiện TDTT 39
V. Những phương tiện TDTT thường dùng 45
VI. Bài tập thể lực (BTTL) 53
Chương III: CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT 75
I.Nguyên tắc tự giác và tích cực 75
II. Nguyên tắc trực quan 78
III. Nguyên tắc thích hợp và cá biệt hóa 80
IV. Nguyên tắc hệ thống 85
V.Nguyên tắc tăng dần yêu cầu 91
VI. Mối quan hệ trên các nguyên tắc
về phương pháp trên 95
Chương IV: DẠY HỌC CÁC ĐỘNG TÁC
TRONG GIÁO DỤC THỂ CHẤT 96
I.Nhiệm vụ và đặc điểm của dạy học động tác
trong giáo dục thể chất 96
II. Quá trình dạy học động tác 103
Chương V: CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG
TRONG GIÁO DỤC THỂ CHẤT 116
I.Các phương pháp dạy học TDTT 116
II. Các phương pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng và
yêu cầu cơ bản về phát triển nhân cách
trong dạy học TDTT 143
III. Phương pháp rèn luyện các tố chất thể lực
(cho học sinh là chính) 148
Chương VI: BUỔI TẬP THỂ DỤC, THỂ THAO 160
I.Cơ sở cấu trúc buổi tập 160
II. Đặc điểm hình thức buổi tập chính khóa và
không chính khóa 163
III. Mật độ và lượng vận động của giờ lên lớp TDTT 176
IV. Chuẩn bị đánh giá giờ lên lớp TDTT 191

3
Chương I
KHÁI LUẬN VỀ LÝ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO
I. THỂ DỤC THỂ THAO LÀ MỘT BỘ PHẬN HỮU CƠ CỦA NỀN VĂN HOÁ XÃ
HỘI
1. Khái niệm về văn hoá
Muốn hiểu được TDTT (còn gọi là văn hoá thể chất), trước tiên cần hiểu đúng khái niệm
văn hoá, một hệ thống tập hợp lớn hơn, bao gồm cả TDTT, mới có thể tạo cơ sở mở đầu
chung về phương pháp luận để đi sâu vào TDTT, tìm ra những cái chung và riêng (ở mức
cần thiết) so với các bộ phận văn hoá khác.
Ngay từ thời Phục hưng, thuật ngữ văn hoá đã được hiểu là một hoạt động, một lĩnh vực
tồn tại thực sự của con người, mang "tính người", đối lập với "tính tự nhiên", "tính động
vật", phát triển phù hợp với bản chất của họ. Nó trước hết là tất cả tài sản, thành tựu về tinh
thần và vật chất, kể cả thể chất của từng con người, của xã hội, xuất hiện trong quá trình
phát triển lịch sử, được xác định như một "thiên nhiên thứ hai", được cải biến, nhân hoá qua
nhiều thế hệ. Trong quá trình này, con người vừa là chủ thể lẫn khách thể. Nói khái quát
hơn, thuật ngữ này dùng chỉ đặc trưng vật chất và tinh thần của một thời đại (ví dụ như văn
hoá cổ đại), của một dân tộc (như văn hoá Việt Nam), của một phạm vi hoạt động sinh sống
hoặc sáng tạo (văn hoá lao động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá thể chất - TDTT...). Văn hoá
bao gồm những thành tựu vật chất của hoạt động con người (máy móc, công trình xây dựng,
nhà thi đấu...), kết quả của nhận thức (tác phẩm nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức, những luật
lệ ngày càng chính xác, công bằng trong thi đấu thể thao...), những khả năng được hiện thực
hoá trong đời sống (sự hiểu biết, tổ chức xã hội, phong tục, tập quán, trình độ thưởng thức,
thành tích thể thao...). Mỗi một hình thái kinh tế xã hội được xác định bởi một kiểu văn hoá.
Văn hoá thay đổi do sự chuyển đổi của một hình thái kinh tế - xã hội, đồng thời kế thừa
nhiều giá trị văn hoá của quá khứ.
Trong điều kiện xã hội có giai cấp, song song với văn hoá của giai cấp thống trị, còn có
văn hoá của những người lao động bị trị, mang những yếu tố dân chủ và nhân đạo. Ở Việt
Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, chúng ta đang từng bước xây dựng nền văn hoá
mới, có nội dung XHCN và tính chất dân tộc.
Tiếc rằng lâu nay, chúng ta thường chỉ chú ý nhiều đến văn hoá tinh thần (khoa học,
nghệ thuật...) mà còn coi nhẹ văn hoá thể chất.
2. Nguồn gốc của TDTT
Có thể hiểu rõ thêm bản chất xã hội, tính chất văn hoá - giáo dục của TDTT thông qua
tìm hiểu cội nguồn và lịch sử phát triển của nó.
TDTT ra đời phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người. Lao động sản xuất là
nguồn gốc cơ bản của TDTT. Nói cách khác, đó là cơ sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động,
là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất. Trong quá trình tiến hoá từ vượn thành người, lao động
là nhân tố quyết định. Cơ thể từ loài vượn thành người, bàn tay dùng để lao động, vỏ đại não
để tư duy và ngôn ngữ để giao tiếp... đều từ lao động mà phát triển thành như ngày nay.

4
Thật đúng như Ănghen đã nói trong tác phẩm "Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người": "Lao động là điều kiện thứ nhất của toàn bộ đời sống
con người, thậm chí đến mức, trên một số ý nghĩa nào đó, không thể không nói rằng: Lao
động sáng tạo ra bản thân con người".
Trong quá trình sản xuất lâu dài, loài người thời nguyên thuỷ đã chế tạo ra và sử dụng
các công cụ lao động. Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân về ăn, ở, mặc,
con người đã đồng thời nâng cao trí lực và thể lực của mình. Thời đó, điều kiện lao động rất
gian khổ, nguy hiểm, hoàn cảnh khắc nghiệt, công cụ rất thô sơ, lao động thể lực cực kỳ
nặng nhọc. Do đó, muốn kiếm ăn và sống an toàn, họ phải luôn đấu tranh với thiên tai và dã
thú. Thực tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con người phải biết chạy, nhảy, leo trèo,
ném, bơi, mang vác nặng và chịu đựng được trong điều kiện sống khắc nghiệt. Bởi vậy,
những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm đã trở thành tiêu chuẩn hàng đầu để
đánh giá trình độ, uy tín của con người lúc bấy giờ. Mầm mống của TDTT đã nẩy sinh
chính từ thực tế của những hoạt động ấy và kết hợp tự nhiên ngay trong quá trình lao động.
Mặt khác TDTT chỉ thực sự ra đời khi con người ý thức được về tác dụng và sự chuẩn bị
của họ cho cuộc sống tương lai, đặc biệt cho thế hệ trẻ; cụ thể là sự kế thừa, truyền thụ và
tiếp thu những kinh nghiệm và kỹ năng vận động (lao động). Do vậy, đó là nội dung chủ
yếu của giáo dục thời cổ xưa. Và ngay từ khi mới ra đời, TDTT đã là một phương tiện giáo
dục, một hiện tượng xã hội mà ở con vật không thể có được.
Từ thời cổ xưa, con người thường có những hoạt động tế lễ dùng những động tác có tính
chất tượng trưng để biểu thị tình cảm, nỗi vui buồn, sự sùng bái thần linh. Vũ đạo ra đời từ
đó. Các động tác vật, giao đấu ra đời trong các cuộc xung đột giữa các bộ lạc, người với dã
thú. Ngoài ra còn có các trò chơi vui thích trong lúc nhàn rỗi, giải trí và về sau còn thêm dần
một số hoạt động rèn luyện thân thể khác để phòng chữa một số bệnh. Tất cả những điều
này đã góp phần quan trọng để phát triển TDTT. Sau này, do trình độ sản xuất, mức sống,
khoa học kỹ thuật, nhu cầu đào tạo và giáo dục ngày càng cao nên TDTT dần trở thành một
lĩnh vực tương đối độc lập, có một hệ thống khoa học cho riêng mình.
3. Tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc của TDTT
Điều kiện sống thô sơ, nghèo nàn và đời sống tinh thần và vật chất rất thấp của con
người trong xã hội cổ sơ (chưa phân chia giai cấp) hạn chế rất nhiều khả năng phát triển
TDTT. Tuy vậy, so với điều kiện lịch sử thời ấy, nó cũng có ý nghĩa tiến bộ nhất định vì
mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ bình đẳng. Về sau, sự phân chia giai cấp
xuất hiện đã làm mất đi sự bình đẳng đó. Tuy vậy, những cuộc xung đột, chiến tranh hầu
như liên miên giữa các bộ lạc, lãnh chúa, quốc gia cũng thúc đẩy TDTT phát triển nhanh để
phục vụ cho quân sự. Những tư liệu lịch sử để lại cho thấy trình độ phát triển TDTT thời cổ
đại khá cao, (hệ thống tổ chức huấn luyện thể lực - quân sự chặt chẽ và quy mô trong các
nhà nước Spactơ, Aten; sự ra đời và phát triển của các đại hội Ôlimpic; các tác phẩm nghệ
thuật thể hiện lý tưởng phát triển thể chất cân đối cho con người …). Trong xã hội có bóc
lột, chỉ một số ít thuộc giai cấp thống trị được hưởng thụ những giá trị đó. Trong một chế độ
áp bức, bóc lột, dù có thực hiện phần nào việc giáo dục thể chất cho một số người lao động,
nhưng nếu không có tự do, bình đẳng thì thực chất vẫn không thể đảm bảo tính nhân đạo
thật sự. Dấu ấn cơ bản này thể hiện xuyên suốt (theo các mức độ khác nhau) trong tất cả các
xã hội còn có bóc lột bất công sau này.
Dù sao, sự hạn chế về giai cấp đối với phát triển TDTT trong bất cứ xã hội có phân chia
giai cấp nào cũng không đơn giản chỉ phụ thuộc vào những lợi ích chủ quan của giai cấp

5
thống trị mà nó còn phụ thuộc vào những quan hệ kinh tế khách quan gắn bó với lợi ích
thiết thân mà họ cần được củng cố. Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích
sâu sắc mâu thuẫn giữa quy luật phát triển của các lực lượng sản xuất đòi hỏi phát triển cân
đối những người lao động và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cản trở sự phát triển
này. Muốn loại bỏ mâu thuẫn đó tạo điều kiện cho TDTT phát triển một cách thật sự triệt
để, cơ bản thì phải gắn với quá trình phát triển và hoàn thiện xã hội, từng bước xây dựng
nên một xã hội tự do, bình đẳng và ngày càng hạnh phúc hơn.
Tuy vậy, cũng cần xem xét đầy đủ tình hình thực tế có liên quan trong xã hội tư sản hiện
đại. Ở đó, các nhà cầm quyền cũng ít nhiều quan tâm đến phong trào TDTT cho những
người lao động và con em họ. Đó trước tiên là do những yêu cầu về tăng cường độ và chất
lượng sản xuất; về quốc phòng và chiến tranh; về tuyên truyền, lôi kéo, giáo dục cho đông
đảo quần chúng, trước hết là thanh thiếu niên, lý tưởng và lối sống theo quan niệm của họ.
Mục đích cao nhất là củng cố chế độ chính trị hiện có, thu được lợi nhuận càng nhiều. Ngoài
ra, cũng không thể coi nhẹ áp lực của cuộc đấu tranh của những người lao động đòi cải thiện
điều kiện sống, trong đó có TDTT.
Tính dân tộc thể hiện rất rõ trong lối sống, nếp nghĩ, tập tục, truyền thống và văn hoá nói
chung (trong đó có TDTT) của từng dân tộc. Nó được hình thành và phát triển trong quá
trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh trong tự nhiên và xã hội, trong phát triển TDTT của
từng dân tộc ở từng điều kiện cụ thể. Tính dân tộc của TDTT Việt Nam như thượng võ,
mang đậm tính chất nhân văn, liên kết cộng đồng... thể hiện rất rõ qua kho tàng của dân tộc
về mặt này, từ triết lý rèn luyện thân thể cho đến các trò chơi dân gian, các môn võ dân tộc...
và cả ở sự cải biên, sử dụng thể thao dân tộc cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện hiện đại
của mình. Tuy vậy, cũng không nên nghĩ một đặc trưng dân tộc trong nền TDTT của nước
nào đó không thể có trong các dân tộc khác. Trong quá trình phát triển, các dân tộc (đặc biệt
là các dân tộc sống gần và có điều kiện tương tự) luôn tiếp thu cái hay, cái đẹp của các dân
tôïc khác và giữa họ ngày càng có nhiều điểm giao hoà.
Bởi vậy, không nên tách biệt tính dân tộc với tính hiện đại (quốc tế) hoặc lệch về một vế
nào. Chúng ta trân trọng truyền thống nhưng không nệ cổ, đóng cửa, giữ gìn nguyên xi
những di sản của quá khứ. Cần kế thừa những tinh hoa từ xưa để lại rồi từ đó sáng tạo nên
những tinh hoa mới. Xét cho cùng, xưa nay, tính lịch sử, giai cấp (trong xã hội có giai cấp)
và dân tộc luôn gắn với nhau.
4. Những cách tiếp cận và khái niệm TDTT
Việc nghiên cứu các khái niệm về TDTT đã được nhiều nước chú ý. Từ thập kỷ 50 này
đã có một số nước bước đầu lý giải thống nhất nội hàm của một số thuật ngữ TDTT thông
dụng. Năm 1962, Hội đồng thuật ngữ của tổ chức văn hoá – giáo dục – khoa học của Liên
hiệp quốc đã quyết: “Để cho công tác phân loại tài liệu và thông tin khoa học đạt tiêu chuẩn
quốc tế, yêu cầu các bộ phận nghiên cứu chuyên môn phải có thuật ngữ thống nhất, chính
xác, rõ ràng; tránh những hiện tượng dùng đồng ngữ khác nghĩa hoặc ngược lại để giao lưu
…”. Và cũng trong năm đó, Liên Hợp Quốc đã tổ chức một hội nghị quốc tế về công tác
biên soạn và chỉnh lý các văn kiện về TDTT. Hội nghị cũng công nhận kết quả hoạt động
của Hội nghiên cứu thuật ngữ TDTT thống nhất của Úc và đã thảo luận các khái niệm cơ
bản của TDTT. Đến năm 1965, lại tổ chức tiếp hội nghị quốc tế về nghiên cứu thống nhất
thuật ngữ TDTT, đặc biệt thảo luận nhiều về thuật ngữ thể thao (sport). Hội nghị khoa học
thế giới năm 1980 cũng coi việc nghiên cứu các khái niệm về TDTT là vấn đề cấp thiết.
Như vậy, khái niệm TDTT là một vấn đề học thuật được cộng đồng TDTT quốc tế chú
trọng. Và dù ý thức nhiều hay ít, ở nước ta cũng đã có những nghiên cứu về vấn đề này.

