NHỮNG HIỂU BIẾT CƠ

BẢN VỀ THUỐC BVTV

DÙNG TRÊN CÂY

CHÈ.

1. Khái niệm về thuốc BVTV:

Thuốc BVTV dùng trên chè là những hợp chất hoá học,

những chế phẩm sinh học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm,

siêu vi trùng, tuyến trùng), những chất điều hoà sinh

trưởng…..được dùng trên cây chè để chống lại sự phá hoại

của sinh vật gây hại. Các sinh vật gây hại gồm: Côn trùng,

tuyến trùng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ dại,….được gọi

chung là dịch hại.

2. Phân loại thuốc BVTV:

Có nhiều loại thuốc BVTV khác nhau: Phân loại theo đối

tượng phòng trừ, phân loại theo con đường tác động, phân

loại theo thành phần hoá học,…..

Phân loại theo đối tượng phòng trừ: nhóm thuốc trừ

sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, nhóm thuốc điều hoà sinh

trưởng,…..

Phân loại theo con đường tác động: nhóm thuốc tếip

xúc, thuốc vị độc, thuốc xông hơi,

Phân loại theo nguồn gốc của thuốc: nhóm thuốc hoá

học, thuốc thảo mộc, thuốc sinh học,….

3. Tính độc của thuốc BVTV đối với người và động vật

máu nóng: Nói chung các thuốc BVTV đều là những loại

chất độc.

Tính độc của thuốc: là khả năng gây độc của một lượng

thuốc nhất định khi xâm phạm vào cơ thể.

Độc cấp tính (trúng độc cấp tính) : là khả năng gây độc

tức thời, khi một loại thuốc BVTV xâm nhập vào cơ thể đến

một lượng nào đó, cơ thể bị ngộ độc, biểu hiện bằng những

triệu chứng (chóng mặt, toát mồ hoii, ói mửa, co giật, hôn

mê, …..) đó là sự trúng độc cấp tính. - Độc mãn tính: là khả

năng gây độc lâu dài về sau, do thuốc tích luỹ dàn trong cơ

thể, sau nhiều lần tiếp xúc (nếu ngày này qua ngày khác,

thuốc liên tục xâm nhập vào cơ thể với những lượng nhỏ thì

đến một lúc nào đó cơ thể bị suy yếu, có những chức năng

của cơ thể bị tổn thương do tác động của thuốc).

Nhóm độc (rất độc): Căn cứ vào trị số LD 50 (LD 50 là

liều gây chết cho 50% số lượng con vật thử nbghiệm) tổ chức

y tế thế giới (WHO) và nước ta phân chia thuốc BVTV thành

các nhóm độckhác nhau.

Thuốc BVTV được chia thành 4 nhóm:

1. Nhóm I (rất độc): trị số LD50 (qua miệng) < 200mg/kg.

Phía dưới nhãn thuốc có vạch màu đỏ, phía trên có biểu

tượng hình đầu lâu xương gạch chéo.

2. Nhóm II (độc trung bình): LD50 (qua miệng) < 200-

2000mg/kg.Phía dưới nhãn thuốc có vạch màu vàng.

3. Nhóm III (ít độc): LD50 (qua miệng ) 2000-

3000mg/kg.Phía dưới nhãn thuốc có vạch màu xanh dương.

4. Nhóm III (cẩn thận): LD50 (qua miệng ) > 2000-

3000mg/kg. Phía dưới nhãn thuốc có vạch màu xanh lá cây

Các nhóm thuốc I, II chủ yếu là các thuốc nằm trong danh

mục thuốc cấm sử dụng và hạn chế sử dụng.

Một số khái niệm trong sử dụng thuốc BVTV:

Liều lượng: là lượng thuốc thành phẩm dùng cho một

đơn vị diện tích, được tính bằng lít hoặc kg cho một ha, hoặc

một sào.

Hỗn hợp thuốc: là pha dung dịch hai hay nhiều loại

thuốc với nhau để kết hợp diệt trừ nhiều loại dịch hại cùng

một lúc để tăng hiệu lực, giảm lần phun (chỉ nên pha hỗn hợp

các thuốc có đối tượng phòng trị khác nhau: sâu và bệnh hoặc

cách tác động khác nhau: tiếp xúc và nội hấp), sau khi hỗn

hợp phải sử dụng ngay.

Luân phiên thuốc: là thay đổi lượng thuốc dùng trong

một vụ. Đây là một trong biện pháp quan trọng để hạn chế

tính kháng thuốc quá hạn sử dụng.

Thời hạn sử dụng: là thời gian từ khi gia công đóng gói

đến khi thuốc giảm hiệu lực. Không nên dùng thuốc quá hạn

sử dụng.

Dạng thuốc: thể hiện trạng thái vật lý của thuốc thành

phẩm. Phổ biến trong các nhóm thuốc nước có dạng nhũ dầu

(viết tắt EC, ND….) dạng dung dịch (viết tắt là FL, FC,

SC,…) nhóm thuốc bột, có dạng bột thấm nước (BTN, WP)

dạng bột hoà tan (viết tắt là SP), dạng thuốc hạt (viết tắt là G,

H).

4. Danh mục thuốc được phép sử dụng, hạn chế sử dụng

và cấm sử dụng ở Việt Nam:

Để đảm bảo an toàn cho người, gia súc và môi trường

trong quá trình sản xuất lưu thông, sử dụng thuốc BVTV

trong nước. Chỉ được phép sử dụng những loại thuốc tương

đối ít độc cho người, sinh vật có ích và môi trường. Hàng

năm Bộ Nông nghiệp & PTNT ra quyết định ban hành “Danh

mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng và

cấm sử dụng ở Việt Nam”. Danh mục này thay đổi theo từng

năm.

Năm 2007, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ra quyết định

số 23/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 3 năm 2007, ban hành

“Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử

dụng và cấm sử dụng ở Việt Nam” gốm 92 loại thuốc thương

phẩm (thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, thuốc điều

hoà sinh trưởng, chất hỗ trợ) được sử dụng trên cây chè, chỉ

có các loại thuốc này mới được phép ghi hướng dẫn sử dụng

cho chè trên nhãn bao bì. Các loại thuốc Monito, Wofatox

Endosol, Thasodan, Thiodol…đều thuộc danh mục cấm sử

dụng cho chè. Các lạo thuốc không có danh mục, không nhãn

mác, không có nguồn gốc xuất sứ đều không được phép lưu

thông, buôn bán và sử dụng.

ĐẢM BẢO AN TOÀN VÀ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO

TRONG VIỆC SỬ DỤNG THUỐC BVTV TRÊN CHÈ.

1. Mục tiêu:

Sử dụng thuốc BVTV trên nương chè sẽ hạn chế tác hại

của dịch hại đến cây chè, sinh vật có ích và môi trường sinh

sống. Nếu không có biện pháp sử dụng đúng thì thuốc BVTV

không chỉ gây độc cho dịch hại mà còn gây tác hại cho

người, cây chè, sinh vật có ích cho môi trường.

Do vậy, mục tiêu của việc dùng thuốc BVTV trên nương chè

gồm 2 mặt không thể tách rời là:

Tăng cường hiệu lực của thuốc BVTV để đẩy lùi tác hại

của dịch hại.

Hạn chế đến mức thấp nhất tác dụng xấu của thuốc

BVTV đến con người, cây chè, môi sinh và môi trường. Để

đạt được mục tiêu trên cần:

Thực hiện phòng trừ tổng hợp IPM (dùng tổng hợp các

biện pháp: chăm sóc, đốn hái, bảo vệ ký sinh thiên địch,

trồng cây che bóng, dùng thuốc BVTV,….) đối với mọi loài

dịch hại trên nương chè. Biện pháp dùng thuốc BVTV khi

các biện pháp phòng trừ khác đã được áp dụng, nhưng không

mang lại hiệu quả mong muốn.

Dùng thuốc BVTV theo nguyên tắc 4 đúng: đúng thuốc,

đúng lúc, đúng liều lượng và nồng độ, đúng cách.

2. Nội dung kỹ thuật của 4 đúng trong việc dùng thuốc

BVTV:

2.1. Mục tiêu của nguyên tắc 4 đúng trong việc dùng thuốc

BVTV: * Khi phun thuốc: - Thuốc xâm nhập được vào cơ thể

dịch hại nhiều nhất, bằng các con đường: + Vị độc: Cùng

thức an qua miệng và hệ thống tiêu hoá. + Nội hấp: Xâm

nhập vào cây (qua lá đi xuống = lưu dẫn; hay rễ đi lên). +

Tiếp xúc qua da, biểu bì. + Xông hơi: Thuốc vào cơ thể qua

hệ hô hấp. - Giữ trong cơ thể sinh vật đủ thời gian và nồng độ

để phát huy tác dụng đồng thời cố gắng hạn chế đến mức

thấp nhất sự tác động cua rthuốc đến môi sinh và môi trường.

2.2. Nội dung của nguyên tắc 4 đúng gồm:

a. Đúng thuốc:

Là dùng thuốc đúng đối tượng. Không một loại thuốc

nào có thể trừ được tất cả các loài dịch hại mà chỉ có thể trừ

được nhiều hay ít loài dịch hại, thậm chí chỉ một laòi dịch

hại, chúng chỉ thích hợp với những điều kiện thời tiết, đất

đai, canh tác, cây trồng nhất định.

Trước khi mua thuốc, nông dân xác định loài dịch hại

nào đang phá hoại nương chè để chọn mua đúng loại thuốc

thích hợp. Nếu không tự xác định được thì phải nhờ cán bộ

kỹ thuật giúp để chọn được đúng thuốc mình cần để đem lại

hiệu quả phòng trừ cao, trên nguyên tắc: sâu bệnh nào - thuốc

nấy. Thuốc trừ sâu: dùng phòng trừ sâu. Thuốc trừ bệnh:

Dùng thuốc trừ bệnh. Việc này càng quan trọng đối với

những thuốc có tính chọn lọc cao. Để trừ sâu miệng chích hút

thường dùng các thuốc trừ sâu có tính nội hấp và tiếp xúc

cao, còn trừ sâu miệng nhai, lại phải dùng đếnthuốc có tác

dụng vị độc và tiếp xúc mạnh. Ví dụ: Để trừ rầy xanh hại chè

dùng một trong các loại thuốc sau đây: Trebon 10 EC, Padan

95SP, Ofatox 400 EC,.... trừ nhện đỏ dùng các laọi Comite

73 EC, Dandy 15 EC.

Khi chọn thuốc phun cho chè cần chú ý đến yêu cầu vệ

sinh thực phẩm, nên dùng các loại thuốc có thời gian cách ly

ngắn như các thuốc vi sinh, thuốc thảo mộc.... đều không tồn

lưu lâu trong môi trường như các loại thuốc vi sinh, thảo

mộc.

Cần lưu ý đến hiệu quả kinh tế khi dùng thuốc,...

Không nên sử dụng cùng một loại thuốc trong suốt cả vụ chè

hoặc từ năm này qua nă khác, để tránh khả năng hình thành

kháng thuốc của dịch hại.

- Không dùng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục, thuốc

kém chất lượng, và không dùng thuốc hạn chế sử dụng.

b. Đúng lúc:

Đúng lúc là dùng thuốc vào thời điểm mà dịch hại dễ bị

tác động nhất và thuốc có điều kiện phát huy hiệulực tốt nhất.

Ví dụ: Phun thuốc trừ bệnh nên phun sớm, là lúc bệnh còn ít,

chưa lây lan nhiều. Có thuốc, một phần ngăn cản các bào tử

mới xâm nhập, cản trở không cho chúng xâm nhập, đồng thời

diệt những bảo từ nảy mầm chưa kịp xâm nhập vào cây. Điều

này đặc biệt có ý nghĩa với các thuốc trừ bệnh có tác dụng

bảo vệ. Mặt khác, bệnh khác với sâu, những vết bệnh đã xâm

nhập, cây không tự hồi phục được.

Dùng thuốc khi điều kiện thời tiết thuận lợi nhất (như

ánh sáng sớm hay chiều mát) để thuốc phát huy tác dụng,

nhưng không hại cho người sử dụng. Tốt nhất là phun vào lúc

chiều mát, vì khi đó ít ảnh hưởng đến sức khoẻ của người

phun thuốc. Không phun thuốc khi trời sắp mưa (phun thuốc

gặp mưa, thuốc sẽ bị rửa trôi, mất thuốc, nên hiệu lực của

thuốc sẽ giảm; dặc biệt với các thuốc không có tác dụng nội

hấp); khi trời nắng nóng (thuốc sẽ bị phân huỷ nhiều, giảm

hiệu lực cảu thuốc, người phun thuốc cũng dễ bị ngộ độc).

Không phun khi thiên địch sinh vật có ích hoạt động

mạnh (ở vùng có nuôi ong mật, nên phun thuốc vào buổi

chiều, phun thuốc nội hấp, không phun thuốc khi ong đi lấy

mật, cây ra hoa).... Khi luân phiên thuốc dùng cho rau họ

thập tự có nhiều ý kiến thống nhất nên dùng xen kẽ thuốc hoá

học và thảo mộc.

c. Đúng nồng độ, liều lượng:

* Đúng nồng độ:

Phải tính toán đúng lượng thuốc cần. Phải biết diện tích

thửa ruộng cần xử lý; cần phun bao nhiêu bình, mỗi bình cần

phải là bao nhiêu ml hay gam thuốc. Phun thuốc với nồng độ

thấp sẽ không đủ sức diệt dịch hại, gây làng phí thuốc, hiệu

quả trừ dịch hại thấp, thậm chí tạo điều kiện cho dịch hại

quen thuốc, kích thích dịhc hại phát triển mạnh hơn.

Ngược lại phun với nồng độ cao, lại không đem lại lợi

ích kinh tế, để lại nhiều hậu quả xấu cho môi sinh môi

trường, gây độc cho con người, cây trồng, gia súc, và thiên

địch, để lại dư lượng cao trên nông sản. Đây là tình trạng phổ

biến. Nhiều nơi, nông dân thường phun với nồng độ cao gấp

nhiều lần khuyến cáo (thường là 2-3 lần trên chè, nhất là với

các thuốc dùng với lượng nhỏ).

* Đúng liều lượng:

Cần dùng với lượng nước đủ theo hướng dẫn. Hiện nay

trên cá vùng chè, người phun thuốc có xu hướng dùng lượng

nước ít đi. Việc này thường gây hậu quả là nước sẽ không

bao phủ toàn cây, dịch hại không tiếp xúc được nhiều với

thuốc. Nhưng nếu phun với lượng nứoc quá nhiều, quá dư

thừa, sẽ làm cho thuốc bị trôi mất nhiều, mất nhiều công chở

nứoc và gây độc cho môi trường.

Tăng nồng độ thuốc và giảm lượng nước dùng chỉ tăng

độ độc cho người sử dụng, môi sinh, và môi trường, nhưng

vẫn không đạt được hiệu quả phòng trừ mong uốn.

Khi pha thuốc: Khi pha thuốc phải làm thế nào để chế

phẩm phân tán thật đồng đều vào nước, để khi phun lên cây

thuốc sẽ được trang trải đều trên bề mặt vật phun. Cần xem

xét kỹ cách hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn nhằm đảm bảo

pha đúng nồng độ, có công cụ cân đong đo đếm thích hợp

(ống đong, cân thuốc, que khuấy, xô pha thuốc). Cách pha

một số dạng thuốc: Các dạng thuốc khác nhau có khả năng

phân tán trong nước không giống nhau, nên phải có cách pha

thích hợp để tạo hiệu quả cao nhất. Các dạng thuốc: EC, ND

(nhũ dầu); LC, DD (dung dịch); SC, HP (huyền phù), khả

năng phân tán của các dạng thuốc này trong nứoc rất tốt, nên

cách pha chỉ cần làm như sau: đổ vào bình bơm 1-2 lít nước,

đổ thuốc vào, quấy đều, rồi đổ thêm cho đủ nước. Quấy đều

trước khi phun. Các dạng SP, BHN (bột tan): hoà tan thuốc

vào một lít nước trong cốc riêng, quấy đều. Đổ vào bình bơm

1-2 lít nước, đổ thuốc đã hoà tan từ cốc vào bình phun, quấy

đều, rồi đổ thêm cho đủ nước. Quấy đều trước khi phun. Các

dạng WP, BTN (bột thấm nước): Do khả năng phân tán của

thuốc dạng này rất kém, nên muốn có dung dịch thuốc phân

tán đều cần pha như sau: Đổ một ít nước vào thuốc, quấy đều

và cho dần thuốc thành thể nhão, trước khi đổ vào bình phun

như pha thuốc bột tan.

* Đúng cách (đúng kỹ thuật):

Phun đúng nơi dịch hại cư trú để dịch hại tiếp xúc với

thuốc nhiều nhất.

Thực hiện đúng kỹ thuật phun rải: Phun đúng thời

điểm, không phun ngược chiều gió, không phun thuốc khi gió

quá mạnh, trời sắp mưa, đi đúng tốc độ, phù hợp với lượng

nước thuốc dùng, đảm bảo lượng nước và lượng thuốc dùng.

Phun kỹ không để sót.

Nếu có điều kiện có thể dùng luân phiên các loại thuốc

có cơ chế tác động khác nhau để giảm tác hại của thuốc đến

sinh vật và môi trường, giảm khả năng hình thành tính kháng

thuốc của dịch hại.

Phải hỗn hợp thuốc BVTV đúng cách: Hỗn hợp thuốc

nhằm nâng cao hiệu lực của thuốc, giảm được công phun.

Tuy nhiên phải theo đúng nguyên tắc là giữ nguyên nồng độ

của từng loại thuốc như khi dùng riêng. Chỉ thực hiện việc

hỗn hợp nếu như điều đó có hướng dẫn trên nhãn thuốc hoặc

trong các tài liệu khoa học kỹ thuật hướng dẫn sử dụng thuốc

BVTV (nếu hỗn hợp sai sẽ làm giảm hiệu lực của thuốc, gây

độc cho cây). Hỗn hợp xong phải dùng ngay, nếu để lâu

thuốc sẽ bị giảm hiệu quả.

3. Bảo hộ và an toàn lao động đúng khi tiếp xúc với thuốc

BVTV:

Tiêu chuẩn người đi phun thuốc: người khoẻ mạnh,

người trưởng thành, không để trẻ em, phụ nữ có thai, người

có vết thương hở, lở loét đi phun thuốc.

Chế độ làm việc: Tối đa 6 giời/ngày

Khi phun thuốc: Phải có đầy đủ quần áo bảo hộ và công

cụ lao động khi tiếp xúc với thuốc: Quần áo dài, tạp dề bằng

nilon hay vải không thấm ướt, mũ, khẩu trang, kính. Ăn no

trước khi phun thuốc. Không dùng bình phun bị rò rỉ hoặc để

thuốc dây lên da. Không ăn uống, hút thuốc trong khi phun

thuốc. Giải lao: Chọn nơi thoáng mát, xa nới phun thuốc. Chỉ

ăn uống, hút thuốc sau khi đã rửa tay, mặt mũi thật sạch.

Không chăn thả gia súc trong khi đang phun thuốc. Ngừng

ngay phun thuốc khi phát hiện bình bơm rò rỉ, xả van khí

trong bình bơm, đổ nước thuốc ra chậu và tìm cách khắc

phục. Khi vòi phun bị tắc cần lên bờ, đến nới sạch cỏ để tháo

vòi rửa sạch. nếu bị tắc cần lấy cọng cây mềm để thồng,

không dùng mồm thổi để thông vòi. Không phun thuốc

ngược chiều gió, nên đi vuông góc với chiều gió, không phun

thuốc khi trời có gió to. Thay quần áo mới nếu quần áo đang

mặc bị dính thuốc.

Sau khi phun: Thu dọn bao bì, chai thuốc vào một chỗ,

tiêu huỷ đúng cách (đập bẹp vỏ sắt, vỡ chai, chôn sâu bao bì

nơi hẻo lánh, cao, không úng nước, có biển cảnh báo, hố có

rào chắn, hố đào phải có chiều sâu thấp hơn bề mặt mương

nước gần nhất). Không nên đốt các bình chứa thuốc. Rửa

bình bơm sạch (hoà xà phòng vào nước, đổ nước xà phòng

vào bình, đóng nắp và lắc bình, đổ nước xà phòng ra xô - làm

lại vài lần. Tháo rời từng bộ phận, dùng bàn chải mềm rửa

sạch, thông vòi phun bằng nước xà phòng và nước sạch), rửa

bên ngoài bằng nước xà phòng và nước sạch thêm lần nữa),

úp ráo nước, cất vào kho. Không để bình bơm bừa bãi khi

làm việc hay khi bảo quản. Không đổ thuốc thừa và nước rửa

bơm xuống ruộng, nguồn nước. Thuốc thừa phải đậy, cất vào

kho riêng, có khoá, xa nhà. Tắm, giặt quần áo bảo hộ và công

cụ bảo hộ lao động bằng xà phòng, thay quần áo mới, sạch.

Không để chung quần áo bảo hộ với quần áo thường mặc và

không để quần áo, công cụ phòng hộ trong kho thuốc.

Thời gian trở lại khu vực xử lý: Do thuốc mới phun,

còn ướt, nồng độ cao nếu đi ngay vào khu vực xử lý dễ gây

độc. Do vậy cần cấm người và gia súc đi vào nơi xử lý thuốc

trong một thời gian nhất định. Trường hợp đặc biệt cần phải

đi vào khu vực xử lý thuốc cần có quần áo bảo hộ. Thời gian

trở lại khu vực xử lý dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng loại

thuốc, bình thường sau khi phun khoảng 48h là có thể quay

lại khu vực xử lý thuốc.

4. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tránh độc cho

người sử dụng thuốc BVTV:

Mỗi loại thuốc đều được quy định lượng tồn tại của nó

trên nông sản gọi là mức dư lượng (MDL)

Thời gian cách ly: là số ngày tối thiểu kể từ ngày phun

thuốc lần cuối đến khi thu hoạch nông sản. Đủ thời gian này

có nghĩa là dư lượng trên nông sản đã nằm dướ MDL tối đa

cho phép.

Tuy nhiên, thời gian cách ly chỉ có giá trị với liều

khuyến cáo. Nếu vượt quá liều khuyến cáo (liều lượng, nồng

độ hướng dẫn), thời gian cách ly trên không còn có ý nghĩa gì

nữa.

5. Đối với người kinh doanh và người sử dụng thuốc bảo

vệ thực vật:

Người kinh doanh thuốc BVTV cần:

Có chứng chỉ hành nghề buôn bán thuốc BVTV. Cán

bộ quản lý và kỹ thuật phải có trình độ trung cấp nông nghiệp

trở lên.

Có cửa hàng bán thuốc và kho thuốc.

Có trang thiết bị cần thiết để bảo đảm an toàn cho

người, môi trường; phòng chống cháy nôt theo quy định của

Nhà nước.

Phải có đủ sức khoẻ.

Ngoài ra, người bán hàng cần có trình độ chuyên môn,

khuyến cáo nông dân mua đúng thuốc cần, dùng đúng kỹ

thuật, đọc và hiểu được nhãn. Không buôn bán hàng giả,

hàng kém chất lượng, ngoài danh mục. Không lưu giữ, bày

bán các loại thuốc BVTV đựng trong các vỏ không phải là

chai gói chuyên dụng đựng thuốc BVTV hay trong các ống

thuỷ tinh dễ vỡ, những chai thuốc đã bị hư hỏng.

Cửa hàng không bày bán thuốc không có nhãn, nhãn bị

mờ, bẩn, nhãn mang tiếng nước ngoài, nhãn không ghi đầy

đủ các nội dung theo quy định của Nhà nước. Người bán

thuốc không được tự ý sang chai, đóng gói lẻ (từ gói lớn sang

gói nhỏ). Mọi loại thuốc bày bán tại cửa hàng hay trong kho

phải là bao bì nguyên thuỷ do cơ sở sản xuất gia công đóng

gói làm với đầy đủ dấu, tme, nút, bảo hiểm chống hàng giả.

Người mua thuốc:

Chỉ mua những loại thuốc đựng trong chai lọ còn

nguyên, còn trong hạn sử dụng được gi trên nhãn.

Tính lượng thuốc cần để mua đúng lượng, không phải

lưu trữ lâu trong nhà.

Không tự thay đổi bao bì trong quá trình lưu trữ. +

Không mua thuốc ở những cửa hàng không đăng ký kinh

doanh thuốc. Do thuốc BVTV là hàng hoá đặc biệt nên Nhà

nước cần quản lý chặt. Không đăng ký kinh doanh là vi phạm

pháp luật.

Nếu thuốc bị đổ ra đất, sàn xe, dùng đất bột, vôt bột,

mùn cưa bao quanh khu vực bị rò rỉ, thấm hết thuốc, nạo lớp

đất thấm nước, dọn sạch cho vào túi nhựa rồi chôn. Không

dùng nước đổ rửa, tránh để thuốc lan rộng.