
NHỮNG HÌNH THỨC TRANG PHỤC, MÀU
SẮC
MŨ, KHĂN, VÁY, ÁO, KHỐ THỜI HÙNG
VƯƠNG
1. TRANG PHỤC MŨ, KHĂN
Ngoài các kiểu đầu tóc ra, phụ nữ quý tộc còn đội
khăn, có vòng đai đầu đội mũ ống thấp hoặc cao. Có
loại mũ hình chóp hoặc loe rộng, trang trí như hình
dáng vương miệng (tượng núi Nưa). Tượng ở Bỉ có
chóp mũ nhọn hoặc hình trái đào. Cấu tạo của mũ có
trước, có sau, thân mũ, vành mũ (trang trí rõ nét).
Phía sau mũ có đệm vải che gáy. Loại mũ thấp sau
vành mũ được được xòe ra như những cánh hoa cúc
bịt kín tóc trên đầu (tượng Làng Vạc).
2. TRANG PHỤC ÁO

Trang phục áo cho thấy phụ nữ quý tộc dùng phổ
biến ba loại áo sau:
a. Loại ngắn tay chéo vạt bó chẽn, hở ngực.
b. Loại áo tay dài bó sát thân, vạt buông kéo dài, sau
đó thắt bao lưng trang trí quấn phủ ra ngoài ở gần
hông.
c. Loại áo kín ngực để cổ đeo hạt chuỗi, vải trang trí
quấn ngang ngực để nâng cao ngực và thắt eo lớn, vải
trang trí dệt hình kỉ hà, ta có thể thấy kiểu mặc này
gần gũi với trang phục của người dân tộc Mường.
NHỮNG HÌNH THỨC TRANG PHỤC, MÀU
SẮC
MŨ, KHĂN, VÁY, ÁO, KHỐ THỜI HÙNG
VƯƠNG
3. VÁY VÀ ĐỆM VÁY

Váy và đệm váy đều thuộc loại váy quây, có nhiều
lớp váy, trang trí cầu kì. Vải có nhiều loại đã được
dệt trang trí sẵn. Vải thường để quấn hoặc được may
thành váy.
a. Loại váy trang trí hoa văn hình học đối xứng như
vải hoa, phần gấu viền váy để thoáng ít trang trí.
b. Loại váy có trang trí ở phía gấu váy, dần trở lên
phía trên để thoáng hơn. Hai loại váy kiểu này đều
dài che kín chân.
c. Có loại váy ngắn đến giữa vần đùi, không trang trí
hoặc ít (vẫn có đệm váy). Đệm váy được phủ rộng từ
thân xuống nhỏ dần, có dệt trang trí thả xuống chiều
dài phần trên gấu váy, có loại như hình quả bông, đè
lên nhau hai lớp. Đệm váy đều được mặc cả phía
trước lẫn phía sau. Nếu váy ngắn, đệm váy cũng ngắn
theo. Cách trang phục này ta còn tìm thấy ở người
Mèo, người Dao khu vực miền Bắc nước ta ngày nay.

Các loại vải dệt sẵn để may váy vẫn còn tồn lưu trong
các dân tộc ít người ở nước ta từ Bắc tới Tây Nguyên.
Trong những ngôi mộ ở Châu Can (Hà Tây), mộ
Động Xá (Kim Động, Hưng Yên) và một số mộ khác
người ta tìm được tới gần chục loại vải khác nhau,
nhiều loại sợi màu là những băng dệt bằng sợi lanh
để cải màu. Các kĩ thuật diềm tua, diềm khâu và kĩ
thuật thêu đã tìm thấy, lối dệt con thoi cho ta hiểu
rằng còn nhiều vấn đề của thời kì này chưa được biết
rõ vì lớp bụi thời gian đã tiêu hủy các vật chứng
mỏng manh. Trong số này có nhiều chất liệu tới hiện
nay vẫn là đồ cao cấp như vải lanh, vải gai, lụa, da,
không loại trừ cả sợi bông trong thiên nhiên, cũng
như các loại vải ngoại do sự giao thương từ Âu sang
Á hoặc ngược lại.
Giao thương trên đất nước ta đã có từ lâu đời bởi còn
lưu giữ tiền từ thời La Mã (Antonius), tiền này được

tìm thấy ở nền chùa văn hóa Óc Eo; trên mặt tiền đúc
hình người nghiêng, sống mũi cao thẳng, ở mặt phải
là chân dung Demitrius (con trai của Antigonous –
một tướng lĩnh của Alexandre) là vị vua có hình bán
thân trên đồng tiền. Một đồng tiền là nữ thần Athena
(thần Trí tuệ và tri thức, chiến thắng). Athen là thủ đô
của Hi Lạp. Theo đoán định hai đồng tiền này thuộc
loại tiền Indo – Greek Coin, phát hành thời kì xâm
lăng của Alexandre Đại Đế ( khoảng 327 – 323
TCN). Thời gian này là giai đoạn nhà nước Hùng
vương và Âu Lạc. Ở Ấn Độ khi đó là giai đoạn hoàng
đế Asoka, ông đã truyền giáo đi các nước Đông Nam
Á. Sử Trung Hoa đã nói vua Asoka cho xây dựng tại
thành Nê-lê bảo tháp Giao Châu Việt Nam (Đồ Sơn
ngày nay). Sách Thủy Kinh chú viết: vua Asoka 271
– 231 là một đại anh hùng Ấn Độ đã cho xây nhiều
tháp Phật ở Đồ Sơn (Kiến An). Những sự giao lưu
trên của đạo Phật truyền giáo cũng như việc các
thương nhân qua lại đổi các hương liệu là điều có thể