intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hòa giải ở cơ sở

Chia sẻ: Lo Minh Tru | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:40

103
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở, kinh nghiệm hòa giải ở cơ sở thông qua một số tình huống là những nội dung chính trong tài liệu "Hòa giải ở cơ sở". Hy vọng nội dung tài liệu phục vụ hữu ích nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hòa giải ở cơ sở

  1. HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC HOÀ GIẢI Ở CƠ SỞ 1. Nội dung quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở Hòa giải  ở  cơ  sở  là một hoạt động mang tính xã hội tự  nguyện, tự  quản đã trở  thành đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Hòa giải  ở  cơ  sở  không chỉ  đơn   thuần góp phần hạn chế  các tranh chấp dân sự  và phòng ngừa tội phạm, vận động   nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, củng cố  tình làng, nghĩa xóm, tăng cường   đoàn kết trong cộng đồng dân cư mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an   ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế  ­ xã hội. Hòa giải từ  chỗ là một hoạt động mang tính chất tự  phát trong nội bộ nhân dân đã trở  thành hoạt  động của một tổ  chức quần chúng được Nhà nước thừa nhận. Để  phát huy tốt nhất   hiệu quả của hoạt động hòa giải đối với đời sống xã hội, Nhà nước thực hiện sự quản   lý, tạo điều kiện cho tổ  chức và hoạt động hòa giải  ở  cơ  sở  được kiện toàn và phát   triển.  Quản lý nhà nước về công tác hòa giải  ở  cơ sở được hiểu là hoạt động của các  cơ  quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo ra các điều kiện để  công nhận, xác lập,   duy trì, ổn định và phát triển tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Theo Điều 6 Pháp lệnh về  Tổ  chức và hoạt động hoà giải  ở  cơ  sở  năm 1998,  Điều 5 và Điều 6 Nghị định số 160/1999/NĐ­CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của Chính  phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở  cơ  sở  năm 1998 (Nghị  định số  160/1999/NĐ­CP) thì nội dung quản lý nhà nước về  công tác hoà giải ở cơ sở bao gồm: ­ Ban hành văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở;   ­ Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở; ­ Xây dựng, phát triển hệ  thống mạng lưới tổ  hoà giải và đội ngũ những người  làm công tác hoà giải; ­ Tổ  chức bồi dưỡng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,  nâng cao nghiệp vụ hoà giải cho người làm công tác hoà giải; ­ Biên soạn, in  ấn, phát hành, cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ  hoà giải ở  cơ sở; ­ Quản lý, sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác hoà giải ở cơ sở; ­ Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hoà giải ở cơ sở; ­ Sơ  kết, tổng kết, đánh giá, thực hiện chế  độ  báo cáo, thống kê về  tổ  chức và   hoạt động hoà giải ở cơ sở; ­ Tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải ở cơ sở.   2. Cơ quan quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở
  2. Theo quy định tại Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, Nghị định  số   160/1999/NĐ­CP,   Nghị   định   số   93/2008/NĐ­CP   ngày   22   tháng   8   năm   2008   của   Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư  pháp, Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT­BTP­BNV ngày 28 tháng 4 năm 2009 hướng  dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Uỷ ban   nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư  pháp thuộc Uỷ  ban nhân dân cấp huyện và công tác tư  pháp của Uỷ  ban nhân dân cấp xã thì các cơ  quan quản lý nhà nước về  công tác hoà   giải ở cơ sở bao gồm: 2.1. Chính phủ  Chính phủ  có nhiệm vụ  thống nhất quản lý nhà nước về  công tác hòa giải trong  phạm vi cả nước.  2.2. Bộ Tư pháp  Bộ  Tư  pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ  thực hiện quản lý nhà nước về  công tác hoà giải  ở  cơ  sở  và chỉ  đạo, hướng dẫn Uỷ  ban nhân dân các cấp thực hiện   quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở địa phương, cụ thể: ­ Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tổ  chức và hoạt động hoà giải trình  Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền; ­ Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động hoà giải trong phạm vi cả nước; ­ Tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn các Sở Tư pháp tổ chức bồi dưỡng về đường   lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ  hoà giải cho  người làm công tác hoà giải; ­ Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hoà giải ở cơ sở trong phạm vi cả  nước; ­ Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của tổ hoà giải trong phạm vi cả nước. 2.3. Uỷ ban nhân dân các cấp  Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác hoà giải theo sự  chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Căn cứ tình hình cụ thể và khả năng ngân sách của địa phương, Uỷ ban nhân dân  các cấp tạo điều kiện, hỗ  trợ  về  kinh phí cho việc kiện toàn tổ  chức, bồi dưỡng   nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động  hoà giải ở địa phương. 2.4. Sở Tư pháp  Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà   nước về công tác hoà giải ở địa phương, cụ thể: ­ Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về công tác hòa giải trình Uỷ  ban nhân   dân cấp tỉnh ban hành;
  3.   ­ Theo sự  chỉ  đạo của Bộ  Tư  pháp và Uỷ  ban nhân dân cấp tỉnh, hướng dẫn,  kiểm tra việc thực hiện quy định của cấp trên về tổ chức và hoạt động hòa giải trong   phạm vi địa phương; ­ Tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn Phòng Tư pháp tổ chức bồi dưỡng về đường   lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ  hòa giải cho  người làm công tác hòa giải; ­ Sơ  kết, tổng kết và báo cáo Uỷ  ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ  Tư  pháp về  công  tác hòa giải của tổ hòa giải  ở  địa phương; tổ  chức thi đua, khen thưởng công tác hòa  giải ở địa phương. 2.5. Phòng Tư pháp  Phòng Tư pháp có trách nhiệm: ­ Theo sự  chỉ  đạo của cơ  quan tư  pháp cấp trên và Uỷ  ban nhân dân cấp huyện,   hướng dẫn cán bộ  tư  pháp cấp xã triển khai thực hiện các quy định về  công tác hòa   giải  ở  địa phương; đề  xuất với Uỷ  ban nhân dân cấp huyện biện pháp kiện toàn tổ  chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở địa phương; ­ Tổ  chức bồi dưỡng nghiệp vụ  hòa giải  ở  địa phương theo hướng dẫn của cơ  quan tư pháp cấp trên; ­ Sơ kết, tổng kết công tác hòa giải của tổ  hòa giải  ở địa phương và báo cáo về  công tác hòa giải với Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cơ quan tư pháp cấp trên; tổ chức  thi đua, khen thưởng công tác hòa giải của tổ hòa giải ở địa phương. 2.6. Công chức tư pháp ­ hộ tịch cấp xã  Công chức tư pháp ­ hộ tịch cấp xã có trách nhiệm: ­ Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải  ở cơ sở; ­ Thực hiện bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên tổ  hòa giải ở địa  phương theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên; ­ Sơ  kết, tổng kết công tác hòa giải của tổ  hòa giải  ở  địa phương, báo cáo công  tác hòa giải với Uỷ ban nhân dân cấp xã và cơ quan tư pháp cấp trên; trình Chủ tịch Uỷ  ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định việc miễn nhiệm tổ viên tổ hòa giải; tổ chức  thi đua, khen thưởng công tác hòa giải ở địa phương. 3. Hướng dẫn quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở 3.1. Xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở 3.1.1. Củng cố, kiện toàn tổ chức các tổ hòa giải ở cơ sở hiện có ­ Rà soát tổ chức tổ hòa giải ở cơ sở: Để kiện toàn các tổ hòa giải hiện có, cán bộ  tư pháp cấp xã phối hợp với Ban công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố  định kỳ  hàng năm tiến hành rà soát số  lượng tổ  hòa giải hiện có trong phạm vi xã,  phường, thị  trấn; rà soát lại tổ  viên tổ  hòa giải về  số  lượng, trình độ  chuyên môn,   nghiệp vụ  và khả  năng đáp  ứng yêu cầu công tác, số  người cần được bổ  sung, các 
  4. trường hợp thôi không làm tổ  viên tổ  hòa giải (nếu có); trên cơ  sở  đó, kiến nghị, đề  xuất Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cấp xã các biện pháp củng cố, kiện toàn tổ  chức và  hoạt động của các tổ hòa giải. ­ Bầu bổ sung tổ viên tổ hòa giải: Việc bầu bổ sung tổ viên tổ hòa giải được tiến   hành trong trường hợp số lượng tổ viên tổ  hòa giải thiếu theo quy định của pháp luật   hoặc theo yêu cầu thực tế của công việc, cần bổ sung.  Trong trường hợp này, cán bộ tư pháp cấp xã chủ động báo cáo với Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân xã thông báo cho Uỷ  ban Mặt trận Tổ  quốc xã chuẩn bị  công tác lựa  chọn, giới thiệu người để  nhân dân thôn, tổ  dân phố  bầu tổ  viên tổ  hòa giải. Trưởng   thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức và chủ trì các cuộc họp nhân dân, họp chủ hộ hoặc  tổ chức việc phát phiếu lấy ý kiến chủ hộ để bầu tổ viên tổ hoà giải. Biên bản bầu bổ  sung tổ  viên tổ  hòa giải được gửi đến Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cấp xã xem xét để  công nhận. Trên cơ  sở  kết quả  bầu tổ  viên tổ  hòa giải, cán bộ  tư  pháp cấp xã tham  mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận tổ viên tổ hòa giải. ­ Miễn nhiệm đối với tổ  viên tổ  hòa giải: Việc miễn nhiệm tổ  viên tổ  hòa giải   được thực hiện trong các trường hợp: có hành vi vi phạm pháp luật; có hành vi trái đạo   đức xã hội; thiếu nhiệt tình trong hoạt động hoà giải; theo nguyện vọng cá nhân xin rút  khỏi tổ hoà giải.  Căn cứ biên bản họp nhân dân, họp chủ hộ hoặc kết quả phiếu lấy ý kiến chủ hộ  về việc miễn nhiệm tổ viên tổ  hoà giải do trưởng thôn, tổ  trưởng tổ  dân phố  chủ  trì,  cán bộ  tư  pháp cấp xã đề  nghị  bằng văn bản để  Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cùng cấp   xem xét, quyết định công nhận việc miễn nhiệm. Sau khi có quyết định miễn nhiệm,   công chức tư pháp ­ hộ tịch cần nhanh chóng đề nghị người được miễn nhiệm bàn giao  các công việc của tổ hoà giải cho Tổ trưởng tổ hoà giải. 3.1.2. Thành lập tổ hòa giải mới Theo quy định hiện hành, căn cứ đặc điểm, tình hình cụ thể của cụm dân cư, kết   quả cuộc họp thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố, kết quả cuộc họp các chủ  hộ  hoặc kết   quả phiếu lấy ý kiến các chủ hộ, cán bộ tư pháp cấp xã cần tham mưu, giúp Chủ tịch   Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định việc thành lập tổ hoà giải ở địa phương.  Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cán bộ  tư  pháp cấp xã phải thường xuyên phối  hợp với Ban Công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ  trưởng tổ  dân phố, khu dân cư... rà  soát, đánh giá nhu cầu thành lập mới tổ hoà giải tại địa bàn dân cư. Trong trường hợp   cần thành lập thêm tổ hoà giải ở cơ sở thì đề  nghị Trưởng thôn, xóm, bản, ấp, tổ  dân  phố, khu dân cư lấy ý kiến nhân dân qua cuộc họp thôn, tổ  dân phố, cuộc họp chủ hộ  hoặc qua phiếu lấy ý kiến chủ hộ. Căn cứ vào kết quả nói trên, cán bộ tư pháp cấp xã  tổng hợp, đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định.  Trên cơ  sở  quyết định của Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cấp xã về  việc thành lập   mới tổ  hòa giải  ở  địa phương, Uỷ  ban Mặt trận Tổ  quốc cấp xã phối hợp với các tổ  chức thành viên của Mặt trận lựa chọn, giới thiệu người để  nhân dân bầu tổ  viên tổ  hòa giải. 
  5. Công chức tư  pháp ­ hộ  tịch hướng dẫn các trưởng thôn, tổ  trưởng tổ  dân phố  phối hợp với Ban Công tác Mặt trận tổ  chức thành lập tổ  hoà giải, bầu tổ  trưởng, tổ  viên tổ hoà giải theo đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở kết quả bầu tổ trưởng, tổ viên tổ hòa giải, công chức tư pháp ­ hộ tịch  tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận việc thành lập tổ hòa   giải và thành phần tổ hòa giải. 3.2. Tổ chức thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở Theo sự  chỉ đạo của cơ  quan tư  pháp cấp trên, công chức tư  pháp ­ hộ  tịch  cần   thường xuyên theo dõi, trực tiếp chỉ  đạo, hướng dẫn hoạt động của tổ  hòa giải theo   các quy định của pháp luật. Việc hướng dẫn trực tiếp được thực hiện thông qua các   hình thức như: họp trao đổi, rút kinh nghiệm; hướng dẫn bằng văn bản. 3.3. Bồi dưỡng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,   nâng cao nghiệp vụ hòa giải cho tổ  viên tổ  hòa giải; cung cấp tài liệu nghiệp vụ   cho tổ hòa giải ở địa phương theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên ­ Định kỳ, công chức tư pháp ­ hộ tịch theo dõi, nắm trình độ, năng lực thực tiễn,   nhu cầu bồi dưỡng, tập huấn của đội ngũ tổ viên tổ hòa giải. ­ Xây dựng trình Chủ  tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phê duyệt kế  hoạch, chương  trình bồi dưỡng nghiệp vụ cụ thể phù hợp với điều kiện, đặc điểm của địa phương. ­ Cung cấp tài liệu nghiệp vụ, tài liệu pháp luật (như sổ tay nghiệp vụ hòa giải ở  cơ  sở, đề  cương tuyên truyền văn bản pháp luật, sách hỏi ­ đáp về  pháp luật, tờ  gấp  về pháp luật...) cần thiết cho những người làm công tác hòa giải ở cơ sở (như tổ viên  tổ  hòa giải, trưởng thôn, tổ  trưởng tổ  dân phố, cán bộ  Mặt trận, đoàn thể  trực tiếp   tham gia hòa giải...). ­ Định kỳ tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải  cho những người làm công tác hòa giải ở cơ sở. Cụ thể như sau: (i) Về nội dung bồi dưỡng, tập huấn + Đường lối, chính sách của Đảng; + Pháp luật của Nhà nước, nhất là những kiến thức pháp luật liên quan thiết thực  đến đời sống của người dân ở  cơ  sở, thường được vận dụng trong hòa giải các mâu  thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân; + Kỹ  năng, nghiệp vụ  hòa giải  ở  cơ  sở; kỹ  năng phổ  biến, giáo dục pháp luật  thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở. Bên cạnh việc bồi dưỡng những nội dung trên, cần chú ý đến việc động viên,   khuyến khích các tổ  viên tổ  hòa giải tự  rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, lối  sống, uy tín, lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm để thực sự trở thành những tấm gương   trong việc thực hiện pháp luật góp phần xây dựng và phát triển hoạt động hoà giải ở  cơ sở. 
  6. Ngoài ra, cần chú ý hướng dẫn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ  năng phối hợp, điều   hành công việc dành cho các Tổ  trưởng tổ  hoà giải nhằm giúp họ  thực hiện tốt việc   phối hợp, điều hành các thành viên của tổ hòa giải có hiệu quả hơn.  (ii) Về hình thức bồi dưỡng, tập huấn Việc bồi dưỡng cho các tổ  viên tổ  hòa giải được thực hiện thông qua các hình  thức như: mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, tổ chức thi hòa giải viên giỏi, tọa đàm trao  đổi kinh nghiệm, qua đó góp phần nâng cao nghiệp vụ và giải quyết khó khăn, vướng   mắc trong tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở.    Việc chuẩn bị một lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho người làm  công tác hòa giải bao gồm các bước sau:  Bước 1: Xác định cụ  thể  đối tượng của các lớp bồi dưỡng, tập huấn nhằm tìm  hiểu các thông tin về đối tượng được bồi dưỡng, tập huấn (gọi tắt là học viên) như:  số lượng; đặc điểm về giới tính, dân tộc, độ tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời   gian tham gia công tác hòa giải; mức độ  hiểu biết về  pháp luật, kỹ  năng, nghiệp vụ  hòa giải như thế nào... Việc xác định rõ đối tượng học viên tạo điều kiện cho người thực hiện việc tập   huấn (gọi tắt là tập huấn viên) chuẩn bị các tài liệu, phương pháp làm việc thích hợp. Bước 2: Đánh giá nhu cầu của học viên Để tổ chức bồi dưỡng, tập huấn hiệu quả, cần tìm hiểu xem học viên cần gì từ  khóa bồi dưỡng, tập huấn. Việc đánh giá nhu cầu bồi dưỡng, tập huấn của các học  viên cho phép xác định được mục tiêu của khóa bồi dưỡng, tập huấn nhờ vào việc xác  định khoảng cách giữa kiến thức, kinh nghiệm các học viên đang có với những gì học   viên cần có. Bước 3: Xác định mục tiêu, yêu cầu của từng lớp bồi dưỡng Mục tiêu chung của các lớp bồi dưỡng, tập huấn cho những người làm công tác   hòa giải là quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nâng cao kiến thức  pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở.  Tuy nhiên, mỗi một lớp bồi dưỡng, tập huấn lại có những mục tiêu cụ  thể  khác  nhau. Các mục tiêu của lớp bồi dưỡng, tập huấn được xác định trên cơ  sở  đặc điểm  của đối tượng được bồi dưỡng, tập huấn, kết quả  khảo sát nhu cầu bồi dưỡng, tập   huấn của các học viên. Việc xác định rõ mục tiêu của lớp bồi dưỡng, tập huấn sẽ tạo cơ sở để: + Hướng tập huấn viên và học viên hoàn thành các kết quả  dự kiến của lớp bồi   dưỡng, tập huấn; + Lựa chọn tài liệu và phương pháp bồi dưỡng, tập huấn hợp lý; + Đánh giá mức độ thành công của lớp bồi dưỡng, tập huấn. Yêu cầu đặt ra đối với từng lớp bồi dưỡng, tập huấn là: nội dung ngắn gọn, thiết   thực, đơn giản, dễ  hiểu, thời lượng hợp lý, sát với đối tượng người nghe, phương 
  7. pháp truyền đạt hấp dẫn, sinh động, có sự  thu hút, lôi cuốn, phát huy sáng tạo của   người nghe. Tránh tình trạng lý thuyết hoá các vấn đề  làm cho người nghe khó tiếp  nhận hoặc tiếp nhận không đầy đủ. Bước 4: Xác định nội dung, chương trình bồi dưỡng trên cơ  sở nhu cầu của học   viên và hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên, chuẩn bị tài liệu bồi dưỡng Việc xác định nội dung, chương trình từng lớp bồi dưỡng cần bám sát mục tiêu,   nhu cầu của đối tượng được bồi dưỡng, tập huấn. Trên cơ  sở  chương trình khung  hoặc sự  hướng dẫn của cơ quan tư  pháp cấp trên, cần cụ  thể  hoá từng nội dung cho   phù hợp đối tượng cụ thể và điều kiện thực tế của địa phương mình. Đối với bài tập  tình huống, cần lựa chọn những bài tập liên quan nhiều đến công việc hòa giải  ở  cơ  sở. Chuẩn bị tài liệu cho lớp bồi dưỡng là một trong những nội dung cơ bản, quyết   định đến chất lượng của lớp bồi dưỡng. Cán bộ  tư  pháp cấp xã chịu trách nhiệm  chuẩn bị đầy đủ tài liệu để cung cấp cho những người được bồi dưỡng, tập huấn; để  họ có thể kết hợp vừa nghe giới thiệu trực tiếp với nghiên cứu tài liệu, chủ động tham   gia thảo luận, chia sẻ sự hiểu biết, kinh nghiệm của mình. Bước 5: Lựa chọn tập huấn viên Các lớp bồi dưỡng, tập huấn nên được thực hiện bởi một nhóm tập huấn viên là   các chuyên gia có kiến thức, kinh nghiệm thực tế về công tác hòa giải  ở  địa phương,   có khả  năng sư  phạm, diễn đạt truyền cảm, súc tích, dễ  hiểu. Sự  có mặt của từ  hai  chuyên gia trở lên sẽ làm cho lớp bồi dưỡng sinh động, hiệu quả hơn.   Bước 6: Xây dựng chương trình làm việc của khóa bồi dưỡng, tập huấn Chương trình bồi dưỡng, tập huấn bao gồm chương trình làm việc của tập huấn   viên và chương trình làm việc của học viên và các hoạt động cụ  thể  nhằm đạt được  mục tiêu của lớp bồi dưỡng, tập huấn. Các chương trình làm việc này phải rất cụ thể. Chương trình làm việc của học viên cần xác định rõ thời gian, nội dung tập huấn,  người thực hiện. Ví dụ: Chương trình bồi dưỡng, tập huấn cho tổ viên tổ  hòa giải xã  B, huyện X, tỉnh H Chương trình làm việc của tập huấn viên cần xác định rõ thời gian, nội dung,   phương pháp, mục đích. Ví dụ: Chương trình làm việc của tập huấn viên Bước 7: Quản lý lớp bồi dưỡng ­ Việc theo dõi, quản lý lớp bồi dưỡng được tiến hành kể  từ  khi có quyết định   mở  lớp. Công việc đầu tiên của việc quản lý lớp đó là việc mời các đối tượng tham  gia. Việc gửi giấy mời cần nêu rõ đối tượng, nội dung, thời gian tổ  chức và các nội   dung cụ  thể  khác để  các tổ  hoà giải cử  người tham dự  cho phù hợp. Giấy mời cần   được gửi trước một thời gian nhất định để các học viên sắp xếp công việc và chuẩn bị  tham gia, tránh các trường hợp gửi giấy quá gấp về  thời gian, không cụ  thể  về  nội   dung, chương trình.
  8. ­ Chuẩn bị  các điều kiện cần thiết như: hội trường (bao gồm makét, thiết bị  âm  thanh, ánh sáng, nước uống...), tài liệu, chế độ ăn, nghỉ, đi lại của các học viên tham dự  lớp bồi dưỡng... ­ Theo dõi, nắm tình hình diễn biến của lớp bồi dưỡng, bảo  đảm để  lớp bồi  dưỡng thực hiện đúng các mục tiêu, nội dung, chương trình đặt ra, xử  lý các trường  hợp phát sinh trong quá trình tổ chức lớp…  ­ Lấy ý kiến các tập huấn viên, học viên đánh giá kết quả bồi dưỡng, tập huấn và   tổng kết, rút kinh nghiệm cho việc tổ chức các lớp bồi dưỡng sau được hiệu quả hơn. Cuối khóa bồi dưỡng, tập huấn, Ban tổ chức có thể  trao cho các học viên Giấy  chứng nhận đã tham dự khóa bồi dưỡng, tập huấn. 4. Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hoà giải ở cơ sở Công chức tư pháp ­ hộ tịch cần tham mưu giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã   phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã thường xuyên theo dõi, kiểm tra hoạt   động của tổ  hòa giải, tổ  viên và tổ  trưởng tổ  hòa giải để  nắm tình hình, phát hiện   những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, hoạt động của các tổ  hoà giải và hoà giải   viên; đề xuất với cơ quan tư pháp cấp trên các biện pháp giải quyết.  ­ Nội dung kiểm tra: Kiểm tra tổ chức và hoạt động của các tổ  hòa giải ở cơ sở.  Việc kiểm tra thường xuyên giúp cho cán bộ tư  pháp cấp xã nắm được tình hình, kết   quả tổ chức, hoạt động của các tổ hoà giải và tổ  viên tổ  hòa giải, kịp thời động viên,  khuyến khích tổ chức, cá nhân có cách làm hay, hiệu quả để nhân rộng trên địa bàn; kịp  thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế; phát hiện và chấn chỉnh  những sai sót, bất cập trong thực tiễn hoạt động hoà giải  ở  cơ  sở. Trong quá trình  kiểm tra, công chức tư  pháp ­ hộ tịch cần khơi gợi, lắng nghe những ý kiến đóng góp  từ các tổ viên tổ hòa giải và nhân dân ở địa phương về công tác hoà giải ở cơ sở, từ đó   rút kinh nghiệm, bảo đảm cho sự chỉ đạo, hướng dẫn công tác được sát hợp.  ­ Hình thức kiểm tra: Việc kiểm tra có thể  tiến hành dưới nhiều hình thức khác   nhau, như: kiểm tra theo kế hoạch định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra thông qua chế  độ báo cáo, thống kê của các Tổ hoà giải.  5. Thống kê về tổ chức và hoạt động của tổ hòa giải ở cơ sở Việc thống kê về tổ chức và hoạt động của Tổ hoà giải ở cơ sở được thực hiện  theo Biểu mẫu thống nhất ban hành kèm theo Quyết định số 06/2008/QĐ­BTP ngày 26  tháng 5 năm 2008 của Bộ  trưởng Bộ  Tư  pháp. Các Biểu mẫu thống kê công tác hoà  giải gồm: Biểu mẫu Thống kê về  tổ chức của tổ  hoà giải ở  cơ  sở, Biểu mẫu Thống   kê về kết quả hoà giải của Tổ hoà giải ở cơ sở, Mẫu Sổ theo dõi kết quả hoà giải của   tổ hoà giải ở cơ sở. Sở  Tư  pháp các tỉnh, thành phố  trực thuộc trung  ương có trách nhiệm tổ  chức in   và phát hành các loại biểu mẫu thống kê công tác hòa giải theo đúng nội dung và hình   thức quy định tại các Biểu mẫu ban hành kèm theo Quyết định số 06 nêu trên. 
  9. Công chức tư pháp ­ hộ tịch có trách nhiệm trực tiếp thống kê về tổ chức và hoạt  động hòa giải ở địa phương theo hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên, hướng dẫn   các tổ hòa giải thống kê công tác hòa giải theo biểu mẫu sẽ giúp cho việc theo dõi, thu   thập, tổng hợp, thống kê số  liệu được thống nhất, thuận lợi trong phạm vi cả  nước,   góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở.   6. Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải Việc sơ kết, tổng kết công tác hoà giải ở cơ sở giúp cho các cơ quan quản lý nhà   nước định kỳ nắm được tình hình, kết quả của công tác hoà giải ở cơ sở trên địa bàn,  thấy rõ được  ưu điểm, nhược điểm trong công tác hòa giải, nguyên nhân của những  tồn tại, hạn chế, để  từ  đó có biện pháp khắc phục thích hợp. Đặc biệt, sơ  kết, tổng  kết còn là dịp để trao đổi kinh nghiệm, nghiệp vụ giữa các tổ viên tổ hòa giải. Việc sơ  kết, tổng kết cần đi vào thực chất, tránh hình thức, đảm bảo chất lượng, hiệu quả, tiết  kiệm.         Việc tổ chức sơ kết, tổng kết được tiến hành định kỳ, tuỳ theo tình hình cụ  thể  của địa phương và có thể  tiến hành theo hình thức hội nghị, giao ban chuyên đề  hoặc tổ chức lồng ghép trong sơ kết, tổng kết công tác tư pháp ở địa phương.  Để việc sơ kết, tổng kết đạt được kết quả thiết thực, công chức tư pháp ­ hộ tịch  cần tham mưu giúp Chủ  tịch Uỷ  ban nhân dân cấp xã phối hợp với Uỷ  ban Mặt trận  Tổ quốc cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận chuẩn bị kỹ nội dung và kinh   phí phục vụ cho hoạt động sơ kết, tổng kết.  7. Tổ chức thi đua, khen thưởng trong công tác hòa giải ở cơ sở Thực hiện khen thưởng trong công tác hoà giải  ở  cơ  sở  là hình thức động viên,  khuyến khích các tổ hoà giải và tổ viên tổ hòa giải tham gia tích cực vào công tác hoà   giải. Vì đối tượng tham gia hoà giải  ở  cơ sở là những người tự  nguyện, không vì lợi   ích kinh tế, họ thường là những người đang công tác ở cơ sở hoặc những người đã cao   tuổi, về  nghỉ  hưu; giá trị  tinh thần đối với họ  có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do đó,  công tác thi đua, khen thưởng cần lưu ý đặc biệt đến điểm này. Việc phát động phong  trào thi đua có thể gắn với từng chủ đề  hoặc gắn với hội thi hoà giải viên giỏi. Việc  khen thưởng cần phải công bằng, kịp thời, đúng đối tượng. Kết hợp hài hoà giữa việc  thưởng về  vật chất, khen về tinh thần để  khuyến khích người được khen thưởng và  người chưa được khen thưởng. Cần tránh việc khen thưởng hình thức qua loa, hình   thức, không công bằng, không đúng đối tượng,… làm mất đi ý nghĩa của công tác thi  đua, khen thưởng. Để thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng, công chức tư pháp ­ hộ tịch phải  bám sát thực tế, theo dõi, nắm rõ tình hình tổ chức và hoạt động của các tổ hòa giải và   các tổ  viên tổ  hòa giải để  có hình thức khen thưởng thích hợp (khen thưởng định kỳ,   khen thưởng đột xuất); đồng thời, trên cơ sở hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan tư pháp  cấp trên, cần cụ  thể hoá những điều kiện, tiêu chuẩn cụ  thể  để  khen thưởng các tập   thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải ở địa phương. Công chức tư  pháp ­ hộ  tịch có trách nhiệm phối hợp với Ban công tác Mặt trận  lập danh sách người được khen thưởng trên cơ  sở  bình xét trong các tổ  hòa giải, giới  
  10. thiệu các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải ở cơ sở để đề  nghị  Chủ  tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã khen thưởng hoặc trình Chủ  tịch Uỷ  ban nhân   dân cấp trên khen thưởng.  8. Lập dự toán và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác hoà giải ở cơ sở Kinh phí chi cho các hoạt động hoà giải ở cơ sở hiện được quy định tại Thông tư  liên tịch số 73/2010/TTLT­BTC­BTP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Bộ Tài chính và Bộ  Tư  pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử  dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho  công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.  Hàng năm, vào thời điểm lập dự toán ngân sách ở địa phương, cán bộ tư pháp cấp  xã có trách nhiệm lập dự toán kinh phí dành cho công tác hoà giải ở cơ sở, công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật cùng với dự toán chi thường xuyên của đơn vị gửi cơ quan tài   chính cùng cấp để tổng hợp trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, giao dự toán ngân sách  hàng năm cho đơn vị. Các nội dung chi cho công tác hòa giải  ở  cơ  sở  được quy định tại Thông tư  liên   tịch số 73/2010/TTLT­BTC­BTP bao gồm: ­ Chi thù lao hoà giải viên; ­ Chi sơ kết, tổng kết các hoạt động hoà giải; ­ Chi thi đua, khen thưởng; ­ Chi mua tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ cho hoà giải viên, chi in ấn các biểu   mẫu, sổ sách, báo cáo. Việc lập dự  toán, quản lý, cấp phát, thanh toán và quyết toán kinh phí thực hiện  theo đúng các quy định tại Thông tư số 59/2003/TT­BTC ngày 23 tháng 6 năm 2003 của   Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ­CP ngày 06 tháng 6 năm  2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước   qua Kho bạc nhà nước. Thực tế  cho thấy, do ngân sách còn hạn chế  hoặc do chưa nhận thức được ý  nghĩa,   vai   trò   của   công   tác   hoà   giải   ở   cơ   sở,   nên   mặc   dù   Thông   tư   liên   tịch   số  73/2010/TTLT­BTC­BTP được ban hành, hướng dẫn việc lập, quản lý, sử  dụng và  quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật (trong đó có  kinh phí chi cho công tác hoà giải  ở  cơ  sở) nhưng nhiều địa phương vẫn chưa bố  trí  được kinh phí phục vụ công tác hoà giải. Để có kinh phí dành cho công tác hoà giải ở  cơ  sở  đòi hỏi công chức tư  pháp ­ hộ  tịch phải chủ  động trong việc lập dự  toán và  tranh thủ sự ủng hộ, tạo điều kiện của cơ quan có thẩm quyền. II. NGHIỆP VỤ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1. Khái niệm hoà giải ở cơ sở Trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày, do sự  khác biệt về  lợi ích kinh tế, nhận   thức, lối sống, tính cách… nên khó tránh khỏi những va chạm, xích mích, mâu thuẫn,   tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, trong họ tộc hoặc giữa cá nhân với nhau  trong cộng đồng dân cư. Những mâu thuẫn, tranh chấp này nếu không giải quyết kịp  
  11. thời thì từ  mâu thuẫn nhỏ  sẽ thành mâu thuẫn lớn, từ  tranh chấp thuần tuý dân sự  có   thể  trở  thành vụ  án hình sự, gây mất đoàn kết trong nội bộ  nhân dân. Những mâu   thuẫn, tranh chấp này có thể  giải quyết bằng nhiều cách (các bên tự  thỏa thuận, giải  quyết tại Tòa án nhân dân, thông qua hòa giải ở cơ sở…). Thực tế  cho thấy, hòa giải  ở  cơ  sở  là một trong những hình thức quan trọng có  hiệu quả để giải quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư.  Điều 127 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “Ở  cơ  sở, thành lập các tổ  chức thích hợp  của nhân dân để  giải quyết những vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ  trong   nhân dân theo quy định của pháp luật”.  Cụ thể hóa Hiến pháp, Điều 1 Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải năm  1998 và Điều 2 Nghị  định số  160/1999/NĐ­CP quy định: Hòa giải  ở  cơ  sở  là việc  hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự  nguyện   giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết  trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt   đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo  đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hòa giải ở cơ sở được thực hiện   thông qua hoạt động của tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở  thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư (như hòa giải trong họ tộc, hòa giải  của các tổ  chức đoàn thể  xã hội…) phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong   tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân. 2. Ý nghĩa, vai trò của công tác hoà giải ở cơ sở Với hiệu quả  thiết thực của mình, công tác hoà giải  ở  cơ  sở  thực sự  có vai trò   quan trọng trong đời sống cộng đồng ở cơ sở.  Thứ nhất, việc hòa giải những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ ở cơ sở  đã góp phần giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm  và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng, phòng ngừa, hạn chế  vi  phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Thứ  hai, hoạt động hoà giải  ở  cơ  sở  góp phần tích cực trong việc hạn chế  đơn   thư  khiếu nại, tố  cáo tràn lan, vượt cấp, kéo dài. Mỗi vụ  việc xảy ra  ở  cơ  sở, nếu   được hoà giải, giải quyết kịp thời sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của   chính các bên tranh chấp, cũng như  của các cơ  quan nhà nước như  chính quyền địa  phương, toà án. Thứ  ba, hoạt động hoà giải  ở  cơ  sở  có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phổ  biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Bằng việc vận dụng những quy định của pháp   luật để  giải thích, phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp, tổ  viên tổ  hoà giải góp  phần nâng cao hiểu biết pháp luật và quan trọng hơn là cảm hoá, giáo dục ý thức   nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật cho các bên. 3. Tổ chức hòa giải ở cơ sở 3.1. Tổ hòa giải ở cơ sở
  12.  Điều 7 Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở  cơ sở quy định: “Tổ  hoà   giải ở cơ sở là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ  dân phố  và các cụm dân cư  khác để  thực hiện hoặc tổ  chức thực hiện việc hoà giải  những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp   luật”. Như vậy, về bản chất tổ hòa giải là một tổ chức tự quản của nhân dân. Tính chất  tự  quản của tổ hoà giải thể hiện  ở  chỗ các tổ  viên tổ  hoà giải là những người được  nhân dân bầu và họ tự điều hành, quản lý công việc của mình. Tổ hoà giải có tổ trưởng và các tổ viên do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường,   thị trấn phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận lựa chọn, giới thiệu để nhân  dân bầu và do Uỷ ban nhân dân cùng cấp công nhận. Số  lượng tổ  viên tổ  hoà giải không  ấn định cụ  thể. Tuy nhiên, mỗi tổ  hoà giải   phải có ít nhất 3 tổ viên trở lên. Tổ hoà giải có thể được thành lập ở từng thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và cũng   có thể được thành lập ở những cụm dân cư khác như các chợ cố định, tụ điểm du lịch,   vui chơi giải trí.  3.2. Tổ viên tổ hòa giải Tổ viên tổ hòa giải do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã phối hợp với các tổ chức  thành viên của Mặt trận đề cử hoặc tự mình ứng cử vào danh sách bầu tổ viên tổ hòa   giải để  nhân dân bầu và được Uỷ  ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận. Tổ  viên tổ  hòa giải là công dân từ  18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự, nghĩa là có  khả năng bằng chính hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự và có   các tiêu chuẩn sau: ­ Có phẩm chất đạo đức tốt, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, chính sách của  Đảng, pháp luật của Nhà nước và có uy tín trong nhân dân; ­ Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; ­ Tự nguyện tham gia tổ chức hòa giải, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong  công tác hòa giải. Tổ viên tổ hòa giải có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: ­ Hoà giải các vụ việc theo quy định của pháp luật. Không phải bất kỳ một tranh chấp, vụ việc vi phạm pháp luật nào xảy ra tại địa  bàn là hoà giải viên cũng có quyền hoà giải. Pháp luật quy định cụ  thể  nhóm vụ  việc   được hoà giải và những việc không được hoà giải ở cơ sở (được trình bày trong phần   “Phạm vi hoà giải”). Tổ viên Tổ hoà giải phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy định này. ­ Mục tiêu hướng tới của hoà giải là giúp người dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp   luật, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật xảy ra.   Đối với hoà giải viên, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng so với trực tiếp thực   hiện hoà giải là thông qua hoạt động hoà giải, tuyên truyền, vận động nhân dân nghiêm   chỉnh chấp hành pháp luật.
  13. Để  làm được điều này, đòi hỏi hoà giải viên phải có kiến thức pháp luật không   chỉ liên quan đến vụ việc mình hoà giải mà còn cần có hiểu biết pháp luật trong nhiều   lĩnh vực khác nhau, nhất là những lĩnh vực gắn với cuộc sống ở địa phương và luôn có   ý thức kết hợp việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho nhân dân trong quá trình hoà   giải. ­ Đối với những tranh chấp không thuộc phạm vi hoà giải có thể ảnh hưởng đến   trật tự, an ninh ở địa phương, thì tổ viên Tổ hoà giải phải báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp   xã để xem xét và có biện pháp giải quyết. 3.3. Tổ trưởng tổ hoà giải  Tổ trưởng tổ hòa giải do các tổ  viên tổ  hòa giải bầu. Tổ trưởng tổ hòa giải phụ  trách Tổ  hòa giải, đồng thời, tham gia hoạt động hòa giải với tư  cách tổ  viên tổ  hòa   giải. Tổ trưởng tổ hòa giải có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: ­ Phân công, điều hoà, phối hợp hoạt động của tổ viên Tổ hoà giải; ­ Phối hợp với các tổ hoà giải trong việc nâng cao nghiệp vụ và trong hoạt động  hoà giải tranh chấp liên quan đến địa bàn hoạt động của các tổ hoà giải đó; ­ Tổ  chức các cuộc họp định kỳ  và đột xuất để  rút kinh nghiệm về  công tác hoà  giải và đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp xã các biện pháp nâng cao hiệu quả của công   tác hoà giải, cung cấp tài liệu và các thông tin nâng cao nghiệp vụ hoà giải; ­ Báo cáo định kỳ và đột xuất về công tác hoà giải cho Uỷ ban nhân dân cấp xã và   Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp; ­ Đại diện cho Tổ  hoà giải trong quan hệ  với Trưởng thôn, xóm, bản,  ấp, Tổ  trưởng tổ dân phố, cụm dân cư và với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị  ­ xã hội   ở cơ sở. 4. Phạm vi hoà giải Phạm vi hoà giải được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh về  Tổ  chức và hoạt động  hòa giải ở cơ sở và Điều 4 Nghị định số 160/1999/NĐ­CP. 4.1. Những việc được hoà giải Hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả  thuận, tự  nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp  nhỏ. Như vậy, không phải tất cả mọi vụ việc xảy ra  ở địa bàn thôn, xóm, bản, ấp, tổ  dân phố, cụm dân cư đều có thể được tiến hành hoà giải. Theo quy định của pháp luật   chỉ những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ  mới được hoà giải ở  cơ  sở. Phạm vi  “nhỏ” của tranh chấp không phải là về giá trị  vật chất của tranh chấp. Các tranh chấp  và vi phạm pháp luật được hoà giải ở cơ sở không yêu cầu phải được giải quyết theo   các trình tự, thủ  tục tố tụng bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ  quan   tiến hành tố  tụng. Mặc dù các vi phạm, tranh chấp không gây hậu quả  nghiêm trọng 
  14. ngay tức thì nhưng nếu không được giải quyết dứt điểm sẽ dẫn đến mất ổn định trật   tự trong nội bộ nhân dân. Với sự giúp đỡ  của hoà giải viên, các bên tranh chấp có thể  thoả thuận, giải quyết mâu thuẫn dựa trên cơ sở tình cảm (gia đình, làng xóm), các quy  tắc đạo đức, luân lý, tập quán, phong tục tốt đẹp ở địa phương, nhằm giữ gìn đoàn kết   trong nội bộ  nhân dân, phòng ngừa, hạn chế  vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an  toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Hoà giải được tiến hành đối với việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong   cộng đồng dân cư giữa các thành viên trong một hộ gia đình, các hộ  gia đình với nhau  hoặc các cá nhân với nhau. Cụ thể: ­ Mâu thuẫn, xích mích giữa các cá nhân với nhau: Trong cuộc sống hàng ngày, có   thể  nảy sinh mâu thuẫn, xích mích giữa các thành viên trong gia đình như  cha mẹ  và   con cái, ông bà với các cháu, giữa anh, chị, em do khác nhau về  quan niệm sống, lối   sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn, xích mích giữa các cá nhân trong quan hệ  xóm giềng như sử dụng lối đi qua nhà, sử  dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ,  giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung...;  ­ Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ  quan hệ  dân sự  như  tranh chấp phát  sinh từ  các quan hệ  về  tài sản, quan hệ  hợp đồng dân sự, nghĩa vụ  dân sự, thừa kế,   quyền sử dụng đất (thực hiện nghĩa vụ  khi vay, mượn tài sản, tranh chấp đối với gia   súc, gia cầm bị thất lạc, tranh chấp giữa những người được hưởng thừa kế…). ­ Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như thực  hiện các quyền và nghĩa vụ  của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ  của cha mẹ  và con;  nhận nuôi con nuôi; ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng.  Hoà giải viên chỉ  có quyền thuyết phục, giải thích để  các bên có tranh chấp tự  nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ  của mình như  vợ  chồng tôn trọng lẫn nhau,   giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt…; nghĩa vụ và quyền chăm sóc,  nuôi dưỡng, nghĩa vụ  và quyền giáo dục giữa cha mẹ  và con cái, nghĩa vụ  và quyền  của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, nghĩa vụ và quyền của anh, chị, em, nghĩa vụ và  quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con  nuôi… Đối với việc ly hôn, hoà giải viên thực hiện việc hoà giải, giúp đôi vợ, chồng   tự  hàn gắn tình cảm, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Hoà giải viên không được phép giải  quyết, phân xử việc ly hôn: cho vợ, chồng ly hôn hay ép buộc họ không được ly hôn. ­ Tranh chấp phát sinh từ  những việc vi phạm pháp luật mà theo quy định của   pháp luật, những việc vi phạm đó chưa đến mức bị xử lý bằng biện pháp hình sự hoặc   biện pháp hành chính. Hoà giải viên thực hiện hoà giải những việc như trộm cắp vặt   (rau, quả  trong vườn, một số đồ  dùng sinh hoạt có giá trị  không lớn), đánh, chửi nhau  gây mất trật tự  công cộng, đánh nhau gây thương tích nhẹ, va quệt xe cộ gây thương  tích nhẹ. Tuy nhiên, nếu các bên tranh chấp thường xuyên để xảy ra xô xát, đánh, chửi  nhau gây mất trật tự trong cộng đồng dân cư thì tổ  hoà giải phải báo với chính quyền  để có biện pháp xử lý kịp thời. 4.2. Những việc không được tiến hành hoà giải
  15. Có những vụ việc tổ hoà giải không được phép tiến hành hoà giải. Những trường  hợp này đều phải do cơ  quan nhà nước có thẩm quyền xử  lý hoặc phải được xử  lý   theo các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, cụ thể: a) Các tội phạm hình sự Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,   do người có năng lực trách nhiệm hình sự  thực hiện một cách cố  ý hoặc vô ý, xâm  phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ  Tổ  quốc, xâm phạm chế độ  chính trị, chế  độ  kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,   quyền, lợi ích hợp pháp của tổ  chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân   phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những   lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ  nghĩa. Các tội phạm được quy định cụ  thể  trong Bộ  luật Hình sự  năm 1999 từ  Chương XI đến Chương XXIV (Phần các tội  phạm). Riêng đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự  mà người bị  hại đã không   yêu cầu hoặc rút yêu cầu khởi tố  vụ  án hình sự  theo quy định của Bộ  luật Tố  tụng  hình sự, Viện kiểm sát hoặc Toà án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và không bị  cơ  quan nhà nước có thẩm quyền xử  lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp  luật đối với các hành vi như: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của   người khác thì có thể hoà giải; b) Hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý vi phạm hành chính ­ Hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức   truy cứu trách nhiệm hình sự  và theo quy định của pháp luật phải bị  xử  lý vi phạm   hành chính; ­ Hành vi vi phạm pháp luật về  an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến   mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị  áp dụng các  biện pháp xử  lý vi phạm hành chính như: giáo dục tại xã, phường, thị  trấn; đưa vào   trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành  chính. c) Các vi phạm pháp luật và tranh chấp mà theo quy định của pháp luật không   được hoà giải, bao gồm: ­ Kết hôn trái pháp luật: theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì  kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ  vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi  phạm các điều kiện kết hôn, cụ thể: nam, nữ chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn (nam dưới  20 tuổi, nữ  dưới 18 tuổi); việc kết hôn do một hoặc cả  hai bên bị  ép buộc, lừa dối,   cưỡng ép hoặc bị  cản trở; việc kết hôn thuộc một trong những trường hợp cấm kết   hôn khi nam, nữ là người đang có vợ hoặc có chồng, người mất năng lực hành vi dân   sự, giữa những người có dòng máu trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha, mẹ  nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con   dâu, mẹ  vợ  với con rể, bố  dượng với con riêng của vợ, mẹ  kế  với con riêng của   chồng, giữa những người cùng giới tính.
  16. ­ Các vi phạm gây thiệt hại đến tài sản nhà nước: người nào có nhiệm vụ  trực   tiếp trong công tác quản lý tài sản Nhà nước, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư  hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên  thì bị xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (tội thiếu trách nhiệm  gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước). ­ Tranh chấp phát sinh từ giao dịch trái pháp luật: giao dịch dân sự trái pháp luật là   giao dịch không đủ  các điều kiện có hiệu lực của giao dịch theo quy định của pháp  luật, cụ thể:  + Người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự  (người chưa thành   niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự); + Mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo  đức xã hội; + Người tham gia giao dịch bị lừa dối, ép buộc; + Không đảm bảo hình thức giao dịch khi pháp luật có quy định về hình thức đối  với loại giao dịch đó. ­ Tranh chấp về  lao động: tranh chấp về  lao động bao gồm tranh chấp giữa cá   nhân người lao động hoặc tập thể  người lao động với người sử  dụng lao động về  quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao   động khác, về  thực hiện hợp đồng lao động, thoả  ước tập thể  và trong quá trình học  nghề. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động gồm: + Đối với tranh chấp lao động cá nhân: Hội đồng hoà giải lao động cơ  sở  hoặc  hoà giải viên lao động của cơ  quan lao động cấp huyện nơi không có Hội đồng hoà  giải lao động cơ sở, Toà án nhân dân; + Đối với tranh chấp lao động tập thể: Hội đồng hoà giải lao động cơ  sở  hoặc   hoà giải viên lao động của cơ  quan lao động cấp huyện đối với những nơi không có   Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh, Toà án nhân  dân.  5. Nguyên tắc hoà giải Nguyên tắc hòa giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi thực hiện hoạt   động hòa giải, người tiến hành hòa giải phải tuân thủ  một cách đầy đủ, toàn diện và  nghiêm túc. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về  Tổ  chức và  hoạt động hòa giải ở cơ sở. 5.1. Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,   đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân Khi thực hiện nhiệm vụ  của mình, hoà giải viên phải luôn dựa vào đường lối,   chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để  giải quyết tranh chấp giữa các bên,   coi đó là cơ sở suốt quá trình hoà giải, không được giải thích tuỳ tiện, theo ý chủ quan.  Để có thể  vận dụng một cách linh hoạt các quy định của pháp luật trong từng trường  hợp cụ thể đòi hỏi người hoà giải phải nắm vững các quy định về  quyền và nghĩa vụ 
  17. của công dân trong một số lĩnh vực như: hôn nhân và gia đình (chủ trương về xây dựng  gia đình văn hoá, những nguyên tắc cơ  bản của chế  độ  hôn nhân và gia đình, các quy   định về điều kiện kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, nghĩa vụ  và quyền của cha mẹ  và con, quan hệ giữa anh, chị, em và các thành viên trong gia đình…), dân sự (năng lực  hành vi dân sự  của cá nhân, các quyền nhân   thân, giao dịch dân sự, quyền sở  hữu,  nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…), đất đai, bảo vệ môi trường,  hình sự… Việc hòa giải phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật về  phạm vi hòa giải   (không “vượt quá phạm vi hòa giải”). Một thực tế đã xảy ra  ở  một số nơi (nhất là ở  nông thôn), người tiến hành hòa giải ở cơ sở đã vận dụng hòa giải một cách tuỳ tiện,   tiến hành thực hiện hòa giải những vụ  việc mà theo quy định của pháp luật không  được hòa giải như  hành vi vi phạm pháp luật phải bị  xử  lý về  mặt hành chính hoặc   truy cứu trách nhiệm hình sự.  Tuy nhiên, hoà giải không phải là việc phân xử, phán xét nên nếu chỉ  đưa ra   những quy định của pháp luật thì chưa thể  “gỡ  rối” sự  việc. Người Việt Nam vốn   sống trọng tình, nặng nghĩa. Vì vậy, cho dù các mâu thuẫn có gay gắt đến đâu thì giữa  các bên tranh chấp vẫn còn một sợi dây gắn bó, đó là cái nghĩa giữa các thành viên  trong gia đình, là cái tình xóm giềng “tối lửa, tắt đèn”. Một trong những yếu tố  quan  trọng làm nên thành công của hoà giải là việc hoà giải viên dựa vào các chuẩn mực   đạo đức, các phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương để  động viên, khuyên nhủ  các bên dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp. Việc vận dụng các câu ca dao, tục ngữ, phong   tục, tập quán phải có sự chọn lọc cho phù hợp, phải là phong tục tập quán tốt đẹp, phù  hợp với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân,  tránh các giáo lý, hủ tục lạc hậu. 5.2. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên tranh   chấp phải tiến hành hoà giải Nhiệm vụ  của hoà giải viên là thuyết phục, giúp các bên tranh chấp tìm được  tiếng nói chung để  tự  dàn xếp mâu thuẫn một cách  ổn thỏa. Vì lẽ  đó, trước hết hoà  giải viên phải tôn trọng sự  tự  nguyện của các bên, tôn trọng ý chí của họ. Hòa giải   viên chỉ đóng vai trò là người trung gian hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên giải   quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải chứ  không áp đặt, bắt buộc các bên phải   tiến hành hòa giải. Nếu các bên không chấp nhận việc hoà giải thì hoà giải viên không   thể dùng ý chí chủ quan của mình mà bắt buộc họ phải tiến hành hoà giải. Lúc này tổ  hoà giải có trách nhiệm báo với cơ  quan nhà nước có thẩm quyền để  xử  lý kịp thời.  Kể cả trường hợp hoà giải thành, nếu việc thực hiện thoả thuận giữa các bên có khó   khăn thì hoà giải viên động viên, thuyết phục các bên thực hiện thoả  thuận và có thể  đề  nghị  Trưởng thôn, xóm, bản,  ấp, tổ  dân phố  hoặc kiến nghị  với Uỷ  ban nhân dân   cấp xã tạo điều kiện để  các bên tự  nguyện thực hiện thoả  thuận đã đạt được mà   không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành những thoả thuận của họ, bởi họ vẫn có  quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của họ. Vì vậy, mọi 
  18. tác động đến sự tự do ý chí của các bên như cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa   dối hay nhầm lẫn đều không thể hiện đầy đủ tính tự nguyện của các bên. 5.3. Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các   bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm   phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng Khi thực hiện hoà giải, hoà giải viên phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công  minh nhằm bảo đảm giải quyết tranh chấp một cách công bằng, bình đẳng, quan tâm  đến lợi ích của các bên tranh chấp. Là người trung gian, hoà giải viên không được thiên  vị, không định kiến hay nể nang bên nào, không “dĩ hòa vi quý” cho xong việc.  Sự  khách quan, công minh, vô tư  của người hòa giải mới tạo được lòng tin của   các bên để họ lắng nghe, tiếp thu ý kiến khuyên giải của hoà giải viên, trên cơ  sở đó   tự thỏa thuận, giải quyết với nhau những mâu thuẫn, tranh chấp. Hoạt động hoà giải ở cơ sở đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc có lý, có tình, nghĩa   là hoà giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội. Trước hết cần đề cao yếu   tố tình cảm, dựa vào đạo đức xã hội để phân tích, khuyên nhủ các bên ứng xử phù hợp  với chuẩn mực đạo đức: như  con cái phải có hiếu với cha mẹ; anh chị  em phải biết  thương yêu, đùm bọc lẫn nhau “như thể tay chân”, “chị ngã, em nâng”, “máu chảy ruột   mềm”, “môi hở  răng lạnh”; vợ chồng sống với nhau phải có tình, có nghĩa, “đạo vợ,   nghĩa chồng”, “gái có công, chồng chẳng phụ”, tất cả vì con cái; xóm giềng thì “tối lửa   tắt đèn có nhau”, “vắng anh em xa có láng giềng gần” và “thương người như  thể  thương thân”… Cùng với việc giải thích, thuyết phục các bên ứng xử phù hợp với các   quy tắc đạo đức xã hội, hoà giải viên phải dựa vào pháp luật để phân tích, tư vấn pháp  luật, đưa ra những lời khuyên và hướng dẫn các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ  của mình theo quy định của pháp luật nhằm giữ  gìn đoàn kết trong nội bộ  nhân dân,   củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và   cộng đồng, phòng ngừa, hạn chế  vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội   trong cộng đồng dân cư. Để  thực hiện hoà giải thành, hoà giải viên phải tìm hiểu rõ ngọn ngành của vụ  việc: nguyên nhân phát sinh, diễn biến của vụ  việc, thái độ  của các bên…. Trong số  các thông tin cần thiết đó, đôi khi có những thông tin liên quan đến bí mật đời tư  của  các bên tranh chấp. Khi được các bên tranh chấp tin tưởng và thổ lộ thông tin thầm kín  về  đời tư  của mình cho hòa giải viên, thì hoà giải viên cần tôn trọng và không được   phép tiết lộ những thông tin này. ở đây, cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư  cá nhân và những thông tin mà các bên tranh chấp che giấu về  hành vi vi phạm pháp   luật của mình. Ví dụ: Thời gian gần đây, chị B nhận thấy những biểu hiện khác thường ở anh A,  chồng chị.  ở nhà, anh trở  nên lạnh nhạt, ít nói hơn và anh hay cáu gắt với vợ con hơn  trước. Chị  B sinh nghi chồng mình có quan hệ  với người phụ  nữ  khác, hai vợ  chồng   thường to tiếng với nhau. Chị B ôm con về nhà mẹ đẻ.   Giả thiết xảy ra hai trường hợp sau:
  19. Trường hợp thứ nhất: Sau khi gặp gỡ anh A, hoà giải viên biết được nguyên nhân  sự  thay đổi tính tình, thái độ  với vợ  con của anh A. Do một lần tụ  tập với bạn bè,  không làm chủ được bản thân anh đã có quan hệ với một tiếp viên ở nhà hàng. Khi biết   tin cô gái này bị HIV, anh A vô cùng lo lắng là mình cũng đã bị lây nhiễm. Anh vừa lo   sợ  cho bản thân, vừa thấy ân hận với vợ  con nhưng không biết phải làm thế  nào.  Trong trường hợp này hoà giải viên nên khuyên anh A đi xét nghiệm và không được  phép tiết lộ  thông tin anh A có thể  bị  lây nhiễm HIV vì thông tin này có thể  làm ảnh   hưởng xấu tới cuộc sống của bản thân anh A cũng như gia đình anh. Trường hợp thứ hai: Sau khi tìm hiểu sự việc, hoà giải viên biết được việc anh A   đang có quan hệ tình cảm với một người phụ nữ khác, thưòng xuyên qua lại nhà người  phụ  nữ  đó. Đây chính là nguyên nhân mà anh có thái độ  lạnh nhạt với vợ con. Trong   trường hợp này hành vi của anh A là vi phạm quy định của pháp luật hôn nhân và gia  đình. Bên cạnh đó, việc hòa giải phải tuân thủ  nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích   hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng,  nghĩa là việc hoà giải không chỉ nhằm giải quyết tranh chấp, bảo vệ, khôi phục quyền   và lợi ích của các bên mà còn phải bảo đảm lợi ích chung của xã hội, của Nhà nước và   của người khác. Trong mọi trường hợp, hoà giải viên không chỉ  giúp các bên giải  quyết tranh chấp mà còn góp phần giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân.  Khi hướng dẫn các bên thoả thuận giải quyết tranh chấp không được trái với quy định  của pháp luật và không làm thiệt hại đến lợi ích của người thứ  ba, lợi ích của Nhà  nước, lợi ích công cộng.  Đối với hoà giải ở cơ sở, các tranh chấp, xích mích trong đời sống sinh hoạt hàng   ngày liên quan đến sử dụng lối đi qua nhà, sử  dụng điện, nước sinh hoạt, đổ  rác thải  làm mất vệ  sinh môi trường,... trong cộng đồng dân cư  thường liên quan đến nhiều   người khác ngoài các bên tranh chấp. Hoà giải viên không thể  vì mục đích đạt được   hoà giải thành của các bên tranh chấp mà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp  của bất kỳ  người nào khác. Mặt khác, đối với các trường hợp xích mích, tranh chấp  liên quan đến quyền và lợi ích của người khác như  thường thấy trong đời sống sinh   hoạt hàng ngày, cần phải vận dụng đến đạo lý, tình cảm để khơi dậy tinh thần tương  thân, tương ái nhằm cảm hoá, thuyết phục các bên tranh chấp hoà giải đạt được kết  quả. 5.4. Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế   những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày có thể  xảy ra những va chạm, xích mích,   tranh chấp nhỏ giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc, hàng xóm… với nhau mà nếu   không được giải quyết kịp thời, có lý, có tình thì có thể từ những va chạm, xích mích,   mâu thuẫu nhỏ sẽ dễ trở thành những mâu thuẫn lớn. Từ những tranh chấp, mâu thuẫn  trong quan hệ dân sự, hôn nhân ­ gia đình có thể chuyển thành vụ án hình sự…. Vì vậy,  hòa giải viên cần chủ động, kịp thời tiến hành hòa giải, ngăn chặn hậu quả xấu, phòng 
  20. ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự có thể xảy ra, giữ gìn tình đoàn kết trong  gia đình, cộng đồng.  Khác với các loại hình hoà giải khác, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành   việc hoà giải một tranh chấp do Tổ hoà giải thực hiện. Việc hoà giải chỉ kết thúc khi   các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. Thực tiễn hoạt  động hoà giải cho thấy có nhiều việc tranh chấp trong cộng đồng dân cư diễn ra trong   một thời gian dài, đòi hỏi hoà giải viên phải kiên trì, dành thời gian, công sức tìm hiểu   kỹ  sự  việc, theo dõi sát diễn biến sự  việc để  có những biện pháp tiếp cận được với   các bên tranh chấp, tìm được phương thức hoà giải phù hợp nhất. Hòa giải viên có thể  đến gặp gỡ từng bên để lắng nghe, thuyết phục. Sau khi tìm hiểu đầy đủ sự việc, lắng  nghe ý kiến của các bên, người hòa giải phải bằng tất cả sự cảm thông, khéo léo phân  tích, thuyết phục các bên đạt tới thỏa thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội.  Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, việc hoà giải có thể  phải kéo dài trong nhiều tháng   hoặc lâu hơn cho đến khi các bên đạt được thoả  thuận và tự  nguyện thực hiện thỏa   thuận đó. 6. Trình tự tiến hành hoà giải  Từ thực tiễn hoạt động hòa giải có thể tổng kết các bước tiến hành hòa giải các   mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân như sau: 6.1. Bước 1: Trước khi hoà giải Khi có vụ  việc tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra, tuỳ  thuộc đối tượng, tính chất vụ  việc, quan hệ gia đình, xã hội… của các bên tranh chấp mà tổ hòa giải nghiên cứu, lựa   chọn, cử người tham gia hòa giải cho phù hợp.   Việc hòa giải có thể do một hoặc một số hòa giải viên tiến hành. Tổ  hòa giải có  thể  tự  quyết định số hòa giải viên tham gia hòa giải đối với từng vụ  việc cụ  thể. Ví  dụ, hoà giải tranh chấp về hôn nhân gia đình nên cử  hoà giải viên là nữ  giới tác động   với bên vợ và cử hoà giải viên nam giới tác động với bên chồng sẽ mang lại kết quả  cao hơn. Đối với những việc tranh chấp tương đối phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên   tương đối gay gắt, sự có mặt của một số hoà giải viên sẽ tác động nhiều hơn đến tâm   lý của các bên tranh chấp, hoặc mỗi hoà giải viên sẽ  đứng ra giải thích, thuyết phục,   cảm hoá từng bên.  Trong trường hợp cần thiết, Tổ hoà giải có thể mời người ngoài tổ hoà giải thực   hiện việc hòa giải hoặc cùng tham gia hoà giải. Người được mời có thể  là người có   trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội, có kinh nghiệm và có uy tín đối với một bên hoặc   các bên tranh chấp. Trong từng trường hợp cụ thể, người được mời có thể  là người   thân thích, bạn bè, người hàng xóm, người cao tuổi, người có uy tín trong cộng đồng,   người biết rõ nguyên nhân tranh chấp.... Trước  khi tiến  hành hòa  giải,  hòa  giải  viên  cần chủ   động,  kịp thời  tìm  hiểu  nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, để  tìm biện pháp khắc phục, không để  việc đơn  giản thành việc phức tạp. Trong trường hợp cần thiết, có thể  hội ý trong tổ  hòa giải 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2