Hi ký - Nhng k nim ngh châm cu thuc nam
Thư ngỏ
Gi những người, nhng miền đất tôi đã mt thi chung sng.
Tp hồi ký “ Những k nim ngh châm cu, thuc nam . là k nim của riêng tư, là lòng yêu mến, kính
trng những người, nhng miền đất tôi đã có một thi chung sng.
Đến ngày nay ai còn, ai đã mất, tôi đều không được biết tin. Miền đất nào còn hoang sơ, nguyên vn, hay
tt c đã đổi thịt, thay da, tôi cũng chưa có dịp ghé qua, thăm lại.
Thấm thoát đã gần 40 năm xa cách, cuộc đời tôi nhiu vt lộn, thăng trầm. Nhưng từ mùa thu năm 2002,
có nhng lúc ni nim tri dy, thúc gic tôi nh đến truyn những ngày xưa. Nỗi nh, niềm thương cứ
xen vào công vic, nên gần 4 năm trôi đi, tôi mới ghi được ngn này. Chng một vài tên ai đó tôi không
còn nh ra đưc, mong k còn, người đã mt, thu cảnh, thương tình mà đại xá cho tôi.
Cúi xin thành tâm kính cáo.
Hà Ni, ngày xuân 2006.
Khiên Ngưu Tử - Lê Văn Sửu.
Li ta
Tp truyn ngắn “ Những k nim ngh thuc nam, châm cứu” này là hồi ký ca một người vn làm
ngh M thut. Ngh M thut của tôi được đào tạo bài bn, chính quy trong một nhà trường danh tiếng
đất ngàn năm văn hiến : Trường Cao đẳng M Thut Vit Nam ( tức trường Đại hc M Thut Hà Ni
ngày nay ).
Tha còn nh, tôi rt ham mê tp v. T khi có ho s thương binh Ngô Thúc Dung về làng ngh dưỡng,
ông dy ch và dy v cho chúng tôi, lòng ham mê hc v trong tôi càng đưc nhân lên gp bi.
Năm 1953, khi vừa đủ tuổi đầu quân, tôi nhập ngũ tại Phòng Quân y Sư đoàn 320, định mnh ngh Y đã
bắt đầu dành cho tôi t đó.
Nhưng thật tr trêu, tôi đâu sớm nhận ra điều y. Sau khi hòa bình lp li, tôi vn còn ham mun ngh v
trong lòng. Giải ngũ về quê được chng một năm rưỡi (1960), tôi đã khăn gói quả p lên Hà Ni, thi
đậu vào trường M Thut Vit Nam.
Định mnh ngh y c lng l bám theo tôi, nó xut hin dn dn, t vic
bn thân tôi mc bnh vặt, tôi đã tự cha cho tôi, rồi đến mọi người nh tôi cha bnh vt cho h. Tôi
va hc ngh M thut, vừa đọc sách Đông y, và tôi chữa bnh theo nhng gì học được trong sách.
Tôi tt nghiệp trường M Thuật, cũng là khi cuộc chiến tranh chng M đã đến hi ác lit (1966), tôi tình
nguyn vào công tác Miền Nam. Hơn 6 tháng trời tôi đi trên đường Trường Sơn, tiếp theo là gn tròn 6
năm ở vùng
Cc Nam Trung B. Thy có mt tôi đâu, lập tc cán b quân y, dân y đều vui v vi tôi. Chúng tôi,
khi thì cùng nhau x lý mt bệnh khó, nhưng không có thuốc đặc hiệu để cha, khi thì h ging gii bnh
học theo sách Tây y cho tôi nghe. Tình nghĩa vi nhau c như tôi đã là đồng nghip ca h t xa xưa rồi,
chng còn gì là cách bit na.
Năm 1972, tôi được lnh tr ra min Bắc an dưỡng. Tới đầu năm 1974, sức kho tôi đã tạm phc hi, tôi
v li nghành M thut làm công tác là l đương nhiên, cơ quan t chức nghành và tôi đều d dàng đồng
ý.
Cơ quan tôi mi v làm vic là Cc M thut, chc danh ca tôi là cán sự. Sau đó ít lâu (1978), tôi được
điều động sang Trường Cao đẳng M Thut, làm giảng viên trong khoa Điêu Khắc, nơi trước đó 12 năm,
tôi t đấy ra đi. Cho tới năm 1981, tôi chủ động xin ngh hưu, đề ngh ca tôi lp tức được Giám đốc
trưng chp thun.
Có ai biết được rng, t khi tr v nghành cũ làm công tác, tôi vẫn không
b ngh cha bệnh hàng ngày. Có người ch coi đó là nghề tay trái ca tôi.
Mt s đột biến mi của đời tôi đã sảy ra vào năm 1983. Đó là việc Hc vin Quân y thuc B Quc
Phòng tìm đến tôi. H mời tôi tham gia đề tài cấp nhà nước s 48070203, do khoa Sinh lý Lao động Quân
s ca Hc vin ph trách. H trao cho tôi làm c vn lý luận Phương Đông trong Y học, Võ thut và
ng sinh hc c truyn. T đây, thần định mnh ngh Y đã kéo tôi tuột khi bàn tay v thn cai qun
ngh thut, nhấn sâu đời tôi vào mi công vic ngh y. Thế ri nhng việc đọc sách, làm thc nghim
theo yêu cu của đề tài, dy lý lun, cha bnh, truyn kinh nghim thc hành cha bệnh, tôi đều phi
làm xen k nhau, làm liên tc không ngng.
Khi ảnh hưởng ca công vic tôi làm ngày càng rng m, mt yêu cu mới đã đặt ra cho tôi cn phi tiến
hành ngay. Đó là những kiến gii riêng trong nghiên cu, nhng bài ging lý lun, những phương huyệt
cha bnh hiu qu, tôi gom chúng thành từng chuyên đề, in thành sách, cho phát hành rng rãi.
Nhn thy, trong phần “ những phương huyt kinh nghiệm ” lấy t các b sách quý, tôi đều ghi chép
vào cn thn, khá nhiều. Khi hướng dn tìm huyt trên người tht, tôi luôn nhc v tác dng phi hp
gia huyt này cùng vi mt, hoc nhiu huyệt nào đó, sẽ có thêm nhiu tác dụng khác nhau. Nhưng học
viên d nh nht vn là nhng câu truyn cha bnh c th. Vì thế, tôi nảy ra ý định viết li nhng kinh
nghim ca tôi tiến hành cha bnh đâu đó, trong thời gian hơn 40 năm qua.
Cha bệnh đã là nghề tay trái ca tôi, viết lách v ngh cha bnh li là bên trái ca tay trái tôi. Nhưng tôi
vn c viết. Bi vì mi ln tôi cha cho một người bnh mt vùng khác nhau, hoàn cnh sng ca h
khác nhau, thời gian khác nhau, nhưng tất c đều là k nim sống động, khó quên ca riêng tôi.
Tôi viết li nhng k nim này va là cho riêng tôi, li còn là nhng ví d c th cho người tp cha bnh
bng phép châm cu. Cho nên mi bnh, t chng biu hin, din biến ca chng trạng, đến chẩn đoán
bnh danh, chọn phương huyt, dùng th pháp b hay t, kết qu cha ra sao, tt thảy tôi đều ghi li rt rõ
ràng.
Phải đánh vật vi ch nghĩa, nên văn tôi viết không tránh khi li vn, sai lut. Nhưng những gì v kinh
nghim cha bnh, tôi tht lòng không dám du ngh mà mô t đơn sai.
Đôi lời tâm huyết, mong người đọc sách m lòng.
c gi
Lời đề dn
Sau khi tp hồi ký “Những k nim ngh châm cu, thuốc Nam” của tôi hoàn thành được phần đầu, nhân
ngày 20 tháng 11 năm 2005, tôi đã cho anh ch em môn sinh các khoá sao chép. Tôi cũng sao chép một
s bản, đem tặng bn bè.
Nhng ý kiến phn hi cho biết, 30 câu truyn là 30 bài kinh nghim cha
bnh rt c th, rất có ích cho người trong ngh.
Đầu năm 2006, Hội người cao tui Vit Nam, gi giy mng th 70 tui cho tôi. Tôi cht thy thi gian
còn li đời ca mình rất đáng quý. Tôi phi ghi li những gì trước khi tui già có th làm tôi quên đi.
Mong mun nhng k nim ca cá nhân tôi s đem lại một đôi điều có ích cho mọi người, nên tôi đã ghi
lại được thêm 34 mu truyn nữa, đó cũng là 34 bài kinh nghiệm cha bnh.
Vi 30 truyn tập trước, có thêm 34 truyn tp này, gp li thành 64
truyện. Trong đó, có nội dung ca nhiu mt bnh và phép cha bnh đủ
các khoa: Nam, ph, lão, u, ngoi cm, nội thương ...
Có bn hỏi tôi : “Đã qua hơn 40 năm, chắc hn, s người được ông cha cho khi bnh, không phi ch
64. Nhưng vì sao những chuyn ông viết lại, ông đã dừng con s đó?” Tôi trả li người bn ca tôi
rng : Kinh Dch có 64 qu, mi qu gồm 2 quái, quái thượng và quái h. Mi quái li có 3 hào, v chi
mi qu dch có 6 hào. Do v trí của hào dương, hào âm trong mi quái khác nhau, biến hoá âm dưong
đó làm cho kinh Dịch đủ sc din t mi biến hoá ca vn s, vn vật trong vũ trụ. Người làm tướng, nh
có tài biến hoá âm dương của quân cơ, quân ngũ ở 8 ca trận, nên đã vây hãm được quân địch. Chúng
trong trận đồ t quái trùng trùng, điệp điệp mà không tìm thy li ra. Cui cùng, chúng dành chu bó
giáo quy hàng. 64 câu truyn tôi viết li, tuyệt nhiên không có ý định làm ra y án.Vì đã là y án, tất phi có
dương án, âm án. 64 phương huyệt trong truyện được tôi ng ý như 64 quẻ Dch. Mi huyt trong mt
phương được coi như một hào trong qu dch. Mt huyt trong mỗi phương khác nhau, lại dùng đến tác
dng ch tr khác nhau của nó, như sử dng tính chất âm dương khác nhau ca mi hào, trong mi quái
ca qu Dịch. Nhưng về truyn, li là nhng k nim rất riêng tư, đáng nhớ, nhiu thi gian và hoàn
cnh sng khác nhau của đời tôi.
Trong các truyn k trên, còn một điều tôi tâm đắc là: “Muốn cha bnh bng châm cứu đạt kết qu, phi
chẩn đoán đúng, ly huyệt đúng, và làm thủ
pháp châm kim đúng. Về phía người bnh, cn phải đặt lòng tin vào thy thuc và tuân theo những điều
thy thuốc hưng dẫn kiêng khem trong ăn uống, sinh hot, ngh ngơi...” Những kinh nghiệm tôi đã viết
ra đó, tuy có nói đến các th pháp, nhưng chưa nói cụ th thao tác khác nhau ca tng th pháp khác
nhau. Cho nên cui tp này, tôi trích thêm phần “Thủ pháp b, t của châm kim” trong sách “Cẩm nang
chn tr Đông y – Dùng thuc và châm cứu” đưa vào cho trn vn mong mun ca tôi.
Bạn bè và đồng nghiệp đọc tp hồi ký này, xin cho tôi đôi lời ch giáo.
Tôi tht lòng cm t.
Phn th nht
1 - Cha bnh mt vàng
Mt bui chiều mùa thu năm1965, thủa tôi còn là sinh viên trường Cao đẳng M thut Hà Ni, theo
trường sơ tán về thôn Hữu Định, xã Quang Minh, huyn Hip Hoà, tnh Hà Bắc cũ (phần đất Bc Giang
ngày nay). Trong lúc tôi đang làm việc, bng có ông Tô Duy là bn hc cùng khóa, bên khoa hi ho đến
tìm tôi, nh tôi sang cha bnh cho con gái ch nhà, nơi ông nh.
Khi tôi ti, ông Tô Duy gi cô gái chng 13-14 t trong buồng bước ra. Tôi hơi sửng st, khi nhìn thy
mt cô ta rt l. Lòng trng mắt cô như một tàu lá vàng ươm. Lòng đen mắt cũng đã bắt đầu chm vàng.
Thn ca mắt cũng hơi đờ đẫn. Tôi hỏi ông Tô duy xem ông đã phát hiện ra chng này cô bé t bao
lâu. Ông Tô nói : “Có lẽ chưa đầy mt gi đồng h, bi vì mi xế trưa nay tôi còn thấy mt cô bé rt bình
thường.”
Tôi cht tính rng đây cách bệnh vin huyn trên ph Thắng dài hơn tám cây s đường đồi, tri li sp
ti, cn gp ông ch nhà để bàn cách đưa đưa cô bé đi bệnh vin ngay. Vừa lúc đó thì ông chủ v, tôi lin
nói với ông như quyết định : “Ông đi mượn ngay một cái võng, hai cái xe đạp, chun b
mt cây tre buộc võng, để đưa cô bé đi bệnh vin cho kp thi.”
Trong khi ông ch nhà đi mượn võng và xe đạp, tôi m quyn sách Châm cứu tư sinh kinh, tra đến mc
“Mục hoàng.” Sách viết rằng : “Não hộ, Chí dương, Đảm du, ý xá, tr mục hoàng.” Tôi vi ly kim, sát
trùng ri châm các huyt k trên, lưu kim, vê kim kích thích tả pháp, lần lượt theo đúng thứ t trước sau.
Qua chừng mươi phút, ông chủ nhà và bà con dt v hai xe đạp đã buộc sn võng, da ờng hoa trưc
sân. Cũng lúc ấy, ông Tô Duy reo lên kinh ngạc : “ồ mắt đã trắng tr li rồi.” Chả là khi tôi châm kim,
ông Tô Duy và
vài người na ngồi phía trước mt cô gái, h chăm chú theo dõi đôi mắt ca cô. Nghe tiếng reo y, tôi
cũng ngừng tay vê kim, đứng dậy đi vòng sang phía trước cô gái để quan sát. Qu nhiên thấy đúng như
thế.
Lúc này ông ch và bà con t ngoài sân ùa c vào nhà.Tôi nói vi ông ch mt cách nửa tin tưởng, na dè
chng rằng : “Có lẽ chưa nên đưa em đi bệnh viện ngay lúc này, cũng không nên trả xe đạp và võng. Hãy
đợi ti nay tôi sang châm cho em mt ln na, nếu sáng mai bnh không tr li thì ta có th yên tâm cha
nhà. Nếu thy bnh tr lại, ta đưa em đi bệnh viện cũng còn kịp, vì hin giy thy bnh của em đã
đỡ nhiều.”
Sáng hôm sau tôi sang thăm bệnh cho cô gái, thy mt cô trng và thn thì
trong sáng như chưa có bệnh. Tuy vy tôi vn châm cho cô gái mt ln na,
t đó bệnh khi hn.
Cuối năm 1973, sau khi từ chiến trường Min Nam ra, tôi tr lại thăm thôn Hữu Định, thăm chủ nhà tôi
nhờ, và thăm bà con trong thôn, những người đã giúp đỡ tôi thi gian sơ tán ấy. Trong lúc tôi đang vui
chuyện cũ, mi vi mọi người, cht thy một ông tóc đã muối tiêu nhy vt qua bức tường hoa, t sân
nhà bên ông đi tắt sang cho nhanh. Ông nhìn tôi và hi tôi
: “Anh Sửu còn nh tôi không?.”Rồi không đợi tôi tr li, ông đã nói tiếp :
“Tôi là bố con bé b bnh mắt vàng mà anh đã chữa cho ngày ấy. Cháu đã lấy chng, có con ri . Anh Su
à, sut t đấy đến bây gi mt ca cháu không b vàng li nữa.”
Ngày nay, vi hc viên, mi khi dậy đến bnh gan, mật, tôi thường k li chuyện này để nhc cho hc
viên biết quý b ch Tư sinh kinh. Nhiều phương kinh nghiệm ca c nhân ghi trong sách đó, tôi dùng
cha cho bệnh nhân đều có hiu qu mãn ý. . Tôi cũng không quên nhắc li mt nguyên tc
: Mun khai thác giá tr của phương kinh nghiệm, trước hết, phi khai thác
t mi du huyệt trong phương đó.
Theo phn Du huyt học trong sách này, cũng như ở các b sách dy châm cu khác nói chung, tác dng
ch tr ca huyệt đều được ghi đầy đủ. Các tác dụng đó được quy vào my mặt sau đây :
1- Tác dng vào bnh tng ph bên trong tương ứng vi v trí ca huyt (nếu
huyt nm vùng lưng trên, lưng dưới, ngc, bng).
2- Tác dng vào bnh ti ch, lân cn và những nơi đường kinh đó đi qua. Đồng thi tác dụng đến tng
ph s thuc của đưng kinh đó.
3- Tác dụng đặc hiệu đến nơi có bệnh rt xa (gi là tác dng viễn đạo), hoc bnh những đường kinh
khác, không có quan h tng ph, kinh lc biu lý nhau với đường kinh s thuc.
4- Có nhng huyt không nằm trên đường kinh nào, nhưng lại có tác dụng đặc hiu l lùng, gi là Kinh
ngoi k huyt.
5- Nhiu sách xut bn gần đây, sau những ch tr ca huyt, còn ghi thêm
tác dng phi hp ca huyt, thc cht là những phương kinh nghiệm. Trong đó, có phần tác dng ca
bn huyt góp vào cùng tác dng ca các huyệt khác trong phương.
V tr liu, ta thy : Mt huyt có tác dng ch tr nhiu loi bnh; mt bnh có th dùng nhiu huyệt để
tr. Do vy, một phương trị hiu qu bệnh nào đó, thường là mt tp hp giá tr đặc hiu ca s huyt
trong phương vi bệnh đó.
T đây cho ti hết tp truyn, mỗi phương kinh nghiệm, ta đều cùng nhau phân tích theo cách nêu trên.
Bắt đầu t phương huyệt cha bnh mt vàng này.
- Huyt Não h - Cấm châm đứng kim, cm cu. Cứu làm cho người ta câm. Châm đứng kim vào não là
chết ngay. Phi châm kim luồn dưới da, mũi kim chếch t i lên. Ch tr :... mặt đỏ mt vàng; ,,, -
Huyệt Chí dương. Chủ tr : viêm gan, vm túi mt, giun chui ng mt...vàng da - Huyệt Đảm du - Ch tr
: Viêm gan, viêm túi mt, giun chui ng mt, mát vàng, hoàng đản - Huyt ý xá - Ch tr : bnh gan,
viêm gan, viêm túi mt, mình nóng mt vàng. Tng hp tác dng ch tr ca 4 huyệt trong phương, đã
cho hiu qa cha chng mt vàng rt tốt. Cũng qua đây, ta lại thấy được, các c xưa nhận thức đúng như
khoa hc ngày nay : Chng mt vàng là do bnh gan, mt.
2 - Cha bnh sốt rét sưng lá lách
Mùa thu năm 1966, đoàn cán bộ mang ký hiu K.19 của tôi đi B6, hành
quân trên đường mòn H Chí Minh, đến đa phn binh trm 4.
Theo thường l, hàng ngày, khi ti bãi khách, chúng tôi lo nấu cơm ăn, căng tăng võng nghỉ ngơi. Tối
hôm đó, ông Hiếu, dược s cao cp, công tác trường Đại hc Y Khoa Hà Nội, đi cùng đoàn (bấy gi
chúng tôi thường gi nhau bằng đồng chí, hoặc anh, đến nay ông cũng trạc tui tôi ri, nên tôi gi bng
ông cho phi) ti nói với tôi :“ Đồng chí Su à, tôi va gp mt ông chính u binh trạm 4. Ông là người
đồng hương Hà Tĩnh của tôi. Ông y b sốt rét, lá lách sưng độ bốn, người yếu lắm. Ông đang có cơn sốt
mà vn phi vào binh trm 5 để hp. T hôm nay, ông ấy đi cùng cung đường với đoàn ta. Khi gặp tôi (
tc ông Hiếu ), biết tôi là dược s cao cp chính hiu, lại là đồng hương, ra đi từ Hà Ni, ông y hi tôi