Hồi ký - Những kỷ niệm nghề châm cứu thuốc nam

Thư ngỏ

Gửi những người, những miền đất tôi đã một thời chung sống.

Tập hồi ký “ Những kỷ niệm nghề châm cứu, thuốc nam . là kỷ niệm của riêng tư, là lòng yêu mến, kính trọng những người, những miền đất tôi đã có một thời chung sống.

Đến ngày nay ai còn, ai đã mất, tôi đều không được biết tin. Miền đất nào còn hoang sơ, nguyên vẹn, hay tất cả đã đổi thịt, thay da, tôi cũng chưa có dịp ghé qua, thăm lại.

Thấm thoát đã gần 40 năm xa cách, cuộc đời tôi nhiều vật lộn, thăng trầm. Nhưng từ mùa thu năm 2002, có những lúc nỗi niềm trỗi dậy, thúc giục tôi nhớ đến truyện những ngày xưa. Nỗi nhớ, niềm thương cứ xen vào công việc, nên gần 4 năm trôi đi, tôi mới ghi được ngần này. Chừng một vài tên ai đó tôi không còn nhớ ra được, mong kẻ còn, người đã mất, thấu cảnh, thương tình mà đại xá cho tôi.

Cúi xin thành tâm kính cáo.

Hà Nội, ngày xuân 2006.

Khiên Ngưu Tử - Lê Văn Sửu.

Lời tựa

Tập truyện ngắn “ Những kỷ niệm nghề thuốc nam, châm cứu” này là hồi ký của một người vốn làm nghề Mỹ thuật. Nghề Mỹ thuật của tôi được đào tạo bài bản, chính quy trong một nhà trường danh tiếng đất ngàn năm văn hiến : Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Việt Nam ( tức trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội ngày nay ).

Thủa còn nhỏ, tôi rất ham mê tập vẽ. Từ khi có hoạ sỹ thương binh Ngô Thúc Dung về làng nghỉ dưỡng, ông dạy chữ và dạy vẽ cho chúng tôi, lòng ham mê học vẽ trong tôi càng được nhân lên gấp bội.

Năm 1953, khi vừa đủ tuổi đầu quân, tôi nhập ngũ tại Phòng Quân y Sư đoàn 320, định mệnh nghề Y đã bắt đầu dành cho tôi từ đó.

Nhưng thật trớ trêu, tôi đâu sớm nhận ra điều ấy. Sau khi hòa bình lập lại, tôi vẫn còn ham muốn nghề vẽ trong lòng. Giải ngũ về quê được chừng một năm rưỡi (1960), tôi đã khăn gói quả mướp lên Hà Nội, thi đậu vào trường Mỹ Thuật Việt Nam.

Định mệnh nghề y cứ lặng lẽ bám theo tôi, nó xuất hiện dần dần, từ việc

bản thân tôi mắc bệnh vặt, tôi đã tự chữa cho tôi, rồi đến mọi người nhờ tôi chữa bệnh vặt cho họ. Tôi vừa học nghề Mỹ thuật, vừa đọc sách Đông y, và tôi chữa bệnh theo những gì học được trong sách.

Tôi tốt nghiệp trường Mỹ Thuật, cũng là khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đã đến hồi ác liệt (1966), tôi tình nguyện vào công tác ở Miền Nam. Hơn 6 tháng trời tôi đi trên đường Trường Sơn, tiếp theo là gần tròn 6 năm ở vùng

Cực Nam Trung Bộ. Thấy có mặt tôi ở đâu, lập tức cán bộ quân y, dân y đều vui vẻ với tôi. Chúng tôi, khi thì cùng nhau xử lý một bệnh khó, nhưng không có thuốc đặc hiệu để chữa, khi thì họ giảng giải bệnh học theo sách Tây y cho tôi nghe. Tình nghĩa với nhau cứ như tôi đã là đồng nghiệp của họ từ xa xưa rồi, chẳng còn gì là cách biệt nữa.

Năm 1972, tôi được lệnh trở ra miền Bắc an dưỡng. Tới đầu năm 1974, sức khoẻ tôi đã tạm phục hồi, tôi về lại nghành Mỹ thuật làm công tác là lẽ đương nhiên, cơ quan tổ chức nghành và tôi đều dễ dàng đồng ý.

Cơ quan tôi mới về làm việc là Cục Mỹ thuật, chức danh của tôi là cán sự. Sau đó ít lâu (1978), tôi được điều động sang Trường Cao đẳng Mỹ Thuật, làm giảng viên trong khoa Điêu Khắc, nơi trước đó 12 năm, tôi từ đấy ra đi. Cho tới năm 1981, tôi chủ động xin nghỉ hưu, đề nghị của tôi lập tức được Giám đốc trường chấp thuận.

Có ai biết được rằng, từ khi trở về nghành cũ làm công tác, tôi vẫn không

bỏ nghề chữa bệnh hàng ngày. Có người chỉ coi đó là nghề tay trái của tôi.

Một sự đột biến mới của đời tôi đã sảy ra vào năm 1983. Đó là việc Học viện Quân y thuộc Bộ Quốc Phòng tìm đến tôi. Họ mời tôi tham gia đề tài cấp nhà nước số 48070203, do khoa Sinh lý Lao động Quân sự của Học viện phụ trách. Họ trao cho tôi làm cố vấn lý luận Phương Đông trong Y học, Võ thuật và Dưỡng sinh học cổ truyền. Từ đây, thần định mệnh nghề Y đã kéo tôi tuột khỏi bàn tay vị thần cai quản nghệ thuật, nhấn sâu đời tôi vào mọi công việc nghề y. Thế rồi những việc đọc sách, làm thực nghiệm theo yêu cầu của đề tài, dạy lý luận, chữa bệnh, truyền kinh nghiệm thực hành chữa bệnh, tôi đều phải làm xen kẽ nhau, làm liên tục không ngừng.

Khi ảnh hưởng của công việc tôi làm ngày càng rộng mở, một yêu cầu mới đã đặt ra cho tôi cần phải tiến hành ngay. Đó là những kiến giải riêng trong nghiên cứu, những bài giảng lý luận, những phương huyệt chữa bệnh hiệu quả, tôi gom chúng thành từng chuyên đề, in thành sách, cho phát hành rộng rãi.

Nhận thấy, ở trong phần “ những phương huyệt kinh nghiệm ” lấy từ các bộ sách quý, tôi đều ghi chép vào cẩn thận, khá nhiều. Khi hướng dẫn tìm huyệt ở trên người thật, tôi luôn nhắc về tác dụng phối hợp giữa huyệt này cùng với một, hoặc nhiều huyệt nào đó, sẽ có thêm nhiều tác dụng khác nhau. Nhưng học viên dễ nhớ nhất vẫn là những câu truyện chữa bệnh cụ thể. Vì thế, tôi nảy ra ý định viết lại những kinh nghiệm của tôi tiến hành chữa bệnh ở đâu đó, trong thời gian hơn 40 năm qua.

Chữa bệnh đã là nghề tay trái của tôi, viết lách về nghề chữa bệnh lại là bên trái của tay trái tôi. Nhưng tôi vẫn cứ viết. Bởi vì mỗi lần tôi chữa cho một người bệnh ở một vùng khác nhau, hoàn cảnh sống của họ khác nhau, thời gian khác nhau, nhưng tất cả đều là kỷ niệm sống động, khó quên của riêng tôi.

Tôi viết lại những kỷ niệm này vừa là cho riêng tôi, lại còn là những ví dụ cụ thể cho người tập chữa bệnh bằng phép châm cứu. Cho nên ở mỗi bệnh, từ chứng biểu hiện, diễn biến của chứng trạng, đến chẩn đoán bệnh danh, chọn phương huyệt, dùng thủ pháp bổ hay tả, kết quả chữa ra sao, tất thảy tôi đều ghi lại rất rõ ràng.

Phải đánh vật với chữ nghĩa, nên văn tôi viết không tránh khỏi lỗi vần, sai luật. Nhưng những gì về kinh nghiệm chữa bệnh, tôi thật lòng không dám dấu nghề mà mô tả đơn sai.

Đôi lời tâm huyết, mong người đọc sách mở lòng.

Tác giả

Lời đề dẫn

Sau khi tập hồi ký “Những kỷ niệm nghề châm cứu, thuốc Nam” của tôi hoàn thành được phần đầu, nhân ngày 20 tháng 11 năm 2005, tôi đã cho anh chị em môn sinh các khoá sao chép. Tôi cũng sao chép một số bản, đem tặng bạn bè.

Những ý kiến phản hồi cho biết, 30 câu truyện là 30 bài kinh nghiệm chữa

bệnh rất cụ thể, rất có ích cho người trong nghề.

Đầu năm 2006, Hội người cao tuổi Việt Nam, gửi giấy mừng thọ 70 tuổi cho tôi. Tôi chợt thấy thời gian còn lại ở đời của mình rất đáng quý. Tôi phải ghi lại những gì trước khi tuổi già có thể làm tôi quên đi. Mong muốn những kỷ niệm của cá nhân tôi sẽ đem lại một đôi điều có ích cho mọi người, nên tôi đã ghi lại được thêm 34 mẩu truyện nữa, đó cũng là 34 bài kinh nghiệm chữa bệnh.

Với 30 truyện ở tập trước, có thêm 34 truyện ở tập này, gộp lại thành 64

truyện. Trong đó, có nội dung của nhiều mặt bệnh và phép chữa bệnh ở đủ

các khoa: Nam, phụ, lão, ấu, ngoại cảm, nội thương ...

Có bạn hỏi tôi : “Đã qua hơn 40 năm, chắc hẳn, số người được ông chữa cho khỏi bệnh, không phải chỉ có 64. Nhưng vì sao những chuyện ông viết lại, ông đã dừng ở con số đó?” Tôi trả lời người bạn của tôi rằng : Kinh Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ gồm 2 quái, quái thượng và quái hạ. Mỗi quái lại có 3 hào, vị chi mỗi quẻ dịch có 6 hào. Do vị trí của hào dương, hào âm ở trong mỗi quái khác nhau, biến hoá âm dưong đó làm cho kinh Dịch đủ sức diễn tả mọi biến hoá của vạn sự, vạn vật trong vũ trụ. Người làm tướng, nhờ có tài biến hoá âm dương của quân cơ, quân ngũ ở 8 cửa trận, nên đã vây hãm được quân địch. Chúng ở trong trận đồ bát quái trùng trùng, điệp điệp mà không tìm thấy lối ra. Cuối cùng, chúng dành chịu bó giáo quy hàng. 64 câu truyện tôi viết lại, tuyệt nhiên không có ý định làm ra y án.Vì đã là y án, tất phải có dương án, âm án. 64 phương huyệt trong truyện được tôi ngụ ý như 64 quẻ Dịch. Mỗi huyệt trong một phương được coi như một hào trong quẻ dịch. Một huyệt trong mỗi phương khác nhau, lại dùng đến tác dụng chủ trị khác nhau của nó, như sử dụng tính chất âm dương khác nhau của mỗi hào, trong mỗi quái của quẻ Dịch. Nhưng về truyện, lại là những kỷ niệm rất riêng tư, đáng nhớ, ở nhiều thời gian và hoàn cảnh sống khác nhau của đời tôi.

Trong các truyện kể trên, còn một điều tôi tâm đắc là: “Muốn chữa bệnh bằng châm cứu đạt kết quả, phải chẩn đoán đúng, lấy huyệt đúng, và làm thủ

pháp châm kim đúng. Về phía người bệnh, cần phải đặt lòng tin vào thầy thuốc và tuân theo những điều thầy thuốc hướng dẫn kiêng khem trong ăn uống, sinh hoạt, nghỉ ngơi...” Những kinh nghiệm tôi đã viết ra đó, tuy có nói đến các thủ pháp, nhưng chưa nói cụ thể thao tác khác nhau của từng thủ pháp khác nhau. Cho nên ở cuối tập này, tôi trích thêm phần “Thủ pháp bổ, tả của châm kim” trong sách “Cẩm nang chẩn trị Đông y – Dùng thuốc và châm cứu” đưa vào cho trọn vẹn mong muốn của tôi.

Bạn bè và đồng nghiệp đọc tập hồi ký này, xin cho tôi đôi lời chỉ giáo.

Tôi thật lòng cảm tạ.

Phần thứ nhất

1 - Chữa bệnh mắt vàng

Một buổi chiều mùa thu năm1965, thủa tôi còn là sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, theo trường sơ tán về thôn Hữu Định, xã Quang Minh, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc cũ (phần đất Bắc Giang ngày nay). Trong lúc tôi đang làm việc, bỗng có ông Tô Duy là bạn học cùng khóa, bên khoa hội hoạ đến tìm tôi, nhờ tôi sang chữa bệnh cho con gái chủ nhà, nơi ông ở nhờ.

Khi tôi tới, ông Tô Duy gọi cô gái chừng 13-14 từ trong buồng bước ra. Tôi hơi sửng sốt, khi nhìn thấy mắt cô ta rất lạ. Lòng trắng mắt cô như một tàu lá vàng ươm. Lòng đen mắt cũng đã bắt đầu chớm vàng. Thần của mắt cũng hơi đờ đẫn. Tôi hỏi ông Tô duy xem ông đã phát hiện ra chứng này ở cô bé từ bao lâu. Ông Tô nói : “Có lẽ chưa đầy một giờ đồng hồ, bởi vì mới xế trưa nay tôi còn thấy mắt cô bé rất bình thường.”

Tôi chợt tính rằng ở đây cách bệnh viện huyện trên phố Thắng dài hơn tám cây số đường đồi, trời lại sắp tối, cần gặp ông chủ nhà để bàn cách đưa đưa cô bé đi bệnh viện ngay. Vừa lúc đó thì ông chủ về, tôi liền nói với ông như quyết định : “Ông đi mượn ngay một cái võng, hai cái xe đạp, chuẩn bị

một cây tre buộc võng, để đưa cô bé đi bệnh viện cho kịp thời.”

Trong khi ông chủ nhà đi mượn võng và xe đạp, tôi mở quyển sách Châm cứu tư sinh kinh, tra đến mục “Mục hoàng.” Sách viết rằng : “Não hộ, Chí dương, Đảm du, ý xá, trị mục hoàng.” Tôi vội lấy kim, sát trùng rồi châm các huyệt kể trên, lưu kim, vê kim kích thích tả pháp, lần lượt theo đúng thứ tự trước sau.

Qua chừng mươi phút, ông chủ nhà và bà con dắt về hai xe đạp đã buộc sẵn võng, dựa ở tường hoa trước sân. Cũng lúc ấy, ông Tô Duy reo lên kinh ngạc : “ồ mắt đã trắng trở lại rồi.” Chả là khi tôi châm kim, ông Tô Duy và

vài người nữa ngồi phía trước mặt cô gái, họ chăm chú theo dõi đôi mắt của cô. Nghe tiếng reo ấy, tôi cũng ngừng tay vê kim, đứng dậy đi vòng sang phía trước cô gái để quan sát. Quả nhiên thấy đúng như thế.

Lúc này ông chủ và bà con từ ngoài sân ùa cả vào nhà.Tôi nói với ông chủ một cách nửa tin tưởng, nửa dè chừng rằng : “Có lẽ chưa nên đưa em đi bệnh viện ngay lúc này, cũng không nên trả xe đạp và võng. Hãy đợi tối nay tôi sang châm cho em một lần nữa, nếu sáng mai bệnh không trở lại thì ta có thể yên tâm chữa ở nhà. Nếu thấy bệnh trở lại, ta đưa em đi bệnh viện cũng còn kịp, vì hiện giờ này thấy bệnh của em đã đỡ nhiều.”

Sáng hôm sau tôi sang thăm bệnh cho cô gái, thấy mắt cô trắng và thần thì

trong sáng như chưa có bệnh. Tuy vậy tôi vẫn châm cho cô gái một lần nữa,

từ đó bệnh khỏi hẳn.

Cuối năm 1973, sau khi từ chiến trường Miền Nam ra, tôi trở lại thăm thôn Hữu Định, thăm chủ nhà tôi ở nhờ, và thăm bà con trong thôn, những người đã giúp đỡ tôi thời gian sơ tán ấy. Trong lúc tôi đang vui chuyện cũ, mới với mọi người, chợt thấy một ông tóc đã muối tiêu nhảy vọt qua bức tường hoa, từ sân nhà bên ông đi tắt sang cho nhanh. Ông nhìn tôi và hỏi tôi

: “Anh Sửu còn nhớ tôi không?.”Rồi không đợi tôi trả lời, ông đã nói tiếp :

“Tôi là bố con bé bị bệnh mắt vàng mà anh đã chữa cho ngày ấy. Cháu đã lấy chồng, có con rồi . Anh Sửu à, suốt từ đấy đến bây giờ mắt của cháu không bị vàng lại nữa.”

Ngày nay, với học viên, mỗi khi dậy đến bệnh gan, mật, tôi thường kể lại chuyện này để nhắc cho học viên biết quý bộ sách Tư sinh kinh. Nhiều phương kinh nghiệm của cổ nhân ghi trong sách đó, tôi dùng chữa cho bệnh nhân đều có hiệu quả mãn ý. . Tôi cũng không quên nhắc lại một nguyên tắc

: Muốn khai thác giá trị của phương kinh nghiệm, trước hết, phải khai thác

từ mỗi du huyệt trong phương đó.

Theo phần Du huyệt học trong sách này, cũng như ở các bộ sách dạy châm cứu khác nói chung, tác dụng chủ trị của huyệt đều được ghi đầy đủ. Các tác dụng đó được quy vào mấy mặt sau đây :

1- Tác dụng vào bệnh tạng phủ bên trong tương ứng với vị trí của huyệt (nếu

huyệt nằm ở vùng lưng trên, lưng dưới, ngực, bụng).

2- Tác dụng vào bệnh tại chỗ, lân cận và những nơi đường kinh đó đi qua. Đồng thời tác dụng đến tạng phủ sở thuộc của đường kinh đó.

3- Tác dụng đặc hiệu đến nơi có bệnh ở rất xa (gọi là tác dụng viễn đạo), hoặc bệnh ở những đường kinh khác, không có quan hệ tạng phủ, kinh lạc biểu lý nhau với đường kinh sở thuộc.

4- Có những huyệt không nằm trên đường kinh nào, nhưng lại có tác dụng đặc hiệu lạ lùng, gọi là Kinh ngoại kỳ huyệt.

5- Nhiều sách xuất bản gần đây, sau những chủ trị của huyệt, còn ghi thêm

tác dụng phối hợp của huyệt, thực chất là những phương kinh nghiệm. Trong đó, có phần tác dụng của bản huyệt góp vào cùng tác dụng của các huyệt khác trong phương.

Về trị liệu, ta thấy : Một huyệt có tác dụng chủ trị nhiều loại bệnh; một bệnh có thể dùng nhiều huyệt để trị. Do vậy, một phương trị hiệu quả bệnh nào đó, thường là một tập họp giá trị đặc hiệu của số huyệt trong phương với bệnh đó.

Từ đây cho tới hết tập truyện, mỗi phương kinh nghiệm, ta đều cùng nhau phân tích theo cách nêu trên. Bắt đầu từ phương huyệt chữa bệnh mắt vàng này.

- Huyệt Não hộ - Cấm châm đứng kim, cấm cứu. Cứu làm cho người ta câm. Châm đứng kim vào não là chết ngay. Phải châm kim luồn dưới da, mũi kim chếch từ dưới lên. Chủ trị :... mặt đỏ mắt vàng; ,,, - Huyệt Chí dương. Chủ trị : viêm gan, viêm túi mật, giun chui ống mật...vàng da - Huyệt Đảm du - Chủ trị : Viêm gan, viêm túi mật, giun chui ống mật, mát vàng, hoàng đản - Huyệt ý xá - Chủ trị : bệnh gan, viêm gan, viêm túi mật, mình nóng mắt vàng. Tổng hợp tác dụng chủ trị của 4 huyệt trong phương, đã cho hiệu qủa chữa chứng mắt vàng rất tốt. Cũng qua đây, ta lại thấy được, các cụ xưa nhận thức đúng như khoa học ngày nay : Chứng mắt vàng là do bệnh ở gan, mật.

2 - Chữa bệnh sốt rét sưng lá lách

Mùa thu năm 1966, đoàn cán bộ mang ký hiệu K.19 của tôi đi B6, hành

quân trên đường mòn Hồ Chí Minh, đến địa phận binh trạm 4.

Theo thường lệ, hàng ngày, khi tới bãi khách, chúng tôi lo nấu cơm ăn, căng tăng võng nghỉ ngơi. Tối hôm đó, ông Hiếu, dược sỹ cao cấp, công tác ở trường Đại học Y Khoa Hà Nội, đi cùng đoàn (bấy giờ chúng tôi thường gọi nhau bằng đồng chí, hoặc anh, đến nay ông cũng trạc tuổi tôi rồi, nên tôi gọi bằng ông cho phải) tới nói với tôi :“ Đồng chí Sửu à, tôi vừa gặp một ông chính uỷ binh trạm 4. Ông là người đồng hương Hà Tĩnh của tôi. Ông ấy bị sốt rét, lá lách sưng độ bốn, người yếu lắm. Ông đang có cơn sốt mà vẫn phải vào binh trạm 5 để họp. Từ hôm nay, ông ấy đi cùng cung đường với đoàn ta. Khi gặp tôi ( tức ông Hiếu ), biết tôi là dược sỹ cao cấp chính hiệu, lại là đồng hương, ra đi từ Hà Nội, ông ấy hỏi tôi

xem có thuốc gì hiệu quả hơn những thuốc thường dùng hiện nay hay không? Tôi nói với ông ấy rằng, số thuốc tôi mang theo cũng chỉ là thuốc phòng và chữa sốt rét, mọi người đều được cấp phát như nhau.

Nhìn thấy ông ấy mang bệnh nặng, mình là dược sỹ mà không có loại

thuốc gì giúp được, trong lòng tôi buồn lắm. Đồng chí thử dùng phép châm cứu để chữa giúp ông ấy, cũng là giúp tôi mà.”

Nể lòng ông Hiếu, vì ông vốn rất quý tôi. Hàng ngày, khi đi qua những

nơi có cây thuốc, ông thường hái lấy rồi chỉ bảo cho tôi. Ông như một ông giáo dạy nghề tận tuỵ, vô tư, nên tôi đã nhận lời đề nghị của ông. Ông Hiếu liền đi làm công tác tư tưởng cho vị chính uỷ nọ, để ông này chấp nhận cách chữa của tôi. Hồi đó, châm cứu chữa bệnh chưa được phổ cập như ngày nay, không phải ai cũng biết và tin tưởng. Từ đấy mỗi ngày hành quân tới b•i khách mới, tôi nhờ đoàn viên cùng tổ ba người với tôi, giúp việc thổi cơm, nấu nước, thay cả phần việc khác của tôi, để tôi đi chữa bệnh.

Theo sách Châm cứu học tôi mang theo, trong phần trị liệu học, bệnh này phải cứu bằng mồi ngải ở ba huyệt :Tỳ du, Bĩ căn, Chương môn. Nhưng trong thực tế của hoàn cảnh hành quân mang nặng, trèo đèo, lội suối cả ngày. Tới nơi để tạm nghỉ qua đêm thì đã quá mệt, nên tôi thay phép cứu

bằng ôn châm cho đỡ tốn thời gian, ở mỗi cán kim, tôi đốt 2 mồi ngải nhỏ. Đồng thời, để tăng hiệu quả trong một số ngắn ngày, tôi đã thêm huyệt Công tôn vào trong phương này.

Điều kỳ diệu đã đến với ông chính uỷ là, sau đêm ôn châm đầu tiên, sang ngày hôm sau, mặc dù chưa phải là đã khỏi được như người bình thường, nhưng ông tự thấy tỉnh táo hơn, bước chân leo đồi, vượt dốc của ông cũng đã nhẹ nhàng hơn. Sau lần ôn châm thứ hai, đến sáng ngày hôm sau, ông đã

đòi người cần vụ đưa chiếc ba lô của ông để ông đeo cho dễ đi. Cái ba lô của ông tuy chẳng nặng nề là bao, nhưng trước đó, nó đã phải để người cần vụ đặt lên trên cái ba lô vốn qúa nặng nề và cồng kềnh của anh.

Ngày thứ ba, đoàn chúng tôi và ông đi đến một trạm mà từ đó ông rẽ đường về nơi ông họp.Trạm này vốn không phải là nơi chúng tôi được nghỉ lại cách ngày. Nhưng vì nhu cầu chữa bệnh cho ông, ông đã hội ý để ban chỉ huy trạm bố trí bãi khách, mời đoàn chúng tôi nghỉ lại. Đồng thời, kết hợp chữa cho ông lần thứ ba, thứ tư vào tối hôm đó và cả tối hôm sau nữa.

Trong ngày nghỉ lại ở trạm, ông chính uỷ đã nhờ chiến sỹ giao liên của

trạm đưa hàng hoá vào buôn đồng bào gần đó, đổi lấy gà và gạo nếp. Ông giao cho trạm nấu cơm, làm gà, mời ban chỉ huy đoàn K.19, tôi và ông Hiếu vào liên hoan với ông. Ông còn bàn với trạm cung cấp thêm cho cả đoàn một số lương khô, mắm ruốc, v.v.... Điều này là một cử chỉ đặc biệt, ngoại lệ thông thường của binh trạm.

Trong cuộc chuyện trò, ông chính uỷ không thể dấu được nỗi vui mừng, tin tưởng, khi ông kể về cảm giác sức khoẻ của mình. Ông thấy đã có nhiều thay đổi tốt lên. Để chứng nghiệm việc này, bác sỹ trưởng đoàn tên là Minh, nguyên giữ chức phó bệnh viện trưởng bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, ông đã hăng hái sờ nắn, kiểm tra lâm sàng vùng gan, lách ông chính uỷ. Sau đó, ông đã có lời nhận xét rằng :

“ Thật là hiệu quả. Gan và lách của chính uỷ đã nhỏ đi rất nhiều.”

Đêm đó, tôi nói truyện với bác sỹ Chính trong đoàn về câu truyện trong trạm giao liên. Tiếp theo, tôi phân tích phương huyệt theo du huyệt học, muốn để ông hiểu thêm về tác dụng của mỗi huyệt trong phương, như :

Huyệt Tỳ du - Chủ trị : gan, lách sưng to, cổ trướng ; tích tụ bĩ khối, sốt rét lâu ngày... Huyệt Bĩ căn (loại huyệt lạ ngoài kinh) – Chủ trị : Gan, lá lách sưng to, Huyệt Chương môn – Chủ trị : Lá lách sưng to... Huyệt Công tôn

(loại lạc huyệt của kinh tỳ, chuyên trị bệnh mạn tính của tạng phủ sở thuộc)

– Chủ trị :…sốt rét; sốt thể lạnh...

Tổng hợp tác dụng của 4 huyệt trên, chữa hiệu qủa nhanh chứng bệnh sốt rét sưng lá lách của ông chính ủy, mọi người đều đã chứng nghiệm hôm nay.

Thưa các bạn, kinh nghiệm lần đầu đó, sau này đã giúp tôi chữa được nhiều ca bệnh của đồng đội sốt rét, gan lách sưng to như thế. Trong suốt hơn năm năm trời ở nơi rừng sâu, nước độc của miền Cực nam Trung Bộ, kinh nghiệm này đã là chất keo gắn bó tôi với đồng đội. Cho đến sau này, khi trở về miền Bắc, con gái tôi và học viên của tôi cũng theo phương đó, chữa cho nhiều anh em đi bộ đội nghĩa vụ phục viên, những thanh niên đi

đào vàng, đào đá quý trở về, nếu bị mắc bệnh sốt rét rừng, có gan lách sưng

to, họ đều được chữa khỏi sau từ bảy đến mười ngày.

Bệnh sốt rét rừng, có sưng gan lách hiện nay đang còn nhiều, tôi ghi lại chuyện này, cũng là ghi lại một phương đã có nhiều kiểm chứng để đồng nghiệp tham khảo thử dùng

3 - Chữa bệnh nhiệt nhập tâm bào, người bệnh sốt cao, thấy hình ảnh lạ đe doạ

Khoảng giữa mùa xuân năm 1970, toàn cơ quan chúng tôi có chuyến đi vận chuyển lương thực, từ một vùng căn cứ của tỉnh Bình Thuận, về căn cứ của tỉnh Tuyên Đức, nằm ở phía nam huyện Đơn Dương (thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay).

Trên tuyến đường rừng này, có một đoạn phải đi qua trảng tranh (rừng

tranh bằng phẳng, không có cây lớn) mất tám gìờ đồng hồ. Khi qua đây, tất cả mọi cuộc hành quân đều phải đi vào ban đêm, bởi vì ban ngày máy bay đầm già (máy bay do thám) và tầu gáo (một loại trực thăng lùng sục, có thể bay thấp len lỏi vào các khe suối, bãi trống nhỏ) thường xuyên bay lượn quan sát, nếu thấy có gì khả nghi là chúng bắn rốc két, có bóng người là chúng đổ trực thăng vây bắt cho bằng được.

Đêm ấy chúng tôi đi qua trảng tranh, chỉ huy không dám cho giải lao giữa chừng. Chỉ được phép tạm dừng khi có nhu cầu vệ sinh cá nhân hàng loạt. Vì thế khi chưa đi hết trảng tranh chúng tôi đã quá mệt. Nhưng ở nơi hết trảng tranh lại tiếp nối một đoạn dốc cao và dài. Chỉ huy yêu cầu chúng tôi

phải vượt lên đỉnh dốc, vào sâu trong rừng già mới được nghỉ chân, tìm nơi có nước nấu ăn để còn đi tiếp.

Ai đã từng hành quân mang nặng, leo dốc mới thấy được tư thế đi hợp lý

nhất là thân hơi cúi xuống, đầu đưa cằm ra, mũi thở đều, mắt nhìn vào lưng người đi trước. Và tất nhiên là từng bước chân phải được đặt vững vàng rồi mới rướn người đưa chân lên phía trước. Cảnh tượng im lặng, thận trọng của đoàn người ngoằn nghoèo, di chuyển chậm chạp lên dốc, vừa có vẻ nặng nề, mệt mỏi, lại vừa có vẻ cảnh giác đề phòng mọị bất trắc. Đúng lúc cả đoàn quân lên tới lưng chừng chừng dốc, tổ xích hầu (tổ vũ trang sẵn sàng chiến đấu) đi trước, chỉ còn cách bìa rừng đầu trên của dốc chừng dăm chục mét, bỗng dưng có một tiếng hô lớn : “biệt kích.” Tiếng hô ngắn gọn, dứt khoát. Chúng tôi như một

phản xạ thành thạo, tất cả đều đồng loạt nằm xuống ngay tại chỗ, tai thì lắng nghe mọi tiếng động khác lạ, mắt thì hướng về phía bất kỳ, do tư thế mỗi người đã tự nằm xuống để quan sát, thăm dò.

Chừng dăm bảy phút sau chúng tôi được lệnh đứng dậy đi tiếp. Vừa đi, chúng tôi vừa nghe thông tin từ đầu đoàn quân truyền xuống rằng, có một chú vệ binh trẻ đi đầu hàng quân bị sốt cao, tâm thần hoảng hốt. Khi chú hô xong tiếng “ biệt kích ” liền tự động nằm xuống, và mọi việc đã xảy ra như vừa kể ở trên. Thật là gặp một phen hú vía.

Tối hôm đó, khi về đến căn cứ, anh Nghị là y sỹ cơ quan đến cho tôi biết, chú lính đó bị sốt cao mê sảng, vẫn luôn tay chỉ về mọi phía mà nói : “biệt

kích kia kìa, nó đang cầm dao định chém cháu”. Khoảng gần trưa hôm sau, y sỹ Nghị lại đến gặp tôi nói rằng, anh đã cho cháu uống thuốc hạ sốt, thuốc cắt cơn sốt rét, nhưng bệnh tình vẫn chưa giảm. Anh tỏ vẻ lo lắng gi•i bày rằng : “Cháu Thanh này tuổi còn rất nhỏ, nhà ở ấp Thanh Bình, ngoại thành Đà Lạt, tham gia cách mạng từ đợt hai tổng tấn công Mậu Thân, cùng với mấy chục thanh niên trong ấp. Nếu không chữa cho cháu khỏi bệnh thì sẽ ảnh hưởng tới tinh thần của cả lứa đó. Đã có cháu xì xào với nhau, cho rằng, ma rừng ếm chú linh đó rồi đấy.” Dừng lời một giây lát, y sỹ Nghị dè dặt nói với tôi : “Anh Sửu xem sách thử, nếu có cách gì thì chữa giúp tui.”

Thường ngày, tôi tuy có biết châm cứu và có sách châm cứu mang theo, nhưng tôi không bao giờ tỏ vẻ lấn sân công việc của y tế cơ quan. Chỉ tham gia khi có yêu cầu của các cán bộ chuyên môn. Lần này cũng thế khi anh Nghị yêu cầu, tôi liền mở sách và tìm được nhóm huyệt chữa chứng nhiệt nhập tâm bào, sốt cao mê sảng, sinh ra ảo thính, ảo thị, là các huyệt Tâm du, Thần đạo, Thiên tỉnh. Sau khi anh Nghị dẫn cháu Thanh tới, liền giúp tôi sát trùng kim và huyệt vị. Tôi châm cả năm cây kim theo thứ tự : Thần đạo rồi đến Tâm du cả hai bên, sau cùng là Thiên tỉnh cả hai bên.

Cứ năm phút tôi lại vê kim kích thích tả pháp một lần. Lâu lâu, khi thấy

cháu nhìn không ngơ ngác nữa, tôi hỏi cháu : “Cháu còn thấy biệt kích nữa

không ?.” Cháu tỉnh táo nói : “Không thấy nữa ạ.”

Tôi nói với anh Nghị kẹp nhiệt kế vào nách xem đã hạ sốt chưa. Anh Nghị lấy nhiệt kế ra, kẹp cẩn thận xong chúng tôi cùng ngồi trao đổi về cơ chế bệnh này theo lý luận Đông y.

Theo thói quen nghề nghiệp, anh Nghị đợi đủ thời gian kỹ thuật quy định mới lấy nhiệt kế ra xem. Anh nói : Giảm sốt rồi, chỉ còn 37,6 độ C. Tôi hỏi để so sánh : Khi chưa châm kim, nhiệt độ sốt của cháu bao nhiêu. Anh Nghị nói : “Lúc cao nhất là 39,8 độ C.” Trong khi tôi rút kim thì anh Nghị giúp tôi thu dọn đồ nghề, sách vở và nói : “May quá !. Thiệt là tài tình !.” Thấy y sỹ Nghị còn lạ lẫm với phép châm cứu, tôi đã phân tích tác dụng của số huyệt trong phương, theo du huyệt học cho anh Nghị nghe. Tôi nói : “Huyệt Tâm du – Chủ trị : Tim bồn chồn, tim đập mạnh, bệnh tim do phong thấp, tim động quá nhanh bệnh thần kinh chức năng tâm khí hoảng hốt; tâm trúng phong, tâm ngực bứt rứt. Huyệt Thần đạo – Chủ trị : bệnh nhiệt; bệnh tâm tạng, thương hàn phát nhiệt, Huyệt Thiên tỉnh – Chủ trị : sốt rét, điên tật; tim ngực đau nóng rét rầu rầu; Không vui hồi hộp.

Tổng hợp lại, phương huyệt đã làm lên tác dụng thần kỳ như anh Nghị đã thấy đấy. Anh nói với tôi : “Hết chiến tranh, tôi nhất định sẽ xin đi học châm cứu anh à.” Tôi động viên anh Nghị : “ Hoà bình rồi, chúng ta còn có thể

học được nhiều thứ, chẳng riêng gì một môn châm cứu.”

Cho tới gần trưa ngày hôm sau, đón chừng trước cơn sốt có thể sảy ra, tôi và anh Nghị lại châm cho cháu Thanh, cũng lưu kim kích thích như ngày hôm trước. Thế rồi cơn sốt và ảo thị, ảo thính đã không sảy đến ở cháu ấy nữa .

- Từ đó tới nay phương huyệt này đã được tôi sử dụng chữa cho nhiều bệnh nhân sốt cao mê sảng, có ảo thính, ảo thị. tất cả đều thu được hiệu quả giống nhau.

4 - Chữa bệnh viêm đường bạch mạch và bệnh giun chỉ

Lần này không phải y sỹ Nghị, mà là y sỹ Giang bên cơ quan tỉnh đội, người Nam Bộ, có nước da trắng trẻo, bộ mặt luôn tươi cười, với chiếc răng bịt vàng nép trong khoé mép. Anh nhanh nhẹn nhảy qua mấy hòn đá lớn, cúi đầu chui vào gộp đá, nơi tôi đang làm việc. Giang vừa nói, vừa gãi gãi tai : “ Anh Sửu à, Giang đưa cậu T. lên (tôi đã quên mất tên nên tạm đặt thế) nhờ anh chữa giùm Giang nhé. Cậu này bị viêm đường bạch mạch.”

Tôi chưa gặp bệnh này lần nào nên đã vui vẻ nhận lời. Giang chỉ đợi có thế, liền chui ra khỏi gộp đá (khe rỗng giữa những hòn đá to chồng lên nhau, không phải là hang đá như ở núi đá vôi), thoăn thoắt nhảy qua các hòn đá mà biến đi nhanh chóng. Lát sau Giang trở lại, nhưng đi chầm chậm, thận trọng, đỡ bên người một chú linh cảnh vệ to cao. Chú này chống gậy, lò cò từng bước bằng chân phải, chân trái thì đùi giơ lên, đầu gối co lại, bàn chân thõng xuống . Tôi ra khỏi gộp đá, chỉ cho Giang và chú linh ngồi xuống một hòn đá to, nơi có mặt bằng khá lớn. ở đó có mảng nắng sáng, lọt từ khe hai ngọn cây chiếu xuống, tiện xem bệnh cho rõ.

Tôi ngồi bên cạnh hai người nghe Giang giảng giải : “Anh xem này.”

Giang vừa nói vừa chỉ vào một đường đỏ hồng, rộng chừng dăm bảy ly mét, kéo dài từ mắt cá trong chân trái, ven theo cạnh trong xương chày, lên tới khớp gối, đầu trong nếp gấp khoeo chân, rồi lên thêm một đoạn nữa ở cạnh trong đùi. Tiếp đó Giang cầm bàn tay tôi đặt vào háng chú linh và nói : “Hạch bạch huyết ở háng cũng đã sưng to rồi, anh sờ cho thấy rõ đi.” Giang lại nói tiếp: “Bệnh này trước hết là sưng hạch ở háng và khoeo chân, làm cho đau đớn, không đi lại được. Nếu viêm nặng thành mủ, sẽ làm hỏng động mạch, và phải cắt bỏ chân. Muốn chữa, ta phải dùng kháng sinh diện rộng, liều cao giảm dần. Mà như anh Sửu đã biết, túi thuốc cơ quan, nếu dốc ra chữa bệnh này, sẽ không còn để sẵn sàng chiến đấu, cấp cứu chiến thương.”

Nghe Giang nói xong, tôi liền mở sách ra xem. Vâng, lại sách. Sách vừa là thầy của tôi, cũng là ông thánh đã ban cho tôi được thấy nhiều phép lạ của ông. Sách đã cùng tôi vượt hàng rào điện tử bờ Nam sông Bến Hải, vào tới đất Cực nam Trung Bộ này và luôn ở bên tôi. Sách lại dạy tôi rằng : “Huyệt

Khí xung, Huyết hải, chữa viêm đường bạch mạch và hạch bạch huyết ở chi dưới.” Vui mừng quá đỗi, tôi vội nói với Giang chuẩn bị cùng tôi châm ngay. Rồi cũng ngay tại hòn đá ấy, chỗ chòm sáng mặt trời lọt xuống ấy, chúng tôi vừa vê kim, vừa nói chuyện với nhau.

Gần tối hôm đó, Giang tới chỗ tôi, cho tôi biết, bệnh nhân đã giảm sốt,

vết đỏ đã bớt đậm màu, chân có thể cử động hơn được chút ít .Tôi nói với

Giang rằng : “Người xưa nói, bệnh cấp và nặng, thì ngày phải châm nhiều

lần.” Chúng tôi lại đi châm cho bệnh nhân lần nữa.

Ngày hôm sau, tuy bệnh đã đỡ nhiều, chúng tôi vẫn châm cho bệnh nhân

ba lần, thế là bệnh khỏi hẳn.

Năm 1993 bác sỹ Thịnh, làm việc tại khoa Bệnh nghề nghiệp, Bệnh viện Quân y 103, đến gặp tôi, ông kể rằng : “Khoa ông có một bệnh nhân bị bệnh giun chỉ . Từ đùi đến đầu gối và cổ chân to đều và thẳng như một cây chuối (dân gian gọi là bệnh chân voi, Đông y gọi là bệnh đại cước phong). Ông đang muốn chữa bằng Đông y mà chưa biết chọn cách nào cho hay nhất.” Tôi nói : “Ông hãy cho tôi biết cơ chế của bệnh này xem nó ra sao?.” Ông Thịnh giải thích rất rõ ràng : “Thưa thầy, giun chỉ thấm qua da, theo đường bạch mạch, đi dần vào trong cơ thể. Độc tố của giun chỉ gây ra sưng đường bạch mạch, chân có dạng phù căng toàn bộ.”

Nhớ lại kinh nghiệm năm xưa ở chiến trường Cực nam Trung Bộ, tôi nói với ông Thịnh : “Ông hãy về châm cho họ hai huyệt Khí xung và Huyết hải, nhớ lưu kim, làm vê kim kích thích tả pháp. Hãy theo dõi kỹ và báo lại cho tôi biết kết quả.”

Sau đó gặp lại nhau, ông Thịnh kể tỷ mỷ : “Em châm hai huyệt đó theo đúng phép tả, lưu kim kích thích từng đợt, chừng 30 phút sau, thấy chân có vẻ hơi nhỏ đi, em đo lại vòng đùi trên đầu gối, rồi đem so với số đo trước lúc châm, thật là quá bất ngờ, khi thấy số đo đã rút đi được 3 cm. Em châm thêm hai lần nữa trong ngày. Hai hôm sau, em đều châm mỗi ngày 3 lần. Thế là chân rút hết chỗ sưng, trở lại như cũ. Bệnh nhân ra viện nhưng có vẻ còn lo lắng. Do nhà bệnh nhân ở ngay thị xã Hà Đông, nên em nói để bệnh nhân yên tâm rằng, nếu thấy bệnh trở lại, cứ vào đây để tôi chữa tiếp. Nhưng cho đến hôm nay (lúc gặp lại nhau này) em chưa thấy bệnh nhân trở lại khám.”

Ông Thịnh học Tây y ở Đông Đức, về nước ông lại nảy ra ham muốn học Đông y. Trong quá trình học, tôi đã nói về bài châm chữa chứng viêm đường bạch mạch và hạch bạch huyết ở chi dưới,. Nhưng lần này, do ông Thịnh đã áp dụng thành công, nên ông muốn nắm chắc cơ chế của huyệt châm, ông mong được tôi phân tích rõ hơn. Tôi đã dựa vào du huyệt học, phân tích tác dụng của hai huyệt đó như sau : - Huyệt Khí Xung- Chủ trị : bệnh ở bộ máy sinh dục…bụng có khí nghịch lên tim… -Huyệt Huyết hải – Chủ trị :…nổi mề đay ngứa; thấp chẩn; viêm da thần kinh…các bệnh cấp tính về huyết… Theo đó ta thấy, huyệt Huyết hải có sức chống dị ứng mạnh. Huyệt vị lại nằm ngay trên đường đi của bạch mạch. Huyệt khí Xung cũng nằm trên vùng hạch bạch huyết vùng khớp háng. Hai huyệt hỗ trợ nhau

chống viêm đường bạch mạch tốt, còn nhờ ở sự phối hợp chặt chẽ của khí (Khí xung) và huyết (Huyết hải), nên đã có sức mạnh thần kỳ như ông đã chứng nghiệm vừa qua.. Ông Thịnh ngồi lặng đi suy nghĩ. Tính cách ông vẫn thế mà.

Thưa các bạn, thế là ứng dụng của phương huyệt chữa viêm đường bạch mạch, lại có thể dùng vào chữa bệnh chân voi, bởi vì chúng cùng một cơ chế .

5 - Chữa cơn đau quặn gan

Sau mỗi bữa cơm trưa hàng ngày, chúng tôi thường nghe đài, hoặc đọc sách. Đôi lúc lại đem quần áo ra vá những chỗ mới rách, do cành cây ngáng đường, hoặc mắc phải gai. Rất ít khi chúng tôi dám ngủ ngày. Vì kinh nghiệm của những người đã ở rừng nhiều năm cho biết, ai quen ngủ ngày thì người đó dễ mắc bệnh sốt rét. Phần nữa, vì bọn biệt kích Phun rô thường đi cắt (đi tắt) ngang rừng, chúng đi từng tốp nhỏ, bất ngờ tập kích vào các cơ quan hậu cứ của ta. Chúng gây thiệt hại chớp nhoáng, rồi rút trốn vào rừng. Cho nên ở hậu cứ cũng đầy ắp không khí mặt trận.

Hôm ấy ở cơ quan tỉnh ủy có cuộc họp về y tế. Bác sỹ Nguyễn Quang Đạm, trưởng ban dân y tỉnh, và hai y sỹ vừa ở mặt trận tiền phương cùng về họp. Họp xong, họ được mời đến gặp các anh trong ban thường vụ tỉnh uỷ.

Thật là không may cho các anh, khi cuộc gặp mặt đang được tiến hành, thì em Hoàn nhỏ (chả là cơ quan chỉ có em là nữ nhỏ tuổi nhất nên mọi người gọi thế cho thêm thân thương) đột nhiên lên cơn đau bụng

quằn quại. Lập tức hai y sỹ ở trong cơ quan cùng với bác sỹ, hai y sỹ là khách, dưới sự điều khiển của bác sỹ Đạm, trưởng ban dân y tỉnh, cùng nhau hợp sức lại để chẩn trị .

Chẳng biết các vị đã chẩn là bệnh gì và cách chữa ra sao, nhưng đến 13

giờ vẫn chưa cắt được cơn đau cho người bệnh..

Thấy không đành lòng, tôi liền chủ động đến gặp bác sỹ Đạm, xin phép tham gia chữa cho em Hoàn. Khi đến chỗ lán em Hoàn ở, tôi thấy bác sỹ thì đang đi lại đăm chiêu ngoài cửa lán, người bệnh thì nằm còng queo trên tấm sạp ken bằng cành cây nhỏ, có lót lá tranh cho êm. Tôi lên tiếng chào ông và thưa ngay ý định của tôi. Ông bắt tay tôi và hỏi một cách ngắn gọn : “Anh định chữa bằng biện pháp gì?”. Tôi trả lời ông rằng : “Tôi sẽ châm cứu.” Ông cười nhưng cũng không hẳn là cười, rồi nói tiếp một cách rất là tự nhiên như tự đáy lòng ông vốn nghĩ thế : “Được đấy, châm cứu vô thưởng, vô phạt mà.” Tôi nghe ông nói thế, trong lòng rất lấy làm khó chịu. Nhưng khi nghĩ đến ông vốn là người lịch lãm, thận trọng, nên ý tứ trong câu của ông vừa nói, có lẽ là do ông nhận thức rằng, châm cứu không có tác dụng phụ. Không như những bài thuốc dân gian chưa qua kiểm định, đã gây bao phiền toái. Ngành y tế đã từng phải xử lý hậu quả do những lang băm vô trách nhiệm gây ra, nên ông đã nói như thế. Để tránh sự sơ hở trước ông bác sỹ về việc tự mình xin đến chữa bệnh, và cũng để tỏ vẻ cầu thị, tôi đã xin ông cho biết chẩn đoán của ông về chứng bệnh này. Ông cũng nói với tôi rất kín kẽ và rõ ràng : “Chúng tôi nghi đây là cơn đau quặn gan. Nhưng do trong tay chúng tôi không có thuốc đặc hiệu, tôi đã cho dùng tới bốn loại thuốc giảm

đau khác nhau, tới giờ vẫn chưa cắt được cơn.” Liền đó, khi nhìn thấy trong tay tôi cầm quyển sách chữ Hán cổ, ông lại nói với tôi : “Anh thử xem trong sách đó có thấy nói về cách chữa đau bụng do gan hay không?.” Tôi cũng nói ngay : “Có ạ.” Tiếp theo là : “Tôi sẽ chữa theo chẩn đoán của các anh.”

Tôi bắt đầu châm, bệnh nhân trong tình trạng thần chí mơ màng của cơn choáng, do đã đau đớn kéo dài. Cùng lúc đó ông bác sỹ đưa ngón tay vào bắt mạch, tay kia ông giơ đồng hồ ra xem.

Ba huyệt tôi châm là : Khí hải, Thái xung, Nội đình. Châm xong tôi lưu kim, kích thích tả pháp, lần lượt và liên tục. Chừng khoảng gần hai chục phút sau, khi thấy bệnh nhân không còn cơn quặn đau nữa, hơi thở đã đều đều, tôi quay sang ông bác sỹ, có ý chờ lời đánh giá của ông về hiện trạng người bệnh. Ông đang chăm chú bắt lại mạch và nhìn đồng hồ. Lát sau việc bắt mạch đã xong, ông ngẩng lên nói với tôi : “Tốt lắm rồi, khi bắt đầu châm, mạch đập 120 lần / phút, bây giờ còn 90 lần / phút, như thế là cơn đau đã giảm nhiều rôì đó.”

Khi đã rút kim ra xong, tôi và ông bác sỹ ngồi lại, chúng tôi vừa chuyện

trò, vừa để theo dõi thêm bệnh nhân .

Lúc này, nhìn lại bệnh nhân, tôi thấy cứ khoảng chừng năm phút bệnh nhân trở mình một lần, hơi thở cũng mạnh hơn lên một chút, rất điển hình chứng đau bụng do gan. Tôi chợt nhớ lại, theo sách Bệnh học Nội khoa mô tả chứng trạng cơn đau đau quặn gan. Cơn đau quặn gan, thực chất là đau do sỏi bùn trong ống dẫn mật gây ra. Nơi đau từ hạ sườn phải, co rút theo cơ thẳng bụng, xuống đến dưới mé bên phải hố chậu, chân phải duỗi thẳng thấy khó khăn (Đông y gọi chứng đau này thuộc về “đau sán khí”). Cách 5 phút làm cơn một lần.

Tôi tự phán đoán thầm trong ý rằng, cơn đau tuy đã dứt, nhưng do đau đớn kéo dài, tập quán nhu động ruột vẫn còn. Tôi lấy kim châm thêm hai huyệt Thiên khu và Túc tam lý, nhằm nhanh chóng ổn định nhu động ruột.

Quả nhiên từ đó bệnh nhân nằm yên, thở đều, chìm sâu vào giấc ngủ bù sau

cơn đau đớn kéo dài vừa dứt.

Tôi đứng lên chào ông bác sỹ ra về, trong lòng mừng vui vì sự thành công của cuộc trình diễn châm kim chữa bệnh, có sự chứng kiến của bác sỹ trưởng ban dân y tỉnh (tương đương chức Giám đốc Sở y tế hiện nay), và còn mừng vui vì câu nói của ông lúc chia tay tôi. Ông nói : “Thấy anh làm việc châm cứu là tôi tin tưởng ngay, vì anh có sách chữ Hán cổ của các cụ.”

Thưa các bạn, để có được câu nói của ông bác sỹ lúc chia tay tôi hôm ấy, chính là nhờ kết qủa việc tôi dùng kim châm, cắt được cơn đau quặn gan cho bệnh nhân, mà trước đó ông bác sỹ và đồng nghiệp của ông dùng thuốc đã

không làm được. Như lúc vừa thấy tôi đến, ông đã thanh minh với tôi, ý tứ hàm chứa trong đó, chỉ là vì hoàn cảnh khó khăn của chiến trường, mọi thứ thuốc men đều thiếu thốn. Nhưng giả thử, cuộc tham gia điều trị của tôi không thành công, hẳn lúc đó, ông sẽ coi những cuốn sách chữ Hán cổ tôi mang theo ấy, ông sẽ coi nó chẳng có ích gì. May mắn thay, cuộc châm chữa đã tốt. Từ đó, tôi lại suy nghĩ về công phu đọc sách của mình. Không những sách đã giúp tôi khi chữa bệnh, tôi lại còn được đánh giá bằng sự tin tưởng của ông. Tôi vẫn thường nghĩ, chẳng riêng gì việc làm của tôi, mà bất cứ ai, làm bất cứ việc gì ở đời, nếu có công học hành cẩn thận, chăm chỉ một cách bài bản, hệ thống, chắc chắn cũng sẽ được người đời tin tưởng, cũng sẽ thu được kết quả có ích.

Nay nói về kinh nghiệm chữa cơn đau quặn gan này, tôi xin nói thêm cơ chế phương huyệt, điều mà ngày gặp ông bác sỹ Đạm ấy, tôi đã không có điều kiện nói với ông. Cơ chế đó là, do tác dụng hợp thành từ mỗi huyệt vị trong phương như sau : Huyệt Khí hải – Chủ trị : sán khí ở bụng dưới; các loại bệnh khí lâu ngày không khỏi; bẩy thứ sán khí ở tiểu trường, bàng quang, thận, âm chứng co dịch hoàn; Huyệt Thái xung – Chủ trị : hai dịch hoàn co lên; tiểu trường sán khí; Huyệt Nội đình – Chủ trị : đau bụng; dau sa ruột; Huyệt Thiên khu – Chủ trị : Đau bụng; trướng bụng; sôi ruột, ỉa chảy, lỵ, táo bón, liệt ruột; bí đại tiện; trường sán; Huyệt Túc tam lý – Chủ trị :Bệnh đường ruột; đau bụng, lỵ, tiêu hoá kém; ỉa chảy; táo bón;

Tổng hợp tác dụng của số huyệt kể trên, có thể cắt cơn đau quặn gan nhanh chóng. Thật đúng như ông bác sỹ đã nói với tôi : “ vì anh (tức là tôi) có sách chữ Hán cổ của các cụ.”

6. Chữa bệnh đau liên sườn cấp tính

Mùa hè năm 1966, đoàn sinh viên thực tập của chúng tôi nhận nhiệm vụ làm giúp làng Nam Ngạn, phía bờ nam cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá một tượng đài “Nam Ngạn chiến thắng”, để cổ vũ tinh thần chiến đấu chống Mỹ của quân và dân địa phương.

Tối hôm đó, như mọi buổi tối khác, thanh niên dân quân Nam Ngạn

thường tập trung sinh hoạt tinh thần ở sân chùa làng, gần nơi đang xây bệ tượng đài. Tập trung như thế, cũng là để sẵn sàng nhận lệnh đi tu sửa các trận địa, dọn dẹp hậu quả bom đạn, sau một ngày chiến đấu ác liệt với máy bay địch. Chúng tôi cũng có mặt đầy đủ để giao lưu văn hoá giữa sinh viên với thanh niên địa phương, và nghe tin tức mới nhất trong vùng. Khi hồi còi báo yên của một cuộc tập kích bằng máy bay Mỹ vừa dứt, mọi người từ nơi trú ẩn lần lượt trở lại. Tôi thấy bà Huê, bí thư chi bộ làng Nam Ngạn đi tới, bà lên tiếng hỏi một cô dân quân : “Huệ ơi, o có thấy o Tuyển ở đó không ?.” O Huệ đáp : “Thưa chị, chị Tuyển vừa dẫn hai tiểu đội vào thị xã làm nhiệm vụ rồi.”

Lúc này bà Huê đã nhìn thấy tôi cũng ở gần đó, bà quay sang nói với tôi:

“Gay quá ann Sửu à, anh Đ (tôi không còn nhớ rõ tên anh, nên xin cứ để tên anh là Đ trong câu chuyện này) là xã đội trưởng dân quân đã tái ngũ, hiện làm cán bộ trên tỉnh đội. Chiều nay anh tranh thủ về qua nhà, để ngày mai ăn tết mồng năm tháng năm với vợ con. Chẳng may, anh lại vừa bị bệnh gì đó nặng lắm. Tôi ra đây tìm o Tuyển, nói với hắn bố trí người, đưa anh Đ đi bệnh viện ngay. Nhưng tình hình thế

này thì bí bách quá.” Bà ngập ngừng một lát rồi nói với tôi : “Hay là anh sang xem giùm bệnh của anh Đ, rồi góp ý cho tôi cách giải quyết.”

Khi tôi và bà Huê vừa leo qua bậc thềm, bước lên hiên, trước cửa gian

giữa nhà, tôi đã nhận ra tư thế người bệnh là đau thần kinh liên sườn cấp. Anh nằm dựa lưng lên một đống chăn màn mà cứ như tư thế đang ngồi. Thấy chúng tôi vào, anh có vẻ muốn ngồi dậy để chào hỏi, nhưng không thể nào dậy được. Mặt mày anh nhăn nhó, gượng gạo. Tôi ngồi xuống ghế đã đặt sẵn, đối mặt với anh, định hỏi thêm anh đôi điều cho chắc chắn. Nhưng anh vội vàng nói ngay, nói từng tiếng một như muốn đứt hơi : “Khổ lắm anh ạ, tôi đau cả sườn và ngực, nói to cũng đau, ho càng đau hơn, cựa mình cũng đau. Bệnh đến nhanh quá chừng. Miệng thì đắng, nước bọt như dẻo lại.” Tôi và bà Huê sang chỗ anh nằm, cùng đỡ anh từ từ ngồi xoay lưng lại phía tôi. Tôi kéo áo may ô ba lỗ lên, ấn vào huyệt Chí dương để thử phản ứng. Anh vội kêu lên : “ái chà.”

Kiểm tra như thế đã đủ, tôi lấy kim ra, sát trùng kim và các huyệt. Tôi bắt đầu châm theo thứ tự : Chí dương, Can du, Đảm du ở sau lưng . Các huyệt tiếp theo là : Thực đậu, Đại bao, tôi phải di chuyển về hai bên cạnh anh để châm. Kế đó, tôi châm các huyệt : Chiên trung, Kỳ môn, Nhật nguyệt, rồi đến Chi câu, Dương lăng tuyền. Tôi châm huyệt nào thì làm thủ pháp tả ngay, rút kim ra luôn để châm sang huyệt khác, không lưu kim. Thời chiến mà, ai dám cắm hàng loạt kim trên thân người bệnh, lại găm nguyên ở đó. Nếu có báo động, làm sao kịp rút hết số kim, kịp cho bệnh nhân chạy xuống hầm tránh bom đạn.

Công việc tôi làm vừa xong, vợ anh Đ đã bê ra thau nước, kèm theo bánh xà phòng thơm. Chiếc khăn mặt thì gấp gọn gẽ, để ngay ngắn vào lòng một cái đĩa sắt tráng men. Tất cả được bầy ở ngoài hiên. Chị mời tôi ra rửa tay để vào uống nước dừa, chị vừa chặt dừa từ cây nhà, pha thêm chút đường và bày sẵn trên bàn. Tôi ngồi vào uống nước và nhìn về phía anh, thấy anh đang thử xoay người, thử giơ tay lên, đưa tay ra phía trước, phía sau. Anh nói với tôi : “Đỡ rồi anh ạ, tôi thở được sâu hơn, xoay người tuy còn khó, nhưng không đau dữ dội nữa.”

Để kịp thời phục vụ chiến đấu và công tác, tôi hẹn với anh sáng mai sẽ

sang sớm, châm thêm cho anh.

Sớm hôm sau, tôi sang nhà anh lúc trời vừa hửng sáng, con lớn của anh ra cổng đón tôi. Tôi vào tới sân đã thấy anh rón rén, gương nhẹ đi lại ở ngoài hiên. Anh nói năng cũng mạnh dạn hơn và đã có thể ngồi xoay các phía cho tôi châm.

Trưa ngày hôm ấy, khi tôi vừa ngừng việc, hai bàn tay còn bám đầy thạch

cao trộn đã bị khô lại, tôi đang định về ao chùa để rửa tay chân, chợt nghe tiếng đứa con nhỏ của anh tới gọi to : “Chú ơi, mẹ cháu sai cháu sang mời chú đến ngay, xem cho bố cháu. Bố cháu đau lại như chiều qua rồi, mẹ cháu sợ lắm!.” Tôi vội v• cứ để nguyên tay chân chưa kịp rửa, chộp lấy hộp kim, theo cháu đi thật nhanh sang nhà anh Đ. Nào ngờ, tôi tới nơi đã thấy anh ngồi trên trường kỷ ở gian giữa, trên mặt bàn dài là cái mâm đậy lồng bàn kín mít. Anh tươi cười nói với tôi như xin lỗi : “Mong anh thông cảm, tôi phải dặn cháu sang nói dối với anh như thế, anh mới đến ngay. Xin mời anh theo cháu ra bể nước rửa tay, rồi vào ăn tết mồng năm với gia đình tôi. Chẳng có gì là bầy vẽ đâu mà anh ngại, chỉ có thịt vịt và bánh cuốn thôi, lệ ở làng này như thế anh ạ.”

Chuyện là như thế, nhưng đáng nhớ lắm, tôi làm sao có thể quên đi được. Lại càng không thể quên tác dụng của từng huyệt theo du huyệt học, khi tôi phải phân tích phương huyệt trong các bài giảng sau này. Nội dung phân tích như sau : Huyệt Chí dương – Chủ trị : viêm gan; viêm túi mật; đau liên

sườn; Huyệt Can du – Chủ trị : các bệnh ở tạng can; viêm gan cấp, mạn; viêm túi mật; đau thần kinh liên sườn; Huyệt Đảm du – Chủ trị : Viêm gan;...đau sườn ngực; viêm túi mật; Huyệt Thực đậu – Chủ trị :

Sườn ngực trướng đau; Huyệt Đại bao – Chủ trị : Đau liên sườn; toàn thân đau đớn; Huyệt Chiên trung – Chủ trị : đau ngực; dau thần kinh liên sườn; cách khí; trong ngực như tắc; Huyệt Kỳ môn – Chủ trị : dau thần kinh liên sườn; viêm gan; gan sưng to; viêm mạc lồng ngực ( lá thành màng phổi ); viêm túi mật; sườn trướng; Huyệt Nhật nguyệt – Chủ trị : Đau liên sườn; viêm gan cấp, mạn tính; viêm túi mật; co thắt cơ hoành; Huyệt Chi câu – Chủ trị : Đau sườn ngực; viêm mạc lồng ngực; sườn, nách cấp đau; Huyệt Dương lăng tuyền – Chủ trị : đau sườn; viêm gan; viêm túi mật; đau thần kinh liên sườn;.

Tổng hợp lực của đội ngũ đông đảo huyệt vị trong phương, đúng như khẩu hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến” ở thời chiến chống Mỹ lúc đó. Cũng nhờ có thế mà bệnh nhân đã ráng chịu nỗi đau đớn, khi bị châm ngần ấy mũi kim vào cơ

thể của mình. Chỉ vì, anh đang mong sớm được về đơn vị công tác cùng với

anh em.

7 - Chữa cơn đau tim choáng ngất

Từ mùa xuân năm 1968, đến đầu năm 1969, một khoảng thời gian khá dài, tôi ra tiền phương công tác, cùng với các đội võ trang tuyên truyền của huyện Lạc Dương. Ban ngày, chúng tôi vào mấy ấp vừa giải phóng, cách thành phố Đà Lạt không xa lắm. Chính quyền cơ sở của ngụy ở đây mới tan r•, chúng tôi làm công tác xây dựng cơ sở cách mạng trong các ấp ấy. Ban đêm, chúng tôi lại rút lên rừng thông quanh vùng để bảo đảm an toàn. Công việc căng thẳng tinh thần, làm cho sức khoẻ của tôi sút kém. Tôi đã được Tỉnh uỷ cho phép tạm nghỉ, về trạm xá huỵên Đơn Dương ở hậu cứ, giáp với tỉnh Bình Thuận, để điều trị bệnh và an dưỡng.

Mới ngay mấy ngày đầu ở trạm xá, chúng tôi đã phải dời địa điểm nhiều lần, vì những trận càn quy mô lớn của quân biệt kích Mỹ, có kết hợp với biệt kích ngụy địa phương. Mỗi lần di chuyển địa điểm như thế rất vất vả, nặng

nề. Tiếng là bệnh xá huyện, nhưng biên chế chỉ có một bác sỹ, một y tá trưởng. Còn có khoảng 4- 5 y tá được đào tạo cấp tốc ở căn cứ của tỉnh trở về. Cùng với họ, có hai gia đình cơ sở từ ấp Ca Đô, do bị lộ diện, nên đã ra đây, vừa để tránh bị đàn áp, đồng thời giúp trạm xá chăm nuôi, phục vụ thương, bệnh binh.

Một hôm, vào buổi chiều, sau khi cùng mấy y tá đi đón thương binh từ trạm giao liên đưa về, y tá trưởng Minh bỗng nằm lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự. Hai bàn tay anh nắm chặt, ngón tay cái nằm gọn trong bốn ngón tay còn lại đã quắp chặt lấy nó, nó chỉ thò chút đầu ngón cùng với đầu móng tay ra, ở khe hai đốt gốc của ngón giữa và ngón nhẫn. Cổ tay thì cong lại, nổi rõ gân nơi cổ tay. Hai cánh tay thì ôm chặt lấy ngực. Nét mặt anh trông thật đau khổ, mũi anh thì đã ngưng thở, như đang nín hơi gắng sức.

Tôi đứng nhìn anh, nhìn thấy tất cả sự khẩn trương chuẩn bị cấp cứu của các y tá, họ làm theo lệnh của bác sỹ trưởng trạm. Sau khi được tiêm thuốc chừng vài ba phút, người bệnh có mấy lần oằn mình, thở ngắn, hơi thở rất nông. Còn tư thế gò bó, nín hơi vẫn như cũ.

Trước tình thế nguy cấp, tôi liền đề nghị với bác sỹ trưởng trạm cho phép

tôi giải quyết tiếp theo, ông đồng ý ngay.

Tôi lấy ra một cây kim, y tá thì chuẩn bị sát trùng vào nơi tôi chỉ, lau cồn cây kim giúp tôi. Phải khéo léo lắm, cố gắng lắm, tôi cùng với y tá mới xoay được bệnh nhân nằm ngửa hẳn lên, cởi được mấy cái khuy áo trước ngực của anh. Tôi châm đứng kim vào huyệt Cự khuyết. Khi kim đã sâu chừng 2 phần 3 thốn, tôi vê kim ngược chiều đồng hồ. Sức vê kim nhanh và mạnh, vê liên tục. Vê được chừng hơn một trăm lần, bỗng thấy trong vùng bụng trên của người bệnh, nơi giáp với ngực, có tiếng kêu sôi lên ọc ọc,

giống như tiếng xì hơi của một quả bóng bị dìm dưới nước. Kế đó, từ miệng, từ mũi người bệnh cũng phát ra một tiếng xì của hơi thở rất mạnh. Đồng thời, mắt anh từ từ mở, hai bàn tay anh xoè ra như thường, bệnh nhân xoay người, chống tay ngồi dậy.

Lúc này tôi quay sang phía bác sỹ, hỏi ông một cách thân mật : “Anh Mạnh thấy thế nào?.” Ông bác sỹ cũng cười một cách thoải mái và nói : “Bây giờ thuốc của tớ mới có tác dụng.” Nếu tôi là người ít được gần gũi các nhà Tây y, hoặc sẵn lòng tự ái, chắc chắn rằng sau câu nói của bác sỹ Mạnh, sẽ là một cuộc tranh luận gay gắt giữa tôi và ông ta. Nhưng tôi đã không làm thế. Bởi vì tôi cho rằng, để tạo được lòng tin ở họ, nếu có điều kiện, phải cung cấp tài liệu để họ nắm được cơ chế chữa bệnh bằng châm cứu. Nhưng hoàn cảnh ở đây, làm việc ấy rất khó. Chỉ còn một cách là, phải để cho họ thấy hiệu quả cụ thể, và thấy rất nhiều lần.

Khoảng chừng một tuần sau, trạm xá lại được lệnh di chuyển đến địa

điểm mới. Qua suốt một ngày vất vả, y tá trưởng Minh lại lên cơn co thắt vùng tim, với triệu chứng giống hệt như lần trước. Tôi tới hiện trường, nhìn thấy y tá, bác sỹ đã có đầy đủ dụng cụ và thuốc cấp cứu ở đó. Tôi nói ngay với ông bác sỹ : “Anh Mạnh có dám để tôi châm kim, không dùng thuốc hay không ?.” Ông bác sỹ cũng hỏi lại tôi : “Liệu chừng có bảo đảm kết quả không?.” Tôi nói : “Cũng có thể.” Đồng thời, tôi sát trùng huyệt, kim và châm kim. Tôi vê kim đúng như lần trước. Hiệu quả cũng đúng như lần trước. Nhưng lần cấp cứu này đã không phải dùng đến thuốc.

Khi bệnh nhân đã ngồi dậy được, tôi hỏi ông bác sỹ : “Lần này không dùng thuốc của ông, chỉ với một cây kim của tôi, ông thấy thế nào ?.” Ông

cũng lại cười và nói : “Mới có một lần, sao đã đủ để có được nhận xét, kết

luận.”

Tôi bỗng nhớ lại, hồi còn đi trên đường Trường Sơn với bác sỹ Chính cùng đoàn. Ông này vốn là chủ nhiệm Khoa ngoại bệnh viện Phú Thọ. Do ông có lòng yêu mến tôi, ông thường giảng giải bệnh học Tây y cho tôi vào những lúc rảnh rỗi, nghỉ ngơi. Trong những câu chuyện ông đã nói với tôi, có lần ông nhắc tới kết quả của một phương pháp điều trị, muốn được đánh giá là cao, ngoài những tiêu chuẩn kỹ thuật, kinh tế ra, số lần lặp lại cùng một kết quả phải có đủ N lần. N lần càng lớn, phương pháp càng được coi trọng.

Thế là tôi cũng lại nhận ra rằng ông bác sỹ Mạnh vừa nói thế cũng chẳng có gì là lạ cả. Tôi bỗng thấy nhớ ông bác sỹ Chính da diết. Nếu như có ông ở bên, tôi sẽ nói chuyện thoải mái với ông về huyệt Cự khuyết, vì sao nó có tác dụng lạ lùng đó. Ngày nay, hẳn trong xã hội cũng không thiếu những

người còn nghĩ như ông bác sỹ Mạnh nọ. Vì vậy, tôi xin lỗi ông Mạnh để được nói về huyệt Cự khuyết với mọi mgười. Theo du huyệt học, huyệt Cự khuyết, còn được gọi là Tâm mộ. Theo giải phẫu học hiện đại, huyệt vị này ở vùng đám rối dương, phía trên của bụng trên. Chủ trị của huyệt : Đau vùng tim ngực; tim cắn đau,,,ngực tức mà ngắn hơi; nhiều loại đau tim; tự nhiên đau tim ngất; châm Cự khuyết, hạ kim làm cho người ta tỉnh ngay, không bứt rứt.

Qủa thực, nhờ có trải nghiệm, tôi mới hiểu được câu nói của nguời xưa:“ Tiên châm, thứ cứu, tam dụng dược”. Hoặc như câu : “ Biết châm, không biết thuốc, không phải là lương y. Biết thuốc, không biết châm, càng không phải là lương y.”

8 - Chữa chứng chân tay run rẩy do sốt rét kéo dài

Cũng tại trạm xá huyện Đơn Dương trong rừng này, vào một buổi chiều, tôi thấy hai anh quân giải phóng đi bên nhau, họ vào khu đón tiếp của trạm. Một anh đeo hai cái ba lô, cái ở trước ngực, cái ở sau lưng.

Trên vai anh khoác một khẩu súng A.K. Anh kia hai tay chống hai gậy, rê bước chân chậm chạp, dáng người gầy yếu, xanh xao.

Đợi sau khi giao, nhận bệnh binh xong, tôi đến gần để xem cuộc khám chẩn đoán nhập viện của bác sỹ Mạnh. Khi thấy ông ngừng tay, tôi hỏi ông về kết quả khám vừa rồi. Ông nói với tôi : “Cậu Kiểm này là quân ở huyện nhà, do bị sốt rét, suy nhược mà bị yếu gân, cơ, gây ra run rẩy.”

Tôi lại hỏi ông về hướng điều trị, ông cũng giảng giải cho tôi rằng : “Phải điều trị bằng thuốc chống sốt rét, đồng thời, tiêm thuốc trợ sức, bồi dưỡng bằng ăn uống.” Ông ngồi lặng đi một lát, ông lại bùi ngùi nói với tôi : “Như

ông biết đấy, thuốc chống sốt rét, ta chỉ có Ki na cờ rin. Còn như trợ sức, bổ gân, cần có B1, Sít tờ rích nin. Những thứ này ở đây không có. Ăn uống thì thương binh, bệnh binh nặng, sẽ được ăn cơm gạo trắng, không độn. Thực phẩm chủ yếu bây giờ chỉ có mắm, muối, bột ngọt và rau rừng. Lâu lâu, khi có hàng hoá của ban kinh tài cấp, anh chị em y tá vào buôn đổi gà, lợn về ăn dần. Sức khoẻ của bệnh binh này có được hồi phục nhanh hay chậm, nhờ ở dứt cơn sốt nhanh hay chậm, nhờ ở khả năng tự hồi phục của chính bản thân mà thôi.”

Nghe ông nói xong, tôi đề nghị với ông : “Bệnh sốt rét thì các ông cứ

chữa theo Tây y, tôi xin trợ giúp phần cắt cơn run rẩy bằng châm cứu.” Được ông bác sỹ Mạnh đồng ý, mỗi ngày tôi châm cho bệnh binh Kiểm một lần, châm vào hai huyệt Hợp cốc, Thái xung. Tôi châm cả hai bên, vê kim theo phép bổ, và lưu kim.

Thật là không ngờ, kết quả lại nhanh như thế. Chỉ sau 4 ngày, bệnh binh đã bỏ gậy chống, tự đi buông dè dặt từng bước. Kiểm cũng đã tự mình ăn cơm, không cần có người giúp đỡ nữa. Ngày mới nhập viện, đến bữa, phải có người xúc cơm cho Kiểm ăn, vì tay Kiểm run, không bưng được bát.

Tác dụng của hai huyệt chính là cộng hưởng nhau, hai huyệt lại dùng cả hai bên, thành bốn huyệt, nên có tên là “ Tứ quan huyệt.” Trong đó huyệt Hợp cốc, tuy tác dụng chủ yếu nhằm vào các bệnh ở vùng đầu mặt,bệnh dị ứng, bệnh tăng thân nhiệt, nhưng nổi bật hẳn lên vẫn là tác động về thần kinh. Huyệt Thái xung, tuy tác dụng chủ yếu là chữa các bệnh của gan, của huyết, nhưng chúng ta cũng không thể quên được tác dụng của nó tới những quan khiếu, những thể chất do gan chủ quản, đó là gân (can chủ cân = gân).

Cảm động nhất là, sau khi bác sỹ Mạnh giảng giải bệnh tình của Kiểm, ông nói qua về tiềm năng kinh tế của trạm cho tôi nghe, một số thương binh, bệnh binh khác cũng nghe thấy. Họ là những thương binh, bệnh binh nhẹ hơn, hoặc đang chờ xuất viện. Anh em đã bàn nhau, hàng ngày họ ra suối bắt cua, cá đem về. Họ cùng nhau chế biến cua, cá đó thành thức ăn ngon lành, và họ giành phần ưu tiên cho Kiểm. Tình nghĩa đồng đội ở chiến trường với nhau tự nhiên vốn thế.

Tôi thoáng nghĩ tới một ý, có khi chính tình cảm đó đã quyện vào cây kim của tôi, góp phần làm tăng thêm sức kỳ diệu của Tứ quan huyệt mà tôi đã dùng để chữa thành công ca bệnh kể trên.

9- Chữa chứng viêm cơ sâu

Cháu bé trai khoảng 5 - 6 tuổi, con một gia đình từ ấp Ca Đô ra, hiện gia đình này đang phục vụ ở trạm xá. Một hôm, pháo tầm xa của địch từ căn cứ Đức Trọng bắn vu vơ vào rừng, cháu bị thương ở phần mềm bắp chân.

Sau khi vết thương được làm sạch và băng bó kịp thời, bác sỹ Mạnh ra y lệnh tiêm thuốc kháng sinh cho cháu. Thời ấy, người ta rất coi trọng thuốc Pê ni xi nin, cháu đã được các cô y tá tiêm thuốc đó ở bắp đùi bên trái.

Chẳng hiểu vì lý do gì, mà ngay từ hôm đó, chân cháu ngày càng đau

tăng. Vùng cơ tứ đầu đùi đỏ dần lên, sưng to hơn. Cháu sốt cao, giữ đều, không có lúc nào giảm sốt. Cháu lại được chỉ định tiêm tiếp thuốc kháng sinh ở đùi bên phải.

Nào ngờ, đùi phải cháu cũng đau lên, sưng đỏ và to dần, sốt càng tăng lên

bừng bừng, tinh thần không tỉnh táo.

Trong tình thế gay go, bế tắc ấy, được bác sỹ Mạnh cho phép, tôi đã tham

gia chữa chứng viêm cơ sâu đó bằng châm cứu.

Theo sách ghi : Mụn nhọt ở thân mình, chích nặn máu hai huyệt: Thân trụ, Linh đài ; nhọt ở đầu mặt và chi trên, châm tả huyệt Hợp cốc ; nhọt ở chi dưới, chích máu huyệt Uỷ trung. Tôi đã dùng tổng hợp cả 4 huyệt đó trong mỗi lần chữa. Một ngày châm, chích hai lần. Ngay đêm hôm châm chích đầu tiên, cháu đã giảm sốt. Ngày hôm sau cháu tỉnh hơn, các chứng sưng, đỏ, nóng, đau đều giảm rất nhiều, cháu đã ăn được. Sau ba ngày châm, chích, các biểu hiện sưng, nóng, đỏ mất hẳn và dứt sốt. Cháu chỉ còn đau chỗ mũi kim tiêm và vết thương chưa lành hẳn mà thôi.

Mọi người rất mừng, nhưng mừng vui hơn cả người nhà cháu, chính là bác sỹ Mạnh và các cô y tá đã trực tiếp tiêm cho cháu.

Thấy mọi người bắt đầu tin ở châm cứu, mà chưa có ai hiểu nhiều về châm cứu. Nhưng vì chiến trường lúc này, tình hình căng thẳng, bận rộn, tôi không thể nào có cơ hội nói kỹ về tác dụng kỳ diệu của châm cứu, để anh chị em cùng nghe. Thế rồi, đầu năm 1972, tôi được lệnh cùng mấy anh em ở các cơ quan của tỉnh, đi ra Bắc chữa bệnh và nhận công tác. Từ đó, tôi chưa có dịp gặp lại anh chị em ở bệnh xá huyện Đơn Dương ngày ấy. Có thể trong số họ, nay đã có người được học hành thành đạt, với những học vị cao, chuyên ngành sâu cả về Đông, Tây y. Nhưng tôi vẫn ghi lại phương huyệt, cũng là bổ khuyết cho hoàn cảnh lúc bấy giờ tôi chưa làm được. Nội dung chủ trị của các huyệt trong phương như sau : Sách Du huyệt học nói rằng : Huyệt Thân trụ, phần chủ trị, có rất nhiều tác dụng, trong đó có chữa “ mụn nhọt.” Huyệt Linh đài, cũng có chủ trị “mụn nhọt”. Huyệt Hợp cốc, ngoài việc chủ trị “mụn nhọt”, còn chủ trị “sốt cao”. Huyệt ủy trung, ngoài tác dụng chủ trị “sốt cao”, lại cũng có chủ trị “mụn nhọt.” Tổng hợp tác dụng

của 4 huyệt trong một phương làm cho hiệu quả là không có gì phải bàn thêm.

Tôi làm việc này, cũng là tự làm cho lòng mình thanh thản, khi trả được món nợ tinh thần với qúa khứ. Nếu trong số anh chị em xưa kia, có ai tình cờ xem được đoạn văn này, hẳn là một may mắn cho tôi.

10 - Chữa chứng sót nhau

Khoảng mùa hè năm 1968, tôi được lệnh về huyện Lạc Dương công tác. Từ căn cứ của Tỉnh uỷ ở rừng sâu huyện Đức Trọng (nay vùng này thuộc huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng), tôi theo giao liên trèo qua đỉnh Hòn Bù, đi men gần xưởng chén Nhật Bản, vượt qua đoạn quốc lộ Đà Lạt đi Bảo Lộc, rồi sang vùng tam giác Lạc Dương.

Đến cơ quan Huyện uỷ Lạc Dương, tôi được nghỉ lại vài hôm để nhận đồ

cung cấp cá nhân, và chờ chuyến giao liên đưa về nơi công tác. Đêm đầu tiên, chúng tôi vượt ngang đoạn lộ Đà Lạt đi Cầu Đất, vượt sông Đạ Nhim, đi về phía tây huyện Bác ái của tỉnh Ninh Thuận.

Buôn tôi đến là buôn Con ú, ở đây có cán bộ người Kinh tên là Ái, mọi người thường gọi ông là ông Ái già. Ông công tác ở đây từ ngày mới thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam Việt Nam. Ông

quê ở Quảng Nam, nhưng ông nói tiếng dân tộc Kờ Ho rất giỏi. Cùng công tác ở đây với ông, có cô y sỹ Minh, người ấp Xuân Sơn, huyện Lạc Dương. Cô còn rất trẻ, là chị cả trong một gia đình đông con, cô và bẩy em nữa. Cô hăng hái công tác cách mạng, chịu đựng được mọi khó khăn, cùng ăn, cùng ở với đồng bào, vận động đồng bào giữ vệ sinh, phòng bệnh. Cô không ở một nơi cố định. Cô đi lưu động qua các buôn lẻ để làm nhiệm vụ.

Một hôm, có người dân tộc từ buôn Y, cách xa buôn tôi ở chừng một giờ đi đường núi, họ đem đến cho tôi lá thư cô Minh viết tay. Thư kể về một sản phụ vừa sinh con, bị sót nhau. Cô mời tôi đến giúp cô xử lý. Tôi vội vàng

theo người dẫn đường đi ngay. Khi tới nơi, tôi trèo lên cầu thang, vào căn nhà sàn cất dưới gốc cây trong rừng già. Cô Minh mời tôi ngồi xong, cô lôi ở góc sàn ra một gói lá, bên cạnh cô là chiếc võng sản phụ nằm. Người sản phụ đang ôm con, đắp chiếc chăn đơn kín mít. Cô mở gói lá ra, tay cô chỉ vào bánh nhau trong gói lá, cô nói : “Anh xem này, đoạn nhau bị rách còn sót ở trong, có lẽ dài chừng 10 cm.” Nói xong cô đậy lá lại, ý chừng là để đợi phần nhau sót ra được đủ, cô mới cho đem đi chôn lấp.

Tôi lập tức lấy ngải nhung trong túi ba lô ra, nặn đủ năm mồi. Tôi

đặt một mồi ngải vào huyệt Độc âm ở nếp gấp đốt, dưới gầm ngón thứ hai, chân phải của sản phụ. Tôi đốt lửa lần lượt từng mồi, khi lửa cháy hết hai phần ba chiều cao mồi ngải thì bỏ đi. Đốt đủ năm mồi xong, tôi và cô y sỹ Minh ngồi nói chuyện và chờ đợi. Chẳng bao lâu, người sản phụ trở mình và nói điều gì đó, tôi nghe không rõ, nhưng thấy cô Minh đến ngay với sản phụ. Cô đưa tay vào trong tấm chăn che người sản phụ, lấy ra một vật. Sau đó cô lại kéo gói lá dưới sàn, mở ra, đặt vật đó vào, rồi cô gọi tôi lại xem. Cô nói : “ Chỗ nhau sót đó đã ra đủ rồi anh ạ, lạ quá hì.”.

Sau đợt tổng tấn công thứ hai năm Mậu thân, tôi được tin cô Minh đã hy sinh trên đường đi công tác trong vùng địch chiếm. Tôi bùi ngùi thương tiếc một người y sỹ trẻ, cô mới theo cách mạng chưa lâu, nhưng đã tận tụy với đồng bào dân tộc Kờ Ho của tỉnh nhà. Cô Minh ơi! Nếu ngày thống nhất đất nước mà cô còn được đi học, cô sẽ còn được biết thêm nhiều về môn chữa bệnh bằng cách châm cứu, không chỉ biết riêng một huyệt Độc âm chữa chứng sót nhau mà thôi đâu.

Cũng từ khi tôi rời buôn Con ú, trở về tỉnh công tác, và cho tới ngày nay,

tôi không có được tin tức gì về ông Ái. Nhưng trong lòng tôi luôn kính nể người cán bộ già ấy. Ông đã thương dân ở đây lắm. Ông cũng thương tôi như anh cả thương em, trong những ngày gian khổ và ác liệt năm Mậu Thân không thể nào quên.

Tôi cũng luôn nhớ đến mẹ Tiên, cha Pham, ông bà là dân trong buôn. Họ luôn tin tưởng Mặt trận, nghe theo lời cán bộ mặt trận, họ cắm chông, làm bẫy, chống giặc vào buôn làng, đi dân công tải vũ khí về cho bộ đội, giúp đỡ cán bộ hoàn thành nhiệm vụ của mình, trong số đó, tôi là người được dân buôn làng giúp đỡ nhiều hơn cả.

11 - Chữa chứng co thắt cơ tròn gây ra bí đại, tiểu tiện

Thời gian tôi công tác ở căn cứ huyện Đơn Dương, có lần tôi được mời đi cấp cứu cho bác sỹ Dân. Ông là hiệu trưởng trường đào tạo y sỹ cấp tốc. Trường này do hai tỉnh Bình Thuận và Tuyên Đức (nay là tỉnh Lâm Đồng) cùng tổ chức. Ông bị chứng bí tiểu tiện (Đông y gọi là chứng long bí, hoặc chứng niệu trữ lưu).

Trường của ông được đặt ở một vùng rừng le (le là một loại tre trúc, cây

nhỏ và thấp, mọc thưa), giữa hai tỉnh giáp nhau. Khí hậu nơi này rất nóng nực và hiếm nước. Sau khoảng thời gian hai giờ đồng hồ đi đường rừng, tôi tới nơi lúc ấy chừng 13 giờ.

Phần vì vừa đi đường mệt và nóng, phần nữa, khung cảnh tại chỗ càng làm tăng cảm giác oi ả, khó chịu. Bầu trời thì xanh ngắt, không gợn chút bóng mây, dưới đất thì những khóm le lưa thưa, lá đã vàng úa. Đá nhỏ và sỏi khô lăn lạo xạo dưới mỗi bước chân đi. Rải rác đây đó, trên thân những cây le đã được buộc vào đó cành cây thân gỗ nhỏ, dài và thẳng, làm thành dàn che lán ở. Nhưng những tấm tăng bằng ni lông lợp mái đã được gấp gọn, xếp vào ba lô, đặt trên gía đỡ bằng ba cây cọc buộc chéo chân nhau.

Người dẫn đường đưa tôi tới gặp ông bác sỹ hiệu trưởng, ông hiện đang là người bệnh. Ông đón tiếp tôi trong một tư thế đặc biệt của bệnh này. Ông đứng trụ bằng chân phải, co đùi và đầu gối chân trái. Bàn chân ông để gác lên một chiếc ghế dài được ghép bằng bốn thân cây nhỏ và thẳng. Bên cạnh là một cái bàn có khung bằng thân cây gỗ. Mặt bàn thì được ghép bằng những thanh tre chẻ đã vót cạnh, buộc ken bằng những sợi dây mây. Bàn khá chắc và cũng đẹp mắt. Hai cánh tay ông giơ lên, bám vào một cành cây buộc ngang (thời ấy, chúng tôi thường gọi nó là cây nóc tăng). Toàn thân ông buông thõng xuống, nhưng lưng ông thì khom lại. Ông nói với tôi bằng giọng khẩn khoản : “Anh Sửu cứu tôi với!. Tôi bị co thắt cơ tròn, bí tiểu tiện từ sáng hôm nay, bàng quang đang căng đau lắm, có nguy cơ sắp vỡ.” Ông tiếp : “Tôi bị sốt rét, cách đây hai hôm đã có cơn co thắt cơ hoành rất khó chịu. Tôi cho anh em y sỹ tiêm thuốc giãn cơ thì thấy đỡ được. Hôm nay mắc chứng này, tôi lại cho anh em tiêm nhưng không hiệu quả.”

Tôi tiến hành châm cho ông ngay, châm những bài chữa chứng long bí. Cứ sau khi châm năm phút, nếu không thấy hiệu quả, tôi lại thay bài khác. Lần lượt như thế, tôi đã dùng hết các bài trong số sách tôi mang theo, nhưng vẫn chưa tiểu tiện được. Tôi có nói với ông bác sỹ về việc dùng ống cao su

để thông, ông nói, hiện nay ở đây không có. Thấy tôi bắt đầu lúng túng, ông

lại nói với như cầu khẩn : “Anh hãy cố gắng tìm thêm để giúp tôi.” Tôi

chuyển sang mở sách Du huyệt học để tìm, hy vọng ở tác dụng tại chỗ, lân cận, và tạng phủ bên trong tương ứng của các huyệt lẻ vùng bụng dưới. Khi đọc đến đoạn sách nói về huyệt Khúc cốt, thấy sách ghi rằng : “Khúc cốt, Hội âm, chữa chứng cơ tròn co thắt gây ra bí đại, tiểu tiện.” Tôi mừng lắm, nhưng cũng chưa dám nói gì với ông. Tôi chỉ lẳng lặng châm một kim vào huyệt Khúc cốt. Sau đó tôi ngồi xuống, nhờ một y sinh của trường, căng hai quả mông ông bác sỹ, để tôi dễ châm vào huyệt Hội âm. Châm xong kim, hai tay tôi, một trên, một dưới, vê xoay cả hai kim cùng lúc. Chừng vài phút sau, bỗng nghe ông bác sỹ hô lên một tiếng : “Lui”, rất ngắn gọn. Thì ra ông xua đuổi một y sinh đứng trước ông để xem tôi châm và vê kim, kế đó là ông đã tiểu tiện ra được.

Tôi chợt nhớ ra điều cần nhắc người bệnh, mặc dù ông đã là bác sỹ, nhưng chính ông là người trong cuộc, sợ ông vui mừng quá đỗi mà quên mất chăng, nên tôi nói với ông : “Ông phải giữ lại một ít nước tiểu, không được

tè hết ra đâu.” Ông như người bừng tỉnh : “Ô chút xíu nữa tôi cũng quên mất đấy.”

Rồi ông quay sang nói với đám y sinh : “Các cậu nên nhớ điều này, sau khi bí tiểu, bàng quang quá căng, nếu để người bệnh cho ra hết nước tiểu, sẽ gây nên cơn co bàng quang cấp. Có khi vỡ bàng quang mà đi tiểu ra máu ngay, giải quyết hậu quả ấy phiền toái lắm đấy.”

Nếu ai đó đọc đến đoạn này, lại được nhìn thấy nét mặt ông bác sỹ mừng rỡ như thế nào, mới có thể thấy hết giá trị đáng quý của phép chữa bệnh bằng Châm cứu Đông y một cách thật lòng.

Tôi đâu có ngờ rằng, chính chuyến đi cấp cứu gian khổ ấy đã cho tôi một vốn nghề không dễ gì có được. Nhờ nó mà sau này tôi đã chữa cho nhiều người mắc chứng tương tự. Trong đó có một cụ ông là anh họ bác sỹ Phan. Ông bác sỹ này làm việc ở khoa phổi bệnh viện Bạch Mai. Cụ già bị u xơ tuyến tiền liệt mà bí tiểu tiện. Rồi đến một sản phụ bị rách tầng sinh môn, phải khâu nhiều mũi. Do bị viêm chỗ rách, cơ tròn bị kích thích, gây co thắt mà bí tiểu tiện. Tất cả đều được thông tiểu, sau khi tôi tiến hành châm chữa như trên.

Có một anh bác sỹ trẻ, sau khi học đến bài này, gặp bệnh nhân như thế, anh châm cũng hiệu quả ngay. Trên đường về nhà, anh đã vào quán tự thưởng cho mình được phép uống một cốc bia.

Khi anh kể lại với tôi, tôi thấy nét mặt anh sung sướng như việc đó vừa

mới sảy ra xong. Tôi cũng thấy vui lây.

Nghĩ tới tương lai của môn châm cứu, muốn cho phép chữa bệnh bằng châm cứu phát triển trong xã hội, phải dựa vào lớp người hăng hái như anh bác sỹ trẻ nọ, tôi đã phân tích phương huyệt để anh hiểu sâu hơn. Dân gian đã nói : “ Có tích mới dịch ra tuồng.” Tôi nói :

“ Hai huyệt Khúc cốt, Hội âm, đều nằm trên mạch Nhâm. Huyệt Khúc cốt, vị trí ở phía dưới của bụng dưới. Bên trong bụng, tương ứng với huyệt là phủ bàng quang. Trong tác dụng chủ trị của huyệt , có ghi :” Dái dầm, khó đái;...viêm bàng quang...” Huyệt Hội âm, vị trí ở giữa tiền âm và hậu âm, giữa hai bộ máy bài tiết phân và nước tiểu. Trong tác dụng chủ trị có ghi : “...viêm âm đạo, viêm niệu đạo; đau dương vật...; viêm tuyến tiền liệt ;...mọi thứ bệnh trong âm bộ; tiền âm, hậu âm cùng dẫn đau, không thể đại, tiểu tiện được ;... cửa mình sưng đau... “

Tôi nói tiếp với anh : “Cuốn du huyệt thường dùng do tôi soạn, dựa trên phần Cách tìm đúng huyệt ở sách Châm cứu đại thành, có bổ sung thêm

nhiều tư liệu chủ trị ở nhiều sách khác, các lớp học ở đây đều đã được tôi cho sao in đầy đủ. Các anh nên tranh thủ đọc kỹ, khi cần đến, biết chỗ mà tra cứu.” Anh nói :” Vâng, em sẽ cố gắng.”

12- Chữa chứng thiên đầu thống

Một lần, trên đường đi công tác, tôi qua khu rừng, nơi bộ đội huyện Đơn Dương đóng quân. Khi vừa tới bìa rừng, tôi chợt thấy chú lính trẻ từ trên sườn đồi chạy xuống, chú đón giao liên và nói để giao liên đưa tôi lên đồi. Tới chỗ, mà ngay từ khi còn cách xa tôi đã nhìn thấy, có chừng dăm bảy người đứng quanh một cái võng buộc giữa hai gốc cây, trên võng là một người nằm.

Tôi đến nơi, mấy người đứng quanh võng tản ra, họ nhường chỗ cho tôi.

Chú chỉ huy vẫn đứng lại đó, với vẻ rất hiểu biết, chú nói với tôi : “Đồng chí này đau một bên đầu, nhức vào mắt, nước mắt chảy ra đầm đìa, tôi nghi là bệnh thiên đầu thống. Nếu là ở ngoài Bắc (chú là sĩ quan nhưng còn rất trẻ, bổ sung về Đơn Dương ngay từ đầu xuân Mậu Thân), chúng tôi sẽ phải đưa đi bệnh viện mắt ngay, hy vọng còn cứu được con mắt. Bây giờ ở đây chẳng biết làm cách nào khác, ngoài việc đứng quanh nhau, an ủi nhau cho ấm lòng.”

Tôi xem kỹ lại, cũng thấy đúng như lời chú chỉ huy vừa nói. Tôi đứng nguyên, ba lô và khẩu súng ca bin còn đeo trên vai, tay mở bao nhỏ ở dây lưng bên hông, lấy ra hộp kim. Tôi đưa hộp kim nhờ chú chỉ huy đỡ trên

tay. Tiếp theo, tôi mở hộp, lấy kim ra sát trùng và châm vào các huyệt : Đầu duy, Khúc mấn, Chi câu, bên phía mắt đau. Châm xong, tôi lần lượt vê từng kim theo tả pháp, đúng thứ tự, hết vòng thì trở lại.

Vê kim được chừng ba vòng lượt thì người bệnh nói rằng, mắt đã đỡ

nhức. Tới đây, tôi nói với chú chỉ huy ra lệnh cho mọi người về vị trí của mình, còn tôi và chú ở lại. Thỉnh thoảng tôi lại vê kim một vòng lượt. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, người bệnh hết đau đớn. Tôi rút kim xong, người bệnh đã nhỏm dậy, nhưng vẫn là ngồi trên võng, giọng xúc động, nói lời cảm ơn tôi.

Đ đến lúc giao liên nhắc tôi cần phải đi tiếp, tôi mới sực nhớ ra, từ lúc tôi đến đây tới giờ, không thấy ai là quân y cả. Tôi quay sang chú chi huy nói ý định sẽ bàn giao cho quân y, yêu cầu ngày hôm sau vẫn

tiếp tục châm củng cố cho ổn định hẳn. Chú chỉ huy nói với tôi lý do quân y sỹ vắng mặt, và chú nhận mấy cây kim từ tôi trao cho, hứa sẽ chỉ lại quân y đúng vị trí huyệt mà tôi đã châm. Chú còn cẩn thận ghi tên,vẽ vị trí mấy huyệt đó vào cuốn sổ tay của mình.

Về sau này, anh chị em học viên của tôi, gặp người bệnh mang chứng đó, họ đều có thể châm cắt cơn rất nhanh, và chữa tiếp theo nữa thì bệnh đều được ổn định cả. Trong số đó, có anh còn phát hiện từ kinh nghiệm trong

đan gian rằng, bệnh nhân sau khi ổn định, cần phải kiêng ăn thịt chim bồ câu một thời gian dài. Bởi vì, đã có bệnh nhân được anh chữa khỏi, nhưng khi ăn thịt chim bồ câu, bệnh liền phát trở lại. Anh phải chữa lần nữa, và không quên nhắc người bệnh cần chú ý giữ gìn.

Trong khi truyền thụ phương này cho học viên, tôi cũng phân tích phương huyệt cụ thể là : Theo du huyệt học, huyệt Đầu duy, trên kinh vị, hội của túc dương minh và túc thiếu dương. Vị trí ở góc trán, phía bên đầu, gần nơi kinh đảm đi. Trong tác dụng chủ trị, có ghi : “...đau bên đầu ;...đầu đau như phá, mắt đau như lòi ra ; ... Huyệt Khúc mấn (Khúc phát ), chủ trị

:...hai góc não đau, dẫn vào làm chột mắt.. Đó đều là chứng điển hình của

bệnh thiên đầu thống. Huyệt Chi câu, trên kinh tam tiêu, loại huyệt ngũ du

là kinh, hành hoả. Dường kinh tam tiêu khi đi lên mé bên đầu, luôn đi gần kề đường đi của kinh đảm. Hai kinh đều là Thiếu dương ( thủ thiếu dương và

túc thiếu dương). Bệnh Thiên đầu thống là bệnh do đảm hoả gây ra. trong kinh đảm đã có huyệt Khúc mấn, vừa có tác dụng vào kinh gốc sở thuộc, vừa có tác dụng tại chỗ và lân cận. Huyệt Đầu duy, tuy trên kinh vị, nhưng là

hội của hai kinh vị và đảm, lại ở mé bên đầu. Nó vừa có tác dung liên thông với kinh đảm, lại có tác dụng tại chỗ và lân cận. Huyệt Chi câu trên kinh tam tiêu, cũng có nhiều tác dụng sang phạm vi bao quát của kinh đảm, như :

“Đau sườn ngực;...tai điếc;...sườn nách cấp đau ;...” Huyệt Chi câu cùng với hai huyệt trên, tăng thêm sức mạnh trị bệnh của đảm cũng là nhờ ở tính chất đồng khí thiếu dương của hai kinh đảm và tam tiêu. Nhờ những phân tích này, học viên của tôi khi về cơ sở, rất tự tin khi tiến hành chẩn trị, và cũng thu được nhiều thành công.

13 - Chữa chứng đau tuyến tụy cấp tính

Vào khoảng năm 1989, hoặc 1990 thì phải, có một hôm, anh luật gia Ng. V. T., con trai nhà nghiên cứuHà Nội Ng. V. P., tới nhà tôi, đón tôi lên chữa bệnh cho mẹ anh. Cụ bà đang bị đau bụng dữ dội.

Trên đường đi, thời đó đường chưa đông người lắm, chúng tôi còn có thể đi xe đạp sóng đôi mà nói chuyện với nhau. Anh kể rằng, mẹ anh bị đau bụng khoảng một tuần lễ rồi. Chị gái và anh rể của anh là bác sỹ chuyên khoa gì đó. Do không thành thạo về nội khoa, nên anh chị đã mời các chuyên gia, bạn bè của anh chị đến chữa cho cụ. Nhưng cụ vẫn chưa khỏi đau. Ông cụ thân sinh anh cũng nhờ một thầy châm cứu có tiếng tăm, là bạn quen biết của cụ, ông thầy này đã tới chữa cho cụ bà. Kết quả vẫn không được như mong muốn.

Khi tôi và anh T. tới nhà, tôi thấy một mình bà cụ ngồi ngay dưới nền gạch hoa, theo tư thế phủ phục. Cụ quỳ gập đầu gối, hai bàn chân duỗi ra phía sau. Đầu cụ cúi sấp xuống, hai tay cụ co vào đỡ ở vùng bụng trên đã ép tớí mức gần sát đùi. Nhìn tư thế mông cao hơn đầu của người bệnh, kết hợp

với câu chuyện người nhà bệnh nhân đã kể, bệnh có liên quan tới ăn uống. Bệnh nhân phát cơn đau bụng, sau hai ngày ở gia đình vừa có giỗ lớn, tiệc tùng linh đình. Tôi chẩn đoán đây là cơn đau tụy cấp, vì thấy nguyên nhân và triệu chứng phù hợp với mô tả ở bệnh học trong sách Nội Khoa.

Tôi xin phép bà cụ để được châm ngay. Cụ gật đầu đồng ý.

Tôi châm kim vào các huyệt vùng lưng, trong khi cụ vẫn giữ nguyên tư thế tự nhiên của cơn bệnh. Các huyệt đó là : Tụy du, Tỳ du, ý xá. Tôi châm từng huyệt, vê kim theo phép tả tổng hợp, đủ số 108 lần thì rút kim ngay. Châm xong số huyệt kể trên, bà cụ đã thấy giảm bớt đau đớn. Tiếp theo, tôi yêu cầu cụ nằm ngửa xuống để châm ở vùng bụng. Các huyệt tôi châm là : Trung quản, Lương môn. Sau đó, tôi châm tiếp các huyệt ở tay, chân là : Nội quan, Túc tam lý, Thái bạch.

Châm lần lượt vừa xong huyệt cuối cùng của phương, cũng là lúc cơn

đau ở cụ được dứt. Cụ nói với tôi : “ Ô, lạ quá ! Hiện giờ tôi cảm thấy người nhẹ bẫng đi như chưa từng đau đớn. Thú thật với thầy, trước đây chừng mấy mươi phút, tôi đau quá,đau từ phía trước, dưới sườn mé trái, đau nhói về phía sau lưng. Tôi đau đến nỗi tôi tưởng chừng như mình không thể chịu đựng thêm được nữa.”

Tuy thấy hiệu quả tức thời như thế, nhưng hai ngày liền, kế sau đó, tôi vẫn tới châm cho cụ mỗi ngày một lần. Và để củng cố hiệu quả lâu dài, tôi yêu cầu cụ uống Quy tỳ thang trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo. Đồng thời, nhắc cụ cần phải giảm chất đạm động vật trong bữa ăn hằng ngày.

Phương huyệt trên đây, tôi đã phổ biến cho học viên các khoá. Anh chị em về, khi ứng dụng phương này, họ cũng đều thu được kết quả như mong muốn. Ta hãy cùng nhau xem lại cơ cấu của phương để thấy hết giá trị của nó. Huyệt Tụy du, còn có tên là Vị quản hạ du, Bát du. Cổ nhân xếp huyệt này vào loại kinh ngoại kỳ huyệt. Ngày nay người ta đã xếp nó vào hàng ngũ bối du huyệt trên kinh bàng quang, đó là do tác dụng đặc hiệu của nó đối vơi bệnh tuyến tụy. Theo du huyệt học, huyệt Tụy du chủ trị : Bệnh đái đường, bệnh dạ dầy... Huyệt Tỳ du là loại huyệt bối du trên kinh bàng quang, chủ trị : Tiêu hoá kém; nôn mửa; ỉa chảy; trướng bụng; phù thũng;.. sa dạ dày;...thiếu máu; gan lách sưng to; bệnh tật xuất huyết mạn tính;...chi thể mỏi mệt không có sức;...cổ trướng; tích tụ bĩ khối;...ăn nhiều mà mình gầy; sốt rét lâu ngày;...Tụy và Tỳ là hai khái niệm cổ tuyền và hiện đại cùng chỉ về Tỳ. Nhưng y học hiện đại chỉ đích danh hình thái tạng tỳ là tuyến tụy (lá lách), y học cổ truyền coi tỳ là tổng hợp chức năng của lá lách và chức năng vận chuyển chất lỏng trong cơ thể. Tỳ còn cùng với Thận nắm giữ nhiệm vụ điều tiết lượng nước trong người. Huyệt ý xá (ngôi nhà chung của ý nghĩ) cũng trên kinh bàng quang, nhưng ở đường ngoài. Đường này bắt đầu từ huyệt Phụ phân ở phía trên, đi xuống đến khe sườn 11-12 là huyệt. Nó cùng khe liên sườn với huyệt Tỳ du, cùng tiết đoạn thần kinh đốt lưng. Nó phụ trách thần ý lo nghĩ của tỳ (tỳ chủ quản lo nghĩ), lại cũng chủ trị một số chứng bệnh của tỳ, như : ...trướng bụng; tiêu hóa kém; ...đại tiện trơn dễ;...tiêu khát;... Huyệt Trung quản, ngoài chức năng làm mộ huyệt của phủ vị (dạ dày), chủ trị những bệnh ở dạ dày, nó còn chủ trị một số bệnh của tỳ, như :...trướng bụng;...tiêu chảy;...sa dạ dày;...tiêu hóa không tốt;...đau tỳ;...sốt rét ôn dịch;...đại tiện ra không tự biết... Đó là do quan hệ tạng phủ biểu lý nhau giữ vị và tỳ. Huyệt Lương môn (cửa của cây cầu) nằm trên kinh vị, lại ở gần huyệt vị mộ (Trung quản). Huyệt này có ở cả hai bên. Bên trái, trong ổ bụng, tương ứng với vị trí của huyệt là tạng tỳ (vùng đuôi tuyến tụy), thông qua tác dụng chủ trị tạng phủ bên trong tương ứng mà dùng vào phương. Mặt nữa, ta khai thác ý nghĩa tên huyệt là cửa cái cầu (lương môn) để ngăn chặn bệnh qua đây di chuyển sang các bộ phận lân cận. Huyệt Nội quan trên kinh tâm bào lạc, Ngoài công năng chủ trị bệnh ở bản tạng, bệnh ở những nơi đường kinh đi qua, nó còn chủ trị bệnh ở tất cả tạng phủ bên trong, theo nghĩa của tên huyệt là có quan hệ tới nội tạng, nội thương (nội quan). (Đặt tên cho huyệt theo cách này, ta còn thấy ở huyệt

Ngoại quan. Huyệt ở trên kinh tam tiêu, có vị trí đối chiều âm dương với huyệt Nội quan, cũng đối chiều chủ trị. Nó chủ quản về những bệnh chứng có quan hệ với ngoại tà, ngoại cảm-Ngoại quan). Huyệt Túc

tam lý trên kinh Vị. Trong ngũ du huyệt, nó là loại hợp, hành thổ. Ngoài tác dung chủ trị nhiều chứng bệnh đường tiêu hoá, nó còn chủ trị : ...viêm tụy cấp, mạn tính;... Huyệt Thái bạch, nằm trên kinh tỳ,c?nh trong xương bàn chõn số 1; là loại du, hành thổ. Ngoài những chủ trị bệnh ở đường tiêu hoá, ta cò thấy những chứng rất riêng của tỳ :...ợ hơi;...khí nghịch; ...ống chân buốt lạnh;...mình n?ng lưng đau;...

Nhờ mối quan hệ của tiến sỹ y khoa Nguyễn T?n Phong, viện Tai Mũi Họng trung ương với bệnh viện Tổng cục Bưu điện, những năm 1995-1996, tôi được dịp tới khảo sát số liệu từ phép đo nhiệt độ kinh lạc của Khoa y học cổ truyền, đối chiếu với kết qủa nội soi của Khoa tiêu hoá. Chúng tôi đều thấy rất rõ : Bênh viêm loét tá tràng và bệnh phù nề dạ dầy có quan hệ hữu cơ với sự thay đổi nhiệt độ ở kinh tỳ. Bệnh viêm tuỵ cấp, mạn, tính, bệnh thai chết lưu cũng thấy rất điển hình trong số đo nhiệt độ của kinh tỳ, tương ứng với biến đổi men tụy trong kết qủa xét nghiệm huyết học. Qua kết qủa

ở những đối chứng này, tôi đã tìm ra phương huyệt châm cứu, bài thuốc

uống trong phù hợp với những chứng bệnh kể trên, đem lại hiệu qủa chữa bệnh cho nhiều người. Đó thật là một dịp may mắn trên bước đường tìm kiếm sự kết hợp có ích giữa hai nền y học mà tôi đã ấp ủ từ lâu.

14 - Chữa chứng đảm nhiệt hẹp môn vị

Đến nay tôi không nhớ rõ câu truyện này sảy ra vào năm nào, nhưng

chắc chắn là thuộc về thời ông Đ. H. X. làm Bộ trưởng Bộ y tế.

Một hôm, ông Ng. Kh. Â. (lúc ấy là thiếu tá quân đội), cán bộ thuộc Bộ tổng tham mưu đến gặp tôi, đặt vấn đề nhờ tôi chữa bệnh cho bà Đ. T, H.. Bà này là chị gái ông Đ. H. X., hiện bà đang bị một chứng bệnh lạ. Tôi nhận lời, nhưng với một điều kiện là : “ Một tuần lễ tôi chỉ đi thăm khám hai lần, đưa ra phương huyệt châm cứu, còn việc thực hành châm chữa thì chính ông Â. là người sẽ phải tiến hành. Bởi vì, ông Â. đã được tôi truyền cho kỹ thuật của nghề, ông lại là bạn cùng đơn vị công tác với con rể của bệnh nhân.”

Hôm đi thăm bệnh nhân lần đầu tiên, có tôi, ông Â. và bạn đồng chí, đồng liêu với ông (con rể của bà cụ) đưa đường. Tới nơi, sau khi giới thiệu làm quen, ông Â. chỉ cho tôi một cảnh khác thường là, từ chỗ giường bệnh nhân nằm cho tới bếp đun, có đặt rải rác sáu cái ống lon sữa bò để làm ống nhổ. Vì bệnh nhân luôn phải khạc đờm và nhổ nước bọt vặt.

Chồng của bệnh nhân là một ông đại tá pháo binh đã nghỉ hưu. Ông đưa cho tôi xem một tấm danh thiếp đề tên, chức vụ, địa chỉ của ông Đ. H. X.. Mặt sau của tấm danh thiếp, là nội dung một bức thư viết tay của chủ nhân danh thiếp gửi giáo sư V. A như sau : “Chị tôi ở mật có vấn đề, khi nào khẩn cấp chuyển đến anh, anh giải quyết giúp ngay cho.” Ông cựu đại tá nói với tôi : “ Hiện nay bà nhà tôi đang uống thuốc của Hội Đông y trung ương cấp. Cứ khoảng mươi hôm một lần, Hội lại có xe đưa chuyên gia tới bắt mạch, và sau đó là chở thuốc đến. Hôm qua cũng vừa nhận được mười gói. Bà nhà tôi đã uống mấy đợt thuốc mà bệnh chưa chuyển là bao.” Nói xong, ông lôi ở góc giường bệnh ra một bọc thuốc, kéo tờ giấy ghi đơn thuốc ở phía trên bọc đưa cho tôi xem. Tôi lướt qua và hơi giật mình, vì trong đơn ghi số lượng Bán hạ chế đã được gia lên bội phần.

Tôi lấy máy đo nhiệt độ da ra, đo nhiệt độ tỉnh huyệt của 12 đường kinh ở người bệnh. Ông Â. ghi số và tính toán. Kết quả có được là mô hình bệnh Thận Âm hư, Can, Đảm hoả vượng. Trong đó con số của Đảm + rất cao ở cột 10’. Điều này làm cho chúng tôi rất mừng, vì kết quả đo nhiệt độ tỉnh huyệt, phù hợp với nội dung thư tay của ông Đ. H. X. gửi giáo sư V. A. Và càng phù hợp với hình và chứng ở bệnh nhân như : Người gày, ăn ít, da vàng khô, tóc bơ phờ, về chiều thân nhiệt thường trên, dưới 38 độ C.

Nhận thấy bài thuốc mà bệnh nhân đang uống không phù hợp, bởi vì chứng Âm hư không thể dùng Bán hạ chế lượng nhiều được, nên tôi đã yêu cầu bệnh nhân ngừng dùng thuốc.

Phương huyệt trong phương chữa bệnh này, tôi lấy tả Can, Đảm hoả vượng, gia bổ âm là chính. Tôi nói với ông Â. châm các huyệt : Não hộ, Chí dương, Đảm du, Dương cương, Nhật nguyệt, Dương lăng tuyền, Đảm nang huyệt. Các huyệt kể trên đều châm tả. Các huyệt : Túc tam lý, Tam âm giao, châm bổ. Huyệt Thái xung, châm tả. Ngoài ra, hàng ngày khi đến châm, ông Â. có thể tuỳ chứng mà gia giảm thêm.

Bốn hôm sau đó tôi đến thăm lại, các chứng đã giảm được nhiều, người bệnh đã tỉnh táo hơn. Sau một tuần lễ châm, chứng nhổ bọt vặt đã dứt hẳn, mức ăn đã khá hơn.

Theo định kỳ, đến ngày, Hội Đông y trung ương lại cử người đến bắt mạch và cấp thuốc. Người nhà bệnh nhân nể tấm thịnh tình đó, lại sắc thuốc cho uống. Khi tôi đến thăm, thấy mọi chứng ở người bệnh đã trở lại như trước khi chúng tôi điều trị, tôi rất buồn.

Người con rể bệnh nhân gặp tôi, anh cố gắng giải thích với tôi nỗi khổ tâm của gia đình. Vì là người thân của Bộ trưởng, cho nên bà được hưởng mọi ưu đãi như : Có chuyên gia đến tận nhà thăm khám, thuốc có người đưa đến tận nơi, không phải trả tiền. Người dân bình thường nào dám mơ tới cảnh đó. Ngập ngừng một lát, vị con rể bệnh nhân đã đề nghị với tôi và ông Â. một phương án dung hoà : “Xin các anh cứ để gia đình cho uống thuốc của Hội cấp, và nhờ các anh theo dõi giúp sự tiến triển tốt, xấu của bệnh.” Nghe xong câu nói đó, tôi nói với ông Â. và người nhà bệnh nhân rằng : “Chúng tôi không có thời gian để làm một việc mà khi mình đã nhìn thấy kết quả không tốt. Nếu gia đình tiếp tục cho uống thuốc thì đừng nhờ đến chúng tôi.” Nói xong chúng tôi chào và ra về.

Sau buổi đến thăm cuối cùng ấy khoảng một tuần lễ, con rể của bệnh nhân đi cùng với ông Â. đến gặp tôi, khẩn khoản yêu cầu tôi nhận khám lại, và để ông Â. thực hành châm như trước đây. Ông này còn hứa không để mẹ

vợ uống những ấm thuốc vô hiệu ấy nữa. Ông Â., một phía là bạn với con rể bệnh nhân, một mặt lại cũng muốn trực tiếp được thử nghiệm chữa một bệnh khó, nên ông cũng nói thêm vào, cùng với ý của bạn mình. Thấy thế, tôi đồng ý nhận lời, nhưng yêu cầu người bệnh, sau khi ngừng dùng thuốc bốn ngày hãy khám lại. Và lần này phải đưa người bệnh đến nhà tôi. Tôi sẽ không đi tới nhà người bệnh nữa, vì tôi không có đủ thời gian làm việc ấy.

Từ đó đúng hẹn, một tuần hai lần, người nhà đã chở bà chị ruột ông Bộ trưởng Bộ y tế đương nhiệm, đến căn phòng tồi tàn của tôi trong khu ở tập thể Uỷ ban Thống nhất, thuộc làng Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, để tôi thăm khám và ra phương huyệt, bàn giao cho ông Â. thực hành điều trị tiếp tục.

Chừng hai tuần lễ sau lần khám chữa lại đó, mọi chứng lạ lùng của người bệnh đã hết, ăn ngủ đã khá hơn. Việc bồi dưỡng hậu bệnh, tôi giao lại cho gia đình tự lo.

Để bày tỏ lòng cảm tạ tôi về kết quả chữa khỏi bệnh cho vợ mình, ông đại tá về hưu, chồng của bệnh nhân đã đến tặng quà cho tôi (không phải là trả công). Không hiểu ông thăm dò từ đâu về hoàn cảnh ăn ở và làm việc của tôi, ông đã mang đến món quà tặng tôi rất hợp cảnh. Ông mở gói giấy ra, trong đó có bốn viên pin Con ó (có lẽ đã qua sử dụng rồi) ông nói, đây là quà của người cháu ở Miền Nam ra thăm, đem biếu ông. Ông đem tặng lại tôi để tôi lắp vào đài bán dẫn mà nghe tin tức hàng ngày. Chưa hết, ông lại mở gói thứ hai ra, trong đó có một túi kẹo nước ngoài, ý chừng để dành đã lâu, nay đem dùng vào việc tặng nơi xứng đáng được tặng quà này. Khi ông ra khỏi nhà, tôi xem kỹ lại quà tặng : Quả pin thì đã mềm vỏ, túi kẹo thì đã bị chuột khoét thủng, kẹo đã ướt.

Tôi ghi lại chuyện này để làm làm bài học về một loại bệnh khó, một phép chữa bệnh khó, và hơn nữa để ghi lại bài học quan hệ giữ người với người ở một thời rất khó khăn của xã hội. Nhưng vấn đề cần thiết hơn cho những người mới vào nghề châm cứu, lại chính là cơ cấu của phương huyệt cần làm rõ ra, việc tiếp thu, ứng dụng mới thật hiệu qủa.

phương huyệt được lập thành, trên cơ sở tác dụng chủ trị của số huyệt trong phương như sau : Các huyệt Não hộ, Chi dương, Đảm du, tôi đã trích

dẫn du huyệt học về nội dung chủ trị của chúng, chúng đều chữa bệnh ở gan, mật. Xin xem lại ở bài số 1- Chữa bệnh mắt vàng. Huyệt Dương cương, nằm trên đường ngoài của kinh bàng quang, trên khe liên sườn 10-11,cách cột sống 3 thốn cùng tiết đoạn thần kinh cột sống với huyệt Đảm du. Chủ trị của huyệt này đã viết : ...vàng da; viêm gan; viêm túi mật ;... Huyệt Nhật nguyệt ở kinh đảm, nằm trên khe liên sườn 7- 8, thẳng đầu vú xuống. Tương ứng với vị trí huyệt bên phải, phía trong lồng ngực là phủ đảm. Tác dụng chủ trị : ...viêm gan cấp, mạn tính ; viêm túi mật;...hay nhổ bọt;... Huyệt Dương lăng tuyền nằm trên kinh đảm, dưới đầu gối, trước đầu trên của xương mác, loại hợp, hành thổ. Tác dụng chủ trị :...viêm gan; viêm túi mật;...đắng trong họng;...

Huyệt Đảm nang là kinh ngoại kỳ huyệt. Vị trí, ở dưới huyệt Dương lăng

tuyền từ 1- 2 thốn. Chủ trị : Bệnh tật ở túi mật...

Với tác dụng chủ trị của các huyệt trong phương đều tập trung vào bệnh túi mật như thế, bệnh ở túi mật phải lùi là kết qủa tất nhiên, không thể nào khác đi được.

15 - Chữa chứng chân tay co quắp do rối loạn can xi huyết

Một buổi sớm mùa đông, ở thôn Hữu Định, xã Quang Minh, huyện Hiệp Hoà, nơi trường Cao đẳng Mỹ thuật của tôi sơ tán Đây là vùng trung du, , đất pha sỏi đá ong, khí trời rất giá lạnh. Tuy trời không mưa nhưng sương buông dày đặc quanh nhà.

Chúng tôi vừa mới ngủ dậy, đang quét dọn vệ sinh sân, ngõ, chưa kịp rửa mặt, đánh răng, đã có người đến gọi tôi đi cấp cứu. Khi nhìn ra cổng tôi thấy một sinh viên nữ đứng đợi để đưa tôi đi. Tôi vội rửa tay chân, súc miệng qua loa, vội lấy đồ châm cứu và theo cô sinh viên đến nhà dân nơi các cô ở nhờ.

Tôi được đưa vào một căn buồng nhỏ, tối om. Trong ánh sáng lờ mờ của

ngọn đèn dầu hoả, kiểu Hoa Kỳ, làm bằng sắt tây vỏ đồ hộp phế thải, tôi nhìn thấy khoảng chừng dăm, sáu chị em đứng vây quanh một người bệnh. Họ đang thay nhau kéo hai cẳng tay đã co cứng, bàn tay người bênh thì nắm chặt. Mùi dầu cao con hổ sực nức khắp nơi. Thấy tôi vào, chị em xung quanh người bệnh đã tản ra. Lúc này tôi mới nhìn rõ người bệnh là chị Thanh, sinh viên năm thứ nhất khoa hội hoạ. Một chị nói với tôi : “ Nhà chị Thanh ở gần phố Thắng, chiều thứ bảy nào chị cũng về thăm, chiều chủ nhật chị lại tới trường. Tối hôm qua nhà chị có việc cần, chị đã ở lại. Thế là, sáng nay chị phải đi rất sớm để đến kịp buổi học. Chị đi đường bị lạnh, lại phải gắng sức đạp xe leo dốc, vừa đến đây là chị bị co quắp như thế này. Chúng em đã thay nhau bôi dầu, xoa nắn và kéo gỡ, lại bảo nhau đi tìm anh và sang phòng y tế nhà trường mời y sỹ. May mà anh đến ngay, nhờ anh xem dùm chúng em.”

Tôi vừa nghe kể, vừa lấy kim ra chuẩn bị châm, vừa dự trù phương

huyệt. Đầu tiên tôi châm bát tà ở hai tay, châm bát phong ở hai chân, lưu kim và lần lượt vê kích thích tả pháp. Vê hết hai vòng lượt, chưa thấy cơn co quắp được hoãn giải, tôi lập tức rút hết kim ra. Tôi đổi sang dùng tứ quan huyệt, châm ở hai Hợp cốc, hai Thái xung. Tôi dùng cả hai tay, vừa vê, vừa nâng ấn liên tục, chẳng nghĩ đến đếm số nữa. Nhưng khi vê được chừng năm bảy phút, tôi thấy đôi chân bệnh nhân từ đang duỗi thẳng bàn, ngón, co rút cơ dép, đầu gối cũng duỗi thẳng cứng, bỗng nhiên mềm ra, co đầu gối lại. Cổ chân, bàn chân, ngón chân trở lại bình thường. Đồng thời khuỷu tay duỗi ra, ngón tay cũng buông lỏng ra, không nắm chặt nữa. Tôi rút kim và nói với chị em xoa bóp tay chân cho bệnh nhân đỡ mỏi, bởi cơ bắp bị co rút kéo dài gây ra.

Về sau này, khi đọc sách tôi mới biết rằng chứng co quắp đó là do rối

loạn can xi huyết gây ra.

Đang lúc mọi người thở phào nhẹ nhõm, đã qua những phút căng thẳng tinh thần. Họ nói, cười vui vẻ với nhau. Bỗng nhiên họ im bặt. Thì ra y sỹ cơ quan đã tới. Ông đứng bên ngoài cửa buồng, hai tay bám hai bên mép khung cửa. Ông rùa cổ, thò đầu vào nhòm ngó mọi người và nói : “ Buồng này sao mà hôi thế!. Lớp cử người theo tôi lên phòng y tế, lấy giấy giới thiệu về đưa bệnh nhân đi bệnh viện Hiệp Hoà.” Nói xong, ông quay ra đi ngay. Tôi đoán chừng là mọi chứng trạng ở người bệnh vừa sảy ra, ông chưa cần biết, ông đợi người trong lớp lên kể để ông ghi vào giấy giới thiệu cho chính xác. Còn như việc cứu chữa chứng đó, ông cho rằng thuộc phạm vi nhiệm vụ của bệnh viện huyện.

Thấy thái độ của ông y sỹ như trên, vả lại bệnh của chị Thanh cũng đã hoãn giải, chị Thanh cùng với chị em gần như đồng thời nói với tôi : “Không đi bệnh viện nữa, ở nhà để học. Nếu có gì cần, chúng em lại nhờ anh Sửu giúp đỡ.”

Tôi không những mừng vì kết quả của phép châm kim chữa bệnh, mà còn mừng vì mọi người đã có sự tin cậy ở tinh thần Đông y trong cuộc sống hàng ngày.

Nay nói thêm về tứ quan huyệt. Tứ quan là 4 cửa ải, 4 mối quan hệ. Chủ trị

của huyệt Hợp cốc, Thái xung, tôi đã giới thiệu một số mặt ở tong bài số

8- Chữa bệnh chân tay run rẩy do sốt rét kéo dài. Khi kết hợp 2 Hợp cốc, 2

Thái xung thành tứ quan huyệt, tác dụng chủ trị là điều khí huyết, hoà âm dương, trấn tĩnh, kéo huyết áp xuống, dùng để chữa trẻ em kinh phong, tinh thần thất thường... Theo nhiều số liệu khảo sát. so sánh, tôi nhận thấy những biến đổi can xi huyết đều có quan hệ hữu cơ với biến đổi chức năng gan, và tương ứng với biến đổi nhiệt độ tỉnh huyệt đường kinh can. Tên của huyệt là Thái xung, tự nó đã nói rõ tác dụng chữa chứng can khí xông lên

mạnh mẽ. Can chủ cân (gân), Thái xung là loại du của kinh can, du cũng như nguyên, tác dụng thẳng vào bản tạng, bản phủ. Lại thêm tác dụng chủ trị của Hợp cốc chữa cảm mạo,... ngón tay tê cứng ;... Do đó, tứ quan huyệt hoãn

giải nhanh chóng cơn co quắp tay, chân do rối loạn can xi huyết là có cơ sở

sinh lý như đã nêu trên.

16 - Chữa chứng cơn đau quặn thận

Mùa hè năm 1972, từ chiến trường Cực nam Trung Bộ, tôi cùng mấy anh em trong tỉnh Tuyên Đức (nay là tỉnh Lâm Đồng - Đà Lạt), được tỉnh ủy cho đi chữa bệnh, chúng tôi đã ra tới Miền Bắc.

Sau khi làm xong thủ tục ở K - 15, thuộc Uỷ ban Thống nhất trung ương,

chúng tôi được đưa về Bệnh viện E (thời ấy bênh viện này trực thuộc Uỷ ban Thống nhất) để khám và chữa bệnh. Tôi vào Khoa Nội 7. Khoa sơ tán ở vùng đồi huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bệnh nhân và nhân viên của viện đều ở nhờ nhà dân, phòng khám, chữa bệnh cũng là nhà của dân cho mượn.

Một hôm, vào khoảng gần 10 giờ sáng, có bệnh nhân là cán bộ trong đoàn tỉnh Bình Thuận (đoàn này cùng ra Bắc với đoàn chúng tôi một đợt) đến gặp tôi, ông nói : “Đoàn của tôi có một anh bị đau bụng. Các bác sỹ đã chẩn trị từ khi bắt đầu làm việc buổi sáng, hiện giờ anh vẫn chưa dứt cơn đau, tôi muốn mời anh tới xem dùm.”

Tôi theo ông cán bộ Bình Thuận sang phòng khám Khoa Nội 7. Lúc này

ở phòng khám có cô bác sỹ M. ngồi trực, tôi nói với cô M. rằng : “Tôi cùng miền Cực nam Trung Bộ với người bệnh, xin phép cô cho tôi tham gia cắt cơn đau cho bệnh nhân.” Cô bác sỹ vui vẻ hỏi lại : “Anh cần đến thuốc gì

?.” Tôi nói : “Trước hết, xin cô cho tôi biết ý kiến hội chẩn sáng nay của các

bác sỹ trong khoa.” Cô nói : “Chúng em nghi đây là cơn đau quặn thận. Đau từ bụng dưới sang lưng. Cho tới giờ này, chúng em đã tiêm cho bệnh nhân ba loại thuốc khác nhau, nhưng cơn đau vẫn chưa cắt được .”

Tôi đề nghị : “Xin cô cho tôi một ống B 1. Cô M. liền ghi y lệnh, đưa cho y tá đứng cạnh. Rất khẩn trương, cô y tá đưa đến một khay sắt tráng men sạch sẽ, trong đó có đủ bơm kim tiêm, panh, bông, cồn sát trùng và một

ống thuốc nước. Cô M. đỡ khay dụng cụ từ cô y tá, cô lại đưa sang phía tôi và nói : “Xin mời anh sử dụng.” Tôi vội giơ tay ngăn lại. Tôi nói ngay : “Xin lỗi bác sỹ, tôi không biết tiêm thuốc. Nhờ cô tiêm dưới da vào hai nơi tôi sẽ chỉ, mỗi nơi một nửa ống thuốc này.” Nói xong, tôi ngồi xuống bên cạnh bệnh nhân, lúc này người bệnh đang nằm nghiêng về bên phải. Tôi kéo áo bệnh nhân lên để lộ huyệt Thận du bên trái ra. Tôi đếm khe đốt sống thắt lưng L 2 và L 3, đối chiếu với sườn cụt số 12, để lấy huyệt cho chuẩn. Sau khi ấn thử phản ứng của huyệt, tôi để đầu ngón tay trỏ của tôi tại đó và nói : “Nhờ cô tiêm ở đây một nửa ống thuốc.” Cô Mai rất nhanh tay sát trùng nơi tôi chỉ, cô lại cẩn thận vảy kẹp bông cồn cho khô để lau lại chỗ vừa bôi cồn. Cô tiêm vào đó đúng một nửa ống thuốc như tôi đã dặn. Sau khi tiêm xong, cô hỏi tôi : “Còn đâu nữa anh?.” Tôi đỡ bệnh nhân nằm ngửa hẳn lại, kéo

quần bệnh nhân xuống qua hai mào chậu trước, để lộ ra quá nửa bụng dưới. Tôi chỉ vào huyệt Thuỷ đạo, ngang với huyệt Quan nguyên, và nói : “Nhờ cô tiêm ở đây.” Cô bác sỹ lại sát trùng và tiêm rất nhanh.

Khi cô M. tiêm xong, y tá đỡ lấy ống tiêm và kẹp từ tay cô bác sỹ mang đi. Nhưng cô bác sỹ vẫn đứng ở đó. Y chừng như cô chờ xem mọi cử sự tiếp theo của tôi. Tôi đỡ bệnh nhân nằm nghiêng trở lại. Hai bàn tay tôi úp vào hai huyệt Thận du và Thuỷ đạo ở hai phía lưng và bụng, nhẹ nhàng day ngược chiều kim đồng hồ. Day được chừng vài chục lần, tôi đã thấy hơi thở bệnh nhân đều đều. Đoán chừng bệnh nhân đã ngủ được, tôi rón rén đứng dậy nói nhỏ với cô M. : “Xin cô nhắc mọi người giữ yên lặng, để cho bệnh nhân được ngủ bù sau cơn đau đớn kéo dài.”

Trưa hôm đó, sau khi có kẻng báo, các tổ bệnh nhân đi nhận cơm về ăn. Tôi nhìn thấy người bệnh đi từ phòng khám về nhà để ăn cơm cùng với tổ của mình. Xế chiều, sau buổi làm, cô bác sỹ M. đến nhà tôi ở, cô cầm quyển sổ và cây bút máy Kim Tinh trong tay. Sau khi đã chào hỏi chủ nhà và anh em chúng tôi, cô liền đề nghị với tôi : “Anh làm ơn phổ biến cho chúng em một số kinh nghiệm xử lý cấp cứu. Mỗi khi gặp ca bệnh như trường hợp sáng nay, chúng em rất lúng túng anh ạ ”. Tôi nói lại với cô, nửa đùa, nửa thật một cách thân mật : “Ai lại làm thế!. Chúng tôi đâu dám múa rìu qua mắt thợ. Trường hợp sáng nay, tôi phải mạnh dạn sang khoa, xin cho tôi tham gia chữa, là vì, các anh này ở cùng chiến trường với tôi, vốn đã biết tôi. Nhất là thời gian trên đường ra Bắc, tôi đã cấp cứu cho nhiều anh em bệnh nhân và giao liên. Nếu tôi không làm thế sao đành hả cô?. Chắc tôi chẳng nói cô cũng đã hiểu, ở chiến trường, thuốc men rất hiếm, khi gặp sự cố sảy ra, chúng tôi thường chỉ dùng kim châm, hoặc đốt ngải cứu. Gặp khi không mang theo kim, chúng tôi phải bẻ gai rừng, lau sạch rồi châm. Vết châm thì sát trùng bằng gừng, tỏi, trước và sau khi châm. Cũng may mà ngần ấy năm tôi làm như thế, chưa có lần nào vết châm bị nhiễm trùng.”

Thấy tôi kiên quyết từ chối, cô bác sỹ M. như bị hụt hẫng. Với vẻ mặt

buồn rầu, cô chào chúng tôi, chào gia chủ rồi chầm chậm ra về.

Tôi thông cảm với cô bác sỹ, cô đang mong muốn được biết ngay cái cần biết. Khi chưa được đáp ứng như ý, cô buồn. Nhưng tôi lại nghĩ, đành phải thế. Từ hai phương pháp luận của hai nền văn hoá khác nhau, nay bỗng đâu có thể nói với nhau trong chốc lát, để rồi làm theo nhau mà đem lại kết quả giống nhau được. Cứ cho rằng người nói có cách nói rất khéo, người làm theo có cách bắt chước khéo đến mấy đi nữa. Nhưng đó vẫn chỉ là dùng cái thanh để tả cái hình, dùng cái hình để phỏng cái thanh. Còn như cái thần của nó vẫn chỉ phảng phất ở đâu đó mà thôi. Dễ chi mà đồng thời hoà nhập

nhanh gọn tất cả thần, thanh, hình vào nhau. Nếu chỉ mới cùng có ước muốn giống nhau, hẳn là chưa đủ. Còn cần phải có thời gian và các điều kiện khác kèm theo. Như thế, mọi ước muốn mới có thể đi tới thành công.

Đó là với cô bác sỹ, cảm hứng học hỏi chỉ mới chợt nảy ra, nên tôi đã nói với cô như thế. Còn như đối với học viên theo học tôi ở các lớp, họ tự nguyện tìm đến, khi họ đã lấy Đông y làm nghiệp, tôi không đợi họ phải đòi hỏi nhiều. Tôi muốn anh chị em học đến đâu, ứng dụng được ngay đến đấy. Vì thế, những chứng cấp tính ổ bụng, môn châm cứu có thể làm được gì cho người bệnh, tôi đều đã dậy cho họ ngay, sau khi được học các thủ pháp thao tác cần thiết. Bởi vì, đây là những chứng người thầy thuốc cũng thường gặp. Với chứng cơn đau quặn thận, thực chất là cơn đau bụng do sỏi thận và sỏi đường tiết niệu gây ra, tôi cũng phân tích kỹ như những chứng cơn đau quặn gan, cơn đau tụy cấp tôi đã kể đến ở trên. Phương này tuy chỉ dùng 2 huyệt, nhưng không vì thế mà hiệu lực không mạnh. Huyệt Thận du, là bối du trên kinh bàng quang, lại có vị trí tương ứng với tạng thận trong ổ bụng. Tác dụng chủ trị của nó phải là nhiều chứng bệnh ở tạng thận và do thận gây ra, như : ...phù thũng;...đái ra máu;...viêm thận; thận cắn đau; sa thận; v.v... Huyệt Thủy đạo trên kinh vị, nơi vùng bụng dưới. Tương ứng với vị trí huyệt, ở bên trong ổ bụng cũng là tạng thận. Tên của huyệt đã nói rõ tác dụng chủ yếu của nó là nhằm vào bệnh ở đường nước (thủy đạo), công năng của thận cũng chủ thủy. Cho nên, chủ trị của huyệt ta thấy : Viêm thận; viêm bàng quang; v.v... Nhiều học viên gặp cơn đau quặn thận, xử lý bằng phượng huyệt này đều đã cắt cơn đau nhanh chóng. Nhanh đến mức bệnh nhân và người nhà bệnh không ngờ được như thế.. .

Có điều cần nhắc các lương y trẻ, sau khi cơn đau quặn thận, cơn đau quặn gan đã dứt, chưa phải là bệnh đã khỏi hẳn. Cần cho người bệnh đi làm các chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm cận lâm sàng. Từ những kết quả đó, sẽ có những xử lý cần thiết tiếp theo với người bệnh.

17 - Chữa chứng bong gân bàn chân

Thời gian tôi mới ra Bắc để chữa bệnh, tôi được gửi sang Viện chống lao trung ương để điều trị bệnh phổi. Tại đây tôi gặp một chiến sỹ quân giải phóng, tên anh là D.. Anh quê ở Hải Phòng, là sinh viên năm thứ hai trường Đại học Y khoa Hà Nội. Anh đã tình nguyện vào chiến trường B chống Mỹ, nay anh cũng được chữa bệnh tại đây. Anh còn rất trẻ, tuy anh đã mang trong người cả bệnh phổi lẫn bênh sốt rét rừng, lá lách sưng to, nhưng những buổi chiều không lên cơn sốt, anh vẫn ra sân cùng chơi bóng chuyền với mọi người.

Một hôm, sau lần nhảy lên đập bóng qua lưới, khi tiếp đất, bàn chân phải anh đạp lên một mẩu gạch củ đậu. Bị mất thăng bằng, khiến anh loạng choạng ngồi xuống. Có người vội chạy đi gọi y sỹ trực đến. Sau khi đã xem xét kỹ, y sỹ kết luận là anh bị bong gân ở bàn chân. Y sỹ nói tiếp, sẽ đưa anh đi bó bột để cố định lại. Y sỹ vừa nói xong, lại chỉ vào một ông cán bộ to béo đứng xem đánh bóng gần đó và nói : “Ông T. kia là Cục phó Cục xăng dầu, hôm thứ năm tuần trước, ông cũng bị bong gân ở chân, do được đưa đi bó bột kịp thời, đến nay chân đau của ông đã gần khỏi rồi đó.” Tôi và D. nhìn theo hướng tay chỉ của ông y sỹ, thấy chân ông Cục phó ấy to xù một màu trắng. Bước chân ông đi cà nhắc. Chẳng hiểu vì vướng bột bó, hay chân ông còn đau, ông đang đi chầm chậm đến chỗ chúng tôi.

Nghe y sỹ nói, lại nhìn thấy chân ông cục phó nọ, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ,

nhận chữa cho D. bằng châm cứu. Tôi đã nói với D. và ông y sỹ rằng, sẽ không phải đi bó bột, để chúng tôi tự chữa lấy cho nhau. Tôi dìu D. về phòng. Ông Cục phó nọ tò mò đi theo sau chúng tôi. Tôi cũng chẳng cần để ý đến việc đi theo của ông.

Ông cục phó ngồi xem tôi làm việc một cách rất chăm chú. Tôi sát trùng

kim vào nơi huyệt Túc lâm khấp bên chân đau. Châm kim xong, tôi vê bổ

81 lần. Cuối cùng là tôi bó ngải nhung vào đốc kim một mồi, mồi ngải to bằng hạt táo chua, tôi châm lửa đốt. Khi mồi ngải đã cháy hết, không còn màu hồng của than, tôi lấy mảnh giấy hứng dưới kim và gạt cho tàn tro rơi đi. Tôi lại bó vào đốc kim mồi ngải thứ hai, đốt lửa. Trong khi chờ mồi thứ hai cháy, tôi nói với D. :“Cậu nên nhớ, đây là kinh nghiệm gia truyền nhà tôi đã bẩy đời, mà đời tôi là đời thứ nhất. Tất cả các trường hợp bong gân, va đập tụ máu, không rách da, dù bất cứ ở đâu, ta cũng có thể chữa được. Chỉ cần châm tả một huyệt tại chỗ, hoặc lân cận nơi bong gân, tụ máu, đồng thời ôn châm ở huyệt Túc lâm khấp từ một đến hai mồi ngải (không được đốt đến ba mồi). Qua một đêm ngủ, ngày hôm sau đau đớn giảm hẳn, máu tụ cũng

tan mất. Nếu bong gân ở chân như D., thì huyệt tại chỗ cũng chính là huyệt Túc lâm khấp, không cần châm thêm huyệt nào khác nữa.” Tôi vừa nói dứt câu, ông Cục phó đã vỗ nhẹ vào vai tôi mà nói : “Cậu nói đùa mà cứ như thật.” Tôi cũng chẳng để ý đến câu nói đó của ông, lặng lẽ rút kim, sát trùng, ấn day nhè nhẹ vào huyệt dăm bảy lần là xong.

Chiều hôm sau, D. đã cùng mọi người ra sân, nhưng chỉ để xem. D. chưa dám tham gia đánh bóng. Ông Cục phó theo dõi D, thấy D. đi lại thoải mái, không hề tỏ ra đau đớn, ông có vẻ thèm muốn được như D.. Ông bước đến gần tôi, nói với tôi, nửa như ông hối tiếc, nửa lại như ông oán trách tôi : “Này, sao hôm chân tớ bị bong gân, cậu không chữa giúp tớ, để tớ phải đi bó bột, đến nay chân tớ vẫn chưa hết đau. Tớ đi, lại, thấy chân vướng bận khó chịu quá.” Tôi bỗng thấy câu hỏi của ông có gì đó lạ quá. Tuy tôi không dám buột miệng để cười ông, nhưng tôi đã không nén nổi giọng châm biếm khi nói với ông : “Ông nghĩ hơi đơn giản hơn tôi nghĩ đấy!. Nhà nước đã có chế độ ưu tiên cho cán bộ cao cấp. Cách tôi chữa bệnh cho D. chỉ là cách chữa của những người cấp thấp trong xã hội dành cho nhau. Nếu tôi dám mạo muội đến xin chữa cho ông, trong lúc ông chưa biết tôi là ai, liệu chừng ông có rộng lòng bỏ qua cho sự mạo muội của tôi? Và, thưa ông, liệu những người có trách nhiệm chăm lo sức khoẻ cho ông, bảo vệ cán bộ cao cấp như ông, họ có để cho tôi được yên, khi tôi làm cái việc mà ông cho là có lợi cho ông ấy hay không?.”

Nét mặt ông lúc này trông mới thật sự khác lạ với nét mặt của chinh ông, khi ông bắt đầu nói chuyện với tôi ở ngày hôm qua. Nét mặt khác lạ ấy, hẳn là những ai nghe xong chuyện tôi vừa kể, họ đều có thể hình dung ra. Tôi

thấy chẳng cần tả thêm, e sẽ là thừa.

Nhiều võ sư trẻ đến học châm cứu ở tôi, khi ứng dụng phương huyệt này chữa cho võ sinh bị chấn thương khi luyện tập, kết qủa chữa cũng rất tốt. Họ đều muốn tôi nói rõ cơ chế tác dụng của phương huyệt. Tôi thường kể cho họ nghe câu truyện về con gấu và mật gấu. Kinh nghiệm dân gian cho rằng : Khi con gâu tìm được tổ ong trên cây, gấu ăn no mật thi bị say, nó rơi xuống đất. Ngườì thợ săn lúc này dến trói chắc bốn chân gấu lại. Chờ cho gấu tinh hẳn mới mổ bụng lấy mật. Họ cho rằng, khi gấu rơi xuống đất bị đau, mật của gấu đã chảy đi khắp cơ thể để tiêu sưng, giảm đau. Nếu mổ gấu ra ngay sau khi gấu vừa rơi, túi mật gấu chỉ có nước trong, chất lượng mật gấu rất kém. Phép chữa chấn thương, sưng đau ở người, bằng cách bôi xoa mật gấu rồi nắn bóp, có nguồn gốc từ câu truyện này mà ra. Mật của con người, ngoài công năng trợ giúp cho tiêu hoá, nó còn có công năng bảo đảm cho mọi hoạt động của dương khí trong cơ thể được cân bằng, trung chính, có công năng sát trùng, bảo vệ nguyên khí. Nó cùng tân dịch đi khắp nơi

giữa da dẻ và cơ bắp, nên nó là thành phần chủ yếu của vệ khí. Tính chất chống ứ, tiêu sưng của nó có nhưng kém hơn mật của gấu. Gặp khi bị chấn thương, huyết ứ tụ lại làm sưng, đau. Ta ôn châm vào huyệt Túc lâm khấp trên kinh đảm, loại du, hành mộc, mà du cũng như nguyên. Tức là ta đã kích thích vào phủ đảm của người bệnh, làm cho mật tăng sản chất tiêu sưng, giảm đau, dẫn thẳng đến nơi nó phải đến. Trong trường hợp bong gân ở bàn chân, càng đúng với tác dụng chủ trị của huyệt Túc lâm khấp đã ghi trong du huyệt học : mu bàn chân thấp sưng đau;...bại khắp mọi nơi; nơi đau không nhất định...

Kinh đảm có hai huyệt lâm khấp, huyệt này ở chân, nên có thêm chữ túc, để phân biệt với huyệt lâm khấp ở đầu. Lâm khấp có nghĩa là gặp khi có nước mắt. Đầu lâm khấp chủ trị bệnh mắt có nước mắt, là bệnh tắc tuyến lệ. Túc lâm khấp lại chủ trị chứng đau chảy nước mắt.

Hiểu càng thấu đáo về huyệt, càng giúp cho ta yêu mến và dùng hiệu

qủa hơn môn châm cứu kỳ lạ, nhưng không phải là thần bí này.

18 - Chữa cơn co thắt khí quản

Cùng nằm ở phòng điều trị với tôi, có một cán bộ người Liên khu 5 đến để

chờ kiểm tra lại. Anh đã điều trị ngoại trú ở cơ quan đủ thời gian quy định.

Vào một buổi chiều thứ bẩy, ngày đầu của tiết lập đông, trời trở gió mùa rất lạnh. Anh cán bộ nọ lên cơn khó thở, nằm ôm ngực vật v•. Ông y sỹ già trực phiên hôm đó cùng các nhân viên y tế phải vội v• tiến hành cấp cứu. Họ lôi bình ô xy, hệ thống dây dẫn, lọ nước lọc hơi, đưa đến giường người bệnh. Sau khi họ làm xong những việc treo, buộc lọ nước, và cho ống hơi vào mũi anh bệnh nhân, mọi người đã tản đi. Chỉ còn lại ông y sỹ già đứng chăm chú nhìn anh. Thỉnh thoảng ông lại liếc nhìn những bóng bọt sủi trong chai nước treo trên cọc mắc màn.

Tôi được chứng kiến sự việc từ lúc mới sảy ra. Đợi khá lâu không thấy bệnh nhân tỉnh lại, tôi lo lắng tiến đến gần để quan sát kỹ hơn. Thấy tôi đến gần và thận trọng quan sát, ông y sỹ già bình thản hỏi tôi : “Anh là người nhà bệnh nhân à?.” Tôi không ngờ ông lại lơ đễnh đến nỗi không nhận ra bộ quần áo bệnh nhân tôi đang mặc. Tôi không trả lời câu hỏi của ông, mà đã hỏi lại ông :

“ Bác cho phép tôi châm cứu để giải cơn co thắt này được không, thưa bác

?.” Ông nói : “Đồng ý, nhưng anh không được tháo ống thở ô xy ra.” Tôi

đáp lại lời ông mà lòng mừng rỡ : “Thưa vâng.”

Tôi lấy ngay hộp kim trong túi ra, kịp thời dùng bông cồn sát trùng kim. Tôi luồn tay cầm kim vào trong ngực áo người bệnh, nơi hai cánh tay gò chặt lại. Dùng ngón tay để tìm huyệt Chiên trung, châm kim vào. Sau đó là châm kim hai huyệt Kỳ môn ở hai bên, tôi cũng phải dò dẫm mà châm như thế. Châm xong ba kim, tôi lần lượt vê mạnh từng kim, vê từ kim này sang kim khác, không ngừng nghỉ. Chừng dăm, bảy phút sau khi châm và vê kim, người bệnh trở mình, nằm ngửa lại, buông lỏng hai cánh tay, bàn tay. Anh thở ra một hơi thật dài, và hít hơi lại cũng thật mạnh. Sau đó anh thở ra nhẹ hơn, rồi dần dần thở hít đều đều. Mắt anh mở ra ngơ ngác. Lúc này ông y sỹ già đã cúi xuống gỡ băng dán, rút ống chụp hơi trên mặt người bệnh. Tôi rút kim xong, người bệnh liền ngồi dậy. Anh giơ hai tay ra trước, ra bên, rồi anh co lại, duỗi ra liền mấy lần. Anh làm như thế, ý chừng là để giải nốt cái mỏi ở cơ tay, sau thời gian bị co quắp kéo dài. Anh quay sang phía tôi, chìa hai tay ra xin bắt tay tôi và nói lời cảm ơn. Ông y sỹ già thì lặng lẽ thu dọn ống, lọ, và bình hơi đưa về chỗ cũ.

Sự việc ấy đã diễn ra êm ả, trật tự, giống như sự vắng vẻ của những buổi chiều thứ bẩy ở bệnh viện này vốn là thế. Chỉ có tôi là mãi mãi không thể nào quên được tác dụng của huyệt Chiên trung và hai huyệt Kỳ môn mà thôi.

Khi tôi làm mọi việc cho bệnh nhân, trong phòng chỉ còn lại số ít bệnh nhân gia đình ở xa. Anh D.(bệnh binh), nguyên là sinh viên y khoa Hà Nội cũng là một trong số đó. Do tay tôi thao tác châm kim bên trong lớp áo bệnh nhân, D. không biết được tôi đã châm những huyệt gì. Cho nên, khi công việc kết thúc tốt đẹp, D. đến gặp tôi hỏi để được biết rõ. Tôi nói lại phương huyệt và phân tích cho D. nghe.

Chứng co thắt khí quản là một rối loạn can xi cục bộ vùng khí quản. Bệnh do chức năng của phế tạng và can tạng có những biến đổi khác thường. Chữa chứng này, phải dùng các huyệt có tác dụng hoãn giải gân cơ tại chỗ. Phương đã chọn hai huyệt Chiên trung, Kỳ môn. Huyệt Chiên trung còn gọi là Đản trung, là Mộ huyệt của Tâm bào. Huyệt ở trên mạch nhâm, nơi giữa hai đầu núm vú trước ngực. Tạng phủ bên trong tương ứng với huyệt, có tâm và phế. Chủ trị của huyệt, sách “Nạn kinh” viết : Khí hội ở Chiên trung. “Nạn kinh sớ”viết : Bệnh khí chữa ở đó. Duy huyệt học viết : Chủ trị :...hen suyễn;... hen phế quản;...Khí lên ngắn hơi;...trong ngực như tắc... Huyệt Kỳ môn, còn gọi là Mộ huỵệt của tạng can. Vị trí của huyệt trên kinh can, ở phía dưới vú, khe liên sườn 6-7, cách đường giữa ngực 3,5 thốn. Bên trong lồng ngực, tương ứng với huyệt vị bên phải, là tạng can. Can chủ cân (gân). Tát cả màng dai bao các tổ chức trong cơ thể đều là chất gân, do đó, việc co, giãn ở màng dai, gân cơ, đều do gan chi phối. Chủ trị của huyệt Kỳ môn có chỗ viết :... Suyễn to không thể nằm yên;...trong ngực đau không thể chịu nỗi...

Tôi nói thêm với D., muốn lấy huyệt đúng, khi mắt không thể nhìn thấy huyệt, như trường hợp vừa sảy ra, ta phải thật hiểu môn giải phẫu cơ thể người. Cảm giác bàn tay dựa theo cấu tạo xương, cơ, sẽ giúp ta tìm chính

xác vị trí của huyệt. Trong đêm đánh đồn Mờ loọng ở huyện Đơn Dương, khi chúng tôi tiếp cận hàng rào, gần lô cốt có hầm ngầm của quân địch, một chiến sỹ cạnh tôi bất ngờ trúng gió. Tôi đã kịp thời lấy kim mang theo, tìm đúng những huyệt cần thiết để châm. Chiến sỹ đó đã được cứu sống, trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, trước giờ súng nổ của trận công kiên ác liệt. Thành công đó cũng chính là nhờ môn học giải phẫu xương, cơ người, tôi học được ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội, từ những năm trước khi tôi đi chiến trường B. Nhìn thấy D. ngồi nghe tôi nói rất chăm chú, làm sống lại trong tôi ký ức thời trên ghế nhà trường của tôi.

19. Chữa chứng đau lưng cấp do viêm đaị tràng

Mùa hè năm 2000, ông L., nguyên là cán bộ của Xí nghiệp cơ khí điện ảnh, Bộ văn hoá Thông tin đã nghỉ hưu. Nhà ông ở phía sau nhà tôi, cách một lối đi nhỏ của xóm. Ông đến gặp tôi, xin tôi chữa bệnh đau lưng của ông.

Tôi từ làng Hào Nam, quận Đống Đa, chuyển về đây đã được hơn sáu năm. Hàng ngày, vào lúc sáng sớm, tôi được nghe tiếng chim khướu bên nhà ông hót rất vui tai. Mỗi khi cửa sổ mở, tôi và ông có thể nhìn thấy mặt nhau. Nhưng chúng tôi chưa hề chào hỏi nhau một lần, kể cả khi gặp nhau ngoài ngõ, ngoài đường. Thế mà hôm ấy ông sang gặp tôi, nét mặt ông rất tươi tỉnh, trong khi dáng dấp ông lại rất đau đớn. Ông đi khom lưng, vẹo sườn, và nói : “Em bị đau lưng quá anh ạ !. Mấy lần trước, khi bị đau như thế này, em đi khám bảo hiểm y tế ở Viện Đông y quân đội, họ cho mấy thang thuốc, em đem về sắc uống là khỏi. Lần này em uống hết năm thang mà vẫn còn đau lắm.” Nói đến đây, không đợi tôi hỏi han bệnh tình, ông lại hỏi tôi tiếp : “Xin lỗi anh, hình như tên anh cũng là tuổi của anh, phải không ạ ?.” Tôi nói với ông : “Thưa vâng.” Thế là ông như vớ được chỗ dựa để chống chế cho thái độ quá khiêm tốn của ông. Ông nói : “Em kém anh một tuổi.”

Tôi nghe ông kể bệnh, thấy ông có vẻ đau đớn ở cục bộ, cho nên tôi đã mời ông nằm sấp xuống để khám trực tiếp. Ông nằm xuống, tay đưa vòng về phía cột sống thắt lưng để chỉ vùng đau. Tôi lần lượt ấn cột sống, từ khe

liên đốt và mỏm gai L.2 đến L.5. Khi ấn tới khe liên đốt L.4 - L.5 thấy có phản ứng ấn đau. Tôi liền ấn sang ngang vào hai huyệt Đại trường du, thấy phản ứng ấn đau mạnh hơn. Tôi chợt nhớ lại ca bệnh đau lưng mà ông Định (Chủ nhiệm Câu lạc bộ Châm cứu Hà Nội trước đây khoảng gần 10 năm) đã đưa đến nhờ tôi chẩn. Người bệnh năm đó cũng đau sưng L.4, tôi hỏi ra mới biết, bệnh nhân đau lưng ngay sau hôm bị bệnh lỵ cấp tính. Tôi liền hỏi ông Lai rằng : “Mấy hôm nay ông có bị đau bụng đi ngoài ra mũi không?.” Ông trả lời tôi : “Có anh ạ, em cứ cho là mình bị nóng quá, cho nên em đã làm món lá mơ tía, bắc với trứng gà, ăn mấy lần, nhưng chưa thấy đỡ mấy.” Nghe ông nói xong, tôi nói lại để ông biết rằng : “Các lần trước ông đau lưng, có thể do động tác lao động không phù hợp gây đau. Chứng đó thường gọi là giãn dây chằng. Lần này bệnh từ bên trong phản ảnh ra bên ngoài. Cho nên, tôi châm xong cho ông, về nhà ông phải tìm thuốc nam do tôi hướng dẫn để uống mới khỏi được.” Ông nói : “Vâng nhờ anh. Về nhà em sẽ làm ngay theo lời anh.”

Tôi tiến hành châm các huyệt và làm thủ pháp như sau : Thận du châm bổ, Yêu nhỡn, Yêu dương quan, Uỷ trung, Thừa sơn đều châm tả. Đó là bài chữa đau lưng cấp tính do giãn giây chằng cột sống đã rất hay. Tôi lại thêm Đại trường du, Thiên khu, Thượng cự hư, cũng châm tả.

Châm xong tôi nói với ông : “ông về nói với bà nhà, hoặc cháu nào đó, đi tìm cho ông, không phải là lá mơ lông, hay mơ tía, mà là lá mơ dại mọc hoang. Lấy cả dây của nó, càng nhiều càng tốt. Khi đem về, ông cho rửa sạch, băm cả dây và lá, sao cho khô sém, rồi sắc uống, mỗi ấm một nắm to dây, lá.”

Sáng hôm sau, ông sang để châm nữa. Ông kể lại với tôi :“Chiều hôm qua, con em đi kiếm được lá thuốc đem về, em làm theo lời anh dặn và sắc uống. Hôm nay lưng đã đỡ đau, bụng đã đỡ đau nhiều. Thế là em lại được biết một bài thuốc phòng thân rồi. May quá chừng!. Em cũng hay bị đau bụng kiểu này anh ạ!.”

Khi ông sang tôi để châm lần thứ 3, ông nói : “Em gần khỏi hẳn rồi, em châm hôm nay nữa, nếu mai em khỏi, em sẽ không sang anh nữa đâu. Em đang bận lắm anh ạ!.” Tôi dặn ông : “Ông không sang châm nữa cũng được rồi. Nhưng còn thuốc nam, ông cứ phải uống thêm cho khỏi dứt chứng viêm đại tràng của ông. Ông đừng để nó biến thành bệnh mạn tính thì rắc rối về sau lắm đấy.”

Ba hôm sau, khi gặp tôi ngoài đường, ông dừng lại nói với tôi : “Em khỏi rồi nên không sang anh nữa.” Khoảng nửa tháng sau đó, tôi thấy ông dọn nhà ra đi. Chủ khác đã đến tiếp quản nhà ông.

Từ đó tôi không còn được nghe tiếng chim khướu ở nhà ông L. hót nữa. Khi mở cửa sổ ra, tôi chỉ nhìn thấy những người lạ bên nhà cũ của ông. Tôi và họ cũng chẳng chào hỏi gì nhau.

Bàn về hiệu qủa chữa đối với ca bệnh này, phải nói đến công của vị thuốc nam dùng kết hợp với châm cứu. Nhưng vì cây thuốc nam đó là kinh nghiệm dân gian, chưa thấy có tài liệu khoa học nào phân tích, nên ta không dám bàn về nó. Còn về phương huyệt, ta thấy như sau : Huyệt Thận du, chủ trị của nó tôi đã nêu trong bài số 16- Chữa chứng cơn đau quặn thận. Ngoài đó ra, căn cứ vào câu nói của cổ nhân : “Lưng là phủ của thận.” Câu nói đó chỉ về mối quan hệ trong ngoài, biểu lý nhau giữa lưng và tạng thận. Thận hư thì lưng đau. Lưng dầy, chắc thì thận khoẻ. Tác dụng tại chỗ và lân cận của huyệt, trong trường hợp này được phát huy rất rõ rệt. Huyệt Yêu nhỡn (cái mắt ở vùng thắt lưng), khi người ta nằm sấp xuống, ở hai bên vùng thắt lưng có hai hố lõm, như hai cái mắt của lưng, do đó có tên. Là loại kinh ngoại kỳ huyệt, Chủ trị của Yêu nhỡn có ghi : Tổn thương tổ chức phần

mềm vùng thắt lưng... Huyệt Yêu dương quan (cửa ải, quan hệ tới mặt dương vùng thắt lưng) trên mạch đốc vùng thắt lưng. (kẹp hai bên nó là hai huyệt Đại trường du, loại bối du của phủ đại trường). Chủ trị của huyệt : Đau vùng thắt lưng và mảng xương cùng;...lỵ; đại tiện ra máu;...viêm ruột mạn tính;...bụng

dưới trướng đau... Huyệt ủy trung, loại hợp trên kinh bàng quang, ở giữa mặt gấp khuỷu chân. Chủ trị :Đau lưng; đau bụng;...trĩ;... viêm đường ruột cấp, mạn tính; cột sống cứng đau... Huyệt Đại trường du, chủ trị : Dau lưng; tiêu chảy; kiết lỵ; táo bón;...lưng bong gân; viêm ruột; ruột sôi bụng trướng; lỵ ăn không xuống;...cột sống cứng không thể cúi ngửa... Huyệt Thiên khu (có sách ghi là Thiên xu), loại Mộ của phủ Đai trường, nhưng nó lại nằm trên kinh vị, từ chính giữa rốn sang ngang 2 thốn. Tương ứng với nó, phía trong ổ bụng là nơi phủ đại trường đi qua. Chủ trị của nó : Đau bụng;...sôi ruột; tiêu chảy; lỵ; táo bón; đại tiện ra máu... Huyệt Thượng cự hư là hạ hợp huyệt của kinh đại trường, nhưng lại nằm trên kinh vị. Chủ trị của nó : Đầy bụng;...lỵ;...trong ruột đau như cắt và kêu như sấm ... Phối hợp với Thiên khu, trị viêm ruột, khuẩn lỵ...

Tác dụng của các huyệt và vị thuốc nam gộp lại, không những đã chữa được bệnh cho ông Lai, lại còn cung cấp kiến thức, giúp cho ông biết phòng và trị chứng bệnh ông hay bị mắc phải. Cái giá trị về sau, ai mà định cho nó

đáng được ở mức nào?.

20 - Chữa chứng đau lưng do vị nhiệt

Trong số học sinh trường Cao đẳng y học cổ truyền Tuệ Tĩnh đến học thêm tại nhà tôi, có một thanh niên đẹp trai, hay cười, nói năng chỉnh chu, từ tốn, bạn bè thường gọi anh là Q. trắng. Anh chăm học, chăm làm, nên thỉnh thoảng có đem số đo nhiệt độ tỉnh huyệt của bệnh nhân đến, nhờ tôi hội chẩn.

Có một lần vào buổi tối, anh đến gặp tôi và hỏi : “Thưa thầy, cháu gặp một bệnh nhân đau lưng, cháu đã châm ba lần theo phác đồ : Thận du, Yêu nhỡn, Yêu dương quan, Uỷ trung, Thừa sơn, nhưng bệnh nhân chẳng bớt đau được là bao nhiêu. Nay cháu đem số đo đến nhờ thầy xem giúp.” Nói xong, anh đưa bảng số đo để tôi xem. Tôi vốn cẩn thận, nên xem lại các con số và dấu âm dương trong bảng. Khi thấy anh đã tính đúng, tôi bắt đầu xem xét đến mô hình bệnh. Trong phần chi dưới, các số đều nhỏ hơn mức bệnh lý. Riêng ở kinh vị có mô hình lý nhiệt, con số lại lớn. Theo kinh nghiệm riêng về quan hệ nội tạng với ngoại hình, tôi dặn anh Quang như sau : “Cháu hãy về án chẩn cột sống người bệnh. Nếu điểm ấn đau rõ nhất ở khe liên đốt Đ.12 - L .1, cháu hãy châm huyệt Giải khê ở cả hai chân, làm tả pháp 36 lần, lưu kim 15 phút là được. Không cần châm thêm huyệt nào khác nữa.”

Mấy hôm sau, anh Q. đến gặp tôi và cho biết như sau : “Cháu đã châm và làm thủ pháp đúng như thầy dặn. Châm xong, bệnh nhân đã thấy dễ chịu. Cháu châm được ba hôm thì bệnh nhân hết hẳn đau đớn. Cháu cũng mừng lắm thầy ạ.” Cháu đã đọc lại phần du huyệt học, trong sách thầy biên soạn, thầy đã cho học viên sao chép. Huyệt này nằm trên kinh vị, loại kinh, hành hoả. Vị trí của huyệt ở phía trước.cổ chân, nơi giữa chùm gân. Hình thế ở đó như con suối tản ra (giải khê), nên huyệt mang tên đó. Chủ trị của huyệt :

... viêm thận;...phong mặt phù thũng; mặt đen... Đây là những chứng đều từ

bệnh ở tạng thận sinh ra. Như vậy, ngoài những biểu hiện quan hệ nội tạng với ngoại hình của phủ vị, cháu còn thấy được tác dụng đặc hiệu của huyệt, vừa là viễn đạo, vừa là liên thông với đường kinh không có quan hệ biểu lý hai kinh. Qủa là một điều kỳ lạ.

21- Chữa chứng đau lưng do thoái hoá đĩa đệm cột sống

Anh Ng. Tr. Th. là môn đồ phái võ Vĩnh Xuân, anh cũng ham học Đông y. Anh đã được học đầy đủ lý luận cơ bản, lại thành thạo đo tính nhiệt độ tỉnh huyệt đường kinh . Anh cũng chăm chỉ chữa bệnh cho mọi người quen biết, và cũng hay đến trao đổi kinh nghiệm với tôi.

Một hôm, anh đến thăm tôi và hỏi tôi rằng : “Thưa thầy, cháu gặp một bệnh nhân đau thần kinh toạ, lan toả xuống cạnh ngoài chân, theo đường kinh đảm. Cháu đã theo phương huỵêt được học là : Thận du, Yêu nhỡn, Yêu dương quan, Thứ liêu, Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Tuyệt cốt. Cháu châm suốt gần một tuần lễ. Khi châm xong người bệnh rất dễ chịu, nhưng sau đó thì đau lại. Nay cháu đem số đo đến nhờ thầy xem hộ.” Khi nhìn số đo thấy ở kinh đảm nhiệt lớn, có biểu chứng. Tôi nói với Th. : “Hãy cho bệnh nhân đi chụp X. quang cột sống thắt lưng, giúp cho chẩn đoán tốt hơn. Bởi, có thể bệnh nhân này đã thoái hoá đĩa đệm cột sống rồi đấy.” Hai hôm sau anh đến gặp tôi, đem theo tấm phim chụp đoạn cột sống thắt lưng của người bệnh. Tôi và anh cùng đứng nhìn phim được đưa lên phía cửa sổ. Tôi chỉ cho anh các khe liên đốt sống thắt lưng phía trên, từ L1 - L2, L2 - L3, mỗi khe xương đều có một khoảng cách đen đậm khá xa. Các khe liên đốt còn lại L3 - L4 ; L4 - L5 và L5 - C1 đều không còn khoảng cách đen đậm rộng nữa. Thậm chí, có chỗ vệt sáng quanh thân đốt xương sống của hai đốt sống trên, dưới đã gần sát nhau. Đó là những chỗ đĩa đệm bị thoái hoá gần hết.

Xem phim xong, anh liền hỏi tôi : “Xin thầy cho ý kiến về cách xử lý.” Tôi nói với anh rằng : “Anh cứ châm như phương huyệt cũ, và thêm các huyệt sau đây : Ân môn, Thủy đạo, Giáp tích của l4, l5, Đó là những huyệt

chuyên chữa chứng đau lưng do thoái hoá đĩa đệm cột sống. Sau đó là đến các huyệt : Não hộ, Chí dương, Đảm du, Dương cương là những huyệt có thể hạ đảm nhiệt. Mà đảm nhiệt đã góp phần vào nguyên nhân gây ra thoái hoá đĩa đệm cột sống.” Tôi nói thêm để anh biết, khi ta châm như trên, bệnh nhân có thể giảm đau rất nhanh. Tuy vậy việc phục hồi đĩa đệm trở lại, thì có thể còn phải lâu dài. Cần chú ý nhắc nhở bệnh nhân, khi họ làm việc, họ phải giữ gìn đúng tư thế phù hợp. Tránh những tư thế có thể gây tổn hại đĩa đệm cột sống, như thế mới có thể ổn định được lâu dài kết quả chữa.

Lần sau đến thăm, anh cho tôi biết, anh châm thêm như tôi đã nói với

anh, quả là dứt đau nhanh và ổn định. Các chứng kèm theo trước đây là

miệng đắng, ăn ít, đầu choáng, sườn đau, cũng không còn thấy nữa. Người

bệnh vui mừng lắm.

Có vị đã hỏi tôi : “Trong các câu truyện sô 1, số 14, ông đã dẫn du huyệt học để nói về các huyệt Não hộ, Chí dương, Đảm du, Dưong cương có tác dụng chủ trị bệnh gan mật, điều đó là rất đúng. Nay ở câu truyện này, trong phương chữa bệnh thoái hoá đia đệm cột sống, ông lại dùng đủ cả số huyệt trên. Tôi đã xem lại du huyệt học, thấy ở huyệt Não hộ, sách Tố Vấn nói : Châm Não hộ, vào não la chết ngay. Chủ trị : Đầu cổ cứng đau; đầu váng;...đầu năng sưng đau... Đó là những tác dụng của huyệt nhằm vào bệnh ở đầu não. Kèm theo đó, cũng có nói đến tác dụng với bệnh gan, mật. Huyệt Dương cương, lại không nói chút nào về bênh đau lưng. Hai huyệt còn lại mới có tác dụng tới cột sống. Huyệt Chí dương, ở chủ trị đã ghi : ... vai lưng đau và cổ ngay đơ;... đau lưng dưới, lưng trên;...giữa lưng trên có khí đi lên, xuống... Vậy lý do nào khác đã làm ông dùng đủ 4 huyệt đó ?”

Tôi thưa lại với vị đó như sau :

- Một là, từ kinh nghiệm thực tế. Khi chẩn trị những bệnh nhân thoái hoá đĩa đệm cột sống, tuy họ đã có phim chụp x quang, tôi vẫn dùng máy do nhiệt đọ da, đo nhiệt độ kinh lạc ở tỉnh huyệt. Kết qủa cho thấy, có sự tương ứng giữa bênh với biến đổi nhiệt độ ở kinh đảm. Khi điều trị, tác động đến những huyệt đó, bệnh chuyển biến tốt lên, nhiệt độ trên kinh đảm cũng biến đổi tương ứng.

- Hai là, bệnh ở đia đệm cột sống có ảnh hưởng đến tủy sống. Tủy sống lại liên đới tới não, bởi não là bể tủy. Trong biện chứng về bệnh mũi, bệnh tỵ

uyên (bệnh rất sâu trong mũi) là do bệnh ở não. Bệnh ở não lại do kinh đảm chi phối. Khi trị bệnh tỵ uyên, phương cũng chủ yếu chọn dùng những huyệt trên kinh đảm để chữa, mới đem lại hiệu quả.

- Các huuyệt còn lại, chỉ cần bàn về tác dụng chữa đau lưng mà ở các bài đau lưng trước chưa bàn tới, như : Giáp tích, Thứ liêu. Ân môn, Thủy đạo. Bệnh đia đệm cột sống thường do tư thế khi lao động nặng nhọc không phù hợp, gây tốn thương. Lâu dần, dẫn tới đĩa đệm bị thoái hoá. Bênh này thường bị ở khe các liên đốt L4-L5, L5-C1. Các huyệt giáp tích tại đây có tác dụng tiêu sưng, giảm đau cục bộ rất rõ rệt. Huyệt Thứ liêu, vị trí ở lỗ thứ hai trong tám lỗ trên mảng xương cùng. 8 lỗ ấy là nơi rễ thần kinh đuôi ngựa đi qua để xuống ụ ngồi xương chậu, và đi xuống chân theo 3 phía trước, bên và sau chân. Chủ tri :...lưng dưới đau; đau thần kinh toạ;...chi dưới bại liệt... Huyệt Ân môn, chủ trị :Lưng trên, lưng dưới đau; đau thần kinh toạ; chi dưới tê bại; bại liệt; thoát vị đĩa đệm cột sống... huy?t Thủy đạo, chủ trị :...xương thắt lưng đau cấp... Ba huyệt Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Tuyệt cốt (Huyền chung) đều nằm trên kinh đảm. Chẳng những

chúng đều tác dụng vào bản phủ đảm, lại còn chủ những bệnh ở nơi đường kinh đó đi qua (bệnh thần kinh toạ). Khi chữa bênh bại chi dưới, người ta dùng cả 3 huyệt một lúc, gọi đó là phép phối hợp khóa chốt, hiệu qủa cũng tốt, rất nên dùng.

Sau khi nghe tôi giải đáp câu hỏi, cũng là lý giải cặn kẽ phương huyệt, vị khách ấy vui mừng nắm lấy tay tôi thật lâu.. Ông chẳng nói thêm lời nào với tôi nữa. Cả hai cùng nhìn nhau tin cậy, tình cảm nồng nàn.

22- Chữa chứng đau lưng, vẹo cột sống, do viêm khớp cùng chậu

Ông giáo sư Th. là cán bộ giảng dạy bộ môn dịch tễ, trường Đại học Y khoa Hà Nội. Nhà ông ở xóm bờ sông, sau Công ty trách nhiệm hữu hạn M. Ph., cách nhà tôi không xa. Đúng khi ông đang bận rộn làm thủ tục đi công tác ở châu Phi, lại có người cháu ở Diễn Châu ra nhà ông, nhờ ông đưa đi khám, chữa bệnh.

Ông sang nhà tôi vào lúc xế chiều. Sau thủ tục chào, hỏi ngắn gọn, ông

vào chuyện ngay. Ông nói : “ Cháu tôi từ Diễn Châu, Nghệ An ra đây, hắn bị đau lưng (ông vừa nói vừa chỉ vào người đàn ông là cháu và vợ anh cùng đi theo ông) đã bảy tháng nay rồi. Chữa ở nhà không khỏi, hắn ra đây nhờ tôi. Ngay buổi chiều nay tôi đã đưa cháu đi chụp X. quang cột sống. Xem phim tôi thấy cột sống hắn đã bị vẹo lệch đáng sợ. Mặc dù biết bác không chữa bệnh buổi chiều, nhưng vì tôi quá bận và lo lắng cho cháu, nên đành phải sang nhờ bác xem giúp, và chờ xin ý kiến của bác.” Nói xong ông rút tấm phim to từ trong bao giấy ra, đưa mời tôi xem.

Theo kinh nghiệm của mình, tôi xem lướt qua tình trạng các mỏm gai, đĩa đệm, rồi xem kỹ vùng khớp cùng chậu. Khi thấy ở khớp cùng chậu có vấn

đề, tôi giơ tấm phim lên, hướng về cửa ra vào. Tôi chỉ vào phim, nơi khớp nối xương cùng và xương chậu phía bên phải, tôi nói với ông giáo sư : “Mời ông xem đây, ở chỗ này ta thấy mất hẳn vết đen của khớp nối cùng chậu, do có đám sáng che đi. Trong khi, vết đen của khớp cùng chậu bên trái lại còn nguyên vẹn và rõ nét. Do khớp bên phải đau, chân phải không chịu lực, sức nặng phần trên cơ thể dồn lên chân trái. Vì thế, thân người bệnh bị nghiêng về bên trái, cột sống cong theo về bên trái. Khi nào khớp bên phải hết đau, chân phải chịu lực được như chân trái, xương chậu sẽ cân bằng. Lúc đó cột sống củng thẳng trở lại.”

Thấy ông im lặng nghe, nên tôi nói tiếp : “Ta có thể khám bệnh ở khớp

cùng chậu bằng mắt thường quan sát, và bằng tay sờ nắn như sau :

- Khi nhìn người bệnh ngồi lên mặt ghế, sẽ thấy người bệnh chỉ ngồi bằng một bên mông. Vì nếu họ ngồi cân cả hai bên mông, hông của họ sẽ rất đau. Đó là một biểu hiện điển hình.

- Khi để bệnh nhân nằm sấp, ta sờ đối chiếu cùng lúc cả hai bên khớp cùng chậu, sẽ thấy bên có bệnh sưng to hơn. Dùng tay ấn vào bên khớp có bệnh đó, bệnh nhân thấy rất đau, đau còn lan toả xuống chân.

- Khi bệnh nhân nằm, nếu họ tự xoay trở tư thế, sẽ rất khó khăn, nhưng bệnh nhân còn chịu đựng được. Nếu ta can thiệp vào việc này, bệnh nhân sẽ đau không thể chịu đựng nổi.”

Khi nghe tôi dẫn giải đến đây, ông giáo sư có vẻ nóng lòng. Ông vội nói với tôi : “Thôi, trăm sự nhờ bác. Bác tìm mọi cách chữa giúp cháu. Mong sao cháu tôi mau khỏi. Hắn là lao động chính của gia đình. Nhà làm nông nghiệp nên sức khoẻ đàn ông quan trọng lắm. Đất Diễn Châu lại nghèo nhất trong tỉnh nghèo.” Biết ông chẳng còn lòng dạ nào ở lại để xem tôi chữa cho cháu ông, nên tôi nói với ông : “Ông về lo chuẩn bị việc lớn cho kịp, tôi sẽ chữa cho cháu ông ngay.” Khi ông giáo sư đã ra về, tôi nói để người bệnh lên giường, nằm theo tư thế nghiêng, bên phải ? trên. Chân trái duỗi thẳng phía dưới, chân phải phía trên gấp đùi, co đầu gối. Tôi thì ngồi ngay phía sau mông bệnh nhân theo tư thế riêng. Tôi quỳ chống đầu gối bên phải, để mông ngồi lên gót chân phải, bàn chân phải thì chống lên, ngón chân bám về phía trước. Chân trái tôi đưa chếch về phía trước bên trái. Đầu gối trái gần vuông góc, nên bàn chân trái cũng vuông góc với ống chân. Cánh tay trái tôi để sát mặt trước đùi trái, khuỷu tay co lại. Bàn tay trái đè úp vào sau khớp cùng chậu bên phải của người bệnh. Bàn tay phải của tôi bám úp vào đầu gối chân phải người bệnh. Đến đây, tôi hơi ngả người về phía trước, dồn sức xuông cánh tay. Khuỷu tay trái tôi tỳ vào mặt trước đùi trái. Lúc này sức nặng toàn thân tôi phân vào ba nơi : Chân trái, đầu gối chân phải và bàn tay trái. Sức mạnh toàn thân tôi được dồn vào bàn tay trái để đẩy ra. Đồng thời bàn tay phải tôi vừa nâng cả chân phải người bệnh lên, vừa quay vừa kéo về phía tôi.

Khớp cùng chậu người bệnh đã được tư thế ngồi và bàn tay trái của tôi cố định. Đùi phải của họ lại được tay phải của tôi nâng, quay, kéo về. Tôi quay ngược chiều kim đồng hồ năm vòng, rồi quay thuận lại năm vòng. Lực

quay, nâng, kéo về, được chuyền vào khớp cùng chậu, khớp cùng chậu sẽ bị đau dội lên và phát ra tiếng lục cục. Đó là lúc khớp cùng chậu bị lệch được chấn động, lỏng ra, để sau đó dễ trở lại như cũ. Phép làm này gọi là “chỉnh hợp bán thoát vị khớp cùng chậu.”

Theo các tài liệu nói về chứng viêm khớp cùng chậu, nguyên nhân đều do tư thế chuyển động làm sai lệch khớp. Từ lệch sinh viêm, muốn chữa viêm phải chữa lệch. Rất nhiều trường hợp mới bị lệch, như bị xe đâm ngã, khi lên xuống xe đạp nam (loại xe có gióng ngang), bê vật nặng mà chân trụ lệch, khiêng vật nặng bước hụt... Sau khi được làm phép này kịp thời, người bệnh có thể đã thấy hết đau đớn, hoặc giảm đến mức gần như hết đau. Cũng may mà bệnh nhân này vóc người nhỏ nhắn, với sức ở tuổi hơn sáu chục của tôi, tôi cũng còn quay nổi cái đùi của anh. Có điều là tôi đã phải nghỉ tạm nửa chừng. Một vài trường hợp bệnh nhân to béo, tôi chỉ đủ sức làm mẫu, quay cho họ một vài vòng, sau đó giao cho người nhà bệnh nhân làm tiếp, làm đủ số làn cần làm.

Làm xong phép chỉnh hợp bán thoát vị khớp cùng chậu như vừa kể ở trên, tôi để người bệnh nằm sấp lại. Hai cánh tay họ mở rộng sang hai bên, khuỷu tay co lại. Hai bàn tay vòng lên, chụm úp xuống. Đầu người bệnh quay sang một bên, áp má xuống tay. Gân cổ và cơ lưng thả lỏng để thuận lợi khi châm. Các huyệt châm thì lấy phương huyệt chữa đau lưng : Bổ Thận du, Yêu nhỡn, Yêu dương quan, Uỷ trung, Thừa sơn. Sau đó thêm các huyệt lân cận khớp đau : Thứ liêu, Bàng quang du. Tại chỗ khớp đau, châm từ ba đến năm kim (chính giữa và xung quanh điểm đau). Cuối cùng là châm Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Tuyệt cốt. Bệnh nhân đau đã lâu, đùi phải đã nhỏ hơn đùi trái, cho nên tôi châm thêm huyệt Bễ quan, làm thủ pháp bổ, để phục hồi cơ đùi đã bị teo nhỏ .

Sáng hôm sau, bệnh nhân cùng vợ sang nhà tôi, anh nói : “Sáng sớm nay cháu dậy tập đi bộ, cháu đã đi được khoảng một cây số. Đau đớn đã giảm nhiều cháu mới đi được như thế. Cũng là cháu có cố gắng để đi thử

nữa.”

Sau ba lần châm trong ba ngày, tôi đều làm phép chỉnh hợp bán thoát vị trước khi châm. Đến sáng hôm thứ tư, hai vợ chồng anh đến xin châm thêm một lần nữa, châm xong còn về quê ngay. Anh nói, anh đã khỏi. Ông giáo sư cũng đi cùng anh chị. Ông đã nói lời cám ơn tôi. Ông nhắc nhở cháu mình, về nhà phải thực hiện kiêng khem đúng như thầy dặn.

Nhớ lại khoảng năm 1990, một bệnh nhân nữ ở Đan Phượng bị đau khớp cùng chậu. Chị đi nhờ người chú là giáo sư B. ở Viện Quân y 103 khám chữa. Ông này đã khuyên chị rằng : “Phải về chung sống với bệnh tật, phải biết chấp nhận giới hạn của khoa học.” Khi ông biết chị ra nhờ tôi chữa, ông tỏ vẻ nghi ngờ. Ông luôn theo dõi kết quả chữa ở chị. Mỗi thứ bảy về thăm nhà, ông đều tới gặp chị, hỏi chị cách tôi chữa và tình hình bệnh tật chị diễn biến tới đâu.

Tôi đã chữa cho chị hết liệu trình thứ nhất (10 lần châm), nghỉ cách năm ngày. Châm sang liệu trình thứ hai được bốn ngày, chị xin nghỉ châm. Vì ngay ngày hôm sau, nhà chị xây hè, đổ bê tông mái hiên. Chị nói với tôi : “Cháu đã khỏi rồi, nhưng rất muốn châm thêm cho khỏi dứt. Nay nhà có việc phải nghỉ châm. Cháu có lời thưa với bác : Khi xong việc nhà, nếu có đau lại, cháu ra nhờ thì bác cố gắng giúp cháu nhé.” Tôi nhận lời và dặn chị cần giữ gìn. Sau đó chị khỏi thật (người làng chị ra chữa bệnh đã nói với tôi như thế).

Chẳng biết ông chú chị đã nghĩ gì về việc này, và đã nói gì với ch, sau

khi bệnh ở chị khỏi. Thôi thì cũng chẳng cần biết điều đó làm gì.

Cái điều cần biết sẽ là : Nếu người đọc truyện này, gặp người bệnh như thế này, ta chữa theo phép này. Và xem kết quả ở người bệnh, ta rút thành kinh nghiệm của ta. Thế là đủ.

Phương huyệt chữa bệnh viêm khớp cùng chậu, cũng là phương huyệt chữa đau lưng ở các câu truyện số 19, 21 ở trên, có thêm vào 3 huyệt Bàng quang du, Thừa sơn, Bễ quan. Nhưng cái khác biệt lớn nhất ở đây, chính là “động tác chỉnh hợp bán thoát vị khớp cùng chậu.” Theo môn học giải phẫu xương, cơ người, xương con người có 3 loại : Xương không cố định, xương bán cố định, xưong cố định. Xương chậu hông gồm nhiều mảng kết hợp lại, nhưng thuộc loại bán cố định. Vì thế, khi bị sai tư thế tự nhiên, khớp cùng chậu dịch chuyển lớn hơn giới hạn cho phép, sẽ sảy ra tổn thương các tổ chức gân chằng khớp, làm cho các tổ chức này bi viêm. Khi các tổ chức này bị viêm, lại đã làm cho khớp cùng chậu không trở lại như cũ được, gọi là bị bán thoát vị. Nhiều trường hợp, sau khi khớp bị bán thoát vị quá lâu ngày, biến dạng thành khớp giả. Lúc này, tại đây mọc ra những gân chằng khớp mới, cho phù hợp với dạng khớp mới. Chữa trạng thái khớp giả, nhất định phải có sự can thiệp của ngoại khoa. Động tác chỉnh hợp bán thoát vị này, tôi học từ môn án ma liệu pháp. Thấy có thể dùng vào bệnh viêm khớp cùng chậu, tôi đã kết hợp với châm kim để chữa. Thành công thật là kỳ diệu, Mong đồng nghiệp thử làm.

23- Chữa chứng đau lưng cấp do giãn dây chằng cột sống

(cơ gai sống)

Hồi mới nghỉ hưu, tôi còn ở nhà tập thể của Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (trong khu tập thể Cục Mỹ thuật, Bộ Văn hoá, làng Hào Nam, phường Ô chợ Dừa). Một hôm, vào khoảng gần trưa, họa sỹ Đ. T. T., ông là giảng viên của trường đã đến gặp tôi.

Dựng chiếc xe đạp ở bờ tường trước nhà xong, ông T. bước vào nhà tôi theo một tư thế đau lưng điển hình. Lưng dưới ông còng còng, ngực ông ưỡn lên. Hai đầu gối ông không thẳng lên được. Ông nói với tôi : “Hôm qua tôi bê tấm tranh sơn khắc hơi nặng, bê lên đi được vài bước thì thấy lưng đau quá, tôi phải gọi mọi người đỡ hộ. Từ lúc ấy thấy xoay người khó, cúi ngửa khó. Nhà tôi và các cháu đã xoa dầu, ấn day cho tôi, nhưng tôi vẫn thấy đau lắm, đành phải đến nhờ thầy.”

Nhận thấy đây là đau do giãn dây chằng cột sống, còn gọi là giãn cơ gai sống. Ông đến gặp tôi còn là sớm, có thể dùng phép ấn day huyệt để chữa. Tôi liền mời ông lên giường, nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng để tôi ấn huyệt.

Tôi ngồi quỳ, hai gối ở bên ngoài hai đùi ông (nếu là bệnh nhân nữ, tôi

thường quỳ ở một bên ngang hông người bệnh), hai bàn tay úp xuống, xoè ra, hai ngón cái chụm đầu vào nhau, đặt xuống huyệt Khí hải. Bốn ngón tay còn lại của mỗi bàn tay, để ở cạnh ngoài bụng dưới. Tôi bắt đầu ấn hai ngón tay cái thẳng đứng xuống từ từ. Khi cảm giác thấy hai ngón cái tay như chạm vật đỡ thì nhè nhẹ day về bên trái, và vòng lại 30 lần. Xin nhớ đừng ấn nặng quá. Thường thì người bệnh sợ đau, nên đã nín thở khi ta day. Đến đây ta để bệnh nhân thở ra hít vào vài ba hơi dài. Khi để bệnh nhân thở, ta nâng hai ngón tay cái lên như để chạm nhẹ mặt da bụng. Kế đó ta lại ấn xuống và day hai ngón cái về bên phải, vòng lại 30 lần thì thôi.

Tiếp tục động tác sau, tôi nhắc ông nằm sấp xuống. Tôi quỳ hai đầu gối ở hai bên phía dưới hông của ông. Hai bàn tay tôi xoè ra, hai ngón tay cái quay vào, đặt nơi hai huyệt Yêu nhỡn ở hai bên thắt lưng. Các ngón còn lại quay ra phía ngoài, chạm nhẹ phía ngoài vùng trên mào chậu. Tôi bắt đầu ấn đẩy trượt ngang ngón cái tay từ hai huyệt Yêu nhỡn vào tới giáp cột sống, khe L. 3 - L. 4. Khi hai đầu ngón cái chạm nhau, liền vuốt hai đầu ngón cái ở hai bên mỏm gai đốt sống xuống đến giữa mảng xương cùng, ngang huyệt Yêu kỳ. Đến đây, tôi liền đẩy ngược hai ngón tay cái, theo hai bên mỏm gai đi lên. đến hai bên huyệt Mệnh môn ở khe L.2 - L.3, tôi rẽ hai đầu ngón tay về hai bên, đẩy lên tới hai huyệt Tam tiêu du thì dừng lại, ấn ở đó ba lần. Như thế tính là một lần đẩy,vuốt tay. Đây, vuốt như thế năm lần là đủ.

Tôi mời ông ngồi dậy rồi yêu cầu ông đứng lên, làm các động tác cúi xuống, ngửa lên. Ông chĩa thẳng hai mũi bàn tay, từ từ cúi xuống. Chẳng khó khăn mấy ông đã đưa được mũi bàn tay xuống gần chạm tới bàn chân. Ông lai đứng thẳng lên một cách nhẹ nhàng. Ông còn xoay phía trên thân mình sang phải, sang trái. Nét mặt ông giãn ra tươi tỉnh. Ông ngồi xuống cạnh tôi, giọng ông nói thành thật : “ Hay quá, tôi thấy nhẹ đi gần như không có bệnh. Nếu mai ông không thấy tôi xuống là coi như tôi đã khỏi hẳn. Tôi đang hoàn thiện tác phẩm để gửi triển lãm cho kịp, cảm ơn ông nhiều lắm lắm.” Truyện trò qua loa một lát, ông chào tôi rồi ra về.

Đau lưng cấp tính, còn có một dạng, kèm theo đau lưng, là cơ bụng co cứng. Chứng này, nếu kịp thời, chỉ cần ấn day sang trái, sang phải ở huyệt Khi hải, mỗi phiá 30 lần, như đã nói ở trên. Lập tức cơ bụng mềm ra, lưng cũng hết đau.

Rất nhiều học viên của tôi, khi họ gặp trường hợp bệnh nhân tương tự, họ ứng dụng phép đẩy, vuốt, ấn, day bằng ngón cái tay. đã đem lại kết quả mỹ mãn.

24 - Làm giảm cơn đau do thủng dạ dày, viêm phúc mạc

Trong mùa đông xuân 1970 - 1971, quân địch liên tiếp tổ chức nhiều cuộc càn quét ra vùng căn cứ cách mạng tỉnh Tuyên Đức. Lúc này, các cơ quan của ta phải luôn thay đổi chỗ trú quân, vừa để tránh địch, vừa phải đảm bảo mọi hoạt động chỉ đạo của tỉnh ủy được liên tục đến các địa bàn trong tỉnh.

Một đêm, sau khi cơ quan di chuyển đến địa điểm mới, tôi vừa ổn định xong chỗ căng tăng, võng để nghỉ ngơi. Đột nhiên, tôi nhận được lệnh phải thu dọn hết đồ đạc cá nhân ngay, theo liên lạc viên sang khu

Thường vụ tỉnh uỷ để làm việc. Tới một nơi, tôi thấy toàn bộ các uỷ viên ban Thường vụ tỉnh uỷ, phó ban Tổ chức, trưởng ban An ninh, trưởng ban Dân vận, trưởng ban Dân y, đều có mặt.

Giữa đám đông đó là một cái bàn. Bàn được làm gấp gáp bằng mấy cành

cây ghép lại. Trên bàn, lót tấm chăn dạ mỏng. Người nằm trên bàn là ông B. (Thành thật xin lỗi ông, đến nay tôi nhớ không chắc chắn tên thật của ông, tôi tạm ghi ở đây như thế. Khi điều kiện cho phép, tôi xin đính chính lại đầy đủ ho, tên đáng kính của ông), một cán bộ An ninh của tỉnh. Hai tay ông để trên bụng, nét mặt ông đầy vẻ chịu đựng một cách khó tả. Mọi người đứng chung quanh ông, dáng vẻ họ đều đều đăm chiêu, thương cảm một cách lặng lẽ.

Khi thấy liên lạc viên và tôi vừa tới, tất cả các cặp mắt đều dồn về phía

chúng tôi.

Riêng bác sỹ Đạm, trưởng ban dân y tỉnh tới dẫn tôi đến cạnh bàn ông cán bộ B. nằm. Ông tranh thủ nói ngay với tôi : “Anh B. có viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính. Hôm nay hành quân di chuyển vất vả, đến địa điểm mới này, anh lên cơn đau dữ dội, thành bụng cứng như gỗ.” Ông vừa nói, vừa vén áo bệnh nhân lên cho tôi xem, ông nói tiếp : “Mạch và huyết áp đã tụt xuống rất thấp, chúng tôi nghi anh B. đã bị thủng dạ dày và viêm phúc mạc cấp. Cơ quan Dân y không có bộ đồ đại phẫu thuật để xử lý ca này. Nếu đưa anh đi bệnh xá, hoặc cử người đến bệnh xá đem đồ nghề về, đều không kịp. Bởi vì từ đây đến bệnh xá, dài chừng bốn tiếng đồng hồ đường rừng. Lại còn khả năng bệnh xá cũng đang trên đường di chuyển đến nơi mới. Trên đường còn có thể đụng phải bọn biệt kích. Đứng trước tình thế này, vừa rồi Thường vụ tỉnh uỷ họp mở rộng, đã quyết định chấp nhận đề nghị của anh B.,để anh hy sinh. Nhưng Thường vụ tỉnh uỷ giao cho ban Dân y tìm mọi cách nâng đỡ sức khoẻ, để anh B. đủ khả năng tỉnh táo, bàn giao lại mạng lưới cơ sở nội thành Đà Lạt.”

Bác sỹ Đạm nói tiếp : “Tôi phụ trách về phía Tây y nên tôi biết, mọi thứ thuốc giảm đau hiện có đều vô hiệu trong trường hợp này. Mọi thứ thuốc an thần đều không được phép dùng, vì muốn anh còn tỉnh táo để làm nốt phần việc cuối cùng rất quan trọng. Ngoài anh ra, không thể ai giúp anh được.. Tôi chỉ còn nghĩ đến anh và số sách vở anh mang theo. Hy vọng, dù là mỏng manh, vẫn phải hy vọng. Tôi nghĩ, vì sự nghiệp cách mạng của địa phương, mong anh khẩn trương tìm kiếm nhữnh gì mà sách có thể giúp được.”

Từ khi tôi học chữa bệnh tới nay, tính ra đã được mười năm. Cũng nhiều ca bệnh hiểm nghèo mà tôi đã gặp, nhưng chưa có trường hợp nào ở trong tình huống nghiêm trọng, thiêng liêng như lúc này. Tôi bỗng thấy, hình như những chữ Hán cổ trong sách tôi cũng linh thiêng, huyền bí, đầy uy lực. Hình như chữ trong sách đang dẫn dắt tôi vào những việc tôi phải làm ngay. Tôi xem lướt qua số huyệt vùng bụng, thấy được năm huyệt có tác dụng chữa viêm phúc mạc là : Thuỷ phân, Hạ quản, Kiến lý, Thương khúc, Thiên khu. Tôi quyết định chọn huyệt Thủy phân, tiến hành hơ bằng điếu ngải. Tôi lấy ngải nhung và giấy dó, chúng được tôi mang từ Miền Bắc vào. Tôi cuộn ngải nhung thành điếu, to bằng ngón tay cái, dài chừng 15 phân tây. Tôi châm lửa, thổi cho điếu ngải mau bén rồi hơ cứu.

Khi điếu ngải ở tay tôi bắt đầu hơ trên huyệt, cũng là lúc bấy nhiêu cặp mắt của mọi người đều nhìn vào đó. Làn khói ngải thơm dịu, uốn lượn mềm mại như giải lụa bay lên, như mang theo ý niệm cầu nguyện của mọi người về nơi tối cao, xa thẳm, mênh mang.

Một điều thật lạ lùng mà tất cả mọi người đều nhận thấy, các cặp mắt đều mở to dần : Khi mặt da huyệt vị đỏ lên, thì cũng là lúc ông B. tỉnh dần. Do cơn đau giảm dần mà nét mặt ông cũng đã giãn ra. Ông mở mắt và nói rất nhỏ. Mấy ông ở trong ban Thường vụ tỉnh uỷ và ban An ninh lập tức chụm lại, lắng nghe và ghi chép. Do sức ông B. quá yếu, ông nói rất nhỏ và rất chậm. Vì thế, việc bàn giao công tác của ông diễn ra cũng khá lâu. Ông bác sỹ Đạm tranh thủ cơ hội, ghé miệng lại gần tai tôi nói nhỏ, chỉ đủ tôi nghe, trong khi tay tôi vẫn hơ điếu ngải. Ông nói: “Anh B. vốn rất yếu, bệnh dạ dày của anh cũng

chưa có thuốc đặc hiệu. Thường ngày anh vẫn phải ăn cơm nát. ? đây, lâu lâu mới có gạo nếp cho anh ăn. Lần này có bà B. là cơ sở nội thành Đà Lạt ra họp, cùng hành quân với cơ quan. Thấy anh B. mỏi mệt, bà B, đã đưa cho anh một củ sâm Cao Ly to bằng ngón tay. Bà dặn anh cắn từng mẩu mà ngậm cho khoẻ. Anh đã nhận sâm và làm theo lời bà. Thế rồi mọi việc sảy ra như anh thấy đấy.” Ông ngừng một lát rồi nói tiếp : “Anh Sửu chắc còn nhớ câu truyện ngày xưa, có một ông thầy đã cho người

bệnh mắc chứng đau bụng uống thang Nhân sâm. Khi bệnh nhân chết, ông ta về mở sách để kiểm tra lại, thấy sách viết : “Phúc thống phục Nhân sâm..:” Ông đã tự cho mình là sử phương đúng. Nhưng khi ông mở tiếp trang sách phía sau ra, thấy sách viết tiếp : “ tắc tử.” Như vậy phải là : “Phúc thống phục Nhân sâm tắc tử.” Có thể, ở hoàn cảnh anh B. cũng là một ví dụ.”

Tôi hơ mỗi điếu ngải đến khi cháy hết, mất vào khoảng 20 phút. Khi tôi hơ hết điếu thứ nhất, rồi hết điếu thứ hai, sang điếu thứ ba được một ít thì công việc chủ yếu là ông B. bàn giao công tác đã xong. Tới phần kiểm kê tài sản cá nhân của ông B, cán bộ ban tổ chức hỏi ông B. rằng, những vật kỷ niệm nào cần gửi về gia đình, sẽ cho đem gói riêng, còn lại đều sẽ mai táng theo ông.

Đến nay đã qua hơn 30 năm, tên của ông tôi không còn nhớ được, quê quán ông tôi cũng chỉ nhớ áng chừng, đâu như ở gần cửa Nhượng, thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng buổi bàn giao công tác cuối cùng của ông, và liền sau đó là cuộc tiễn đưa chinh ông cán bộ An ninh ấy, tôi được chứng kiến trọn vẹn. Sự việc đã diễn ra trong tinh hình căng thẳng của chiến trường, laị linh thiêng nơi ranh giới sinh tử của con người, tôi đã không thể nào quên được.

Khi việc bàn giao công tác, bàn giao vật kỷ niệm đã xong, ông Bí thư tỉnh uỷ Huỳnh Minh Nhựt xúc động nói với mọi người : “Đã đến lúc chúng ta phải chia tay với đồng chí B. . Xin các đồng chí cho tôi thay mặt Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Tuyên Đức, cám ơn gia đình Đồng chí B., cám ơn Nhân dân Miền Bắc, đã cử những người con ưu tú như Đồng chí B. vào đây, cùng chúng ta chiến đấu giải phóng Miền Nam. Nay phải vĩnh biệt Đồng chí, chúng tôi xin hứa với Đồng chí, với Nhân dân cả nước : Chúng tôi sẽ hoàn thành mọi nhiệm vụ của Cách mạng trao cho, và phần việc Đồng chí đã bàn giao lại...” Trong khi ông Bí thư tỉnh uỷ nói, ánh mắt ông B. nhìn mọi người đầy xúc động, chớp chớp đôi mi, nước mắt ông ứa ra, đôi môi ông hơi mấp máy, nhưng tôi không nghe rõ ông đã nói gì.

Khi ông Bí thư tỉnh uỷ nói dứt câu, mọi người đã đứng nghiêm, cúi đầu mặc niệm ông B. Sau một phút im lặng, ông Bí thư tỉnh uỷ nhìn về phía tôi, thấy tôi vừa nghe vừa hơ ngải, ông nhắc tôi : “Thôi, đồng chí Sửu hãy ngừng hơ ngải, để đồng chí B. ra đi được rồi.”

Tôi dập tắt điếu ngải trong tay, xung quanh tôi khói ngải dần dần tan. Đôi tay ông Bí thư tỉnh uỷ cũng nhẹ nhàng vuốt đôi mắt ông B. khép lại.

Mùi thơm của ngải cứu đã thay hương trầm, đưa hồn ông B. về nơi vĩnh

hằng vô tận.

Chúng tôi còn đang đứng lặng đi, thì đội ngũ lo hậu sự cho ông B. đã đến, chúng tôi đành phải nhường chỗ cho anh em làm nhiệm vụ. Nhưng trong lòng mỗi người còn bâng khuâng lưu luyến nghĩa tình.

25 - Chữa chứng mù về đêm do teo thần kinh thị giác

Vào khoảng những năm 1982 - 1983, tôi rất ít khi đi ra khỏi nhà. Cả ngày, tôi đều dành thời giờ cho việc đọc sách và nấu ăn. Tuy vậy, tôi cũng không thể nào dứt khỏi các quan hệ thân quen. Thỉnh thoảng vẫn có người tới nhờ tôi chữa bệnh.

Một hôm, tôi đang ngồi xem lại tập đề cương bản thảo cuốn “Nguyên lý thời sinh học cổ Phương Đông ” (cuốn sách này tới năm 1996 mới xuất bản lần đầu), bỗng có một ông cụ đến gặp tôi. Đi theo cụ là một

người con gái. Tôi ở trong nhà tối mờ, nhìn ra ngoài sáng qua hai lần cửa (cửa gian nhà chính và cửa gian hiên tự làm thêm), cho nên đã nhận ra người quen rất nhanh. Cụ tên là X., cụ ở làng Đại, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. Tôi vội vàng xếp gọn sách vở quanh nơi ngồi, đứng lên mời khách vào nhà.

Sau tuần trà mạn, để đi thẳng vào nội dung câu truyện, cụ chỉ người con gái đi cùng, nói với tôi : “Con gái tôi tên là H., lấy chồng người cùng làng. Cháu vừa sinh con được hai tháng thì đột nhiên mắt cháu bị mờ. Bên nhà chồng, mượn cớ là không có người chăm sóc cả mẹ và con cháu, họ đã dắt

cả hai sang nhà tôi. Họ nói, nhờ gia đình tôi chăm sóc, chạy chữa giúp. Thế rồi, họ bỏ mẹ con cháu ở lại. Họ đứng dậy ra về. Từ đó đến nay, họ chẳng đoái hoài, hỏi han gì tới mẹ con cháu nữa. Vợ chồng tôi, một là xã viên già của hợp tác xã nông nghiệp, một là cán bộ quèn, lương hưu rất ít. Nay gặp cảnh thông gia bất nhân, nhưng vì bệnh lại rơi vào con mình, cháu mình, nên chúng tôi đành phải nhận vậy. Trong lòng tôi ngày đêm lo lắng không yên. Tôi phải đèo cháu bằng xe đạp ra bệnh Viện mắt Hà Nội. Họ khám xong, hẹn cuối tuần đến lấy kết quả. Hôm nay mới là thứ hai, đến cuối tuần còn những năm, sáu ngày nữa. Tôi nghĩ, nếu bệnh này không được chữa kịp thời, sợ đến cuối tuần, sẽ không cứu nổi đôi mắt con tôi. Tôi đến đây nhờ bác, không kịp báo trước để bác cho ngày hẹn gặp, mong bác hết sức thông cảm.”

Nói đến đây, nước mắt cụ chảy ra giàn giụa. Cụ ngậm ngùi nói tiếp : “

Cháu thì còn trẻ, con nó lại còn nhỏ quá. Nếu cháu bị mù thật, thì suốt cuộc đời còn dài dằng dặc của cháu sẽ phải sống trong tối tăm. Vợ chồng tôi, những ngày sống cuối đời, sẽ luôn phải day dứt, khổ sở. Mà nếu được chết, chắc gì vợ chồng tôi đã nhắm mắt nổi. Chỉ thương mẹ, con cháu không còn biết nương tựa vào ai?. Đôi dòng nước mắt ông già cứ từ từ lăn ra. Hai gò má nhăn nheo của cụ như đã in dấu vết của bao nỗi khó nhọc,vất vả. Cả cuộc đời của cụ đã lăn lóc, vật lộn với đói nghèo, tận tuỵ với công việc xã hội.

Giọt nước mắt của cụ cũng trong veo như tấm lòng trong sáng vốn có ở cụ. Nhưng khi nó còn ở trong người cụ, ai mà thấy được. Chỉ đến khi sự bế tắc ập đến cuộc đời cụ, đã bắt buộc nó phải trào ra qua khoé mắt cụ, lăn trên gò má cụ, ta mới biết được lúc này cụ đang khổ quá.

Tôi cũng ở trong cảnh vừa về hưu, đôi lúc thoáng qua trong đầu tôi đã có ý nghĩ rằng : Chẳng may điều gì đó sảy ra với mình, không biết rồi mình sẽ xoay xở ra sao?. Nhưng, vì cái điều gì đó chưa đến, cho nên mọi ý nghĩ cứ mơ mơ, hồ hồ trong tôi. Hôm nay, ngồi trước ông cụ và con gái cụ, trước một sự thật rõ nét, cứ như nó đang sảy ra với mình. Nó buộc mình phải tìm ra lối thoát cho mình.

Thế rồi tôi lại tự nghĩ, có thể mình đã được may mắn hơn ông cụ. Bởi vì bao năm đèn sách, lo học cách chữa bệnh cho người, tôi vẫn luôn tâm niệm, phải tìm mọi cách chữa cho bệnh mau khỏi. Để rồi, nếu chẳng may chính mình, hoặc người thân của mình mắc phải bệnh đó, mình đã biết được cách

chữa. (Sau này tôi đã nói với nhiều đồng nghiệp và môn sinh rằng, chính nhờ có những ý nghĩ này ở trong tôi, nó đã giúp tôi đi tới những thành công).

Tôi hỏi kỹ chứng bệnh của chị, chị kể : “Cháu thấy là : Ban ngày sức nhìn giảm, nhiều khi nhìn vật, nhìn người chỉ là những vệt sáng, vệt mờ. Đêm đến thì hoàn toàn không nhìn thấy gì, bất kể là ở nơi đèn sáng, hay trong xó tối.” Khi quan sát mắt chị, tôi thấy mắt vẫn như thường, riêng đồng tử giãn to. Tôi sơ bộ chẩn đoán đây là bệnh nguyên phát tính teo thần kinh thị, dân gian gọi là bệnh quáng gà, Đông y gọi là bệnh thanh manh.

Tuy tôi đã nhiều lần chữa được bệnh này, nhưng trước sự lo lắng của ông cụ, tôi đã thận trọng nói với cụ : “Xin cụ hãy tin ở tôi, nếu tôi không nhầm lẫn điều gì, có thể đến ngày bệnh viên hẹn ra nhận kết quả khám, cũng là lúc bệnh của chị đã có thể khỏi.”

Tôi không biết rằng câu nói của tôi có đủ để ông cụ tin hay không, nhưng khi thấy tôi đã khám kỹ, lại mở sách để soát lại lời dạy của cổ nhân, hình như cụ bớt lo lắng hơn.

Theo lời dặn trong sách về phần nhãn khoa, bệnh này sử dụng phương

huyệt : Tình minh, Cầu hậu, Tý nhu. Nhưng ở chị có đặc điểm mới sinh con nhỏ, gia đình chồng lại thiếu quan tâm (theo chị nghĩ, chỉ vì chị đã sinh con gái), nên tôi đã gia thêm các huyệt: Phong trì, Can du, Thận du, hy vọng kết quả sẽ nhanh hơn. Thủ pháp ở các huyệt, tôi làm như sau : Tình minh và Cầu hậu, châm theo đúng phép cố định tròng mắt. Châm kim vào sau khi đã nhắc bệnh nhân liếc tròng mắt ra phía ngoài (nếu châm Tình minh), liếc tròng mắt ngước lên (nếu châm Cầu hậu). Khi châm không vê kim, không

nâng ấn. Khi rút kim thì kịp thời ấn day lỗ kim từ một đến hai phút. Đề phòng xuất huyết thành võng mạc, gây ra màu đen quanh hốc mắt. Các huyệt còn lại là Phong trì, Can du, Thận du, Tý nhu, đều châm bổ pháp.

Châm xong, tôi dặn dò cụ nên cho chị ăn kiêng. Đó là những thứ, nếu ăn vào sẽ kích thích có hại cho sức khoẻ và kết quả châm. Như thịt bò, thịt gà, các thứ có vị chua. Gia đình nên khắc phục khó khăn, đưa chị đến châm đều hàng ngày.

Ngày hôm sau (thứ ba), em trai chị chở chị đến. Vừa bước vào nhà, chị đã vui mừng kể với tôi : “ Tối hôm qua, cháu cho con cháu bú, dưới ánh sáng đèn điện, cháu nhìn mọi thứ đã có vẻ hơi rõ hơn. Cháu thử nhìn lên mái nhà thì thấy khá rõ hình dáng của những cây tre mái.”

Sang ngày thứ tư, chị đã nhìn thấy mọi vật rõ hơn, sức nhìn tốt dần. Sau

lần châm thứ bốn, (tức ngày thứ năm), chị đã tự đi xe đạp từ Đan Phượng xuống nhà tôi. Và thật là may mắn, sáng hôm thứ bảy, ông cụ đưa chị đến Viện mắt để lấy kết quả khám. Họ cho đơn thuốc, vừa có thuốc tiêm, vừa có thuốc uống. Nhưng do cụ vẫn còn nhớ lời tôi dặn cụ : “Khi lấy kết quả và đơn thuốc, xin cụ đưa về cho tôi xem, đừng mua thuốc vội.” Cũng có lẽ còn vì mắt con gái cụ đã nhìn thấy bình thường, đúng như tôi dự đoán buổi đầu, cho nên cụ nói với con gái cụ : “Chẳng cần phải dùng thuốc nữa, càng đỡ tốn tiền.”

Từ Viện mắt, cụ và con gái đi về nhà tôi, đưa cho tôi xem kết quả khám soi đáy mắt. Đó là một tờ giấy in sẵn hai hình vòng tròn, có nhiều đường chia từ tâm vòng tròn ra. Trên các vòng tròn ấy có một đường vẽ loằng

ngoằng khép kín, nhìn giống hệt như một mạng lưới nhện chăng. Dưới cùng là lời kết luận : “Đáy võng mạc thu hẹp, thị lực giảm sút nhiều.”

Theo lời chị H. tả lại, chị đã nhìn rõ mọi thứ ở cả ban ngày và ban đêm khi có ánh sáng đèn. Tôi xem xét lại mắt chị, thấy hai đồng tử mắt trở lại bình thường, không còn giãn to như trước. Tôi nói với ông cụ : “ Thưa cụ, như thế là mắt chị đã khỏi bệnh rồi, đúng như tôi nói hôm khám cho chị. Trong trường hợp này tôi không có gì nhầm lẫn. Từ nay chị có thể yên tâm làm ăn, chú ý giữ gìn sức khoẻ. Chi đừng lo lắng nhiều, bệnh có thể ổn định được.”

Thấy tôi nói thế, ông cụ vội tiếp lời: “Thưa bác, đúng là mắt của cháu đã nhìn thấy như thường. Nhưng vì bệnh cháu rất nặng, mà lại bớt đi rất nhanh, tôi e rằng, nếu ngừng chữa ngay, bệnh có thể sẽ tái phát. Lúc ấy lại khó khăn cho gia đình tôi nhiều hơn. Vì vậy tôi xin bác tiếp tục chữa cho cháu,

đến khi chắc chắn là bênh cháu khỏi thật. Gia đình tôi tuy có khó khăn đến

mấy, vẫn phải cố gắng theo đuổi việc chữa cho cháu.”

Nghe xong yêu cầu của ông cụ, tôi đành phải chấp nhận việc chữa tiếp, nhưng tôi đưa ra một phương án khác. Tức là, từ nay, cứ cách một ngày, chị xuống đây chữa một lần, bởi vì chị còn phải chăm con nhỏ. Hơn nữa, chi đi nhiều ngày đường xa, cũng hại sức khoẻ chị. Phương án tôi đưa ra, được ông cụ và chị H. chấp thuận ngay. Tôi tiếp tục châm chữa cho chị được 6 lần nữa. Cách ngày tôi châm một lần. Khi thấy thị lực của chị đã ổn định, tôi phải nói với chị theo cách riêng rằng : “Chị nên về thưa với cụ ông và gia đình, đến đây bệnh đã khỏi, không nên đi châm nữa. Chị cần nghỉ ngơi cho thật ổn định. Nếu chị còn đi, tôi e rằng, nắng nôi, mưa gió, sẽ nhiễm vào, gây ra bệnh khác cho chị, chị và cháu sẽ khó khăn hơn nhiều đấy.” Từ đó chị mới nghỉ hẳn, không đến châm nữa.

Cũng xin kể thêm để ai đó đọc truyện này được rõ, thời ấy tôi chỉ chữa bệnh cho những người quen biết. Khi bệnh khỏi, cũng tuỳ theo mỗi người, mỗi cảnh, mà họ tỏ lòng quý mến tôi theo cách riêng. Có người cho tôi ít gạo nếp, đậu xanh của nhà làm ra, để tôi thổi xôi cúng rằm, cúng đầu tháng. Có người thì nhân trận mưa rào đầu mùa hạ, ông ta đi cất vó được mấy con cá ngon, đem nướng chín, mang đến cho tôi. Có người là cán bộ đương chức, khi đi công tác qua vùng Hải Dương về, lại cho tôi đặc sản bánh đậu xanh. Có bà rất sòng phẳng, nói toạc ra : “Thôi thì, theo mỗi lần tôi châm ở bệnh viện phải trả hai hào. Tôi châm ở anh được chín lần, nhưng tôi cứ gửi anh hai đồng chẵn để anh mua gì tuỳ ý cho tiện.”

Sau khi chữa cho chị H. khỏi mờ mắt cũng không lâu, tôi có việc phải lên làng Đại. Tôi đến thăm nhà ông bà Q.. Nghe tin tôi lên, cụ X. đến hẹn với ông bà Q. ngay, bữa trưa cụ mời cơm tôi tại nhà cụ. Ông bà Q. là hàng con cháu cụ, nên phải nghe theo ý cụ. Mặt khác, cụ X. biết tôi chữa được các bệnh, là do ông bà Q. giới thiệu. Vì vậy ông bà Q. cũng muốn để cụ có lời cám ơn tôi đã chữa cho con cụ khỏi bệnh. Như thế, câu truyện mới được gọi là có đầu, có cuối.

Trong mâm cơm bữa đó, chỉ có ba người : Cụ X., ông Q. và tôi. Cụ cảm động, bùi ngùi nói với tôi : “Tôi chưa thấy ai chữa bệnh như bác. Trường hợp của cháu H. đây, dẫu rằng gia đình tôi có phải bán nhà, bán đất đi để

thuốc men cho cháu được khỏi, chúng tôi cũng phải làm. Đằng này lai khác, khi bác nhận chữa bênh cho cháu, bác chẳng đòi hỏi gì. Tiền thuốc cũng không phải ứng ra. Tôi đang định thu xếp xuống tạ ơn bác. May mắn dịp này bác lên chơi với ông bà Q., tôi được tin đến mời bác. Bác bớt chút thời gian đến đây với gia đình chúng tôi là quý lắm rồi, tôi không biết nói gì hơn nữa. Mong bác thông cảm tấm lòng của chúng tôi.”

Tôi chợt nhớ ra từ lúc tôi đến nhà cụ, tôi chưa nhìn thấy chi H. và con chị, tôi lên tiếng hỏi cụ về chị. Cụ bỗng trào hai hàng nước mắt và nói : “A quên, tôi chưa kịp báo cáo với bác : Khi cháu H. khỏi bệnh, bên nhà chồng cháu đã sang đón mẹ con cháu về. Cũng với lý do nhà bận công việc cần có cháu ngay, để trông coi, giúp đỡ họ. Họ không được một lời hỏi xem quá trình chạy chữa cho cháu ra sao. Nhưng thôi, cháu đã khỏi bệnh, về đoàn tụ với gia đình chồng là điều rất may mắn cho chúng tôi. Chúng tôi mừng không sao kể hết. Cứ như gia đình vừa qua một cơn ác mộng, mặc dù đó là một sự thật hoàn toàn.” Nét mặt cụ đến đây giãn ra, những giọt nước mắt vẫn còn vương trên gò má cụ. Nhưng đó là giọt nước mắt của buồn vui lẫn lộn trong lòng.

Cụ rót thêm rượu vào chén của ông Q. và tôi, rồi cụ lên tiếng gọi cụ bà trong nhà ra để cám ơn tôi. Đúng là đã có sự chuẩn bị trước. Cụ bà ra, mang theo một cái khay cổ bằng gỗ, trên khay là một gói mỏng và rộng, gói bằng tờ báo còn phẳng phiu. Trên gói lại có một phong bì mới, không đề chữ, đã dán kín. Cụ bà đặt khay trên cạnh bàn và nói lời cảm ơn, sau đó bà cụ đi vào nhà trong. Ông cụ thấy chúng tôi đã dừng bữa, cụ mời hai người sang bàn bên uống nước. Lúc này ông cụ mới nói rõ rằng : “Cháu H. nhà tôi khỏi được bệnh, vợ chồng tôi không biết tính công thầy thế nào. Bởi việc thầy làm, là việc bằng tâm đức của thầy. Vậy nên, vợ chồng tôi chỉ sửa soạn chút ít, gọi là, gửi bác để bác mua thêm sách vở. Còn đây là bộ quần áo ta, bằng lụa tơ tằm, tôi được thưởng năm cuối cùng công tác ở xưởng ươm tơ của huyện, nay đem biếu bác làm vật kỷ niệm.” Tôi chưa kịp lên tiếng thì ông Quất đã nói thêm vào : “Ông bà Xuý

đây có lòng kính nể bác, không dám nói đến việc trả công bác. Chỉ biết nhớ ơn bác. Còn đây là chút quà biếu để bày tỏ tấm lòng. Mong bác vui vẻ nhận, cho ông bà cháu đây được yên lòng.”

Tôi không biết trong phong bì kia số tiền là bao nhiêu, nhưng tôi nghĩ, dù ít hay nhiều cũng là tiền. Mà tiền lúc này quý lắm. Lương tháng dạy đại học của tôi trước lúc nghỉ hưu cũng chỉ được một trăm đồng chẵn. Tôi chợt nghĩ về gia đình cụ rằng : Để có được một trăm đồng thôi, hai ông bà già này đã phải làm lụng thế nào?. Nếu trong phong bì kia không phải là một trăm, mà là nhiều trăm đồng, thì sự vất vả kia sẽ phải tăng lên không biết bao nhiêu lần. Tôi không thể đang tâm nhận số tiền đó được. Tôi đã nói với ông cụ : “Cụ công tác cơ quan đến lúc hết tuổi cống hiến. Tôi tuy nghỉ hưu sớm, nhưng đó là nhờ có tham gia hai cuộc kháng chiến. Cái khó khăn chung của xã hội thì cụ cũng như tôi đều đã phải trải qua. Nhưng khó khăn riêng của từng nhà, lại thuộc vào số phận may, rủi. Khi sự rủi ro đổ ập xuống nhà nào đó, nếu không có được sự đùm bọc tình người của họ hàng,

làng xóm, bạn bè thân thiết, nhất định khó có thể vượt qua nổi. Và những người đã giúp đỡ, có khi nào lại mặc cả trước nạn nhân rằng, họ phải được trả công ra sao? Do vậy, không kể là làm nghề gì, đó chỉ là quan hệ đổi công xã hội. Nhưng cứu nguy lại thuộc tình người. Quan hệ giữa tôi và gia đình đây là thông qua gia đình ông Quất, như ông Quất đã nói : “Vì cây dây leo mà.”

Câu truyện qua lại một hồi lâu, cuối cùng tôi cũng phải nhận bộ quần áo

lụa để hai cụ được vui. Cái phong bì, tôi biếu lại,để hai cụ dưỡng già. Bộ quần áo hai cụ tặng đến nay tôi không còn giữ được nữa, nhưng đôi mắt của chị Hằng từ đó vẫn tinh tường. Đấy chính là phần thưởng cao nhất mà tôi nhận được.

Câu truyện có thật này, sảy ra đúng như tôi vừa kể trên đây. Nhưng chắc gì, những người đọc qua truyện này, họ cũng sẽ tin ngay lời tôi. Dù đó là những phương kinh nghiệm nhiều đời, đã được viết thành sách. Tôi đã làm theo sách mà có hiệu qủa. Chỉ vì, khi kể lại truyện, tôi không nói đến sách, họ cũng không được nhìn thấy tôi làm. Vì vậy, tuy câu truyện đã dài, tôi cũng xin trích sách vở, giải rõ tác dụng của phương huyệt. Huyệt Tình minh, còn gọi là Tinh minh (sáng tròng con mắt) trên kinh bàng quang. Vị trí ở đầu khoé mắt phía trong. Chủ trị :... mù về đêm và các loại bệnh mắt;... viêm thần kinh thị giác; teo thần kinh thị giác; viêm võng mạc nhìn... Huyệt Cầu hậu (phía sau cầu mắt) là kinh ngoại kỳ huyệt. Chủ trị :...viêm thần kinh thị giác ; teo thần kinh thị giác ; biến dạng sắc tố võng mạc... Huyệt Tý nhu, trên kinh đại trường, chủ trị :... bệnh mắt... Huyệt Phong trì, trên kinh đảm. Chủ trị :... bệnh mắt;... mắt nhìn không rõ... Huyệt Can du, trên kinh bàng quang, là bối du huyệt của tạng can. Chủ trị : ...bệnh mắt;... Huyệt Thận du, trên kinh bàng quang, là bối du huyệt của tạng thận. Chủ trị :... mắt nhìn mờ mờ... Trong bệnh ngũ quan, biện chứng về bệnh mắt, có thuyết ngũ luân(năm vòng tròn), là : Nhục luân, huyết luân, khí luân, phong luân, thủy luân. Trong đó: Phong luân :Tròng đen (bao quát giác mạc, hậu phòng, mống mắt) thuộc can. Can chủ phong, cho nên gọi là phong luân. Thuỷ luân : Lỗ đồng tử (tức là đồng thần. Bao quát tổ chức phía sau của lỗ đồng tử. Như thấu kính thể, thủy tinh thể, cầu củng mạc, thị võng mạc và thị thần kinh) thuộc thận. Thận chủ thủy, cho nên gọi là thủy luân. Đến đây, đã là nói có sách, chỉ còn vế mách chưa có chứng. Với các thầy thuốc, xin hãy ứng dụng để tự tìm lấy chứng. Còn với độc giả nói chung, xin hãy chờ đợi, khi nào được trông thấy các thầy thuốc chữa bệnh có hiệu quả, lúc ấy niềm tin sẽ trọn vẹn, và cũng không phải là đã muộn mằn gì.

26 - Chữa chứng viêm gan siêu vi trùng cấp tính

Ngày nay nếu có ai đó dám nói rằng, họ chữa khỏi bệnh viêm gan siêu vi trùng bằng Đông y, thì chắc chắn họ sẽ bị coi là người có thần kinh không bình thường.

Khoa học hiện đại, tinh vi, lại chia nguyên nhân bệnh viêm gan là do nhiều vi rút khác nhau. Có người hiểu biết còn nói rằng: ai đã bị viêm gan B, thì sẽ phải mang vi rút đó trong người suốt đời. Họ còn nói

loại vi rút này tồn tại trong gan là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh xơ gan cổ trướng, một trong tứ chứng nan y xưa nay.

Trong một trường hợp đặc biệt, tôi đã nhận chữa cho người bệnh viêm gan B.. Trước khi tôi chữa, người đó có xét nghiệm của Tây y. Sau khi chữa, cũng có xét nghiệm của Tây y. Vì vậy, tôi ghi lại như một kỷ niệm riêng. Bởi vì, rất ít khi việc tôi chũa bệnh có được xét nghiệm trước và sau

điều trị, để đánh giá chính xác kết qủa như thế. Tôi chưa có trong tay nhiều bệnh nhân mắc bệnh này, cho nên bài thuốc và phương huyệt châm cứu chữa bệnh cho người ấy kết quả, đem đến một bất ngờ lớn với tôi, cũng như với người bệnh và các anh em học viên.

Câu chuyện tôi kể sau đây, nếu ai có điều kiện gặp bệnh này, và ứng dụng chữa có kết quả, thì cũng chỉ có thể trở thành kỷ niệm riêng của họ mà thôi. Vào khoảng 1987 - 1989 (tôi không nhớ rõ lắm), nhưng nội dung câu chuyện thì tôi nhớ rất rõ. Như thường lệ, hôm đó tôi đang ngồi chữa bệnh, thấy có một cậu con trai mới lớn bước vào, cậu chào tôi và nói: “Thưa ông, cháu là con bố A. mẹ M., mẹ cháu là là con gái ông X. ở Đan Phượng. Bố mẹ cháu đang bận công việc, không đưa cháu ra để thưa chuyện với ông, nhờ ông chữa bệnh cho cháu. Bố mẹ cháu bảo cháu cứ ra thưa với ông trước, mấy hôm nữa xong công việc đang làm giở, bố mẹ cháu sẽ ra gặp ông sau.”

Sau khi châm chữa xong cho những người đến trước cháu, tôi quay sang nói với cháu. Bố mẹ cháu thì tôi đã biết, cả hai người đều là công nhân xây dựng ở Sơn Tây. Mẹ cháu ốm yếu đã lâu, vừa bị suy tim nặng, lại bị lỡ kế hoạch, sinh thêm con thứ ba, nên phải nhận kỷ luật thôi việc theo chính sách dân số. Bố cháu lương thấp, lại làm việc xa nhà, không thể tiếp tục với công việc cơ quan. Anh đã xin nghỉ mất sức, về làng giúp đỡ gia đình. Hai vợ chồng vừa cày, cấy ruộng của hợp tác xã, vừa làm thuê, làm mướn. Cuộc sống vất vả vô cùng.

Khi thấy tôi quay sang cháu, cháu vội vã trình bầy ngay : “Thua ông,,

cháu bị sốt, đến bữa cháu chẳng muốn ăn, cháu thấy quặn bụng rồi nôn mửa, cháu kêu mệt mỏi. Bố cháu xem kỹ người cháu rồi kêu lên : “ Da vàng, mắt vàng rồi. Không khéo con bị bênh gan đấy.” Thế rồi bố cháu đưa cháu ra

bệnh viện huyện Hoài Đức. Các bác sỹ khám xong bắt cháu thử máu. Khi có kết quả là cháu bị viêm gan B, bệnh viện yêu cầu gia đình cháu nằm viện. Nhưng về nhà bố mẹ cháu bàn với nhau, cho cháu ra nhờ ông chữa giúp, sẽ đỡ tiền viện phí và tiền thuốc.”

Lúc này ngồi gần cháu, nghe cháu nói, và nhìn kỹ cháu tôi mới thấy những lời cháu kể là đúng. Nhận lời chữa cho cháu, tôi nói: “Ông nhận chữa cho cháu, còn như bệnh khỏi nhanh hay chậm là phụ thuộc vào cháu có chịu kiêng giữ và uống thuốc như ông sẽ dặn cháu hay không.”

Phương huyệt tôi châm cho cháu là : Túc tam lý, Thái xung. Huyệt Túc

tam lý tôi làm thủ pháp bổ tổng hợp, kết hợp năm loại là : Khai bế, từ tật, đề sáp, niệm chuyển và cửu lục, làm lão dương số (làm 81 lần). Huyệt Thái xung, tôi cũng lam kết hợp năm loại thủ pháp như trên, nhưng là tả pháp. Thấy cháu là thanh niên, sức đang lớn, tôi đã tam bội lão âm số (36 x 3 =

108 lần vê đếm). Về thuốc, tôi dặn cháu nhổ cây cỏ mần trầu (tên thuốc nam là Thanh tâm thảo), rửa sạch đất ở rễ, vất bỏ lá già úa, cho vào nồi, đổ nước nấu cả cây. Mỗi ấm khoảng một chít tay cây cỏ. Ngày một ấm, sắc hai lần, mỗi lần sắc còn một bát con, uống lúc thuốc còn ấm.

Châm và uống thuốc được hai ngày thì cháu dứt sốt, da đỡ vàng, nước tiểu đã trong lại. Cháu đã biết đói và ăn được khá hơn. Tuy vậy, tôi vẫn yêu cầu cháu đến châm đủ liệu trình là 10 ngày. Hết liệu trình đầu,

tôi cho cháu tạm dừng năm ngày. Khi cháu đến châm liệu trình sau được ba hôm, lúa nhà cháu đã chín. Cháu xin phép nghỉ để giúp bố mẹ cháu thu hoạch mùa. Thế rồi bẵng đi không thấy cháu ra chữa nữa.

Hơn một tháng sau, cháu ra thăm tôi và nói : “Thưa ông, cháu giúp bố mẹ cháu gặt lúa xong thì lại bắt tay vào cầy bừa ngay. Cháu đã làm giúp bố mẹ cháu được mọi việc như trước đây. Tuần vừa qua, bố cháu đưa cháu ra bệnh viện khám lại. Các bác sỹ khám và làm xét nghiệm cho cháu, họ nói bệnh của cháu đã ổn định. Hôm nay đáng lẽ bố cháu đi với cháu ra cảm ơn ông. Nhưng tối hôm qua có người đến gọi bố cháu đi nhận việc. Bố cháu vì nể họ, hôm nay đã đi làm cho họ. Thế là cháu lại phải đi một mình. Bố mẹ cháu bảo cháu đem ra biếu ông mấy cân gạo nếp của nhà, ông nấu ăn sáng cho đỡ tốn tiền quà. Sau nữa là xin ông cho cháu nghỉ chữa. Khi nào có gì cần, cháu lại ra nhờ ông giúp đỡ. Bố mẹ cháu biết ơn ông nhiều, nhưng vì bận việc quá xin ông thông cảm cho.”

Nghe cháu nói, tôi thật cảm động. Mặt khác, trong đáy lòng tôi lại cũng

biết ơn những người nghèo như bố con nhà cháu. Bởi vì những nhà giàu, có,

ho đâu dám giao con, cháu có bệnh ấy cho tôi chữa như thế.

Trước khi ngồi viết lại chuyện này, một học viên của tôi (là bác sỹ Quân y) kể lại, anh cũng gặp người bệnh có chứng trên. Nhờ đã đến hỏi tôi, ghi chép kỹ những hướng dẫn của tôi về phương huyệt, thủ pháp châm kim, kết hợp sử dụng thuốc Nam. Anh đã chữa thành công ca bệnh, sau mười lần châm, kết hợp với uống nước sắc cây thuốc Thanh tâm thảo. Trong lần gặp nhau giữa tôi và anh bác sỹ trẻ ấy, tôi đã nói với anh : “Tác dụng của cây cỏ Mần trầu, trong sách Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư Đỗ Tất Lợi đã ghi đầy đủ. Nhưng vì đó là kinh nghiệm dân gian, nó chỉ mang tên loài là cỏ, lại không thấy được dùng chính, hay dùng thay thế trong các phương thuốc bắc cổ truyền, nên nhiều người có bệnh đã bỏ qua, không dùng đến nó.” Về phương huyệt, anh đã được học kỹ ở phần du huyệt học, nhưng tôi vẫn nhắc lại tác dụng với bệnh gan của hai huyệt như sau : “Huyệt Túc tam lý, chủ trị : ...hoàng đản (vàng da do bệnh gan mật)... Phối hợp với Thái xung, chữa viêm gan... Huyệt Thái xung, chủ trị :...viêm gan;... mặt và mắt màu xanh...”

Viết đến đây, tôi liên hệ tới câu nói của cụ Lê Nin: “Quần chúng chỉ tin ở kinh nghiệm bản thân.” Người bệnh của tôi, và học viên của tôi trong chuyện này, được một minh chứng, bảo đảm tính bất hủ của danh ngôn nổi tiếng này. Còn tôi và bệnh nhân, học viên của tôi, lại là những nhân chứng của phép chữa bệnh viêm gan B bằng châm cứu,kết hợp với thuốc Nam.

27 - Chữa chứng ho ra máu do giãn phế quản

Mùa đông- xuân năm 1970 - 1971, ở vùng Tuyên Đức là mùa khô. Cơ quan Tỉnh uỷ đóng quân tại một căn cứ, vùng rừng núi huyện Đức Trọng, (thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay). Ban tuyên huấn chúng tôi được bố trí ở ven một con suối cạn, trong khu rừng dầu (rừng chỉ có loại cây dầu rái mọc thưa, xen kẽ với những bụi le).

Chiều hôm đó, vào khoảng mặt trời sắp lặn, tôi đang chuẩn bị ăn cơm. Bỗng thấy từ xa, y sỹ Nghị vội vã chạy đến chỗ tôi. Anh vừa thở hổn hển, vừa nói: “Nguy quá, anh Tiến bị khạc ra máu. Máu ra rất nhiều, một vũng dưới đám nan rá anh đang vót dở. Anh Sửu sang xem ngay, xử lý giúp tui.” Tôi bảo y sỹ Nghị về trước, hỏi xem anh Tiến nôn ra máu hay khạc ra máu, tôi còn thu xếp ba lô mang theo (khẩu hiệu ở đây là “vật bất ly thân mà.”)

Tới nơi, tôi nhìn thấy anh Tiến ngồi gục đầu xuống. Hai bàn tay anh cầm cái khăn mặt bịt lấy miệng. Dưới đất là một vũng máu tươi, ước chừng khoảng một bát ăn cơm. Máu còn tung toé qua đám nan rá chưa vót. Tôi ngồi ngay xuống bên anh Tiến. Anh Nghị chưa kịp nói điều tôi dặn, anh

Tiến đã nói với tôi: “Tui khạc một tiếng, máu vọt ra liền.” Sở dĩ tôi cần biết như thế, là để phân biệt máu ra từ đường hô hấp hay ra từ đường tiêu hoá. Theo anh nói, tôi đã chẩn đây là bệnh từ đường hô hấp. Hơn nữa, anh vốn có bệnh hen phế quản mạn tính, cho nên, chứng đây hẳn là do giãn phế quản.

Tôi lấy ra ba cây kim, sát trùng xong, tôi châm ngay huyệt Đại chùy, rồi châm đến hai huyệt Trung phủ, lưu kim. Tôi quay lại vê tả mạnh, lần lượt vê từ Đại chùy, sang huyệt Trung phủ, vê liên tục, không kể số lần vê. Chừng năm, bẩy phút sau, tôi rút hết kim ra. Tôi và y sỹ Nghị dìu anh Tiến về chỗ anh để ba lô, căng tăng, võng của anh cho anh nằm. Ngồi chờ một lúc khá lâu, không thấy người bệnh có hiện tượng gì, tôi nói với y sỹ Nghị cần chú ý trông nom anh Tiến, để tôi về ăn cơm.

Tối đó, tôi đã sang cùng với y sỹ Nghị, hai chúng tôi mắc võng nằm cạnh anh Tiến. Để cho yên tâm khi ngủ, tôi đã châm cho anh Tiến một lần nữa. Trong khi chưa ngủ được, tôi đã nói với y sỹ Nghị về tác dụng của từng huyệt tôi đã châm chữa bệnh này : “Huyệt Đại chùy, ở trên mạch đốc. Vị trí tại phía trên mỏm gai đốt sống lưng có tên D1. Chủ trị : ...ho hắng; hen phế quản; lao phổi;...phế trướng... Phối hợp với Trung phủ, trị giãn phế qủan gây ra xuất huyết... Với huyệt Trung suyễn, là loại tân huyệt (còn có tên Can nhiệt huyệt,Tích bàng, ở giữa khe liên đốt D9-D10 sang hai bên đều nửa

thốn), Phong long trên kinh vị, trị viêm phế quản... Huyệt Trung phủ, trên kinh phế, ở vách trước lồng ngực, trên rãnh cơ tam giác vai và cơ ngực to, là Mộ của phế tạng. Chủ trị : Ho hắng;hen;...viêm phế quản; viêm phổi; lao phổi... Kết hợp với Đại chùy, trị viêm phổi, giãn phế quản xuất huyết...; với Phế du trên kinh bàng quang, là Bối du của tạng phế, Khổng tối, trên kinh phế, ở cách tay trước, trị viêm phế quản mạn tính; với Kết hạch huyệt, Phế nhiệt huyệt (hai huyệt này đều là tân huyệt ở vùng vai, lưng trên) , Phế du, trị lao phổi. Đêm ấy, tôi và Nghị nằm ngủ, nhưng chúng tôi đều ngủ thấp thỏm. Thỉnh thoảng lại để ý tới anh Tiến, vẫn thấy anh ngủ yên giấc cả đêm. Sáng hôm sau, trước khi về lại nơi làm việc của ban Tuyên huấn, tôi tiến hành châm cho anh Tiến như hai lần trước. Thế là chứng ra máu do giãn phế quản của anh từ đấy dứt hẳn. Sau này, suốt cả thời gian anh cùng tôi trên đường Trường Sơn ra Bắc chữa bệnh, chúng tôi phải đi bộ tới ngang vùng Quảng Trị, lúc này mới được ngồi lên xe ô tô vận tải đi tiếp. Ngồi trên xe, chúng tôi đều bị xóc tung lên, dập xuống, nhưng cũng không thấy anh Tiến bị lại chứng bệnh cũ.

Anh Tiến là người Khu Năm tập kết ra Bắc, anh lập gia đình ở Đức

Giang, Gia Lâm. Sau thời gian nghỉ dưỡng theo chế độ của cán bộ đi B. ra, khi về với vợ con, sẽ có lúc anh kể cho họ nghe về nỗi gian khổ của những ngày ở chiến trường Tuyên Đức. Trong đó, chắc hẳn không thể thiếu câu chuyện bệnh tật anh mắc phải như tôi đã nói đến ở trên đây.

28 - Chữa chứng viêm cầu thận, phù nề

Cách đây cũng đã khá lâu, tiến sỹ y khoa Ng. T. Ph. ở Viện Tai Mũi Họng trung ương đến gặp tôi. Ông hỏi tôi xin bài thuốc chữa chứng viêm cầu thận cấp có phù nề, để về chữa cho cấp trên của ông, bà Viện phó Th..

Tôi nhớ ngay đến một bài thuốc quý. Bài thuốc nàỳ vốn do một người phụ nữ làng Đan Phượng, huyện Đan Phượng, đã kể cho tôi nghe. Tôi cho rằng, đây sẽ là dịp đem ứng dụng, làm cho nó trở thành kinh nghiệm của chính mình. Trước khi trao cho ông Ph., tôi thuật lại câu chuyện tình cờ đó. Cũng là để tăng thêm niềm tin cho ông tiến sỹ Tây y này.

Vào những năm sắp hết thập kỷ 9, thế kỷ 20, có người đến hỏi tôi rằng : “Bạn tôi nhờ tôi hỏi ông giùm xem, ông có nhận bệnh nhân viêm cầu thận, để tôi về đưa bạn tôi đến chữa.”

Tôi chưa kịp trả lời người hỏi câu đó, bỗng một bệnh nhân đang chờ tôi chữa chứng đau lưng, bà đã nhanh nhảu hỏi lại ông khách: “ Họ có phù to phải không ?.” Rồi bà ta kể tiếp : “Năm ngoái, con gái tôi bị phù, có sốt, mới mấy hôm mà tay áo căng nứt ra. Chân phù, mặt phù, nước tiểu vàng sẫm. Tôi bế ra

bệnh viện huyện Đan Phượng để khám chữa. Khi mẹ con tôi vừa đến cửa phòng khám, bác sỹ trực nhìn thấy liền chạy đến và kêu to lên rằng : “Sao nhà chị để con bé đến nỗi này !. Thôi, chờ đấy, để tôi gọi xe cấp cứu, đưa cháu ra bệnh viện Xanh Pôn gấp.” Nói rồi, người bác sỹ đi vào phòng trong.

Chợt một chị chờ khám trong phòng, chạy nhanh đến gần tôi, ghé sát vào

tai tôi giục giã : “Hãy bế con về ngay, quét lấy một rổ lá nhãn rụng, sao vàng hạ thổ, sắc nước cho uống mấy ấm là khỏi. Không phải đi Hà Nội đâu.” Nghe xong, tôi mừng quá, đứng dậy bế con chạy vội ra về. Sợ người bác sỹ trở ra nhìn thấy, giữ mẹ con tôi lại cho đi nằm viện xa nhà. Về đến nhà, tôi làm theo lời người đó nói, cho cháu uống ba ấm là cháu khỏi. Cháu khỏi rồi mọi người mới hỏi tôi rằng : “Ai mách cho cách chữa đó ? Làm sao mà chị có thể tin ngay thế nhỉ, cũng may mà cháu nó khỏi.”

“Lúc này tôi mới chợt nhớ lại, hoá ra mình quá sợ phải đem con đi bệnh

viện Hà Nội, mà không kịp hỏi quê quán người đó. Nay cháu qua cơn hiểm nghèo, lại không biết người ta ở đâu để đến cảm ơn họ. Bài thuốc tôi chữa cho con là như thế đấy, ông cứ về bảo họ làm theo lời tôi là khỏi.”

Tôi kể xong câu chuyện trên, nhưng bàn thêm với ông Ph. : “Các nhà

khoa học thường không tin điều gì quá dễ dãi. Vì thế, tôi muốn ông về thưa với cụ ông nhà ta, nhờ cụ quét cho một bao lá nhãn rụng, rửa sạch, phơi khô, thái nhỏ ra. Sau đó, ông sao vàng hạ thổ, chia làm mấy ấm, cho vào túí ni lon. Mỗi túi khoảng 40 ~ 50 gr, dán kín lại. Bên trong có nhãn mác, chữ số

La Mã và mẫu tự La Tinh viết tắt. Khi ông giao thuốc cho người bệnh, ông dặn họ kiêng kỹ những điều mà người mang bệnh thận phải kiêng. Ngoài ra, ông còn phải dặn kiêng theo kiểu uống thuốc Nam là : Trong thời gian uống thuốc, họ không được ăn các thứ như rau muống, đậu xanh, rau cải bẹ, các thứ có vị chua... Cách sắc thuốc thì như sắc thuốc Bắc nói chung. Mỗi ngày uống một ấm.

Bẵng đi một thời gian khá dài, tới một hôm, ông Ph. mang mấy bảng số

đo nhiệt độ kinh lạc đến nhờ tôi hội chẩn. Khi vừa gặp nhau, ông vội báo tin

: “Hôm qua bà Th. gặp em, bà đã xin lỗi em, vì để quá lâu chưa thanh toán tiền thuốc bà nhờ em mua giúp. Tiếp theo, bà kể rằng : “Th. uống xong 5 ấm thuốc, các chứng đều thấy giảm. Để có nhận xét chắc chắn, tới nay vừa được một tháng, kể từ khi ngừng uống thuốc, Th. vừa đi xét nghiệm. Nước tiểu đã hết huyết sắc tố và hình trụ. Th. hỏi Ph. số tiền thuốc Ph. mua hộ để Th. gửi lại.” Đợi bà Th. nói xong, em nói lại với bà ấy rằng : “Khi thấy chị bị bệnh, Ph. đi hói thầy Sửu cách chữa. Thầy Sửu gửi thuốc cho Ph. đem về tặng chị. Thầy còn dặn Ph. theo dõi kết quả chữa rồi báo lại cho thầy. Bà Th. nghe em nói thế, bà đã nhờ em thay mặt bà cảm ơn thầy.”

Bài thuốc này còn được tôi khảo nghiệm thành công ở mấy ca bệnh như

sau : - Ngày 7-11-2001, bệnh nhân Tr. C. Đ., 45 tuổi, quê ở huyện Lạc Thủy, tỉnh Hoà Bình, tạm trú tại Thanh Xuân, Hà Nội. Anh đã được bệnh viện khám, họ chẩn đoán anh bị suy thận độ 3. Anh nhờ người thân đưa đến gặp tôi, xin được tôi chữa bệnh. Bệnh nhân này bị viêm cầu thận mạn tính, có đau lưng, đau vùng đỉnh đầu. Khám bằng đo kinh lạc, có mô hình thận hư suy. Tôi chữa cho bệnh nhân theo phương : Châm các huyệt Bách hội, Thông thiên, Dũng tuyền, làm thủ pháp bổ tổng hợp, lão dương số. Ba huyệt kể trên, là nhóm huyệt trị chứng đau đầu do thận hư, đau nơi đỉnh đầu và có kèm theo đau lưng. Cứu huyệt Thận du bằng mồi ngải cỡ vừa để bồi bổ tạng thận. Hết liệu trình 10 lần châm và cứu ngải, đầu và lưng của bệnh nhân không còn thấy đau. Tôi yêu cầu bệnh nhân về uống bài thuốc lá nhãn rụng. Phải uống đủ 1 tháng liền. Sau đó, ngưòi bệnh theo đúng yêu cầu của tôi, anh đã đi xét nghiệm và báo lại, kết quả âm tính.

-Ngày 1-5-2002, bệnh nhân Tr. T. M, phường Yên Hoà, Cầu Giấy, bị

bệnh tiểu tiện ra máu. Bệnh nhân đã khám và điều trị bằng Tây y, nhưng không thấy đỡ. Khi bệnh nhân nhờ tôi chữa, tôi chỉ định ngay phép chữa bằng bài thuốc dùng lá nhãn rụng. Thời gian uống thuốc cũng cần đủ 1 tháng. Không châm cứu. Sau dó xét nghiệm lại, kết quả âm tính.

-Ngày 8-8-2002, bệnh nhân Tr. Th. T., 67 tuổi, nhà số X , phường Hoàng

Văn Thụ, bà đến khám trong tình trạng phù toàn thân. Từ đầu gối bệnh nhân trở xuống, phù càng rõ rệt. Phiếu xét nghiệm của bà đề ngày 7-8-2002 ghi : Albumin +, Ph 8, Tỷ trọng 1,005. Sau khi bà uống lá nhãn rụng được hơn

một tháng, ngày 16-9-2002, bà đến, kèm theo phiếu xét nghiệm cùng ngày. Phiếu , ghi : Albumin +, Ph 7, Tỷ trọng 1,005.

Bệnh nhân kể thêm : “Tôi uống thuốc được mấy ngày đã thấy chứng phù giảm dần, người nhẹ nhõm, khoan khoái. Tôi ăn, ngủ tốt hơn, nước tiểu trong hơn. Điều đặc biệt khác trước là, đầu gối và khoeo chân không còn phù nữa. Tôi đứng lên, ngồi xuống không bị té đổ ra nữa. Da dẻ cũng sáng tươi hơn.”

Bà còn cho biết, bệnh này làm khổ bà từ năm 1969. Đã nhiều lần bà phải nằm bệnh viện. Theo nhiều người mách bảo, bà cũng đã uống thuốc của nhiều nơi, nhưng bệnh không thấy chuyển. Con gái bà cũng nói thêm vào : “ Bệnh viện nói, mẹ cháu suy thận độ 3 rồi, chuẩn bị để chạy thận nhân tạo. Nay mẹ cháu đã đỡ, chúng cháu mừng lắm.”

Theo Giáo sư Lê Thế Trung thông báo, hiện nay số người mắc chứng suy

thận ngày càng nhiều hơn. Nguyên nhân thì có rất nhiều, nhưng do viêm cầu thận mạn tính dẫn đến suy thận chiếm đa số. Hy vọng, bài thuốc Nam dùng lá nhãn rụng, chữa sớm chứng viêm cầu thận, sẽ góp phần giảm thiểu bệnh suy thận hiểm nghèo này.

29 - Chữa chứng viêm màng nhện tủy sống, gây ra tê bại chi dưới, kèm

theo đại, tiểu tiện không tự chủ

Vào khoảng năm 1989 - 1990, có một thanh niên ở xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, đến nhờ tôi chữa bệnh. Anh đi đến nhà tôi bằng xe đạp. Anh dựa xe vào tường bên cạnh cửa, bước vào nhà tôi với dáng đi lại rất khó khăn.

Tới giờ này, tôi vẫn có thể mô tả cái dáng đi rất đặc biệt ấy một cách khá rõ. Mỗi khi anh bước lên một bước, thân người anh phải nghiêng hẳn về một bên. Một bên đùi được rút lên mà không phải là đưa về phía trước, do hai đùi, và đầu gối cứ như bị bó lại. Nhân lúc thân trên xoay nghiêng đi, ống chân cũng được văng vòng ra bên rồi mới đưa về phía trước. Bàn chân ấy được đặt ở nơi cách không xa bàn chân trụ phía sau là bao nhiêu.

Anh cho tôi biết, anh bị bệnh này đã gần ba tháng, nó cứ từ từ phát triển. Tôi hỏi: “Anh có thấy đau đớn ở đâu không.” Anh nói: “Cháu không thấy đau rõ rệt”. Anh cho biết thêm: “Cháu chỉ hơi thấy tê bì, cấu mạnh ở chân thì vẫn thấy đau.” Khi tôi hỏi về quá trình chạy chữa của anh, anh cho biết: “Cháu đã nhờ mấy người chữa. Họ đều chẩn đoán là cháu bị bệnh ở thần kinh toạ. Họ có châm cứu cho cháu, có cho cháu uống thuốc, nhưng bệnh cháu không thấy chuyển mấy.

Tôi chợt nghĩ, có thể anh bị viêm màng nhện tuỷ sống. Tôi hỏi thêm anh về đại, tiểu tiện để thêm phần khẳng định. Anh liền cho biết: “Cháu đi đại, tiểu tiện có phần khó khăn và không tự chủ được.” Tôi thấy các triệu chứng của bệnh viêm màng nhện tuỷ sống đã đầy đủ, Tôi không hỏi thêm gì nữa.

Tôi tiến hành châm cho anh bằng nhóm huyệt đặc hiệu: Tích trung, Thủy đạo. Sau đó tôi gia thêm các huyệt: Giáp tích của L. 2, để phục hồi thần kinh chi dưới, Thập thất chùy hạ (dưới L. 5 ), để giãn mạch chi dưới. Huyệt tại chỗ thì tôi lấy Dương lăng tuyền thấu Âm lăng tuyền ở dưới khớp gối; Khâu khư thấu Chiếu hải ở khớp cổ chân, Bát phong ở bàn chân, khe nối các ngón chân. Do bệnh này ảnh hưởng đến quá trình tạo máu, nên thấy da anh xanh bủng, tôi thêm Tứ hoa liệu pháp (hai Cách du, hai Đảm du), và Thần môn, Chi chính. Tất cả huyệt chính và huyệt gia thêm, tôi đều dùng phép bổ. Làm thủ pháp kết hợp: từ tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp và cửu lục. Hai huyệt trong nhóm đặc hiệu với bênh viêm màng nhện tủy sống gồm : Huyệt Tích trung, trên mạch đốc, dưới mỏm gai đốt sống lưng D 11. Chủ trị có ghi

: ...lưng dưới lưng trên đau, chi dưới tê bại... Huyệt Thủy đạo. trên kinh vị, ngoài chủ trị về bệnh đường nước, còn chữa chứng...xương thắt lưng đau cấp; đại, tiểu tiện không thông...Gộp chủ trị của hai huyệt lại, là đủ chứng điển hình của bệnh màng nhện tủy sống. Có sách cho rằng, huyệt Tích trung, nằm ở chính giữa độ dài của cột sống lưng. Cho nên sách đã hướng dẫn lấy huyệt bằng cách, dùng một sợi dây, đo từ trên huyệt Đại chùy (D1), đến giữa huyệt Yêu du (gồm 12 đốt D, + 5 đốt L, + 5 đốt mảng xương cùng), sau đó đem gập đôi sợi dây lại, đặt một đầu dây ở Đại chùy, đầu còn lại xuống tới đâu, ở đó là huyệt. Các huyệt Dương lăng tuyền, Khâu khư, Bát phong, đều là những huyệt trên vùng chân, chuyên trị chân tê bại. Huyệt Cách du, là huyết hội. Huyệt Đảm du, chủ dương khí toàn thân. Hai huyệt cùng dùng cả hai bên, gọi là Tứ hoa, có tác dụng chống suy nhược rất tốt. Các huyệt Giáp tích L 2, Thập thất chùy hạ, tôi đã nói rõ tác dụng của nó ở trên.

Bệnh chuyển biến từ từ nhưng rõ rệt. Sau khoảng một tháng châm chữa, anh đi lại đã bình thường, đại, tiểu tiện đã thông và đều, da anh hồng hào trở lại. Mùa gặt sau, anh đã cùng gia đình lao động như mọi thanh niên khác trong làng.

Cho tới ngày nay, vào những dịp lễ, tết, anh vẫn tới thăm hỏi tôi. Thật là đáng quý ở tấm lòng người còn giữ được truyền thống văn hoá dân tộc. Anh nhớ đến tôi, tôi lại càng biết ơn cổ nhân đã viết sách để lại, cho tôi học được cách chữa bệnh cho anh.

30- Chữa chứng da nổi ban đỏ khắp người, do dùng thuốc kháng sinh

kéo dài

Vào khoảng giữa năm 2002, cô O., vợ nhà điêu khắc V. L. đến nhà tôi. Cùng đi với cô là một ông cụ khoảng ngoài 70 tuổi, cô nhờ tôi chữa bệnh cho cụ.

Cô kể về bệnh của cụ với tôi như sau : “ Ông chú tôi đây ở Mỹ Đức, cụ

bị bệnh lao. Con,cháu cụ đã đưa cụ đến Bệnh viện chống lao Trung ương điêù trị. Sau hơn 7 tháng chữa ở đấy, các bác sỹ nói bệnh của cụ đã ổn đinh và cho cụ ra viện. Cụ vừa về đến nhà, cũng là lúc da cụ xuất hiện nhiều mảng màu đỏ sẫm, sần sùi, to, nhỏ không đều. Mấy ngày sau, mảng nào xuất hiện trước thì dần dần đen lại. Những mảng màu đen này trông như da bị bôi lên một lớp nhựa đường mỏng. Trên mặt cụ, thầy xem đây, các mảng màu đen, đỏ, xen kẽ nhau không đều đặn. Trẻ con trong làng đồn nhau rằng cụ bị bênh hủi. Cụ rất buồn và lo lắng.”

Khi khám đo kinh lạc ở cụ, thấy có mô hình Can, Phế lý nhiệt. Tôi nhận đinh rằng : Do cụ được điều trị bằng thuốc kháng sinh suốt một thời gian dài, dư lượng độc tố hoá chất tồn đọng trong cơ thể cụ, bắt buộc hai tạng Can, Phế phải tăng công năng để chịu đựng.

Tôi khuyên cụ, từ nay cụ không nên dùng thêm bất kỳ loại thuốc nào nữa. Cụ chỉ nên dùng những loại cây, cỏ có tinh mát, lại giải được chất độc trong người cụ như sau :

“- Mỗi buổi sáng, cụ lấy rau giấp cá tươi (ngư tinh thảo), rửa sạch, nấu

chín, cho thêm chút gia vị, làm thành một bát canh, ăn hết.

- Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, cụ lấy một nắm vỏ qủa dứa ăn (bách nhãn bì ) đã được phơi khô, sao vàng, hạ thổ, đem rửa sạch, sắc kỹ, lấy một bát nước, uống hết.

- Hằng ngày, cụ lấy rau dệu tươi (tiết tiết hoa, lễ trường thảo), rửa thật sạch, ngâm qua nước muối, đem giã nát, bọc lại bằng vải thưa, chấm lên vết đỏ ở da.”

Sau lần khám và hướng dẫn cách tự chữa bệnh cho cụ, chừng hơn một tuần lễ, nhân có việc cần, cô O. đã đến gặp tôi. Cô báo lại với tôi : “ Cụ già về nhà làm đúng như lời thầy dặn. Vùng Mỹ Đức quê cụ, mấy thứ cỏ, quả ấy có rất sẵn, lúc nào tìm cũng thấy. Cụ uống nước thuốc sắc, ăn canh, chấm nước lá cỏ được 4 hôm, những mảng da chết đen đã bong rơi đi, để lộ da lành ra. Những mảng da đỏ lên thì nhạt màu dần, rồi trắng lại. Cụ chữa tiếp thêm năm ngày nữa thì bệnh khỏi hẳn. Khi khỏi bệnh, cụ đã chửi mắng

con cháu về tội không đưa cụ đi chữa sớm. Để cho cụ phải mang tiếng xấu

oan mắc bệnh hủi bấy lâu nay.”

Ta chẳng cần phải hỏi lại cụ làm gì. Nỗi vui mừng của cụ và con cháu cụ

hẳn là nhiều không sao tả nổi.

Thấy cảnh tình của cụ, tôi chợt nhớ lại câu nói của người xưa có ý chê trách những ai không biết dùng thuốc cây cỏ quanh nhà để chữa bệnh. Cũng thật là may cho cụ, bênh của cụ chưa đến mức: “Nằm trên đống thuốc mà chết.”

Phần thứ hai

31 - Chữa chứng viêm đường tiết niệu cấp tính,nước tiểu có máu

Mùa hè năm 1984, đề tài cấp Nhà nước số 48070203 do Giáo sư Tô Như Khuê làm chủ nhiệm, Khoa Sinh lý Lao động Quân sự - Học viện quân y thực hiện, bước sang giai đoạn thực nghiệm “Chứng rối loạn thần kinh tiền đình.”

Thời gian này, phương pháp đo nhiệt độ kinh lạc để đánh giá hoạt động công năng sinh lý, bệnh lý của tạng phủ con người do tôi lập ra cũng vừa hoàn thành. Chủ nhiệm đề tài kết luận: “ Kết quả đo nhiệt độ kinh lạc không những đã nhanh chóng, chính xác, lại còn số hoá cụ thể chức năng của từng tạng phủ, giúp cho có cái nhìn tức thời, tổng quát hoạt động sinh lý trong một con người.” Ông đã cho dùng phương pháp đo nhiệt độ kinh lạc làm một chỉ tiêu bên cạnh các chỉ tiêu khác trong đánh giá kết quả các thực nghiệm.

Hôm làm thực nghiệm chứng “Rối loạn thần kinh tiền đình-thị giác” trên máy ghi điện động mắt ở Viện Tai-Mũi-Họng Trung ương, nhóm nghiên cứu chúng tôi đến đúng giờ là các nhà sinh lý học TrầnTrí Bảo, Nguyễn Văn Nghị, bác sỹ Nguyễn Văn Thoại, kỹ thuật viên Nguyễn Văn Dưỡng và tôi. Còn thiếu cô Trưởng khoa Tai- Mũi- Họng, Viện Quân y 103, phó tiến sỹ (văn bằng tu nghiệp ở nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức) Ng. T. D.. Ông Nguyễn Tấn Phong- bác sỹ chuyên khoa 2 (hiện nay ông đã là phó giáo sư, tiến sỹ), giảng viên khoa Tai- Mũi- Họng, trường Đại học Y Hà Nội, kiêm nhiệm tại viện này cũng vừa tới, ông đón chúng tôi vào phòng máy. Chúng tôi vừa chuẩn bị, vừa chờ cô D. đến sẽ bắt đầu làm việc.

Chừng mươi phút sau, từ lối rẽ ngoặt về phòng máy, cô D. tay sách túi đựng cặp lồng cơm (hồi ấy, mọi người đi làm, đều phải mang theo cặp lồng cơm để ăn bữa trưa, sau khi hết buổi làm sáng), dáng vẻ cô uể oải, chầm chậm đi tới. Mọi người chưa kịp hỏi han cô về sự khác thường đó, cô đã vừa ngoẹo đầu vừa nói: “Em bị viêm đường tiết niệu, đi tiểu ra máu. Mệt quá!. Dùng thuốc kháng sinh ba ngày liền rồi mà

vẫn chưa dứt.” Bác sỹ Thoại nói như thông cảm với cô D.: “Mùa hè nóng nực thế này, dùng thuốc kháng sinh thì mệt là phải. Nhưng cũng đành phải chịu vậy thôi !.”

Theo thường lệ, mỗi đối tượng trước khi lên máy thực nghiệm, được đo nhiệt độ kinh lạc để ghi lại chỉ số sinh lý. Sau khi làm thực nghiệm, đo lại nhiệt độ kinh lạc để ghi hiện tượng sinh lý đã thay đổi ở đối tượng. Số đo kinh lạc ở hai lần đem so sánh với nhau, ta sẽ tìm ra kết qủa thực nghiêm đã

tác động vào công năng tạng phủ nào của đối tượng. Số do kinh lạc của cô Dinh trước thực nghiệm, nổi bật lên có Phế, Bàng quang lý nhiệt. Số đo này do tôi trực tiếp làm, cho nên tôi chưa nói gì với cô Dinh về hiện tượng đó. Sau thực nghiệm, trong bảng số đo kinh lạc của cô, ngoài những biến đổi sinh lý theo tác động của thực nghiệm, số đo ở hai kinh Phế, Bàng quang vẫn giữ nguyên mức lý nhiệt.

Khi nghỉ ăn cơm trưa, tôi mạnh dạn đề nghị với cô D.: “Cô có dám để tôi

châm chữa bệnh của cô không ?.” Cô nói giọng mệt mỏi: “Vâng, bác chữa thử cho em.” Tôi lấy kim ra sát trùng, chuẩn bị châm. Cả nhóm công tác xúm lại quanh tôi và cô D. để xem tôi châm chữa. Tôi nói với cô D., cũng là để cho mọi người cùng nghe: “Trong số đo kinh lạc của cô, nổi trội lên Phế và Bàng quang lý nhiệt. Tôi sẽ lấy hai huyệt, một ở kinh Phế là Liệt khuyết, một ở kinh Bàng quang là Côn luân, làm tả pháp. Bệnh của cô loại cấp tính, sức khoẻ của cô chưa hư tổn nhiều, nên tôi dùng lão âm số ( 36 X 3

= 108 ).” Nói xong, tôi tiến hành châm cho cô ngay theo phương huyệt tôi

vừa đưa ra. Tôi còn nhớ, hôm đó là ngày thứ tư trong tuần lễ.

Đến thứ bảy, cách lần thực nghiệm trước ba ngày, nhóm công tác chúng tôi đến nhà ông Trần Trí Bảo để làm thực nghiệm (ngày ấy nhà ông ở dãy tập thể cao tầng, đối diện với cổng sau của bệnh viện Bạch Mai, nhìn sang lối vào khu A9). Bài thực đó là “ấn day huyệt chống rối loạn tiền đình- thực vật.” Hôm ấy, cô D. cũng đến chậm hơn mọi người. Chúng tôi đều thông cảm với cô. Những cán bộ nữ làm khoa học thời bao cấp, họ thường gặp nhiều khó khăn trong đời sống gia đình. Phương tiện đi lại bấy giờ là xe ô tô buýt hoặc xe đạp, không ai chủ động được thời gian. Thấy cô đến kịp làm việc cùng nhau là chúng tôi mừng rồi. Qua ít giây thở dồn, vì cô vừa phải leo rất nhiều bậc cầu thang, lên đến tầng thứ tư của toà nhà để tới nơi này, cô đã quá mệt. Sau khi được uống mấy ngụm nước lọc do chủ nhà mời, cô quay về phía tôi và nói: “ Hôm đó ra về, em bị nhỡ chuyến xe buýt, mãi tới một giờ chiều em mới tới nhà. Mệt quá, em nằm ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy là ba giờ chiều, em đi tiểu tiện, thấy bệnh em mười phần đã đỡ được bảy, tám. Em chắc rằng, hôm nay bác châm cho em một lần nữa là bệnh của em có thể khỏi được. Thú thật với bác, từ khi em cầm kim châm cho bệnh nhân đến nay, đã là hơn ba năm rồi, nhưng bây giờ em mới tin châm cứu chữa được bệnh.” Tôi cười và nói với cô: “Đó là vì cô làm châm cứu theo đường lối kết hợp Đông, Tây y của Đảng. Còn tôi, tôi chỉ nghĩ đơn giản là mình học châm cứu để chữa bệnh cho mình và người thân, để tự cứu mình. Mục đích khác nhau, kết quả sẽ khác nhau, cũng là lẽ đương nhiên.” Cả nhóm công tác đều cười lên vui vẻ.

Nhân lúc không khi vui vẻ này, tôi đã nói thêm: “Chúng ta là những người thầy của thế hệ kế tiếp, cần phân tích ý nghĩa phương huyệt đã đưa đến điều trị thành công ca bệnh này như sau: “Đông y cho rằng, Phế là thượng nguồn của thủy (kim sinh thuỷ), Phế khí lấy thanh túc hạ giáng làm chủ. Nếu phế khí không sạch, sẽ sinh ra mọi chứng bệnh về đào thải nước. Huyệt Liệt khuyết trên kinh phế, tuy không phải là một loại trong ngũ du huyệt, nhưng tác dụng đặc hiệu của nó là giúp công năng khí hoá ở toàn thân của Phế. Như, khi dưỡng trấp được tiểu trường hấp thu, qua vận chuyển của Tỳ đưa lên Phế, nhờ khí hoá của Phế mà biến thành huyết. Nếu khí hoá không tốt, không sinh huyết tất sinh đàm. Dịch là chất lỏng mà dẻo, tuần hoàn ngoài mạch. Nếu khí hoá không tốt, dịch biến thành đàm, gây ra chứng đàm ngưng kinh lạc, thấy đau đớn, tê bại. Bàng quang không được khí hoá tốt, sinh ra chứng tiểu tiện buốt đau, nước tiểu khó ra, hoặc tiểu tiện không cầm. Khi chữa những chứng vừa kể ở trên, ngoài những huyệt

hữu quan, đều phải dùng đến huyệt Liệt khuyết. Huyệt Côn luân trên kinh Bàng quang, là loại kinh trong ngũ du huyệt, lại là hành hoả, chữa các chứng viêm nhiệt của Bàng quang. Khi kết hợp hai huyệt cùng chữa, hiệu quả thì như ta đã thấy cả rồi. ”

Tôi vừa nói dứt lời, ông Trần Trí Bảo đã lên tiếng hưởng ứng, ông nói:

“Lý luận của châm cứu học quả là rất sâu sắc. Em nghĩ, không riêng gì Đông hay Tây y, nếu muốn làm tốt việc chữa bệnh, phải học kỹ lý thuyết, nắm vững cơ chế sinh bệnh, học tập kinh nghiêm hay của tiền nhân, có thế mới mong tiến bộ được. Phải thế không, thưa bác ?.” Tôi vội nói ngay: “Rất cám ơn lời ông Bảo đã nói.” Liền đó, chúng tôi ai nấy vào công việc của mình một cách chăm chỉ.

Sau này, gặp ca bệnh tương tự, nhưng số đo kinh lạc có Phế, Bàng quang biểu nhiệt, số đo lớn, tôi chỉ châm tả Liệt khuyết, Côn luân cùng bên đường kinh có số đo lớn đó, bệnh cũng khỏi.

32 - Chữa chứng viêm niệu đạo cấp tính

(Đi tiểu nhiều lần, nước tiểu ra ít một, nóng, đau buốt, bàng quang căng đau)

Mùa hè năm Ât dậu (2005) vừa qua, ở khu tập thể Khương Trung này, trời snóng dữ lắm. Nhà khá giả thì đổ xô đi mua máy điều hoà nhiệt độ về lắp. Nhà tôi không đủ điều kiện lắp máy điều hoà nhiệt độ; chú Đinh Lai Thịnh đã mua giúp một máy quạt đá, dùng tạm cũng tháy đỡ mệt mỏi. Trời nóng đến mức, nước hồ Hoà Bình đã ở mức thấp nhất. Điện lực đã phải cắt điện luân phiên từng khu phố. Sinh hoạt của dân cư thật là khổ sở. Truyền thông đại chúng thì luôn nhắc nhở, khuyên người già và trẻ nhỏ không nên đi ra ngoài nhà, khi ánh nắng còn gay gắt, để đề phòng cảm nặng.

Một hôm, đã trưa rồi, khi tôi sắp nghỉ làm. Bỗng nhiên bàTr. T. Nh. bước

vào (bà là công nhân xí nghiệp .nhà nước đã nghỉ hưu. Nhà bà ở dãy A 6, cách nhà tôi không xa lắm). Bà khẩn khoản nói: “ Thầy cứu em với! Bụng dưới em căng đau, khó chịu lắm. Xin lỗi thầy, khi em đi tiểu thì són ra ít một. Muốn đi luôn luôn, nước tiểu ra được thì nóng buốt. Tối nay gia đình em có việc, em phải đi tàu hoả vào Vinh. Cứ đau như thế này thì thật khổ quá.” Tôi hỏi: “Bà đau như thế này đã lâu chưa ?” Bà nói: “Mới đây thôi, sáng nay em còn ra ga Trần Quý Cáp mua vé tầu. Về đến nhà một lúc là em bị ngay.” Tôi hỏi tiếp: “Bà đi mua vé bằng phương tiện gì ?” Bà nói: “Em đi xe máy của nhà.” Tôi hỏi thêm: “Nơi bà gửi xe máy là chỗ nắng rọi, không có mái che, phải không bà?” Bà hỏi lại tôi:

“Sao thầy biết.” Tôi giải thích cho bà hiểu điều bí ẩn này như sau: “Đó là

kinh nghiệm mà. Làm nghề chữa bệnh thì phải biết chứ. Này nhé, yên xe máy của bà có đệm xốp, bọc bằng vải giả da màu đen. Xe phơi ngoài nắng to, chúng hấp thụ bức xạ nhiệt từ ánh nắng mặt trời và giữ chúng rất lâu. Khi bà mua được vé rồi, bà vội vã lấy xe, ngồi lên và đi về nhà ngay. Từ ga về nhà, đường xa, người đông đúc, qua những nơi đèn vàng, đèn đỏ, phải dừng đỗ xe lại nhiều lần, nên thời gian bà ngồi trên yên xe cũng khá dài. Bộ máy bài tiết của bà bị sức nóng tù yên xe hun hấp, nên đã gây ra bệnh này. Các cụ xưa gọi là chứng lậu nhiệt (nhiệt là nóng, lậu là nước tiểu ra nhỏ giọt như nhà dột).

Giải thích xong, tôi nói với bà chuẩn bị để tôi châm ngay. Các huyệt tôi châm là: Trung cực, Hội âm. Tôi làm thủ pháp tả tổng hợp (từ tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp và cửu lục), vê kim kích thích lão âm số (36 x 3 = 108). Sau đó tôi lại châm thêm hai huyệt Liệt khuyết, Côn luân, cũng làm thủ pháp như trên.

Khi tôi châm xong, bà đứng dậy và nói: “Tài nhỉ, em thấy đã dễ chịu đi

một ít rồi. Thôi, em phải về ngay đây.” Vì quá vui và tin tưởng, bà đã đưa

biếu tôi một tờ tiền chẵn, không chịu nhận lại tiền thừa, (tờ tiền bà đưa có

giá trị gấp bốn lần thường ngày mọi người trả công tôi khi đó).

Bốn ngày sau, bà sang chơi và kể rằng: “Hôm ấy, em về đi tiểu được nhiều thầy ạ, đỡ nóng và đỡ buốt hơn. Đêm ngồi trên tàu, đi đến nơi ngon lành. Thế là khỏi hẳn.”

Để giải đáp câu hỏi rằng, tại sao tôi lại phát hiện ra nguyên nhân bệnh nhanh chóng đến như thế. Xin thưa, cổ thư đã ghi: “Bệnh lậu nhiệt” thường thấy nhiều ở đất nước Mông Cổ. Xứ này, nghề chính là chăn nuôi đại gia súc. Người dân luôn ngồi trên lưng ngựa, sức nóng ở trên lưng ngựa hun hấp vùng hạ âm, nên đã gây ra bệnh kể trên.”

ở nước ta, khi chưa có nhiều xe máy, tôi đã gặp một số ca bệnh, do người ngồi trên yên xe đạp bị phơi nắng, yên xe nóng cũng gây ra bệnh này. Ngày nay yên xe máy to, mức giữ nóng nhiều hơn, khác gì lưng ngựa. Đặc biệt trái đất lại đang nóng dần lên, khí hậu thay đổi, mùa nắng nóng kéo dài, lượng

xe máy lại nhiều, ắt nhiều người bị bệnh mà không rõ nguyên nhân. Vì vậy, ta phải giúp họ biết cách phòng tránh, hãy giữ và làm mát yên xe, trước khi ngồi lên.

Còn như về ý nghĩa phương huyệt dẫn đến chữa thành công ca bệnh, cũng cần làm rõ cơ sở lý luận như sau: Bệnh nhiệt lậu, chủ yếu là viêm ở niệu đạo, từ đó gây ra khó tiểu tiện mà căng bàng quang. Huyệt Trung cực là mộ của phủ bàng quang, loại huyệt mộ có tác dụng chữa bệnh cấp tính của tạng, phủ. Huyệt Hội âm là huyệt đặc hiệu chữa bệnh cấp, mạn tính ở bộ máy sinh dục, bại tiết phía trước và sau nó. Huyệt Liệt khuyết giúp phế khí hoá bàng quang, thông điều thủy đạo. Huyệt Côn luân, loại kinh, trong ngũ du huyệt, hành hoả, có tác dụng chữa các chứng nhiệt thuộc đường kinh và phủ thái dương bàng quang.

*Phụ chú: Bệnh này ngoài nguyên nhân ngồi trên lưng ngựa, yên xe đạp, xe máy, bị phơi ngoài nắng, còn có một nguyên nhân do vệ sinh cá nhân không tốt gây ra.

Riêng ở nữ giới, những người âm mao nhiều và dài sẽ rất dễ nhiễm bẩn. Trong mọi sinh hoạt, những sợi âm mao này cọ xát làm tổn thương niêm mạc ở miệng ống bài tiết, gây ra viêm nhiễm. Vì vậy, cần cắt ngắn gọn âm

mao, sẽ trừ được một đầu mối gây hại.

Còn một cách chữ bệnh này, tôi đã học được từ kinh nghiệm của danh y Vương Chấp Trung là: Khi không có điều kiện châm chữa, ta cho người bệnh dùng lá cây Vương bất lưu hành (thuốc nam thay bằng lá cây vảy ốc, cây trâu cổ, cũng gọi là nam vương bất lưu hành) để chữa. Lá này lấy về phơi nơi râm mát (âm cang) cho khô, đem sao vàng, hạ thổ. Mỗi ngày chỉ dùng 10 lá, sắc nước uống. Trong vòng 1 đến 3 ngày đã thấy hiệu quả rõ rệt.

Bà con dân dã có thể mách bảo nhau thu hái lá thuốc, dành để khi cần thì dùng. Đỡ tốn tiền thuốc lại mau khỏi bệnh. Tôi có một suy nghĩ, tên cây thuốc phải là “Nhâm bất lưu hành” mới đúng tác dụng của nó. Chữ Nhâm là ở đây danh từ trong bài ca Thập thiên can tương ứng :

“Giáp đảm, ất can, Bính tiểu trường...

...Nhâm thuộc bàng quang,Quý thận tàng...

Chữ Nhâm, gồm bộ miết nằm trên chữ sỹ. Nhưng do tam sao thì thất

bản, khi người chép lại, đã chép thành bộ miết trên chữ thổ. Đến người

khắc ván in, lại khắc thành bộ nhất trên chữ thổ. Thế là từ chữ Nhâm biến thành chữ Vương. Bênh Vương bất lưu hành, nghe sao vô lý. Bệnh Nhâm bất lưu hành lại đúng với tác dụng của cây thuốc như tên của nó vậy. Xin độc gỉa thử lưu ý tra cứu giùm thêm.

33 - Chữa chứng co thắt bàng quang cấp

Những ngày cuối đông 1983, khí trời giá lạnh. Tuy đã nghỉ hưu tại Trường Đại Học Mỹ Thuật được hơn hai năm, nhưng tôi vẫn ở trong căn nhà tạm của cục Mỹ thuật cấp cho.

Phòng tôi ở là một nửa gian nhà, diện tích rộng mười hai mét vuông. Có

người nói: “Ông ở một mình, thuộc hộ độc thân, nhà như thế là rộng rãi rồi.” Bốn phía vách và cột, kèo, đòn tay đỡ mái nhà đều làm bằng tre. Mái nhà lợp bằng những tấm phên nhỏ, đan bằng nứa, xếp đè nhiều lớp lên nhau. Vách nhà được trát vôi trộn với rơm lúa băm nhỏ (hồi ấy người ta gọi thứ hỗn hợp chất trát vách này bằng cái tên Tây khá mỹ miều: Chất “toóc xi”). Khi các gia đình sắp về nhận nhà ở, cơ quan đã thuê thợ đến nối mái dài xuống, chống thêm cột, làm thêm vách, thành ra chúng tôi có thêm diện tích phụ. Khu phụ rộng chừng khoảng bốn mét vuông. Tôi dùng khu này làm nơi đặt bếp. Bếp liền trước nhà. Thuật phong thuỷ gọi bố cục này là “ táo tiền, phòng hậu.” Do mái nhà chính vốn đã thấp, nay nối dài xuống qua khu phụ, nên đuôi mái càng thấp hơn. Nơi trước cửa ra vào nhà tôi, đuôi mái chỉ ngang mi mắt người cao trung bình đứng thẳng. Do vậy, bất kể là ai, khi vào nhà tôi, họ đều phải cúi đầu, khom lưng xuống mới vào được. Trẻ nhỏ thì chúng ra vào dễ dàng. Có anh bạn, khi đến thăm tôi đã nói vui rằng: “Nhà anh ở thật là sang, giống như nhà của trạng Quỳnh. Nếu vua có đến cầu hiền cũng phải khom lưng, cúi đầu hành lễ.”

Một hôm, có vị khách đến thăm tôi vào đúng ngày nóng nực nhất của mùa

hè. Ông nhìn các vách tường hai bên và phía sau, rồi ông nhẹ nhàng khuyên tôi: “Anh nên mở thêm cửa sổ ở các phía này cho thoáng mát.” Tôi phải thưa để ông rõ: “Sau các bức tường vách đó, lại là phòng ở của các gia đình hàng xóm. Tôi đã nghĩ đến mở thêm cửa sổ xuống đất, nhưng lại sợ kẻ trộm đào nghạch vào nhà, nên lại thôi.” Ông khách chợt hiểu ra, ông cười rú lên rồi nói: “Anh hài hước quá đấy.”

Cũng phải kể thêm về lối rẽ vào nhà tôi. Hai nhà hàng xóm bên cạnh và nhà hàng xóm phía sau, họ đều đi lại theo lối khác. Riêng lối vào nhà tôi lại có thể đi từ hai phía đầu nhà tới. Khách phải đi trên hàng gạch vỉa, là bờ của

một cái rãnh thoát nước lộ thiên. Hàng gạch này cách cửa ra vào nhà tôi 30 phân Tây. Rãnh rộng khoảng 20 phân. Bờ rãnh bên kia chính là bức tường sau của dãy nhà xây bán kiên cố, thuộc khu tập thể Bộ Ngoại Giao. Nhiều khi đang đi trên hàng gạch vỉa, chẳng may trượt chân là thọc ngay cả giày dép xuống rãnh nước bẩn ấy. Nếu khách đi theo lối này, vào lúc trời mưa, nước từ mái ngói nhà xây rơi xuống đuôi mái của nhà tôi, nước sẽ bắn tung toé lên, làm ướt cả mặt của khách.

Nơi ở của tôi như thế đó. Nhưng cũng từ nơi đây, tôi đã có duyên được đón tiếp Giáo sư Tô Như Khuê. Ông tìm đến giao cho tôi nhiệm vụ tham gia đề tài khoa học cấp nhà nước do ông phụ trách. Thỉnh thoảng cũng những vị khách sang trọng của xã hội, họ đã quên cả sự cách biệt giầu nghèo, họ tới tìm tôi khi họ có việc càn đến tôi. Điều đó cũng an ủi tôi nhiều, giúp tôi yên phận sống và làm việc.

Trong căn nhà âm u, nóng, ẩm, tưởng như khó ở nổi ấy. Thượng đế đã

ban cho tôi một thứ ánh sáng tâm linh. Tôi có thể nhìn ra cội nguồn của các quy luật thời sinh, là nhờ bởi thứ ánh sáng đó. Bản thảo bộ sách “Nguyên lý thời sinh học cổ Phương Đông” đã ra đời trong hoàn cảnh như thế (sách này đến năm 1996, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin Hà Nội đã in và phát hành rộng rãi ngoài xã hội. Do yêu cầu của độc giả, năm 2000, sách đã tái bản bản). Thượng đế lại cho tôi sức nhớ trong đầu. Mỗi khi gặp người nhờ tôi chữa bệnh khó, những điều tôi đã đọc được ở các sách lại hiện ra, sách đã chỉ cho tôi cách chữa loại bệnh khó đó.

Ví dụ như hôm ấy, khi trời vừa sáng đủ nhìn rõ mặt người, một cháu gái hàng xóm chừng hơn mười tuổi, cháu đến trước cửa gọi tôi, nhờ tôi sang nhà cháu chữa bệnh cho cô cháu. Tôi theo cháu đi vòng qua đầu dãy nhà trước mặt, tới một căn phòng có tường sau áp trước cửa nhà tôi. Người bệnh cũng

là chủ căn hộ. Cô ten là Ph., tuổi chừng ngót tứ tuần. Cô là kế mẫu của cháu gái vừa tìm tôi và đưa tôi tới đây. Cô và bố cháu đều làm việc ở Bộ Ngoại giao. Hiện bố cháu đang công tác ở nước ngoài.

Khi bước vào phòng, tôi ngửi thấy sực nức mùi dầu cao con hổ. Chừng năm bảy bà hàng xóm, kẻ đứng, người ngồi quanh giường cô nằm. Một bà

trong số đó nhường cho tôi chiếc ghế đẩu gần giường. Tôi cảm ơn bà và ngồi xuống, tiến hành thăm khám. Cô kể về bệnh tình của mình như sau: “Sáng nay em thức sớm, nhưng vì trời lạnh nên nằm nán lại. Đến lúc em thấy khó chịu quá, em mới phải dậy. Khi dậy, em vội vàng ra khỏi nhà, đi tiểu tiện ngay. Đi tiểu xong, vừa vào đến nhà là em đau vùng bụng dưới dữ dội. Em nằm vật ra giường. Cháu thấy thế sợ quá, liền chạy sang hàng xóm, nhờ các bác tới xem giùm. Người đem theo dầu cao thì xoa nắn, người thì đi tìm túi chườm, đắp lên bụng cho em. Nhưng em vẫn thấy đau lắm !” Tôi nhấc túi chườm ở bụng ra, chạm tay nhè nhẹ vào nơi đặt túi chườm, từ từ ấn thăm dò. Bụng cô tuy thấy rất nóng, nhưng vẫn mềm, có lẽ do túi chườm gây nóng. ?n sâu hơn vẫn không thấy bụng căng. Chỉ có cảm giác phía dưới cơ thẳng bụng có co cứng từng nhịp. Tôi dự đoán là chứng co thắt bàng quang cấp, do nín tiểu quá lâu. Khi đi tiểu lại xả hết, không giữ lại một ít, gây ra mất nhiệt đột ngột, làm co thắt mạnh ở bàng quang. Tôi lấy kim ra châm vào huyệt Trung cực, sâu chừng hơn một thốn, làm thủ pháp tả tổng hợp (từ tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục) lão âm số (36 x 3 = 108),

kích thích mạnh, sau đó rút kim ngay. Tôi lại nói để cô nằm sấp xuống. Tôi châm ở huyệt ủy trung cả hai bên, làm thủ pháp như trên. Châm xong, tôi nói để cô nằm thẳng lại nghỉ ngơi. Tôi vừa theo dõi bệnh nhân vừa nói để các bà hàng xóm yên tâm về bệnh tình của cô, và cũng là để họ biết cách đề phòng bệnh này. Tôi vừa nói dứt câu truyện, quay lại tôi hỏi cô: “Cô thấy trong người thế nào?” Cô nói: “Em đỡ hẳn cơn đau mạnh rồi, chỉ còn âm ỉ đau nhẹ theo nhịp thưa thớt, bác ạ.” Tôi châm thêm huyệt Thiên khu cả hai bên và huyệt Khí hải, vê tả nhè nhẹ rồi rút kim.

Sực nhớ đến rá gạo tôi đã vo, chưa đổ vào soong, còn đậy sơ sài để kịp

lấy kim mang theo sang đây. Tôi nói với cô: “Cô nằm nghỉ tiếp, tôi về thổi nồi cơm. Chừng nửa giờ nữa, tôi sẽ sang xem lại bệnh cho cô.” Thời ấy, chúng tôi nấu ăn bằng bếp dầu hoả. Cơm cạn nước rồi, vẫn phải để bếp nhỏ lửa, chờ cơm chín hẳn mới tắt bếp được. Cơm chín, tôi sang thăm lại người bệnh. Tôi đến cửa, thấy cả nhà vắng vẻ, chỉ có cháu gái ra và nói với tôi: “Thưa bác, cô cháu đi lên cơ quan xin nghỉ việc rồi ạ.” Tôi hỏi cháu:

“Cô cháu đi bằng phương tiện gì ?” Cháu gái nói: “Cô cháu tự đi bằng xe đạp ạ.” Tôi gật đầu, chào cháu rồi quay về nhà, kip ăn bữa cơm còn nóng dẻo.

Cũng phải kể thêm về hoàn cảnh ăn, ở của chúng tôi thời bấy giờ. Bởi đó

cũng là một nguyên nhân làm cho nhiều người mắc chứng bệnh này. Khu tập thể chúng tôi gồm chín dãy nhà xây bán kiên cố, và hai dãy nhà tạm bằng tre, nứa, lá. Nhà xây, vốn là nơi tập thể, ở tạm, của cán bộ Miền Nam chuẩn bị đi B, thuộc Uỷ ban Thống nhất quản lý. Nay đã chuyển cho Bộ Ngoại giao. Nhà tạm là khu tập thể cán bộ nghành văn hoá. Mỗi phòng thuộc số nhà xây này rộng chừng hai chục mét vuông. Trước cả dãy nhà có hành lang rộng, dùng làm lối đi chung, cũng là hiên che mưa nắng. Hiên có hàng cột đỡ chắc chắn. Trong phòng và hiên đều lát gạch men bóng loáng. Trước hàng hiên chừng nửa mét là một dãy nhà thấp, nhỏ, ngăn chia theo từng phòng, phân cho các hộ làm bếp gia đình.

Nhưng tất cả, họ cũng như chúng tôi, các gia đình đều không có công trình vệ sinh tự hoại, khép kín. Cứ ba dãy nhà có một khoảng trống, được xây, ngăn làm nơi tiểu tiện chung. Toàn khu tập thể rộng hàng vạn mét vuông, tính gộp số dân Ngoại giao, Văn hoá, kể cả già, trẻ, có lẽ tới gần một

nghìn con người. Thế mà nhà vệ sinh công cộng theo kiểu đặt thùng (thuộc công ty vệ sinh quản lý) chỉ có mười ngăn. Ngày hè, người ta không phải nín nhịn vì ngại lạnh, cũng phải nín nhịn vì chờ đợi trong những giờ cao điểm. Gia đình nghèo như những cán bộ Văn hoá; gia đình khá giả như những cán bộ Ngoại giao, đều chịu chung cảnh ngộ éo le ấy. Nhà có con nhỏ thỡ sắm bô men, bô nhựa. Các cháu ngồi bô xong, người lớn đem bô đến nhà vệ sinh công cộng đổ vào thùng. Nhiều khi vì vội, họ đổ tung toé ra

chung quanh cái bể nổi chứa nước cạnh đó. Có người, sau khi đổ bô, họ cò nhúng cả bô vào bể nước để tráng, làm cho trong bể nước có cả phân và giấy bẩn nổi lều bều. Ruồi nhặng, dòi bọ, không lúc nào không có. Thật là cảnh tương ô uế đáng sợ.

Ngày nay, nhà nào, nơi nào cũng có công trình vệ sinh tự hoại, khép kín. Loại bệnh này ta cũng ít gặp hơn xưa. Vì thế hỏi đã mấy người trong lớp trẻ tuổi biết được rằng, mới trước đây hơn hai chục năm, chúng tôi đã phải ăn, ở như thế đó.

Khi dậy học viên nề chứng bệnh này, ngoài việc nêu diễn biến của bệnh, nguyên nhân và cách chữa, tôi còn phải nêu ý nghĩa phương huyệt. Huyệt Trung cực, là loại Mộ của phủ Bàng quang, có tác dụng chữa các chứng cấp tính vùng bàng quang. Uỷ trung, là loại Hợp trong ngũ du huyệt trên kinh Bàng quang, dùng vào chữa bệnh tạng phủ phối với kinh đó. Huyệt Thiên khu, nằm trên cơ thẳng bụng, có tác dụng hoãn giải co cứng cơ đó, lại có tác dụng điều hoà nhu động bên trong ổ bụng. Huyệt Khí hải, tác dụng điều hoà khí cơ, khí hoà thì đau cũng dứt.

Nhân nói về bệnh, phải nói về hoàn cảnh gây bệnh. Tôi viết hơi dài

dòng, là muốn gửi gắm sự tôn trọng khách quan lịch sử một thời.

Mong người đọc hiểu cho.

34 - Chữa chứng đau bụng dưới, nghi viêm cơ đáy chậu

Một buổi sáng cuối mùa xuân năm 1993, tôi vừa quét nhà, rửa mặt xong, liền nghe thấy tiếng chân bước nhanh, vội, nặng bình bịch, rẽ vào ngõ nhà tôi. Thì ra đó là anh Ng. H. H. đến. Anh bồng con gái trên tay, bước vào.

Đặt cháu xuống giường xong, anh H. kể: “Thưa thầy, khoảng hơn ba giờ sáng nay, cháu kêu đau ở vùng bụng dưới, bên phải, gần rãnh bụng, háng. Em thử sờ tay vào nơi cháu chỉ, cháu vội đẩy tay em ra. Nhìn chân phải cháu không duỗi thẳng ra được, em lại nghĩ đến có thể là cháu bị viêm ruột thừa cấp tính. Em vội sang nhà ông bác sỹ bên cạnh, đánh thức ông dậy, mời ông sang thăm khám cho cháu. Ông không nề hà, vội vàng chuẩn bị đồ nghề. Chỉ mấy phút sau ông đã có mặt ở nhà em. Ông làm mọi động tác thăm khám, và ông đã loại trừ dần các dấu hiệu ít điển hình. Cuối cùng, sau gần một giờ đồng hồ, ông nói với em: “Tôi nghi đây là chứng viêm cơ đáy chậu nhiều hơn.” Em hỏi lại ông: “Thưa bác sỹ, bệnh này cách chữa có phiền toái lắm không ạ?” Ông nói: “Nếu đúng là viêm cơ đáy chậu, theo tôi biết, hiện nay người ta thường dùng đến cách chiếu xạ để chữa.” Nghe ông nói đến đấy, em cảm thấy sợ. Em nghĩ, cháu là con gái, mới gần bốn tuổi, nơi đau lại ở gần vùng phần phụ, nếu phải chiếu xạ, e sẽ ảnh hưởng tới tương lai của cháu. Sau khi tạ ơn ông bác sỹ, em xin phép đưa cháu đi bệnh viện ngay. Thực ra, lúc này em đã nghĩ đến việc nhờ thầy, nên em gọi xe xích lô chở em và cháu đến đây.” Tôi ngồi xuống cạnh cháu, bảo cháu thử duỗi thẳng chân phải ra. Cháu đã cố gắng duỗi chân, nhưng không duỗi được. Cháu nói: “Duỗi thẳng chân ra đau lắm ông ạ.” Tôi lại bảo cháu co cả hai chân lên làm cho bụng mềm ra. Tôi sờ tay vào vùng đau của cháu, thấy bụng cháu mềm. ấn hơi nặng tay thì thấy một bó cơ từ trong mào

chậu trước trên, kéo dài tới đáy chậu, hơi co cứng hơn (có lẽ là cạnh trong cơ thắt lưng và cơ hình lê), lúc này cháu mới kêu đau.

Tôi lấy kim ra, sát trùng xong, tôi châm vào giữa bó cơ ấy. Nơi tôi châm kim là giữa mào chậu trước và huyệt Quan nguyên trên đường mạch nhâm, cũng chính là vị trí của huyệt Thủy đạo. Châm sâu được khoảng hơn một thốn, tôi làm thủ pháp vê tả 36 lần, ngừng mấy giây tôi lại vê tiếp như thế.

Sau ba nhịp vê thì tôi rút kim ra. Tôi nói với cháu: “Cháu thử duỗi chân phải thẳng ra.” Cháu từ từ duỗi thẳng ra được mà không thấy đau. Tôi lại đỡ cháu ngồi dậy. Cháu ngồi lên cũng không thấy đau. Tôi nói với cháu: “Cháu hãy thử đứng lên.” Cháu chống hai tay xuống giường rồi từ từ đứng thẳng lên được, không thấy đau nữa.

Lúc này H. hỏi tôi: “Thưa thầy, thầy chẩn đoán là bệnh gì ạ?” Tôi nói với H.: “Nếu ta loại trừ được chứng viêm, nghĩa là không thấy sốt, mạch không nhanh, chỉ thấy mạch ở xích bộ huyền, sáp, là thuộc chứng đau sán khí (một tên chung của nhiều loại đau co rút trong vùng bụng dưới).” Tôi nói tiếp: “Bây giờ H. đưa cháu về nghỉ, chiều nay châm thêm cho cháu lần nữa, rồi theo dõi. Nếu có vấn đề gì nghi ngại, Hải đến đây cho tôi biết.”

H. nói: “Thưa thầy, vợ chồng em mới có một cháu, em có thể châm chữa

cho người khác được, nhưng không dám châm cho cháu. Vả lại, vợ em vừa nhát, vừa thương con, rất sợ nghe tiếng con khóc, không bao giờ cho em động kim vào người cháu. Nếu cháu còn đau nữa, em sẽ đưa cháu đến nhờ thầy.” Tôi nói với Hải: “Chẳng cần phải thế đâu. Nếu H. sợ châm cho cháu, hãy lên phố Lãn Ông mua 50 gram Quất hạch, đem về sao vàng, hạ thổ, chia làm ba ngày, sắc nước cho cháu uống cũng được.”

Nghe tôi nói xong, H. nhắc con gái khoanh tay lại chào tôi, sau đó H. xin

phép tôi đua con gái về.

Chừng một tuần sau, H. đến thăm tôi và nói: “Em đưa cháu về đến nhà, cháu đã tỉnh táo. Em đi mua Quất hạch về. Tuy cháu không còn đau nữa, nhưng em vẫn sắc thuốc cho cháu uống đủ ba ngày. Nay thì yên tâm rồi. Ông, bà nội cháu và mẹ cháu mừng lắm.”

Tôi nói với H.: “Việc loại trừ chứng viêm ruột thừa, chúng ta đã nhờ ở công khám và theo dõi khá lâu của ông bác sỹ. Chúng ta chỉ còn hướng về chứng đau do co thắt cơ, nên mới giải quyết được nhanh như thế. Chắc chắn H. không thể nào quên được lần xử lý này?” H. cười và nói:

“ Vâng ạ.”

Tôi giải thích thêm cho H. về phương huyệt độc vị vừa châm có hiệu ở ca bệnh này như sau: “Lý luận Đông y cho rằng “Sán khí” là chứng thuộc kinh can, can chủ cân, cân (gân) gây ra co thắt. Vùng đau ở bụng dưới, bụng dưới thuộc thận chủ quản. Huyệt Thủy đạo, tuy ở trên kinh vị, nhưng tác dụng đặc hiệu của nó là chữa các chứng bệnh của thận, bệnh của đường nước (Thuỷ đạo là đường nước). Huyệt lại ở trên chính bó cơ co rút, nên còn thêm giá trị điều chỉnh tại chỗ. Quất hạch là loại thuốc giáng khí, tán kết, khoan trung; vị khổ; tính vi ôn. Thuốc này có tác dụng chữa đau sán khí, viêm tuyến vú, làm cho lui sữa.

Với loại cơn đau như ca bệnh này, ta có thể dùng một trong hai cách đó đều được. Có điều là, dùng cách châm kim, kết quả nhanh chóng hơn.”

35 – Chữa chứng dò vết mở khí quản

Đầu năm 2001, ngày 29 tháng chạp năm Canh Thìn, nhà điêu khắc Vũ

Lợi đến thăm tôi. Ông mang đến biếu tôi một con gà trống thiến khá to.

Ông nói với tôi: “ Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ, có lần em đến xin nhờ thầy chữa bệnh cho một cháu bé. Sau khi nghe em kể bệnh của cháu, thầy đã dặn em cách chữa, rồi thầy khuyên em chữa cho cháu giúp thầy. Em về làm thử cách chữa cho gia đình bệnh nhi xem. Các ngày sau đó, bố mẹ cháu tự chữa cho cháu. Nay cháu đã khỏi hẳn, bố mẹ cháu mang con gà này đến tạ ơn em và nói: “Bác Lợi giỏi hơn giáo sư.” Em ngượng quá, từ chối mãi, họ vẫn không chịu nghe lờiem, em đành phải nhận. Nhưng em nghĩ, công lớn là của thầy dạy em. Em giúp để họ chữa cho con họ khỏi bệnh, em đã tích được một phần âm đức là mừng rồi. Vợ chồng em bàn nhau, đem con gà này đến biếu thầy, cũng là báo cáo kết quả việc học hành của em để thầy mừng cho em. Tôi nói : “A, tôi nhớ ra rồi, thằng cháu là con trai của một gia đình quen với cô Oanh. Nhà cháu cạnh cửa hàng đồ gốm nội thất của cô. Hồi đó ông kể với tôi: Cháu bị bệnh nặng phải vào viện cấp cứu. Cháu được mở khí quản để thở bằng ô xy. Sau khi khỏi bệnh về, vết rạch ở cổ không lành, phát thành lỗ dò. Bệnh viện đã phải mổ đi mổ lại cho cháu tới bốn lần rồi, mà nay chứng dò vẫn không khỏi. Vết mổ và khâu ở cổ cháu đã thành sẹo lồi, như có con thạch sùng lớn bám vào đó. Bố mẹ cháu rất sợ phải mổ lại cho cháu thêm nữa. Cô Oanh nhà em nghe được chuyện, giục em đến xin thầy nhận chữa cho cháu.”).

ông Lợi nói: “Thầy nhớ giỏi thật” Tôi nói tiếp với ông : “ông hãy kể lại

xem, tôi đã hướng dẫn ông thế nào, ông về làm mẫu và hướng dẫn lại cho bố mẹ cháu ra sao mà hiệu quả tốt như thế ?” ông nói: “Hôm đó thầy đã nhắc lại bài học về cách chữa những chứng đối lập nhau cho dễ nhớ:

“ Mụn lâu ngày không làm da lành miệng, cứu mồi ngải ở huyệt Hợp cốc. Mụn đã lành da nhưng phá dò từ trong sâu ra, cứu ở huyệt Huyền chung (Tuyệt cốt).” Thầy còn dặn em: “Bệnh nhi còn nhỏ tuổi, da non, cứu trực tiếp dễ gây bỏng. Nên dùng phép cứu hơ bằng điếu ngải. Em về gặp bố mẹ cháu, em dặn họ lên phố Lãn Ông mua mười điếu ngải cuộn sẵn. Khi đã có điếu ngải, em đến nhà cháu đánh dấu vào huyệt ở cạnh ngoài, phía trước xương mác, từ mắt cá chân lên ba thốn. Em bẻ điếu ngải làm đôi, tay cầm một nửa điếu, đốt cho bén lửa. Em hơ từng huyệt ở từng bên chân cháu, khi cháu bé đã ngồi duỗi thẳng chân ra. Điểm lửa ở mồi ngải, em để cách xa mặt da huyệt chừng hơn 2 cm. Chờ cho sức nóng của ngải hun xuống, làm cho sắc da đỏ dần lên. Khi mồi ngải có tàn tro, gạt bỏ tàn tro đi rồi hơ tiếp. Nửa điếu ngải dài chừng 7cm. Khi ngải cháy gần hết, cũng là lúc mặt da huyệt vị ửng hồng, thành một quầng rộng thì dừng. Hơ xong huyệt ở chân

trái, hơ sang huyệt ở chân phải. Bố mẹ cháu ngồi xem kỹ các thao tác em làm. Từ sau đó, hàng ngày bố mẹ cháu thay nhau chữa cho cháu. Nhà cháu dùng hết 10 điếu ngải đó, lại đi mua tiếp 10 điếu nữa. Nhưng lần mua thêm sau này mới dùng gần một nửa, bệnh của cháu đã khỏi.”

Khi ông Vũ Lợi nói xong, tôi mới khen: “ông nhớ đúng, làm đúng đấy, giỏi lắm.” Vũ Lợi thành thật thổ lộ: “Em học thầy, chủ yếu là tiếp thu Triết học Phương Đông để làm nghệ thuật. Còn về châm cứu, chỉ mong biết về nguyên nhân, chứng trạng của các bệnh, để đề phòng là chính. Đây là lần đầu tiên em đi chữa bệnh cho người. May mà thành công.”

Tôi nhắc thêm ông Vũ Lợi rằng: “Sách châm cứu xưa, nay, có hai thuyết về vị trí huyệt Tuyệt cốt khác nhau, có sách nói ở sau xương mác, lại có sách nói ở trước xương mác. Sách có niên đại xa hơn thì nói ở trước, sách có niên đại gần hơn thì nói ở sau. Tôi e rằng những sách nói vị trí huyệt ở sau xương mác là có ý giấu nghề, nên làm sách giả (man thư). Chính vì huyệt này có nhiều tác dụng đặc hiệu đáng quý. Trong các loại sách xuất bản gần đây, phần ‘Du huyệt học’ chỉ ghi một số tác dụng chữa bệnh thường gặp của huyệt Tuyệt cốt. Nội dung không ngoài ý nghĩa chung là: Huyệt từ đầu gối đến đầu ngón chân, từ khuỷu tay đến đầu ngón tay, chữa những chứng bệnh ở tạng, phủ sở thuộc của đường kinh ấy, lại có thể

chữa những chứng bệnh thuộc tạng, phủ có quan hệ biểu lý với đương kinh ấy, và bệnh tật ở những nơi đường kinh ấy đi qua. Nhưng ở những sách cổ như: Sách ‘Nạn kinh’ đã ghi:“…Tuyệt cốt là Tuỷ hội (một trong tám huyệt hội)…” Sách ‘Nạn kinh sớ’ viết: “Bệnh tuỷ chữa ở đó…” Sách ‘Châm cứu đại thành’ chép: “Huyệt Tuyệt cốt: Chủ tri …Não thư” (loại mụn âm tính, không có sưng, nóng, đỏ, đau)…” Nếu ta muốn tìm được những tác dụng đặc hiệu của huyệt, phải chịu tìm sách để đọc. Lại phải khiêm tốn học hỏi thêm kinh nghiệm ở các bậc lão y và đồng ngjiệp, mới có cơ hội gặp may mắn đó.

ông Vũ Lợi nay dã lớn tuổi, nhưng khi nói chuyện với tôi vẫn xưng em, thưa thầy. Một phần vì ông học tôi môn Triết học cổ Phương Đông và châm cứu chữa bệnh. Một phần nữa còn là, ông quen biết tôi đã từ rất lâu. Năm

1976, tại Triển lãm Điêu khắc toàn quốc,Vũ Lợi có tác phẩm “Kéo pháo”, chất liệu đất nung, đoạt giải. Cũng tại triển làm này, Viện bảo tàng Mỹ thuật đã tìm từ kho lưu trữ, đem tác phẩm “ông lão dân quân”, chất liệu thạch cao của tôi ra bày, cũng đoạt giải. (Tác phẩm này tôi sáng tác năm 1962, đã được Viện mua). Chúng tôi cùng nhau tâm đầu ý hợp về quan niệm nghệ thuật.

Lúc đó Vũ Lợi tuổi còn rất trẻ.

36 - Chữa chứng viêm phù nề màng ngoài tim

Ngày 16 tháng 8 năm 2001, khi tôi đang ngồi châm cho bệnh nhân, chợt nghe thấy tiếng ông Vũ Lợi chào. Ông Vũ Lợi bước vào nhà, theo sau là hai người, một nam, một nữ. Cả ba người lần lượt lấy ghế ra ngồi, im lặng chờ đợi.

Thường thì, mỗi khi châm xong ở một bệnh nhân, tôi lại rửa tay, rửa đĩa đựng kim và dao lam cắt tỏi. Thấy tôi rửa tay, ông Vũ Lợi tranh thủ nói với tôi: “Thưa thầy, đáng lẽ ra em phải đến xin phép trước, được thầy nhận, em mới đưa người bệnh đến. Nhưng hôm nay gấp quá, em đã đưa người bệnh đến thẳng đây, mong thầy thông cảm. Rồi ông nói tiếp: “Anh Đoàn Phú Thiện đây là cựu chiến binh, trước cùng ở đơn vị với em. Chúng em cùng nhau đi chiến đấu ở Miền Nam, cùng ra quân một đợt. Đã lâu lắm, hai anh em chưa gặp nhau. Tình cờ, sáng nay em đến thăm anh Thiện, được chứng kiến bệnh đau của chị Hương, vợ anh. Thấy nỗi buồn thảm, tuyệt vọng của mọi người trong gia đình anh. Không cầm lòng nổi, em mạnh dạn khuyên anh Thiện đi ngay cùng em, đưa chị Hương đến nhờ thầy cứu.”

Trong khi ông Vũ Lợi nói chuyện với tôi, ông Thiện ngồi im lặng, vẻ mặt

đăm chiêu. Hình như ông còn e ngại, vì đây là lần đầu tiên ông gặp tôi. Cũng có thể, trong dáng vẻ ấy, ẩn chứa một nỗi niềm chẳng mấy hy vọng. Ông không thể dễ tin được rằng, người thầy đây sẽ có thể giúp được vợ mình qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo này. Ông ngồi nghe anh bạn Vũ Lợi kể với tôi về bệnh tình của vợ ông, nhưng ánh mắt ông lơ đãng, như hồn ông đang phiêu diêu tận nơi góc biển, chân trời.

Nhà điêu khắc Vũ Lợi kể tiếp:“Khi em đến, thấy chị Hương đang hai tay ôm chặt lấy ngực, đầu đập vào tường cùng cục. Mọi người xúm lại đỡ chị ra. Cụ già mẹ cô Hương kể với em: “Chứng đau ngực của em Hương đã năm

ngày nay. Khi đau quá, em nó đập đầu như thế đấy. Em rể của anh Thiện là tiến sỹ S., làm ở Viện Châm cứu Trung ương, khi đến thăm bệnh của chị Hương, S. đã nói rằng: “Châm cứu không chữa được bệnh này.” Hôm qua anh Thiện đưa em Hương đến phòng khám chất lượng cao, giáo sư bác sỹ trực tiếp khám bệnh, cho thuốc. Ông dặn về nhà uống đủ 10 ngày rồi đến khám lại. Em về đã uống thuốc, nhưng cả ngày hôm qua và đêm vừa rồi, đau đớn không thấy giảm được chút nào. Em nó đau quá, đã chẳng ăn uống đuợc thứ gì, lại không ngủ được. Cám cảnh thương tâm lắm anh Lợi ạ!” Trong khi ông Vũ Lợi kể, tôi nhìn về phía người bệnh quan sát. Cô Hương ngồi trên ghế, lưng tựa vào tường. Thân người cô tiều tuỵ, ánh mắt không có thần. Sắc da cô tái mét, hơi thở nông, ngắn như muốn đứt. Hai tay luôn xoa trên ngực.

Tôi vội nói với mấy người bệnh, xin họ nhường cho cô được khám và xử lý trước. Mọi người ai nấy đều ái ngại cho cô, nên rất đồng tình với lời đề nghị của tôi.

Tôi dùng máy đo đơn chiếc để đo nhiệt độ kinh lạc ở ngón tay, ngón chân người bệnh, ghi vào bảng, rồi tính toán để tìm mô hình bệnh. Do thấy bảng tính có biểu hiện chứng của viêm. Trong đó, số so sánh giữa trung bình kinh với trung bình chi của kinh Tâm bào rất cao. Tôi phát hiện ra bệnh của cô ở màng ngoài tim. Tôi nói nhận định này để ông Vũ Lợi và ông Thiện được biết. Sau đó tôi tiến hành châm cho người bệnh ngay, theo phương huyệt sau:

- Phía lưng: Châm các huyệt: Cự khuyết du, Quyết âm du, Tâm du, Thần đạo, Can nhiệt huyệt, Can du. Do người bệnh quá yếu, tôi chỉ dùng thủ pháp từ tật, niệm chuyển, khai bế. Vê tả 36 lần ở mỗi huyệt. Tiếp theo, châm bổ các huyệt: Chí dương, Đảm du, Dương cương. Vê bổ 81 lần ở mỗi huyệt.

- Phía ngực: Châm các huyệt: Hoa cái, Chiên trung, Thần tàng, Thiên trì. Thủ pháp: vê tả 36 lần.

- Cổ tay: Châm các huyệt: Đại lăng, Ngoại quan, Chi câu. Vê tả 36 lần.

- Bàn chân: Châm huyệt Khâu khư. Vê bổ 81 lần; huyệt Thái xung. Vê tả

36 lần.

Nhận thấy đây là bệnh rất nặng, lại cấp. Tôi nói để cô vào nằm nghỉ trên chiếc ghế xích đu ở phía trong. Chờ đến cuối buổi, tôi sẽ châm thêm lần nữa. Bệnh nhân lên ghế nằm được một lát đã nói: “Cháu thấy đỡ đau nhiều rồi.” Cuối buổi, mặc dù cô đã giảm đau, tôi vẫn châm chữa cho cô lần nữa như đã định.

Sáng hôm sau, khi vừa đến nơi, với vẻ mặt hơi tươi, cô kể: “Chiều qua về, cháu không hề thấy đau, ăn đã biết ngon. Tối qua, cháu thấy người tỉnh táo nên đã đi chơi đây đó, mọi người thấy thế cho là lạ, xúm đến hỏi han. Đêm qua cháu ngủ ngon, vì đã qua năm đêm không ngủ được chút nào. Sáng nay dậy, cháu thấy bụng đói, cháu đi ăn một bát phở cho đỡ thèm.

,Bây giờ cháu lại thấy đau, nhưng không bằng trước đây.” Tôi hỏi ngay cô: “Cô ăn phở gì?” Cô Hương nói: “Cháu thèm ăn phở bò quá, nên ăn cho đã.” Tôi vội kêu lên: “Thôi rồi, hôm qua vì phải tập trung suy nghĩ phưng huyệt châm chữa cho cô, châm xong lại quên khuấy đi mất, tôi không dặn cô

những thứ cần kiêng khem ăn uống. Thế là, tại thịt bò làm cho cô đau lại. Nhưng không lo, từ nay cô nhớ mà kiêng thì bệnh sẽ mau khỏi.”

Khi tôi châm cho cô Hương, ông Thiện nói chuyện với tôi. Phần vì ông Vũ Lợi hôm nay không có mặt, phần nữa, ông bắt đầu tin tưởng, do thấy được kết quả tôi chữa, bệnh của vợ ông đã giảm. Nét mặt ông có vẻ tươi hơn. Ông nói: “Thưa với thầy, hôm cháu đưa nhà cháu đi khám, giáo sư Ph. Tr. L. kết luận là vợ cháu bị viêm phù nề màng ngoài tim. Ông cho thuốc về

uống, vợ cháu uống rồi, nhưng bệnh không đỡ. Đến đây, thầy khám, thầy cũng nhận định là bệnh viêm màng ngoài tim, nhưng từ lúc thầy châm xong, vợ cháu đã thấy đỡ đau ngay. Thật là may cho gia đình cháu.” Thấy ông vui mừng kể truyện, tôi hỏi ông: “Cô Hương trước khi bị bệnh này, có bệnh mạn tính gì mà thân hình gày yếu quá thế?” Ông Thiện kể rằng: “Ngày 13 tháng 7 năm 2000, vợ cháu bị con mèo của nhà cắn. Hai đứa con cháu cũng bị mèo cắn trước đó ít ngày, các cháu đã đi tiêm phòng dại. Khi vợ cháu bị con mèo đó cắn, cô ấy cũng đi tiêm phòng ngay. Con mèo sau khi cắn người được ít ngày, nó đã chết. Lúc vợ cháu bị mắc bệnh này, có người đã nói rằng, có thể do tiêm phòng dại mà bị thế. Cháu nghĩ, thời gian tiêm phòng dại đến nay đã quá xa, chắc chắn không vì thế mà thành bệnh này.” Tôi nói với ông Thiện: “Đúng như ông vừa nói. Nhưng bất kể là mắc bệnh vì lý do gì, điều quan trọng là phải chữa ngay, càng nhanh càng tốt.”

Tôi chữa cho cô Hương đến ngày 10 tháng 9 năm 2001, thì cô khỏi hẳn

đau đớn, cô ăn, ngủ, làm việc bình thường. Thực ra, chỉ sau khi chữa được ba ngày, cô đã vừa chữa bệnh vừa bán hàng (nhà cô có cửa hàng tạp hoá lớn, sau các buổi sáng được chồng đưa đi chữa bênh, chiều về cô lại đứng bán hàng). Đặc biệt dịp trung thu năm ấy, cửa hàng nhà cô đại thắng lợi.

Thường lệ, mỗi tuần lễ tôi chỉ chữa có 5 ngày. Tính tổng số ngày tôi châm chữa cho cô, vừa tròn hai chục ngày, có 21 lần châm (ngày đầu tiên,châm 2 lần).

Bệnh viêm phù nề màng ngoài tim là bệnh danh mới. Trong Đông y học

chỉ có chứng “tạng thao” là chứng tương ứng với bệnh ở Tâm bào. Nhưng theo tạng phủ biện chứng luận trị, bệnh tâm bào (màng ngoài tim) là bệnh của tâm. Không có cách luận trị riêng của tâm bào, do đó đã hình thành câu “Ngũ tạng, lục phủ.” Nay nhờ có máy đo nhiệt độ kinh lạc, ta đã tìm ra các chỉ số sinh lý, bệnh lý riêng của tâm bào. Lần theo phép ‘Tý ngọ lưu chú ’, ta biết thêm được vai trò tâm bào làm chủ các hoạt động của 5 âm kinh ở 5 ngày âm can. Nó cùng với tam tiêu làm chủ các hoạt động của 5 dương kinh, ở năm ngày dương can, hình thành chu kỳ vận hành âm dương, khí huyết trong con người theo chu kỳ sinh học 10 ngày, theo 10 thiên can. Tìm trong Du huyệt học, ta thấy được những huyệt chuyên trị bệnh của tâm bào, như: Cự khuyết du, Quyết âm du, Thiên trì. Huyệt Thiên trì là huyệt gốc của kinh tâm bào, hơn nữa lại là nơi có cảm giác đau đớn rõ rệt nhất, mỗi khi tâm và tâm bào có bệnh. Chiên trung là mộ huyệt của tâm bào. Đại lăng, Ngoại quan là cặp biểu lý Tâm bào chủ, Tam tiêu khách. Hoa cái, Thần tàng là chỗ phản ứng đau a thị huyệt, có tác dụng chữa tại chỗ, lân cận và tạng phủ bên trong tương ứng. Chi câu là huyệt chữa các bệnh thần kinh vỏ lồng ngực (liên sườn) có hiệu. Can nhiệt huyệt, Can du, Thái xung, có tác dụng thanh nhiệt ở trong can. Tất cả các huyệt trên, tôi đã làm thủ pháp tổng hợp,

gồm từ tật , niệm chuyển, cửu lục, khai bế, theo tả pháp. Riêng ở kinh đảm, số đo là lý hàn. Hàn là ngưng, ngưng thì khí không thông lợi. Khí không thông thì đau (bất thông tắc thống). Đảm hàn là dương hư. Sách nói: “Chữa bệnh cốt yếu là điều chỉnh âm dương, lấy bình làm mức.” Đảm hàn, ta châm bổ: Chí dương, Đảm du, Dương cương, Khâu khư là những huyệt có tác dụng khử hàn ở kinh và phủ Thiếu dương. Hàn hết, khí thông, thông thì không đau (thông tắc bất thống).

Đó là toàn bộ lý lẽ của phương huyệt chữa khỏi bệnh Viêm phù nề màng ngoài tim cho bệnh nhân Phạm Thanh Hương. Nay viết lại chuyện này như một kỷ niệm về một bệnh khó, nhưng nhờ có sự kết hợp giữa phép khám hiện đại của Tây y với kinh nghiệm sử dụng châm cứu của Đông y đã đưa đến điều trị thành công ca bệnh này.

37 - Chữa chứng xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá

Khoảng mùa thu năm 1988, hôm đó cô Ng. T. V., là hàng xóm, cùng dãy nhà tạm, của bộ văn hoá, trong khu tập thể Hào Nam của tôi mấy năm trước đây, cô đến gặp tôi.. Cô nhờ tôi đi chữa bệnh cho người em họ của cô. Cô kể với tôi: “Em vừa đi thăm cậu em họ bị đưa vào Bệnh viện Đống Đa cấp cứu. Cậu ấy nằm viện đã ba ngày mà chưa đỡ. Mợ ấy kể với em rằng: Họ chẩn đoán bệnh của cậu ấy là bệnh xuất huyết đoạn trên đường tiêu hoá.”

Tôi nói với cô V.: “Tôi làm sao dám vào chữa bệnh cho người đang nằm

ở bệnh viện.” Cô nài nỉ tôi: “Anh cứ vào xem bệnh giúp em, nếu anh thấy có thể chữa được, em bàn với nhà cậu ấy đem về, nhờ anh chữa giúp.” Tôi sực nhớ ra, có một học viên khoá hai lớp Đông y, châm cứu do tôi dậy, là Ng. T. H., hiện là kỹ thuật viên xét nghiệm của bệnh viện đó. Tôi liền nói “Tôi sẽ đi với cô đến bệnh viện, nếu nhờ được em H. nhận giúp, tôi sẽ hướng dẫn cụ thể để em H. chữa thì tiện hơn.” Sau đó, tôi cùng đi với cô Vân.

Tới nơi, cô Vân dẫn tôi vào phòng nằm khoa tiêu hoá. Tôi ngồi lại với người bệnh, còn cô V. đi tìm y tá H.. Lát sau em H. tới, khi đã xem xét bệnh nhân, H. nói với tôi: “Em chưa chữa trường hợp nào như thế này. Nếu cách

chữa của thầy đơn giản, thầy chỉ kỹ thì em có thể giúp được. Nhưng chỉ là em làm thêm ngoài giờ thôi.” Cô V. mừng lắm, cô nói: với y tá H.:“Em nhận giúp thì may mắn cho gia đình quá, thầy Sửu đi đến đây cũng không tiện mà.”

Tôi chuẩn bị ngải cứu, kim châm rồi nói với em H.: “Bệnh nhân mất

huyết đã quá nhiều, da nhợt nhạt, móng tay, móng chân xanh tím lại, sức yếu không thể ngồi dậy được lâu. Trước hết là phải cầm máu ngay, để bệnh nhân không bị mệt hơn, kèm theo là trị nguyên nhân bệnh. Tôi lấy ngải cứu làm thành mồi nhỏ chừng bằng hạt ngô. Để mồi ngải lên hai huyệt ẩn bạch và Đại đôn, phía sau gốc móng ngón chân cái hơn một phân thốn (khoảng 3 đến

4 ly mét), từ đó lại sang cạnh trong và cạnh ngoài mỗi bên hơn một phân thốn. Cạnh trong là ẩn bạch, cạnh ngoài (về phía ngón hai chân) là Đại đôn. Sau khi dùng hương hơ trên chóp mồi ngải cho bén lửa, tôi ngồi đợi cho điểm cháy xuống đến 2/3 chiều cao mồi ngải, bệnh nhân thấy nóng nhiều thì

gắp bỏ mồi ngải ra một cái ống sữa bò, dùng làm đồ đựng tàn. Kế đó, đặt mồi ngải khác vào chỗ huyệt, cứu tiếp. Mỗi huyệt tôi cứu đủ năm mồi. Cả hai ngón chân cái là 4 huyệt, 4 x 5 = 20 mồi. Trong khi cứu ngải, tôi nhắc lại bài đã học với em H. : “Chắc em còn nhớ, Đông y cho rằng: “Can tàng huyết, tỳ chủ thống huyết, can và tỳ cùng nhau giữ cho huyết đi trong mạch. Can tàng huyết gồm cả chứa máu ở gan và giữ cho thành mạch chắc. Tỳ thống nhiếp huyết dịch, chính là điều chỉnh đủ số tiểu cầu để cầm máu. Đại

đôn ở kinh can, ẩn bạch ở kinh tỳ, cùng cứu ngải đã tăng cường công năng tàng huyết và nhiếp huyết, cho nên cặp huyệt này thường dùng cho tất cả các trường hợp có chứng xuất huyết.” Còn về nơi xuất huyết là đoạn trên đường tiêu hoá, các sách đã có rất nhiều phương huyệt chữa hiệu quả. Nhưng tôi chọn hai huyệt Đại lăng và Khích môn. Tôi nói với em H. : “Hai huyệt này vốn dùng để chữa chứng nôn mửa ra máu, nó có tác dụng chủ yếu là đã chữa chứng viêm dạ dày, lại chữa chứng tâm hoả vượng. Xuất huyết dạ dày là bước phát triển của viêm loét dạ dày. Theo tổng kết nhiều số đo kinh lạc: Những trường hợp xuất huyết dạ dày đều có số đo tâm bào nhiệt cao. Hai huyệt Đại lăng, Khích môn, một là nguyên huyệt, một là khích huyệt của kinh tâm bào, nên có tác dụng mạnh với tâm bào.” Nói với em H. xong, tôi châm theo thứ tự: Đại lăng, Khích môn, đều làm tả pháp, kết hợp các thủ pháp: Từ tật, niệm chuyển, cửu lục, khai bế.

Em H. thấy số huyệt tôi dùng ít, dễ thao tác, nên đã nhận lời chữa giúp

em cô V.

Buổi chiều một hôm, sau khi tôi đến bệnh viện bốn ngày. Cô V. đến nhà tôi, cô nói: “Em vừa đến thăm cậu em, vợ chồng nó đã làm xong thủ tục xuất viện. Cậu mợ ấy gửi lời nhờ em cảm ơn anh, lại muốn xin anh cái đơn thuốc để uống tiếp cho dứt bệnh.” Tôi ghi cho cô ấy tờ đơn, lên phố Lãn Ông mua

100g Bạch cập, thuê họ tán thành bột mịn. Mỗi ngày uống 10 g bột thuốc ấy. Tôi nói với cô V. : “Bạch cập vị khổ (đắng), tính bình, có công dụng chỉ huyết, liễm phế, sinh cơ, thu khẩu. Dùng vào chữa viêm loét dạ dày tá tràng cũng rất tốt.” Cô V. vui vẻ cầm đơn thuốc, cảm ơn tôi rồi ra về.

Một tuần lễ sau, tôi có gặp lại y tá H., em kể với tôi rằng: “Sau lần thầy chữa làm mẫu đó, theo lời thầy dặn: “Bệnh cấp tính, ngày chữa nhiều lần”, buổi tối hôm ấy em cứu và châm cho bệnh nhân lần nữa. Ngày thứ hai và ngày thứ ba, mỗi ngày em cứu và châm hai lần. Em chỉ chữa khi đã hết giờ làm việc cơ quan. Hôm sau nữa, thấy bệnh nhân đã tỉnh táo, đại tiện không còn phân đen dẻo như keo sơn, bác sỹ điều trị cho xuống phòng em làm xét nghiệm máu. Em rất ngạc nhiên, tiểu cầu đã tăng lên mức bình

thường, hồng cầu cũng tăng vọt lên. Theo kết quả xét nghiệm đó, bác sỹ đã cho truyền dịch. Và ngay chiều hôm đó bệnh nhân đã được xuất viện.”

Tôi hỏi em H. : “Em làm thêm ngoài giờ như thế, khi bệnh nhân được ra

viện, họ có bồi dưỡng gì cho em không ?”

Em H. bùi ngùi: “Gia đình bệnh nhân đưa cho em một cân cam Vinh, gọi là để bồi dưỡng em.” Tôi cũng ái ngại và động viên em: “Mình làm việc là vì nghề nghiệp mà. Ngay như tôi với cô V. chỉ là hàng xóm, người bệnh lại là em họ cô. Khi cô nhờ, tôi đã phải bỏ thời gian làm việc ở nhà, tự đi bằng xe đạp đến viện, mang theo kim châm, ngải cứu đến chữa cho bệnh nhân.

Xong việc, cô V. cũng chỉ có lời cám ơn, lại còn xin thêm đơn thuốc nữa. Em ạ, chúng ta đang sống trong thời đại mà đạo đức xã hội khuyên toàn dân nên “Mình vì mọi người”, để hy vọng “Mọi người vì mình” mà.” Chúng ta đều là lá rách cả, lá rách đùm lẫn lá rách. Có lá lành nào chịu đùm lá rách đâu.

Nay mới cách ngày đó non hai chục năm, nghĩ lại mới thấy thương nhũng người chăm chỉ học hành, có công phu đèn sách vất vả mà vẫn phải sống trong cảnh thiếu thốn, khó khăn. Nếu cứ phải “Mình vì mọi người”, theo kiểu khẩu hiệu, không phân biệt giữa lao động kiếm sống với công việc nhân đạo, từ thiện, sẽ không thiếu gì kẻ lợi dụng khẩu hiệu đó để bắt người khác hầu hạ mình. May mà cơ chế thị trường đã mở ra, giá trị lao động của chất xám đã được đánh giá đúng. Nếu chậm hơn nữa, chắc hẳn chúng ta sẽ còn phải chìm đắm trong sự nghèo đói truyền kiếp, không có cơ hội vươn lên ngang với bạn bè năm châu, bốn biển quanh ta.

38 - Chữa chứng viêm tắc tĩnh mạch sâu chi dưới

Bệnh nhân viêm tắc tĩnh mạch sâu chi dưới đến nhờ tôi chữa vào ngày

1/3/2002. Vì là loại bệnh lần đầu tiên tôi nhận chữa, nên tôi đã hỏi kỹ bệnh nhân về triệu chứng, những nơi đã đi khám chữa và kết quả ở những lần khám chữa đó.

Đây là tóm tắt lời kể của bệnh nhân: “Cháu tên là N. T. N - 27 tuổi. Cháu

ở phố Q.N, phường N.C, quận T.X. Nghề nghiệp của cháu là giáo viên. Do cháu bị chứng kinh nguyệt không đều, khi đi khám bệnh, các bác sỹ đã cho cháu điều trị bằng thuốc nội tiết tố. Cháu uống kéo dài đến tháng thứ 7, thì phát hiện đau chân. Chân trái cháu đi nhiều thì sưng lên, đau đớn. Đêm nằm phải gác cao chân mới chịu nổi. Nếu đi nhiều thì phải cuốn băng thun để hạn chế máu dồn xuống, chân mới bớt sưng đau.

Khi mới phát hiện đau đớn, cháu đã đi khám ở mấy bệnh viện, nhưng đều không tìm ra được bệnh của cháu. Có người khuyên cháu nên vào thành phố Hồ Chí Minh, hy vọng khám chữa tốt hơn. Cháu đã nghe theo, đến khám tại bệnh viện Chợ Rẫy. Viện này cũng không tìm ra bệnh. Khi cháu trở về Hà Nội, lại có người khuyên gia đình cháu hãy cho cháu đến bệnh viện Việt Pháp để chữa. Gia đình cháu đành phải bòn nhặt để cháu được vào bệnh viện này. Tại đây, mỗi ngày nằm viện, giá tiền phòng và khám là một triệu bảy trăm ngàn đồng. Cháu phải nằm chờ, vì các bác sỹ người Pháp còn đưa bệnh phẩm của cháu về nước Pháp phân tích. Sau hai tuần lễ, khi có kết luận, họ nói rằng bệnh của cháu là hậu quả của việc dùng thuốc nội tiết (một loại thuốc tránh thai) kéo dài, tác dụng phụ của thuốc gây ra biến đổi thành phần huyết dịch làm thành.”

Nghe chị kể đến đây, tôi nhớ lại có một tài liệu đã viết về bệnh này như

sau: “Tắc tĩnh mạch chậu đùi (tĩnh mạch sâu), còn gọi là “sưng đùi trắng đau đớn.” Bệnh do huyết ứ vướng ở lạc mạch, đường về của doanh huyết bị vướng, nước tân thấm tràn ra ngoài mạch, tụ lại làm thấp, thấm lưu ở chi dưới mà thành.”

Nguyên nhân và diễn biến bệnh như sau:

“1 - Bệnh thường phát ở đàn bà sau khi đẻ. Cũng có thấy ở người mắc tai nạn bị gẫy xương mu, và sau khi bị mổ ổ bụng. Bệnh thường thấy ở chi dưới bên trái.

2 - Toàn chi dưới sưng căng, màu sắc da không thay đổi, cũng đôi khi có

thể xuất hiện màu tím bầm, khi đứng lâu thì rất rõ rệt.

3 - Cạnh trong đùi và bắp chân có đau đớn nhè nhẹ, ấn vào thì đau hơn.

4 - Máu đông trong mạch, khi rơi ra, tiến vào mạch máu ở phổi, có thể

gây nên mạch máu ở phổi co giật và tắc nghẽn. Nếu bệnh nhân thấy đau

ngực, thở dồn, ho ra máu, sắc mặt xanh tím, mạch đập nhanh mà yếu, huyết

áp tụt xuống thấp, là bệnh tình nghiêm trọng và rất nhanh tử vong.”

Theo lời kể của chị N. tôi lại có thêm một tài liệu bổ sung vào nguyên nhân bệnh, đó là do dùng thuốc tránh thai nội tiết tố kéo dài.

Nhưng theo những tài liệu chuyên sâu về viêm tắc mạch máu. Nguyên nhân bệnh có thể khác nhau, nhưng đều phải thông qua tác động vào cơ chế sinh huyết. Lượng tiểu cầu trong máu tăng cao, hình thành khối máu đông, bám vào thành mạch, gây ra cản trở lưu thông máu, làm biến dạng thành mạch.

Chị N. nói tiếp: “Họ điều trị cho cháu bằng một loại biệt dược, bệnh có dừng lại, có giảm bớt. Nhưng do hoàn cảnh kinh tế gia đình không đủ cho cháu nằm viện lâu dài, bố mẹ cháu xin cho cháu ra viện. Bệnh viện tiếp tục cấp thuốc cho cháu điều trị tại nhà, định kỳ cháu phải đến bệnh viện khám

lại. Cháu uống thuốc đến tháng thứ 8, bác sỹ khám lại và nói với cháu rằng: “Bệnh chưa khỏi, nhưng lượng thuốc tồn dư trong người đã quá ngưỡng, không được uống tiếp nữa. Hãy chờ một thời gian, sau đó mới được dùng loại thuốc khác thay thế.” Đến lúc này gia đình cháu rất hoang mang. Đang trong cảnh ngộ ấy, có người giới thiệu, cháu đã đến gặp một ông thầy chữa bệnh bằng thuốc bắc. Nghe đồn rằng, ông có thể chữa được bệnh của cháu. Ông thấy đã bắt mạch và bốc thuốc cho cháu, mỗi thang thuốc ông lấy 50 nghìn đồng. Cháu uống tới 15 thang thuốc của ông, mà không thấy bệnh chuyển biến, nay cháu đã dừng lấy thuốc của ông thầy ấy. May mà gặp bạn giới thiệu, cháu đến xin bác chữa, bác lại nhận lời giúp cháu.”

Sau khi đo nhiệt độ kinh lạc ở bệnh nhân N., tôi quyết định dùng phương huyệt kinh nghiệm của tiền nhân, mà không theo số đo kinh lạc để lập phương huyệt mới. Phương này, theo sách mô tả, sẽ đạt được các yêu cầu: “Hoá ứ, thông lạc, lợi thấp”, lại gồm những huyệt rất thường dùng là: Trung quản, Nội quan, Túc tam lý, Tam âm giao. Tôi châm theo đúng thứ tự trước sau của huyệt. Các huyệt Nội quan, Túc tam lý, Tam âm giao, châm cả hai bên. Thủ pháp làm tổng hợp 4 loại: Từ tật, khai bế, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục, theo tả pháp (36 x 3 = 108). Mỗi ngày một lần châm.

Theo dõi diễn biến kết quả châm, tôi đã ghi lại được như sau:

Ngày 02, 03 là thứ bảy và chủ nhật nghỉ châm, vì tôi bận dạy học, ngày

04, 05, 06 châm tiếp. Bệnh nhân đến châm cho biết:

- Đêm 06 - 3 đã không còn đau, có thể nằm nghiêng, không phải gác

cao chân.

- Đến ngày 07, 08 không đau, bỏ nẹp thun quấn chân.

- Sáng 09 trời lạnh, chân hơi nặng.

- Ngày 10 không đau.

- Đêm 11 có đau, vì trưa 11 nhà làm cỗ đãi khách, đã ăn món chim

quay, măng nấu, quả soài.

- Ngày 12 nghỉ châm vì nhà có khách.

- Các ngày 13, 14, 15 đi châm đều.

- Ngày 18 tháng 3, trời trở gió mùa, đêm ngủ không đau chân. Nhưng lúc trên đường đi đến nhà thầy, thấy chân bị đau. Hôm đó sau khi châm theo phương chính, tôi gia thêm châm bổ hai huyệt Thái khê, Côn luân.

Ngày 19 bệnh nhân đến châm kể lại: “Sau buổi châm hôm qua về, cháu

hoàn toàn không đau đớn nữa.” Suốt từ đó đến tháng 9 năm 2002, chị N. vừa đến tôi châm chữa bệnh, vừa đi dạy học. Chị còn phải học thêm nghiệp vụ và ngoại ngữ. Vì hoàn cảnh riêng, đến cuối tháng 9, chị đến xin phép tôi nghỉ châm, vì chị có việc phải đi nước ngoài. Chị đem lễ đến tạ ơn tôi đã chữa bệnh cho chị. Sau đó chị đề nghị tôi hướng dẫn cách tự phòng bệnh cho chị khi chị ở xa xứ. Tôi nói: “Chị cần tìm mua một máy châm xung điện cầm tay, chạy bằng pin”. Khi chị mua được máy, tôi vẽ hình có vị trí huyệt tôi đã châm, chỉ cách cho chị thao tác máy, tự điều chỉnh cường độ kích thích cho phù hợp với sức chịu của mình.

Trong thời gian tôi châm chữa cho chị N., do thấy phép châm cứu chữa bệnh này có hiệu quả. Chị N.có ý định nhờ tôi nhận chữa cho nhiều người cùng mắc bệnh như chị. Chị đề xuất với tôi ý nghĩ của mình. Tôi không đồng ý, và giải thích cho chị như sau: “Tôi cũng biết nỗi khổ của những người mắc bệnh khó, khi đi chữa ở vài, ba nơi không khỏi, họ rất hoang mang, mất niềm tin ở y học. Lợi dụng lòng khát khao của bệnh nhân, không ít người đã làm thuốc giả để lừa gạt, hứa hẹn, khiến cho người ta tiền mất, tật mang. Tôi nay đã nghỉ hưu, chỉ tiếc công phu, kinh nghiệm gần 40 năm của mình, nếu bỏ qua thì quên lú đi mất. Nhưng nếu tôi nhận chữa bệnh khó đó, thì ai dám tin mình. Cho nên chỉ còn cách yên thân lúc tuổi già mà vẫn có ích, đó là dạy lại cho lớp trẻ, những ai còn thành tâm yêu mến, dốc lòng gìn giữ tinh hoa y học cổ truyền. Nếu mọi người nghe lời chị, đều tìm đến tôi, nhờ tôi chữa bệnh, chẳng những hơi sức tôi không đủ đáp ứng mọi người, lại tránh sao được tiếng đồn có hại. Kinh nghiệm ở đời đã được thấy quá nhiều. Chữa được bệnh lạ, tất sẽ là việc lạ. Đã là việc lạ, tất sẽ được coi là việc khác thường, khó tin. Lúc đó, tôi chẳng những không được yên thân, mà tấm lòng mong muốn được sống vui, sống khoẻ, sống có ích của tôi đâu còn cơ hội để biến thành hiện thực hàng ngày.

Những điều mong mỏi của tôi, tôi vẫn đang thực hiện. Một trong số đó là tôi viết lại truyện này rất trung thực. Ai được tôi chữa khỏi chứng bệnh gì,

chỉ nên một người đó biết đã là đủ rồi. Ai học được bài chữa này, chữa khỏi

cho nhiều người bệnh, là tôi mừng, là tôi còn có ích.

39 - Chữa chứng viêm tắc động mạch chi dưới

Ngày 10 tháng 4 năm 2003, chị H., con dâu ông bà T., hàng xóm cũ của tôi, (trong khu tập thể Uỷ ban thống nhất trung ương, làng Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa) chị đưa người chị gái là bà Ng. T. Ph., đến nhờ tôi chữa bệnh theo lời hẹn từ trước.

Bà Ph. trình bày: “Cháu ở phố Lò Đúc, là công nhân đã nghỉ mất sức

theo chính sách lao động. Cháu bị bệnh này đã hai năm.” Bà vừa nói vừa vén cao ống quần đến lưng cẳng chân, để lộ ra hình ảnh bệnh ở chân bà, bà nói tiếp: “Lúc đầu, cháu thấy hai chân sưng đỏ lên, cháu có sốt nhẹ. Đêm đến, chân cháu đau nhức nhiều. Vết sưng đỏ từ trên vùng cổ chân, xuống mu bàn chân. Các ngón chân đều tê dại, gan bàn chân nóng rát như bị bỏng. Khi bước đi, cháu cảm giác như có rất nhiều gai nhọn đâm vào lòng bàn chân. Cháu đi khám bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế, các bác sỹ nói rằng cháu bị bệnh viêm tắc mạch máu. Họ cho cháu uống thuốc sắc Đông y. Cháu uống thuốc theo từng đợt, mỗi đợt chừng hai tháng. Uống thuốc vào thì thấy bệnh có đỡ. Nghỉ uống thuốc, bệnh lại tăng lên. Người ta bảo với cháu, bệnh này lâu ngày, dần dần càng nặng hơn. Cuối cùng là hoại tử, phải tháo đi từng đốt xương. Hiện giờ các đầu ngón chân cháu đã tê lắm, móng chân thì tím bầm lại, chắc nguy cơ hoại tử sắp đến với cháu, cháu lo quá.”

Tôi nói với bà: “Bệnh này ngày xưa gọi là ‘hoại thư.’ Tôi chưa dám nói với bà điều gì chắc chắn cả. Nhưng, năm ngoái tôi đã chữa mấy trường hợp viêm tắc tĩnh mạch đều có hiệu quả tốt. Nay ta kiên trì, cùng nhau phối hợp chữa thử. Về phía bà, bà phải chú ý theo dõi phần ăn uống. Nếu thấy ăn món gì làm bệnh khó chịu hơn, bà phải dừng ngay.”

Bệnh học Đông y cho rằng: Nguyên nhân bệnh nổi rõ lên, thường do bị lạnh cóng, ẩm thấp. Sau khi bị hàn thấp, khí huyết ứ trệ, làm cho mạch lạc dần dần vướng tắc không thông, phát sinh đau đớn. Bệnh lâu ngày do không

được khí huyết nuôi dưỡng, có thể phát sinh hoại tử.

Diễn biến của bệnh:

- Người bệnh phần nhiều là nam giới (theo khảo sát của Trung Quốc), độ tuổi từ 25 đến 45, ( ở Việt Nam, tôi gặp nữ giới mắc bệnh này cũng nhiều, độ tuổi cũng lớn hơn). Bệnh ưa phát ở đầu chót tứ chi, thường thấy nhất ở chi dưới, là loại bệnh mạn tính.

- Thời gian đầu, chi có bệnh sợ lạnh, có cảm giác tê như gỗ. Vùng bắp cẳng

chân, bàn chân có đau đớn không định chỗ. Xuất hiện đi khập khiễng không liên tục. Chủ yếu là do chi có bệnh bị thiếu máu.Có một số người bị bệnh viêm tĩnh mạch hiểm ở chi dưới, do tắc máu mà bệnh di chuyển ngược sang động mạch.

- Thời kỳ giữa của bệnh, chân giảm rõ rệt độ nóng ấm, sợ lạnh, có hiện tượng kém dinh dưỡng. Chi có bệnh đau đớn liên tục, đau nhiều hơn về ban đêm. Khi người bệnh nằm, nâng cao chân có bệnh sẽ thấy màu da trắng bủng. Khi thả chân có bệnh xuống thấp, thấy rõ da có sắc đỏ tím. Sức đập của động mạch ở mu bàn chân và động mạch sau cẳng chân nhỏ yếu dần và mất đi.

- Thời kỳ cuối đau đớn dần dần nặng thêm, ngón chân phát sinh vỡ loét,

hoặc hoại tử (thường là thể khô). Nếu có phát kèm nhiễm trùng, cục bộ sẽ kiêm có sưng đỏ, đau đớn sẽ dữ dội thêm, lại có thể xuất hiện chứng trạng toàn thân...

Tôi tiến hành châm phương kinh nghiệm của tiền nhân: “Trung quản, Nội quan, Túc tam lý, Tam âm giao” (do phương này có thể chữa chứng viêm mạch máu nói chung, gồm cả động và tĩnh mạch. Để chữa chứng tê các ngón chân, tôi thêm nhóm huyệt Bát phong, ở khe nối giữa các ngón chân với bàn chân. Mỗi chân có 4 khe, hai chân có 8 khe).

Với chứng đau buốt lòng bàn chân, tôi châm huyệt Dũng tuyền. Các huyệt trên tôi đều dùng tổng hợp năm thủ pháp: Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục, và khai bế, làm tả pháp (36x3 =108). Mỗi ngày châm một lần, một

tuần châm 5 ngày, thứ bẩy, chủ nhật nghỉ châm.

Bà Ph. rất chăm chỉ đến châm chữa. Chỉ khi thật cần thiết, bà mới xin nghỉ để lo việc gia đình một vài ngày. Bệnh tình của bà thuyên giảm rõ rệt từng ngày. Những người bệnh khác họ luôn theo dõi kết quả chữa bệnh ở bà, họ động viên bà cố gắng, bền bỉ chữa cho đến khi dứt bệnh.

Đến hết 10 ngày đầu tháng 8 năm 2003, bà thấy có thể tạm yên tâm. Bà xin phép tôi nghỉ chữa một thời gian. Bà nói: “Cháu xin thầy cho nghỉ một đợt để lo việc nhà. Nếu có dấu hiệu bệnh tái phát, cháu lại đến xin thầy chữa tiếp cho.” Hai ngày sau đó, bà đến gặp tôi báo cáo kết quả, bà đã làm siêu âm mầu ở bệnh viện Bạch Mai. Bà đem kết quả siêu âm nói cho mọi người có mặt cùng nghe. Bà nói: “Bác sỹ đọc kết quả siêu âm: ‘Trong mạch không có máu đông, thành mạch trơn nhẵn, lưu lượng máu trong mạch tốt, không còn dấu hiệu viêm tắc’.”

Từ sau đó, bệnh của bà không có dấu hiệu tái phát. Bà vẫn cùng người

em gái buôn bán hàng vặt ở ngay trong xóm tôi ở cũ (khu Tập thể Thống

Nhất, làng Hào Nam).

40 - Chữa chứng viêm tắc tĩnh mạch hiển (tĩnh mạch nông) chi trên

Ngày 17 tháng 9 năm 2001, cô Phạm Thanh Hương đến chào tôi, cô gật đầu, nhỏ nhẹ chào mọi người, rồi ngồi xuống ghế chờ đợi. Tôi đang châm chữa cho người bệnh, nên tôi chỉ chào đáp lại ngắn gọn và tiếp tục công việc của mình.

Một bà bệnh nhân ngồi gần cô, tưởng cô là người bệnh mới đến lần đầu. Bà thủ thỉ hỏi chuyện cô, nhưng tôi vẫn nghe thấy: “Em bị bệnh gì?” Cô nói: “Cháu là bệnh nhân cũ của thầy. Trước đây hơn một tháng, cháu bị đau vùng tim, ngực. Cháu đi khám chất lượng cao, các bác sỹ đã cho cháu uống thuốc, nhưng bệnh không thấy đỡ. May có anh bạn chồng cháu quen biết thầy đây, anh đưa vợ chồng cháu đến nhờ thầy chữa. Cháu đã khỏi bệnh cũ được hơn một tuần rồi. Hôm nay cháu đến nhờ thầy chữa chứng tê cánh tay, bàn tay trái của cháu.” Bà nọ nói chuyện lại với cô: “Cháu hàng xóm nhà tôi là học sinh cũ của thầy, thấy bệnh đau lưng của tôi đã đi chữa nhiều nơi chưa khỏi, cháu đến xin trước với thầy được thầy nhận chữa cho tôi. Tôi cũng mới đến chữa được ba hôm, nhưng thấy bệnh cũng có chuyển biến tốt, tôi mừng lắm cô ạ.”

Tôi châm xong cho hai bệnh nhân, tiếp theo mới đến lượt cô Hương. Tôi mời cô vào nơi tôi làm việc. Cô trình bầy bệnh của mình như sau: “Cháu còn nhiều bệnh trong người lắm. Lần trước đến nhờ thấy bệnh đau tim ngực là chính, cháu chỉ mong sao thầy chữa cho khỏi chết vì chứng đau đó. Nay chứng ấy khỏi rồi, cháu mới dám nhờ thầy chữa sang bệnh tê tay trái của cháu.”

Sau khi đo nhiệt độ kinh lạc, trong bảng tính số đo của cô, tôi thấy có mô hình chứng đau đốt sống cổ, đau đã lan toả xuống cánh tay. Khi khám kỹ cánh tay, tôi thấy phía trên tĩnh mạch cẳng tay trung gian, chỗ rất gần khuỷu

tay có một cục sưng rắn, to bằng hạt ngô. Lần theo tĩnh mạch này xuống đến nửa dưới cẳng tay, lại thấy một đoạn tĩnh mạch rắn cứng như một chiếc đũa ăn cơm, dài chừng 6 cm. Tôi hỏi cô Hương: “Cô đã đi khám những chỗ đau này ở đâu chưa?” Cô nói: “Em họ cháu làm việc ở Bệnh viện Đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải, êm đã khám cho cháu. Em cháu nói rằng: “Chị Hương bị viêm tắc tĩnh mạch chi rồi, bệnh này khó chữa lắm.” Cháu một phần vì mải làm ăn, một phần nữa, cháu cũng nghĩ rằng: Bệnh này chưa thể làm chết người ngay, nên cháu cũng cho qua. Nay vì tay cháu tê, làm công việc bị trở ngại quá. Cháu xin thầy chữa cho cháu hết tê tay trước đã.”

Tôi nhận lời cô, nhưng quyết định sẽ lồng ghép chữa cả chứng đau đốt

sống cổ lan toả xuống cánh tay và chứng viêm tắc tĩnh mạch hiển này cho cô.

Trong câu chuyện kể này, tôi chủ yếu nói về bệnh viêm tắc tĩnh mạch

hiển chi trên.

Sách bệnh học viết:

“Viêm tắc tĩnh mạch là tĩnh mạch viêm, đồng thời có huyết khối nghẽn tắc. Thường là do chứng viêm hoá mủ lan rộng đến ống tĩnh mạch. Hoặc do tiêm vào trong tĩnh mạch loại thuốc gây kích thích xoang trong huyết quản, do khi có vết đâm làm tổn thương màng trong huyết quản đưa đến viêm tắc.

Đông y cho rằng bệnh này là do cảm nhiễm thấp độc, đã đưa đến khí

huyết ứ trệ, mạch lạc mất hoà.

Diễn biến của bệnh:

- Trong thời gian gần nhất, đã có chứng viêm hoá mủ, có trải qua tiêm tĩnh

mạch.

- Do nhiễm trùng mà dẫn đến viêm tắc tĩnh mạch dưới da. Ven theo tĩnh mạch, trên kinh lạc sưng đỏ hoặc có nút kết dạng sợi dây thừng, chạm vào thì đau đớn.

- Do huyết dịch uất trệ, gây ra tĩnh mạch chi dưới cong căng, cục bộ sưng đỏ, đau tức khó chịu. Khi đi, chạy quá nhiều, hoặc đứng quá lâu thì chứng trạng nặng thêm.

- Thời gian cấp tính có thể có phát sốt, là chứng trạng toàn thân.”

ở nước ta vào mùa hạ, những người làm lao động ngoài trời nắng thời gian dài, hoặc làm việc bên miệng lò nhiệt độ cao, thường bị bệnh này. Những người khi bị nóng quá, họ lại muốn thấy mát ngay, họ đã dội rửa tay chân bằng nước lạnh một cách đột ngột, do đó mà thành bệnh.

Các sách đều ghi phương huyệt chữa chứng viêm tắc tĩnh mạch chi bằng

châm cứu như sau:

- Chi trên: Lấy các huyệt: Khúc trì, Ngoại quan, Bát tà.

- Chi dưới: Lấy các huyệt: Uỷ trung, Thừa sơn, Túc tam lý, Tam âm giao.

Khi chữa cho bệnh nhân Hương, tôi đã vận dụng kết hợp phương kinh nghiệm của tiền nhân: Trung quản, Nội quan, Túc tam lý, Tam âm giao, cùng với các huyệt: Khúc trì, Ngoại quan, Bát tà .

Tôi cũng tổng hợp năm loại thủ pháp: Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu

lục, khai bế, đều làm phép tả (36 x 3 = 108).

Khi châm xong phương huyệt trên, tôi còn châm phương huyệt chữa đau đốt sống cổ và tê cánh tay. (các phương huyệt này không kể ở đây cho đúng mục đích của bài này ).

Cô Hương vừa đến tôi châm chữa, vừa bảo đảm hoạt động của cửa hàng tạp hoá ở gia đình. Đến cuối tháng 12 năm đó, bệnh của cô khỏi hẳn, cô nghỉ châm.

Những người được chứng kiến bệnh viêm tắc tĩnh mạch hiển (nông) chi trên ở cô Hương đã được chữa khỏi bằng châm cứu, họ đều cho là chuyện lạ, mà có thật.

41 - Chữa chứng đột ngột đau nửa đầu trái, sụp mi trái

Những ngày mùa hè năm ất dậu vừa qua, khí hậu Hà Nội oi bức dữ dội. Buổi chiều đến trong nhà tôi ở, nhiệt kế treo tường đã hiện số 37oC, do nóng, mệt, tôi chỉ tiếp khách các buổi sáng, buổi chiều nghỉ việc. Ngày 16 -

5 - 2005, một người quen đến bấm chuông, tôi mở cửa ra, thấy chị H. và hai

người nữ đi theo.

Chị H. nói với tôi: “Cháu xin lỗi ông, đến cửa đây thấy ông dán thông báo, không làm việc buổi chiều. Nhưng vì cô bé này đau đớn quá, xin ông xem cấp cứu giúp.”

Tôi mời mọi người vào nhà. Người chị trong số hai người nữ đi theo chị H. nói với tôi: “Thưa thầy, hôm 1- 5 em V. của cháu đây, đột nhiên thấy nửa đầu trái đau dữ dội, mắt trái sụp mi xuống, không thể nào hé mở được. Gia đình đã đưa em đến Viện Mắt Trung ương khám. Bác sỹ khám xong cho

rằng không phải chứng thiên đầu thống, vì không thấy nhãn áp tăng. Họ cho chuyển viện sang Khoa thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai. Tại đây, em cháu được cấp tốc chọc hút tuỷ sống để làm xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm là âm tính. Em cháu lại được chuyển đến khoa chẩn đoán hình ảnh, em được chụp cộng hưởng từ ở não. Kết quả tìm thấy có u ở tuyến yên to

0,7cm. Hội đồng chẩn đoán cho rằng: U tuyến yên rất nhỏ, lại không ảnh hưởng gì đến thần kinh khu vực mắt. Cuối cùng, các bác sỹ nghi em cháu bị viêm tắc tĩnh mạch xoang hang. Chỉ định cho em cháu điều trị bằng tiêm thuốc kháng sinh. Từ đó đến nay, chưa thanh toán tiền nằm viện, chỉ là tiền thăm khám và mua thuốc, gia đình cháu đã phải chi gần chục triệu đồng, nhưng bệnh em cháu không thấy giảm. Đầu em cháu vẫn đau, mí mắt vẫn không hé mở được tí nào. Gia đình cháu đang không biết tính sao, thì may quá gặp chị H. đến chơi. Chị gợi ý, nên đến viện đón em về, để chị đưa em cháu đến gặp ông, nhờ ông khám giúp cho.” Chị H. cũng nói thêm vào: “Phải đợi hết giờ theo dõi của viện, em nó mới trốn về được. Vì vậy, chúng cháu đến đây muộn, mong ông thông cảm cho.”

Nhận thấy đây là một bệnh lạ, tôi đồng ý và tiến hành đo kinh lạc bằng máy đo nhiệt độ kết nối với máy vi tính. Qua phần mềm chẩn bệnh, kết quả cho thấy bệnh nhân có khí thịnh, huyết hư, bệnh đốt sống cổ và sung huyết

não.

Tôi tiến hành châm ngay theo các nhóm huyệt kinh nghiệm điều trị triệu

chứng như sau:

- Đau nửa đầu trái (Châm bên trái): Đầu duy, Khúc mấn, Chi câu.

- Sụp mi: Châm các huyệt bên bệnh: Phong trì, Đầu duy (Đầu duy,đã

châm trong nhóm trên), Dương bạch, Thái dương, Thượng minh.

- Điểm ấn đau tại chỗ: Mục song.

Trong các huyệt kể trên, huyệt Thượng minh không làm thủ pháp, khi tiến kim đủ độ sâu, liền đó là từ từ rút kim, kịp thời bịt lỗ kim và ấn day nhè nhẹ 200 lần, đề phòng xuất huyết tĩnh mạch thành hốc mắt. Các huyệt còn lại đều làm thủ pháp tổng hợp 4 loại: Từ tật, niệm chuyển, cửu lục, khai bế, (vì da đầu, mặt mỏng, châm nghiêng kim, không làm thủ pháp đề sáp). Đều làm tả pháp (36 x 3 = 108). Châm xong rút kim ngay, không lưu kim. Khi hoàn tất việc rút kim, bệnh nhân đã thấy dứt cơn đau dữ dội, chỉ còn ê ẩm đau nhẹ.

Ngày hôm sau, bệnh nhân đến vào cuối giờ buổi sáng. Tiến hành châm

chữa xong, bệnh nhân cố rướn nâng mí mắt, đã thấy mắt mở hé được một

khoảng nhỏ.

Từ đó đến thứ sáu, sau năm lần châm, đầu không thấy đau trở lại nhiều như lần trước, mắt trái đã mở được như bình thường. Duy đầu vẫn còn ê ẩm đau nhẹ.

Cứ sau một ngày chữa, hôm sau bệnh nhân đến lại có nét mặt tươi tỉnh hơn. Mọi người đều thấy rõ điều này và chúc mừng cô bé đã gặp may mắn.

Sau ba tuần lễ, 15 buổi châm, thấy bệnh nhân đã nhanh nhẹn, tươi tỉnh, tôi khuyên gia đình cho em nghỉ châm, tiếp tục theo học cho khỏi lưu ban một năm.

Ngày cuối đợt châm ấy, bà mẹ bệnh nhân đến thay mặt gia đình, cảm ơn tôi. Bà cứ băn khoăn về nguyên nhân gây bệnh và bệnh danh của con bà. Bà gợi ý hỏi tôi, theo tôi chuẩn đoán bệnh của con bà thế nào mà lại chữa nhanh khỏi được như thế. Liệu chừng bệnh của con bà còn có thể tái phát được không?

Tôi không trả lời vào những gợi ý của bà, mà hỏi lại bà: “Chị V. có hay tắm đêm không thưa bà?” Bà vội nói, thưa thầy: “Cháu chỉ chuyên tắm gọi về đêm thôi ạ. Mấy hôm nóng vừa qua, khi cháu tắm gội xong lại đắp luôn khăn tắm còn ướt lên đầu cho mát.” Tôi nói với bà rằng ngày xưa các cụ đã thấy tác hại của tắm gội đầu về đêm nên đã đặt ra câu chuyện để răn đe như sau: Thời nhà Trần trong số tướng giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, có người tên là Phạm Nhan. Tên này học được pháp thuật yêu quái, bị quân ta bắt được đem chém. Ta chém rụng đầu này, nó lại mọc ra đầu khác. Thấy vậy, dân làng quanh núi Dược Sơn vùng Vạn Kiếp đã hiến kế, dùng thuốc ở địa phương sẵn có, bôi lên lưỡi gươm. Bấy giờ chém, đầu giặc mới đứt hẳn. Thể theo nguyện vọng đề nghị của tướng giặc, quan quân đã chặt tên giặc ra làm ba phần. Một phần đem lên rừng băm nhỏ rải khắp núi đồi. Một phần đem về đồng bằng băm nhỏ đốt thành tro, rải khắp các vùng. Phần còn lại băm nhỏ thả xuống sông ngòi, hồ ao. Nào ngờ mảnh vụn xác giặc ở rừng đã biến thành những con vắt. Ơ đồng bằng, tro tàn xác giặc biến thành những con muỗi. Dưới nước, mảnh vụn xác giặc biến thành những con đỉa.

Cả ba loại này đều tìm hút máu hại người. Riêng hồn ma Phạm Nhan, ban đêm nó đi khắp xóm làng, tìm đàn bà con gái tắm gội để nhập vào. Nó sống bằng máu người và gây bệnh.

Thủa tôi còn nhỏ cũng được nghe các bà già dạy con gái chuyện này, nên ít thấy có người dám tắm đêm.

Nghe xong câu chuyện tôi kể, bà nói: “Em về sẽ viết chữ cấm tắm gội ban đêm, dán tại cửa nhà tắm, nhằm để nhắc nhở cả nhà. Cảm ơn thầy đã chữa giúp cháu, lại còn chỉ cho cháu cách phòng bệnh lâu dài.

Gia đình muốn xin thầy cho cháu đơn thuốc để cho cháu uống thêm. Nếu có điều gì cần đến thầy, xin thầy sẵn sàng giúp cho gia đình em.”

Tôi đã cho bà đơn thuốc ghi bài “Tả quy ẩm” để bệnh nhân khắc phục di

hại của việc tuỷ sống bị rút làm xét nghiệm.

Từ đó chị V. đã đi học đều, bệnh không còn ảnh hưởng nhiều đến sức

khoẻ của chị nữa.

42 - Chữa bệnh sốt bai liệt trẻ em

Năm 1978, tôi được Bộ Văn hoá điều động từ Cục Mỹ thuật về trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội, làm giảng viên ở Khoa Điêu khắc. Thời gian nghỉ hè và nghỉ tết chúng tôi được nghỉ theo sinh viên nên có thoải mái hơn cán bộ hành chính, cơ quan.

Đợt nghỉ tết, đón xuân Kỷ Mùi năm ấy, tôi có một kỷ niệm đáng nhớ về nhiều mặt. Thời đó, việc đi lại từ Hà Nội về quê tôi ở huyện Hải Hậu, tỉnh Hà Nam Ninh rất khó khăn. Ngày thường đã rất hiếm ô tô khách đường dài, lại phải đi làm hai chặng. Chặng đường thứ nhất, từ bến xe Kim Liên về đến bến xe ở đầu phố Năng Tĩnh thành phố Nam Định. Tại đây, lại phải xếp hàng mua vé xe Nam Định về Hải Hậu, là chặng thứ hai. Ngày tết, xe chở khách càng hiếm hơn, nghành giao thông phải điều thêm xe tải (loại xe chở hàng hoá), kê thêm ghế gỗ băng dài để chở người. Đó là do cán bộ, học sinh, sinh viên nghỉ về quê ăn tết quá đông, nên đành phải thu xếp như thế. Cho nên, tôi quyết định đi về quê ăn tết bằng xe đạp.

Đi về quê ăn tết bằng xe đạp, tuy có vất vả, mệt nhọc, nhưng bù lại cũng

có nhiều cái thú vị trong lòng. Thứ nhất, mình làm chủ được thời gian, không phải thấp thỏm chờ đợi, chen lấn lúc mua vé xe ở hai bến xe ô tô khách. Thứ hai là, có thể thoải mái chở trên xe đạp mọi thứ hàng tết được mua phân phối theo tem phiếu. Hàng tết này được sản xuất chính hiệu tại Hà Nội, hoặc đặc sản các nơi ưu tiên cung cấp cho Hà Nội. Nào là thuốc lá Thăng Long bao bạc, chè Hồng Đào ướp hương nhài thơm phức, rồi đến bóng bì, hạt tiêu, lá dong... Tất cả đều là loại tốt, tươi, hiếm có ở quê nhà. Ba là, trên suốt dọc đường đi, qua các vùng quê, các chợ búa ven đường, tôi được nhìn thấy cảnh đông đúc tấp nập. Người nào cũng hớn hở, vui tươi, đi mua sắm những thứ hàng mình ưa thích để đón mừng xuân mới. Ba cái thú vị tôi vừa kể ra trên đây, nó bù đắp phần nào cho những ngày tôi sống trong sự căng thẳng, ác liệt của chiến trường B. năm xưa...

Việc đáng nhớ nữa là, tất cả số ngày nghỉ tết của tôi năm ấy, tôi được mời đi chữa bênh sốt bại liệt cho một cháu bé trong cùng phố tôi ở, cách nhà tôi chừng hơn 300 mét.

Khi tôi vừa về tới nơi, dừng xe đạp tại cửa nhà mình, đang tháo dây cao su chằng ba lô ra, chưa kịp chuyển hàng và dắt xe vào nhà, đã thấy bà H. gái (quê tôi hay gọi tên các bà bằng tên của chồng) đi tới. Bà đứng ngay ở ngoài đường, trước cửa nhà để nói chuyện với tôi. Bà nói: “Em thoáng nhìn thấy bác đạp xe về qua nhà em, em phải chạy xuống thưa chuyện với bác ngay. Thằng cháu trai nhà em sinh năm 1973, vừa bằng tuổi cháu trai nhà bác.

Cháu bị bệnh sốt, có tê liệt từ cổ trở xuống đã mấy hôm. Ngày hôm qua, gia đình cho cháu ra bệnh viện huyện Hải Hậu để khám chữa. Các bác sỹ khám qua loa xong, họ nói: “Cháu không phải là sốt bại liệt. Gia đình cứ đưa cháu về, nấu nước xông và đánh cảm cho cháu. Sau tết, đưa cháu ra đây, chúng tôi sẽ nhận khám và điều trị cho cháu. Từ lúc về nhà đến nay, cháu luôn kêu đau đớn, không ngủ được, lại lười ăn nữa. Chúng em thay nhau, sao lá ngải tươi cho nóng lên để chườm khắp người cho cháu. Nhưng cháu vẫn không đỡ đau đớn chút nào. Mời bác lên xem, chữa giúp cho cháu ngay, tết nhất đến nơi rồi, khổ quá bác ạ.”

Tôi nói với bà: “Bà cứ về trước, tôi sẽ lên sau.” Tôi quay lại, dắt xe đạp vào nhà, con gái lớn của tôi cũng giúp tôi mang ba lô, hàng tết vào, nên mọi việc cũng nhanh gọn. Tôi vừa rửa mặt mũi, tay chân, vừa nhẩm tính: Có thể phải dùng đến phép “Linh quy phi đằng.” Tôi mở ba lô, mang theo kim châm và quyển sách “Châm cứu đại thành” (của ông Dương Kế Châu, nguyên văn sách bằng chữ Trung Quốc) mang theo.

Nhà ông H. cũng sát mặt đường phố Đông Biên. Nền nhà ông hơi cao, phải bước qua một bậc thềm trước nền nhà mới tới cửa vào nhà. Chiều chưa tối hẳn mà cửa chính đã đóng gần hết, chỉ còn một cánh nhỏ hé mở, như đang chờ đợi tôi. Khi tôi bước chân lên bậc thềm, tôi đã nghe thấy

tiếng chân vội vàng đi về phía cửa. Khi tôi lên tới cửa, cũng là lúc ông H. mở cửa. Ông chào tôi và mời tôi vào nhà. Ông nhanh chóng né sang một bên, nhường lối để tôi vào. Rồi vội vàng, ông khép kín cửa lại. Tôi nhìn vào chiếc giường kê ở góc nhà phía trong, cửa màn đã được vén lên, cháu bé đắp chăn nằm một mình ở đó. Góc nhà phía ngoài, cách cửa ra vào không xa, một chiếc bếp dầu đang cháy, những ngọn lửa nhỏ màu xanh. Trên bếp là một chiếc lưỡi cầy bằng gang kiểu cổ. Gần bếp là một chồng lá nón màu trắng đã được vuốt phẳng ra. Chị con gái lớn của ông ngồi cạnh bếp, tay cầm nắm giẻ cũ khá lớn, chị dang trải lá nón ra, vuốt trên lưỡi cày nóng cho phẳng. Nhà ông bà có nghề khâu nón lá mà. Ông đưa tôi đến giường cháu bé, kéo tấm chăn đắp trên người cháu ra, ông kể bệnh tình của cháu với tôi. Ông nói: “Hiện nay cháu bớt sốt rồi, từ cổ trở lên còn cử động được, tinh thần cháu tỉnh táo. Riêng từ vai trở xuống, hai cánh tay, thân mình và chân thì không có chút sức lực nào. Đụng vào người cháu thì cháu kêu lên đau đớn. Để cháu nằm một mình thì cháu kêu nhức mỏi. Khi phải nâng cháu lên để vệ sinh cho cháu, tôi cảm thấy cứ như bê một bọc nước mềm nhũn.” Ông đưa tay sờ vào bàn chân cháu và nói: “Các ngón tay, ngón chân cháu không cử động được.”

Nghe ông kể bệnh đến đây, tôi thấy, về cơ bản giống như ở sách

đã mô tả chứng bại liệt trẻ em.

Sách viết rằng:

“Chứng bại liệt trẻ em còn gọi là viêm chất xám tủy sống.” Là bệnh lây lan. Viêm chất xám tủy sống lây lan qua đường tiêu hoá, dẫn đến truyền nhiễm hệ thống thần kinh. Bốn mùa đều có thể mắc bệnh. Nhưng ở mùa hạ, mùa thu, thường phát bệnh nhiều nhất. Trẻ em từ một đến năm tuổi hay mắc phải bệnh này.

Đông y cho rằng: Do phong tà thấp nhiệt lấn vào phế vị, úng trở kinh lạc, khí huyết vận hành bất lợi. Quá lắm thì hãm ở trong tâm, can. Bệnh lâu ngày thì gân, xương, cơ, bắp, không được nuôi dưỡng, can thận hư tổn, mà thành bại liệt. Học thuật Tây y trước đây xem di chứng sau sốt bại liệt là “ không thể chữa được.” Ngày nay do tiến bộ của khoa học, đã có tiêm phòng đầy đủ. Bệnh này ở nước ta, về cơ bản, đã được thanh toán. Nhưng vào những năm thập kỷ 70, thế kỷ trước, nước ta còn nhiều vùng và nhiều cháu bị mắc bệnh này.

Diễn biến của bệnh:

- Trẻ em đã có tiếp xúc với người bệnh, hoặc trong vùng có bệnh lưu hành. Trước hết thấy chứng phát sốt, đầu đau, nhiều mồ hôi, nôn mửa. Liền theo thấy buồn ngủ, cơ bắp đau đớn. Sau đó hạ sốt, phát sinh tay, chân tê liệt.

- Sau khi tê liệt, ý thức vẫn rõ ràng, tiếng nói như thường, tê liệt hiện rõ tính chất lỏng lẻo. Nơi nơi không nhất định. Phản xạ đầu gối sau bại liệt mất đi, phần lớn cảm giác còn giữ được.

- Thời gian bại liệt, phải chú ý theo dõi sát sao hiện tượng thở hít khó khăn, tình huống co giật và tinh thần sắc mặt, để kịp thời phát hiện tê

bại hô hấp, là chứng hậu sớm của tê bại tuỷ sống.

Theo học thuyết kinh lạc, bệnh này không còn khu trú ở từng đường kinh, nó đã hoành hành ở cả 8 mạch kỳ kinh. Vì vậy, tôi quyết định chữa theo “ Linh quy phi đằng pháp.”

Lúc đó là 16 giờ 50 ngày 28 tháng chạp năm Mậu Ngọ, lịch can chi là ngày Quý tỵ, giờ Canh thân. Huyệt mở là Chiếu hải. Tôi lấy kim nhỏ, sát trùng và châm theo thủ pháp tổng hợp 4 loại: Từ tật, niệm chuyển, cửu lục và khai bế. Làm thủ pháp bổ (27x3=81 ).

Châm xong, tôi nói với ông Hiệu, tôi về nhà để ăn cơm với gia đình. Sang cuối giờ Tân dậu, tôi đến châm cho cháu ở huyệt Ngoại quan.

Ngày 29 tết, tức ngày Giáp ngọ, tôi đến châm cho bệnh nhân và mang theo bảng ghi huyệt mở theo giờ như sau:

- Giờ Bính dần, tôi chưa đến được nên bỏ qua.

- Giờ Đinh mão, tôi đến châm cho cháu huyệt Chiếu hải.

- Giờ Mậu thìn, tôi vẽ huyệt Liệt khuyết trên cổ tay cháu, đưa mồi ngải, hướng dẫn cách cứu để ông Hiệu cứu cho con ông.

- Giờ Kỷ tỵ, ông bố cứu cho con ở huyệt Ngoại quan (tôi đã vẽ sẵn ở sau

cổ tay cháu).

- Giờ Canh ngọ, tôi đến châm cho cháu ở huyệt Hậu khê.

- Giờ Tân mùi, ông bố cứu cho con ở huyệt Chiếu hải

- Giờ Nhâm thân, tôi đến châm cho cháu ở huyệt Ngoại quan.

- Giờ Quý dậu, ông bố cứu cho con ở huyệt Thân mạch.

Trong buổi chiều hôm 29 tết này, ông H. khoe với tôi: “Đêm qua, sau hai lần châm và mấy lần cứu, cháu đã ngủ yên được khá lâu. Ngày hôm nay, có lúc cháu cũng ngủ được. Cháu khoe với tôi, cháu thấy đã bớt đau đớn trong người. Ông cầm vào bàn chân cháu và nói: “Con thử cử động ngón chân cho ông xem.” Tôi nhìn thấy ngón chân cháu đã nhúc nhích được chút ít. Ông bố mừng lắm. Nét mặt cháu cũng tươi lên hưởng ứng nỗi vui mừng của bố cháu.

Các ngày sau đó, kể cả ngày tết, mỗi ngày tôi đều đến ba lần vào ba giờ: Mão, Ngọ, Thân để châm cho cháu. Các giờ còn lại trong ngày, từ giờ Dần đến giờ Dậu, bố cháu theo lịch và hình vẽ ở người cháu để cứu cho cháu.

Chiều mồng 3 tết, tôi đến châm cho cháu lần cuối, bởi vì ngày mồng 4 tháng giêng, tôi đã phải đi Hà Nội. Hôm đó, cả nhà ông H. rất vui vì cháu bé đã ngồi dậy được. Tuy cháu chưa đi lại, và làm các động tác sinh hoạt cá nhân được, nhưng tay chân cháu đã có những cử động tốt hơn, và ăn ngủ cũng tốt hơn.

Để yên tâm, tôi lập một bảng lịch giờ huyệt mở cho mười ngày tiếp theo. Tôi khuyên ông H. đi tìm người y tá ở huyện Hải Hậu, anh này biết châm cứu, ông nhờ anh đến châm giúp cho con ông liên tục theo ngày,giờ và huyệt ghi trong tờ lịch ấy.

Hè năm 1979, tôi có việc lớn ở gia đình. Khi về đến nhà, tôi được biết cháu trai con ông H. đã khỏi bệnh, không để lại di chứng nhỏ nào. Đợt chữa bệnh này tuy vất vả, nhưng lại là kỷ niệm đáng nhớ trong dịp tết năm đó.

Nhận thấy rõ giá trị ứng dụng của phép thời châm “Linh quy phi đằng,” năm 1990, tôi đã viết một bài nghiên cứu nhan đề là: “Bàn về phép Linh quy phi đằng.” Tạp chí “Công trình nghiên cứu y học quân sự”, tập 2-1990, Học viện quân y xuất bản, đã đăng toàn bộ bài nghiên cứu này, từ trang 31 đến trang 39.

Năm 1991, cuốn lịch “Tân mùi y thư nhật dụng” (cuốn sách tôi

viết chung với cụ Nguyễn Thiên Quyến, chủ tịch Thành hội y học cổ truyền

Hà Nội), được công bố. Trong sách này, cả ba phép thời châm: “Linh quy phi đằng”, “Tý ngọ lưu chú”, và “Thập nhị kinh bệnh tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, bổ hư, tả thực” đã được tôi đưa cụ thể vào 12 giờ trong từng ngày. Tính từ ngày 1 tháng giêng năm Tân mùi (15/2/1991) đến ngày 30 tháng chạp năm Tân mùi (3/1/1992) để các lương y tiện dùng.

Giữa năm 1991, bác sỹ Ch. Q. Tr., chủ nhiệm khoa đông y Viện 103, đến mời tôi giới thiệu cả ba phép thời châm khác nhau: “Linh quy phi đằng”, “Tý ngọ lưu chú”, “Thập nhị kinh bệnh tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, bổ hư tả thực”, trước toàn thể cán bộ điều trị của khoa, cùng với số bác sỹ Cu Ba đang theo học tại Học viện quân y.

Cho đến nay, việc ứng dụng cách châm theo phép“Linh quy phi đằng” cũng còn nhiều người phân vân. Tôi viết lại chuyện này như một ví dụ cụ thể, để đồng nghiệp yên tâm vận dụng. Nhưng tiện đây, tôi xin giới thiệu tóm tắt đặc điểm cấu thành và tính chất ứng dụng của từng phép thời châm

đó như sau:

Phép “Thập nhị kinh bệnh tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp bổ hư, tả thực” là phép bổ, tả theo khí thịnh, suy của mỗi đường kinh. Theo đúng giờ tuần hành của đường kinh, là khí của đường kinh đó thịnh, dùng thủ pháp tả, lấy huyệt trong ngũ du của đường kinh đó, mang hành là con của hành đường kinh.. Khi vừa hết giờ tuần hành của đường kinh, là lúc khí của đường kinh đó đã suy, dùng phép bổ, lấy huyệt trong ngũ du của đường kinh đó, mang hành là mẹ của hành đường kinh, dùng thủ pháp bổ. Đây là phép bổ, tả mẫu, tử, vận dụng vào tương ứng giữa 12 giờ địa chi và hoạt động công năng của

12 tạng, phủ trong ngày.

Thập nhị kinh nạp Địa chi ca :

Phế Dần, Đại Mão, Vị Thìn cung.

Tỳ Tỵ, Tâm Ngọ, Tiểu Mùi trung. Thân Bàng, Dậu Thận, Tâm bào Tuất.

Hợi Tiêu, Tý Đảm, Sửu Can thông.

Tác dụng của phép thời châm “Thập nhị kinh bệnh...” đúng như ý nghĩa tên gọi của nó đã chỉ rõ : “Chữa bệnh ở 12 kinh” theo giờ địa chi và huyệt mở trên đường kinh tương ứng.

*Phép “Tý, ngọ lưu chú” giải thích : Tý, ngọ là từ ngữ dùng thay của âm, dương. Tý là dương khởi. Ngọ là âm khởi. Tý ngọ lưu chú là âm dương chảy rót. Phép này dùng tương ứng âm, dương :Theo ngày dương, giờ dương, kinh dương; ngày âm, giờ âm, kinh âm. Lại theo ngũ hành của thiên can ở ngày, giờ, tương ứng với ngũ hành của tạng phủ, tương ứng với ngũ hành của ngũ du huyệt. Phép này lợi dụng giờ huyệt mở của đường kinh để

tiếp nhận khí âm, dương của vũ trụ chảy rót vào tiếp sức cho khí của các đường kinh lạc và tạng phủ.

Thập nhị kinh nạp Thiên can ca:

Giáp Đảm, ất Can, Bính Tiểu trường. Đinh tâm,Mậu Vị, Kỷ Tỳ hương.

Canh thuộc Đại trường, Tân thuộc Phế. Nhâm thuộc Bàng quang, Qúy Thận tàng. Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký.

Bào lạc đồng quy Thận Qúy phương.

Phép này dùng khí âm dương của 10 thiên can ở 10 ngày, 10 giờ, trong khi cơ thể người lại có 12. Do vậy, Tam tiêu phải gửi vào ngày Nhâm, giờ Nhâm; Tâm bào phải gửi vào ngày Qúy, giờ Qúy.

Tác dụng của phép thời châm “Tý ngọ lưu chú” cũng đúng như ý nghĩa tên gọi của nó đã nói rõ : “Âm dương chảy rót”. Đem khí âm dương vũ trụ chảy rót vào cho khí âm dương trong cơ thể con người, thông qua các huyệt mở ở các đường kinh lạc.

* Phép “Linh quy phi đằng” giải thích : Linh quy phi đằng là Rùa thiêng bay lượn. Rùa thiêng, mượn ý Lạc thư trên lưng rùa ở sông Lạc dương, có chín con số linh thiêng, bí ẩn. Bay lượn, mượn ý chín con số trong lạc thư biến hoá, thay đổi. Đây là phép sử dụng khí âm dương của vũ trụ trong cửu cung ở ngày, giờ theo 10 thiên can và 12 địa chi, tương ứng với khí âm dương trong 8 mạch kỳ kinh, tương ứng với 8 quái của dịch học.

Những bảng số của ngày can chi, giờ can chi dùng trong phép tính của

Linh quy phi đằng :

Bát pháp trục nhật can chi ca.

Giáp, kỷ, thìn, tuất, sửu, mùi, thập. ất, canh, thân, dậu, cửu vi kỳ.

Đinh, nhâm, dần, mão, bát thành số. Mậu, qúy, tỵ, ngọ, thất tương nghi. Trục nhật can chi, tất đắc tri.

Bát pháp lâm thời can chi ca.

Giáp, kỷ, tý, ngọ, cửu nghi (hợp) dụng. ất, canh, sửu, mùi, bát vô nghi (ngờ). Bính, tân, dần, thân, thất tác số.

Đinh, nhâm, mão, dậu, lục thuận tri.

Mậu, qúy, Thìn, tuất, các hữu ngũ.

Tỵ, hợi đơn gia tứ. Cộng tề.

Dương nhật trừ cửu, âm trừ lục... Bất cập linh dư huyệt hạ suy.

Cách tính tìm số: Kỳ pháp như giáp, bính, mậu , canh, nhâm vi dương nhật; ất, đinh, kỷ, tân, qúy vi âm nhật. Dĩ nhật, thời, can, chi toán kế hà số Dương nhật trừ cửu, âm trừ lục... thừa hạ nhuợc vu. Đồng phối quái số nhật, thời, đắc hà quái, tắc tri hà huyệt khai hĩ.

Tương ứng giữa số, cung quái, huyyệt đại biểu của tám mạch kỳ kinh:

Bát pháp ca.

Khảm nhất quan Thân mạch. Chiếu hải Khôn, nhị, ngũ. Chấn tam thuộc Ngoại quan. Tốn tứ Lâm khấp số.

Càn lục thị Công tôn. Đoài thất Hậu khê phủ. Cấn bát hệ Nội quan.

Ly cửu Liệt khuyết chủ.

Tám huyệt đại biểu thông với tám mạch và chủ trị :

Bát pháp giao hội bát mạch.

Công tôn nhị huyệt, phụ, thông Xung mạch;

Nội quan nhị huyệt, mẫu, thông Âm duy mạch. Hợp vu tâm, hung, vị.

Hậu khê nhị huyệt, phu, thông Đốc mạch;

Thân mạch nhị huyệt, thê, thông Dương kiểu mạch. Hợp vu mục nội giại,

hạng cảnh, nhĩ, kiên bác, tiểu trường, bàng quang.

Lâm khấp nhị huyệt, nam, thông Đới mạch;

Ngoại quan nhị huyệt, nữ, thông Dương duy mạch. Hợp vu mục nhuệ giai,

nhĩ hậu, giáp, hạng, kiên.

Liệt khuyết nhị huyệt, chủ, thông Nhâm mạch;

Chiếu hải nhị huyệt, khách, thông âm kiểu mạch. Hợp vu phế hệ, yết hầu,

hung cách.

Đặc điểm cấu thành của từng phép thời châm kể trên, có nguồn gốc thời sinh học rất khác nhau và mức độ phức tạp khác nhau, do đó tác dụng chủ trị cũng rất khác nhau. Nhưng khi vận dụng điều trị lại rất đơn giản. Chỉ cần ta nắm đúng loại bệnh, chọn đúng phương pháp, xem đúng ngày giờ theo lịch can chi, tra bảng đã tính sẵn tìm đúng huyệt mở, thủ pháp thao tác châm kim bổ, tả phù hợp, là sẽ thu được hiệu qủa trị liệu. (Xem các bảng giờ huyệt mở theo ba phương pháp thời châm trong sách “Cẩm nang chẩn trị Đông y – Dùng thuốc & Châm cứu.” Chúc đồng nghiệp thành công.

43 - Chữa bệnh viêm kết mạc hột

Anh Ng. T. S. là một quân nhân trẻ, anh đến nhà tôi học lớp Đông y - Châm cứu Khoá 8, vào năm 1989. Khi đó, anh đang là sinh viên năm thứ 6, Học viện Quân y. Anh đã có lòng say mê tìm hiểu sâu sắc lý luận cơ bản, lại hăng hái thực hành ứng dụng những kinh nghiệm hay của cổ nhân.

Mùa hè năm 1990, anh S. đưa một người em gái đến nhờ tôi chữa bệnh.

Anh nói với tôi: “ Thưa thầy, cô bé này là em họ cháu. Em bị bệnh viêm kết mạc hột, đã chữa ở bệnh viện địa phương lâu ngày không khỏi. Khi cháu về thăm quê, gia đình nhờ cháu đưa lên Hà Nội, tìm nơi chữa cho em. Cháu nghĩ, phải đến nhờ thầy thôi.” Tôi nói với anh S.: “Cháu nhận chữa cho em cháu đi. Tôi sẽ châm thử cho S. xem một lần. Số huyệt chữa bệnh này ít, huyệt lại dễ lấy. Thủ pháp thì tôi sẽ vừa làm vừa giải thích, S. có thể nắm được ngay, chẳng khó khăn gì nhiều đâu.” S. trình bầy: “Cháu đang ở vào giai đoạn kết thúc khoá học, nên cháu rất bận. Em cháu còn lại ít ngày nữa thôi, nếu khỏi bệnh mắt, em cháu sẽ được đi lao động ở Tiệp Khắc. Nếu mắt không khỏi, em cháu bị loại, sẽ bỏ phí một tiêu chuẩn ưu tiên cho con liệt sỹ. Vì vậy, cháu hy vọng, với kinh nghiệm và tay nghề của thầy, thầy có thể

giúp cho em cháu và gia đình được toại nguyện.” Nghe S. nói hoàn cảnh cần cấp như trên, tôi đã nhận lời S., chữa cho cô bé này.

Tôi hỏi cô bé về tình hình bệnh, cô kể bệnh của mình như sau : “Cháu bị bệnh này đã lâu. Ban đầu, cháu thấy trong mắt cháu như có cát bụi. Mắt cháu nhặm, ngứa, rất khó chịu. Mí mắt cháu cũng sưng lên. Cháu đi khám bệnh, các bác sỹ bảo cháu bị bệnh đau mắt hột. Cháu đã đến chữa ở khoa mắt, bệnh viện Việt Trì. Thời gian cháu chữa ở đây lâu dài đến nỗi, cháu đã thân quen với cô bác sỹ chủ nhiệm khoa mắt như người nhà. Cô bác sỹ ấy cũng thương cháu lắm. Khi cháu có tiêu chuẩn được đi lao động ở nước ngoài, ban tuyển chọn khám sức khoẻ cho cháu, họ nói: “Các chỉ tiêu sức khoẻ, cháu đều đạt yêu cầu, chỉ riêng mắt là có bệnh.” Người ta bảo cháu phải chữa khỏi mắt mới được đi. Cháu nhờ cô chủ nhiệm khoa mắt tìm mọi cách để chữa cho cháu. Cô nói: “Cô luôn mong muốn chữa khỏi bệnh cho cháu. Cháu thấy đấy, có loại thuốc mới nhất, tốt nhất về đến khoa, là cô đã dùng cho cháu rồi. Lần này có loại thuốc mới của Pháp vừa về, cô cho cháu dùng, nếu không khỏi được, cô cũng đành bó tay thôi.” Thế rồi, thuốc mới ấy cũng không chữa khỏi được bệnh của cháu. Cháu nghe anh cháu nói, thầy đã đi chiến trường B trở về. Bố cháu cũng đi bộ đội, nhưng bố cháu đã hy sinh. Ai cũng nói với cháu: “ Cháu được tiêu chuẩn đi nước ngoài lao động, đúng là nhờ ơn bố cháu phù hộ cho cháu đấy.” Cháu mong thầy cố gắng chữa giúp cháu khỏi bệnh, để cháu được đi đợt này. Cháu sợ rằng, nếu có sự gì thay đổi, cháu không được đi nữa thì cháu tiếc lắm bác ạ.”

Thấy cô bé giãi bầy như thế, tôi nói với cô: “Bác sẽ cố gắng giúp cháu.”

Trước khi châm chữa, tôi xem lại sách, ở phần Nhãn khoa, thấy sách ghi: “Bệnh này dân gian thường gọi là “bệnh đau mắt hột.” Là một loại bệnh mạn tính ở kết mạc, có tính lây lan. Nếu không tích cực phòng chữa, có thể xảy ra kèm theo các chứng khác. Bệnh nghiêm trọng có thể bị mù loà. Bệnh này thuộc phạm trù “mụn hạt tiêu” (tiêu sang), “mụn hạt giẻ” (lật sang), “rèm che buông” (thuỳ liêm chướng), “màng huyết bọc con ngươi” (huyết ế bào tinh) của Đông y. Thuộc về tỳ kinh thấp nhiệt, dẫn đến khí huyết ứ trệ ở mắt mà thành.

Diễn biến của bệnh:

1- Mới đầu, có thể không thấy cảm giác đặc thù, hoặc vẫn có phát ngứa các mức khác nhau. Có cảm giác dị vật vào mắt, chảy nước mắt, có một ít nhử mắt. Sau khi có sảy ra chứng kết hợp, các chứng trạng đã kể trên sẽ nặng hơn.

2 - Kết mạc mí trên sung huyết, nét huyết quản mơ hồ, lại có những bọc lọc (mụn hạt giẻ), những núm vú (mụn hạt tiêu) tồn tại. Thời gian sau có thể xuất hiện các vết sẹo màu trắng. Lại mọc huyết quản mới dạng rèm buông trên giác mạc (thuỳ liêm chướng), dần dần đi xâm phạm vào giữa giác mạc.

3 - Thời gian cuối có thể sinh ra lông quặm. Nghiêm trọng là giác mạc có

màng huyết quản che, (huyết ế bào tinh), loét giác mạc.

Để tiện kiểm tra rộng rãi, chữa rộng rãi, người ta chia bệnh mắt hột ra làm hai kỳ, lấy xuất hiện vết sẹo làm ranh giới.

* Mắt hột độ I : là thời kỳ tiến triển, chưa có sẹo.

* Mắt hột độ II : là thời kỳ đi xuống, đã có vết sẹo.

- Diện tích chưa qua 1/3 kết mạc mí mắt là : ( + ).

- Diện tích vượt qua 1/3 kết mạc mí mắt là : ( + + ).

Cho nên trong hồ sơ chẩn trị, ghi chép phân biệt như sau :

Mắt hột I “ + ” ; Mắt hột I “ ++ ”.

Mắt hột II “ + ” ; Mắt hột II “ ++ ”.

Tôi tiến hành chữa cho cô bé đó như sau:

Dùng hào kim, tôi châm theo phương kinh nghiệm của người xưa, gồm các huyệt: Phong trì, Tán trúc, Thái dương, Hợp cốc. Tôi chọn thủ pháp tổng hợp, lấy 4 loại: Từ tật, niệm chuyển, cửu lục, khai bế. Đều làm tả pháp, lão âm số (36 x 3 = 108). Tôi châm cho cháu được 10 lần thì bệnh đã khỏi.

Sau khi S. hoàn thành bài thi tốt nghiệp, anh đến thăm tôi, anh rất vui và nói: “Em cháu về đến nhà, đi khám sức khoẻ lần cuối, cô đã được chọn đi

nước ngoài đợt đó.” Anh S. đã chuyển lời cám ơn của gia đình tới tôi. Anh thân mật nói với tôi: “Cháu nghĩ là, chỉ có đến nhờ thầy mới có thể giải quyết được, thế mà đúng thật.”

Thưa các đồng nghiệp, phương huyệt dùng vào chữa ca bệnh viêm kết mạc hột tôi vừa kể trên đây, tôi còn dùng vào chữa nhiều ca bệnh viêm kết mạc cấp tính, viêm kết mạc mạn tính, bệnh mụn chắp mắt, đều khỏi cả. Xin các đồng nghiệp cứ làm thử, sẽ thấy nghiệm ngay. Có điều cần nhớ là, nên làm đúng thủ pháp như tôi đã làm.

44 - Chữa bệnh gút bằng thuốc cây cỏ Việt Nam

Mùa hè năm 2005 vừa qua, trên các báo hàng ngày, báo tuần, xuất bản ở Hà Nội, đều đăng bài có nội dung về việc ông sư giả mạo L. Q. H. chữa bệnh gút cho tiến sỹ y khoa Ng. H. K.. Báo viết về lời của ông K. tả lại, ông H. đã tiêm cho ông một mũi thuốc biệt dược, với số tiền là 12 ngàn đô la. Ông K. thấy, sau khi được tiêm, bệnh ông có đỡ, nhưng chưa biết được bệnh có khỏi lâu dài hay không. Điều mà ông K. còn băn khoăn, đó là: Không biết tên thuốc, thành phần của thuốc ra sao, và xuất xứ của thuốc do hãng nào, nước nào sản xuất.

Nhận thấy ở nước ta có nhiều người bị bệnh gút, bệnh gây ra rất đau đớn, lại được coi là bệnh khó chữa. Từ nhiều năm nay, tôi đã để tâm tìm hiểu, thu lượm bài thuốc dân gian, bằng cây cỏ nước ta, tiến hành chữa thử cho một số người bị bệnh này. Người nào đã được tôi chỉ cho họ cách tự làm thuốc chữa cho mình, họ cũng đều khỏi cả. Nay tôi muốn phổ biến bài thuốc kinh nghiệm này đến mọi người. Tôi xin kể một trường hợp cụ thể, mong đồng nghiệp có thêm niềm tin.

Cụ K. ở cụm dân cư số 9, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà

Nội. Nhà cụ cùng khu tập thể tôi ở hiện nay, nhưng bên dãy nhà A 5, tầng một. Tôi ở tầng hai, đầu dãy A 3. Từ cửa sổ đầu hồi nhà tôi, tôi nhìn xuống cửa chính nhà cụ rất rõ. Cụ hơn tôi chừng dăm tuổi, nhưng người cụ nhỏ nhẹ, và cụ còn rất nhanh nhẹn. Chúng tôi thường quan hệ, giúp đỡ nhau những chuyện nhỏ trong đời sống hàng ngày.

Một hôm, vào mùa hè năm 2004, khi tôi đi chợ, qua ngách nhỏ gần nhà cụ, gặp cụ từ chợ về. Cụ gọi tôi đứng lại và hỏi tôi về bệnh tật của cụ. Cụ kéo ống quần chân trái lên, để lộ từ bắp chân trở xuống cho tôi xem. Cụ nói: “Ông thầy thử xem giúp tôi, chân tôi sưng đau như thế này, vậy nó là bệnh gì ?.” Một phần, vì gặp nhau ngay giữa nơi nghách hẹp, không tiện đứng lâu xem chân cụ được. Phần nữa, tôi cũng muốn cụ đi khám ở cơ sở y tế, để có được chẩn đoán chắc chắn, sau đó tôi mới bàn với cụ về phương án chữa cho tiện lợi nhất. Vì thế tôi đã hỏi cụ: “Chân cụ bị sưng đau như thế này mấy hôm rồi ?.” Cụ nói: “Mới hai ba hôm nay thôi.” Tôi khuyên cụ: “Chân cụ sưng đau thế này, có thể là do nhiều loại bênh khác nhau gây ra, cụ nên đi khám ở bảo hiểm y tế ngay. Khám xong, cụ về cho tôi biết, họ chẩn đoán bệnh của cụ thế nào. Cụ đừng cho họ tiêm thuốc, cũng đừng uống thuốc gì, như thế, khi tôi xem xong mới dám bàn với cụ.”

Tối hôm đó, cụ gặp tôi và nói: “Họ chẩn đoán là tôi bị bệnh gút.” Tôi

nói với cụ: “Thế thì không đáng ngại.” Cụ hỏi tôi: “Nghe nói bệnh này khó chữa lắm phải không ông thầy ?.” Tôi nói với cụ: “Ngày mai cụ phải

đặt ở hàng thuốc Nam, mua loại lá mơ dại, mua được càng nhiều càng tốt.

Khi có lá thuốc về, tôi sẽ hướng dẫn cụ cách chế biến để sắc uống.”

Về đến nhà, tôi mở sách, xem lại những thông tin chính về bệnh gút, để đối chiếu với chứng đau ở chân cụ.

Trong cuốn sách “Sổ tay lâm sàng.” của Nhà xuất bản Y học Hà Nội năm

1994, có những thông tin chính như sau:

“Định nghĩa : Rối loạn chuyển hoá a xít u ríc, thường do nguồn gốc gia đình có đặc trưng a xít u ríc máu tăng, biểu hiện bằng những cơn đau khớp cấp, u rát kết tủa dưới da ở quanh các khớp

(cục u rát) và tổn thương thận.

Bệnh căn : Sự liên quan giữa tăng a xít u ríc máu và những biểu hiện ở khớp của bệnh gút chưa được biết rõ. Thực tế, tăng a xít u ríc máu có thể hoàn toàn không có triệu chứng, hình như những biến đổi nhanh của a xít u ríc máu thuận lợi cho sự kết tủa u rát.

1 - Bệnh gút tiên phát : Tăng a xit u ríc máu do sản xuất tăng và hoặc do a xít u ríc bài xuất giảm. Trong 10 - 20% các trường hợp, thấy có tiền sử gia đình trong tiền sử bệnh. Những khiếm khuyết di truyền của một số en zim đã được xác định trong một số trường hợp (xem tăng a xít u ríc máu di

truyền). Gần như là bệnh gút chỉ gặp ở đàn ông (95% các trường hợp) từ 30

tuổi; ở phụ nữ chỉ gặp ở tuổi mãn kinh.

2 - Bệnh gút thứ phát: (lược)…

... Triệu chứng : Tiến triển của bệnh gút tiên phát thường rất chậm và đặc trưng bởi các cơn đau của bệnh gút cấp : Sau một bữa ăn quá thịnh soạn, mệt mỏi thể chất hoặc chấn thương cục bộ. Khoảng cách tự do ngày càng ngắn lại.

Cơn gút cấp (viêm khớp cấp) : Cơn đau đánh thức người bệnh vào khoảng 2 giờ sáng. Trong đa số trường hợp, đau ở ngón chân cái (khớp

xương bàn chân - đốt một ngón chân). Các nơi khác cũng có thể bị : Háng, đầu gối, tay. Lúc đầu, đau vừa phải, sau đó tăng dần rồi đau ghê gớm. Người bệnh giãy giụa và tăng cảm giác khiến không chịu đựng được sức nặng của chăn đắp trên người. Khám tại chỗ thương tổn, khớp sưng đỏ màu rượu vang (rouge - vineux), bóng, phù cứng và đàn hồi. Thường đau giảm về buổi sáng rồi lại đau lại, ngày càng giảm cường độ những đêm sau; thấy xuất hiện vẩy cám ở da trên khớp thương tổn. Toàn bộ các triệu chứng này hợp thành cơn đau của bệnh gút, cơn đau có thể kéo dài chỉ một đêm hoặc kéo dài vài tuần ...”

Bệnh gút là tên của y học hiện đại, thuộc phạm trù bệnh “Phong

thấp”, loại hình “Phong thấp nhiệt chứng.” Về hình thái, bệnh đau ở khớp

ngón chân cái nối với bàn chân, nơi có hai kinh can, tỳ đi qua. Giờ phát cơn

đau lại vào giờ sửu (1- 3 giờ sáng), giờ và đường kinh phù hợp (hợi tiêu, tý đảm, sửu can thông). Trong nhiều năm, tôi theo dõi bệnh này bằng đo nhiệt độ kinh lạc, thấy ở bệnh gút và bệnh thấp khớp nói chung, trên hai kinh đại trường và kinh can đều có số nhiệt chỉ mức bệnh lý. Kết hợp với vấn chẩn, những người này đều có tiền sử hoặc đang cùng có bệnh viêm đại tràng mạn tính. Lúc đầu do tôi dùng bài thuốc dân gian, cho sắc lá mơ dại uống, chữa khỏi nhiều người bệnh viêm đại tràng mạn tính. Sau dần, tôi dùng sang chữa cho người có bệnh thấp khớp và bệnh gút uống, họ đều khỏi cả. Cách dùng bài thuốc này là : Lá mơ dại thu hái về còn tươi, sau khi loại bỏ lá sâu và các loại lá tạp, ta đem băm cả dây, lá cho ngắn ra, phơi khô, sao vàng, hạ thổ. Mỗi ấm thuốc, lấy lượng bằng một bốc tay (khoảng 40gr), đổ thêm nước, sắc đặc. Mỗi ngày sắc một ấm, uống hai lần trong ngày.

Ngay ngày đầu, sau khi người bệnh uống thuốc, cơn đau đã giảm nhẹ.

Từ 4 đến 6 ngày sau, có thể dứt hẳn đau đớn. Nhưng tôi khuyên người bệnh

phải kiên trì uống lâu dài.

Cụ K. uống thuốc được chừng một tháng, do phải ăn kiêng lâu, cụ đã thấy thèm thịt cá. Cụ hỏi tôi: “Tôi không thấy đau nữa, liệu tôi còn phải ăn kiêng hay thôi?” Tôi nói với cụ: “Theo tôi nghĩ, cụ cứ nên ăn kiêng thêm một thời gian nữa. Khi cụ uống thuốc được đủ ba tháng, cụ hãy ăn thử ít một, sau tăng dần lên.”

Đến nay, sau hơn một năm rưỡi, cụ K. không thấy đau lại. Hằng ngày cụ vẫn chăm chỉ thức khuya, dậy sớm. Cụ cùng với cụ bà lo cho nồi bún nấu của hai cụ được khách ăn ngon miệng, cũng là ích xã hội, lợi nhà.

Ngày 15 tháng 11 năm 2005, Tỉnh hội Y học cổ truyền Hà Tây tổ chức hội nghị đại biểu, nghe Giám đốc Trung tâm Y tế Thị xã Hà Đông báo cáo chuyên đề: “Chẩn bệnh bằng máy đo nhiệt độ kinh lạc .” Trong cuộc hội nghị này, tôi đã giới thiệu bài thuốc “Dùng lá mơ dại để chữa bệnh gút”, trước các vị lương y lão thành trong tỉnh Hà Tây và ông Lê Lương Đống, Quyền vụ trưởng Vụ Y học cổ truyền, Bộ Y tế. Hy vọng người bị bệnh gút trong tỉnh Hà Tây sớm được chữa khỏi bằng thứ cây cỏ Việt Nam quanh vườn nhà, không phải tốn nhiều đô la để mua thuốc ngoại nhập về để chữa bệnh này.

45 - Chữa bệnh viêm da thần kinh cấp tính

Khoảng giữa mùa đông năm 2004, bà H. T. P., nhà ở thành phố Nam Định, bà đến nhờ tôi chữa bệnh viêm da thần kinh (bệnh zô na thần kinh) của bà.

Bà kể bệnh với tôi: “Em bị bệnh nổi mụn nước, đau rát như bị bỏng trên người. Lúc đầu, em tưởng mình bị bệnh dị ứng. Em đi khám bệnh, họ nói em bị bệnh zô na thần kinh. Người ta cho em thuốc kháng sinh về uống trong, thuốc bột đắp ngoài ở những chỗ mụn nước đã vỡ ra. Uống thuốc và đắp thuốc đã mấy ngày, nhưng không thấy đỡ đau rát. Em lên Hà Nội, đến nhà con gái em. Cháu nhìn thấy mụn trên người em bê bết lại, cháu bắt em đi tắm. Cháu xoa xà phòng lên khắp người em rồi kỳ cọ, làm cho mụn đắp thuốc bột đã khô thì bở ra, mụn phồng căng nước thì dập nát. Vì thế, đau đớn lại càng tăng thêm nhiều hơn.”

Khi khám lâm sàng, tôi thấy ở vùng bên phải lưng trên của bà có mảng da sưng mầu đỏ. Trên mảng da đó nổi nhiều mụn phồng chứa nước trong, to nhỏ không đều. Vùng da sưng rải rộng từ khoảng Đ4 - Đ6 sang phải, qua phía dưới xương bả vai, vòng qua dưới nách, sang đến phía trên vú bên phải. Có một số mụn đã vỡ, được đắp thuốc bột, tạo thành lớp vảy cứng.

Theo Đông y học, bệnh viêm da thần kinh có các tên “ngoan tiên” (ghẻ lì lợm), “can tiên” (ghẻ khô), “ngưu bì tiên” (ghẻ da trâu). Thoạt đầu là phong nhiệt tà vướng trệ ở da dẻ, lâu ngày phong thắng thì huyết táo, da dẻ mất đi sự nuôi dưỡng thì da thô, dầy như da trâu.

Đối chiếu với biện chứng thí trị, bệnh của bà P. thuộc loại “phong nhiệt hình”. Là thời kỳ đầu của viêm da thần kinh, điểm mụn thưa khắp, sắc da hơi hồng, ngứa gãi, dạng rêu hoá chưa rõ ràng. Hoặc kích thích quá mức, có chứng viêm cấp tính.

Tôi châm cho bệnh nhân phương huyệt như sau : Lấy các huyệt Đốc du, Cách du, Chí dương, Dương lăng tuyền, Khúc trì, Huyết hải. Các huyệt này có tác dụng trừ phong tà nhiệt vướng trệ ở da dẻ. Do diện tích vùng mụn đau rải rộng, tôi phải lấy thêm một số huyệt tại chỗ là Thần đường, I hi, Đại bao, Thiên khê, ưng song để tăng cường tác dung điều trị. Lại lấy huyệt Khích môn để dứt chứng đau rát như bị bỏng (tác dụng đăc hiệu chữa bỏng rát của huyệt Khích môn trên kinh tâm bào lạc là do lương y Mậu Thị Mùi cung cấp cho tôi, tôi đã dùng chữa cho nhiều người bị bỏng nhẹ, kết quả đều dứt đau rát rất nhanh, vết thương cũng mau lành hơn). Các huyệt trên đều làm thủ pháp tổng hợp của năm loại : Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục và khai bế. Đều làm tả pháp, lão âm số (36 x 3 = 108). Những mụn phồng căng nước, tôi dùng mũi hào kim chích nhẹ, đem bông thấm hút hết nước

cho da xẹp xuống, đề phòng mụn vỡ mất da, làm thành mụn loét hở da. Sau ngày châm đầu tiên, cảm giác bỏng rát đã mất đi. Các ngày tiếp theo, sắc da sưng đỏ giảm dần, mụn đắp thuốc bột, đóng vảy đã khô đi. Mụn phổng nước được chích thấm hút nước, da đã bám dính vào thịt và khô dần. Đến đây, tôi hướng dẫn bệnh nhân cách tự làm thuốc chống vết sẹo thành da cứng, khi bệnh đã khỏi. Cách làm là : Tìm mua một bụi cây hoa huệ, bỏ cây lá, lấy củ. Củ huệ sau khi đã được rửa sạch, hong cho ráo nước, đem thái lát mỏng, cho vào bình, đổ rượu vào, nút kín. Ngâm năm, bẩy ngày thì có thể đem dùng. Tôi dặn bà : “Khi các mụn sắp bong vảy, lấy bông tẩm rượu này chấm vào vảy mụn. Mỗi ngày chấm rượu thuốc vài ba lần” (bài thuốc trên đây do môn sinh Nguyễn Duy Anh đã cung cấp cho tôi). Thời gian tôi châm chữa cho bà P. hết ba tuần lễ, bệnh của bà đã khỏi.

Khi bà khỏi bệnh, vảy mụn bong đi, da nơi ấy nhìn thấy bình thường như

những nơi chưa bị bệnh. Bà rất mừng. Bà thấy không phải như người ta đã nói với bà: “Bệnh này thường phải chữa hàng năm trời may ra mới có thể khỏi được.”

Sau tết ít ngày, bà P. tiếp tục nhờ tôi chữa chứng mỡ trong máu cao, đường trong máu cao của bà. Ngày 21 tháng 2 năm 2005, sau khi được châm chữa, bà P. ra về. Bà về đến ngang cổng chùa Kh. Tr., bất ngờ người bạn cũ của bà ngồi bán nước trên lề đường đã nhìn thấy bà, bà bạn vồn vã mời bà P. vào ghế ngồi uống nước. Người bạn đó thân mật hỏi bà P.: “Đã lâu không gặp nhau, nay vì lý do gì mà P. đến vùng này để cho tôi và P. được gặp nhau ở đây.” Bà P. nói với bạn mình rằng, bà đi chữa bệnh. Người bạn hỏi bà P.: “Đi chữa bệnh thì P. phải đến bệnh viện chứ!” Bà P. đáp: “Đã đi rồi, nhưng thuốc của bênh viện chữa không khỏi.” Bà kể với người bạn rằng, bệnh zô na thần kinh đã làm cho bà đau đớn, khó chịu. Thế mà bà đến đây châm cứu, bệnh của bà đã khỏi. Nay bà đi chữa tiếp các bệnh còn lại. Bà vừa kể đến đây, một người đàn ông ngồi cạnh bà chủ bàn nước quay lại nói với bà P.: “Em là em trai của chị em đây (ông vừa nói vừa chỉ vào bà chủ bàn nước), em cũng bị bênh zô na thần kinh từ hơn một năm nay. Vết mụn thì em đã được chữa khỏi, nhưng cơn đau rát như bị bỏng thì vẫn còn đau nhiều. Hai chị đã quen nhau, mong chị cũng coi em như em của chị, chị giúp đưa em vào nhà ông thầy, xin ông thầy chữa cho em.” Bà P. vì nể bạn, nhưng bà chỉ nói cho ông này biết nhà tôi để ông tự vào gặp tôi (bà đã biết cách làm việc của tôi, ít khi tôi tiếp khách không có hẹn trước). Ông này vào nhà tôi, sau câu chào hỏi, ông kể lại việc ông may mắn vừa được gặp bà P., nhờ bà P. chỉ lối, ông mới đến được đây xin chữa bệnh. Ông khai tên là Th. Tr. H., ở số nhà x x, đường 6, phố Phong Sơn, phường Thanh Bình, thị xã Ninh Bình. Ông đến thăm chị tại phường này. Khi tôi

thăm khám cho ông, thấy nơi ông chỉ ở bên trái, vách trước lồng ngực của ông, vết của bệnh cũ đã thành sẹo rắn cứng. Nhưng theo ông kể, cơn đau rát như bị bỏng vẫn còn nguyên vẹn. Tôi nhận lời chữa bệnh cho ông H. Phương huyệt chính tôi dùng để châm cho ông Học, cũng là phương đã chữa cho bà P., chỉ khác là đã bỏ bớt đi những huyệt tại chỗ, riêng vùng bệnh của bà P. Châm xong, ông Học liền thấy dứt cơn đau rát, ông rất lấy làm lạ lùng. Ông trả tiền công khám chữa xong, ông xin với tôi, vì đã có hẹn

ở nhà, nên trưa nay ông phải về. Khi thu xếp xong công việc, ông sẽ lên ngay, nhờ tôi chữa cho bệnh ông được khỏi hẳn, ông mới thật yên tâm làm ăn.

46 - Chữa bệnh núm vú thụt vào trong bầu vú, con bú không được

ở Hà Nội, trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, nhiều người làm nghề Đông y châm cứu biết đến tên anh Ng. D. A. Nhà D. A. ở khu tập thể cục đ. ả., ngõ 72, đường H. H. T., quận Ba Đình, Hà Nội. D. A. làm nghề châm cứu chữa bệnh, và làm đầu mối cung cấp máy đo nhiệt độ da đơn chiếc. Những người theo học phương pháp đo nhiệt độ kinh lạc để chẩn đoán bệnh của tôi, phần lớn đã mua máy ở anh. Nhờ đó phương pháp chẩn bệnh bằng đo nhiệt độ kinh lạc đã được nhiều lương y trẻ ứng dụng. Ng. D. A. là một sỹ quan trẻ của quân đội, anh đã phục viên. Cô y sỹ Ki.Y. làm việc ở Phòng Y tế phường Đ. C. đưa D. A. đến gặp tôi, cô xin cho D. A. học lớp Đông y châm cứu khoá 9 (1990 - 1991) do tôi hướng dẫn.

Vào một ngày mùa hè năm 1999, D. A. đến gặp tôi, xin phép hỏi tôi cách chữa một ca bệnh khó. D. A. kể rằng, người bênh là một phụ nữ sinh con lần đầu. Chị có bầu sữa tốt, nhưng vì núm vú bị thụt vào trong, nên cháu bé không bú được. Cảnh con thì bụng đói, mẹ lại thừa sữa, gây ra căng thẳng, khó chịu. D. A. đã dùng hết mọi hiểu biết của mình về bài thuốc, huyệt châm, ứng dụng suốt mấy ngày liền, nhưng chưa đi tới thành công.

Thấy đây là một trường hợp khẩn cấp, tôi nói với D. A.: “Hãy về thuê người tìm tổ chim sẻ, moi lấy mươi viên phân của nó, đưa đến đây, tôi sẽ hướng dẫn cách chế thuốc để chữa cho họ.” Hôm sau D. A. đến thưa lại, anh đã thuê người đi tìm, nhưng gặp phải toàn là tổ chim đã cũ. Người ta cho biết, những năm gần đây có nhiều người dùng súng hơi. Họ săn ngày, săn đêm, đến nỗi hầu như Hà Nội không còn chim sẻ nữa.

Tôi lại mách cho D. A., hãy ra chợ Bắc Qua, mua một con chim sẻ có sẵn trong lồng, họ thường bán cho người nuôi chim cảnh. D. A. đi mua ngay được một con chim đem về. Nhưng ngày hôm đó và cả ngày hôm sau,

chim sẻ chỉ cho ra phân lỏng, nhão. Thì ra, chim này người bán hàng đã nuôi nó bằng giống sâu Trung Quốc. D. A. lại đến gặp tôi đứng gãi đầu, gãi tai than vãn. Thấy cảnh khó khăn của của D. A., tôi lấy giấy bút ra ghi tờ đơn độc vị: “Bạch đinh hương - 5 đồng cân.” Tôi giao đơn thuốc cho D. A. và nói : “Hãy lên ngay hiệu Toàn Mỹ, 56 phố Lãn Ông để mua.” Tôi dặn thêm D. A.: “Khi có thuốc về, hãy loại bỏ viên tròn (là phân chim sẻ cái), chọn lấy những viên phân dài nhọn hai đầu (là phân chim sẻ đực), có nhiều màng màu trắng bám bên ngoài, dùng mới tốt. Lấy một chiếc panh, cặp viên thuốc, hơ bên cạnh ngọn nến (không hơ trên lửa), sấy cho viên thuốc nóng lên, không được hơ nóng quá. Thử vào tay mình để thấy chịu được, lúc ấy, hãy kịp thời cầm viên thuốc đưa lên, để ngang vào khe giữa hai môi cháu, dùng ngón tay đẩy lăn viên thuốc qua, lại, sang hai phía khoé mép của

cháu. Khi thấy cháu bé mím hai môi lại, thì ngay lập tức, bỏ thuốc đi, bảo người mẹ cho đầu vú vào miệng đứa trẻ. Đứa trẻ sẽ mút rất mạnh, chỉ trong giây lát núm vú người mẹ sẽ lồi hẳn ra, từ đó cháu bé sẽ bú được.”

Cuối tuần, D. A. đến khoe với tôi: “Em về mua được vị thuốc đó, em làm theo đúng lời thày dặn, chữa cho người bệnh đã thành công. Tiếp theo bệnh nhân ấy, có hai bệnh nhân nữa cũng cùng cảnh ngộ, họ theo sự mách bảo nhau mà tìm đến, em đều chữa được cả.” Ngừng một vài giây, bỗng D. A. đột ngột hỏi tôi: “Lạ thật, em xin hỏi thầy, làm sao mà thầy biết được cách chữa bệnh bằng thuốc này?” Thấy câu hỏi của D. A. rất đáng buồn cười, nhưng lại rất thành thật, tôi nói với D. A.: “Đọc sách, chịu khó mà đọc sách. Tôi nhờ đọc sách mà biết được bài thuốc dùng Bạch đinh hương chữa bệnh này. Tính từ đó đến ngày nay đã hơn 30 năm. Nếu nói về giá trị của nó, chỉ riêng công lưu trữ thông tin trong kho não, bảo quản cho thông tin không bị hư hỏng, anh cũng đã phải trả cho tôi một khoản kinh phí không nhỏ đâu.”

Tôi nhắc lại cho D. A. biết kinh nghiệm đọc sách của tôi: “Phải đọc nhiều, có khi quyển sách dày hàng mấy trăm trang, ta chỉ thâu lượm được một hai bài. Nhưng ở hoàn cảnh nào đó, giá trị của nó, không nhỏ đâu.” Tôi nói thêm: “Ngoài ra phải thành thật học hỏi mọi người, mọi lúc, mọi

nơi.” Tôi nhắc lại câu của người xưa đã dậy: “Cái mình chưa biết, trước mình đã có hàng vạn người biết; sau mình còn có hàng vạn người sẽ biết. Cái mình đã biết, trước mình đã có hàng vạn người biết; sau mình còn có hàng vạn người sẽ biết. Chỉ có điều là mình có biết là họ biết hay không.”

Tôi giải thích cho D. A. về vị Bạch đinh hương như sau : Theo sách:

“Dược tính chỉ nam”, Bạch đinh hương còn có tên “Hoàng tước thỉ,” “Thanh đan,” “Tước tô.” Có sách lại viết: “Trông nó giống như cái nụ đinh hương, màu trắng, nên gọi là Bạch đinh hương.” Cách lấy chất bạch đinh hương làm thuốc chữa bệnh bạch hầu là : Về mùa hanh khô, khi lấy được nhiều phân chim sẻ, đem bỏ vào rổ, sàng bỏ hết rơm rác. Kê một chiếc bàn gỗ (mặt bàn sơn véc ni nhẵn) ở chỗ nắng, nhưng khuất gió. Dùng khăn sạch, ướt, lau mặt bàn. Khi mặt bàn còn ẩm, đổ phân chim sẻ lên, dùng đũa đảo qua, đảo lại, mặt bàn ẩm sẽ hút hết chất màng trắng bám ngoài viên phân xuống. Khi thấy viên phân không còn màng trắng nữa, gạt hết viên phân đi. Đợi cho mặt bàn khô, phải bịt mũi, miệng bằng khẩu trang, tay cầm chổi lông mềm, nhẹ nhàng vun chất bột trắng gọn lại. Không được nói, thở lớn, hoặc dùng chổi mạnh tay, làm cho bột thuốc bay đi mất. Sau đó lấy nước cơm rẩy lên bột thuốc, trộn đều, làm thành viên, nhỏ như hạt vừng. Đem thuốc phơi thật khô, cho vào lọ, nút kín để dành. Khi có bệnh nhân bạch hầu, lấy 1 đến 3 viên, hoà với một thìa nước, đổ cho uống, lập tức màng giả ở họng bong ra, người bệnh sẽ thở được, bệnh sẽ khỏi dần.

Hôm tôi nói chuyện với D. A. về cách chữa bệnh núm vú thụt vào trong, con nhỏ không bú được, bằng dùng thuốc phân chim sẻ, lúc đó có chị Tr. Th. H., cán bộ trường Q. t. Hà Nội cùng nghe. Sau đó ít lâu, chị H. cũng đã mách cho người bạn gái của mình làm theo như lời chị dặn, chị bạn ấy đã tự chữa khỏi bệnh cho mình. Gia đình chị bạn vô cùng cảm ơn chị H. và khen chị H. giỏi nghề Đông y. Chị H. kể lại chuyện này với tôi một cách rất vui vẻ và nói: “Không có thầy, làm sao mà em biết được.”

47 - Chữa bệnh viêm âm đạo do nấm

Tháng 8 năm 1976, cô Ng. T. T., người làng Hữu Định, xã Quang Minh, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc cũ (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) đưa người bạn gái cùng xã, tên là Th. đến nhà tôi, nhờ tôi chữa bệnh.

Việc đầu tiên tôi phải hỏi hai cô về điều kiện ăn ở của họ: “Các cô đã nhờ được nơi ăn ở chưa?” Cô T. nói: “Chúng em ở nhà chị Tư, trong tập thể Đ. s., khu tập thể V. Ch.. Nhà chị ấy cũng chật chội, nhưng có bác hàng xóm cùng cơ quan chị ấy, bác cho chúng em ngủ nhờ bên nhà bác, chúng em cũng thoải mái anh ạ.”

Thấy cô T. nói thế, tôi tạm yên tâm nhận chữa bệnh cho hai cô.

Cô T. bị bệnh đau lưng, một bệnh mà phần lớn người lao động thường mắc phải. Bệnh này cũng dễ chữa. Sau khi chữa khỏi, chủ yếu là phải hướng dẫn người bệnh cách phòng tránh. Chỉ cho họ những tư thế, động tác gây tổn hại đến đĩa đệm cột sống, giây chằng cột sống, để họ lao động được tốt, sức khoẻ được ổn định lâu dài.

Riêng bệnh của cô Th. là một loại bệnh khó, nên tôi ghi lại để đồng

nghiệp tham khảo.

Cô Th. kể về bệnh của mình như sau: “Em bị bệnh này đã mấy tháng rồi. Lúc đầu, em thấy ra nhiều khí hư, ngứa ngáy, rất khó chịu. Em đi khám phụ khoa tại Bệnh viện huyện Hiệp Hòa, ở phố Thắng, người ta cho em dùng thuốc rửa ngoài và thuốc kháng sinh đặt vào trong âm đạo hàng ngày. Chữa như thế chừng

hai tháng, bệnh không thấy đỡ, các bác sỹ cho em chuyển sang Khoa Đông y. Các cô ở Khoa Đông y cho em rửa bằng nước tỏi, lại lấy bông tẩm nước tỏi, đặt sâu vào trong âm đạo, mỗi ngày một lần. Chữa bằng nước tỏi được một tuần lễ, không những bệnh không đỡ, em lại thấy bị nóng rát hơn, nên em xin về để tìm cách chữa bằng thuốc Nam. Em gặp chị T., chị ấy sang bàn với gia đình chồng em, cho em đi cùng chị xuống đây, nhờ anh chữa cho em, nhân thể, chị cũng đi chữa bệnh đau lưng của chị ấy.

Cô T. và cô Th. tuy đều đã có chồng, nhưng tuổi của hai cô chỉ mới chừng trên hoặc dưới đôi mươi, nên tôi phải nói với hai cô: “Cô T; còn nhớ chứ, khi tôi sơ tán ở thôn Hữu Định, mỗi khi chữa bệnh cho phụ nữ, nhất thiết phải có mặt của một người nữ là người nhà hoặc bạn của bệnh nhân.

Về đây cũng cần giữ nguyên tắc ấy, bởi vì tôi chỉ chữa bệnh ngoài giờ, lại ở nhà riêng, phải lo tránh những điều phiền nhiễu. Nếu bệnh của cô T; có khỏi nhanh hơn cô Th., cô T. vẫn phải chờ tôi chữa cho cô Th. khỏi, hai chị em mới được cùng về.” Hai cô chấp nhận lời tôi nói. Sau đó, tôi chuẩn bị khám cho cô Th.

Xin nói qua về bệnh học phụ khoa Đông y, ở bài “Chứng viêm âm đạo

do nấm”, sách viết như sau :

“ở âm đạo phụ nữ chảy ra vật bài tiết sắc trắng, sắc vàng, hoặc trắng lẫn vàng, liên miên không dứt, hoặc lượng nhiều dầm dề, gọi là “khí hư” (đới hạ). Bệnh do mạch đới mất ước (hạn chế), nhâm mạch không cố (không chắc), thấp trọc rót xuống mà thành. Bao gồm các loại chứng viêm, hoặc chứng ung thư bộ máy sinh dục.

*Đặc điểm chủ yếu của các loại khí hư :

1 - Chú ý quan sát màu sắc của khí hư : Chất lỏng hay đậm đặc, lượng nhiều hay ít, có hay không có mùi hôi. Cần phân biệt với người phụ nữ có một ít vật bài tiết từ âm đạo sắc trắng, hoặc sắc vàng nhạt; ở thời gian tuổi trẻ, trước và sau lúc hành kinh, thời gian giữa chu kỳ hành kinh hoặc thời gian mang thai, vật bài tiết hơi tăng nhiều, đó là hiện tượng bình thường.

2 - Khí hư sắc vàng hoặc xanh như dạng bóng bọt, lượng nhiều, có mùi hôi, kiêm có ngứa trong âm đạo và ngoài âm đạo, hoặc thấy đau nhói, cần nghĩ đến viêm âm đạo do trùng roi. Có thể phải kiểm tra âm đạo và làm hoá

nghiệm chất khí hư.

3 - Khí hư ra sắc như sữa trắng, như bã đậu, lượng nhiều, có thấy ngứa vùng ngoài âm đạo và trong âm đạo, hoặc thấy đau nhói, cần nghĩ đến viêm âm đạo do nấm. Có thể làm kiểm tra âm đạo và làm hoá nghiệm chất khí hư.

4 - Khí hư lại hồng (huyết tính), phải nghĩ đến viêm cổ tử cung, cổ tử cung

có pô líp. Có thể làm kiểm tra cổ tử cung.

5 - Khí hư lẫn trắng, đỏ (huyết tính), hoặc như dạng mủ, có mùi hôi lạ, cần

loại trừ ung thư cổ tử cung, bằng cách sinh thiết kiểm tra...”

Khi khám lâm sàng cho cô Th., tôi thấy bệnh cô rất điển hình của chứng viêm âm đạo do nấm. Thoạt vừa nhìn đã thấy, từ phía trong môi nhỏ, đến phía ngoài môi lớn, da đều đỏ tươi như màu đỏ của chiếc lá bàng sắp rụng. Chất bã đậu to, nhỏ như cỡ hạt tấm, rải rác khắp nơi chốn trong vùng da đỏ tươi ấy. Chứng viêm âm đạo do nấm này thuộc về bệnh “khí hư thấp nhiệt chứng.”

Trước khi tiến hành châm chữa cho cô Th., tôi giải thích một nguyên nhân tự mình gây ra bệnh, đó là những chị em hay mặc đồ lót ẩm ướt. Người phụ nữ nông thôn, khi phơi đồ lót, chị em thường phơi vào chỗ kín đáo, bị che khuất. Do không được ánh nắng sấy khô, quần áo còn ẩm đã

được đem cất đi hoặc mặc vào người, ẩm mốc làm cho loài nấm phát triển, gây bệnh. Vì vậy, muốn chữa khỏi dứt bênh này, ngay trong khi chữa bệnh, người bênh phải đem đồ lót vừa thay ra, giặt sạch bằng xà phòng, sau đó đem luộc kỹ trong nước đun sôi chừng 15-20 phút, phơi thật khô rồi mới đựơc dùng lại. Về mùa mưa, quần áo phơi không được khô thật, cần phải hơ sấy trên lửa cho thật khô mới được đem dùng.

Phương huyệt tôi châm là: Đới mạch, Khí hải, Tam âm giao. Đây là nhóm huyệt chữa chứng khí hư rất hiệu quả. Thêm vào hai huyệt chữa thấp nhiệt là: Tỳ du, Âm lăng tuyền. Chứng ngứa gãi, đau nhói vùng âm hộ, âm đạo, tôi lấy huyệt Hội âm.

Dùng thủ pháp tổng hợp 5 loại: Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục và khai bế. Đều làm bổ pháp, lão dương số (27 x 3 = 81).

Ngay sau buổi châm lần đầu, đêm về bệnh nhân thấy chứng ngứa gãi, đau nhói đã giảm được quá nửa. Sau ba lần châm, chứng ngứa gãi, đau nhói dứt hẳn, sắc da không còn màu đỏ, đã trở lại gần như da bình thường. Chất bã đậu cũng còn lại rất ít. Châm cho bệnh nhân được đến lần thứ 7, cô T. nói với tôi: “Th. nó hết gạo rồi anh ạ, bệnh nó cũng khỏi rồi. Sáng mai chúng em xin phép về. Gặt lúa mùa xong, nếu chúng em còn có bệnh gì, chúng em lại xuống nhờ anh chữa tiếp cho. Chúng em đi chữa bệnh cũng phụ thuộc vào thời vụ anh ạ. Vả lại, kinh tế cũng có hạn, chẳng đi xa nhà được lâu đâu. May mà chúng em còn được ở nhờ nhà người làng đang làm việc ở Hà Nội, lại được anh chữa giúp. Nếu chúng em phải thuê nhà trọ hoặc phải mua thuốc ngoại nữa, làm sao chúng em dám đi chữa bệnh. Đành phải mang bệnh mãi thôi. Em nói thế, anh đừng cười chúng em nhé.” Chúng tôi cùng nhìn nhau cười vui vẻ. Tôi nhờ cô T. chuyển lời thăm hỏi gia đình ông Ng., chủ nhà nơi tôi ở nhờ, và thăm hỏi bà con trong thôn Hữu Định. Hồi chiến tranh chống Mỹ, cơ quan tôi đã sơ tán về ở đó suốt mấy năm trời.

Những năm 78 - 81, tôi dạy học ở Khoa Điêu khắc, trường Đại học Mỹ Thuật. Có cô sinh viên ngành Đ. K. đến nhờ tôi chữa bệnh này. Cô kể với tôi: “Em đã đi khám phụ khoa, họ cho em đặt thuốc kháng sinh hàng ngày. Nhưng em hay phải bỏ dở dang vì những đợt đi công tác xa Hà Nội. Chị bác sỹ điều trị cho em đã nói với em, bệnh này phải đặt kháng sinh hàng ngày, thật đều đặn, liên tục trong 2 năm liền, mới hy vọng khỏi bệnh. Nếu bỏ cách ngày nào không đặt kháng sinh, thời gian hai năm liên tục ấy phải bắt đầu tính từ ngày đặt lại thuốc.” Cô sinh viên này cũng đã được tôi chữa khỏi, mặc dù cô được chữa có số ít ngày, cô cũng không được chữa liên tục.

Rất nhiều bác sỹ nữ đã dùng bài này của tôi chữa cho bệnh nhân của họ,

họ đều giúp cho chị em khỏi bệnh cả.

48 - Chữa chứng trẻ em khóc đêm (dạ đề)

Ngày xưa có câu: “Cha mẹ nuôi con, công bằng trời, bằng bể.” Câu nói ấy chỉ về nỗi vất vả của tất cả các bậc cha mẹ đối với việc nuôi dạy con cái của mình. Nó càng đúng hơn, khi các bậc cha mẹ có những đứa con ốm yếu, hay bị các chứng sài đẹn... Đối với các cặp vợ chồng muộn mằn, hiếm hoi, khi sinh được một đứa con, đó vừa là nỗi mừng khôn tả xiết, nhưng cũng là nỗi niềm ước mong, lo lắng thường trực trong lòng. Mong sao ơn trời, con mình hay ăn, chóng lớn. Lo lắng cho con mỗi khi trái gió, trở trời. Chăm cho con từ thìa bột, miếng cơm, để con ăn được ngon miệng. Rồi đến tấm tã lót khô, sạch, thơm tho, đồ chơi đẹp đẽ,vui mắt cho con nhìn.

Ngày nay, các bậc làm cha mẹ còn rất trẻ, họ chưa được hướng dẫn đầy đủ những kiến thức cơ bản, cần thiết để chăm lo cho con cái mình. Cho nên, phần lớn trách nhiệm ấy thường được ông bà nội, ngoại, mở rộng vòng

tay ra đón lấy, như một sự tự nguyện thiêng liêng.

Vợ chồng vị đại tá, phó giáo sư, tiến sỹ Tr. Tr. B. là một cặp ông bà nội của thời đại mới như trên. Bởi vì, ông bà vừa mới có cháu đích tôn cách đây chưa lâu. Ông bà Tr. Tr. B. ở hoàn cảnh đã muộn, lại hiếm. Đến tuổi ngót bốn mươi, ông bà mới sinh được một cậu con trai. Với truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam, ông bà đặt tên cho cậu là Tr. M. H.. Cậu M. H. lớn lên trong sự chăm lo, dạy dỗ hết lòng của cha mẹ. Đáp lại tấm lòng của cha mẹ, cậu đã học hành ngoan ngoãn. Hết cấp phổ thông, cậu thi đỗ đại học, rồi đến tốt nghiệp đại học. ở cấp học nào, cậu cũng đều đạt mức điểm cao. Trước tết năm ngoái, cậu được ông bà giáo sư cho cậu xây dựng hạnh phúc. Tháng chạp vừa qua, vợ chồng cậu đã sinh cho ông bà nội một cháu bé trai, cháu đích tôn của ông bà.

Hồi 8 giờ tối ngày 14- 1 - 2006 vừa qua, tôi được ông B. nói qua điện

thoại, ông báo tin mừng về việc ông bà đã có cháu trai nội. Đồng thời ông hỏi tôi về chứng khóc đêm của cháu ông. Qua điện thoại, tôi nói với ông mấy cách chữa bệnh đó. Cuối câu chuyện, tôi khuyên ông nên dùng điếu ngải hơ trên huyệt Bách hội cho cháu.

Cách cứu bằng điếu ngải, tôi đã giới thiệu kỹ từ những ngày tôi cộng tác với đơn vị ông, cùng nhau làm đề tài cấp nhà nước, ông còn nhớ rất rõ. Ông cẩn thận nhắc lại cách cứu điếu ngải để tôi nghe xem ông nhớ còn đúng không. Ông nói : “Đốt điếu ngải, phải đợi cho mồi lửa cháy hồng khắp đầu điếu ngải. Tay cầm điếu ngải, cần có hai ngón tay 4-5 để lên đầu cháu bé làm cữ, sao cho mồi ngải cách huyệt khoảng 2-3 cm. Sức nóng từ điếu ngải xông xuống huyệt, làm cho da đầu cháu dần dần ửng hồng lên. Không được hơ gần qúa, sợ gây bỏng da đầu bé. Hơ khoảng 5-7 phút, da xung quanh

huyệt ửng hồng lên là được.” Tôi khen ông B : “Ông nhớ giỏi lắm.” Ông nói: “Thỉnh thoảng em vẫn tự cứu cho mình và người nhà để chữa những bệnh vặt, nên em còn nhớ chứ.”

Gần 10 giờ đêm 17-1- 2006, ông gọi điện thoại đến cảm ơn tôi, và ông nói: “Đêm đầu tiên, em hơ cho cháu, cháu đỡ khóc hơn một ít. Đêm thứ ha, em hơ xong, cháu khóc ít hẳn đi. Sau lần hơ đêm thứ ba, cháu không khóc nữa. May quá, cả nhà em thoát được nỗi khổ mất ngủ, mệt mỏi, vì phải thức theo cháu. Nhất là mẹ cháu và bà nội cháu.”

Ông cảm ơn tôi xong, ông lại hẹn với tôi, chừng ít ngày nữa ông sẽ đến

chơi thăm tôi. Ông tuy đã nghỉ hưu, nhưng không chịu nghỉ yên. Với khả năng ngoại ngữ thành thạo, ông luôn cộng tác với các đơn vị cần đến vốn liếng tiếng Nga của mình để ông phục vụ. Mỗi khi có điều kiện, ông lại ghé qua thăm tôi. Nhờ đó, tuy đã cách xa những ngày cộng tác ở Học viện Quân y hơn 20 năm, nhưng tình cảm giữa ông và tôi vẫn đằm thắm và tôn trọng lẫn nhau.

Tôi quý nhất ở ông là, lúc nào ông cũng tìm hiểu vấn đề một cách khoa học. Vì thế, chắc chắn buổi gặp sắp tới đây, ông sẽ hỏi tôi về nguyên nhân bệnh dạ đề của cháu nội ông. Cho nên tôi chuẩn bị tài liệu để cung cấp cho ông như sau:

Sách Đông y nhi khoa viết:

Dạ đề, nghĩa chữ là “kêu đêm”, một loại khóc không có nước mắt.

Trẻ em ban ngày thì yên tĩnh, ban đêm thì kêu khóc không yên. Đêm

nào cũng thế, giống như có quy luật, cho nên gọi là “dạ đề.”

Nếu như bởi có mụn ở miệng, do sữa làm hại; do phát sốt; hoặc trẻ mới được cai sữa; cho tới ban đêm có tập quán ưa nhìn đèn; hoặc bởi có sự thay đổi hoàn cảnh đã dẫn đến khóc đêm, đều không phụ thuộc phạm vi bài này, nên phân biệt để xử lý cho đúng.

Nguyên nhân bệnh:

Có ba nguyên nhân là : Tâm nhiệt, tỳ hàn và sợ hãi.

- Tâm nhiệt : Trẻ em mới sinh, do bẩm thụ nhiệt ẩn náu từ trong thai, tâm

hoả tích thịnh, thao nhiễu không yên, đưa đến khóc đêm.

- Tỳ hàn : Trẻ em mới sinh, bẩm phú bất túc, tỳ tạng hư hàn, ban đêm đến âm thịnh, khí trệ, tỳ không vận hoá, đến nỗi uất tích không thư. Hoặc do đau bụng kéo dài, kêu khóc không dứt.

- Sợ hãi : Trẻ em mới sinh, bởi thần khí non nớt, cảm xúc về tiếng động lạ, vật lạ, sợ hãi quá mức làm cho giấc ngủ không yên, khi phát sợ hãi thì khóc...”

Theo thời sinh học cổ Phương Đông, trẻ em sinh ra phạm giờ dạ đề, chúng đều có chứng khóc đêm. Cách tính trẻ sinh phạm giờ dạ đề như sau:

Mùa đông sinh giờ mão. Mùa xuân sinh giờ ngọ.

Mùa hạ sinh giờ dậu. Mùa thu sinh giờ tý.

Ngoài phương pháp chữa dạ đề bằng cứu ngải ở huyệt Bách hội ra, còn có bài thuốc khác dễ làm, không đòi hỏi kỹ thuật chuyên nghành như cứu ngải.

Sách “Y tông kim giám” chép tên bài thuốc là: “Thiền hoa tán.” Dược

vật và cách chế như sau :

Xác ve sầu (Thiền y), bỏ đầu, bỏ chân. Đem nghiền thuốc thành bột

nhỏ mịn.

Lấy 3 phân Bạc hà (khoảng 1gr) sắc nước. Ngoáy với bột xác ve sầu đã làm mịn, từ 1 đến 3 phân (khoảng 0,5 đến 1 gr), đổ cho trẻ uống.

Hy vọng ông B. có thể đem kinh nghiệm của bản thân đã chữa cho cháu mình, ông sẽ phổ biến cho nhiều người biết. Các bạn đồng nghiệp trẻ cũng như mọi bậc ông bà, cha mẹ trẻ, nếu đọc được bài viết này sẽ có một kinh nghiệm quý cho gia đình mình.

49 - Chữa bệnh ngoại cảm khó giải

Nhiều người đã biết đến tên cố nghệ sỹ điêu khắc quân đội Ng. M. Đ.. Có thể nói, ông là một tài năng về làm tượng Bác Hồ. Thủa sinh thời, ông quen biết tôi từ ngày ông được quân đội cử sang học tại trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội. Khi tôi nghỉ hưu, ông vẫn thường qua lại thăm tôi. Ông cũng cùng tôi tham gia đề tài nhà nước của Học viện Quân y. Chỉ vì, theo ông nói, trong người ông còn có chút di truyền từ cụ thân sinh ông để lại, đó là lòng yêu mến môn thuốc Nam chữa bệnh người Việt Nam.

Khoảng giữa năm 1983, một hôm ông đến chơi thăm tôi, ông khoe với tôi về một thành công mới của mình. Đó là việc ông vừa chữa khỏi bệnh cảm mạo dai dẳng cho một nhà văn, cùng phòng Văn nghệ Quân đội với ông. Trước khi kể vào nội dung, ông nói giáo đầu câu truyện với tôi như sau: “Anh Sửu này,

không hiểu là vì sao, mà, cứ mỗi khi anh nói với tôi một bài chữa bệnh gì đó, chỉ sau một vài ngày, tôi gặp ngay bệnh nhân như anh đã nói đến. Tôi châm cho họ những huyệt như anh dặn, đúng là bệnh khỏi, thế mới lạ chứ.” Sau đó ông kể: “Tuần trước cậu Đ.C. về phép. Vừa về hôm trước, hôm sau đã lên ngay đơn vị. Cậu ấy bị cảm sốt. Quân y đơn vị chữa mãi không khỏi.

Nhân lúc thăm hỏi nhau, Đ.C. kể về bệnh của mình: “Tuần trước, như các bạn đã thấy, trời nắng gay gắt như thế, tôi đi xe ô tô khách về đến huyện, lại đi bộ tiếp khoảng chừng năm cây số nữa mới về đến nhà. Trên người tôi mang quân phục chỉnh tề, đeo ba lô nặng trĩu, nóng từ mặt trời bên ngoài soi vào khắp người. Bên trong thì trái tim tôi tăng tốc, tăng lực bù đắp cho bước chân hăng hái, đã làm cho công sinh nhiệt bừng bừng. Mồ hôi tôi tuôn ra thành dòng, áo quần đều ướt đẫm. Về đến nhà, mới qua sân, tới bậc thềm, tôi chỉ kịp chào mẹ tôi một câu ngắn gọn. Sau đó, tôi vội đặt ba lô xuống, chạy ra chum nước mé sân. Việc đầu tiên tôi làm để giải nóng bức là, tay tôi cầm lấy cái cán gáo, vục gáo vào chum, múc một gáo nước đầy. Tôi cúi đầu xuống, dội nước từ phía sau đỉnh đầu cho nước chảy tràn xuống bốn phía :Trước trán, hai bên thái dương, hai tai. Cuối cùng, tất cả nước đều dồn xuống mặt mũi. Tay còn lại, tôi xoa lên mặt mũi cho nước mát ngấm vào da, cho mồ hôi trôi đi. Nước mưa được hứng từ cây cau, chum nước lại đặt dưới đất ẩm. Cạnh chum là những bụi cây rau thơm tươi tốt. Tất cả đã giữ cho nước trong chum mát lạnh là thế. Nhưng tôi phải dội lên đầu tôi tới gáo nước thứ ba, đến lúc ấy mới tạm dịu được cái nóng nực trời cho khi tôi đi trên đường. Kéo chiếc khăn mặt vắt sẵn trên vai đã ướt đẫm mồ hôi xuống, tôi thả vào cái chậu sắt tráng men hoa, dội nước, vò khăn cho sạch mồ hôi. Một tay tôi mở phanh cúc áo ngực, một tay thay nước sạch vào chậu. Rồi

sau đó, tôi dùng khăn vắt chưa khô hẳn, lau lên cổ, ngực, nách và hai cánh tay. Nước còn lại trong chậu được tôi vụm tay, vớt té lên hai ống chân để rửa cho sạch sẽ.

“Vào nhà chưa được bao lâu, tôi thấy đầu mình đau như búa bổ, mặt nóng bừng bừng, hơi thở ào ào. Suốt dọc xương sống tôi ớn lạnh như có gió lùa. Thế là tôi phải lên giường nằm. Mẹ tôi thấy con uể oải, mệt mỏi, cụ tới sờ vào đầu tôi và nói: “Con bị cảm rồi. Ban nãy nghe tiếng con chào mẹ, mẹ còn đang làm dở việc trong nhà. Khi ra đến cửa thì đã thấy con dội nước lên đầu, mẹ không kịp ngăn lại. Bây giờ các con đang lúc tuổi còn trẻ, sức còn khoẻ, không biết giữ gìn, nên muốn sao làm vậy. Ngày xưa, ông bà đã dặn mẹ : Khi đi nắng, làm việc ngoài nắng về, phải ngồi nghỉ ở nơi râm mát cho ráo mồ hôi, bấy giờ mới được rửa ráy, tắm gội. Lại còn phải nhớ, bất kể là giờ nào, mùa nào, trước khi tắm gội, phải dội nước cho ướt khắp hai bàn chân, tới cổ chân, sau đó mới được dội nước lên người. Có làm đúng như thế, mới tránh được cảm lạnh đột ngột. Chiều hôm đó mẹ tôi nấu cho tôi nồi cháo có hành tươi, tía tô thơm phức. Cụ còn đập vào bát cháo nóng một quả trứng gà nhà mới đẻ. Khuấy cho trứng tan đều trong cháo, cụ đưa cho tôi ăn. Tôi ăn xong bát cháo, mẹ tôi nói tôi nên nằm xuống. Cụ kéo chăn trùm lên người tôi và dặn tôi: “Con phải đắp kín chăn lên người cho ra được mồ hôi.” Tôi mệt quá, ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy thì trời đã tối hẳn. Mẹ tôi giục em tôi đi sắp cơm cho tôi ăn (cả nhà muốn để tôi nghỉ, nên đã ăn cơm trước), cơm của tôi, mẹ tôi đang ủ lại trong bếp cho nóng.

“Lúc này cơn sốt đã giảm, nhưng tôi không muốn ăn cơm. Mẹ tôi cũng

không ép tôi ăn. Cụ nói: “Nồi cháo mẹ nấu lúc chiều đang còn, khi nào con thấy đói, mẹ đun nóng lại cho con ăn.” Rồi cụ lại nói tiếp: “Con đã ăn cháo nóng, đắp chăn kín mít, thế mà không ra mồ hôi được, con bị cảm nặng rồi đấy.” Suốt đêm đó tôi chập chờn lúc tỉnh, lúc mê. Khi tỉnh, tôi thấy toàn thân đau như sâu cắn. Sáng hôm sau, tuy thấy người mình còn mệt mỏi, nhưng tôi đã xin phép mẹ cho tôi được trở lại đơn vị. Tôi nói với mẹ tôi rằng: “Con lên đơn vị còn có quân y, có đồng đội lo cho con. Nếu con ở nhà, ngộ nhỡ bệnh con nặng hơn lên, vất vả cho mẹ và em quá.” Mẹ tôi thấy tôi nói phải, nhưng cụ vẫn thu xếp để em tôi cùng đi theo giúp đỡ tôi trên đường.

“Từ hôm lên đến đây, như các bạn đều biết, quân y đơn vị vừa tiêm, vừa cho uống thuốc, đã được hơn một tuần lễ, bệnh vẫn không dứt. Hiện giờ, tôi như kẻ ốm vờ, không còn sốt cao, nhưng luôn luôn ớn lạnh, sợ gió. Ngửi thấy hơi cơm nóng là tôi sợ ăn như muốn nôn nao. Khắp các khớp

xương thì đau mỏi. Tôi chỉ muốn nằm, nhưng nằm thì không yên, phải luôn xoay người, quăng quật tay chân. Quân y muốn cho tôi đi nằm viện, nhưng

tôi lại không muốn, chỉ vì thấy bệnh mình chẳng được xếp vào danh mục

nào cả...”

Ông M. Đ. kể tiếp chuyện với tôi: “Thấy Đ.C. nói thế, tôi hỏi thử: “Đ.C. có dám để M. Đ. châm chữa bệnh này cho Đ.C. không?” Đ.C. chưa kịp trả lời, tôi đã nói luôn (cũng là để các bạn cùng phòng đều nghe): “Bệnh này, ngày xưa các cụ gọi là bệnh “mùa lào”, “đậu lào.” Uống thuốc nhầm, dễ dẫn tới bệnh nặng hơn và rất nguy hiểm. Dân gian thường chích lể, khêu nặn, hoặc đánh gió, đánh cảm bằng củ ráy, trứng gà luộc có nhét đồng bạc trắng hoa xoè vào trong. Có người còn sao tóc rối cho nóng để xoa xát khắp người. Những thứ đó hiện đây ta không có. Tôi có thể châm cho Đ.C. theo bài châm 1 kim của ông Sửu mới truyền cho.” Thấy nói đến 1 kim, Đ.C. có vẻ chấp nhận được. Đ.C. hỏi lại tôi: “Này M. Đ. ! Có đau lắm không đấy?” Tôi nói: “Không đau bằng tiêm thuốc đâu.” Tôi lấy ra một cây hào kim nhỏ xíu, thân kim dài 2 thốn. Sát trùng kim và huyệt Ngoại quan xong, tôi tiến kim thấu tới phía trong của huyệt Nội quan, chưa gây thủng da ở huyệt Nội quan. Cổ tay của Đ.C. nhỏ nhắn như tay phụ nữ, cho nên, độ sâu của kim hai thốn cũng rất vừa. Theo lời anh đã nói, tôi ướm chừng từ 3/3 đến 2/3 độ sâu, tiến hành làm thủ pháp vừa nâng ấn kim, vừa vê kim tả pháp ở độ sâu này 36 lần. Hết số đếm đó, tôi lùi kim ở độ sâu 2/3 đến 1/3, lại làm nâng ấn kim, vê kim tả pháp 36 lần tiếp theo. Hết số đếm đó, tôi lùi kim lên ở độ sâu 1/3 cuối cùng đến dưới da, tiến hành làm nâng ấn kim, vê kim tả pháp ở độ sâu này cũng đủ 36 lần. Hết số đếm đó, tôi lắc khích lỗ kim rồi rút kim. Kim ra khỏi huyệt, tôi không bịt lỗ kim ngay. Đợi chừng 2-3 giây sau, tôi bịt lỗ kim và sát trùng. Châm xong tay trái, tôi chuyển sang châm tay phải. Châm chữa xong, Đ.C. với tay lấy lọ trà, pha ấm trà mới , mời mọi người cùng uống. Tuần trà mới chưa tàn, Đ.C. đã thốt lên: “Ơ khá thật, bây giờ mình thấy không còn ớn lạnh và sợ gió lùa nữa. Cảm giác về cái nóng nực của khí trời rõ rệt lắm.”

P.X. là người hay châm chọc M. Đ., lúc này anh nhìn M. Đ. cười khẩy một cái, rồi nói: “Cậu ấy uống nước trà nóng vào, cảm thấy nó thế đấy.” Đ.C. liền nổi cáu nói: “Mình ốm cả tuần nay, có bao giờ thấy được cảm giác này đâu. Mặc dù mấy ngày qua, ngày nào chúng mình chẳng hội trà, bàn

bạc chuyện phiếm. P.X. nên bỏ cái thói châm chọc M. Đ. ấy đi, để có ngày còn nhờ đến cây kim tay trái đó đấy.”

Ông M. Đ. kể tiếp với tôi: “Sau đó Đ.C. khoẻ dần rồi khỏi hẳn.”

Tôi và ông M. Đ. uống nước xong, ông hỏi tôi: “Tên của phép châm này gọi là thấu thiên lương, người xưa dùng để chữa các chứng thực nhiệt, tà hoả thịnh. Nay dùng vào chữa chứng bán biểu bán lý, có ớn lạnh, sợ gió, cũng

rất hiệu quả là tại sao?” Tôi nói: “Theo Lục kinh biện chứng, ngoại tà gây bệnh, thoạt đầu là lấn vào Thái dương kinh. Thời gian tà ở Thái dương kinh thường rất ngắn, sau đó lấn sâu vào Thiếu dương kinh và Dương minh kinh, gây ra sốt cao dữ dội. Có khi trong cơn sốt, người bệnh kèm theo mê sảng. Nhưng trong nhiều trường hợp, tà vào tới Thiếu dương kinh thì dừng lại ở đó, gây ra chứng bán biểu bán lý kéo dài.

Ta châm Ngoại quan thấu Nội quan, làm đề sáp tả pháp, tức là nâng kim

lên mạnh, ấn kim xuống nhẹ, có ý nhằm lôi tà nhiệt ra ngoài, nâng chính khí bị lấn ép ở sâu lên, giúp cho sức đuổi tà khí mạnh hơn. Chia độ sâu ra làm ba bậc để làm thủ pháp, tức là đuổi tà khí ra đến đâu, củng cố ngay chính khí thay vào đó. Thiếu dương kinh gồm Thiếu dương tam tiêu và Thiếu dương đảm, lấy huyệt Ngoại Quan trên kinh Thủ thiếu dương tam tiêu làm chủ huyệt, vì cùng là thiếu dương kinh; Ngoại quan, nghĩa chữ là “cửa ải của ngoại tà”,“có quan hệ với ngoại tà”, do đó hiệu quả chữa rất mạnh.”

Ngày nay mỗi khi nhớ tới cố nghệ sỹ M. Đ., tôi không thể quên được câu

truyện ông đã kể, nên tôi viết lại để mọi người cùng xem.

Từ ngày cơ chế thị trường mở ra, dân ta có nhiều người mắc phải bệnh này. Đó là do máy điều hoà nhiệt độ được lắp đặt ở khắp mọi nơi, từ phòng làm việc, đến phòng ngủ, xe chở khách chất lượng cao. Do nhiệt độ trong, ngoài nơi đặt máy điều hoà nhiệt độ có sự chênh lệch nhau quá cao. Khi người ta ra vào những nơi ấy, sức thích nghi không đáp ứng kịp biến đổi đột ngột của hoàn cảnh, cho nên họ bị bệnh này. Chúng ta đều có thể dùng phép thấu thiên lương, châm trên huyệt Ngoại quan thấu huyệt Nội quan để chữa, hiệu quả đều tốt cả.

50 - Chữa bệnh nhiệt tả

Tôi không nhớ nổi ngày mùa thu ấy thuộc năm nào, nhưng là ở thủa sinh thời của cố nghệ sỹ điêu khắc quân đội M. Đ.. Bởi vì, lúc đó ông đi làm hoạ sỹ chính cho bộ phim: “Đòn trừng phạt cuối cùng”, của đạo diễn điện ảnh Bạch Diệp vừa xong. Về nhà nghỉ chưa bao lâu, ông đã ghé lại thăm tôi và cho tôi quà xứ Huế.

Gặp tôi, ông không kể về quá trình đi quay phim ra sao, nhưng ông lại kể ngay với tôi về chuyện ông bị đau bụng trên đèo Ngang lịch sử. Ông nói: “Ngày đoàn làm phim lên đường là vào giữa mùa hè. Đồ nghề của đoàn mang theo khá nhiều và lủng củng. Tôi cũng như các thành viên khác của đoàn, phải chia nhau ngồi trên xe tải hiệu Giải Phóng do Trung Quốc sản xuất để trông coi, bảo vệ tài sản chung...”

Ngày ấy đất nước ta vừa thống nhất, xã hội chưa mở ra cơ chế thị

trường, nhưng những quán ăn ven dọc các quốc lộ đã mọc lên nhiều hơn, nhằm phục vụ khách đi đường. Tôi cũng có nhiều lần đi công tác trên các trục lộ ven biển, như, đường đi từ Hải Phòng đến Quảng Ninh, từ Thanh Hoá đến Quảng Bình... Món canh thông dụng mùa hè ở các quán ăn đều có là: “Canh cá nấu dưa chua.” Món này ngon miệng, đưa cơm, được khách hàng rất ưa dùng. Nhưng cũng chính món ăn đó lại là nguyên nhân đã gây ra nhiều vụ đau bụng, tháo dạ cho khách đường xa. Bản thân ông M. Đ. cũng là một nạn nhân của món canh đó.

Ông kể :“Trước khi qua đèo Ngang, đoàn làm phim chúng tôi nghỉ ăn cơm ở một quán ven đường. Thấy món đặc sản “Canh cá nấu dưa chua” có

vẻ ngon miệng, mọi người đều gọi món này. Cơm nước, nghỉ ngơi xong, đoàn xe tiếp tục hành trình. Khi xe tôi ngồi, leo lên tới một đoạn đường đèo có độ dốc khá lớn, lại vào vòng cua liên tục, xe phải đi số nhỏ, tiếng máy xe nổ to như gầm lên. Cánh cửa ca bin và hòm xiểng xếp trên xe cũng rung lên, hợp tấu cùng tiếng máy xe và gió ngàn ào ào thổi, làm cho tai tôi không phân biệt nổi loại âm hưởng ấy gây cho mình vui hay khó chịu nữa. Đúng lúc ấy, bụng tôi quặn lên, đau như dao cắt ruột, kèm theo là buồn đi đại tiện. Tôi ngồi trên ghế dài, cạnh bên phải thành xe, lại sát bên cửa ca bin. Tôi ngoái đầu, cố gọi thật to, nhưng lái xe không nghe thấy tiếng tôi. Bí quá, tôi với lấy một khúc gỗ ngắn đang lăn lóc dưới thùng xe, tôi đưa lên đập mạnh liên tiếp vào nóc ca bin, đúng chỗ phía trên đầu cậu lái xe. Cậu lái xe không hiểu chuyện gì đã sảy ra, vội lánh xe sát vào vệ đường rồi từ từ dừng xe lại. Chỉ đợi có thế, tôi vội ngoắc ba lô vào một bên vai, leo qua thành xe, bám vào tấm gỗ thành xe rồi thả người xuống đất. Chân vừa chạm đất, tôi đã vội vã cắm đầu chạy biến vào rừng, chẳng kịp nói với mọi người câu nào. Vừa chạy tôi vừa cởi dây thắt lưng. Tới chỗ có nhiều bụi

cây che khuất, tôi vội vàng ngồi xuống giải quyết nỗi khổ. Phân bắn toé ra như súng phun nước. Hậu môn tôi nóng rát khó chịu, bụng vẫn còn quặn đau. Tôi vội bỏ ba lô xuống, móc túi cạnh ba lô, lấy ra hộp kim và nhánh tỏi. Tôi sát trùng kim, châm vào hai huyệt Hợp cốc, Ngoại quan, lần lượt vê kim theo tả pháp, vê liên tục từ huyệt này sang huyệt khác, vê trở đi, trở lại nhiều lần. Bụng tôi từ đó cũng theo thời gian vê kim mà giảm đau dần dần. Khi thấy bụng yên hẳn, cảm giác không cần ngồi thêm nữa, tôi thu

dọn gọn gàng đồ đạc, tư trang và đi trở lại xe. Ra khỏi bụi cây, tôi nhìn thấy mọi người trong đoàn đều đang ngơ ngác nhìn về phía mình. Lúc này tôi thấy chân mình mỏi rã rời, không thể bước nhanh được. Về tới mép đường, mọi người hỏi tôi lý do có việc bất ngờ này, tôi kể rõ đầu đuôi cho mọi người cùng nghe. Ai cũng an ủi tôi và nói: ‘May mà M. Đ. còn về được với đoàn. Chậm ít phút nữa, chúng tôi phải truy lùng, tìm kiếm cho ra nhẽ.’ Cả đoàn cùng cười, cùng nhau tháo chèn bánh xe rồi lên xe, tiếp tục hành trình.”

Ông M. Đ. nói tiếp: “Ngày trước có lần anh nói với tôi, hai huyệt Hợp cốc, Ngoại quan chữa chứng nhiệt tả. Hôm ấy tôi bị, tôi mới biết đặc điểm của chứng nhiệt tả là thế nào. Tôi cũng lại được tự mình chứng nghiệm tác dụng của hai huyệt Hợp cốc, Ngoại quan với bệnh đó.”

Nhân đấy, tôi nói với ông về bệnh nhiệt tả như sau :

“Sách Đông y Nội khoa viết : Bệnh nhiệt tả thuộc phạm trù “ẩu thổ”,

“tiết tả” trong Đông y. Y học hiện đại gọi là “Viêm đường ruột cấp tính.”

“Nguyên nhân và bệnh lý :

“Bệnh này thường do tỳ vị hư nhược, ăn uống không hạn chế, ăn phải thức ăn sống lạnh và không sạch sẽ. Hoặc do bị cảm thử thấp, đưa đến vị mất hoà giáng, tỳ mất vận hoá. Nhân đó mà dẫn đến nôn mửa và tháo dạ. Nếu nôn mửa không dứt, hao âm, thương dương, có thể xuất hiện chứng hư thoát.

“Biện chứng luận trị :

“- Thấp nhiệt hình : Dấy bệnh nhanh chóng, nôn mửa rất đều đều, vật nôn ra chua hôi, phân như nước, sắc vàng, mùi hôi. Khi đại tiện, phân rót mạnh xuống như bị ép phun ra, hậu môn nóng như lửa đốt. Có thể có phát sốt, miệng khát, tâm phiền, vùng bụng đau như vắt ruột, nước tiểu ít mà đỏ. Rêu lưỡi vàng trơn, mạch huyền, sác.

“- Phép chữa : Thanh nhiệt lợi thấp...

“- Hàn thấp hình : Nôn mửa, tháo dạ, phân như nước, không hôi lắm. Mình nặng, chân tay mỏi, ngực bụng căng bứt rứt. Tứ chi không ấm, nước tiểu ít. Lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng trơn, mạch nhu hoãn.

Phép chữa: Tán hàn, táo thấp, phương hương hoá thấp...

“- Hư hàn hình : Nôn mửa nhiều lần, đều đều, bụng đau, sắc mặt trắng bủng, ra mồ hôi, chân tay lạnh. Thường có chuột rút bắp chân. Miệng không khát, nước tiểu trong. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch vi tế hoặc trầm trì.

“- Phép chữa : Ôn trung tán hàn...”

Tôi nói thêm với ông M. Đ.: “Bệnh ông bị hôm đó thuộc về thấp nhiệt hình. Cũng may mà ông còn thiếu chứng ‘nôn mửa’, nếu không, ông sẽ mỏi mệt hơn nhiều.”

Ông M. Đ. hỏi tôi: “Bài châm đó ít huyệt, sao lại tác dụng mạnh, dứt được

bệnh nhanh như thế?”

Tôi nói: “Hợp cốc là nguyên huyệt của kinh Thủ dương minh đại trường. Nguyên huyệt là huyệt trở về gốc từ trong tạng phủ. Tác động vào Hợp cốc, tức là ta đã tác động vào phủ đại trường. Ngoài đó ra, Hợp cốc còn là một trong ba huyệt hạ nhiệt toàn thân rất mạnh (Đại chuỳ, Hợp cốc, Khúc trì). Ngoại quan: nghĩa chữ là “cửa ải của ngoại tà”, “có quan hệ với ngoại tà.” Nó còn là lạc huyệt của kinh Tam

tiêu. Lạc là đường nối thông vào phủ Tam tiêu và nối với kinh Tâm bào. Bệnh nhiệt tả là do thấp nhiệt hạ chú (thấp nhiệt rót xuống) phủ Đại trường. Đại trường thuộc hạ tiêu, cho nên khi phối hợp hai huyệt Hợp cốc với Ngoại quan, làm thành tác dụng khử ngoại tà thấp nhiệt ở hạ tiêu và phủ Đại trường. Do đó, nhanh chóng khôi phục lại công năng bình thường của hạ tiêu và phủ Đại trường, làm cho dứt bệnh nhiệt tả.

Ngày nay, nơi đâu cũng có quán cơm bình dân, tuy nó đem lại nhiều tiện lợi cho người lao động, học sinh, sinh viên, nhưng ở đó cũng ẩn chứa nhiều mầm bệnh. Yếu tố không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, chính là nguyên nhân gây ra bệnh tật cho thực khách. Mùa hè, thức ăn chế biến sẵn để quá lâu, sẽ gây biến chất, làm cho tạp khuẩn phát triển. Đứng đầu trong thức ăn mau hỏng, vẫn là món canh cá nấu dưa chua. Xin mọi người hãy nên cảnh giác với món ăn này.

Nếu chẳng may, có ai đó bị bệnh nhiệt tả, không kể do thức ăn là loại gì,

hãy kịp thời lấy hai huyệt Hợp cốc, Ngoại quan, châm theo tả pháp mà cấp cứu. Người bệnh có thể được thoát khỏi hiểm nguy một cách nhanh chóng, dễ dàng .

51 - Chữa bệnh thuỷ đậu, bệnh sởi trẻ em bằng phụ phẩm của cây

lúa

Đầu mùa đông năm 1972, sau khi từ chiến trường B trở về miền Bắc, tôi được đến nghỉ tại Viện Điều dưỡng Ba Vì (nơi dành riêng cho chúng tôi, những người đã qua nhiều lần khám chữa bệnh ở các bệnh viện).

Một hôm, tuy trời đã sang đông, nhưng khí hậu còn rất oi ả, khó chịu, ông

Th., quản trị trưởng của Viện đến gặp tôi. Ông nói: “Thằng con nhỏ nhà tôi được gần hai năm tuổi, mấy hôm nay cháu bị sốt. Người cháu nóng hầm hập suốt cả ngày lẫn đêm. Cháu không chịu cho bế, đụng vào người cháu là nó lại khóc toáng lên. Chân tay, mình mẩy cháu mọng căng, lác đác có những mụn nước chìm dưới da, xung quanh là quầng đỏ. Hôm cháu mới sốt, cô y sỹ ở nhà trẻ phát hiện thấy cháu có mụn, cô đã cho cháu uống thuốc kháng sinh. Cháu không những không đỡ, mà sốt và đau lại càng tăng hơn. Cháu phải nghỉ ở nhà để gia đình chăm sóc cho cháu.” Ông nói xong liền mời tôi sang xem giúp bệnh cho con ông.

Nhà ông Th. ở bên ngoài khuôn viên của Viện Điều dưỡng. Ra khỏi cổng viện, chúng tôi rẽ về phía tay phải, đi theo đường liên xã. Cách cổng Viện chừng 300 mét, phía bên kia đường là lối vào nhà ông. Hai bên ven đường

và lối vào nhà ông đều có hàng cây bạch đàn cao vút. Nhà ông quản trị trưởng làm bằng tre nứa, mái lợp lá cọ (lá kè). Xung quanh có vườn cây bạch đàn xanh tốt. Phía trước, bên ngoài vườn bạch đàn là nương sắn, gia đình ông vỡ hoang đồi sỏi, tăng gia sản xuất thêm. Sau lưng nhà ông có vườn đồi thoai thoải xuống tới bờ ruộng lúa đã gặt. Ruộng khô, đất nứt nẻ, trơ ra những gốc rạ theo hàng lối cấy chăng dây rất thẳng hàng.

Khi tôi vào đến nhà, không khách sáo, ông đưa tôi thẳng tới giường cháu bé nằm. Xem xét tình trạng toàn thân và cụ thể các mụn nước trên người cháu, tôi biết đây là bệnh thuỷ đậu. Tôi hỏi thêm ông: “ở nhà trẻ, nơi ông

gửi cháu, ông thấy có nhiều cháu bị sốt như thế này không?” Ông nói: “Cũng có mấy cháu bị sốt phải nghỉ học đấy.” Tôi nói để ông được biết: “Thuỷ đậu là một bệnh lây, lại không được dùng thuốc kháng sinh. Cháu nhà ông đây do y sỹ cho dùng thuốc kháng sinh, mụn không mọc thấu ra ngoài da được, bị hãm lại ở dưới mặt da. Do đó cơ và da của cháu cương lên đau đớn.” Con gái lớn ông, chừng hơn mười

tuổi đang ngồi cạnh em, quạt cho em, chăm chú nghe tôi và bố cháu nói. Tới đây, cô bé cũng xin góp chuyện. Cô nói: “Bố ơi, ban nãy bà B. trong xóm vào nhà ta chơi, sau khi thăm em, bà cũng nói em bị bệnh thuỷ đậu đấy bố ạ.” Tôi quay sang nói với cháu gái: “Cháu để bố cháu quạt cho em, cháu hãy xuống ruộng (tôi vừa nói vừa chỉ ra cửa sổ, cánh cửa bằng phên nứa đã được chống lên cho thoáng), nhổ lấy mười gốc rạ đem về đây, chú bầy cách làm thuốc chữa bệnh

cho em cháu.” Cháu gái mở tròn mắt nhìn tôi rồi nhìn sang bố cháu, ý chừng là chờ đợi xem bố có nói gì chăng. Ông Th. nói với con gái: “Con đưa quạt cho bố, con mau đi xuống ruộng, nhổ đúng mười gốc rạ lên, đập cho rụng đất đi rồi đem về đây cho bố.” Cháu bé hai tay đưa chiếc quạt nan cho bố, vội chạy ra khỏi nhà. Lát sau cháu bé về, với 10 gốc rạ để trong chiếc rổ, đặt rổ xuống nền nhà. Tôi ngồi xuống, đổ đám gốc rạ ra, tay tôi cầm gốc rạ lên, xé ra từng cọng, đập lại cho đất khô bám quanh rễ lúa rụng hết đi. Đập xong tôi xếp cọng rạ vào rổ. Cháu bé cũng ngồi xuống, nhìn tôi làm và bắt chước làm theo nên việc cũng nhanh chóng hơn. Đúng lúc đó thì bà Th. đi làm cỏ nương sắn cũng vừa về đến nhà. Tôi nói với bà Th. : “Bác đem ngay đám gốc rạ này bỏ lên chảo, sao cho cháy sém rồi hạ thổ, úp chảo lên đậy kín lại.” Bà Th. vốn đã biết tôi có nghề thuốc Nam. Nay thấy chồng mình ngồi bên cháu bé cùng tôi, lại được ông giục thêm: “Bà làm ngay theo chú dặn đi.” Bà vội vàng bê rổ gốc rạ xuống bếp. Tôi ngồi dặn dò ông thêm: “Khi bà nhà sao thuốc, hạ thổ xong, ông nói với bà đem ra giếng, rửa sạch đất cát đi. Sau đó cho vào soong, đổ nước ngập thuốc, đun kỹ, chắt nước vào chai, cho cháu uống suốt chiều, tối và đêm nay cho hết số thuốc nước ấy.” Ông Th. nói với tôi: “Chú cứ yên tâm, tôi sẽ làm đúng như chú dặn.” Tôi chào mọi người rồi ra về. Ông chỉ tiễn tôi ra đến giữa sân rồi quay lại vào bếp.

Đầu giờ làm việc sáng hôm sau, ông Th. vào Viện làm việc. Ông chưa vào khu nhà văn phòng ngay, ông đi thẳng xuống dãy nhà tôi ở. Gặp tôi, ông hồ hởi nói : “Đêm qua cháu đã giảm sốt, sáng nay chân tay cháu mềm hơn, cháu cho tôi xoa, sờ vào người cháu. Tôi nhìn các nốt mụn nước của cháu đã thấy nổi phồng cao hơn mặt da, quầng đỏ xung quanh đã nhạt màu hơn.” Tôi nói với ông: “Ông vẫn phải làm thuốc cho cháu uống đủ ba ngày. Ngoài ra, ông phải lấy một ít thuốc sau khi sao sém và hạ thổ để riêng, đem số thuốc ấy đốt thành tro. Tro thuốc đó đem nghiền nát, gói riêng, dùng để rắc lên những mụn bị vỡ chảy nước ra. Tro thuốc sẽ hút khô nước, tạo thành vảy che đậy cho mụn tránh bị nhiễm trùng làm độc.” Thế rồi, từ đó bệnh cháu khỏi dần. Tôi đã nhắc ông Th.: “Theo dân gian truyền khẩu, bệnh thủy đậu, phổng rạ, sau khi khỏi, phải lấy cỏ chân vịt (áp chích thảo), rửa sạch, nấu nước tắm cho cháu, sẽ không để lại di chứng về sau.”

Có anh em đã hỏi tôi : “Bệnh này có giống bệnh đậu mùa không?” Tôi giải thích như sau :

“Sách Đông y nhi khoa viết :

“Thủy đậu còn gọi là ‘thủy hoa’. Do độc tố của bệnh truyền nhiễm bào chẩn cấp tính gây ra, bệnh ưa phát ở hai mùa đông, xuân. Trẻ em từ 1 đến 4 tuổi rất thường mắc. Bệnh này bởi phong nhiệt độc từ mũi, miệng hít vào, xâm

phạm vào phế, phát ra ở da thịt, cơ biểu. Bệnh tình rất nông, chủ yếu là ở

phần vệ, phần khí, rất ít xuất hiện chứng hậu ở doanh, huyết.

Chứng trạng chủ yếu:

1- Trong vòng 1 - 2 tuần lễ, có tiếp xúc với người bệnh thủy đậu, da dẻ xuất hiện mụn bọc nước trong như giọt sương, chung quanh có quầng đỏ màu phấn hồng, có làm ngứa gãi. Bào chẩn chia nhau mọc ra, mất đi, hoặc kèm phát sốt và viêm nhiễm đường hô hấp trên...”

“ 2 - Quan sát bào chẩn đúng là hình tròn hay hình tùy viên, có hay không có hố lõm hình lỗ rốn, quầng đỏ xung quanh nông hay sâu ra sao, có hay không có mâm rễ, mọc ra mất đi không đều nhau, mức độ phát sốt nặng hay nhẹ, dựa vào đó để phân biệt thủy đậu với đậu mùa (thiên hoa), trứng cá (thiên bào).

Đậu mùa (thiên hoa) : Nhất định là sau khi phát sốt ba, bốn ngày mới thấy điểm, có các quá trình thấu chẩn, nổi căng lên, chảy nước sền sệt, kết vảy.

Chính giữa bào chẩn có hố lõm hiện rõ hình lỗ rốn, mọc ra, bay đi mất không đều nhau, chứng trạng toàn thân nặng.

Trứng cá (thiên bào) : Thường thấy ở mùa hạ, thu. Nói chung không phát

sốt, bào chẩn lớn, không có mâm rễ, không có quầng đỏ, bọc da rất nông.

3 - Chú ý vòm mồm và hầu họng có hay không có bào chẩn, có thể phân

biệt nặng hay nhẹ của thuỷ đậu.

4 - Nếu thấy sốt cao, sợ hãi, vật vã không yên, cần chú ý các chứng kèm hợp với bệnh này.

Biện chứng thí trị :

Nguyên tắc trị bệnh này nói chung : Lấy thấu biểu, thanh nhiệt, giải độc làm chủ. Dựa vào bệnh tình nặng nhẹ mà phân biệt xử lý.

Chứng nhẹ : Hạt điểm thủy đậu rất thưa; sáng sạch như hạt sương, thuần cả

hệ bọc nước. Bốn xung quanh hơi hồng, nói chung phát sốt nhẹ, hoặc không sốt, hoặc hơi có ho hắng nhẹ và chảy nước mũi. Ăn uống và tinh thần như thường. Tà đó biểu hiện ở vệ, khí.

Phép chữa : Sơ phong, thanh nhiệt, giải biểu...”

Chứng nặng : Hình mụn độc to và dầy, sắc tím tối, chất trong vẩn đục, sền sệt, mâm rễ hiện rõ, xung quanh có quầng đỏ thẫm. Kèm có sốt cao, phiền khát, mặt đỏ, môi hồng. Miệng má mọc mụn bọc, lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, tà đó đã vào phần khí, doanh.

Phép chữa : Thanh khí, lương doanh, giải độc...”

Có người lại hỏi : “Chữa thủy đậu bằng gốc rạ, sao vàng, hạ thổ, sắc nước uống, tôi không thấy sách nào nói đến cả?” Xin thưa, bài thuốc này tôi học được ở anh Năm (quê anh ở Quảng Nam, một vùng quê có truyền thống giỏi dùng thuốc Nam bằng cây cỏ), anh là cán bộ ban Kinh tài huyện Đơn

Dương, từ những ngày tôi công tác ở địa bàn (năm 1968) cùng anh. Anh còn dặn tôi : “Vào những thời điểm không tìm được gốc rạ, ta có thể lấy rơm khô trong đụn rơm dành cho trâu bò ăn. Hoặc có thể rút rạ ở mái lợp xuống dùng cũng được.”

Từ khi về Hà Nội, tôi đã mách cho nhiều gia đình có con nhỏ lên sởi, hoặc thủy đậu, hãy mua một chiếc chổi rơm, đem về bỏ dây lạt buộc, lấy rơm băm nhỏ. Sao vàng hạ thổ, rửa sạch. Chia làm ba phần. Mỗi ngày dùng một phần, cho vào sắc nước thành thuốc nước cho trẻ uống hết trong ngày. Sau ba ngày uống thuốc, trẻ mọc sởi ra rất đều, rồi bay dần, không để lại di chứng (chạy hậu) cho trẻ.

Xin giới thiệu để các bậc ông bà, cha mẹ và đồng nghiệp lưu ý. Khi cần đến

hãy sử dụng cho con cháu mình được mau khỏi bệnh và an toàn.

52 - Chữa bệnh đàn ông sinh hoạt tình dục phạm ngày cấm kỵ

Một ngày giữa mùa thu năm 1996, anh Ng.V.T. đến gặp tôi xin được chữa bệnh. Tuổi anh T. lúc đó khoảng gần 40. Anh vốn khoẻ mạnh và tháo vát. Thân hình anh thon gọn, rắn chắc, rất hợp với nghề mộc

khéo tay của anh. Thế mà giờ đây, trông anh mệt mỏi, âu sầu, da dẻ xanh tái. Anh ngồi đâu cũng phải chọn cho mình một chỗ dựa. Tiếng anh nói nhẹ và chậm như người hụt hơi. Anh kể với tôi: “Cháu bị mệt đã gần ba tháng nay. Lúc đầu, cháu thấy người như bị cảm gió, cháu đã xông nước lá, xoa dầu, đánh cảm. Không thấy bệnh đỡ, cháu phải tự châm cứu và nhờ bạn châm chích cho. Hiện nay cháu đang mệt lắm, chân tay lạnh lẽo, lưng gối mỏi đau, ăn không biết ngon miệng, ngủ thì li bì. Từ ngày theo học Đông y, cháu đã ít dùng thuốc Tây, sợ có nhiều tác dụng phụ. Nay bị bệnh này, cháu cũng không dám uống thuốc Bắc, vì cháu đang phân vân, nếu mình bị chứng đậu lào, uống thuốc Bắc vào sẽ càng nguy hiểm hơn.”

Tôi nhẩm tính ngược lại thời gian, có lẽ anh T. bị bệnh vào khoảng giữa tháng năm âm lịch, nên hỏi lại anh cho chắc chắn. Anh T. nói : “Cháu bị bệnh đúng từ sau ngày rằm tháng năm chừng vài hôm.” Chợt nghĩ tới việc có thể anh đã phạm ngày cấm kỵ, nhân lúc trong nhà chỉ có tôi và T., tôi hỏi

nhỏ : “Đêm 15 sang ngày 16 tháng 5 âm lịch, cậu có sinh hoạt vợ chồng phải không?” T. ngồi ngẫm nghĩ một lát rồi nói : “Thầy thông cảm, chúng cháu còn trẻ mà. Quả là thời gian ấy chúng cháu rất vui vẻ với nhau.”

Tôi lấy sách “Tố nữ kinh ra đọc cho T. nghe một đoạn về cấm kỵ khi

sinh hoạt tình dục :

“Những điều cấm kỵ :

- Ngày hối, sóc của tuần trăng (ngày đầu, cuối tháng âm lịch).

- Ngày thượng huyền (ngày 7 và 8), hạ huyền (ngày 22 và 23).

- Sáu ngày bính, sáu ngày đinh.

- Ngày nhật phá.

- Ngày 28 (tận nguyệt).

- Ngày gió to, ngày mưa lớn, ngày động đất, ngày có sấm sét, chớp giật.

- Các ngày tiết : Đại hàn, tiểu thử, xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí.

- Trong vòng năm ngày tống, nghinh.

Những điều cấm hành âm dương (sinh hoạt tình dục) trong hành niên bản

mệnh (năm tuổi) thì cái cấm đó càng phải coi làm trọng.

- Sau ngày hạ chí mà vào bính tý, đinh sửu, bính ngọ, đinh mùi.

- Sau ngày đông chí thì kiêng ngày canh thân, tân dậu.

- Vừa mới gội đầu, vừa mới đi xa mệt mỏi, quá vui, quá giận, đều không

thể hợp âm dương (sinh hoạt tình dục)……….

không thể cho xuất tinh.”

Tố nữ luận rằng : “Ngày 16 tháng 5 là ngày trời, đất đực cái, không thể làm việc phòng sự. Phạm vào điều cấm kỵ đó, không ngoài ba năm tất phải chết ! Làm thế nào mà biết được như thế? Hãy lấy một thước (xích =

40cm) vải mới, đêm hôm đó treo lên tường phía đông. Sáng ngày hôm sau xem, tất có màu máu. Cho nên nhất thiết kiêng tránh đi.”

Nghe tôi đọc sách, T. ngồi thừ người ra hối hận : “Làm sao mà chúng cháu biết được phải cấm kỵ nhiều thế. Có ai dạy bảo chúng cháu đâu.” Tôi hỏi T.: “Con đầu của cậu là gái hay trai, mấy tuổi rồi?” T. đáp : “Thưa thầy, con đầu của cháu là gái, được hơn hai tuổi rồi ạ.”

Tôi hỏi tiếp : “T. có biết muốn sinh con khoẻ, con ngoan, cần phải kiêng

tránh điều gì khi sinh hoạt vợ chồng không?” T. đáp :

“Thầy lại làm khó cho cháu rồi. Chúng cháu chỉ biết nhờ trời thôi ạ.”

Tôi lấy một tờ giấy, một cây bút bi đưa cho T. chuẩn bị ghi lại đoạn sách tôi đọc như sau :

“Hoàng đế nói rằng : Người ta khi mới sinh ra, vốn là ở thai hợp âm dương. Khi thai hợp âm dương tất phải tránh chín cái nguy hại. Chín cái nguy hại đó là :

- Đứa con thụ tinh giữa ngày, sinh ra thì hay nôn mửa, đó là một.

- Đứa con thụ tinh lúc nửa đêm, thiên địa bế tắc, không câm điếc thì mù, đó

là hai.

- Đứa con thụ tinh ngày nhật thực, thân xác khi bị đâm vào thì huỷ hoại, đó

là ba.

- Đứa con thụ tinh khi có sấm sét, trời giận nổi oai lên, tất dễ bị cuồng, đó là bốn.

- Đứa con thụ tinh ngày nguyệt thực, cả mẹ và con đều gặp chẳng lành

(hung), đó là năm.

- Đứa con thụ tinh lúc có cầu vồng, sẽ làm việc chẳng lành, đó là sáu.

- Đứa con thụ tinh ngày đông chí, hạ chí, sống làm hại cha mẹ, đó là bảy.

- Đứa con thụ tinh ngày huyền, vọng, tất sẽ làm loạn binh, mù mịt về giáo

hoá (loạn binh phong manh), đó là tám.

- Đứa con thụ tinh lúc no say, tất làm bệnh lại thư (hủi, nhọt), trĩ có mụn, đó

là chín.

Những người chú giải sách “Tố nữ kinh” các thời đại viết thêm :

- Khi tâm lý sợ hãi, sẽ sinh ra con nhiều hư nhược.

- Giao hợp man rợ, làm thành đứa con tính mãnh liệt mà giảo hoạt.

- Khi say rượu mà sinh con, con thường điên cuồng.

- Khi lương tâm bại hoại, sinh con thường có tính ác.

- Khi mắc bệnh hủi, sinh con thường bị điên.

- Khi mắc bệnh da liễu ác hoá, sinh con thường bị bệnh da liễu.

- Khi ý dâm với nét mặt người đàn bà nào đó, khi sinh con có thể có nét mặt

giống ý dâm đó.

Khi giao tiếp để sinh con cái, phải biết như thế nào thì truyền tính tốt, như thế nào thì truyền tính ác. Phải nên xem xét cẩn thận từng việc. Cho nên, không tỉnh táo thì không thể giao tiếp được.”

Chép xong đoạn sách tôi đọc, T. hỏi tôi : “Thưa thầy, theo sách nói, em

phạm ngày cấm kỵ, đã thành bệnh khó rồi. Xin thầy tìm cách chữa cho em.”

Tôi nói với T.: “Tôi sẽ châm cho cậu một lần làm mẫu, cậu về cứ theo thế mà châm cho mình, bệnh sẽ khỏi.” Tôi lấy hào kim ra, sát trùng kim và huyệt rồi châm cho T. Tay tôi châm, miệng tôi nói thủ pháp : “Phải châm đúng thứ tự, làm đúng thủ pháp ở các huyệt : Khúc tuyền, Âm cốc, Âm lăng tuyền, Phục lưu. Làm tổng hợp năm loại : Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục và khai bế. Bổ lão dương số (27 x 3 = 81). Châm hết chân trái rồi châm sang chân phải. Mỗi ngày châm một lần. Mười ngày là một liệu trình.”

Để cho T. hiểu hết giá trị của bài châm, tôi giải thích : “Bài này ở sách

‘Châm cứu tư sinh kinh’ nói rằng : “Chữa chứng đi tiểu tiện nhiều mà mất dương khí.” Toàn bài có bốn huyệt, trong đó có ba huyệt là loại hợp của ba kinh âm ở chân : Khúc tuyền là hợp huyệt của kinh Túc quyết âm can. Âm cốc là hợp huyệt của kinh Túc thiếu âm thận. Âm lăng tuyền là hợp huyệt của kinh Túc thái âm tỳ. Loại hợp trong ngũ du huyệt có tác dụng thẳng vào tạng phủ. Riêng huyệt còn lại là Phục lưu trên kinh thận, có tác dụng đặc biệt đến mệnh môn hoả.

Tổng hợp lực của bài này giống như bài Bát vị kim quỹ (kim quỹ là hòm vàng) thận khí hoàn. Các huyệt Khúc tuyền, Âm cốc, Âm lăng tuyền để bổ âm, tương đương bài Lục vị : Thục đìa, Sơn dược, Sơn thù nhục, Trạch tả,

Phục linh, Đan bì. Huyệt Phục lưu bổ vào mệnh môn hoả, tương đương với 2 vị : Nhục quế, Phụ tử. Đây là một phương bổ dương trên cơ sở bổ âm. Tác dụng chống suy nhược thận khí của 4 huyệt này được coi như thánh dược vậy. Có bài châm này trong tay, ta như đã có một hòm vàng. Thực tế, có thể còn hơn thế nữa..”.

Nửa tháng sau, T. đến thăm tôi, thần thái của anh đã thay đổi khác hẳn. T. nói với tôi : “Cháu châm rất đều. Thời gian châm, cháu kiêng khem về ăn uống rất kỹ. Châm được 4 hôm, dương khí của cháu đã bừng bừng trỗi dậy. Nhưng nhớ lời thầy dặn : “Cái dương khí mới phục hồi ấy, nó giống như ta đem đất ướt đắp lên đê. Nếu dùng vào sinh hoạt tình dục ngay, dương khí mới được phục hồi đó sẽ tan biến, giống như đê bị vỡ vì gặp phải

sóng to, gió lớn.” Cho nên, cháu phải ngủ riêng, không để lòng dục bị quấy động. Lần phạm ngày cấm kỵ vừa qua đã làm cho cháu hoang mang cùng cực. Từ nay, được thầy cho lời dạy của cổ nhân, cháu đâu dám quên lãng, cháu phải luôn ghi nhớ, giữ gìn.”

Đã 10 năm rồi, T. lao động liên tục, học hành chăm chỉ, sức khoẻ ổn định. Thật là may mắn cho T..

53 - Chữa chứng phong thấp ở cơ bắp (tuế tý)

Mùa xuân năm 2003, ông Kiên, trung tá, bộ đội Phòng không Không quân, là bệnh nhân cũ của tôi, ông đưa người em đồng hao tên là Tuyến, nhà ở phường Cống Vị, quận Ba Đình đến nhờ tôi chữa bệnh thị lực giảm.

Ông Tuyến cho biết : “Em bị bệnh nấm tóc, sau thời gian dùng thuốc bôi lên đầu, nấm tóc có đỡ nhưng mắt lại mờ dần. Em đi khám ở Viện mắt Trung ương, người ta chẩn đoán bệnh của em là do thần kinh đáy mắt.” Tôi chữa cho ông Tuyến chừng hơn nửa tháng, mắt ông đã phục hồi sức nhìn như thường. Lúc này ông mới nhờ tôi chữa bệnh thứ hai của ông. Ông Tuyến ngồi ghế, tay kéo ống quần ở chân trái lên tới sát đầu gối, ông đưa ngón tay ấn vào bắp thịt bụng cẳng chân (cơ dép, cơ sinh đôi) mà nói : “Em bị đau ở đây đã hơn một năm, đi lại hơi khó khăn. Nhưng đáng sợ nhất là chứng nhức mỏi ở bắp chân này. Mỗi khi đau nhức, em phải sai thằng con trai em ngồi đấm bóp cho. Ai mách cho em ở đâu có thuốc phong thấp hay, em đều cố gắng tìm mua bằng được để xoa bóp, thế mà bệnh vẫn không khỏi. Có anh Kiên của em biết đấy, trong tủ nhà em hiện đang còn 5 chai, đựng 5 loại thuốc phong thấp khác nhau. Chưa chai nào được dùng hết, nhưng bỏ đi lại tiếc tiền.”

Lúc này tôi mới nhớ lại, hàng ngày đến đây, khi ngồi chờ, ông thường dùng tay vỗ vỗ vào bắp chân này, nhưng tôi đã không để ý đến. Ông Tuyến nói tiếp : “Anh Kiên đã cho em biết, thầy có thể chữa được bệnh phong thấp. Nhưng vì bệnh mắt em nguy hiểm hơn, nên em nhờ thầy chữa mắt của em trước. Đến nay mắt em đã gần khỏi hẳn, em nhờ thầy chữa sang bệnh này cho em.”

Sau khi xem xét kỹ, tôi biết bệnh đó là : “Phong thấp ở cơ bắp”, tôi nói với ông Tuyến : “Bệnh này không phải châm. Trong thời gian tôi châm thêm cho mắt ông thật ổn định, ông hãy về làm theo bài thuốc tôi cho như

sau : “Ông ra các hàng lá thuốc Nam ở chợ, mua mỗi ngày một kg cỏ chân vịt tươi, đem về nhặt bỏ đi những tạp chất, rễ, lá úa, lá dập nát, sau đó rửa sạch. Thường thì 1 kg cỏ, sau khi chọn lọc, chỉ còn được một nửa. Số thuốc đó, ông đem chia làm 2 phần. Lấy một phần, đổ 2 bát nước sắc còn một bát, chia làm 2 lần uống trong ngày. Phần còn lại, ông cũng đổ nước, sắc kỹ, nhưng dùng một tấm khăn bông, thấm nước thuốc đó, đắp vào vùng đau, lúc nước thuốc còn ấm nóng. Một ngày ông cũng đắp thuốc hai lần.”

Hôm sau, khi vừa mới đến, ông Tuyến đã vội khoe ngay: “Em làm đúng như lời thầy dặn, đêm qua, em ngủ ngon hơn. Đau nhức đã đỡ hẳn.” Sau 3 ngày dùng thuốc ‘cỏ chân vịt’, ông Tuyến nói : “Em mua tất cả là 3 kg cỏ thuốc về dùng, bệnh đau nhức cơ của em đã khỏi hẳn. Em nhẩm tính :

Ngày đầu em mua, họ lấy giá một ngàn rưởi đồng 1 kg. Hôm thứ hai em mua, họ lấy giá ba ngàn đồng 1 kg, em cũng mua. Hôm thứ ba, họ lấy giá sáu ngàn đồng 1 kg, em cũng phải mua. Có lẽ người bán hàng đã phát hiện ra hiệu quả nào đó, vì thấy em cần phảỉ mua thuốc của bà ta. Tuy vậy cũng mới hết có mười ngàn năm trăm đồng, chỉ bằng giá tiền mua 3 cân gạo ăn hằng ngày, thế mà khỏi được bệnh của em, đó là giá quá rẻ. Chưa kể đến, em đã học được một bài thuốc quý.”

Thưa các đồng nghiệp trẻ, ngày nay y học Đông, Tây đều đã rất phát triển, người ta chia bệnh tật thành nhiều loại, nhiều chứng khác nhau. Tên bệnh nhiều đến nỗi khó nhớ nổi. Thời cổ, dân gian chia bệnh người lớn làm hai loại: Bệnh từ ngoài mà vào, gọi là phong; bệnh từ trong phát ra gọi là thấp. Phong là gió, bệnh do gió trời thay đổi gây ra; thấp là ẩm thấp ngấm vào trong, từ từ gây bệnh. Phong là bệnh cấp tính; thấp là bệnh mạn tính. Bệnh ở trẻ em cũng chia làm hai loại : Bệnh từ ngoài mà vào, gọi là sài; bệnh từ trong phát ra gọi là cam.

Bệnh phong thấp ở cơ bắp là một danh từ hỗn hợp về nguyên nhân gây bệnh, có gió từ ngoài vào, có ẩm thấp ngấm vào trong từ từ gây bệnh.

Đông y cho rằng : Chứng Tuế tý (phong thấp ở cơ bắp), phần lớn chỉ

đau đớn ở một nơi, hoặc phạm vi rất nhỏ, là do phong thấp lưu ở cơ bắp, không di động. Tây y gọi là chứng phong thấp ở cơ bắp. Người thường thì nói là đau thần kinh, đau lưng, đau thần kinh toạ.

Chứng Tuế tý, mới đầu do cảm mạo gây nên, cơ bắp người bệnh có mức

rắn giống như bình thường, ấn vào đó thấy đau dữ dội, động tác của họ

không dễ dàng.

Nơi bộ vị lưu bệnh, phần lớn là ở cánh tay, vùng vai, gáy, cơ liên sườn, cơ lưng. Nếu được chữa đúng, thời gian ngắn có thể khỏi. Nếu để lưu bệnh quá lâu, không thể chữa khỏi trong thời gian ngắn. Có một ít người bệnh, ở cơ bắp nào đó đau đớn đặc biệt, giống như bên trong có mũi tên đâm. Dân gian gọi là “Phong mũi tên quỷ” (Quỷ tiễn phong).

Cỏ chân vịt (áp chích thảo), có hiệu rất tốt với chứng phong thấp này. Cần lưu ý, loại cỏ chân vịt mọc ở dưới nước, khác với loại gần giống thế, nhưng mọc ở trên cạn, gọi là “Đạm trúc diệp.”

54 - Chữa bệnh đàn bà hành kinh tắm đêm, suốt cao, mê sảng. (nhiệt

nhập huyết thất, huyết biến vi tà)

Tháng 5 năm 1992, mới vào đầu mùa hè, nhưng trời đã rất nóng.Thời đó, tôi còn ở khu tập thể Uỷ ban Thống nhất, làng Hào Nam,

trong một căn phòng nhỏ, tường xây, mái lợp ngói. Nhưng do nhà không có trần nên nóng càng dữ dội hơn. Một hôm, ông bạn đồng nghiệp Ph.V.Th. đến thăm tôi, nhân đó ông hỏi tôi về một ca bệnh ông đang chữa nhưng chưa thành công.

Ông Th. nói: “Thưa thầy, em có một ca bệnh khó, bệnh nhân

là cháu gái em. Cháu bị cảm nặng, sốt rất cao, có nói mê sảng. Em cho rằng tà đã vào đến khí phần và doanh phần, nên đã cho cháu uống ‘Thanh doanh thang gia giảm’ trọng tễ, nhưng bệnh của cháu không chuyển. Em muốn xin thầy góp ý cho.”

Tôi hỏi ông Th.: “Ông cho tôi biết, cháu ông năm nay bao nhiêu

tuổi, làm nghề gì.” Ông Th. đáp: “Cháu em hơn hai mươi tuổi, nhà cháu làm nông nghiệp.” Tôi hỏi tiếp: “Theo ông biết, đàn bà con, gái ở quê ông có tập quán tắm đêm hay không?” Ông Th. nói : “Thưa thầy, chẳng riêng ở quê em, bất cứ gia đình nào làm

nông nghiệp, công việc ngày mùa rất vất vả. Nhất là lúc thu

hoạch vụ lúa chiêm này, chỉ có thể tắm giặt trước khi đi ngủ,

cũng là lúc đêm đã khuya lắm rồi.” Nghe thấy thế, tôi dặn

ông :“Ông hãy về hỏi lại cháu gái ông, có thể lần cảm nặng này cũng là thời gian đến tháng kinh của cháu.” Ông vội thốt lên : “Có thế mà em cũng quên mất, khi xem mạch, chẩn bệnh cho cháu, em đã quên không hỏi phần này.”

Hôm sau ông tới, ông nói với tôi : “Đúng là như thầy dự đoán, cháu đang hành kinh, bị cảm thì kinh bị bế lại.” Tôi nói

kỹ hơn với ông : “Đây là bệnh ở phần khí và phần doanh, nhưng

vì tà nhiệt quá thịnh, thừa cơ đến tháng kinh, tà nhiệt nhập huyết thất,

gây ra sốt càng cao và mê sảng. Chứng không còn đơn thuần là nhiệt nhập tâm bào nữa. Ông nên chuyển phương, hãy cho cháu ông uống bài “Huyết phủ trục ứ thang” để trục huyết ứ ra, bệnh sẽ

khỏi.”

Ba hôm sau đó, ông đến thăm tôi và báo lại : “Cháu uống hết thang “Huyết phủ trục ứ’”, quả nhiên cháu ra được nhiều huyết cục, cháu giảm sốt, hết mê sảng. Em lại cho uống tiếp bài

‘Thanh doanh thang’, đến hôm nay bệnh cháu đã khỏi.” Ông ngồi

chuyện trò cùng tôi khá lâu và thoải mái. Một lúc sau, ông tâm sự : “Em làm nghề Đông y đã 15 năm rồi, nay mới gặp trường hợp này, khó quá.” Tôi nói động viên ông : “Ta chưa gặp mặt bệnh nào đó, làm sao ta có được kinh nghiệm. Lần này ông trải qua, mới gọi là có kinh nghiệm chứ. Tiện đây, tôi nhắc lại những nguyên tắc chính mà người thầy Đông y luôn phải vận dụng khi chẩn bệnh:

*Người bệnh là trẻ nhỏ, phải hỏi về ăn uống, đại tiểu tiện.

*Người bệnh là thanh niên, trẻ, khoẻ, phải hỏi về ngoại cảm.

*Người bệnh là phụ nữ, phải hỏi về kinh nguyệt, khí hư.

*Với người già phải xét về bệnh mạn tính, suy yếu.

Ca bệnh vừa qua, tuổi trẻ, nhưng là nữ, ông xét về ngoại cảm là đúng, nhưng còn thiếu hỏi về kinh nguyệt, khí hư. Chắc chắn lần gặp những ca bệnh là nữ sau náy, ông không thể quên được điều này.” Ông Th. cười vui vẻ.

Nhân đây, tôi cũng chép lại bài “Huyết phủ trục ứ thang”, nếu ai gặp bệnh nhân như ca bệnh vừa kể ở trên, đã có sẵn để dùng ngay, đỡ công lục tìm sách vở.

Huyết phủ trục ứ thang - (Sách gốc “Y lâm cải thác”). Đương quy - 3 đồng cân, Sinh địa - 3 đồng cân,

Đào nhân - 4 đồng cân, Hồng hoa - 3 đồng cân,

Chỉ xác - 2 đồng cân, Xích thược - 2 đồng cân,

Sài hồ - 1 đồng cân, Cam thảo - 1 đồng cân,

Cát cánh - 1,5 đồng cân, Xuyên khung 1,5 đồng cân, Ngưu tất - 3 đồng cân.

Phương này là hợp dùng hai phương : “Đào hồng tứ vật thang”, và “Tứ nghịch thang”, lại thêm Cát cánh, Ngưu tất. Đào hồng tứ vật thang, hoạt huyết, hành ứ. Tứ nghịch

thang, sơ can lý khí. Gia Cát cánh, khai khí ở ngực cách, Ngưu tất, dẫn huyết ứ đi xuống. Một thăng, một giáng, phối hợp thành phương, có thể trị chung các chứng khí trệ, huyết ứ. Cho nên gọi là “trục ứ”.

55 - Chữa chứng đàn bà đảo kinh

Đàn bà đảo kinh là một bệnh ít người mắc phải.

Có lẽ, chỉ vì người bệnh không tự biết mình bị bệnh này. Cũng có thể, khi bệnh nhân đi khám chứng chảy máu mũi, hoặc chứng khạc nôn ra máu, thầy thuốc đều chẩn đoán và cho theo dõi bệnh phổi, bệnh mũi, họng... Thầy thuốc đã không nghĩ tới, đó là một bệnh thuộc về phụ khoa. Cho nên cách chữa chưa đúng, để người bệnh phải mang bệnh kéo dài.

Trong hơn 40 năm làm nghề chữa bệnh, có một lần tôi đã gặp bệnh này.

Đó là vào năm 1986, từ bấy đến nay, tôi chưa gặp bệnh nhân nào như thế nữa. Tuy vậy, tôi thấy cũng cần ghi lại hình thái của bệnh, phưong huyệt tôi đã chữa khỏi bệnh đó, mong để nhiều người cùng biết, và sẽ có nhiều người được chữa đúng bệnh của mình.

Mùa hè năm 1986, anh H. H. B. vừa tốt nghiệp Đại học ở Hà Nội, trong thời gian chờ xin việc, anh đến học lớp Đông y châm cứu khoá 1, do tôi hướng dẫn. Anh học đến đâu, đã thực hành chữa bệnh cho người thân và bạn bè đến đấy. Một lần gặp bệnh khó, anh đã chữa năm, bảy ngày, nhưng bệnh không chuyển, anh đến tìm tôi, nhờ tôi chữa giúp.

Từ nhà anh ở khu tập thể Ng. h. Đống Đa, phố Nam Đồng (nay là phố Nguyễn Lương Bằng), anh đưa tôi đến nhà bệnh nhân. Nhà bệnh nhân có nghề buôn bán và sửa chữa đồng hồ, cửa hàng ở mặt phố, gần đối diện với ngõ vào nhà anh.

Bệnh nhân là một bà khoảng trên 40 tuổi, vóc dáng còn khoẻ mạnh, da dẻ

hồng hào. Thoạt nhìn thấy bà, ít ai nghĩ rằng bà là người bệnh. Bà kể với tôi : “Em bị bệnh này ngót hai chục năm rồi, em luôn có hai bộ hồ sơ bệnh án, một ở Viện chống lao Trung ương theo dõi, một nữa ở Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Mỗi khi em bị khạc nôn ra máu, chảy máu mũi, em lại đến khám ở Viện chống lao. Về bệnh phụ nữ, em bị mất kinh từ sau khi em sinh cháu thứ hai. Trong thời gian gần 20 năm nay, lâu lâu em lại phải đi khám phụ khoa, chỉ vì sợ bị lỡ kế hoạch, hoặc có bệnh hiểm nghèo gì đó ở bên trong. Nhưng tất cả những lần khám ấy, họ đều nói bộ máy sinh sản của em bình thường.” Nghe bà kể xong, tôi hỏi thêm : “Bà có thấy những lần bà bị ra máu ở mũi, miệng ấy, chúng đều có khoảng cách thời gian tương đối giống nhau hay không?” Bà nói: “Có ạ.”

Tôi biết chắc chắn bệnh bà là chứng “đảo kinh”, nhưng tôi đã không nói cho bà biết nhận định này.

Tôi tiến hành châm cho bà các huyệt sau : Thượng tinh, Cách du, Xích

trạch, Nghinh hương, Tỳ du. Dùng tổng hợp các thủ pháp : Từ tật, niệm

chuyển, đề sáp, cửu lục và khai bế. Làm phép tả lão âm số (36 x 3 = 108).

Châm được 10 ngày, tôi cho bệnh nhân nghỉ cách liệu trình. Nghỉ mới được

5 ngày, bệnh nhân thấy hành kinh trở lại. Từ đó tôi ngừng hẳn châm. Hai tháng sau, bệnh nhân hành kinh rất đều kỳ, không bị ra máu mũi, máu miệng nữa. Người con trai lớn của bà đã nhờ anh Bình, đưa cậu đến nhà tôi ở Hào Nam. Cậu nói : “Mẹ cháu biếu bác một cái đồng hồ báo thức để bàn, do nhà cháu lắp ráp.” Chiếc đồng hồ đó vỏ Việt Nam, máy Liên Xô. Thời ấy, loại đồng hồ này rất được dân Hà Nội ưa chuộng.

Bệnh của bà chủ hiệu đồng hồ, đúng như sách Đông y mô tả : “Đảo kinh, là đàn bà không có hành kinh, mà định kỳ phát sinh chảy máu mũi, hoặc thổ huyết.”

ý nghĩa của phương huyệt tôi đã dùng chữa thành công ca bệnh kể trên như sau : Thượng tinh, Nghinh hương là hai huyệt thanh nhiệt ở đường mũi, rất có hiệu trong chữa bệnh Tỵ nục huyết (chảy máu mũi). Cách du, Xích

trạch có tác dụng thanh huyết nhiệt ở phế, ở thượng tiêu. Công năng của tỳ chủ thăng đề, tả tỳ du để giảm bớt công năng thăng đề của tỳ, điều chỉnh công năng thống nhiếp huyết dịch của tỳ, làm cho huyết thuận tùng kinh mạch. Tổng hợp lực của toàn phương : Dứt xuất huyết ở mũi, miệng; điều huyết dịch đi theo kinh mạch, do đó kinh nguyệt được trở lại bình thường.

Ngày xưa, nho gia chê ‘đàn bà khó dạy’, nên họ nói : “Phụ nhân nan hoá”. Ngày nay, Đông y cho rằng : ‘Bệnh đàn bà khó biết’, cho nên có thể nói: “Phụ nhân bệnh nan tri”.

Mong đồng nghiệp trẻ cần phải đọc sách, phải ghi chép, tổng kết thực

tế, để làm tốt hai chữ “Lương y” như xã hội đã giao phó cho chúng ta.

56 - Chữa bệnh sốt rét thể lạnh

Mùa đông năm 1969, tôi có dịp trở lại công tác ở huyện Đơn Dương. Bác sỹ Mạnh ở đây đã được điều đi học trên ban dân y R (R là bí danh của Trung Ương cục Miền Nam). Phụ trách bệnh xá huyện Đơn Dương lúc này, bác sỹ quân y Ng. V. Đ.. Ông mới được tỉnh điều về tạm quyền.

Bệnh xá đóng ở nơi khe đá, vùng núi cao, khí hậu rất lạnh. Đêm đến, y

tá phải đốt củi to ở giữa lán, sưởi ấm cho thương binh mắc võng nằm quanh. Một anh thương binh vừa bị cắt chi, do trời lạnh, vết thương đau nhức không chịu nổi. Bác sỹ đã cho tiêm thuốc giảm đau, nhưng anh vẫn không tài nào ngủ được. Tôi bàn với bác sỹ, cho y tá tiêm thuốc nô-vô-ca-in vào huyệt loa tai tương ứng với vùng chi đau. Kết quả là anh đã ngủ được giấc dài. Từ sau đêm ấy, câu chuyện giữa tôi và bác sỹ Đ. đã gắn bó hơn.

Một hôm đội công tác vũ trang tuyên truyền Cầu Đất, thuộc thị trấn Đơn Dương đưa một bệnh nhân vào bệnh xá điều trị. Bệnh nhân là nữ, tuổi còn rất trẻ, chừng trên dưới 20 thì phải. Do bị sốt rét đã nhiều ngày, trông chị gầy và xanh xao, cho nên khó đoán đúng tuổi chị. Hàng ngày cứ vào khoảng 10 giờ sáng, chị lại lên cơn sốt rét. Bác sỹ kẹp nhiệt độ cho chị, nhiệt kế chỉ ở con số dưới 36 độ C. Cơn sốt rét kéo dài chừng 2 tiếng đồng hồ, sau đó thân nhiệt trở lại bình thường. Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc ki-na-cờ-rin cộng với vi-ta-min B1, theo đúng phác đồ quy định. Điều trị đã đủ bẩy ngày, nhưng cơn sốt rét thể lạnh không giảm.

Bác sỹ Đ. nói với tôi : “ở những cơ sở điều trị có đầy đủ trang thiết bị

bảo đảm, trong trường hợp thân nhiệt bệnh nhân giảm xuống tới mức có nguy cơ tử vong, muốn nâng thân nhiệt lên, người ta phải gây ra cơn sốt phản vệ. Thường thì người ta dùng cồn, hoặc sữa tươi đã tiệt trùng, tiêm vào tĩnh mạch bênh nhân. Lập tức thân nhiệt sẽ vọt lên cao.” Ông bác sỹ nói tiếp : “Theo Đông y, trường hợp thân nhiệt giảm đột ngột, các cụ thường cho uống ‘Tứ nghịch thang,’ gồm : Phụ tử, Can khương, Chich Cam thảo, cũng thu được kết qủa. Nhưng ở đây, chúng ta thiếu thốn những điều kiện ấy.”

Nghe ông nói xong, tôi mạnh dạn đề nghị xin được chữa cho bệnh nhân theo cách cứu bằng mồi ngải. Bác sỹ Đ. chấp nhận, ông giao cho tôi thực hiện ngay, còn ông sẽ theo dõi chặt chẽ.

Tôi đem ngải nhung ra, nặn sẵn thành 40 mồi ngải cỡ vừa (to bằng hạt ngô). Để bệnh nhân nằm trên võng, người nghiêng về bên trái. Chân trái ở dưới duỗi ra, chân phải bên trên hơi co lại. Huyệt Thái khê ở chân trái và huyệt Côn luân ở chân phải hướng lên. ở mỗi huyệt, tôi đặt trực tiếp một

mồi ngải, châm lửa đốt ở đỉnh nhọn của mồi. Lửa than ở mồi ngải ngún cháy. Khi lửa xuống còn cách mặt da 1/3 chiều cao của mồi, người bệnh cảm thấy nóng hơi nhiều, tôi gắp bỏ mồi ngải đi. Mồi ngải tiếp theo được đặt lên huyệt, châm lửa đốt. Lần lượt, ở mỗi huyệt được cứu đủ 10 mồi. Tiếp theo, người

bệnh xoay lại, nằm nghiêng về phía bên phải. Chân phải ở phía dưới để duỗi ra, chân trái ở phía trên hơi co lại. Lúc này huyệt Thái khê ở chân phải và huyệt Côn luân ở chân trái hướng lên. Các huyệt lần lượt được đặt mồi ngải, châm lửa đốt cứu, giống như đã làm khi bệnh nhân nằm nghiêng về bên trái.

Đốt xong hết số mồi ngải trên, người bệnh thấy cơn rét lạnh không còn. Bác sỹ Đ. kẹp lại nhiệt kế, trên nhiệt kế hiện lên số 36 độ 7.

Ngày hôm sau, việc đốt ngải được thực hiện trước giờ lên cơn sốt rét hàng ngày. Cứu ngải xong, cơn rét lạnh không xuất hiện. Tuy vậy, ngày thứ ba, tiếp tục cứu như ngày thứ hai, cơn rét lạnh cũng không thấy xuất hiện nữa. Bệnh nhân tỉnh táo, hoạt bát hơn, ăn ngủ cũng tốt hơn. Sau hôm đó, bệnh nhân xin ra viện, trở về đơn vị công tác. Chiến trường đang rất cần người mà.

Đầu năm 1978, Ty Văn hoá Hà Bắc mở hội thảo xây dựng quy hoạch nhà Lưu niệm ở xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn. Tôi đi trong đoàn cán bộ cục Mỹ thuật Bộ văn hoá về dự. 10 giờ sáng hôm đó, tôi được mời sang nhà dân trong xóm, nơi có cô cán bộ phòng văn hoá Từ Sơn đang lên cơn sốt rét. Tới nơi, tôi được xem nhiệt kế vừa lấy từ trong người cô cán bộ ra, nhiệt kế chỉ số 35 độ 8. Tôi tiến hành cứu ngải tại hai huyệt Thái khê, Côn luân. Cứu cả hai bên chân, mỗi huyệt đều 10 mồi. Cứu xong số mồi đã định, thân nhiệt bệnh nhân lên được 36 độ 8, cô cán bộ trở lại phòng họp được. Trưa hôm đó, cô có mặt vui vẻ dự bữa cơm, do ban tổ chức hội nghị chiêu đãi.

Mùa hè năm 1984, khi tham gia đề tài nhà nước tại Học viện Quân y, tôi được ông Trần Trí Bảo mời sang phòng cấp cứu hồi sức, Viện 103, nơi con gái vị giáo sư L. H. C. đang nằm. Bệnh nhân này dưới 20 tuổi, bị sốt xuất huyết dịch, đã sang giai đoạn hạ nhiệt độ. Được ông L. H. C. đồng ý, tôi xem bảng thân nhiệt vừa ghi trước đó, con số chỉ ở 36 độ 2. Tôi tiến hành phép cứu ngải ở hai huyệt Thái khê, Côn luân. Sau khi cứu đủ số mồi ở cả hai chân. Thân nhiệt bệnh nhân cũng lên được 36 độ 7. Chúng tôi yên tâm chào các bác sỹ trực cấp cứu và giáo sư L. H. C. ra về. Kết quả lần cấp cứu ấy đã gây được niềm tin yêu của toàn khoa sinh lý Lao động Quân sự, nơi tôi đang cộng tác.

Sau nhiều lần cứu ngải ở hai huyệt Thái khê, Côn luân để cấp cứu chứng sốt hạ thân nhiệt, hiệu quả đều giống nhau. Theo cách đó, tôi đã chữa chứng hạ thân nhiệt do các nguyên nhân khác nhau, thân nhiệt đều nhanh chóng trở lại bình thường.

Sốt rét thể lạnh (chứng hàn ngược), “lục kinh biện chứng” gọi là chứng “Thái dương, Thiếu âm đồng bệnh”. Học thuyết tạng phủ cho rằng : “Bàng quang nhiệt là chứng của phủ bàng quang; bàng quang hàn là do thận dương hư đưa đến.”

Huyệt Thái khê là loại du, trong ngũ du huyệt trên kinh thận. Loại du ở âm kinh, cũng là nguyên huyệt, có tác dụng thẳng vào khí nguồn gốc của tạng thận. Huyệt Côn luân là loại kinh, trong ngũ du huyệt trên kinh bàng quang. Loại kinh có tác dụng trị nóng rét, ho hắng. Kết hợp cứu cả hai huyệt Thái khê, Côn luân, có tác dụng phục hồi khí nguồn gốc ở tạng thận, làm ấm nóng thận và bàng quang. Thận ấm nóng sẽ làm cho bàng quang được ấm nóng. Cả hai ấm nóng lên sẽ trừ được chứng hàn tà gây ra Thái dương và và Thiếu âm đồng bệnh. Do đó mà thân nhiệt nhanh chóng khôi phục lại như thường.

57. Chữa chứng trẻ em sốt cao co giật

Tình huống ấy xảy ra vào lúc 14 giờ, một ngày cuối mùa hạ năm 2003. Khi tôi đang chuẩn bị đồ nghề, để bắt đầu làm việc buổi chiều, bỗng nhiên nghe tiếng chú Ch., em bác Đ. gọi tôi, nhờ tôi đến cấp cứu cho con chị Q.. Tôi xuống hết mấy bậc cầu thang, gặp ngay ông M. (một bệnh nhân) cũng vừa đi tới, ông chào tôi, nhưng tôi chỉ kịp gật đầu chào lại, và tôi cứ thế đi luôn. Ông M. thấy tôi rảo bước vội vàng, ông cũng hốt hoảng chạy theo.

Tới nhà cụ T. (ông nội chị Q.), tôi đã thấy tiếng ồn ào trên gác 2. Leo

trên cầu thang, lên tới hè trước cửa nhà, nhìn vào trong, tôi thấy người ta đông đúc, lại có tiếng khóc của mẹ cháu bé. Bước vào nhà, tôi thấy cháu bé đang ở trong vòng tay ôm bế của bà Kh. (hàng xóm nhà chị Q.), mắt cháu bé đang trợn ngược lên, tròng mắt cứng đơ. Hai bàn tay cháu nắm chặt, người cháu uốn ngửa lên. Hai chân cháu duỗi thẳng tới bàn chân và ngón chân. Tôi đến gần bên cháu bé, nghe rõ trong họng cháu có tiếng đờm rít khò khè theo từng nhịp thở. Thấy tôi bước vào, bà Kh. buông ngón tay cái đang bấm vào huyệt Nhân trung của cháu bé. Một bà ngồi cạnh bà Kh. kéo mẹ cháu bé lui ra, nhường chỗ để tôi vào chữa cho cháu. Vết tay bấm huyệt cho cháu bé hằn sâu vào da thịt, thành màu đỏ tím. Chắc là cháu đã được bấm day khá lâu rồi.

Tôi đứng khom lưng trước mặt cháu, hai bàn tay đưa lên, tôi dùng hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ đã cong lại, kẹp lấy hai dái tai cháu bé, vừa day, vừa kéo xuống. Tôi day liên tục, từ từ, dùng sức mạnh vừa phải. Khoảng chừng 5 đến 7 phút sau, nghe tiếng đờm rít ở họng cháu đã giảm dần. Kế đó, cháu buông hai nắm tay ra, người cháu chùng xuống, hai chân cháu mềm trở lại. Mi mắt cháu chớp chớp, tròng mắt cháu đưa qua, đưa lại tìm mẹ. Cháu khóc to lên, gọi : “Mẹ ơi.” Mọi người ồ lên, “Cháu tỉnh rồi, cháu tỉnh rồi. May quá.” Tôi nhìn ra cửa sổ thấy ông M. đang tròn xoe mắt kinh ngạc. Tôi chào cả nhà rồi ra về. Ông Minh cũng cùng đi về với tôi. Vừa đi, ông vừa nói : “Phúc đức cho mẹ con nhà nó, may mà có được ông thầy ở gần nhà.”

Thưa đồng nghiệp, Đông y học cho rằng : “Chứng sốt cao co giật” là do “Nhiệt cực sinh phong”, “Can phong nội động”. Phép chữa chứng trẻ em sốt cao co giật đơn giản này, tôi đã được nhà điêu khắc Võ Văn Tấn truyền cho từ khi tôi làm giáo viên trong khoa Điêu khắc trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội. Thời đó ông Tấn là trưởng khoa của tôi. Ông quê ở Miền Nam, tập kết ra Bắc năm 1954. Ông đã tốt nghiệp đại học ở trường này, lại được cử đi tu nghiệp cao học ở nước Bun- ga- ri về. Tuy xa quê hương đã lâu, nhưng ông vẫn còn nhớ những kinh nghiệm chữa bệnh dân gian ở quê hương miền Tây

Nam Bộ của mình. Khi ông truyền phép chữa chứng trẻ em sốt cao co giật cho tôi, ông đã dặn tôi rất kỹ : “Hãy nhìn vào mắt con trẻ mà điều khiển đôi tay. Mắt trẻ ngước lên, hai tay vừa vê, vừa kéo dái tai xuống. Mắt trẻ mở to mà con ngươi chúc xuống, hai tay vừa vê, vừa kéo dái tai ngược lên. Mắt trẻ nhìn chéo về bên trái, hai tay vừa vê, vừa kéo dái tai phải về bên phải. Mắt trẻ nhìn chéo về bên phải, hai tay vừa vê, vừa kéo dái tai trái về bên trái. Phải vê hai dái tai của đứa trẻ liên tục, cho tới khi cháu bé tỉnh lại mới được dừng.”

Mỗi khi chữa khỏi một trường hợp bệnh này, tôi thường dặn kỹ người nhà bệnh nhi cách thao tác vê, kéo dái tai. Bởi vì, đứa trẻ đã có lần sốt cao co giật, sau này, nếu cháu đó bị sốt cao, bất kể vì nguyên nhân gì, đứa trẻ đó rất dễ bị phát cơn co giật trở lại. Cháu cần phải được chữa sớm để tránh những di chứng về sau.

Mong các đồng nghiệp, khi chữa cho bệnh nhi, cũng nên dặn lại người nhà cháu như tôi đã làm.

58 - Chữa bệnh hạch ở cổ do lao

Những năm Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Việt Nam (nay là trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội) sơ tán về thôn Hữu Định, xã Quang Minh, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc (nay vùng này thuộc tỉnh Bắc Giang), tôi được nhà trường xếp ở nhờ nhà ông Ng..

Sau nhà ông Ng. là nhà người anh họ của ông, tên là Th.. Bà Th. có ba cái hạch ở cổ, nhưng bà chẳng để ý gì đến việc chữa chạy cả. Hôm phát hiện thấy hạch ở cổ bà, tôi hỏi bà : “Bà đã đi khám chữa hạch này ở đâu chưa?” Bà nói : “Biết khám ở đâu?, làng này nhiều người có hạch như tôi, không thấy ai đi khám cả. Có người hạch nhiều lắm, vòng quanh khắp cổ. Nguời ta bảo đó là bệnh tràng nhạc.”

Thấy tôi biết chữa bệnh, bà đã nhờ tôi khám cho bà. Ba cái hạch này đều

ở dưới thùy tai bên phải, quanh cơ ức đòn chũm, đường kính từ 1- 2 cm, di động giữa da và cơ, không có chân bám. Người bà khoẻ mạnh, rắn chắc, lao động giỏi, nhưng ông Th. và hai người con, một trai, một gái đều gầy gò, ốm yếu. Vì thế, tôi nghi hạch ở cổ bà là do sơ nhiễm lao, hoặc lao hạch. Tôi khuyên bà có thể uống thuốc để chữa. Bà xin tôi đơn thuốc. Tôi ghi vào mảnh giấy và nói với bà : “Bà nên đến Huyện hội Đông y (nay là hội Y học cổ truyền) để mua thuốc.”

Lúc đó là mùa đông năm 1965, một cán bộ ở Huyện hội Đông y Hiệp Hoà đã nói với bà Th. : “Đơn ghi: Xuyên bối mẫu 60 gr, Liên kiều 60 gr, chúng tôi làm sao mà dám bán cho bà. Hiện nay Xuyên bối mẫu đang được

dành cho những bệnh nhân ho gà, có chỉ định của bác sỹ khám bệnh. Tôi

chỉ có thể bán cho bà mỗi thứ 20 gr, theo quy định hiện hành.”

Bà Th. đem thuốc về, bà sang nhà hỏi tôi cách dùng. Tôi phân mỗi loại thuốc làm 5 phần, gói làm 5 gói. Mỗi gói đều có hai thứ thuốc, rồi tôi dặn bà : “Mỗi ngày bà dùng 1 gói, sắc nước uống.”

Sau khi về quê nghỉ tết Bính ngọ (1966) lên, tôi đi thăm nhà bà con trong xóm. Tới nhà ông bà Th., bà khoe với tôi : “Mấy cái hạch biến đi đâu mất rồi anh ạ.” Tôi nói: “Chúc mừng bà.”

Năm 1987, một người quen của tôi ở làng Đông Hồ, gần chợ Bưởi, bác đưa cô cháu gái đến nhờ tôi chữa bệnh. Chị bệnh nhân này nói : “Cháu tốt nghiệp Đại học kế toán, đã đi xin việc qua rất nhiều cơ quan. Vừa may được một cơ quan nhận đơn cháu xin vào làm việc, thì cháu lại bị bệnh này.” Chị vừa nói vừa vén mái tóc uốn buông xoã xuống hai vai. Để lộ vùng cổ có rất nhiều hạch ở hai bên. Chị nói thêm : “Cháu mệt lắm, về chiều càng mệt hơn, đêm đến, cháu ngủ ít hẳn đi.” Tôi hỏi chị : “Chị đã đi khám bệnh lao

chưa?” Chị giàn giụa nước mắt, nghẹn ngào : “Nếu cháu đi khám, phát hiện ra cháu bị bệnh lao, cơ quan đâu dám nhận cháu vào làm việc nữa. Cháu sẽ mất đi cơ hội hiếm hoi này. Lại còn tương lai của cháu nữa. Cháu lo lắm ông ạ.”

Tôi ghi cho chị tờ đơn, trong đơn viết :

Xuyên bối mẫu: 1 đồng cân, Liên kiều: 1 đồng cân.

Cân 10 thang. Mỗi ngày dùng 1 thang, sắc với nước uống.

ít lâu sau, chị đến cảm ơn tôi. Chị nói : “Cháu uống hết số thuốc đó, bệnh lui dần rồi khỏi hẳn. Cháu cũng đã được cơ quan nhận vao làm và giao công tác. Cháu mừng lắm. Bố mẹ cháu thấy cháu đã khỏi bệnh, lại được đi làm, các cụ đã sắm lễ, cúng tạ tổ tiên trên nhà thờ họ. Các cụ vui như trẻ hẳn lại ông ạ.”

Năm 1998, tôi nhận chữa một bệnh nhân có sưng u tuyến sữa. Hàng ngày chồng bà chở bà đến nhà tôi (chồng bà là một cảnh sát khu vực). Sau nhiều lần để ý, tôi thấy ông rất mệt mỏi, ông ngồi chờ bà mà ngủ gà, ngủ gật. Tôi hỏi thăm ông : “Vì sao trông ông có vẻ mỏi mệt đến thế?” Ông nói : “Cháu bị bệnh lao hạch, bệnh viện cho cháu uống thuốc chống lao kéo dài. Bệnh không thấy khỏi, mà ngày càng mệt thêm.” Nói xong, ông đã cho tôi xem đám hạch ở cổ ông.

Tôi cho ông đơn thuốc như đã kể ở phần trên, và khuyên ông nên dừng thuốc Tây. Ông nghe lời tôi, ông đã uống hết 20 thang thuốc. Bệnh ông từ đấy khỏi hẳn.

Theo thông báo, hiện nay số người mắc bệnh lao ngày càng tăng. Trong đó, đáng ngại nhất là trẻ em, bị sơ nhiễm lao, có hạch ở cổ. Hy vọng bài thuốc kể trên sẽ giúp cho người bệnh đỡ tốn kém và tránh được những tác dụng phụ của các loại thuốc hoá chất.

Dưới đây là tóm tắt dược tính của hai vị thuốc trong đơn :

1. - Xuyên bối mẫu: - Vị cam, tính vi hàn.

- Vào hai kinh Tâm, Phế.

Tác dụng: - Hoá đàm, tán kết.

- Nhuận Phế, chỉ khái. Lượng dùng : 1 đến 2 đồng cân.

Chú ý : Thuốc này phản với Ô đầu.

2. - Liên kiều: - Vị khổ, tính hàn.

- Vào hai kinh Tâm, Đảm.

Tác dụng : - Giải độc y sang . Thanh hoả, tán kết.

- Tán nhiệt, giải biểu.

Lượng dùng : 1 đến 5 đồng cân.

59 - Chữa bệnh đàn bà lãnh cảm

Ngày 14 tháng 9 năm 1994, ông Ng. Kh. Â. là sĩ quan quân đội, người quen của tôi đến chơi. Đi theo ông là một nữ quân nhân, ông Â. giới thiệu với tôi, cô đến nhờ tôi chữa bệnh. Cô tên là H., nhà ở trong khu tập thể Nam Đồng, Hà Nội. Tuổi cô tuy đã vào khoảng 40, nhưng người cô nhỏ nhắn, quân phục gọn gàng, tác phong nghiêm chỉnh, nên cũng ưa nhìn.

Cô kể bệnh và quá trình chạy chữa của cô như sau :“Em bị bướu cổ, đã đi khám ở bệnh viện Nội tiết, người ta cho em uống thuốc MTU kéo dài. Khi em thấy mình bị đau hai bên đầu, vùng tóc mai, em đi khám ở Viện quân y

108, họ chẩn đoán em bị kẹt động mạch não, gây ra thiếu máu não. Họ đã cho em uống thuốc giãn mạch Stu-zê-rôn. Em uống thuốc vào, bệnh có thấy đỡ, nhưng nghỉ uống thuốc thì đầu lại thấy đau, do đó em không dám bỏ thuốc. Một hôm, bạn gái em phát hiện mặt em bị rám da ở hai gò má, trông

như có bụi cát bám vào. Anh Â. khuyên em nên đến nhờ bác khám và chữa

cho em.”

Việc trước tiên, tôi yêu cầu cô ngừng nga yviệc uống thuốc giãn mạch máu não. Tôi hẹn với cô, sau đó bốn ngày, tôi mới châm chữa cho cô. Chỉ sau thời gian tôi chữa không lâu, chứng đau đầu do kẹt động mạch não của cô không còn nữa. Cô lại nhờ tôi chữa sang bệnh lãnh cảm của cô. Cô nhỏ nhẹ nói :“Bác thông cảm em mới dám nói, mấy tháng nay em bị chứng lãnh cảm, em rất sợ phải chiều nhà em. Chồng em thấy em giảm ham muốn, anh ấy tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Em thấy lo lo bác ạ. Em biết tính nhà em, anh ấy rất tốt. Anh ấy chưa hề có điều gì đáng trách trong quan hệ với bạn bè của anh ấy cả. Nhưng nếu bệnh này của em kéo dài, biết đâu, điều gì đó lại không sảy ra.”

Theo số đo nhiệt độ kinh lạc lúc này, thận dương của cô rất kém. Tôi hỏi cô cho có thêm dữ liệu để chẩn đoán :“Bệnh của cô chắc hẳn là do thiếu dịch âm đạo. Âm đạo bị khô, khi quan hệ vợ chồng sẽ thấy đau đớn, khó chịu. Bởi nguyên nhân đó, làm cho cô từ ngại, rồi đến sợ ?” Cô nói

:“Đúng thế bác ạ.”

Tôi tiến hành châm cho cô ở huyệt Di tinh, làm tổng hợp các thủ pháp : Từ tật, niệm chuyển, đề sáp, cửu lục và khai bế. Dùng phép bổ lão dương số (27 x 3 = 81), mỗi ngày châm một lần.

Tôi chọn huyệt Di tinh để chữa bệnh cho cô H., vì :

Phần Du huyệt học, sách Châm cứu học, do Thượng Hải Trung y Học

viện, biên soạn năm 1974. Trang 256 viết về huyệt Di tinh như sau : “Vị trí,

ở huyệt Quan nguyên, sang hai bên 1 thốn. Chủ trị : Di tinh, mất tinh sớm,

liệt dương, bìu thấp chẩn.”

Tôi thấy những chứng đã ghi trong sách như trên, đều thuộc về thận dương hư. Phù hợp với mô hình thận dương hư trong bảng số đo nhiệt độ của cô H.

Ngày hôm sau, khi cô H. đến chữa bệnh, cô kể ngay :“Đêm qua, em đã thấy có một ít dịch ở âm đạo.”

Sau khi châm lần thứ 2, rồi tiếp đến châm lần thứ 3, bệnh nhân thấy dịch

ra nhiều hơn.

Qua lần châm thứ 4, ngày sau đó cô đến cảm ơn tôi và nói :“Em thấy đã có nhu cầu tình cảm rồi. Hôm nay, bác không phải châm cho em nữa đâu. Em sợ, nếu châm thêm, em không kiềm chế được, mà tự động đòi hỏi, chồng em thấy lạ, anh ấy sẽ sinh ra nghi ngờ em.”

Từ kết quả lần chữa cho cô H. đó, tôi đã vận dụng kinh nghiệm này chữa cho nhiều bệnh nhân nữ bị chứng lãnh cảm, hiệu quả đều giống nhau. Chưa bệnh nhân nào tôi phải dùng quá 4 lần châm.

Vì vậy, trong sách “Cẩm nang chẩn trị Đông y - Châm cứu” do tôi biên soạn, nhà xuất bản Y học Hà Nội xuất bản, phát hành năm 2003, ở phần Tân huyệt, huyệt Di tinh, trang 396, tôi đã bổ sung thêm vào tác dụng chủ trị

:…., đàn bà lãnh cảm.

60 - Chữa bệnh đàn bà cường dâm

Năm 2002, một lần anh Ng. H. Đ., môn sinh khoá 7, lớp Đông y châm cứu (năm1989), đến hỏi tôi cách chữa bệnh cường dâm. Anh nói :“Thưa thầy, một chị 24 tuổi, chưa có chồng (ở quê cháu, vào tuổi này chưa có chồng, người ta gọi là con gái ế chồng), nhà chị ở làng bên, cùng xã Hạ Mỗ với cháu, đến xin cháu chữa bệnh.

Cháu đo nhiệt độ kinh lạc xong, thấy ở cọc 10 - 10’ có Tâm bào + lớn hơn ở tâm nhiều; Thận +, Đảm +, Vị +, Can +,Tỳ +, con số cũng rất lớn. Quan sát kỹ người bệnh, thấy chị có ánh mắt long lanh, gò má ửng hồng, cử chỉ ngượng ngùng, lúng túng. Kết hợp giữa bài giảng của thầy về mô hình số đo nhiệt độ kinh lạc, với dáng vẻ khác lạ của người bệnh, cháu nghi đây là bệnh cường dâm. Hiện nay, hàng ngày người bệnh đến nhà cháu rất đông, cháu không đủ sức châm. Vả lại, cháu cũng còn rất trẻ, nhận châm chữa cho chị này, e rằng trong khi làm việc, chị ta có bộc lộ cử chỉ gì thất thố, sẽ ảnh hưởng tới uy tín của cháu. Cháu xin thầy bài thuốc, cháu về sẽ bốc thuốc cho chị ấy uống.”

Tôi lấy giấy bút, chép bài trong sách “Nam nữ bách bệnh nghiệm phương”, mục bệnh Đàn bà cường dâm, chọn phương có hiệu dụng phù hợp với mô hình hoạt động công năng tạng phủ ở số đo kinh lạc của chứng đàn bà cường dâm, đưa cho anh Đ.. Bài thuốc ấy công thức như sau :

“- Long đảm thảo - 10 gr, - Sài hồ - 10 gr,

- Hoàng cầm - 10 gr, - Hoàng liên - 10 gr,

- Chi tử - 10 gr, - Đương quy - 10 gr,

- Câu đằng - 10 gr, - Bạc hà - 10 gr,

- Trân châu mẫu - 30 gr, - Dạ giao đằng - 30 gr,

- Sinh long cốt - 15 gr, - Sinh mẫu lệ - 15 gr,

- Sinh địa - 12 gr, - Chu sa (nghiền mịn, thuỷ phi,

bỏ vào lúc uống)- 3 gr. Mỗi ngày 1 thang, sắc với nước, chia làm hai lần uống.

Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam (20 tháng 11 năm 2002), anh Đ. đến thăm tôi và nói :“Cháu theo các cụ xưa dặn :”Cơm ba bát, thuốc ba thang.” Cháu bốc cho chị bệnh nhân này 3 thang thuốc. Cháu dặn chị cách sắc thuốc, cách chia Chu sa cho từng lần uống ở mỗi thang. Cách kiêng khem những thức ăn cần tránh khi điều trị bệnh. Cháu không quên dặn chị ấy sau khi uống hết ba thang thuốc này thì đến khám lại.

Thật là ngạc nhiên, khi chị đến khám lại, cháu thấy số đo kinh lạc đã thay

đổi mô hình. Thần thái người bệnh cũng khác hẳn với lần trước. ánh mắt

chị dịu dàng, cử chỉ chị khiêm tốn, tế nhị... Sau khi xem xét kỹ số đo và quan sát người bệnh, cháu nói với chị đó rằng : “Bệnh của chị đã khỏi, chị không cần phải uống thêm thuốc nữa. Từ nay, chị có thể yên tâm làm ăn như mọi người bình thường khác.” Chị vui vẻ chào cháu và mọi người xung quanh để ra về.

Khi chị đi khỏi nhà cháu chừng một đoạn khá xa, một bà khách ở gần nhà chị nói với mọi người rằng :“Cô bé này, ngày hôm nay tôi nhìn thấy cô ấy khác hẳn đi ? Trước đây, nó bạo mồm, bạo miệng lắm, hễ thấy đàn ông, con trai ở đâu là sán đến, mắt long lên sòng sọc, thân mình thì uốn éo, mặt thì đỏ ửng lên. Góp chuyện, đùa bỡn với nhau không thể nào dứt ra được. Bây giờ lại lì xì, chậm chạp, lừ đừ như ông từ vào đền.”

Thấy bệnh nhân chuyển biến rất mạnh, cháu hơi lo ngại, e rằng bệnh nhân đổi sang trạng thái trầm cảm. Nhưng rất may, bệnh nhân đã dần dần trở lại bình thường. Chị sinh hoạt và lao động như mọi người trong làng.

Từ đó cháu mới thật yên tâm.”

Năm 2004, gia đình ông M. là người quen của tôi, nhà ông ở quận Ba Đình. Ông đưa con gái mình đến nhờ tôi chữa bệnh, cháu tên là L., lúc đó cháu 15 tuổi. Ông kể về bệnh của con mình như sau :“Khoảng năm, sáu tháng nay, cháu học hành kém hẳn. Cháu hay bỏ nhà đi chơi với bạn bè. Có nhiều hôm cháu ngủ qua đêm ở nhà bạn. Chúng tôi khuyên bảo cháu thì cháu nổi khùng lên. Có lúc cháu nói năng, hành động rất khác thường. Đã có đêm, chúng tôi phải nhốt cháu trong buồng, khoá cửa lại. Không ngờ đêm đến, cháu buộc dây, giòng qua cửa sổ, leo xuống trốn đi mất. Gia đình định đưa cháu đi bệnh viện tâm thần ở Trâu Quỳ. May mà cô cháu đến nói chuyện với ông, ông nhận lời chữa cho cháu.”

Theo số đo kinh lạc, tôi thấy cháu có chứng cường công năng tình dục. Tôi đã nói với bố của cháu :“Gia đình nên thông cảm, cháu đây không phải bị bệnh tâm thần. Cháu chỉ bị chứng cường công năng tình dục. Cho cháu uống thuốc, cháu có thể khỏi bệnh. Khi công năng tình dục giảm xuống, cháu sẽ trở lại

học hành bình thường. Gia đình nên giúp đỡ cháu, không nên mắng mỏ cháu như những đứa con hư hỏng, sẽ làm cháu tổn thất tình cảm, khó hàn gắn lại được.”

Tôi quay sang hỏi thêm cháu :“Cháu nói thật đi, ông sẽ chữa cho cháu khỏi bệnh. Có phải trong đầu cháu luôn mong muốn được sinh hoạt tình dục; trong người cháu đòi hỏi, mà ý thức cháu không tự kiềm chế được phải

không?” Cháu trả lời tôi :“Thưa ông, đúng thế ạ.” Tôi kê cho cháu một đơn thuốc (như đã kê để anh Đương đem về điều trị cho bệnh nhân tôi vừa

kể ở trên), yêu cầu gia đình cân cho cháu 5 thang, thuốc cân tại cửa hiệu Toàn Mỹ, số 56, phố Lãn Ông. Khi cháu uống hết 5 thang đó mới đến khám lại và điều trị tiếp.

Sau 5 ngày uống thuốc, hai bố con cháu đến. Tôi hỏi cháu :“Cháu thấy trong người như thế nào ?” Cháu đáp :“Thưa ông, bây giờ cháu không nghĩ gì đến chuyện đó nữa ạ. Cháu lại muốn được đi học, nhưng đầu cháu chẳng còn nhớ được gì. Xin ông chữa cho cháu chứng mau quên để cháu còn đi học.”

Tôi chuyển sang chữa châm cứu cho cháu để phục hồi trí nhớ bằng

phương huyệt :

Thiếu thương, Thần môn, Tâm du, Dũng tuyền. Làm thủ pháp tổng hợp

4 loại : Từ tật, niệm chuyển, cửu luc, khai bế. Đều dùng bổ pháp, lão

dương số (27 x 3 = 81). Châm cho cháu được 7 ngày (7 lần), cháu nói

:“Ông ạ, cháu học bài, làm bài, cháu đều đã nhớ được, xin ông cho cháu nghỉ châm để cháu về đi học tiếp ạ.” Từ đấy, cháu trở lại học hành bình thường.

Tình hình học sinh nữ cuối cấp phổ thông hiện nay, do bị tác động của phim ảnh, báo chí và các nguồn văn hoá phẩm ngoài luồng, đã làm cho các cháu bị kích động bản năng quá sớm. Công năng tình dục tăng tiến, sức học của các cháu kém dần. Học kém thì sinh ra ngại học. Có một số cháu đã sa vào con đường xấu. Ta nên nghĩ đến cách kết hợp giữa giáo dục nhận thức với điều chỉnh công năng tạng phủ trong cơ thể các cháu. Hy vọng bài thuốc trên đây có thể giúp nhiều cháu vượt qua khó khăn bản năng, trở lại học hành tốt. Như vậy các cháu mới trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

61- Chữa chứng đàn ông cường dâm

Năm 1990, một lần ông Ng. Kh. Â., sĩ quan quân đội tại chức, đến gặp

tôi. Ông hỏi tôi về cách xử lý một bệnh khó nói.

Ông kể rằng :“Em có một người bạn cùng ở trong khu chung cư Trung Tự. Người bạn này đón ông bà thân sinh từ quê lên ở cùng. đã được mấy năm. Theo quan niệm xưa, gia đình này được chữ “Tam đại đồng đường.” Từ đấy, nhà có ông, bà nội, các cháu được lớn lên trong sự chăm sóc của ông bà. Nếp ăn ở, học hành của chúng cũng chăm, ngoan hơn. Bố, mẹ các cháu đi làm cũng được yên tâm về nhà cửa, con cái. Ai cũng khen gia đình này đầm ấm, hạnh phúc.

Đột nhiên trong vòng mấy tháng qua, cụ ông nổi cơn cuồng nhiệt, lúc nào cũng muốn gần gũi cụ bà. Nhiều khi đòi hỏi của cụ ông đến mức cụ bà

không chịu nổi. Cụ bà tuy kém cụ ông mấy tuổi, nhưng cả hai cụ đều đã trên bảy chục. Cụ bà thấy cụ ông thay đổi lạ lùng, bà sinh ra ngượng ngùng với con cháu. Lúc đầu, chỉ hai vợ chồng anh bạn biết

việc đó. Lâu dần, sự cãi cọ giữa hai cụ, làm cho các cháu để ý tò mò tìm hiểu. Chúng nêu ra thắc mắc, nhờ bố mẹ giải đáp. Thế rồi, chuyện ấy đã đến tai hàng xóm, ai ai cũng biết chuyện này. Họ chyền tai nhau những lời dị nghị, làm cho vợ chồng bạn em rất khó xử.”

Tôi nói với ông Â. :“Nếu như hoàn cảnh ăn, ở rộng rãi hơn, có phòng riêng cho ông bà, cha mẹ, phòng riêng cho con cái, chuyện tình cảm riêng tư của hai cụ chẳng đến nỗi khó hiểu. Nhiều người còn cho rằng, đó là biểu

hiện sức khoẻ của các cụ còn tốt, rất đáng mừng. Nhưng trong tình trạng đô thị hoá ở nước ta ngày càng nhanh, nhà ở ngày càng trở nên khó khăn. “Tam đại đồng đường” trong không gian sống chật hẹp, cũng trở thành nỗi khổ tâm cho không ít gia đình. Có hộ, tuy ba thế hệ cùng sống trong một mái nhà, nhưng do nhu cầu khác nhau, nhận thức khác nhau của mỗi thế hệ có khoảng cách không nhỏ. Những khó khăn đời sống dẫn đến va chạm kinh tế, tạo ra cảnh nhiều nồi, nhiều bếp trong một đại gia đình. Thực trạng ấy còn được cộng thêm thói quen sinh hoạt từ các ngành, nghề khác nhau, của các thành viên cũng trở thành mâu thuẫn, làm tổn thương đến lòng hiếu, đức thảo truyền thống ngàn đời. Đó là một vấn đề lớn của xã hội.”

Ông Â. hỏi tôi :“Thưa bác, theo em nghĩ, nếu ta coi sự thay đổi ở ông cụ có thể là một loại bệnh. Nhưng, cách đặt vấn đề chữa bệnh cho ông cụ cũng không phải là dễ đâu.” Tôi hỏi ngay ông Â. :“Ông cụ nhà ấy có uống được rượu hay không?” Ông Â. nói :“Cụ có uống rượu.” Tôi mách cho

ông Â. một kế :“Ông nói với bạn ông, hãy tìm mua một lạng cao trăn toàn tính (vào những năm đó, ở Hà Nội rầm rộ trào lưu nấu cao bồi dưỡng. Cao

nấu gồm đủ loại : Gấu, khỉ, hổ, trăn...) đem về, đun với một ít nước cho cao hoá lỏng ra. Sau đó pha vào nửa lít rượu, lắc đều. Nhân cớ một chuyến đi công tác xa về, đem ra biếu cụ. Nói rằng đây là cao xương hổ, mới nhờ mua được, con biếu bố để bố bồi dưỡng.”

Sau buổi trao đổi đó nửa tháng, ông Â. ghé qua nhà tôi báo tin :“Cụ khỏi bệnh rồi. Anh bạn ấy theo đúng kế của ta, ông cụ bị lừa. Cao trăn toàn tính thế mà hay thật. Có lẽ cũng nên cảnh báo cho đám đàn ông ở lứa tuổi sôn sồn, nên lánh xa cao này. Nếu lỡ ra dùng phải, hỏng hết bánh kẹo là cái chắc.” Nói xong ông Â. cười khoái trá hết cỡ.

Ngày nay, cao động vật ngày càng hiếm, lại hay bị lừa mua phải của giả. Những người có hiện tượng dương vật cương lên đến mức khác thường, dễ dẫn đến thái độ bạo hành gia đình. Nếu họ có nhu cầu, ta có thể làm cho họ giảm bớt công năng tăng tiến bằng cách : “Châm vào hai huyệt Lãi câu, Trung phong, làm tả pháp lão âm số (36 x 3 = 108). Số lần châm lấy bệnh lui làm mức.” Bệnh ở mức độ quá quắt lắm, có thể cho dùng bài thuốc sau đây, chắc chắn có thể hoá giải được bệnh :

- Long đảm thảo : 10 gr. Hoàng cầm : 10 gr.

- Hải kim sa : 10 gr. Sơn chi : 10 gr.

- Trạch tả : 10 gr. Đương quy : 15 gr.

- Sinh địa : 15 gr Tri mẫu : 110 gr.

- Hoàng bá : 10 gr.

Sắc với nước, mỗi ngày một thang. Chia làm hai lần uống.

Tình hình học sinh nam ở các lớp cuối cấp phổ thông hiện nay, do đời sống vật chất đầy đủ, lại bị tác động của văn hoá phẩm ngoài luồng, cho nên, có một số cháu bị kích động bản năng quá sớm. Mặt khác, nhận thức trách nhiệm xã hội của cá nhân chưa đầy đủ, số cháu này chỉ ham đua đòi hưởng thụ. Những

cháu ấy, vì thế đã học hành kém sút, có cháu đã sa vào con đường hư hỏng. Nếu ta biết kết hợp giữa giáo dục nhận thức, đi đôi với điều chỉnh công năng sinh lý, giữ cho bản năng ở mức bình thường, chắc chắn các cháu sẽ trở thành người tốt. Hy vọng, chứng công năng sinh lý nổi mạnh lên, ý thức không tự chủ được, như tôi vừa nêu trên, ta dùng các phép chữa bằng châm cứu, uống thuốc, có thể giúp cải thiện tình hình cho số học sinh cuối cấp yếu kém hiện nay.

62 - Chữa chứng thoát vị bẹn

Ông Ng. V. N., bác sỹ quân y, chuyên khoa 2 ngành Đông y, ông làm việc tại khoa Đông y ở một bệnh viện quân chủng. Năm 2000, được học viên cũ của tôi giới thiệu, ông xin theo học khoá x , lớp Đông y - Châm cứu tại nhà tôi.

Ông đã lớn tuổi, có bằng cấp chuyên ngành cao, ông lại đang giữ trọng

trách ở một bệnh viện lớn, cho nên tôi rất quý trọng ông. Trong lớp học, tôi luôn coi ông như một người bạn đồng nghiệp tin cậy để trao đổi. Những vấn đề cần đến lý luận Tây y, tôi nhờ ông thay tôi giới thiệu với học viên cả lớp. Những vấn đề cần nhấn mạnh, đi sâu trong lý luận Đông y, tôi cũng nhắc ông, ở nơi có điều kiện, ông hãy dùng công cụ hiện đại làm các thí nghiệm chứng minh. Tấm gương khiêm tốn, cần cù học hành ở ông được các học viên trẻ kính nể noi theo.

Vào một buổi chiều mùa hè năm 2002, ông đến nhà tôi than vãn :“Em bị chứng thoát vị bẹn, chỉ vì một lý do thật đơn giản. Giờ nghỉ trưa cách đây hai hôm, em đang nằm. Một anh bạn ngồi chơi bên cạnh, bỗng nhiên ngả kềnh xuống, gối đầu lên bụng em. Bị đột ngột, bụng em phản ứng thót lại, em thấy tức ở hố bẹn bên trái. Em sờ vào, biết là mình đã bị thoát vị. Bạn bè em khuyên em nên đi mổ ngay. Nhưng em vốn rất ngại phải đụng chạm đến dao, kéo. Phần nữa, bây giờ là mùa hè, mổ xẻ cũng dễ bị nhiễm trùng. Vì thế, em đến nhờ thầy chữa giúp cho em.”

Tôi nói với ông N.:“Tôi sẽ bầy cách lấy huyệt, đưa ngải nhung, ông đem

về giao cho cấp dưới của ông, làm phép cứu trực tiếp tại huyệt đó cho ông.” Ông N. vội nói “Thôi, em cố gắng đến, cứ nhờ thầy chữa giúp em thôi.”

Tuy trời hôm ấy rất nóng nực, nhưng nể ông, tôi cũng tiến hành phép “cứu tam giác” (một loại huyệt lạ ngoài kinh, chuyên trị loại bệnh này) để chữa cho ông. Trước hết, tôi lấy một sợi lạt tre dài, dùng một đầu đo vòng qua đôi môi đã ngậm lại bình thường, từ khoé mép bên này, sang khoé mép bên kia, đánh dấu lại. Đem sợi lạt ra để ở nơi bằng phẳng. Lấy đoạn vừa đo được làm kích thước gốc, đo tiếp thêm hai đoạn nữa đều dài bằng kích thước gốc đó, chỗ thừa ra cắt bỏ đi. Gấp đoạn lạt còn lại làm ba phần bằng nhau, thành một hình tam giác đều. Đem đặt tam giác đó lên bụng ông N., Đỉnh phía trên của tam giác để vào giữa rốn, hai đỉnh còn lại, quay xuống bụng dưới, cân đều hai bên so với đường chính giữa bụng. Dùng bút mực đánh dấu hai đỉnh dưới của tam giác xuống bụng, bỏ lạt đi, tiến hành đặt mồi ngải lên huyệt.

Do nguyên tắc cứu ở bên đối, cho nên nơi thoát vị là hố bẹn bên trái,

điểm cứu ngải phải là đỉnh tam giác dưới ở bên phải. Tại đây, tôi đặt trực

tiếp mồi ngải lên. Mỗi mồi ngải đốt, từ khi cây hương điểm hoả ở đỉnh chóp mồi ngải, tôi luôn theo dõi sức cháy của ngải. Khi lửa ngún cháy xuống 2/3 chiều cao của mồi, tôi hỏi ông N. :“Ông đã thấy nóng rát chưa?” Ông N. đáp :“Chưa ạ.” Tôi để thêm chút ít nữa rồi bỏ mồi ngải đi, tiếp theo là mồi thứ 2, thứ 3... Tôi cứu đủ 7 mồi thì dừng.

Hôm sau, cũng vào đầu giờ buổi chiều, ông N. đến, ông cho tôi xem vết cứu bị bỏng. Ông ân hận nói :“Cũng là tại em chưa được cứu ngải bao giờ, em tưởng cố gắng chịu nóng càng nhiều càng tốt.” Tôi nói

:”Cứu ngải có vết bỏng, phải đợi vết bỏng khô đi mới được cứu lại. Tôi lấy kim nhỏ chích vào vết bỏng, dùng bông thấm nước, đặt lên để hút hết dịch trong vết bỏng ra, giữ nguyên da để bảo vệ vết thương.

Ba hôm sau, vết bỏng đã khô. Ông N. đến và nói :“Điểm thoát vị của em đã co lên được nhiều.” Tôi đưa ngải nhung để ông N. cầm về tự cứu lấy cho mình. Ông nói :“Bây giờ thì em biết cách làm rồi, lại có dấu cũ của vết

bỏng. Em có thể tự làm lấy được, xin cảm ơn thầy.” Buổi học vào chủ

nhật sau đó, ông đến học, bệnh của ông đã khỏi.

Ông bác sỹ N. là người có nghề Đông y gia truyền. Vào quân đội, ông lại được đi học theo hệ thống quân y đến hết bậc đại học, rồi đến chuyên khoa 2. Nhưng ông vẫn học tôi, chỉ vì ông muốn nắm vững hơn hệ thống lý luận triết học Phương Đông ở tôi, để về làm việc cho có tự tin hơn. Mặt khác, ông tranh thủ gom nhặt những tài liệu tôi sưu tầm, trích dịch rất đa dạng, phong phú, tôi đã cung cấp cho học viên sao chép miễn phí, giúp họ làm giàu thêm kho tàng tư liệu mà các trường lớp khác ít có. Nhưng khi về vận dụng hàng ngày, ông cũng giống như bao người khác làm nghề Đông y đã đến học tôi. Họ chỉ chú ý chuyên dùng bắt mạch, đo máy để chẩn đoán, bốc thuốc. Phần châm cứu, rất ít người dám vận dụng hằng ngày để chữa cho bệnh nhân, chỉ vì thao tác châm cứu chữa bênh tốn nhiều thời gian, không kinh tế. Việc ông đến nhờ tôi chữa chứng thoát vị bẹn là một ví dụ điển hình. Tuy vậy, ông được tôi chữa bệnh cho bằng cứu ngải lần này, ông đã thoát khỏi một ca phải đụng đến dao, kéo vào người. Đó cũng là một kỷ niệm khó quên trong ông.

63 - Chữa chứng đàn bà băng huyết do nội tiết bằng cứu ngải ở Tân huyệt

Cháu Ng. Th. H., con ông bạn đồng hương cấp huyện của tôi, một hôm, cháu đưa cô Nh. là người cùng làm ở ngành đường sắt với bố cháu đến nhờ tôi chữa bệnh. Lúc đó vào cuối mùa xuân năm 2001.

Bệnh nhân bị băng huyết kéo dài đã hơn hai tháng. Cô đã được bệnh viện ngành chữa bằng mọi khả năng của họ, nhưng không cầm dứt được chứng này. Sang Viện Bảo vệ bà mẹ trẻ em Hà Nội, bệnh nhân được chẩn đoán là :“Dạ con xuất huyết do nội tiết.” Từ đấy cô được điều trị bằng thuốc nội tiết tố. Khi uống thuốc vào, bệnh cô có đỡ, nhưng ngừng uống thuốc thì huyết lại ra ồ ạt. Gia đình bệnh nhân đã nghĩ đến nước hết đường cứu chữa.

Nhìn bệnh nhân lúc này như người không còn chút máu nào nữa. Da

cô trắng bủng gần như xanh nhợt. Mắt cô lờ đờ, dáng ngồi uể oải, giọng nói đứt đoạn, hơi thở nông nhẹ. Ngay hôm đó, tôi tiến hành châm cứu theo kinh nghiệm những lần cấp cứu băng huyết trước đây. Tôi châm bổ các huyệt : Trung cực, Tử cung; cứu mồi ngải ở hai huyệt ẩn bạch, Đại đôn. Hôm sau bệnh nhân cho biết, bệnh không giảm. Tôi lập tức chuyển sang dùng tân huyệt, lấy huyệt Huyết sầu.

Để bệnh nhân nằm sấp xuống, tôi lấy mốc từ hai mào chậu sau, căng ngang vào cột sống thắt lưng, nơi đó là khe liên đốt sống thắt lưng L3 - L4. Từ khe các đốt L3 - L4, đếm lên một đốt sống lưng, là khe các đốt L2 - L3, tức huyệt Mệnh môn. Đếm lên thêm đốt nữa là khe L1 - L2. ở khoảng giữa khe L1- L2 và khe L2 - L3, là mỏm gai đốt sống L2. Trên đỉnh mỏm gai đốt L2, có một chỗ hơi lõm, đó là huyệt Huyết sầu, tôi dùng bút mực đánh dấu lại. Sau khi nặn ngải nhung đủ 10 mồi, cỡ vừa (đường kính chừng 1,5 cm), tôi lần lượt đặt mồi ngải trực tiếp lên huyệt, châm lửa đốt cứu. Cứu hết 10 mồi, để bệnh nhân ngồi nghỉ ít phút rồi mới ra về. Ngay hôm sau đó, bệnh nhân đến báo :“Bệnh cháu đã thấy cầm lại được nhiều rồi.” Sau ba lần cứu ở huyệt Huyết sầu, bệnh đã dứt hẳn. Tôi dừng cứu và cho bệnh nhân uống thang “Đương quy bổ huyết”, yêu cầu bệnh nhân nên uống đủ 10 thang. Bệnh nhân đã thực hiện đúng y lệnh, nên sức khoẻ đã phục hồi nhanh chóng. Cô trở lại làm việc được bình thường như cũ. Dưới đây là bài Đương quy bổ huyết thang (sách gốc :“Nội ngoại thương biện hoặc luận”) :

Phối ngũ : - Hoàng kỳ 1 lạng,

- Đương quy (sao rượu) 2 đồng cân. Cách dùng : Dùng nước sắc, lấy nước thuốc đặc, chia làm

2 lần uống.

Công dụng : Bổ khí sinh huyết.

Chứng thích ứng : Sau khi mất máu nhiều; đàn bà băng

lậu; sau khi đẻ, thấy hiện tượng huyết hư; sau khi vỡ mụn nhọt, mủ máu ra quá nhiều, xuất hiện chứng huyết hư kể trên.

o o o

Bác sỹ Nguyễn T. Ph., làm việc ở Khoa Đông y, Bệnh viện quân chủng,

cùng với ông bác sỹ Ng. V. N.. Bà lại cùng đến học tôi một đợt với ông N..

Mùa hè năm 2002, sau khi tôi chữa khỏi cho ông bác sỹ N. chứng thoát vị bẹn đựơc mấy ngày, bà Ph. đã hốt hoảng kể với tôi :“Thưa thầy, em mãn kinh đã nhiều năm, tự nhiên đợt này em thấy ra máu nhiều. Em dùng qua đến mấy loại thuốc cầm máu, nhưng đến nay là hơn 10 ngày, bệnh vẫn không dứt được. Chồng em cũng là bác sỹ, anh ấy nhắc em nên đi khám phụ khoa, vì anh ấy nghi em bị u xơ ở dạ con. Quả nhiên, khi khám đã thấy là em có u xơ ở cổ dạ con. Em hơi bị choáng, vì lâu nay em không nghĩ đến mình có thể mắc bệnh này. Em xin thầy chữa bệnh cho em. U xơ của em còn nhỏ, hy vọng chữa bằng Đông y có thể khỏi được, đỡ phải dùng đến biện pháp dao, kéo đáng sợ.”

Tôi không nhận chữa cho bà, chỉ vẽ hình vùng thắt lưng, đánh dấu vị trí huyệt Huyết sầu trên đỉnh đốt sống L.2 ở trong hình vẽ. Tôi dặn bà cách lấy huyệt và cách cứu, số lượng mồi ngải cứu mỗi lần. Tôi lại đưa cho bà một số ngải nhung đủ dùng để cứu trong ba ngày. Biết bà đi học không đều như ông bác sỹ N., tôi dặn thêm bà như sau: “Sau khi cứu ngải ở huyệt Huyết sầu, chứng ra máu cầm được, bà phải chuyển ngay sang uống bài thuốc độc vị :“Phượng vĩ thảo”(cỏ seo gà, cỏ miệng giếng). Mỗi ngày bà dùng 40 gr cỏ khô, hoặc 80 gr cỏ tươi. Uống liên tục từ 1 đến 3 tháng, bệnh u xơ cổ dạ con có thể khỏi được.” Bà vui vẻ nhận bản hình vẽ cách lấy huyệt và gói ngải nh ug tôi đưa, bà cảm ơn tôi rồi ra về. Ba hôm sau, bà đến gặp tôi, bà nói : “Thưa thầy, chồng em cứu cho em hai ngày thì em dứt ra máu. Thật là may cho em. Hôm nay em đến xin thầy chỉ cho em nơi mua Phượng vĩ thảo.”

Từ khi lớp học khoá x kết thúc (lúc đó vào đầu năm 2003), cho tới nay, đã qua mấy năm rồi, bà bác sỹ Ph., cũng như ông bác sỹ N., chưa có dịp nào ghé thăm tôi, cho nên kết qủa chữa u xơ cổ dạ con của bà Ph. bằng Phượng vĩ thảo ra sao, tôi không được biết.

Nghe phong thanh, đâu như các vị rất bận bịu vì công việc khám chữa

bệnh tại nhà, ngoài giờ hành chính, vì có quá đông bệnh nhân đã đến nhờ vả

họ. Thời buổi cơ chế thị trường này, làm nghề mà có đông khách, cũng là một điều đáng mừng. Xin chúc các vị thành đạt.

64 - Chữa chứng chấn thương phạm giờ cấm kỵ, vùng cấm kỵ

Vào một ngày trong tháng 12 năm 2005, vợ anh M., tên là H., nhà hàng xóm sát vách với nhà tôi, chị sang nhà tôi, nhờ khám chữa bệnh. Chị trình bầy :“Ông ơi, mấy hôm vừa rồi, mẹ con cháu về chơi bên ngoại ở Mễ Trì. Hôm qua, lúc hơn 6 giờ chiều, mẹ con cháu rỗi việc, đang vui đùa thoải mái với nhau, bỗng thằng cu H., con trai cháu, đụng cây cán chổi vào phía sau cẳng chân phải cháu. Cháu thấy tối mắt lại,

sau đó chẳng còn biết gì nữa. Khi tỉnh dậy mọi người mới nói cho cháu biết, cháu bị choáng, đổ vật xuống thềm nhà, đầu va vào bậu cửa, bất tỉnh nhân sự. Người nhà và bà con hàng xóm xúm lại xoa dầu, đánh gió, một lúc lâu sau cháu mới tỉnh lại. Hôm nay người cháu còn bồn chồn, bứt rứt, ngồi đứng không yên, khó tả lắm ông ạ. Ông xem khám chữa cho cháu với.”

Nghe chị kể đến đây, tôi nghĩ ngay tới việc có thể, tuy chị bị va đập vào chân, không để lại thương tích gì, nhưng đã phạm giờ “nhân thần cấm kỵ”. Tôi hỏi lại thời gian cụ thể, biết chắc chắn lúc đó vào giờ Dậu. Tôi mở sách “Điểm đả huyệt pháp và giải huyệt liệu pháp”, chọn bài thuốc uống ứng với giờ Dậu, chép thành tờ đơn. Vừa lúc đó, anh M. chồng chị cũng sang nhà tôi. Tôi đưa tờ đơn cho anh M. và nói :“Anh đi ngay lên số nhà 56 phố Lãn Ông, cân lấy 2 thang, đem về sắc khẩn trương cho chị ấy uống. Mỗi ngày uống một thang, uống liền hai ngày. Khi sắc mỗi thang thuốc đổ vào 600 ml nước, sắc còn 100 ml, uống một lần.

Chị H. uống xong hai thang thuốc ấy, sức khoẻ đã trở lại như thường.

Sau đó năm ngày, chị H. dẫn người em trai mình sang nhà tôi. Chị nói : “Ông ạ, đây là em trai cháu, sáng hôm qua cậu ấy bị ngã xe máy, bây giờ cậu ấy rất mệt, nhờ ông khám chữa giúp.” Tôi nhìn vào người bệnh, thấy nửa mặt phía bên trái, từ vùng phía trên tóc mai đến gò má có vết xước, bầm tím. Tôi hỏi bệnh nhân :”Anh đã đi chụp X. quang kiểm tra xương và máu tụ chưa?.” Người bạn cùng làng đã chở em chị H. đến đây cũng có mặt. Anh bạn này nói :“Hôm qua cháu chở cậu ấy đến bệnh viện khám, người ta chụp phim rồi nói, cậu ấy không bị vỡ hay rạn xương, cũng không có máu tụ trong đầu, ông ạ.” Người bệnh lúc này mới nói :“Cháu mệt lắm, đầu thì đau ít thôi, nhưng cháu chỉ buồn ngủ nhiều và chỉ muốn nằm thôi.”

Tôi thấy có vết thương cụ thể vùng đầu. Tôi xem trong sách ở mục VI - Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận đầu mặt bị đả thương. Chọn lấy bài thuốc sắc (bài số 3) ghi thành đơn, yêu cầu đi cân 3 thang về

cho bệnh nhân uống.

Khi uống hết ba thang thuốc ấy, bệnh nhân đã khỏi dứt các chứng, trở lại lao động bình thường.

Buổi sáng thứ bẩy, anh M. với tôi cùng tham gia quét dọn vệ sinh cầu thang chung và ngõ xóm. Anh M. nói :“Cậu em vợ cháu, ông khám và cho đơn thuốc hôm đó, hắn bị ngã vì đâm xe máy vào gốc cây đấy. Hôm ấy cậu ta đi làm có tiền, rủ bạn bè đi uống rượu. Khi đã bị say, vẫn điều khiển xe máy, nên mới sảy ra như thế ông ạ. Bây giờ thì cậu ta biết sợ rồi.”

o o o

Nhận thấy ngày nay, tai nạn chấn thương ngày càng nhiều. Nguyên nhân chấn thương rất đa dạng, như :Tai nạn giao thông, tai nạn lao động nghề nghiệp, tai nạn công trường xây dựng, tai nạn do đánh nhau... Khi tai nạn chấn thương sảy ra. Ngoài việc phải đưa đến các bệnh viện xử lý cấp cứu theo y học hiện đại, chúng ta còn một kho tàng kinh nghiệm điều trị chấn thương rất phong phú trong môn Võ y.

Trong sách “Trật đả cốt khoa”, soạn giả Thượng Trúc đã viết : “Nhìn chung lại, võ y thường đi sâu vào dùng thuốc điều trị, bởi đây là phương

pháp dễ áp dụng nhất cho tất cả mọi người. Trong khi hai phương pháp “đánh vào huyệt hoàn sinh” và dùng “kỹ thuật châm cứu” thì đòi hỏi nhiều chuyên môn hơn, nhiều hiểu biết sâu xa hơn.”

Sách “Bước đầu nghiên cứu nguồn gốc - đặc trưng võ cổ truyền Bình Định”, trong phần “về võ y” đã viết :“Chữa trị bằng thuốc võ cổ truyền có tác dụng đối với mọi chấn thương, trật đả, nhằm thiết lập sự cân

bằng âm dương, điều hoà cơ thể. Phục hồi các chức năng tạng phủ, kinh lạc, gân xương và làm hàn gắn các sang chấn như gãy xương, bong gân, trật khớp, bị đâm, chém hoặc đánh trúng huyệt đạo...”

Tôi mới có một vài kinh nghiệm dùng bài thuốc võ như trên, nhưng đã thấy rất hay. Nhân đây, tôi chọn một số bài thuốc uống trong, rất dễ dùng, giới thiệu cùng đồng nghiệp và những người yêu thích. Số bài thuốc này được chọn từ sách :“Điểm đả huyệt pháp và giải huyệt liệu pháp”, nay ghi lại như sau :

III - Phương pháp giải huyệt khi bị điểm huyệt đúng giờ cấm kỵ.

1- Đảm - Giờ Tý (23 - 01giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Nhân trung, hoặc ở lưng, mắt cá, mặt.

Dùng bài thuốc:

Mộc thông: 8 gr. Sài hồ: 8 gr.

Trạch lan: 8 gr. Xuyên khung: 8 gr. Cam thảo: 6 gr. Đỗ trọng: 6 gr. Trúc nhự: 6 gr.

Sắc với 400 ml nước, còn 100 ml. Uống 3 thang.

2 - Can - Giờ Sửu (01 - 03 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Thiên đình, hoặc vùng Chấn thuỷ (Cưu vĩ),

hông, gan.

Dùng bài thuốc:

Đại hoàng: 8 gr. Cát cánh: 8 gr. Nguyên hồ: 8 gr. Thanh bì: 8 gr. Xích thược: 8 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống 3 thang.

3 - Phế - Giờ Dần (03 - 05 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Kiều không, hoặc phía dưới rốn, mắt, phổi.

Dùng bài thuốc:

Chỉ xác: 8gr. Hồng hoa: 8 gr. Cát cánh: 8 gr. Mộc hương: 8 gr. Nguyên hồ: 8 gr. Nhũ hương: 8 gr. Ô dược: 8 gr. Uất kim: 8 gr. Xích thược: 8 gr.

Sắc với 700 ml nước, còn 140 ml nước. Uống mỗi ngày một thang. Uống liên tục 3 ngày.

4 - Đại trường - Giờ Mão (05 - 07 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Xuyên tai, hoặc ở vùng trên rốn, mặt, dạ dày,

đại trường.

Dùng bài thuốc:

Chỉ xác: 6 gr. Hoàng liên: 6 gr. Ngưu tất: 6 gr. Xuyên phác tiêu: 6 gr. Bạch thược: 8 gr. Đại hoàng: 8 gr. Đào nhân: 8 gr. Hồng hoa: 8 gr. Quế chi: 8 gr. Tang ký sinh: 8 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 240 ml nước. Mỗi ngày uống 2 thang. Uống năm ngày liên tục.

5 - Vị - Giờ Thìn(07- 09 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Thái dương, hoặc phía sườn bên trái, đầu, dạ dày, đại trường.

Dùng bài thuốc:

Bạch thược : 8 gr. Chỉ xác: 8 gr.

Nguyên hồ: 8 gr. Thần khúc: 8 gr.

Trạch lan: 8 gr. Đại hoàng: 6 gr. Hồng hoa: 6 gr. Phác tiêu: 6 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 140 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang.

Uống liên tục trong 2 ngày.

6 - Tỳ - Giờ Tỵ (09 - 11 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Thượng thương, hoặc phía sườn bên phải,

chân, tim.

Dùng bài thuốc:

Chỉ thực: 8 gr. Mộc hương: 8 gr. Nguyên hồ: 8 gr. Thanh bì: 8 gr. Trần bì: 8 gr. Uất kim: 8 gr. Xuyên phác tiêu: 8 gr. Đại hoàng: 6 gr. Hồng Hoa: 6 gr. Thần khúc: 6 gr.

Sắc với 600ml nước, còn 140 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang. Uống

liên tục 2 ngày.

7 – Tâm – Giờ Ngọ ( 11 – 13 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Thái uyên, hoặc quanh vùng tim, tiểu trường.

Dùng bài thuốc:

Đương quy: 8 gr. Hạnh nhân: 8 gr. Hồng hoa: 8 gr. ích mẫu: 8 gr. Khương hoạt: 8 gr. Tế tân: 8 gr. Bạch truật: 6 gr. Cam thảo: 6 gr. Chỉ xác: 6 gr. Mộc hương: 6 gr. Ô dược: 6 gr. Sinh địa: 6 gr. Thanh bì: 6 gr.

Sắc với 800 ml nước, còn 200 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang Uống

liên tục 3 ngày.

8 - Tiểu trường - Giờ Mùi (13 - 15 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Thất khảm, hoặc ở dọc ngón tay út lên vai. Dùng bài thuốc:

Hoàng bá: 8 gr. Bạch mao căn: 8gr. Trạch lan: 8 gr. Đào nhân: 6 gr. Khương hoạt: 6 gr. Kinh giới: 6 gr. Mộc thông: 6 gr. Vân phục linh: 6 gr.

Sa tiền tử: 6 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Mỗi ngày uống 1 thang. Uống

2 ngày liền.

9 - Bàng quang - Giờ Thân (15 - 17 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Khí hải, hoặc dọc hai bên cột sống lưng theo đường kinh bàng quang đến sau gót chân, trong tim, thận, bàng quang.

Dùng bài thuốc:

Chi tử: 10 gr. Đan bì: 10 gr. Hoàng bá: 10 gr. Liên kiều: 10 gr. Mộc thông: 10 gr. Ngưu tất: 10 gr. Quy vĩ: 10 gr. Tri mẫu: 10 gr. Sa tiền: 10 gr .

Sắc với 600 ml nước, còn 200 ml nước. Uống mỗi lần 100 ml, mỗi

ngày uống 3 lần. Uống liên tục 3 tháng.

10 - Thận - Giờ Dậu (17 - 19 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Huyết bài, hoặc vùng dưới vú bên phải, tỳ,

thân, bàng quang. Dùng bài thuốc:

Đại hoàng: 10 gr. Cát cánh: 10 gr.

Trần bì: 10 gr. Xích thược: 10 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 100 ml nước. Uống liên tục 2 ngày, mỗi

ngày 1 thang.

11 - Tâm bào - Giờ Tuất (19 - 21 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Hạ âm, hoặc vùng má bên phải, đầu, thận,

bàng quang. Dùng bài thuốc:

Cam thảo: 8 gr. Đan bì: 8 gr. Hoàng liên: 8 gr. Quế chi: 8 gr. Sài hồ: 8 gr. Xuyên khung: 8 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống mỗi ngày 1 thang Uống

liên tục 2 ngày.

12 - Tam tiêu - Giờ Hợi (21 - 23 giờ).

Khí huyết vận hành ở huyệt Dũng tuyền, hoặc ở nửa mặt bên phải, gót

chân, mắt cá, thận, bàng quang. Dùng bài thuốc:

Chỉ xác: 8 gr. Đào nhân: 8 gr. Long đảm thảo: 8 gr Hoàng cầm: 8 gr. Hoàng liên: 8 gr. Mộc thông: 8 gr. Trạch lan: 8 gr. Tri mẫu: 8 gr.

Sắc với 600 ml nước, còn 150 ml nước. Uống mỗi ngày 1 thang, liên tục trong 3 ngày.

IV - Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận tay và chân bị đả thương.

Dùng bài thuốc:

Đương quy: 5 đồng cân. Hà thủ ô: 5 đồng cân. Xuyên ngũ gia bì: 3 đồng cân. Cốt toái bổ: 3 đồng cân. Hoàng cầm: 2 đồng cân. Sinh địa: 5 đồng cân. Xuyên tục đoạn: 3 đồng cân. Liên kiều: 2 đồng cân. Nhũ hương: 2 đồng cân. Một dược: 2 đồng cân.

Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát, uống lúc còn ấm.

V - Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận ngực, bụng, lưng bị đả thương.

Dùng bài thuốc:

Xuyên uất kim: 3 đồng cân. Đào nhân: 2 đồng cân. Hương phụ: 3 đồng cân. Khương bì: 4 đồng cân. Hạnh nhân: 2 đồng cân. Điền thất: 2 đồng cân. Cát cánh: 2 đồng cân. Xuyên hậu phác: 2 đồng cân.

Đổ 2 bát nước, sắc còn 1 bát nước. Uống lúc thuốc còn ấm.

VI - Phương pháp giải huyệt khi các huyệt đạo ở bộ phận đầu mặt bị đả thương.

Dùng bài thuốc:

Tô tử: 3 đồng cân. Tô mộc: 1 đồng cân. Hồng hoa: 1 đồng cân. Đào nhân: 3 đồng cân. Mạch môn : 3 đồng cân. Quất hồng: 3 đồng cân. Xích thược : 2 đồng cân. Đương quy: 2 đồng cân. Trúc nhự: 2 đồng cân.

Nước nhất: Đổ vào thuốc 3 bát nước, sắc còn 1 bát

Nước nhì: Đổ vào thuốc 2 bát nước, sắc còn 8 phần. Uống khi thuốc còn ấm.

Lời kết

Chữa bệnh là một nghề. Quá trình chữa bệnh là công việc.

Sự thành, bại của công việc, còn nhờ ở thiên thời, địa lợi, nhân hoà.

Lịch sử xã hội không có hồi lặp lại nguyên dạng, nhưng bệnh tạng phủ con ngưòi thường lặp lại cùng hình.

Khi có ai đang cần biết đến những bài này, để chữa những bệnh như thế này, chắc sẽ chẳng thấy cần biết gì hơn những điều tôi đã kể ra trong mỗi truyện. Có chăng là, chỉ muốn tôi viết thêm nhiều bài nữa về những bệnh tôi đã chữa, về những huyệt, những cây, cỏ, quả tôi đã dùng làm khỏi bệnh cho người.

Nhưng khi nào tôi viết tiếp được, hẳn còn nhờ ở nhân hoà, địa lợi, thiên thời. Vì vậy, xin có lời bày tỏ.

Khương Trung, ngày 27-2-2006

Khiên Ngưu Tử