TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 477 - THÁNG 4 - S 2 - 2019
73
KHO SÁT VIC SỬ DNG THUC VÀ TUÂN TH ĐIỀU TR BNH NHÂN
TRẦM CẢM TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Hương Quỳnh1,2, Nguyễn Ngọc Khôi1,
Trương Khánh Ngân1, Nguyễn Như Hồ1,3*
TÓM TẮT21
Trầm cảm một trong những bệnh thần kinh
gây ra gánh nặng lớn đối với hệ thống chăm sóc y tế.
Bệnh được điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm.
Việc tuân thủ điều trị có liên quan chặt chẽ tới hiệu
quả điều trị. Không tuân thủ trong việc sử dụng các
thuốc chống trầm cảm thể dẫn tới bệnh tái phát
hoặc nặng nề hơn, làm giảm hiệu quả tăng tỷ lệ tự
tử bệnh nhân. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu khảo
sát việc sử dụng thuốc tuân thủ điều trị bệnh
nhân trầm cảm. Thiết kế nghiên cứu tả cắt ngang
trên 115 bệnh nhân trầm cảm, đã có ít nhất 2 tuần sử
dụng thuốc, tới tái khám tại phòng khám Tâm thần
kinh, bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh. Tuân
thủ điều trị được đánh giá bằng thang điểm MMAS-8.
Tất cả bệnh nhân đều được chỉ định thuốc thuộc
nhóm SSRI hoặc mirtazapin như lựa chọn đầu tay. Tỷ
lệ bệnh nhân được 1, 2, 3 thuốc điều trị trầm cảm
lần lượt 42,6%, 55,7% 1,7%. Tỷ lệ bệnh nhân
có tuân thủ điều trị tốt là 69,6%.
Từ khoá:
thuốc chống trầm cảm, tuân thủ, MMAS-
8, trầm cảm
SUMMARY
INVESTIGATION OF THE MEDICATION USE
AND ADHERENCE IN PATIENTS WITH
DEPRESSION AT UNIVERSITY MEDICAL
CENTER, HO CHI MINH CITY
Depression is a major burden for the health care
system worldwide and can be treated by
antidepressants. Medication adherence is strongly
associated with the treatment outcomes. Non-
adherence to antidepressants can lead to relapse and
recurrence of depression, poor outcome and increased
suicide rates. The aim of this study was to investigate
the antidepressantsuse and medication adherence in
patients with depression. We conducted a cross-
sectional study in 115 depressive patients with at least
two weeks of using antidepressants at Psychiatric
Clinic, University Medical Center, Ho Chi Minh City.
Medication adherence was assessed by using (Morisky
Medication Adherence Scales-8 (MMAS-8) questionnaires.
All patients were prescribed SSRI or mirtazapine as their
primary antidepressant. The prevalence of patients
prescribed one, two and three antidepressants were
42.6%, 55.7%, and 1.7%, respectively. The good
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
2Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh
3Bệnh viện Nguyễn Trãi, Thành phố Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Như Hồ
Email: nhnguyen@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 28.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 8.4.2019
Ngày duyệt bài: 12.4.2019
medication adherence rate was 69.6%.
Keywords:
antidepressant, adherence, MMAS-8,
depression.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm một trong những bệnh lý thần
kinh gây ra gánh nặng lớn đối với hệ thống chăm
sóc y tế toàn cầu về mặt chất lượng sống, bệnh
tật tử vong [2,7,8]. Trầm cảm đứng 4 trong
nhóm các bệnh y ra tình trạng suy kiệt dự
báo đến năm 2030, số người mắc trầm cảm sẽ
tăng n hàng thứ 3, ngang với bệnh tim thiếu
máu cục bộ HIV/AIDS [5,7]. Việc không tuân
thủ gây ra nhiều vấn đề phức tạp, y thất bại
trong điều trị trầm cảm. Các nghiên cứu đã thực
hiện trên bệnh nhân trầm cảm cho thấy t lệ
không tuân thđiều trị biến động từ 19,7% đến
59,5%[1,4]. Một nghiên cứu tổng quan hệ thống
cho thấy việc không tuân thủ sử dụng thuốc làm
giảm hiệu quả lâm sàng, giảm hiệu quả kinh tế,
làm tăng nguy tái mắc bệnh, tăng nguy
nhập viện cấp cứu tăng tỷ lệ tử vong [3]. Do
đó, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu khảo
sát tình hình sử dụng thuốc tuân thủ điều trị
ở bệnh nhân trầm cảm.
II. ĐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân trầm
cảm tại phòng khám Tâm thần kinh, Bệnh viện
Đại học Y Dược TP. H C Minh t 28/4/2018
đến 15/6/2018.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Bnh nhân chn đoán trầm cm t mt
trong nhng lần khám trước.
- Đến tái khám ti phòng khám m thn
kinh, Bnh viện Đại hc Y Dược TP. H Chí Minh.
- S dng thuốc điều tr trm cm liên tc
trong ít nht 2 tun gn đây.
- Đồng ý tham gia vào nghiên cu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Bệnh nhân không hoàn
thành đầy đủ các câu hỏi phỏng vấn.
Cỡ mẫu:
Chn mu thun tiện tất cả các bệnh
nhân thoả mãn tiêu chuẩn.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên
cứu cắt ngang mô tả.
Thu thập số liệu về các thuốc điều trị trầm
cảm được đơn. Phỏng vấn trực tiếp bệnh
nhân để xác định mức độ tuân thủ điều trị.
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi thang đo tuân
thủ điều trị MMAS-8 phiên bản tiếng Việt đã
vietnam medical journal n02 - APRIL - 2019
74
được dịch thuật thẩm định, gồm 8 câu hỏi
dưới dạng câu hỏi hoặc không [6]. Trong câu
hỏi từ 1 đến 4 từ 6 đến 8 khi trả lời “có” sẽ
được tính 0 điểm, trả lời “không được tính 1
điểm. Ngược lại, ở câu hỏi số 5, trả lời “có” được
tính 1 điểm. Trong nghiên cứu này, bệnh nhân
được coi là tuân thủ tốt khi khi có MMAS-8 đạt từ
6 đến 8 điểm.
Xử số liệu: Dữ liệu được xử thống
bằng phần mềm SPSS 20.0. Số liệu được trình
bày dưới dạng tần số, tỷ lệ % với biến phân loại;
trung bình độ lệch chuẩn hoặc trung vị
(khoảng tphân vị) đối với biến liên tục. Thống
tỷ lệ các thuốc sử dụng tỷ lệ bệnh nhân
tuân thủ điều trị tốt sử dụng phương pháp thống
kê mô tả.
Vấn đề y đức: Nghiên cứu đã được thông
qua hội đồng đạo đức, Bệnh viện Đại học Y
Dược thành phố HChí Minh. Mọi thông tin của
đối tượng nghiên cứu được hoá, giữ mật
và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 115 bệnh nhân trầm cảm tham gia
khảo sát, 7 bệnh nhân mắc trầm cảm tái diễn
chiếm tỷ lệ 6%. Thời gian mắc trầm cảm sử
dụng thuốc chống trầm cảm của bệnh nhân
trung nh lần lượt 12,1 tháng (khoảng tứ
phân vị 3 42) 5,3 (khoảng tứ phân vị 1,2
35). Tuổi trung bình của bệnh nhân tham gia
nghiên cứu 45 27 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân nữ
chiếm đa số với 93/115,9 (80%).
Việc sử dụng thuốc điều trị trầm cảm:
Các
thuốc chống trầm cảm được toa gồm
sertralin, paroxetin, fluoxetin, fluvoxamin,
venlafaxin, mirtazapin, olanzapin, quetiapin
amitriptylin. Trong đó, bệnh nhân được toa
nhiều nhất sertralin, dạng đơn trị hoặc phối
hợp, chiếm tổng s 46,1%, cao thứ hai
paroxetin 32,1%. Tỷ lệ bệnh nhân được toa
sử dụng một, hai ba thuốc trầm cảm lần ợt
42,6%, 55,7% 1,7%. Trong đó, 2 bệnh
nhân sử dụng 3 loại thuốc chống trầm cảm đều
phối hợp paroxetin, mirtazapin sertralin.
Tất cả bệnh nhân đều được chỉ định thuốc chống
trầm cảm nhóm ức chế tái thu hồi chọn lọc
serotonin (SSRI) hoặc mirtazapin. Thuốc tỷ lệ
được s dụng trong phối hợp nhiều nhất
mirtazapin olanzapin với tỷ lệ được đơn
chung với một thuốc chống trầm cảm khác
50% và 40,6%. Hình 1 thể hiện các loại thuốc
tỷ lệ của c thuốc được cho bệnh nhân sử
dụng một hoặc hai loại thuốc trầm cảm.
Hình 1. Tỷ lệ các dạng phối hợp thuốc chống trầm cảm được chỉ định
Tuân thủ điều trị của bệnh nhân theo MMAS-8
Nghiên cứu ghi nhận có 69,6% bệnh nhân có mức độ tuân thủ điều trị tốt, trong đó 50% bệnh
nhân đạt điểm tuân thủ tối đa 8 điểm. Điểm trung bình phần tuân thủ 7,0 3,0 điểm. Kết quả
khảo sát theo từng câu hỏi được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Tỷ lệ bệnh nhân trả lời “Có” theo từng câu hỏi MMAS-8 (n = 115)
Câu hỏi
Tần số
Tỷ lệ %
1. Thỉnh thoảng bạn có quên uống thuốc không?
53
46,1
2. Người ta đôi khi bỏ dùng thuốc do nhiều lý do chứ không hẳn là vì quên.
Suy nghĩ cẩn thận trong hai tuần trở lại đây, có khi nào bạn không dùng thuốc?
33
28,7
3. Có bao giờ bạn giảm hoặc ngưng dùng thuốc mà không báo cho bác sĩ vì
bạn cảm thấy tệ hơn khi dùng nó?
26
22,6
4. Khi đi du lịch hoặc đi xa nhà, thỉnh thoảng bạn quên mang theo thuốc không?
6
5,2
5. Ngày hôm qua, bạn có dùng đủ các thuốc trong ngày không?
98
85,2
6. Khi bạn cảm thấy triệu chứng được kiểm soát, thỉnh thoảng bạn có ngưng
dùng thuốc không?
25
21,7
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 477 - THÁNG 4 - S 2 - 2019
75
7. Dùng thuốc mỗi ngày gây bất tiện cho một số người. Có bao giờ bạn cảm
thấy phiền khi phải tuân thủ chế độ điều trị?
24
20,9
8. Bạn có thường gặp khó khăn khi nhớ uống tất cả các loại thuốc?
9
7,8%
IV. BÀN LUẬN
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều được chỉ định thuốc chống trầm
cảm chính thuốc thuộc nhóm SSRI hoặc
mirtazapin. Theo nghiên cứu của Ayalon L [1],
chỉ 60% bệnh nhân da đen 78,5% bệnh
nhân người MLatin được chỉ định thuốc chống
trầm cảm chính một thuốc thuộc nhóm SSRI
hoặc thuốc thế hệ mới, thấp hơn nghiên cứu của
chúng tôi. Điều này thể do sự thay đổi về
phác đồ điều trị theo thời gian. Sertralin
paroxetin hai thuốc được chỉ định nhiều nhất
với tỷ lệ được đơn lần lượt 46,1%
32,1%. Điều này phù hợp với phác đ điều trị
trầm cảm hiện nay với việc sử dụng đầu tay các
thuốc nhóm SSRI. Nghiên cứu của chúng tôi
55,7% bệnh nhân phải ng hai thuốc để điều
trị trầm cảm. Sau sertralin hoặc paroxetin, bệnh
nhân thể được chỉ định thêm hoặc thay thế
bằng các thuốc khác như mirtazapin, venlafaxin,
fluoxetin hay fluvoxamin nếu bệnh nhân sử dụng
không dung nạp được tác dụng không mong
muốn của sertralin (gây mất ngủ) hoặc paroxetin
(gây tăng cân) hoặc bệnh nhân mắc trầm cảm
tái diễn hoặc đáp ứng kém với điều trị bằng một
thuốc. Thuốc có tỷ lệ cao nhất được sử dụng
trong phối hợp điều trị trầm cảm là mirtazapin và
olanzapin. Mặc dù olanzapin không phải thuốc
chống trầm cảm nhưng chỉ định dùng phối
hợp với thuốc chống trầm cảm để điều trị trầm
cảm. c biện pháp chđịnh đơn trị hoặc phối hợp
đều hợp theo khuyến o điều trị hiện hành.
Về vấn đtuân thủ điều trị, 69,6% bệnh
nhân đạt tuân thủ điều trị tốt. So với kết quả các
nghiên cứu khác, đây mức tlệ trung nh
khá. D liệu từ các nghiên cứu tuân th bằng
phương pháp tự báo cáo sử dụng bộ câu hỏi cho
thấy tỷ lệ tuân thủ trong điều trị trầm cảm rất đa
dạng từ 41,5% đến 80,3%, tuỳ thuộc vào đối
tượng dân số, quốc gia, khu vực khảo t [1,4].
Nghiên cứu của Lee M.S. cộng sự thực hiện
tại Hàn Quốc (2010) cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân
tuân thủ được xác định bằng phương pháp dùng
nắp đếm thuốc điện tử, đếm số thuốc còn lại,
dùng bộ câu hỏi xác định sự tuân thủ bệnh
nhân tự thuật lại lần lượt 52,6%, 72,4%,
80,3% 76,3% [4], trong đó mức độ tuân thủ
của bệnh nhân bằng phương pháp phỏng vấn sử
dụng bộ câu hỏi MMAS-8 cao hơn so với nghiên
cứu của chúng tôi (72,4% so với 69,6%). Hầu
hết bệnh nhân đều cố gắng tái khám đúng hẹn,
nhưng có tới 46,1% bệnh nhân thỉnh thoảng vẫn
quên uống thuốc. 22,6% bệnh nhân tự ý ngưng
thuốc khi uống thuốc nhưng không thấy khoẻ
hơn 21,7% bệnh nhân ngưng thuốc khi thấy
mình đã khoẻ hơn. Đây những điểm đáng
được chú ý để vấn cho bệnh nhân đến thăm
khám xin ý kiến của bác sĩ về việc ngưng dùng
thuốc, do điều này có thể dẫn đến nguy mắc
trầm cảm tái diễn kéo i hơn nữa thời gian
điều trị.
V. KẾT LUẬN
Tình hình sdụng thuốc trong điều trị trầm
cảm trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với các khuyến cáo hiện hành với việc sử dụng
đầu tay của các thuốc SSRI, chủ yếu sertralin
paroxetin. Khi bệnh nhân không dung nạp
thuốc đầu tay hoặc không đạt hiệu quả điều trị
đầy đủ, bệnh nhân được chỉ định phối hợp thêm
một thuốc thứ hai. Tuân thủ điều trị của bệnh
nhân trong nghiên cứu của chúng tôi mức
trung nh, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ bệnh
nhân t ý ngưng dùng thuốc. Do đó cần tăng
cường biện pháp vấn, giáo dục để thể
nâng cao hơn nữa tuân thủ điều trị cho bệnh
nhân trầm cảm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ayalon L., Areán P.A., Alvidrez J. (2005),
“Adherence to Antidepressant Medications in Black
and Latino Elderly Patients”, Am J Geriatr
Psychiatry, 13(7), pp. 572-580.
2. Greenberg P.E., Fournier A.A., Sisitsky T.,
Pike C.T., Kessler R.C. (2015), “The economic
burden of adults with major depressive disorder in
the United States”, The Journal of clinical
psychiatry., 76(2), pp. 155-162.
3. Ho S.C., Chong H.Y., Chaiyakunapruk N.,
Tangiisyran B., Jacob S.A. (2015), “Clinical and
economic impact of non-adherence to
antidepressants in major depressive disorder: A
systematic review”, J Affect Disord., 193, pp. 1-10.
4. Lee M.S., Lee H.W., Kang S.G. (2010),
“Variables influencing antidepressant medication
adherence for treating outpatients with depressive
disorders”, Journal of Affective Disorders, 123, pp.
216-221.
5. Mathers C.D., Loncar D. (2006), “Projections of
Global Mortality and Burden of Disease from 2002
to 2030”, PLoS Med., 3(11), pp. 442.
6. Nguyen T. et al. (2015), "Translation and cross-
cultural adaptation of the brief illness perception
questionnaire, the beliefs about medicines
questionnaire and the Morisky Medication
Adherence Scale into Vietnamese: 285",