KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT-
NAM - MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Kho ng truyện cổ tích Việt-nam gm 5 tập, được ng bố lần lượt
trong vòng 25 năm, từ năm 1958 đến 1982[1]. Ngay khi hai tập đầu tiên vừa
ra mắt, bộ sách đã được bạn đọc ngoài Bc trong Nam chú ý, và lập tức
tiếng vang nước ngoài[2]. Tập 3 tiếp tục ra mắt vào m 1960, đã khng
định vị thiển nhiên của c giả trong ngành ctích học. Từ đấy cho đến
khi tập IV xuất hiện (1975), theo yêu cu của bạn đọc, các tập I, II, III đều
kế tiếp ba bn lần được in lại. Có thể nói, chỉ với ba phương diện sưu tầm,
khảo dvà kchuyện cổ tích, Nguyễn Đổng Chi đã sm nổi bật lên như một
chuyên gia đầu đàn. n Hảo và TPhong Châu thai phương trời cách
biệt (Paris - Ni), từng có những lời đánh giá nhất qn về ông[3]. Tuy
vậy, phải đến ngày bộ sách xuất bản trọn vẹn (1982), tư cách nhà cổ tích học
Nguyễn Đổng Chi mi hiện diện đầy đnhất, chức ng người tổng kết
loi hình truyện cổ n gian Việt-nam.
Với Phần thứ nhất của tập I, Nguyễn Đổng Chi đã trình cho bn đọc ý
kiến của mình v "Bản chất truyện cổ tích", "Lai lịch truyện cổ tích" và
"Truyn cổ Việt-nam qua các thi đại". Vi phần III và V, ông lại có dịp bàn
trlại các vấn đề "Đặc điểm truyện ctích Việt-nam". Việc i bản cùng lúc
c5 tập vào năm 1993[4] ng giúp ta có điều kiện xem xét cả hai phần
trong một i nhìn chỉnh thể. Nếu gộp n 80 trang phần đầu và gần 250
trang phần cuối, quả thực người đọc đã được tiếp xúc với một chuyên đề
luận về truyện cổ tích Việt-nam knghiêm túc hoàn chỉnh. Dưới đây, s
chxin điểm qua một số vấn đề mà chúng i thy thể làm hơn quan
điểm phương pháp nghiên cu của tác giả, những vấn đề rút ra phần
ngẫu nhiên ca hẳn đã trng điểm trong hệ thống các vấn đề ctích
học được Nguyễn Đổng Chi lựa chọn và trình bày.
*
* *
1. vn đề đã tng là nội dung trao đổi của một sngười. Chẳng
hạn, để nhận dạng thế nào một truyện cổ tích, Nguyễn Đổng Chi nêu lên 3
tiêu csau đây: 1. Phải có phong cách cổ; 2. Phải gần gũi với bản sắc n
tộc; 3. Phải tính tưởng và tính nghthuật cao (Tập I, tr. 65-72). Tn
tập san B.E.F.E.O năm 1964, M. Durand đã không thỏa mãn vi cách giải
quá vắn tắt của tác giả về tiêu cthnhất, và tý nghi ngờ: "Đâu là ranh
giới giữa cái "kim" và i "cổ"? Những truyện có liên quan đến thời TĐức
(1848 - 1883) phi được xem là "cổ" hay "kim"? (Bản dịch, Tập I, tr.
495)[5]. Thật ra, Durand đã kng hiu đúng thực chất luận đim của
Nguyễn Đổng Chi. Phải nói đây là một vấn đề lý thú, được ông nghiền ngẫm
rất sâu, nhằm tiếp cận thật xác đáng đặc trưng của một thể loại. Chúng ta ai
chẳng tng gặp tình trng bối rối khi muốn phân biệt truyện ctích với
một vài thloại tsn gian khác rất gần với nó, như truyền thuyết, ng
ngôn, truyn thời sự chẳng hạn? Căn cứ thuyết phục nhất làm chdựa trong
những trường hợp này đâu? Kinh nghiệm thực tế cho thấy không thể
phân biệt chúng nội dung hay hình thức câu chuyện, vì chúng k ging
nhau; cũng không thể phân biệt chức năng, vì không nhất thiết ctruyền
thuyết, ngụ ngôn, truyện thời sthì chức năng phải khác với ctích. Cuối
cùng, Nguyn Đổng Chi đã tìm ra sự khác nhau giữa chúng là cấp độ nghệ
thuật. Cả 3 tiêu ctác gi đề xuất đều thống nhất với nhau chỗ: muốn
bin minh rõ c tích là thloại "đã đạt đến cấp độ cao trong nghệ thuật tự s
truyền miệng" (tr. 72), "là một loại hình tshoàn chỉnh nhất trong các loại
hình tsự n gian" (tr. 70-71) Đó mấu chốt để ông trin khai lập luận
liên hoàn của mình. Vn dng vào tiêu cthnhất: đặc trưng "cổ" của c
ch, ông không hiểu đơn giản như Durand phải định cho được một vạch
mốc lịch sđể qua đó phân chia đâu "kim" đâu "cổ". Định một vạch
mốc hẳn kng phải là chuyn khó, nhưng dựa vào nội dung thông báo của
từng truyện cổ tích mà xếp vào trước hay sau vạch mốc thì kvô cùng. Bao
nhiêu người đã tng thất bại khi muốn "suy nguyên" niên đi đối với t
truyện n gian? Vì thế, chỉ một ch duy nhất định vị i "cổ" của cổ
ch phong ch nghệ thuật. Nguyễn Đổng Chi giải thích rất cặn kẽ điều
này: "Vn đề xác định tính "cổ" của truyện c tích căn cchủ yếu vào
phương thức cấu tạo, hình tượng, sự sắp xếp, xâu chuỗi cốt truyện và mô-típ,
không nhất thiết phải căn cứ vào thời điểm lịch sử của câu chuyện" (tr.
67). Hoặc: "Dù cho phạm vi hai khái niệm "cổ" và "kim" trong c tích
không khi c ln lộn nhưng mỗi nhân vật, mỗi tình tiết, mi hình nh
của cổ tích đều nhất thiết phải là một nhân vật, một tình tiết, một hình nh
vốn có truyền thống nghệ thuật xa xưa của n học n gian, được nhân n
coi quen thuộc, đã thấm sâu vào tiềm thức mỗi người" (tr. 66). Chính vì
thế mi hiện tượng "cổ tích n biên" - tức là truyn cổ tích mới ng tác
m nay - không thkhông thừa nhận nếu "tân biên" đúng theo những
quy tắc nào đấy thì nó cũng sẽ hội nhập trọn vẹn vào kho tàng cổ tích; "Sở dĩ
những u chuyện mới sáng c gần đây có thể liệt vào truyn cổ tích là
bi cảnh, khậu xã hội và m nhân vt chúng được xây dng, so
với bi cảnh, k hậu, phong cách sinh hoạt và m của người đời xưa
tuyệt không gì ti ngược" (tr. 68). Trái lại, cũng những truyện như
Vba Đề Thám tuy cách ta trên nửa thế kỷ và mang thtài ctích krõ
nhưng trong đó những tên giặc u xm mũi lõ, súng trường, súng lục
[thuộc loại "những chất liệu dĩ vãng... chưa kịp lắng xuống và chưa được đại
đa số nhân n công nhận là bên kia biên gii của cái "mới"]... nên vn
chưa thể thừa nhận là truyn cổ tích được" (tr. 67). Rõ ng hướng gii quyết
vấn đề của Nguyễn Đổng Chi đúng đn, phù hợp với quy tắc mhọc
folklore, và không gò bó vào lịch sử như yêu cầu của Durand.
2. Sau vn đề xác định đặc trừng đến vấn đề phân loại truyện cổ tích.
Điểm lại rất tỷ mỷ ý kiến phân loại trước mình, Nguyn Đổng Chi đã không
thỏa mãn vi những cách chia qvụn vặt và phần o m đắc với Trương
Tửu khi ông chia truyện truyền miệng thành hai loại: loại thần kỳ và loi thế
sự. Áp dụng cho cổ tích, ông đưa ra một bảng phân loại mới gồm 3 loại như
sau: 1. C tích thần k(trong lần in thứ nhất, 1957, ông gọi là c tích hoang
đường; lần in thứ 5, 1972, mi đổi là ctích thần kỳ); 2. Ctích thế sự; 3.
C tích lịch sử. Từ bấy đến nay, ý kiến của ông cũng được bàn bc k
nhiều. Trong khi M. Durand cho rằng cách phân loại này "cũng hình thức