SỰ TÍCH ĐÁ VỌNG PHU
Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn trai mười một
tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi m đồng hay đi đâu vắng,
thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái. Một hôm trước khi đi làm,
người mẹ trao cho hai con một cây mía, bảo con lớn ở nhà chặt cho em ăn và đưa
em đi chơi. Thường ngày mẹ vẫn nhắc:
- Con đừng làm em khóc, ko cha về đánh chết nghe không!
Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn
bè quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ
khi nó va giơ dao lên chặt, thì lưỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay
ra bất tỉnh nhân sự, máu đỏ lênh láng cmột vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ,
nghĩ bụng: - "Tội ta to lắm. Cha về đánh chết mất!". Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng
sượt ở giữa nhà mà trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh
bạn với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình đã đi những xứ
nào, ăn cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người
đánh cá miền biển vùng Bình định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. V
hắn cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vnhận lấy phần
cá của chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm
thấy sung sướng vô hạn.
Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xõa tóc nh
chồng bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình.
Thấy vợ có một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc
nhiên vì mấy lâu mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một
người nào biết, trong số đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui
miệng kể:
- Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tý đã biết gì đâu. Anh
ruột của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất đi. Sau này, tôi mới
biết, lúc đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới
chạy tìm thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng
tôi lại mất người anh ruột vì anh tôi squá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng
tuyệt không có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá: thành ra mang
bệnh, kế tiếp nhau qua đời. Về phần tôi khôngngười nương tựa lại bị người ta
lập mưu cướp hết của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một
nơi nào; nay đây mai đó, cuối cùng đến đây gặp anh...
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm
phải em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do v
nói ra. Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó
lại, không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không th
nào yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng
lần này một đi không bao giờ trở lại.
Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong,
giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại
dong buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến
vợ. Thật là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi cửa biển, con
mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bây giờ đã khô
kiệt, nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy
đối với dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, tr
thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn. Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đỉnh núi ở
bên cửa biển Đề-di, thuộc huyện Phù-cát, tỉnh Bình-định. Nời ta vẫn gọi là đá
Trông-chồng hay là đá Vọng-phu1[1].
KHẢO DỊ
Loại truyện "đá Vọng-phu", hay nói một cách khác những truyện có đề tài anh em
ruột lấy nhầm phải nhau thành vợ chồng, trong dân gian có khá nhiều, truyện này
khác với truyện kia một ít chi tiết. Điều cần để ý là ở Việt-nam những núi đá có
hình người dắt con hay bồng con mang tên là đá Vọng-phu, thì ngoài Bình-định ra
còn có Lạng-sơn và Thanh-hóa2[2]. Mỗi vùng đất có truyện lưu truyền: truyện ở
vùng này có khác với vùng kia ít nhiều. Tuy nhiên chúng đều cùng một cốt truyện.
Ở Trung-quốc cũng có đá Vọng-phu trên một hòn núi phía Bắc -xương và núi
Vọng-phu các tỉnh An-huy, Giang-tây và Sơn-tây. Sự tích đá Vọng-phu của
Trung-quốc cũng tương tự với truyện Việt. Theo sách U minh lục thì có một người
đàn bà chồng bị bắt lính và bị chết trận ở biên giới. Bà ta hàng ngày trèo lên đỉnh
núi trông đợi chồng về. Bà đợi mãi mỏi mòn con mắt và sau cùng chết hóa thành
đá. Dưới đây là một số dị bản của truyện Sự tích đá vọng phu ở các địa phương
Việt-nam.
1. Truyện Thị vọng phu ở Lạng-sơn:
Ngày xưa, nhà họ Tô có hai người con: anh là trai lên mười, em là gái lên tám.
Một hôm, nhân lúc cha mẹ vắng nhà, anh nhặt đá ném chim, không may trúng
phải đầu em, máu chảy lênh láng. Thấy em ngất đi, anh chắc em chết, sợ quá trốn
sang Trung-quốc. Qua một thời gian dài trôi nổi, hắn quên hết bà con làng xóm,
chỉ còn nhmình là người Việt. Thế rồi, năm ba mươi tuổi hắn mới lần mò v
nước. Với một ít vốn liếng nhỏ, hắn ở ngay lại Lạng-sơn lập nghiệp. Ở đây hắn
yêu cô con gái một nhà buôn. Hai người sau đó được phép lấy nhau và kết quả là
một đứa bé ra chào đời. Chồng rất yêu vthương con và chí thú làm ăn.
Một hôm chồng giội nước cho vợ gội đầu, bỗng thấy đầu vợ có một cái sẹo lớn.
Câu chuyện vợ kể chính là chuyện ném đá của chồng ngày xưa. Sau khi cha mẹ
chết, vợ bơ vơ lưu lạc đi hết nơi này sang nơi khác để nuôi thân. Sau cùng tới đây
làm con nuôi nhà này rồi vừa gặp nhau.
Biết đích là em gái mình, chồng rất đau lòng nhưng vẫn không lộ cho vợ biết Sau
đó gặp khi nhà vua bắt lính, chồng ra ứng mộ. Trước khi trẩy, chồng dặn vợ:
- Nếu ba năm mà tôi không về, ấy là tôi đã chết, nàng cứ việc đi lấy chồng khác.
Rồi đó chồng nhất định không về nữa. Ở nhà vcũng nhất định không đi lấy
chồng khác. Sau ba năm, rồi năm năm, vợ trông chồng mỏi mòn con mắt. Hàng
ngày, nàng bồng con lên núi, con mắt luôn luôn hướng về phía chồng trẩy. Một
hôm giữa cơn mưa to bão lớn, nàng đứng đợi mãi không v. Đến lúc mọi người
lên núi thì đã hóa thành đá. Người ta gọi hòn đá ấy là Tô thị vọng phu3[3].
2. Theo Đại Nam nhất thống chí thì truyện đá Vọng-phu ở Bình-định như sau:
Xưa ở làng Chính-uy có một người đàn bà sinh một trai một gái đều còn nhỏ tuổi
cả. Một hôm nhà phơi thóc, mẹ bảo con đuổi gà. Người con trai nhặt đá ném gà,
không ngờ trúng phải đầu em, máu ra lênh láng. Mgiận mắng nhiếc rồi đuổi con
đi. Người con trai sợ qua, trốn biệt đến hơn hai mươi năm mới trở về thì mẹ đã
chết, còn em thì lưu lạc không biết đi đâu. Trơ trọi một mình hắn bèn ngụ ở làng.
ấy. Sau đó, hắn lấy vợ người làng Chính-minh, sinh được một trai một gái. Một
hôm vợ chồng nhân thong thả ngồi bắt chấy cho nhau: vết sẹo trên đầu vợ làm cho
chồng rõ sự thật. Sau đó, chồng đáp thuyền đi biệt nói dối là đi buôn. Vợ ở nhà
trông đợi mỏi mắt, thường dắt hai con lên núi trông ngóng buồn thương rồi đều
hóa thành đá.
3. Truyện của Lăng-đờ (Landes) (sách đã dẫn) kể cũng giống như truyện ở vùng
Bình-định vừa kể. Duy có khác ở chỗ lý do người anh bỏ trốn là vì c bạc, còn kết
cục thì chồng chết hóa làm sao mai, vợ làm sao hôm, con thì làm sao đòn gánh
thường ở giữa trời đợi sao hôm và sao mai4[4].
4. Ri-sa (Richard) có sưu tầm một truyện, lưu truyền ở một vùng dường như là
khoảng biên giới giữa Bình-định với Tây-nguyên, có nội dung hơi khác:
Có hai anh em Chánh và Quýt ở làng Nam-lang. Chánh đã lớn, còn em gái thì còn
bé. Lúc còn nhỏ, hai anh em được bố mẹ xăm vào đầu một dấu hiệu của gia đình.
Sau đó dân làng này xung đột với làng Ma-cát, và blàng Ma-cát bắt làm tù binh.
Chánh bđưa đi bán cho lái buôn. Thời gian trôi đi, Chánh cũng qua tay nhiều
chủ. Sau Chánh trốn được về làng thì nhà cửa không còn gì nữa, bèn đến cư trú
làng Nong-hát làm ăn, rồi lấy vtại đấy. Vợ là con nuôi một người dân thường.
Vài tháng sau làng động. Thầy pháp của làng được thần cho biết có một hiện
lượng loạn luân. Khi tìm đến Chánh và vợ, thấy dấu xăm của họ, mới rõ sự thật.
Sau đó hai anh em hóa làm chim: một con trống một con mái, chui rúc trong rừng
sâu, vì hthẹn không muốn cho ai biết5[5].
5. Vloại truyện có nội dung đề cập đến vấn đề quan hệ luyến ái giữa anh và em
ruột, ở miền Trung còn có truyện Sự tích chim bóp-thì-bóp:
Xưa có gia đình nọ can tội với triều đình, bị kết án chém cả nhà. Hai chị em ruột
nhà ấy trốn được vào rừng sâu. Họ đào chái trái kiếm ăn qua ngày. Dần dần
người em trai lớn lên, đêm ngủ kề nhau, một hôm em bỗng bỏ tay lên vú chị. Chị
đưa chuyện: "Trời phạt" ra để ngăn em. Em sợ rồi bỏ đi mất. Chị thương em đi
tìm, luôn miệng gọi em: "Bóp thì bóp". Sau không tìm được, chị em đều hóa làm
chim bóp-thì-bóp6[6].
Loài chim này bắt đầu đi kiếm ăn từ hoàng hôn, mái trống gọi nhau, đuổi nhau
vòng quanh núi, sắp sửa gặp nhau thì rạng, phải tr về tổ7[7].
6. Một truyện khác Sự tích sao hôm, sao mai và sao rua nói đến hai anh em trai,
có chgiống và khác với truyện của Lăng-đờ (Langdes) nói trên.
Xưa có hai anh em ở với nhau: anh đã có vợ, em còn bé dại. Vừa khi anh bị bắt đi
phu, có dặn em ở nhà phải nhớ canh giữ chị. Ở nhà, em nằm buồng riêng nhưng
hữu ý khoét một lỗ ở vách, đêm đêm bỏ tay lên bụng chị để canh giữ. V sau ch
bỗng có mang. Anh về, em sợ tội bỏ trốn. Nhưng chị không đẻ ra người mà đẻ ra
một cái bàn tay. Anh hối hận, bỏ đi tìm em. Không thấy chồng về, vợ lại bỏ đi tìm
chồng.
Kết cục, gần giống với truyện Lăng-đờ (Landes) đã kể, là anh hóa làm sao mai,
em hóa làm sao hôm, còn chị thì hóa làm sao rua (sao rua trông như cái bàn
tay)8[8].
Người miền Bắc cũng k như trên, nhưng nói là chị hóa làm sao vượt, còn cái bàn
tay đẻ ra thì hóa làm sao rua. Ở Phú-thcó câu tục ngữ: "Em hôm, anh mai, ch
chả thấy đâu, chị vượt".
Cũng có nời kể cái bàn tay ấy sau chôn xuống đất mọc lên một cây, cây sinh
quả, quả nào quả ấy như cái bàn lay tức là cây phật thủ9[9].
Cô-xcanh (Cosquin) khi nhắc đến truyện Sự tích đá Vọng-phu của ta đã truy cứu
nguồn gốc đến tận một loạt truyện có chủ đề hôn nhân tiền định với mô-típ vết sẹo
mà ông cho là rất gần nhau. Ví dụ một số truyện sau đây:
Truyện của Trung-quốc Sự tích Nguyệt lão dây tơ hồng: Vi Cố làm quan đời
Đường được phái đi bình định một thành phố. Ban đêm, anh gặp một ông cụ già
đang bận viết lách dưới ánh trăng. Hỏi thì đáp là ghi chép những cuộc hôn nhân
của người trần. Ông lão lại nói: - Những dây đỏ trong đãy dùng để buộc chân nam
và nữ đã xe duyên. Buộc rồi là không gỡ nổi". Vi Cố bèn hỏi về đường hôn nhân
của mình, ông lão bảo: - "Vanh là con một mụ bán rau ở chợ". Thấy người vợ
tương lai (mà ông lão chỉ cho anh vào một ngày sau đó) chỉ là một đứa bé đang
ẵm, nghèo khổ, xấu xí. Vi Cố sai người giết nó đi, nhưng người đó chỉ làm b
thương ở lông mày đứa bé.
Mười bốn năm sau. Vi Cố lấy được một cô vợ đẹp, con nuôi một quan lớn. Thấy
giữa lông mày vợ luôn luôn có một trang sức che kín. Vi Cố hỏi, mới hay đó là vết
sẹo hồi nhỏ do mình sai người giết nhưng đâm hụt thành sẹo.
Truyện của người Ấn ở Băng-la-dex (Bangladesh):
Một ông vua nhờ các nhà thông thái bói toán vđường vcon của hoàng tử. Họ
không dám nói sự thật nhưng vì vua giục, họ phải tâu: - "Hoàng tử sẽ lấy một
người đàn bà dòng dõi hèn hạ, một người "Pă-li" tại một đường phố thuộc thành
phố Đuốc-ba-san". Để phá tiền định xấu, hoàng tử cưỡi ngựa đến nhà kia mổ bụng
cô gái. Cô này nh điều kiện may mắn không chết, vết thương dần dần lành,
sau đó ít lâu được con voi ngự đặt lên lưng mang đến cung vua. Hoàng tử thấy cô
đẹp tuyệt trần không biết đó người mà mình trước đây muốn xa lánh, bên lấy