NGUỒN GỐC TRUYỆN CỐ TÍCH VIỆT – NAM
Phần 1
Như chúng ta biết, lịch sử bmôn văn học dân gian thế giới phát triển
mạnh mẽ chừng khoảng một thế k gn đây đã gi lên nhiu vấn đề thú,
làm nra nhiu cuộc tranh luận đến nay hầu như chưa vơi ý nghĩa, đóng li
nhiều hướng tìm tòi đã qlỗi thời, cũng như mở ra nhiều con đường thuận
li giúp các nhà cch học nhiều nước xích lại gần nhau vphương pháp,
do đó đưa lại nhiều triển vọng trong nhận thức, khám pra nhiều điều mi
mcủa thế gii cổ tích nước mình trvề trước tưởng chùng như luôn
luôn vẫn là điều bín.
Không k một thời kkhoảng một thế krưỡi trước đây, ttrường
phái thn thoại ngữ văn Ấn - Âu ra đời vào những m nửa đầu thế k XIX
chxướng là hai anh em nhà ctích học nổi tiếng người Đức Grim[1],
qua trường phái Ấn-độ[2] rồi trường phái nhân chủng học[3], cho đến
trường phái đa lý học lịch sử xut hin Phn-lan (Finlande) vào đầu thế k
này[4], tvn đề nghiên cứu các loại hình tsn gian trong đó c
ch, quthực đã phá vđược hàng rào quốc gia chật hẹp để trở thành một
vấn đề ý nghĩa và phạm vi quốc tế. Mặc dầu kng thkhông cảnh giác
trước bao nhiêu ý kiến lệch lạc của các trường phái y, trong đó những
thiên kiến hẹp hòi, thậm chí lúc người đã sa đà vào chủ nghĩa chủng
tộc, người ta vẫn không m ngạc nhiên trước vô số thành tựu cụ thể mà c
trường phái nói trên đã tổng hợp được. Nó cho phép gn lọc để đi dẫn tới
một phương pháp thực sđúng đắn, qua đó thể nhìn nhn truyện tự sự
dân gian của mọi n tộc như một di sản tinh thn thng nhất, với những
đặc trưng thống nhất vtư tưởng cũng như loại hình.
Việc vạch ra một nguồn gốc chung của truyện cổ n gian một số
nước Đông Tây, chng hạn nguồn gốc A-ri-an (Aryens)[5] trong trường phái
thần thoi học, hay nguồn gốc Ấn-độ trong trường phái Ấn-độ học, tuy rằng
chứa đựng không ít sai lầm về mặt quan điểm, và nếu cứ nhắm mắt tin theo
thì tình snh ng đến việc nhận thức đúng đắn tiến trình vận động
của loại hình tsn gian trong quá khứ; nhưng ít ra về một mặt nào đó,
những nhận định cực đoan kiu này cũng bao hàm trong một hạt nhân
hợp lý: mi quan hmật thiết và sgiao lưu tng xuyên trong đời sống
văn hóa, tinh thn ca các n tộc thời cổ đại và trung clà một hiện tượng
có thc, đã din ra theo những con đường trao đổi hàng hóa và truynn
giáo phổ biến từ Âu sang Á, từ Á sang Âu. Và trong những mối quan hệ qua
li không bao giờ thụ động và một chiu đó, thì nh hưởng tích cực của
những "bếp lửa" văn hóa nhân loại thời cổ, như Ấn-độ, Ai-cập (Égypte), Hy-
lạp (Grèce), Trung-hoa... đối với các nn văn hóa khác điều ít ai th
nghi ngờ.
Cũng như vậy, việc phân loại tỷ mỷ truyn cổ tích thành hàng trăm
hay hàng nghìn mô-típ phbiến, và việc phân tích sự kết hợp các mô-típ y
thành stíp hay mẫu đề trong kho tàng ctích thế gii ca trường phái
Phn-lan (Finlande), tuy tu trung vẫn chưa thoát khỏi hình thức chủ nghĩa,
ít nhiu làm cho tính chất hữu trong kết cấu truyện cổ n gian b
cắt rời thành từng mảnh, nhưng dù sao, đây vẫn là những phát hiện bước đầu
hết sức quan trọng mà nhđó khoa phân tích truyện cổ tích mới thoát khỏi
ssuy đoán tùy tin để đi vào một thời kmới vi hy vng tìm ra được i
kết cấu đích thực bên trong, i quy luật vận động chung nhất và i lô-gích
của tư duy nghệ thuật dân gian.
Dĩ nhiên, bước tiến nào cũng kèm theo một bước lùi tương đối. Khi
người ta phát hiện ra cái "chung" ca truyện cổ tích, thì một u hi tự nhiên
cũng ny sinh làm các nhà ctích học băn khoăn lúng túng: vậy thì truyn
cổ tích có còn hay không cái phn "riêng", tức là cái bn sắc dân tộc của mỗi
địa phương đã ng to ra nó, hoặc tiếp nhận u nh như di sản của
chính mình? Phải chăng đúng như ý kiến ca -xcanh (E.Cosquin), đại
diện trường phái n-độ học, rằng đi tìm cái "nhãn hiu" n-độ trong kho
tàng truyện cổ n gian các n tộc mi là việc thực sý nghĩa, còn như
ngược li, đi tìm yếu tố độc đáo n tộc những kho ng phong phú đa
dạng đó chỉ điu dối trá mà thôi? Hoặc là "không bao githn cứ
vào các truyện du nhập từ nước ngoài để tìm tính của các dân tộc đã thu
hút các truyện đó"[6] "vì trong các dbản tuyệt nhiên không có yếu tố tưởng
tượng độc đáo của người kể truyện"[7], vân vân và vân vân...
Qulà trong công tác nghiên cu truyện cn gian, việc phát hiện ra
cái "chung" của loại hình này vn chưa phi đã tới đích cuối cùng của nhà
nghiên cứu. Rốt cuộc đấy cũng chỉ mi là một i mốc và du là một i
mốc rất đáng kể đi nữa, nếu như nhà nghiên cứu thỏa mãn và dng li ở đấy,
rồi tuyệt đi hóa nó, coi nó là yếu tố chi phối tất cả, chắc hẳn kết luận ca họ
sẽ phạm phải không ít sai lm.
Đành rằng trong những thời kỳ lịch sử xa xăm, trên con đường phn
đấu gian nan của các n tộc nhằm chống lại những lực lượng trở ngại trong
tnhiên cũng như trong xã hội để tồn tại và phát triển, dân tộc nào mà chng
trải qua những bước tiến hóa lịch sgn như nhau, với những tình cảm, tư
tưởng, quan niệm nhân sinh, đạo ng xử... tính nhân loại; nhưng nếu
xét vhình thức biu hin ca những nhân trất gần nhau y, thì ng
chúng lại hiện ra dưới những đường nét sắc màu hết sức phong p đa
dạng. đứng góc độ đó mà xét, có n tộc nào lại giống hệt với n tộc
nào?
Hơn thế nữa, làm lại một n tộc "thượng đẳng" nào đấy, được
thượng đế ban cho một chức năng cao quý là chuyên sáng tác ra vàn
truyện kể k t để ban phát cho cả loài người cùng thưởng thức, trong khi
đó thì c n tộc khác, trí tuệ, i năng cũng chng phải là m ci, mà lại
cphải đóng vai người "thính giả", hay người "kể chuyện" trung thành? Nói
cách khác, tưởng tượng ước, suy nghĩ và ng tạo vốn là những khả
năng hầu như tận ca trí óc con người nhằm dựng nên một thế giới bằng
ngôn ngvà bng âm thanh để đim cho i thế giới mà mình đang sống,
để bổ sung những chkhiếm khuyết của con người bằng ước mơ, phải đâu
là độc quyn riêng của một vài n tộc! Và ngay cho dù một n tộc nào
đó nhiều kh năng n những n tộc khác trong lĩnh vực ng tạo
nghthut thì trong quá trình sinh hoạt, tiếp xúc giao u với c dân tộc
khác, phải đâu họ chỉ làm người "chủ đng ban phát" mà kng h tiếp nhận
những ảnh hưởng ngược trở lại? Cũng vậy, đối với n tộc "tiếp nhận" cũng
phải đâu trong khi chuyển hóa những vn liếng của nước ngi vào điều
kiện lịch sử - hội của nước mình, n tc đó cứ một mực thụ động "sao y