
NGUỒN GỐC BẢN ĐỊA CỦA TRUYỆN
CỔ TÍCH VIỆT NAM
Cuối cùng, ta hãy nói tới mảng truyện không biết xếp vào bất kỳ một
mô hình nào trong các sơ đồ cốt truyện quốc tế cũng như các sơ đồ khu vực,
sau khi đã trải qua khâu đối chiếu so sánh nhiều lần. Khâu đối chiếu này
chắc chắn còn phải thực hiện tiếp, với nhiều thao tác chi tiết và khoa học
hơn nữa. Dù sao trong một chừng mực tương đối, cũng có thể hướng tới một
kết luận có nhiều khả năng gần sự thật nhất: đây là nhóm truyện có nguồn
gốc không ở đâu xa mà là từ bản địa.
Tính về số lượng, trong số 200 truyện chính của cả "kho tàng" - một
kho tàng đã được chọn lọc - nhóm truyện bản địa chiếm 75, khoảng một
phần ba tổng số. Chắc chắn nếu đối chiếu nhiều lần nữa, con số này sẽ còn ít
hơn. Nhưng như thế cũng đã là điều đáng khích lệ đối với chúng ta. Bởi nó
là bằng chứng không thể bác bỏ xác nhận sự tồn tại của cái "riêng trong cổ
tích của một dân tộc, trong khi cái "chung" đã là vấn đề quá hiển nhiên đối
với cổ tích học thế giới. Nhưng cái "riêng có tính chất định lượng mà ta vừa
tìm thấy, nói lên được điều gì ? Mục nhỏ cuối cùng này của bộ sách sẽ

không bàn trở lại những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện cổ
tích Việt-nam mà chúng tôi đã giải quyết trong toàn bộ Chương IV, phần
Tổng luận. Sở dĩ chúng tôi muốn xem xét đặc điểm truyện cổ tích Việt-nam
khi chưa chia nhỏ chúng ra, căn cứ trên kết quả truy tìm nguồn gốc "ngoại
nhập" cũng như "nội sinh" của từng nhóm, vì lẽ nói đến đặc điểm truyện cổ
tích là nói đến một loại hình văn xuôi tự sự dân gian như nó vẫn tồn tại, cái
"chung" và cái "riêng" còn nằm lẫn cả ở trong đó, gắn bó, hòa trộn vào nhau,
là lực đẩy đồng thời cũng là lực hút của nhau. Và người đọc từ xưa đến nay,
bao giờ cũng tiếp nhận chúng một cách trọn vẹn, như một dòng văn nghệ
không phân thứ hạng, một cái gì đã được thanh lọc, đã vắt qua nguồn cảm
xúc và ánh sáng trí tuệ của dân tộc, để trở thành tiêu chuẩn cái đẹp của tâm
thức Việt-nam. Còn khi đã tách ra theo từng nhóm xuất xứ thì mỗi nhóm
không còn đủ tư cách đại diện cho cả loại hình, dù rằng đó là nhóm truyện
có nguồn gốc "bản địa". Mỗi nhóm chỉ có thể cấp cho ta những tia sáng để
lần theo đó đi tìm các dạng sơ đồ nguyên thủy, trước khi chúng được hội
nhập vào dòng chảy của cả con sông. Chúng phải trải qua xáo trộn, biến đổi
về chất để trở thành những giá trị lớn hơn.
Xem xét lại con số thống kê, khối lượng nhóm truyện bản địa bao
gồm nhiều nhất là tiểu loại thế sự và nửa thế sự và tiểu loại lịch sử. Có rất ít
truyện thuộc tiểu loại thuần túy thần kỳ. Dựa trên chỉ số đó, chúng tôi xin

nêu lên dưới đây một vài gợi ý sơ lược về một ít biểu mẫu, sơ đồ có thể là
chưa tiêu biểu - để người đi sau dễ dàng nhìn sâu hơn vào gốc rễ dân tộc
trong tư duy cổ tích Việt-nam.
1. Trước tiên hãy nói đến tiểu loại nửa thế sự. Gọi là nửa thế sự nhưng
yếu tố thế sự mới đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố thần kỳ chỉ đóng vai trò phối
thuộc. Đề tài thế sự phần lớn là các mối quan hệ gia đình được xã hội hóa:
vợ chồng (hoặc rộng hơn nam vũ nữ yêu nhau rồi thành vợ thành chồng),
anh em (hay cô cháu, bác cháu, dì cháu...), bạn bè... Chủ đề thường giới hạn
ở ba phương diện, nhưng không tách hẳn nhau: l. Tình yêu (mặt trái là ghen
tuông, ngờ vực), tình chồng vợ (mặt trái là không tốt với đứa con riêng,
không tốt với bạn chồng); 2. Đạo đức (mặt trái là dối trá, bất nhân, bạc ác);
3. Xã hội: giàu nghèo, đói kém... Triển khai các chủ đề trên thường bao giờ
cũng đẩy mọi quan hệ đến những xung đột không thể hòa giải (trừ một vài
truyện khai thác sự chung thủy của tình yêu). Và kết cục là cái chết thương
tâm của nhân vật. Yếu tố thần kỳ xuất hiện đúng ở điểm kết thúc, theo
những ước lệ có sẵn trong tư duy truyền thống: nhân vật chết nhưng hóa
chim, hóa đá, hóa cá, hóa cây... Nhưng cũng nhiều khi yếu tố thần kỳ còn
can thiệp sâu hơn, vận dụng phối hợp một vài hình thức tín ngưỡng có hoán
chuyển ít nhiều, tạo ra những kết thúc không đơn giản. Và như thế, ta có hai
dạng sơ đồ về tiểu loại nửa thế sự.

Dạng sơ đồ 1:
Sự tích chim hít cô (số 5): cô và cháu sống gắn bó với nhau (cháu ở
đây có lẽ được cải biên từ nhân vật đứa trẻ mồ côi). Nhưng trời làm mất mùa
đói kém, lại vào ngày giáp hạt nên cả hai cùng bị cơn đói đe dọa. Ruộng lúa
bắt đầu chín, cô ốm nặng, cháu đi mót được một nắm thóc đem về xay giã,
nấu cháo. Khi cháu đi khỏi thì cô húp hết cháo. Cháu về, thất vọng, rủa cô
("Còn chút cháo đấy, hít nốt đi cô! Hít cô!"). Cháu chết, hóa thành chim hít
cô.
Chú ý: sơ đồ truyện này gắn rắt chặt với môi trường sinh hoạt lúa
nước: sự khốn khó truyền kiếp của người làm ruộng trong ngày giáp hạt; và
cũng gắn với môi trường thiên nhiên dân tộc: giống chim hít cô.
• Sự tích chim quốc (số 7): Quắc và Nhân là hai người bạn chí cốt,
thương nhau hết lòng. Sau khi xa nhau, Nhân lấy vợ phú thương trở nên giàu
có, còn Quắc vẫn nghèo khổ. Nhân không quên tình bạn, đón Quắc về cùng
sống. Nhưng vợ Nhân (con nhà buôn, lại không có những ngày hàn vi)
không chấp nhận. Xung đột nổ ra ngấm ngầm, đè nặng lên tâm trạng Quắc.
Quắc đành trốn đi, giả cách bỏ áo ở cửa rừng để che mắt bạn. Nhưng Nhân
vẫn vào rừng tìm Quắc, luôn miệng gọi "Quắc", cuối cùng chết hóa ra chim
quốc.

• Sự tích đá Bà-rầu (số 33): vợ xinh đẹp con thuyền chài, và chồng
làm nghề buôn chuyến, rất yêu nhau. Sau những ngày ái ân họ phải chia tay.
Chồng theo thuyền buôn ra đi. Thuyền gặp bão, nhiều tháng vắng bặt tin tức.
Nhưng rồi chồng trở về. Sự xa cách đã len mối nghi kỵ vào lòng chàng trai.
Vợ chồng mất yên ấm. Chàng lại bỏ ra đi. Sau nhiều năm tháng, chàng mới
trở về thì nhà vắng bóng vợ. Bỏ đi tìm, ra đến bến sông, vợ đã hóa đá.
Ta để ý hai sơ đồ sau cũng gắn với môi trường thiên nhiên nước Việt,
qua tiếng kêu quen thuộc của con chim quốc, và địa hình núi đá có dáng
người; và còn gắn với một tâm lý rất nặng nề của xã hội Việt cổ mà chúng
tôi đã từng lưu ý: nghi kỵ lối sống buôn bán. Về sơ đồ Sự tích đá Bà-rầu,
nếu ta đổi mô-típ "hóa đá" thành một mô-típ muộn hơn: nhảy xuống sông
chết hóa thành thần thiêng ở cửa sông, thì về cơ bản, sơ đồ vẫn giữ nguyên,
nhưng đã mang một màu sắc mới: truyện Vợ chàng Trưnơg (số 185).
Dạng sơ đồ II:
• Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông (số
46): Ất và Giáp chơi thân. Giáp giàu thường cưu mang Ất. Ất vay tiền Giáp,
bỏ đi nơi khác cùng vợ làm nghề buôn, dần dần giàu có. Giáp tìm đến định
giúp đỡ, nhưng vợ chồng Ất nghi ngờ, tưởng đến đòi tiền, bèn bàn nhau giết
chết, chôn dưới cây khế. Cây khế sinh hoa, kết độc một quả. Vợ Ất ăn, sinh