ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO HUYỀN TRANG
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TRONG NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khoá học: QH-2013-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.TRẦN TRÍ TRUNG
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là khoá luận tốt nghiệp của riêng tôi, chưa từng
được công bố trên bất kỳ một phương tiện nào. Các số liệu, trích dẫn trong khoá
luận đều trung thực và chính xác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và chấp
thuận mọi hình thức xử lý của nhà trường nếu vi phạm Luật sở hữu trí tuệ và
Quyền tác giả.
Tác giả khoá luận
Đào Huyền Trang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS.Trần Trí Trung, người đã
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua, chia sẻ cho tôi những kinh nghiệm quý báu
trong học tập, kiến thức và phương pháp để tôi có thể hoàn thành tốt khoá luận
tốt nghiệp của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, thầy cô và các bạn đang công tác,
học tập tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã động viên và giúp đỡ tôi
hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.......................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Kết cấu của khoá luận ............................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TRONG
NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN .................................................................................. 7
1.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ............................................. 7
1.1.1. Khái quát về công ty cổ phần ............................................................................ 7
1.1.2. Khái niệm kiểm soát nội bộ ............................................................................ 10
1.1.3. Sự cần thiết của kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ................................ 12
1.2. Cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ................................................. 13
1.2.1. Khái niệm cơ chế kiểm soát nội bộ ................................................................. 13
1.2.2. Vai trò của cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ............................ 14
1.2.3. Các yếu tố cấu thành cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ..................... 16
1.2.4. Nội dung hoạt động của cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần ....... 18
1.2.5. Các nguyên tắc pháp lý trong việc xác lập và vận hành cơ chế kiểm soát nội
bộ trong công ty cổ phần ........................................................................................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TRONG
NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 ................ 31
2.1. Quy định pháp luật về xác định cơ chế kiểm soát trong công ty cổ phần ..................... 31
2.2. Quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế kiểm soát
trong nội bộ công ty cổ phần ..................................................................................... 32
2.3. Quy định pháp luật về nội dung hoạt động của cơ chế kiểm soát nội bộ .......... 36
MỤC LỤC
2.3.1. Quy định về kiểm soát của Đại hội đồng cổ đông .......................................... 36
2.3.2. Quy định về kiểm soát của Hội đồng quản trị................................................. 43
2.3.3. Kiểm soát của Ban kiểm soát .......................................................................... 46
2.3.4. Kiểm soát của Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT ................................. 49
2.4. Những vấn đề pháp lý đặt ra trước quy định pháp luật hiện hành về cơ chế kiểm
soát nội bộ trong CTCP ............................................................................................. 49
2.4.1. Cơ chế kiểm soát nội bộ chưa được đầu tư đúng mức khi xây dựng bản Điều
lệ công ty ................................................................................................................... 49
2.4.2. Quyền kiểm soát của cổ đông chưa thực sự được bảo đảm ............................ 51
2.4.3. Sự chồng chéo khi phân định quyền lực kiểm soát nội bộ ............................. 52
2.4.4. Ban kiểm soát chưa thực sự phát huy đúng vai trò của mình ......................... 55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 58
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ
CHẾ KIỂM SOÁT TRONG NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM ..... 59
3.1. Giải pháp pháp lý ............................................................................................... 59
3.1.1 Hoàn thiện một số quy định nhằm tằng cường quyền kiểm soát của cổ đông 59
3.1.2. Bãi bỏ quy định chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc ................................... 60
3.1.3. Bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền thành viên HĐQT độc lập ....... 61
3.1.4. Bổ sung quy định liên quan đến Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT ..... 62
3.1.5. Bảo đảm tính độc lập và tính thực thi quyền kiểm soát của Ban kiểm soát ... 64
3.1.6. Bổ sung quy định về xác định trách nhiệm của ĐHĐCĐ trong việc xây dựng
và tổ chức thực hiện cơ chế kiểm soát nội bộ công ty .............................................. 67
3.2. Giải pháp khác .................................................................................................... 68
3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, hiểu biết pháp luật của thành viên kiểm soát
trong CTCP ............................................................................................................... 68
3.2.2. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của cơ quan kiểm soát trong CTCP .. 69
3.2.3. Nâng cao ý thức xây dựng hệ thống công khai hoá và minh bạch thông tin của
doanh nghiệp ............................................................................................................. 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 71
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 73
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Công ty cổ phần CTCP
Ban kiểm soát BKS
Ban kiểm toán nội bộ BKTNB
Ban giám đốc BGĐ
Đại hội đồng cổ đông ĐHĐCĐ
Hội đồng quản trị HĐQT
Hội đồng giám sát HĐGS
Kiểm soát nội bộ KSNB
Kiểm toán nội bộ KTNB
Kiểm soát viên KSV
Luật doanh nghiệp LDN
Luật doanh nghiệp 2005
Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2005
Luật doanh nghiệp 2014
Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII thông qua ngày 26/11/2014
Nghị định NĐ
OECD Bộ nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
Tổ chức Thương mại thế giới WTO
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 1 35 Mô hình quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam
Sơ đồ 2 36 Mô hình quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự xuất hiện của Công ty cổ phần (CTCP) trong đời sống xã hội là một
dấu mốc khẳng định cho sự phát triển của một loại hình doanh nghiệp hiện đại.
Thiết kế này đã tạo ra sức sống mạnh mẽ cho công ty trong việc huy động vốn
nhàn rỗi từ công chúng và trong việc đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế xã
hội. Ở Việt Nam, từ cuối thập niên 80 đến nay, công cuộc đổi mới, mở rộng thị
trường, phát triển nền kinh tế đã được khởi xướng và triển khai một cách nhất
quán. Điều này đã mở ra cơ hội, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức phát huy
khả năng tổ chức kinh doanh, qua đó, các hình thức công ty, mà đặc biệt là
CTCP được hình thành và ngày càng phổ biến, chứng minh được vai trò tích cực
của mình trong nền kinh tế.
CTCP là loại hình công ty có khả năng huy động vốn mạnh mẽ trên thị
trường thông qua việc phát hành chứng khoán, đặc tính này khiến cho CTCP
không bị hạn chế về số lượng cổ đông và bất kì người nào cũng có thể mua cổ
phiếu để trở thành cổ đông của công ty. Chính sự không hạn chế về vốn đã khiến
cho CTCP có sức ảnh hưởng không nhỏ đến sự sống còn của nền kinh tế mỗi
quốc gia. Để phát huy thế mạnh của mình cũng như giảm thiểu những rủi ro có
thể xảy đến gây thiệt hại đến đời sống kinh tế, trước hết trong nội tại CTCP phải
được tổ chức chặt chẽ và vận hành hiệu quả mà trong đó, vấn đề được quan tâm
hàng đầu là cơ chế phân quyền, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực
trong nội bộ công ty. Bởi lẽ, sự khác biệt mang tính chất bản chất giữa CTCP và
các loại hình doanh nghiệp khác là sự tách bạch quyền sở hữu và quyền quản lý
điều hành, muốn tạo cho cổ đông lòng tin đối với công ty và đảm bảo cho công
ty phát triển một cách ổn định vững mạnh thì cần thiết lập một cơ chế vừa đảm
bảo cho cổ đông được thực hiện quyền sở hữu công ty, vừa đảm bảo cho cơ quan
quản lý điều hành quyền thiết thực để quản lý kinh doanh có hiệu quả. Đó chính
là lý do cho sự cần thiết phải xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ
1
công ty cổ phần.
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế dưới sự chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước, nhiều đạo luật đã được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của
các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Trong quá trình phát triển hoàn thiện,
pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong nhận thức và thực tiễn
thi hành pháp luật. Trải qua nhiều thời kì sửa đổi, đến năm 2014, Luật doanh
nghiệp số 68/2014/QH13 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2015, đây là đạo luật duy nhất hiện hành điều chỉnh việc thành lập, tổ chức
quản lý, hoạt động tổ chức lại và giải thể của các loại hình doanh nghiệp ở
nước ta. Đối với những quy định về CTCP, pháp luật đã từng bước tiếp cận và
phát triển, giải quyết được nhiều yêu cầu đặt ra trong thực tiễn tổ chức và hoạt
động của loại hình công ty này. Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến bộ,
những quy định pháp luật trực tiếp liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực
trong nội bộ công ty vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề cần hoàn thiện. Trong thực
tiễn, các vụ tranh chấp nội bộ công ty ngày càng phổ biến hiện nay có nguyên
nhân chủ yếu do sự đầu tư chưa đúng mức tới cơ chế kiểm soát quyền lực trong
nội bộ công ty, nhiều hành vi lợi dụng quyền lực để trục lợi làm thiệt hại lợi ích
của cổ đông cũng như công ty vẫn xảy ra thường xuyên mà một trong những
nguyên nhân từ những bất cập và thiếu sót của pháp luật. Luật Doanh nghiệp
2014 mặc dù có nhiều đổi mới tiến bộ so với Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng
vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện, nhiều điểm còn bất cập tại Luật Doanh
nghiệp 2005 vẫn chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt hiện nay vẫn chưa có
những văn bản hướng dẫn chi tiết liên quan đến các vấn đề này.
Xuất phát từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, nhận thấy được tầm
quan trọng của cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ CTCP tại Việt Nam, với
mong muốn đóng góp những hiểu biết và ý kiến vào quá trình xây dựng và phát
triển pháp luật về CTCP, người viết đã lựa chọn đề tài “Cơ chế kiểm soát trong
nội bộ Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014” làm đề tài khoá luận tốt
2
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến cơ
chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần cũng được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, được đề cập ở một số luận án, luận văn, tạp chí, sách, báo, bài viết
nghiên cứu, v.v và chủ yếu được nhắc đến dưới góc nhìn quản trị công ty cổ
phần. Có thể kể đến như:
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần
theo pháp luật CHXHCNVN và Pháp luật cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” của
Ngô Viễn Phú Khoa Luật – ĐHQGHN (2005). Trong Luận án này, tác giả đã
nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý CTCP, nêu ra một số mô hình quản lý
CTCP trên thế giới, phân tích mối quan hệ quyền lực giữa ba cơ quan chủ chốt
trong CTCP là ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS trong sự so sánh với Pháp luật Trung
Quốc, chỉ ra một số thực trạng quản lý CTCP ở Việt Nam và Trung Quốc từ đó
gợi mở một số phương án giải quyết nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quản lý CTCP.
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Tranh chấp và giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên, giữa thành viên với công ty theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của
Trần Trí Trung, Học viện Khoa học xã hội (2016). Trong Luận án này, tác giả đã
nghiên cứu các vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong nội
bộ công ty, đồng thời khảo sát phân tích một số vụ việc thực tế, khái quát thực
trạng tranh chấp nội bộ giữa các thành viên, giữa thành viên với công ty ở nước
ta hiện nay và phần nào khẳng định những nguyên nhân phát sinh nhữnh tranh
chấp này xuất phát từ cơ chế quản lý lỏng lẻo, tuỳ tiện hoặc thiếu cơ chế kiểm
soát nhằm đảm bảo tính hiệu quả, hiệu lực của hoạt động nội bộ công ty. Thông
qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về tranh
chấp và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên, giữa thành viên với công ty.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về quản lý nội bộ trong công ty
cổ phần ở Việt Nam” của Lưu Tiến Ngọc, Khoa luật – ĐHQGHN (2002). Trong
3
luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về cơ cấu quản
trị nội bộ, vốn, cổ đông theo LDN 1999 trên cơ sở so sánh đối chiếu với pháp
luật ở một số nước trên thế giới từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần
theo Luật doanh nghiệp” của Trần Lương Đức, Khoa luật - ĐHQGHN (2006).
Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của quy định pháp luật
về quản trị CTCP Việt Nam theo quy định của LDN 2005, có sự so sánh giữa
LDN 2005 và LDN 1999, phân tích điểm mới của LDN 2005, nêu ra những bất
cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Ban kiểm soát trong quản trị nội bộ công ty
cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của Trần Thành Long, Khoa luật –
ĐHQGHN (2012). Luận văn tập trung làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn quy
định pháp luật về vị trí, vai trò của BKS trong CTCP, so sánh BKS với các cơ
quan tương đương theo pháp luật của một số nước trên thế giới, nêu ra thực trạng
áp dụng pháp luật và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về BKS trong CTCP
tại Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị
công ty cổ phần” của Hoàng Thị Mai, Khoa Luật – ĐHQGHN (2015). Luận văn
tập trung làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn quy định pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam về cơ cấu quản trị CTCP, so sánh các mô hình quản trị công ty trên thế
giới và có phần đề cập đến vấn đề kiểm soát trong nội bộ công ty.
- Bài viết “Một số so sánh về công ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản
và Luật doanh nghiệp Việt Nam” của Nguyễn Lan Hương, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Luật học số 25 (2009); bài viết “Về hoạt động giám sát của Ban
kiểm soát trong công ty cổ phần” của Nguyễn Lan Hương, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Luật học 27 (2011); bài viết “Vai trò của thành viên hội đồng quản
trị độc lập trong các công ty cổ phần” của Mạn Đình, Tạp chí khoa học và đào
tạo ngân hàng số 163 (2015); bài viết “Chế độ kiểm soát nội bộ công ty”,
Nguyễn Ngọc Bích, Thời báo kinh tế Sài Gòn; bài viết “Vấn đề kiểm soát ban
4
điều hành trong quản trị công ty”, Đoàn Tranh; v.v.
Nhìn tổng thể, các vấn đề được các tác giả nêu ra tại các bài nghiên cứu
trên đã ít nhiều đề cập đến vấn đề phân chia và kiểm soát quyền lực trong công
ty. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ mới đề cập ở một vài khía cạnh nhất định,
chưa có sự đánh giá cụ thể, mang tính hệ thống, toàn diện đối với các chế định,
quy định pháp luật liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ
CTCP. Trong khoá luận này, chúng tôi sẽ tiếp cận một cách có hệ thống, đi sâu
vào nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ chế kiểm soát
trong nội bộ CTCP theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Mục đích của khoá luận nhằm nghiên cứu, đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến cơ chế
kiểm soát trong nội bộ CTCP tại Việt Nam, tìm hiểu và so sánh với các mô hình
phân quyền kiểm soát của các nước trên thế giới, thông qua đó đề xuất các giải
pháp, cơ chế để có thể khắc phục những hạn chế, phát huy những tiến bộ đã
được thực hiện.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được các mục đích trên, người viết đã thực hiện
một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, nghiên cứu lý luận về cơ chế kiểm soát nội bộ CTCP thông qua
tìm hiểu các mô hình phân quyền kiểm soát điển hình tại một số quốc gia trên
thế giới.
Hai là, nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật trong
nước, có so sánh với nước ngoài liên quan đến cơ chế kiểm soát trong nội bộ
CTCP.
Ba là, chỉ ra những vấn đề pháp lý còn tồn tại và thực tiễn áp dụng trong
hoạt động công ty.
Bốn là, đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp kinh tế nhằm tháo gỡ
khó khăn, tạo nền tảng cho quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật về CTCP.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế kiểm soát
trong nội bộ CTCP thông qua việc tìm hiểu các mô hình phân quyền kiểm
5
soát điển hình theo pháp luật tại một số quốc gia trên thế giới và so sánh đối
chiếu với pháp luật Việt Nam. Khoá luận tập trung nghiên cứu vấn đề dưới
góc độ khoa học pháp lý, các khía cạnh pháp lý của vấn đề này nằm trong
khuôn khổ các quy định của LDN 2014 và một số văn bản hướng dẫn thi
hành, chỉ ra những bất cập còn tồn tại từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước về
hoạt động doanh nghiệp nói chung và kiểm soát CTCP nói riêng. Khoá luận đã
sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp diễn giải, quy nạp; phương pháp luật học so
sánh; phương pháp thống kê; v.v. để thực hiện những nhiệm vụ đã đặt ra trong
quá trình nghiên cứu, đánh giá và đưa ra kết luận cho một số quan điểm liên
quan đến cơ chế kiểm soát trong nội bộ CTCP tại Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận được kết cấu gồm: Phần Mở đầu, ba (03) Chương và phần Kết luận.
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế kiểm soát trong nội bộ công
ty cổ phần.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về cơ chế kiểm soát trong nội bộ công
ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2014.
- Chương 3: Đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về cơ chế kiểm
6
soát trong nội bộ công ty cổ phần tại Việt Nam.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
TRONG NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
1.1.1. Khái quát về công ty cổ phần
Dọc theo lịch sử hình thành và phát triển các loại hình công ty trên thế
giới [4,tr.31], đi từ thương nhân đơn lẻ đến các hình thức công ty, có thể thấy
CTCP là một hình thức phát triển cao nhất cho đến nay để huy động được nhiều
vốn nhất trong kinh doanh, từ đó làm cho nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển. Để
đưa ra một định nghĩa hoàn hảo về loại hình công ty này là điều không dễ dàng.
Người ta chỉ có thể nhận biết mô hình này dựa trên những đặc điểm nổi bật của
nó. Có thể nhận thấy CTCP có những đặc điểm sau [6, tr.218]:
“Thứ nhất, CTCP là loại công ty đối vốn, thuộc chế độ trách nhiệm hữu
hạn. Đối với hình thức công ty này, người ta không coi trọng nhân thân của các
thành viên công ty mà coi trọng cổ phần. Vì thế người ta xem đây là hình thức
công ty đối vốn điển hình. Có những công ty có tới hàng triệu cổ đông ở rải rác
khắp nơi trên thế giới mà họ không hề quen biết nhau. Thậm chí họ không quan
tâm tới sinh hoạt nội bộ công ty bởi sự chuyển nhượng cổ phần rất dễ dàng, do
đó dẫn đến một cơ cấu tách biệt công việc quản trị công ty.
Thứ hai, CTCP có cơ cấu tổ chức quản trị chặt chẽ mà trong đó mỗi cơ
quan đều có quyền hạn riêng. Cơ cấu này cần được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lợi
cho các chủ sở hữu công ty và thúc đẩy công ty hoạt động có hiệu quả, đồng thời
ngăn cản sự tác động xấu của công ty tới xã hội. Vì những lý do đó, nhà làm luật
thường can thiệp sâu vào việc quản trị CTCP so với các hình thức công ty khác.
Thứ ba, CTCP được phép phát hành chứng khoán để thu hút vốn. Vốn
được chia thành các phần nhỏ nhất bằng nhau và được chuyển nhượng một cách
tự do, điều này giúp CTCP có được lợi thế hơn nhiều so với các hình thức công
ty khác về việc huy động vốn dài hạn. CTCP có thể phát hành các loại chứng
7
khoán khác nhau để huy động vốn.
Thứ tư, các thành viên hay những người quản trị công ty đều không có tư
cách thương nhân. Bản thân công ty mới là thương nhân. Những người có thẩm
quyền giao dịch với bên ngoài chỉ là những người đại diện công ty. Thông
thường tư cách thương nhân được trao cho thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
trong một công ty. Nhưng với CTCP, các thành viên của nó đều chịu trách nhiệm
hữu hạn. Chỉ công ty mới chịu trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ của mình.”
Qua các đặc điểm trên, có thể thấy việc chia vốn của công ty thành các cổ
phần được tự do chuyển nhượng là “hạt nhân lý luận căn bản” của hình thức
công ty này [6, tr.219].
Một trong những đặc điểm của CTCP đó là cơ cấu quản trị chặt chẽ mà
trong đó mỗi cơ quan có quyền hạn riêng. Bản chất của CTCP là công ty đối vốn,
mặt khác CTCP có thể có rất nhiều cổ đông nên họ không thể “trực trị” như thành
viên công ty trách nhiệm hữu hạn. Các thành viên phải họp lại với nhau, tạo nên
ĐHĐCĐ, rồi chọn ra một số người thay mình quản lý điều hành, kiểm soát công
ty, thực chất là uỷ quyền cho họ thay mặt mình quản trị công ty. Quản trị CTCP có
thể hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng nhất, nó bao gồm tất cả
các mối quan hệ liên quan tới việc ra quyết định của công ty: mối quan hệ giữa cổ
đông, các chủ nợ, mối quan hệ với người lao động, người cung cấp nguyên liệu,
mối quan hệ với khách hàng, giữa nhà nước với công ty [6, tr.242].
Liên quan đến cấu trúc tổ chức quản trị, kiểm soát nội bộ CTCP, trên thế
giới hiện nay có nhiều cấu trúc quản trị CTCP khác nhau, trong đó nổi bật lên
hai mô hình quản trị chủ yếu: Mô hình quản trị đơn cấp (đơn lớp), mô hình quản
trị song cấp (song lớp).
Cấu trúc quản trị nội bộ trong CTCP theo mô hình đơn cấp gồm có
ĐHĐCĐ, HĐQT. Gọi là mô hình quản trị đơn cấp vì các vấn đề quản lý, giám
sát điều hành trong nội bộ công ty chỉ do một bộ phận đảm nhiệm đó là HĐQT.
Mọi vấn đề của công ty đều đặt vào tay HĐQT theo sự uỷ nhiệm của ĐHĐCĐ.
Trách nhiệm chủ yếu của HĐQT là bảo vệ sự đầu tư của các cổ đông, báo cáo
đến ĐHĐCĐ tiến trình hoạt động và những thành tựu trong hoạt động của công
8
ty [27 (2)]. HĐQT chủ yếu thực hiện chức năng giám sát, đề ra quyết sách quản
lý; chức năng quản lý điều hành thường nhật được giao cho Ban giám đốc công
ty (BĐG). Cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình quản trị đơn cấp có trong luật
công ty của hầu hết các nước thuộc hệ thống thông luật (common law) như Mỹ,
Anh, Australia, New Zealand, Canada v.v. cũng như không ít các nước thuộc
dòng họ luật thành văn (civil law).
Khác với mô hình quản trị nội bộ công ty đơn cấp, cấu trúc quản trị nội bộ
trong CTCP theo mô hình song cấp gồm: ĐHĐCĐ, Hội đồng giám sát (HĐGS)
và Hội đồng điều hành. Hoạt động quản lý, giám sát điều hành trong nội bộ công
ty cổ phần được phân chia cho hai cơ quan là Hội đồng giám sát (Aufsichtsrat)
và Hội đồng điều hành (nói cách khác là HĐQT) như một thiết chế hai tầng mà ở
đó, HĐGS nằm ở tầng trên. Quyền giám sát chuyên trách thuộc về HĐGS,
HĐGS không thực hiện chức năng quản lý điều hành. Nếu như CTCP theo mô
hình quản trị đơn cấp thường tập trung vào bảo vệ nhà đầu tư, chủ yếu là cổ
đông thì mô hình quản trị song cấp thường hướng vào việc bảo vệ cả người lao
động và chủ nợ. Các CTCP ở Châu Âu mà điển hình là Đức, Hà Lan thường sử
dụng mô hình song cấp trong hoạt động quản trị công ty mình.
Ngoài hai mô hình trên, mô hình quản trị CTCP ở Nhật Bản cũng thu hút
nhiều sự quan tâm. Mô hình quản trị CTCP của Nhật Bản không hoàn toàn là mô
hình hội đồng đơn, nhưng cũng không hẳn là mô hình hội đồng kép. Tổ chức nội
bộ CTCP truyền thống ở Nhật Bản thiết lập ra ba cơ quan chủ chốt: ĐHĐCĐ,
HĐQT, Ban kiểm soát (BKS). BKS trong CTCP có thể được thiết lập hoặc
không bắt buộc. Bên cạnh mô hình có BKS, Nhật Bản đã du nhập mô hình
CTCP có thiết lập các Uỷ ban thuộc HĐQT, trong đó có Uỷ ban giám sát [13,
tr.91]. Việc giám sát hoạt động quản lý, điều hành chủ yếu giao cho BKS hoặc
Uỷ ban giám sát. Dường như cấu trúc quản trị nội bộ CTCP tại Nhật Bản có sự
pha trộn giữa hai mô hình quản trị của Đức và Mỹ, điều này được thể hiện trong
Bộ luật thương mại Nhật Bản 1993 và gần đây là Đạo luật Công ty 2005 (The
company code 2005).
Có thể thấy, việc tìm hiểu về các đặc điểm của CTCP và sự đa dạng trong
9
mô hình quản trị nội bộ của nó đã chứng minh rằng CTCP là loại hình công ty
phức tạp về cơ cấu tổ chức và hoạt động, sự phức tạp này tồn tại bởi do những
tính chất vốn có của nó. Tính chất đặc biệt của loại hình công ty này thể hiện ở
việc nó không chỉ giới hạn được trách nhiệm của các thành viên góp vốn mà khả
năng huy động vốn và chuyển nhượng vốn không bị giới hạn. Là loại công ty đối
vốn điển hình, nên CTCP có thể có tới hàng triệu cổ đông. Đặc điểm này làm
cho CTCP trở nên phức tạp, có tầm ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế hơn các
loại hình công ty khác. Do vậy đòi hỏi chức năng của các cơ quan trong nội bộ
công ty phải được phân định riêng biệt và có cơ chế kiểm soát chặt chẽ.
1.1.2. Khái niệm kiểm soát nội bộ
Cùng với sự hiện diện và tham gia của những thiết chế bên ngoài, một
trong những nội dung cơ bản để có thể đảm bảo những sự cố khó có cơ hội xảy
ra trong doanh nghiệp và tổ chức đó là kiểm soát nội bộ. Chủ sở hữu và những
nhà quản lý luôn nỗ lực tìm ra những phương cách để có thể kiểm soát doanh
nghiệp của mình. Hoạt động kiểm soát nội bộ được thiết lập nhằm giúp doanh
nghiệp đạt được mục tiêu mà chủ sở hữu đã đề ra cũng như tuân thủ tôn chỉ hoạt
động của doanh nghiệp, giảm thiểu những yếu tố xảy ra bất ngờ gây tác động
xấu tới hoạt động doanh nghiệp, chủ sở hữu công ty.
Khái niệm kiểm soát nội bộ (KSNB) trước đây được hiểu rất khác nhau
đối với nhiều người, đặc biệt là các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu. Dần
dần vấn đề kiểm soát nội bộ sau đó ngày càng được quan tâm dựa trên các sự
kiện về tài chính và chính trị ở nước Mỹ thời bấy giờ như vụ Watergate (1973)
dẫn đến sự ra đời của Luật chống hối lộ nước ngoài (1977); Hiệp hội kế toán
viên công chứng Mỹ (AICPA) đã thành lập một Uỷ ban đặc biệt về kiểm soát nội
bộ (1979), Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) đưa ra quy định bắt buộc các Giám
đốc phải đưa báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với công tác kế toán ở
doanh nghiệp (1979); AICPA ban hành hướng dẫn bổ sung về tác động của việc
xử lý máy tính bằng KSNB. COSO (The Committee of Sponsoring
Organizations of the Treadway Commisssion) là một Uỷ ban thuộc Hội đồng
quốc gia Hoa Kỳ về chống gian lận khi lập báo cáo tài chính. Theo sau các sự
kiện bê bối về tài chính và chính trị nước Mỹ, COSO đã đưa một định nghĩa về
KSNB trong một báo cáo vào năm 1992, một cách hiểu chung được chấp nhận 10
rộng rãi về khái niệm KSNB và cũng nhằm giúp các nhà quản lý doanh nghiệp
thực hiện kiểm soát tốt hơn doanh nghiệp của mình. Báo cáo COSO định nghĩa
về KSNB như sau [26]: “Kiểm soát nội bộ là một quá trình bị chi phối bởi nhà
quản lý, giám đốc, và các nhân viên của đơn vị, được thiết kế để cung cấp một
sự đảm bảo hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu: Mục tiêu về sự hữu hiệu và hiệu
quả hoạt động; Mục tiêu về sự tin cậy của báo cáo tài chính; Mục tiêu về sự tuân
thủ các luật lệ và quy định”. Trên thực tế, Báo cáo COSO 1992 về vấn đề kiểm
soát nội bộ là một tài liệu được chấp nhận khá rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên,
báo cáo này không mang tính bắt buộc (như một chuẩn mực) mà chủ yếu mang
tính hướng dẫn. Do vậy, dựa trên chỉ dẫn theo báo cáo COSO 1992, khi nhận
thức về vấn đề “kiểm soát nội bộ” công ty, cần khẳng định rằng vấn đề này có
thể đi theo những hướng tiếp cận khác nhau. Mặt khác, khi nhìn lại khái niệm về
quản trị công ty theo quan điểm của OECD [21, tr.12], ta nhận thấy rằng quản trị
công ty không chỉ liên quan đến các vấn đề quản lý điều hành hoạt động công ty
mà còn liên quan đến các vấn đề kiểm soát công ty. Quản trị nội bộ CTCP không
chỉ hướng đến định hướng điều hành mà còn hướng đến hoạt động kiểm soát
nhằm giúp công ty vận hành có hiệu quả, thực hiện mục tiêu cốt yếu là bảo vệ
quyền lợi của cổ đông cùng những người có liên quan.
Với định hướng tiếp cận như vậy, khái niệm KSNB trong CTCP trong đề
tài này được tiếp cận như một khía cạnh của vấn đề quản trị công ty, xem xét
KSNB trong phạm vi nội bộ công ty. Đi theo hướng tiếp cận trên, khái niệm
kiểm soát nội bộ có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa
rộng, kiểm soát nội bộ bao gồm tất cả các hoạt động kiểm tra, giám sát nội bộ,
biểu hiện dưới mọi hình thức và được thực hiện bởi công ty hoặc chủ thể nhân
danh công ty. Theo nghĩa hẹp, KSNB là hoạt động gắn liền với quá trình tổ chức
phân chia quyền lực bao gồm quyền sở hữu, quản lý, điều hành trong nội bộ
công ty, đó là các hoạt động kiểm tra giám sát quá trình thiết lập, phân chia và
vận hành quyền lực nội bộ, được xây dựng và tổ chức thực hiện bởi thành viên,
chủ sở hữu công ty nhằm đảm bảo cho các chủ thể thực hiện đúng, đủ và mẫn
11
cán quyền hạn nhiệm cụ của mình.
1.1.3. Sự cần thiết của kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
CTCP luôn được đặc trưng bởi sự phân tách giữa quyền sở hữu, quyền
quản lý điều hành. Do vậy, cấu trúc quản trị nội bộ CTCP thường phức tạp và
đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ. Trong công trình nghiên cứu về học thuyết công ty
(Theory of the firm), William H. Meckling và Michael C. Jensen đã chỉ ra rằng
liên quan đến quan hệ đại diện giữa chủ sở hữu (the principal (s)) và người đại
diện (the agent), nếu cả hai bên trong mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý
công ty đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình, thì có cơ sở để tin rằng người
quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ
sở hữu (tức các cổ đông) [25, tr.310]. William và Michael C. Jensen cho rằng,
với những phúc lợi ít ỏi mà chủ sở hữu dành cho người đại diện, hay nói cách
khác, nếu chi phí cho sự đại diện của họ không được đền đáp một cách thích
đáng, thì người quản lý công ty được cho là luôn có xu hướng tư lợi, không đủ
siêng năng mẫn cán và có thể tìm kiếm những lợi ích cá nhân cho mình hay
người thứ ba chứ không phải cho bản thân công ty hay chủ sở hữu. Những đặc
tính tự nhiên trong mối quan hệ đại diện cho thấy sự cần thiết trong việc giám sát
hoạt động của những người đại diện, thay mặt chủ sở hữu quản lý công ty. Việc
này cần được thực hiện bởi chính những cổ đông bởi điều này liên quan trực tiếp
đến lợi ích của họ. Các cổ đông cần có những cơ chế thích hợp để hạn chế sự
phân hoá, chênh lệch lợi ích giữa họ và người quản lý công ty bằng việc thiết lập
những chế độ đãi ngộ phù hợp, cơ chế giám sát thông tin hiệu quả để hạn chế
những hành vi không bình thường và tư lợi của người quản lý công ty.
Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là phương pháp quản trị của nhiều
CTCP còn lỏng lẻo, khi các công ty nhỏ được quản trị theo kiểu gia đình, còn
những công ty lớn lại phân quyền điều hành cho cấp dưới mà thiếu sự kiểm tra
đầy đủ. Hoạt động quản trị nội bộ công ty đều dựa trên sự tin tưởng cá nhân, còn
thiếu những quy chế thông tin, việc kiểm tra sao chép giữa các bộ phận để phòng
ngừa gian lận.
KSNB là hoạt động cần thiết giúp chủ sở hữu bảo đảm quyền kiểm soát
của mình đối với hoạt động công ty, giúp nhà quản lý trong việc đảm bảo tuân
12
thủ, thực hiện có hiệu quả mục tiêu đặt ra của đơn vị. Thiết lập một hoạt động
kiểm soát nội bộ chính là xác lập một cơ chế kiểm soát sự phân chia và vận hành
quyền lực mà ở đó công ty không quản lý bằng lòng tin, mà bằng những quy
định, chính sách rõ ràng nhằm:
- Bảo vệ tài sản của công ty, KSNB kiểm soát quá trình bảo vệ tài sản
nhằm giảm bớt tổn thất do các hành vi trộm cắp, hoả hoạn, sử dụng sai mục đích
hoặc bất hợp pháp và thẩm tra vạch trần các hành vi vi phạm này.
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, nhà quản lý căn cứ vào các thông
tin kinh tế, tài chính do bộ phận kế toán tổng kết và cung cấp để đưa ra những
quyết định quan trọng. Nếu thông tin không kịp thời, phản ánh không đúng đắn
thực trạng công ty thì sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm.
- Bảo đảm thực hiện các chế độ pháp lý, KSNB giúp hỗ trợ nhà quản lý
giám sát quá trình tuân thủ các chính sách, kế hoạch, thủ tục, pháp luật và các
quy định có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Bảo đảm hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý. Hoạt động KSNB góp
phần tăng cường việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực, giảm thiệu
sự lãng phí, hoàn thiện bộ máy quản lý bằng cách cung cấp thêm các thông tin về
quá trình hoạt động của các bộ phận, ví dụ như các bộ phận khác nhau của chu
trình kiểm tra giám sát hoạt động như thế nào, từ đó đưa ra các biện pháp sử
dụng hợp lý tài sản, quản lý hiệu quả nguồn lực của đơn vị.
1.2. Cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm cơ chế kiểm soát nội bộ
Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa, tuỳ vào hoàn cảnh
và lĩnh vực. Cơ chế có thể hiểu là “máy móc, bộ máy, cơ cấu”; chẳng hạn, cơ
chế nhà nước (bộ máy nhà nước). Theo từ điển Tiếng việt, “Cơ chế là cách thức,
sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện’’. Theo quan
điểm của nhà Triết học Phạm Ngọc Quang: “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ
một chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy mục
tiêu được thực hiện”.
Như vậy, cơ chế theo cách hiểu chung nhất là tập hợp các phương thức để
thực hiện một hay nhiều chức năng, mục tiêu nhất định. Nếu như KSNB là một
13
quá trình thì cơ chế KSNB là phương tiện, cách thức để thực hiện quá trình đó.
Nói một cách đơn giản hơn, cơ chế KSNB chính là hệ thống các quy tắc, thiết
chế tổ chức phân chia quyền lực do chủ sở hữu, thành viên công ty xác lập và thi
hành, nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể quản lý điều hành trong
nội bộ công ty, kiểm soát hoạt động của công ty từ bên trong, tạo điều kiện cho
các chủ thể kiểm soát lẫn nhau, giúp các chủ thể hiểu đúng và thực hiện tốt
quyền hạn nghĩa vụ của mình, vì lợi ích của chính công ty và các cổ đông, từ đó,
giúp công ty vận hành có hiệu quả, gia tăng giá trị doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò của cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
Như đã nêu tại phần 1.1.3, do đặc thù phân tách giữa chủ sở hữu và quản
lý, sở hữu và điều hành trong công ty cổ phần nên không phải tất cả người đầu tư
(người góp vốn) đều có thể tham gia quản lý điều hành để trực tiếp sử dụng vốn
và tài sản của mình tại doanh nghiệp. Trong một công trình nghiên cứu về quan
hệ đại diện (Agency Problems), John Armour, Henry Hansmann, Reinier
Kraakman cho rằng có ba vấn đề xung đột liên quan phát sinh trong nội bộ công
ty cổ phần [26, tr.644]:
Thứ nhất, xung đột giữa chủ sở hữu công ty và những người được uỷ
quyền quản lý. Xung đột này xuất phát từ nhu cầu của chủ sở hữu cần được đảm
bảo rằng mọi hành động của nhà quản lý nhằm đáp ứng quyền lợi của chủ sở
hữu chứ không phải theo đuổi lợi ích cá nhân của riêng họ. Cốt lõi của những
khó khăn nằm ở chỗ, những người thay mặt chủ sở hữu quản lý công ty thường
có thông tin tốt hơn về các sự kiện có liên quan hơn là chủ sở hữu, các cổ đông
không thể dễ dàng đảm bảo rằng hành động của người quản lý là trung thực và
mẫn cán như đã hứa.
Thứ hai, xung đột giữa cổ đông đa số hay những cổ đông trực tiếp nắm
quyền kiểm soát công ty và cổ đông thiểu số, những người không trực tiếp nắm
quyền kiểm soát. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để đảm bảo rằng các chủ sở hữu
đa số không sử dụng quyền kiểm soát của họ để tước đoạt quyền lợi của cổ đông
thiểu số? Nếu cổ đông thiểu số hưởng quyền phủ quyết liên quan đến những
14
quyết định cụ thể, nó có thể giải quyết mâu thuẫn liên quan?
Thứ ba, vấn đề liên quan đến xung đột giữa công ty mà trong đó đặc biệt
là chủ sở hữu với những chủ thể khác có liên quan (như chủ nợ, nhân viên,
khách hàng, v.v). Khó khăn trong xung đột này là làm thế nào để đảm bảo rằng
những người quản lý công ty không hành xử một cách đầy cơ hội đối với bên thứ
ba – chẳng hạn như chiếm đoạt tài sản của chủ nợ, bóc lột sức lao động của nhân
viên hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, v.v.
Trong một công trình nghiên cứu liên quan đến cơ chế giải quyết tranh
chấp nội bộ, khi đề cập đến cơ chế quản lý công ty, tác giả Trần Trí Trung cũng
đã chỉ ra rằng, cơ chế quản lý công ty hình thành và hoạt động gắn liền với quan
hệ uỷ quyền. Các thành viên công ty với tư cách chủ sở hữu đã uỷ quyền cho
người khác quản lý, điều hành công ty, bảo toàn và phát triển phần vốn góp của
mình. Trong khi đó, quan hệ uỷ quyền luôn có xu hướng phát sinh sự lạm quyền
nếu thiếu kiểm soát hoặc kiểm soát không hiệu quả. Trong những trường hợp
như vậy, những người quản lý công ty có thể gia tăng quyền lợi của mình bằng
cách gây tổn thất cho các thành viên công ty, thực hiện sự đối xử không bình
đẳng giữa các thành viên, dẫn đến những tranh chấp giữa các thành viên, giữa
thành viên với công ty. Từ đó, tác giả đã khẳng định cần phải có sự kiểm soát
nhằm hạn chế sự tha hoá và sai lệch của quan hệ uỷ quyền. Quản trị nội bộ lúc
này không còn thuần tuý là các định chế và thoả thuận chỉ tồn tại bên trong nội
bộ công ty, chúng cần được kiểm soát cả từ trong nội bộ công ty bởi các thành
viên và từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật, từ hệ thống luật pháp [21].
Chính vì vậy, để đảm bảo sự linh hoạt trong hoạt động quản lý kinh doanh,
thì nhất thiết phải tồn tại một cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý
trong nội bộ CTCP để từ đó kịp thời điều chỉnh những lệch lạc của nhà quản lý
khi mà cổ đông không trực tiếp, thường xuyên tham gia hoạt động công ty.
Thông qua các cơ chế kiểm soát, các cơ quan có thẩm quyền trong nội bộ
công ty sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ liên quan đến việc cung cấp cho các cổ
đông, nhà đầu tư, chủ nợ một sự đảm bảo thích hợp rằng công việc kinh doanh
15
của công ty được kiểm soát, giám sát thích đáng. Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng, nó là một trong các yếu tố giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư
vào doanh nghiệp hay không.
1.2.3. Các yếu tố cấu thành cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
1.2.3.1. Hệ thống các quy phạm nội bộ về tổ chức quản lý công ty cổ phần
Cần phải khẳng định rằng, cơ chế kiểm soát nội bộ trước hết phát sinh
trong hoạt động nội bộ công ty. Nó ra đời, tồn tại xuất phát từ những đòi hỏi, nhu
cầu của nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh nhằm hướng tới đầu tư có lợi và
an toàn, nó được thiết lập hoàn toàn tự chủ, theo ý chí của các thành viên. Dựa
trên nguyên tắc tự do ý chí trong kinh doanh, trong quá trình xây dựng và vận
hành công ty mình, các thành viên sẽ tự đàm phán với nhau, tự quyết định cơ chế
kiểm soát phân chia quyền lực nội bộ sao cho phù hợp với đặc thù doanh nghiệp
mình. Không đi ngược lại các giá trị đã được ghi nhận trong hệ thống luật pháp
quốc gia, trật tự công cộng và đạo đức xã hội, các thoả thuận của đồng chủ sở
hữu công ty (bao gồm cả thoả thuận về phân quyền kiểm soát) sẽ được xây dựng
thành hệ thống quy phạm nội bộ công ty. Mỗi công ty đều có một hệ thống quy
phạm về tổ chức quản trị nội bộ phù hợp với lĩnh vực và nhu cầu hoạt động của
mình. Các quy phạm nội bộ này thường bao gồm: điều lệ công ty, nghị quyết,
quy chế, nội quy công ty, v.v. Đây là các văn bản có tính bắt buộc trong từng
doanh nghiệp, đặc biệt là bản điều lệ công ty, nó được xem như “bản hiến pháp”
của công ty, do các cổ đông công ty thoả thuận sáng lập ra, bao hàm những vấn
đề quan trọng nhất liên quan đến tổ chức và hoạt động công ty, nó được xem là
cơ sở pháp lý rất quan trọng trong việc xác định và thực thi quyền sở hữu, quyền
quản lý điều hành của mỗi thành viên, chủ thể trong công ty. Bởi về nguyên tắc,
các quy phạm này có giá trị ưu tiên hơn luật. Khi xảy ra tranh chấp, các quy
phạm nội bộ được ưu tiên đưa ra xem xét trước. Có thể nói, cùng với các quy
phạm pháp luật hiện hữu, hệ thống các quy phạm nội bộ về tổ chức quản lý
CTCP là yếu tố cơ sở cho việc xây dựng và vận hành của cơ chế kiểm soát trong
nội bộ CTCP.
Trên cơ sở quy phạm pháp luật và hệ thống quy phạm nội bộ công ty, các
16
thành tố khác của cơ chế KSNB được thiết lập và hoạt động. Theo các mô hình
quản trị công ty hiện hữu, cơ cấu tổ chức quyền lực của một công ty cổ phần chủ
yếu bao gồm: Chủ sở hữu (cổ đông); Hội đồng quản trị (HĐQT) ; tuỳ vào mô
hình quản trị khác nhau mà CTCP có thể có hoặc không có HĐGS, Ban kiểm
soát (BKS) hoặc các Uỷ ban. Về hình thức, cơ chế kiểm soát trong nội bộ công
ty cổ phần được xác định và hoạt động dựa trên mối quan hệ quyền lực giữa các
cơ quan quản trị này trong công ty.
1.2.3.2. Đại hội đồng cổ đông
ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất, bao gồm các cổ đông, thông qua
cơ quan này, các cổ đông thực hiện quyền kiểm soát của mình thông qua việc
quyết định các vấn đề quan trọng và yêu cầu thành viên Hội đồng quản trị có
trách nhiệm giải trình về các vấn đề công ty.
Đối với công ty cổ phần có mô hình quản trị song cấp thì ĐHĐCĐ có thể
thành lập cơ quan khác như BKS, HĐGS nằm ngoài HĐQT, giúp ĐHĐCĐ giám
sát các cơ quan quản lý khác.
1.2.3.3. Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng giám sát.
HĐQT thực hiện chức năng điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của
công ty thông qua BGĐ do mình thiết lập. Đến lượt mình, HĐQT thực hiện quyền
giám sát đối với BGĐ điều hành, một mặt HĐQT có quyền đưa ra các quyết định
quản lý, giữ quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức giám đốc và các cán bộ quản
lý khác, mặt khác có quyền giám sát phê chuẩn các quyết định của BGĐ.
Trong mô hình quản trị song cấp, cấu trúc quản trị CTCP tồn tại một cơ
quan giám sát độc lập với HĐQT là HĐGS. Trong mô hình này, HĐQT chỉ có
chức năng quản lý điều hành. HĐGS có thẩm quyền chọn, bổ nhiệm, cách chức
các thành viên của HĐQT. Đồng thời, HĐGS tham gia trực tiếp vào việc đưa ra
các quyết định quan trọng trong việc quản trị công ty, giám sát các hoạt động của
HĐQT. Các thành viên của HĐQT cùng nhau chịu trách nhiệm về việc điều
hành, phát triển chiến lược kinh doanh của công ty trong mối liên hệ báo cáo
thường xuyên với HĐGS.
1.2.3.4. Ban kiểm soát (Uỷ ban kiểm soát)
Mô hình thành lập BKS là một cấu trúc phố biến ở Nhật bản cũng như
17
Việt Nam, với ba cơ quan chủ chốt: ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS. Theo Luật công
ty Nhật Bản, quyền giám sát hoạt động của người quản lý, điều hành công ty,
được giao cho những thiết chế khác nhau phụ thuộc vào từng loại hình CTCP.
Đối với những CTCP bắt buộc phải thiết lập chế định BKS thì thẩm quyền này
được giao cho BKS. Đối với những công ty có thiết lập Uỷ ban thì quyền giám
sát được giao cho Uỷ ban giám sát.
1.2.4. Nội dung hoạt động của cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty
cổ phần
Nội dung của cơ chế kiểm soát nội bộ chính là sự phân định quyền hạn
nghĩa vụ nhằm kiểm soát đối trọng lẫn nhau giữa các cổ đông cũng như các cơ
quan quản lý.
1.2.4.1. Kiểm soát của Đại hội đồng cổ đông
Các cổ đông là chủ sở hữu đối với CTCP, với tỷ lệ sở hữu tương ứng với
phần vốn góp (cổ phần) mà họ nắm giữ trong công ty. Các cổ đông cung cấp vốn
với mong muốn sẽ thu được các lợi ích tài chính từ hoạt động công ty và gia tăng
giá trị công ty. Các lợi ích của cổ đông nằm ở chỗ giá trị phần vốn của công ty
có được phát triển tối đa hay không và các rủi ro trong hoạt động kinh doanh có
được phân tán hay không.
ĐHĐCĐ là một cơ chế pháp lý đặc trưng quan trọng để qua đó các cổ
đông thực hiện các quyền cơ bản của mình bao gồm quyền kiểm soát nội bộ
công ty cổ phần.
Quyền kiểm soát của các cổ đông (chủ sở hữu), về bản chất là việc thực
hiện quyền sở hữu trong điều kiện tài sản của người góp vốn được chuyển giao
cho công ty sử dụng và định đoạt [14, tr.153]. Do đặc thù phân tách giữa sở hữu
và quản lý, điều hành nên không phải tất cả người sở hữu cổ phần đều có thể
tham gia quản lý, điều hành việc trực tiếp sử dụng vốn và tài sản công ty. Các cổ
đông có thể thực hiện quyền kiểm soát công ty một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Theo pháp luật, điều lệ và các quy định khác của các CTCP, các cổ đông
thường có các quyền cơ bản bao gồm quyền đề cử, bổ nhiệm, bãi miễn các thành
viên của HĐQT, BKS, các kiểm toán viên; đề xuất phê chuẩn hay bác bỏ các
18
thay đổi quan trọng đối với công ty, như thay đổi vốn, sáp nhập, hợp nhất hay tái
cơ cấu công ty, v.v. Cơ chế đăng ký và chuyển nhượng cổ phần đặc trưng trong
CTCP cũng giúp các cổ đông (đặc biệt cổ đông thiểu số) có quyền mua, sở hữu,
bán và chuyển nhượng cổ phiếu, từ đó có hoặc từ bỏ các quyền biểu quyết khi
công ty làm ăn phát đạt hay thua lỗ. Các quyền và cơ chế nêu trên chính là
những biểu hiện thể hiện quyền trực tiếp kiểm soát trong nội bộ công ty của các
cổ đông.
Bên cạnh việc kiểm soát trực tiếp, các cổ đông cũng có thể thực hiện
quyền kiểm soát nội bộ công ty một cách gián tiếp thông qua tổ chức được uỷ
quyền thực hiện. Tổ chức này chính là Hội đồng quản trị. Bên cạnh đó, tuỳ vào
các mô hình quản trị công ty mà ĐHĐCĐ có thể thiết lập thêm HĐGS hay BKS.
1.2.4.2. Kiểm soát của cơ quan Hội đồng quản trị.
Trong CTCP, HĐQT là cơ quan đại diện cho các cổ đông trong CTCP và
phải chịu trách nhiệm trước các cổ đông, theo quy định pháp luật, điều lệ và các
quy định khác của công ty. HĐQT là trung tâm của hệ thống quản lý nội bộ
trong công ty, là cầu nối giữa các cổ đông với bộ máy quản lý trong công ty,
giữa bộ máy quản lý với những người có lợi ích liên quan khác, và với bên
ngoài. HĐQT độc lập với hoạt động quản lý hàng ngày (công việc này thường do
bộ máy quản lý đảm nhiệm).
Theo nguyên tắc phân công hợp tác, HĐQT có thể phân tách quyền lực
thành các loại, như quyền đại diện công ty, quyền quyết sách quản trị, quyền
chấp hành kinh doanh, quyền giám sát, v.v. [18, tr.100]. Quyền giám sát là
quyền thực hiện giám sát đối với các thành viên nội bộ và đội ngũ giám đốc.
Hoạt động kiểm soát của HĐQT được tiến hành thường xuyên đối với bộ máy
quản lý (BGĐ), nhằm kiểm tra, xem xét quyết định của bộ máy quản lý. Thông
qua hoạt động kiểm soát thường xuyên, HĐQT sẽ phát hiện, ngăn chặn kịp thời
các hành vi vi phạm, kiến nghị xử lý kịp thời đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm. HĐQT thay mặt các cổ đông của công ty thực hiện giám sát hoạt động
của bộ máy quản lý điều hành thường xuyên, ngăn ngừa các mâu thuẫn và xung
đột lợi ích giữa các cổ đông và ban lãnh đạo công ty, nhằm bảo vệ quyền lợi,
19
đồng vốn của các cổ đông về bản chất HĐQT không can thiệp vào hoạt động
hàng ngày mà chỉ tư vấn giám sát hoạt động của bộ máy quản lý thường xuyên,
dựa trên các chiến lược kinh doanh đã được HĐQT đề ra và được ĐHĐCĐ
thông qua.
Trong văn bản Các nguyên tắc của quản lý công ty của Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế của Liên hợp quốc (OEDC), OEDC đã đề xuất bản giải
nghĩa một cách sáng tạo và toàn diện đối với quyền lực của HĐQT cũng như sự
vận hành của nó. Theo văn bản này, ngoài chức năng chỉ đạo sách lược của công
ty, chức trách của HĐQT chủ yếu là hoạt động kiểm soát, cụ thể là: i) theo dõi và
giám sát hiệu quả hoạt động kinh doanh, phòng ngừa những xung đột về lợi ích
và cân bằng các yêu cầu giữa các chủ thể lợi ích. Hội đồng quản trị còn phải
hoàn thành những chức trách đặc biệt trọng yếu bao gồm: ii) thẩm tra và chỉ đạo
chiến lược của công ty, kế hoạch hành động trọng yếu, chính sách mạo hiểm, dự
toán hàng năm và kế hoạch kinh doanh; iii) xây dựng mục tiêu vận hành; iv)
giám sát việc thi hành các kế hoạch và quá trình vận hành của công ty; v) giám
sát việc chi ra, thu hoạch và định hướng đầu tư của các khoản vốn tư bản trọng
yếu; v.v. [22, tr.24]. Rõ ràng, chức năng cơ bản của HĐQT đã không còn
nghiêng về công việc quản lý kinh doanh, nó đã đứng ở một địa vị giám sát và
khống chế.
Tuỳ vào các mô hình quản trị công ty khác nhau phổ biến trên thế giới, mà
dẫn đến sự khác nhau trong việc phân định quyền hạn trách nhiệm của HĐQT.
Đối với những CTCP theo mô hình quản trị hai cấp tiêu biểu như Đức và Hà Lan
thường có sự tách rời giữa chức năng quản lý và giám sát, hình thành hai cơ quan
riêng biệt nhau là HĐQT và HĐGS. Đối với các công ty cổ phần có học hỏi hình
thức quản trị theo Luật của Anh – Mỹ thì một điều chắc chắn rằng trong CTCP
không có HĐGS mà chỉ có sự song hành tồn tại của ĐHĐCĐ và HĐQT, tức là
không có một cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ giám sát những người quản lý –
điều hành công ty như BKS trong Luật doanh nghiệp Việt Nam và Luật công ty
Nhật Bản hay như HĐGS trong mô hình hội đồng song cấp của Đức.
Ở Đức, HĐQT là cơ quan quản lý điều hành công ty. Nhưng xét về địa vị
20
pháp lý thì đứng dưới HĐGS. Bởi vì theo quy định của Luật công ty cổ phần
Đức (1998), HĐGS có hai vai trò chính là: bổ nhiệm và bãi miễn các thành viên
của HĐQT; và giám sát quản lý. HĐGS thực hiện chức năng giám sát chứ không
thực hiện chức năng quản lý điều hành, trong đó giám sát các hoạt động của Hội
đồng điều hành [11, tr.33,34]. Giám sát ở đây không phải chỉ giám sát các hoạt
động kinh doanh hàng ngày mà giám sát những trường hợp theo Điều lệ công ty
hoặc theo những quy định của pháp luật trao cho HĐGS. Chẳng hạn, với một số
giao dịch của công ty, nếu không có sự chấp thuận tham gia của HĐGS thì vô
hiệu. Như vậy, HĐGS còn tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định
quan trọng trong quản trị công ty. Dưới cơ chế vừa là cơ quan giám sát, đồng
thời là cơ quan lãnh đạo của HĐQT, HĐGS có quyền lực rất lớn. Thành viên
HĐGS cùng nhau họp bàn, ra quyết định và chỉ thị cho HĐQT, giám sát hoạt
động kinh doanh của chính công ty. Trong khi đó, HĐQT chỉ có trách nhiệm báo
cáo công tác trước HĐGS [15, tr.25,26].
Trong các CTCP ở Mỹ, quyền lực của ĐHĐCĐ đã được pháp luật giới
định rõ ràng, các quyền lực không thuộc về ĐHĐCĐ là thuộc phạm vi quyền hạn
của HĐQT. Do vậy, HĐQT có quyền lực to lớn, nó tập trung toàn bộ các chức
năng quản lý kinh doanh vào thẩm quyền của mình. Nói cụ thể hơn, HĐQT là cơ
quan tập trung các chức năng như quyết sách, điều hành, kiểm soát và đại diện
đối ngoại. Để phân công các chức năng rõ ràng và nề nếp, HĐQT trong nội bộ
đã phải thành lập các Uỷ ban chuyên trách, ví dụ như uỷ ban chấp hành, uỷ ban
kiểm toán, uỷ ban tiền tương, uỷ ban đề bạt [18, tr.30].
HĐQT theo mô hình đơn cấp bao gồm các thành viên điều hành và không
điều hành. Các thành viên điều hành (executive directors) là thành viên thực hiện
chức năng quản lý kinh doanh thường nhật của công ty. Các thành viên không
điều hành (non-executive directors) là những thành viên không làm việc thường
nhật ở công ty, quyền và nghĩa vụ của họ là tham gia cuộc họp của HĐQT, giám
sát và đánh giá hoạt động kinh doanh của các thành viên điều hành và Ban giám
đốc (Tổng giám đốc), đề xuất ý kiến và kiến nghị cho công ty. Các thành viên
không điều hành thường là những chuyên gia có tiếng trong xã hội như tổng
21
giám đốc đã về hưu, luật sư, nhà kế toán, nhà kinh tế học, nhà chính trị đã về
hưu, v.v. Những thành viên loại này có khi còn được gọi là thành viên độc lập
không điều hành (independent non – executive directors) [18, tr.105, 106]. Đa số
các thành viên (trên 80%) của Uỷ ban kiểm toán là các thành viên độc lập, họ có
nhiệm vụ thực hiện giám sát hoạt động quản lý kinh doanh của uỷ ban chấp
hành. Uỷ ban kiểm toán có quyền thuê nhiệm kiểm toán viên độc lập, xác định
phạm vi kiểm toán và đánh giá kết quả kiểm toán, kiểm soát tài chính công
ty,v.v. [18, tr. 30].
Trong các công ty lớn, đặc biệt là các công ty niêm yết, xu hướng đa số
thành viên của HĐQT là thành viên độc lập không điều hành đang thắng thế. Xu
hướng này cũng được khuyến nghị bởi các tổ chức quốc tế hàng đầu như Ngân
hàng thế giới (World Bank) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(Organization for Economic Co-operation and Development – OECD), các cơ
quan quản lý thị trường chứng khoán như Uỷ ban Chứng khoán (Securities àn
Exchange Commission – SEC) của Hoa Kỳ, ASX (Áustralian Stock Exchange)
của Australia; cũng như các uỷ ban độc lập của chính phủ nghiên cứu về quản trị
công ty (corporate governance) như các Uỷ ban Cadbury và Hampel của Anh,
Bosch của Úc v.v.. [12]. Sự hiện diện của các thành viên độc lập (như là các
chuyên gia cao cấp không điều hành) trong cơ cấu HĐQT của công ty là rất quan
trọng và cần thiết. Các thành viên độc lập được đánh giá cao hơn những thành
viên khác trong HĐQT vì họ có khả năng thực hiện công việc với quan điểm vì
lợi ích chung của công ty. Theo học thuyết người đại diện (agency theory), các
thành viên HĐQT độc lập không điều hành có khả năng thực hiện vai trò giám
sát hoạt động của ban điều hành với hiệu quả cao bởi hoạt động giám sát của họ
độc lập với hoạt động điều hành doanh nghiệp [10, tr.2]. Các thành viên độc lập
không điều hành của HĐQT sẽ đảm nhiệm chức năng xem xét, đánh giá một
cách độc lập về các quyết sách quản trị của HĐQT và giám sát hoạt động của bộ
phận điều hành. Các thành viên này có vai trò giám sát nhằm làm giảm xung đột
lợi ích, giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý công ty (bao
gồm cả HĐQT và BGĐ), qua đó giúp bảo vệ an toàn đồng vốn của cổ đông, đặc
22
biệt bảo vệ lợi ích của những cổ đông nhỏ và có thể bao gồm các nhóm lợi ích
khác liên quan tới công ty. Hơn nữa, khi có nhiều hơn sự độc lập trong tư tưởng
của từng cá nhân thành viên HĐQT, các cổ đông cảm thấy yên tâm hơn với
HĐQT và ban điều hành, những người đang đại diện và sử dụng đồng vốn của
họ tại công ty.
Như vậy, có thể thấy, các công ty kiểu đơn cấp cũng thực hiện sự tách biệt
chức năng quản lý điều hành với chức năng kiểm soát, tức là, các thành viên điều
hành chuyên trách công việc quản lý kinh doanh, trong khi các thành viên không
điều hành thì có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh. Đối
với hai chế độ tổ chức quản lý này, quan trọng nhất là cần thiết phải phân định rõ
chức trách của hai nhóm người của từng loại. Việc hoàn thiện sự phân định này
có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu từ từ các nước thành viên khác nhau cùng
thành lập công ty và hơn nữa, đẩy mạnh tiến trình hoà hợp của các công ty. Tuy
nhiên, thực tế sự giám sát của một nhóm thành viên trong HĐQT đối với các
thành viên khác thường được cho là thiếu tính khách quan và hiệu quả. Bởi vậy,
sự giám sát này có thể thiếu tính độc lập và kém tin cậy hơn so với hoạt động
của một cơ quan giám sát độc lập như trong cấu trúc quản trị hội đồng song cấp,
cũng như trong mô hình quản trị của Nhật Bản.
1.2.4.3. Kiểm soát của Ban kiểm soát
BKS là cơ quan giám sát tồn tại trong mô hình quản trị nội bộ công ty
theo pháp luật công ty Nhật bản và Việt Nam. Nhìn chung, vai trò của BKS
trong mô hình tại Nhật Bản giống vai trò HĐGS theo mô hình quản trị song cấp
theo pháp luật Đức. Ban kiểm soát là tổ chức nội bộ do ĐHĐCĐ bầu ra, được
pháp luật trao cho quyền giám sát hoạt động của người quản lý điều hành công
ty. Tuy nhiên, BKS khác với HĐGS trong mô hình hội đồng song cấp là không
tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc quản trị
công ty mà chủ yếu thiên về giám sát các hoạt động của HĐQT.
Trong mô hình quản lý CTCP tại Nhật Bản, BKS giữ quyền và nhiệm vụ
giám sát và kiểm toán hoạt động kinh doanh của HĐQT, điều tra và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật hoặc không hợp lý nghiêm trọng. Pháp luật Nhật Bản
23
khi quy định về bổ nhiệm thành viên BKS có một điểm khác biệt so với Luật
Doanh nghiệp Việt Nam, đó là: BKS phải có kiểm soát viên (KSV) thường trực.
Luật Thương Mại sửa đổi 1993 đã quy định các CTCP có quy mô lớn phải có
KSV ít nhất 03 người và thành lập BKS. Trong số đó, ít nhất một người là KSV
độc lập. Đối với những CTCP nhỏ, thì chỉ cần một KSV, trách nhiệm của họ chủ
yếu là giám sát tài chính công ty [18, tr. 33]. Mặc dù chế độ KSV bên ngoài
được du nhập vào Luật công ty Nhật Bản nhưng chế độ này đã được đánh giá là
chưa hiệu quả bởi kiểm soát viên bên ngoài nếu so sánh với KSV bên trong thì
họ có ít hiểu biết về hoạt động công ty, hơn nữa thành viên này lại có khả năng
kiêm nhiệm hoạt động của công ty khác nên không có nhiều thời gian giám sát.
Ngoài ra, tuy sự giám sát của KSV bên ngoài là cần thiết nhưng thực tế, thành
viên HĐQT và người lao động lại ít cung cấp các thông tin cho KSV bên ngoài.
Trong nhiều CTCP, BKS không kiểm tra giám sát đúng đắn hoạt động quản lý
điều hành thành viên HĐQT. Thực tế KSV thường là cấp dưới của người quản lý
công ty, là người chủ sử dụng lao động cũ nên việc giám sát khách quan rất khó
được thực hiện [13, tr.90]. Bên cạnh việc thiết lập loại hình CTCP có BKS độc
lập với HĐQT thì Luật công ty Nhật Bản cũng thiết lập loại hình CTCP có Uỷ
ban kiểm soát là một trong ba Uỷ ban trực thuộc HĐQT, có chức năng giám sát
hoạt động quản lý điều hành của các thành viên HĐQT, người điều hành; soạn
thảo báo cáo giám sát; đề xuất bổ nhiệm và bãi miễn người quản lý điều hành
được thuê. Ngoài ra, Uỷ ban có quyền yêu cầu đình chỉ hành vi vi phạm đối với
người điều hành, có quyền khởi kiện thành viên HĐQT vi phạm pháp luật [13,
tr.90]. Cơ chế thiết lập Uỷ ban kiểm soát theo pháp luật công ty Nhật Bản đã góp
phần làm cho cổ đông tin tưởng hơn vào HĐQT, nhanh chóng phát hiện những
vi phạm trong hoạt động quản lý điều hành hoạt động kinh doanh công ty, tránh
tình trạng lạm quyền của HĐQT, cũng như tình trạng quyền giám sát chỉ trên
danh nghĩa của BKS. Quy định trên về loại hình CTCP tại Nhật Bản đã giúp phát
huy hiệu quả của cơ chế kiểm soát phân quyền giữa những thiết chế nội bộ trong
công ty.
Có thể thấy, trong mỗi mô hình quản trị của loại hình CTCP, điều quan
24
trọng nhất là cần có sự thể hiện cơ chế phân quyền chế ước. Khi xây dựng mô
hình quản trị công ty, không chỉ cần đảm bảo cho các cơ quan quản lý điều hành
có đầy đủ thẩm quyền để nó có thể thực hiện chức trách một cách năng động và
tích cực mà còn luôn luôn phải chú trọng đến một cơ chế kiểm soát đắc lực để
thực hiện chức năng giám sát mọi hoạt động của các cơ quan quản lý điều hành.
Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là: Cơ quan quản lý điều hành - BGĐ, ngoài quyền
quản lý điều hành, có quyền hạn giám sát gì trong nội bộ CTCP không? Trong
mối quan hệ phân quyền chế ước lẫn nhau, HĐQT giám sát hoạt động của BGĐ
mà ít khi có sự giám sát ngược. Bởi lẽ, BGĐ do HĐQT thiết lập ra, HĐQT giữ
chức trách và nhiệm vụ nặng về quyết sách và giám sát, cho nên nó sẽ phải chịu
trách nhiệm về quyết sách và giám sát; trong khi Ban giám đốc nói chung hay
Tổng giám đốc nói riêng, là người điều hành kinh doanh, nó sẽ chịu trách nhiệm
về quản lý kinh doanh. Có chăng, BGĐ chỉ có thể thực hiện giám sát đối với
những quyết sách của HĐQT thông qua quyền kiến nghị, đề xuất. Quyền quản lý
kinh doanh của Ban giám đốc thông thường chỉ có hai quyền năng: quyền quản
lý điều hành và quyền đại diện. Quyền quản lý điều hành nghĩa là tổng giám đốc
có quyền quản lý kinh doanh và xử lý nghiệp vụ trong phạm vi được uỷ quyền.
Quyền đại diện có nghĩa là Ban giám đốc có quyền nhân danh công ty để xác lập
và kí kết hợp đồng với bên ngoài [18, tr. 44]. Nhưng nhìn chung lại, bất kể là
quyền hạn gì, cũng đều xuất phát từ sự uỷ quyền của HĐQT, cho nên bản chất
pháp lý các quyền này của BGĐ đều là quyền đại diện. Xét về quyền nhân danh
công ty để xác lập giao dịch và ký kết hợp đồng với bên ngoài, ở khía cạnh này,
nó phản ánh mối quan hệ pháp luật bên ngoài nhiều hơn mối quan hệ giữa người
uỷ quyền và người được uỷ quyền trong công ty. Do đó, người uỷ quyền (công
ty) không được phép từ chối nhận kết quả mà Ban giám đốc đã giao dịch với bên
thứ ba, cho dù BGĐ vượt quá quyền hạn được giao. Chính điều này đã dẫn đến
một thực tế không thể tránh khỏi đó là, BGĐ mà đặc biệt là tổng giám đốc nắm
thực quyền cao hơn HĐQT, trái với nguyên tắc TGĐ do HĐQT bổ bổ nhiệm và
chịu trách nhiệm trước HĐQT. Như vậy, rõ ràng các xung đột về lợi ích giữa các
25
chủ thể trong nội bộ CTCP về cơ bản phát sinh trong hoạt động quản lý điều
hành của cơ quan này. Do đó, đề cao giám sát đối với hoạt động của BGĐ là một
trong những nội dung thiết yếu của cơ chế KSNB.
Rõ ràng, “cách quản trị tạo nên kiểm soát nội bộ” [5]. Sự phân quyền và
chế ước lẫn nhau trong cơ cấu quản trị công ty cổ phần hiện đại đã làm nên đặc
trưng của loại hình công ty này là nhằm hướng tới một cơ chế kiểm soát lẫn nhau
giữa các chủ thể quản trị trong công ty. Thông qua cơ chế kiểm soát nội bộ, các
chủ thể quản trị công ty có ý thức tôn trọng, thực hiện một cách nghiêm ngặt các
quy chế quản lý, thủ tục pháp lý được đề ra, bảo đảm tính hợp lý, hợp pháp trong
các quyết định tạo lập, sử dụng vốn và tài sản cơ quan của người có thẩm quyền
trong quản lý, điều hành nội bộ công ty. Cơ chế KSNB công ty ra đời nhằm bảo
vệ tài sản của doanh nghiệp, lợi ích chủ sở hữu, chủ nợ.
1.2.5. Các nguyên tắc pháp lý trong việc xác lập và vận hành cơ chế
kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
Bất kể hoạt động nào trong đời sống kinh tế - xã hội dù diễn ra dưới hình
thức nào và nhằm mục đích gì cũng đều được đặt trong khuôn khổ của những giá
trị đạo đức và nguyên tắc pháp luật. Các nguyên tắc pháp luật không kìm hãm
hành vi hay ý chí mà nó là những chuẩn mực giúp định hướng hành vi, xử sự của
mỗi con người trong cộng đồng, từ đó thiết lập trật tự kinh tế - xã hội.
Cơ chế KSNB mặc dù được thiết lập theo ý chí của các thành viên trong
công ty nhưng nó chỉ đạt được hiệu quả nếu được nhận thức và vận dụng đúng
đắn trong khuôn khổ của pháp luật. Cơ chế kiểm soát nội bộ không tách rời các
quy tắc pháp luật mà phải chịu sự điều chỉnh, tác động của các quy tắc pháp luật.
Nếu cơ chế kiểm soát trong nội bộ công ty là điều kiện cần để hoạt động CTCP
đạt được hiệu quả thì các nguyên tắc pháp luật chính là điều kiện đủ, làm nền
tảng để cơ chế kiểm soát được xây dựng có hiệu lực và vận hành hiệu quả.
Nhìn chung, cơ chế kiểm soát nội bộ chịu sự tác động, điều chỉnh của các
nguyên tắc pháp lý cơ bản sau đây:
1.2.5.1. Nguyên tắc tự do ý chí
Cơ chế KSNB phát sinh trong hoạt động quản trị nội bộ công ty. Các
26
thành viên công ty khi thiết lập các mô hình quản trị công ty cũng đồng thời thiết
lập cơ chế KSNB của mình, hoạt động này được xây dựng hoàn toàn tự chủ, theo
ý chí của các thành viên. Hạt nhân lý luận của tự do ý chí là con người chỉ bị
ràng buộc bởi ý chí của chính mình, và con người có quyền tự do định đoạt
những gì thuộc về mình [6, tr. 51]. Nền kinh tế thị trường diễn ra năng động và
linh hoạt, do vậy, tự do ý chí, tự do kinh doanh là nhân tố cốt lõi giúp các nhà
đầu tư chủ động thích ứng trước những đòi hỏi của thị trường đồng thời cũng
thoả mãn nhu cầu kinh doanh. Cơ chế KSNB ra đời, tồn tại xuất phát từ những
đòi hỏi, nhu cầu nhà đầu tư muốn hướng tới những hoạt động đầu tư có lợi và an
toàn. Do đó, việc lựa chọn cơ chế KSNB theo mô hình tổ chức nào, có phù hợp
hay không là quyền của họ. Pháp luật không thể ràng buộc ý chí của các chủ thể
trong những trường hợp này.
1.2.5.2. Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu
Một trong những yếu tố làm nên đặc trưng cơ bản của CTCP đó là sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý công ty. Do chủ sở hữu (cổ đông) đa
phần không tham gia vào hoạt động quản lý công ty nên vấn đề bảo vệ quyền lợi
của chủ sở hữu công ty là một yêu cầu rất quan trọng. Đặc tính tự nhiên trong
mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và người quản lý điều hành đó là người quản
lý điều hành thường có xu hướng có những hành động tư lợi, không đủ siêng
năng mẫn cán và tìm kiếm những lợi ích cho mình hoặc người thứ ba mà không
vì lợi ích công ty hay lợi ích của cổ đông. Do vậy, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
của chủ sở hữu là nguyên tắc quan trọng làm nền tảng để định hướng xây dựng
cơ chế kiểm soát phù hợp, từ đó giúp đảm bảo cho lợi ích chính đáng của các cổ
đông (nhà đầu tư), đồng thời, chứng minh được tính hấp dẫn của chính các
CTCP đối với nhà đầu tư bên ngoài, giúp gia tăng giá trị doanh nghiệp, đồng thời
phát triển nền kinh tế trong nước.
1.2.5.3. Nguyên tắc đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các cổ đông
CTCP là loại mô hình công ty đối vốn đặc thù mà có thể có tới hàng triệu
cổ đông. Trong CTCP thường xuất hiện xung đột lợi ích giữa cổ đông thiểu số
và cổ đông đa số. Xây dựng một cơ chế KSNB phải đảm bảo đối xử bình đẳng,
27
công bằng giữa các cổ đông, bất kì cổ đông nào cũng có các quyền cơ bản của
chủ sở hữu công ty, do đó bất kì cổ đông nào cũng có quyền kiểm soát công ty.
Cơ chế KSNB được xây dựng phải đảm bảo cho tất cả các cổ đông có quyền
kiểm soát đó. Thực tế cho thấy rằng, các cổ đông đa số thường nắm số cổ phần
lớn và có quyền chi phối và quản trị công ty, lẽ tự nhiên họ thường điều khiển
hoạt động công ty theo hướng có lợi cho bản thân họ và dùng chính những chi
phí đầu tư của cổ đông thiểu số để phục vụ mục đích hoạt động của mình. Các cổ
đông thiểu số chỉ có thể trông cậy vào công cụ pháp luật để bảo vệ quyền lợi của
họ một khi có bằng chứng xác đáng rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Nguyên
tắc pháp lý này là nguyên tắc cần thiết giúp xây dựng một cơ chế kiểm soát nội
bộ công ty mà trong đó tất cả các cổ đông đều có quyền kiểm soát thích hợp.
1.2.5.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động kiểm soát
nội bộ
Cơ chế KSNB được thiết lập nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động quản lý điều hành kinh doanh công ty; nó được xây dựng nhằm hướng tới
sự trung thực, sự tuân thủ, và sự hiệu quả trong quy trình hoạt động của các bộ
máy quản lý điều hành, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ chế KSNB giúp mang lại sự yên tâm rằng các thông tin về tài chính và quản
lý công ty là đáng tin cậy, kịp thời và đầy đủ, rằng các bộ máy quản lý doanh
nghiệp đang vận hành đúng, tuân thủ các luật lệ và quy chế khác nhau. Trên thực
tế, cơ chế KSNB nhiều khi được xây dựng mang tính hình thức và chưa thực sự
hiệu quả. Do đó, CTCP phải đảm bảo xây dựng và vận hành cơ chế KSNB có
hiệu quả với đầy đủ thẩm quyền, sự tôn trọng lẫn nhau, sự độc lập, phân quyền
rõ ràng và chế ước lẫn nhau. Có như thế mới giảm thiểu và phòng ngừa mọi rủi
ro có thể xảy ra, đem lại những lợi ích tốt nhất cho công ty.
1.2.5.5. Nguyên tắc đảm bảo sự quản lý của Nhà nước
Quyền tự do ý chí trong việc xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ đi theo mô
hình quản trị kinh doanh nào và vận hành chúng như thế nào là quyền của công
ty. Tuy nhiên, đây không phải là quyền tuyệt đối mà cần được đặt dưới sự quản
lý của Nhà nước. Doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một chủ thể
28
pháp lý do đó nó không nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước. Đối với doanh
nghiệp, mặc dù không có sự can thiệp sâu vào hoạt động cụ thể nhưng Nhà nước
cần phải có thái độ quản lý rõ ràng, bởi ta nhận thức được rằng “mọi hoạt động
kinh doanh đều có sự tiềm ẩn của lợi ích công cộng và sự định hướng điều tiết”
[20, tr.65], nên hoạt động kiểm soát nội bộ công ty không nằm ngoài sự điều tiết
ấy. Đảm bảo sự quản lý của Nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây
dựng cơ chế kiểm soát nội bộ diễn ra một cách hợp lý và có trật tự. Cơ chế
KSNB phải được xây dựng nhằm những mục đích thích đáng và phù hợp, đảm
bảo sự công bằng giữa các chủ thể, xét ở khía cạnh này, sự quản lý của nhà nước
là cần thiết giúp hoạt động này diễn ra lành mạnh, đảm bảo lợi ích xã hội nói
chung và bản thân công ty nói riêng.
1.2.5.6. Nguyên tắc đảm bảo công khai minh bạch
Cơ chế KSNB phải được thiết lập sao cho các vấn đề quan trọng liên quan
đến công ty bao gồm các vấn đề về tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, sở
hữu, quản lý điều hành công ty phải được công khai một cách đầy đủ, chính xác
và kịp thời. Nguyên tắc này là cần thiết và quan trọng, đặc biệt đối với các CTCP
niêm yết và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc công khai minh
bạch là một nhu cầu bình thường trong đời sống kinh tế và là nhu cầu chính của
công ty nhằm hút thêm vốn đầu tư cho công ty. Cơ chế KSNB hướng tới sự công
khai minh bạch trong hệ thống thông tin, giúp đem lại sự trung thực trước các
nhà đầu tư, tránh nguy cơ dẫn đến sự lừa dối do thiếu thông tin, đồng thời bảo vệ
quyền lợi của các cổ đông thiểu số.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CTCP là loại hình công ty có cấu trúc tổ chức và quản lý phong phú, đa
dạng. Sự phân quyền và chế ước lẫn nhau trong cơ cấu quản trị CTCP hiện đại
đã làm nên nhu cầu cần hướng tới một cơ chế kiểm soát trong nội bộ công ty.
KSNB là hoạt động cần thiết giúp chủ sở hữu bảo đảm quyền kiểm soát
hoạt động công ty, giúp nhà quản lý trong việc đảm bảo thực hiện có hiệu quả
mục tiêu đặt ra của đơn vị. KSNB có thể được xem xét ở nhiều góc độ, theo
29
những mục tiêu khác nhau dưới góc nhìn của các chủ thể khác nhau.
Chương này đã tiếp cận cơ chế KSNB trong CTCP như một khía cạnh
của vấn đề quản trị công ty, phân tích vấn đề theo các mô hình quản trị điển
hình khác nhau, xem xét KSNB dưới góc độ gắn liền với quá trình tổ chức
phân chia quyền lực bao gồm quyền sở hữu, quản lý, điều hành nội bộ, đó là
các hoạt động kiểm tra giám sát quá trình thiết lập, phân chia và vận hành
quyền lực nội bộ, được xây dựng và tổ chức thực hiện bởi thành viên, chủ sở
hữu công ty nhằm đảm bảo cho các chủ thể thực hiện đúng, đủ và mẫn cán
quyền hạn nhiệm vụ của mình.
Cơ chế KSNB chính là hệ thống các quy tắc, thiết chế tổ chức phân chia
quyền lực do công ty xác lập và thi hành, nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động
của các chủ thể quản lý điều hành trong nội bộ công ty, kiểm soát hoạt động
của công ty từ bên trong, tạo điều kiện cho các chủ thể kiểm soát lẫn nhau.
Thông qua đó, các cơ quan có thẩm quyền trong nội bộ công ty sẽ thực hiện tốt
các nhiệm vụ liên quan đến việc cung cấp cho các cổ đông, nhà đầu tư, chủ nợ
một sự đảm bảo thích hợp rằng công việc kinh doanh của công ty nằm trong
tầm kiểm soát, giám sát của họ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, nó là một
trong các yếu tố giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư vào doanh
30
nghiệp hay không.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT
TRONG NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
Luật pháp Việt Nam có những quy định bắt buộc về hoạt động kiểm soát
trong CTCP. Hiện nay, tổ chức và hoạt động kiểm soát CTCP nói chung chủ yếu
thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2014 (viết tắt là LDN 2014),
các văn bản pháp luật đã quy định chi tiết mô hình tổ chức nội bộ, đồng thời quy
định nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện quyền kiểm soát của các tổ chức và chủ thể
có liên quan. Cơ chế kiểm soát trong nội bộ CTCP theo LDN Việt Nam phụ
thuộc vào cơ cấu sở hữu, quản trị nội bộ và đặc thù hoạt động kinh doanh của
công ty. Theo đó, cơ quan kiểm soát có thể được thiết lập theo mô hình khác
nhau, BKS có thể buộc thiết lập hoặc không cần thiết lập.
2.1. Quy định pháp luật về xác định cơ chế kiểm soát trong công ty cổ phần
Như đã nêu ở Chương 1, cơ chế KSNB phát sinh trong hoạt động quản trị
công ty. Việc xây dựng cơ chế KSNB đi theo mô hình quản trị kinh doanh nào
và vận hành chúng như thế nào là thuộc vấn đề của nội bộ công ty. Cơ chế kiểm
soát trong CTCP được hình thành và ghi nhận thônng qua việc xây dựng bản
điều lệ công ty, thoả thuận thành viên hoặc cổ đông và các tài liệu nội bộ khác
dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do kinh doanh của các chủ
thể trong kinh doanh thương mại. Tự do ý chí, tự do kinh doanh là nguyên tắc cơ
bản được áp dụng khi xây dựng điều lệ công ty. Điều lệ công ty là tài liệu nội bộ
cốt yếu nhất điều chỉnh việc thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động; tổ chức lại và
giải thể công ty. LDN 2014 Điều 25 quy định mười ba (13) nội dung bắt buộc
trong điều lệ CTCP. Ngoài 13 loại điều khoản bắt buộc phải có, các cổ đông có
thể tự do thoả thuận và quy định các nội dung khác trong điều lệ nhưng các nội
dung này không được trái với quy đinh pháp luật về doanh nghiệp nói chung.
Xem xét Điều 25 LDN 2014 ta nhận thấy, một trong những nội dung bắt
buộc cần được quy định trong điều lệ công ty là cơ cấu tổ chức quản lý. Các cơ
quan quản lý trong nội bộ CTCP bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, và BKS. Trong
31
trường hợp CTCP lựa chọn mô hình tổ chức có thành viên HĐQT độc lập và
Ban kiểm toán nội bộ (BKTNB) trực thuộc HĐQT thì không cần có BKS (nội
dung này sẽ được đề cập cụ thể ở mục tiếp theo của Chương này).
Điều 135 LDN hiện hành có điều khoản quy định về thẩm quyền xem xét
xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS khi gây thiệt hại cho công ty và cổ đông
công ty [24, Điều 135.2 (h)]. Tuy nhiên quy định này cũng chỉ mang tính định
hướng và dành cho công ty (thành viên công ty) quyền chủ động và tự quyết. Do
vậy các vấn đề liên quan đến KSNB công ty hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào
thoả thuận của các thành viên trong công ty, mà cốt yếu là cần được xác định cụ
thể trong bản điều lệ công ty.
Như vậy theo LDN 2014, cơ cấu tổ chức quản lý công ty nói chung và cơ
chế kiểm soát nội bộ trong CTCP nói riêng ngay từ đầu cần phải được xác định
trong bản Điều lệ công ty. Điều lệ công ty vốn được coi là bản “khế ước” của
những người thành lập ra nó và là một trong những văn bản được pháp luật thừa
nhận bằng việc ưu tiên áp dụng trước các quy định pháp luật. Thông qua việc
xác định những nội dung cơ bản trong điều lệ công ty, các nhà lập pháp uỷ thác
cho nó sứ mệnh truyền tải những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến tổ chức
và hoạt động công ty, trong đó nổi bật là hai vấn đề: i) cơ cấu tổ chức bộ máy
phân chia và kiểm soát quyền lực công ty, cách sử dụng quyền lực ấy vào hoạt
động kinh doanh; ii) quyền và nghĩa vụ của các cổ đông, thành viên góp vốn –
những người chủ công ty, kèm theo những nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội
bộ phát sinh. Do vậy, việc xác định những nội dung phải có trong bản điều lệ là
cần thiết giúp nâng cao giá trị pháp lý của bản điều lệ, đảm bảo hiệu lực ràng
buộc đối với các thành viên trong công ty. Điều lệ công ty cần quy định rõ CTCP
lựa chọn hoạt động theo cơ cấu tổ chức có cơ quan kiểm soát hay cơ cấu tổ chức
có thành viên HĐQT độc lập và cơ quan kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT.
2.2. Quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ
chế kiểm soát trong nội bộ công ty cổ phần
Thiết lập cơ chế kiểm soát trong CTCP chính là thiết lập mối quan hệ
phân chia quyền lực và giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan quản trị trong nội bộ
32
công ty nhằm hướng tới những lợi ích nhất định cho công ty và các cổ đông. Mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế KSNB công ty được biểu hiện cụ thể
như sau:
Theo quy định của LDN 2014, Cổ đông CTCP có thể lựa chọn một trong
hai mô hình cơ bản là: i) ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS hoặc ii) ĐHĐCĐ, HĐQT
(trong mô hình này, ít nhất 20% số thành viên HĐQT là thành viên độc lập) và
BKTNB trực thuộc HĐQT [24, Điều 134.1 (a,b)].
Nhìn chung, mô hình đầu tiên gần giống với mô hình quản trị song cấp
(mô hình hội đồng kép) đã phân tích, có nghĩa là CTCP được điều hành, giám sát
bởi hai cơ quan quản lý chính là HĐQT và BKS , đều do ĐHĐCĐ bầu ra. Trong
mô hình này, việc tổ chức quản lý công ty có sự phân công, phân nhiệm và chế
ngự lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý điều hành và kiểm soát. Mô hình này phù
hợp và hiệu quả trong trường hợp CTCP mang tính đại chúng, tức là có sự tham
gia đông đảo của các cổ đông khác nhau. Trong những trường hợp khác, bộ máy
này có vẻ cồng kềnh, khiên cưỡng. Có lẽ xuất phát từ cách nhìn nhận đó mà
LDN chỉ quy định đối với những CTCP có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc tổ
chức sở hữu trên 50% cổ phần công ty thì phải có BKS [24, Điều 314.1]. Trong
mô hình thứ hai, BKTNB là một cơ quan trực thuộc HĐQT và thành viên
BKTNB do HĐQT chỉ định. Mô hình thứ hai gần giống với mô hình quản trị
đơn cấp (mô hình hội đồng đơn).
1) Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan tập thể, nắm quyền lực cao nhất
trong tổ chức nội bộ CTCP. ĐHĐCĐ không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn
tại trong thời gian họp. ĐHĐCĐ gồm các cổ đông là cá nhân và người đại diện
của các cổ đông là tổ chức. Đây là cơ quan cao nhất trong CTCP. ĐHĐCĐ quyết
định những vấn đề quan trọng nhất trong hoạt đông công ty như định hướng phát
triển, sửa đổi điều lệ, tăng hoặc giảm vốn điều lệ, tổ chức lại, hoặc giải thể công
ty. Một trong những quyền cơ bản của ĐHĐCĐ là bầu ra thành viên HĐQT và
thành viên BKS [24, Điều 135,162]. Như vậy, trong mối quan hệ với HĐQT và
BKS, ĐHĐCĐ có vai trò quyết định cơ cấu thành viên HĐQT và thành viên
BKS. ĐHĐCĐ có thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm thành viên của HĐQT và
33
BKS. ĐHĐCĐ có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành
viên BKS; đồng thời có quyền xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT, BKS
gây thiệt hại cho công ty và cổ đông.
2) Hội đồng quản trị: HĐQT trong CTCP được xem là cơ quan quản lý ở
giữa ĐHĐCĐ và người quản lý. Trong mối quan hệ với ĐHĐCĐ, thành viên
HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra, HĐQT có thẩm quyền quyết định các vấn đề có tính
chất kém quan trọng hơn mà không cần có quyết định của ĐHĐCĐ. Các vấn đề
này có thể là việc phê duyệt một hợp đồng giá trị lớn hoặc có tính chất quan
trọng với hoạt động công ty. Trong mối quan hệ với các cơ quan quản lý khác,
HĐQT có quyền bổ nhiệm hoặc cách chức (tổng) giám đốc và các chức danh
quản lý quan trọng khác trong công ty.
3) Ban kiểm soát: Trong CTCP, BKS chỉ đặt ra khi các cổ đông lựa chọn
CTCP theo mô hình quản trị song cấp. Theo đó, trong mối quan hệ với ĐHĐCĐ,
BKS do ĐHĐCĐ bầu ra và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ. Như vậy, mối quan
hệ giữa BKS và ĐHĐCĐ là mối quan hệ “cấp trên- cấp dưới”. ĐHĐCĐ thành
lập và kiểm soát BKS, BKS báo cáo và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ về
nhiệm vụ được giao. Trong mối quan hệ với HĐQT và các cơ quan khác, BKS
thực hiện chức năng bảo vệ, kiểm tra và giám sát các hoạt động quản lý điều
hành của các cơ quan này (bao gồm Hội đồng quản trị, Giám đốc và các chức
danh quản lý khác trong công ty). Trong mối quan hệ với HĐQT, BKS được coi
là một cơ quan ngang cấp với HĐQT. Tuy nhiên, trong bất kì trường hợp nào,
BKS không có thẩm quyền đưa ra bất kì quyết định nào có giá trị pháp lý ràng
buộc mà chỉ có thẩm quyền kiến nghị với ĐHĐCĐ.
4) Ban kiểm toán nội bộ: Trong trường hợp CTCP lựa chọn mô hình hội
đồng đơn, CTCP không có BKS, thay vào đó, HĐQT phải có ít nhất 20% thành
viên là thành viên độc lập và phải có BKTNB trực thuộc HĐQT. Các thành viên
độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc
quản lý điều hành công ty [24, điều 134.1(b)]. Quy định về BKTNB theo mô
hình hội đồng đơn là quy định mới của LDN 2014 so với các đạo luật doanh
nghiệp trước đây. Điều cần lưu ý là khác với BKS, BKTNB không phải là cơ
quan ngang cấp với HĐQT mà trực thuộc HĐQT, là một tiểu ban của HĐQT, có
chức năng giúp việc BKTNB cũng như quyền hạn của Ban kiểm toán. Vấn đề 34
này sẽ phải được quy định cụ thể hơn ở trong văn bản hướng dẫn thi hành LDN
2014 và điều lệ CTCP.
Như vậy, thông qua mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế KSNB
CTCP, ta thấy được cơ chế kiểm soát quyền lực trong CTCP hiện nay hình thành
và tồn tại phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức trong công ty. Tuỳ vào mô hình cơ cấu tổ
chức khác nhau mà cơ chế kiểm soát được thiết lập trong mỗi công ty là khác
nhau. Theo đó, cơ cấu tổ chức CTCP theo quy định pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam hiện hành có thể được xác lập theo hai mô hình chủ yếu sau:
Sơ đồ 1 (Mô hình 2) [20]:
Mô hình này gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát
(công ty có dưới 11 cổ đông hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số
cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có BKS) và (Tổng) Giám đốc [24,
Điều 134.1(a)].
Dựa theo sơ đồ trên, có thể thấy đối với CTCP có trên 11 cổ đông là cá
nhân hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần thì cơ chế phân
quyền kiểm soát trong nội bộ công ty sẽ gồm: i) Giám sát của ĐHĐCĐ với hoạt
động của HĐQT, thành viên HĐQT, (Tổng) giám đốc thực hiện điều lệ, nghị
quyết của ĐHĐCĐ; ii) Giám sát của HĐQT với (Tổng) giám đốc; iii) Giám sát
của BKS đối với hoạt động quản lý, điều hành các thành viên của HĐQT và
35
(Tổng) giám đốc.
Sơ đồ 2 (Mô hình 3) [20]:
Mô hình này bao gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc (công ty phải có ít nhất 20% số thành viên Hội đồng
quản trị là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng
quản trị) [24, điều 134.1(b)].
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, đối với công ty không thiết lập BKS,
trừ trường hợp pháp luật chứng khoán có quy định khác, các cổ đông thông qua
ĐHĐCĐ quyết định tổ chức giám sát phù hợp trong đó bắt buộc phải gồm ít nhất
20% thành viên HĐQT độc lập và Ban kiểm toán trực thuộc HĐQT, việc kiểm
soát được thực hiện thông qua các chủ thể trực thuộc HĐQT. Các thành viên độc
lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc
quản lý điều hành công ty.
2.3. Quy định pháp luật về nội dung hoạt động của cơ chế kiểm soát
nội bộ
2.3.1. Quy định về kiểm soát của Đại hội đồng cổ đông
Theo pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam, ĐHĐCĐ thực hiện quyền giám
sát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Quyền kiểm soát trực tiếp của ĐHĐCĐ
được thực hiện thông qua các cuộc họp ĐHĐCĐ. Tại các cuộc họp này, ĐHĐCĐ
sử dụng các quyền năng của mình, nắm bắt được tình hình hoạt động của công ty
bằng việc xem xét các báo cáo của HĐQT, BKS, xem xét quyết định những vấn
36
đề mang tính quyết định đến sự sống còn của công ty, các vấn đề về tài chính
của công ty, các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức nội bộ công ty. LDN 2014
quy định ĐHĐCĐ có mười (10) quyền chính [24, 135.2, 162.3], các quyền này
chủ yếu liên quan đến việc quyết định các vấn đề mang tính chất “sống còn” của
công ty như thông qua định hướng phát triển công ty, tổ chức giải thể công ty;
các vấn đề về tài chính lớn hay vấn đề cơ cấu tổ chức quản trị, bổ nhiệm người
lãnh đạo công ty. Bên cạnh đó, LDN 2014 cũng cho phép điều lệ của công ty
quy định các quyền khác của ĐHĐCĐ. Do vậy, điều lệ cũng có thể quy định các
quyền khác của ĐHĐCĐ ngoài quyền tối thiểu theo quy định trên [24, điều
135.2]. Có lẽ quy định các quyền tối thiểu này, nhà làm luật đang cố gắng bảo vệ
quyền lợi của các cổ đông thiểu số, bảo đảm cho cổ đông thiểu số có quyền tham
gia vào mọi quyết định quan trọng nhất của CTCP.
ĐHĐCĐ có thể họp thường niên hay bất thường. ĐHĐCĐ họp thường
niên ít nhất một năm một lần trong thời hạn 4 tháng (hoặc 6 tháng nếu có đề nghị
của HĐQT và được cơ quan đăng ký kinh doanh đồng ý) kể từ ngày kết thúc
năm tài chính. ĐHĐCĐ thường niên thảo luận và thông qua Nghị quyết về ít
nhất 06 vấn đề: i) kế hoạch kinh doanh hàng năm, ii) báo cáo tài chính hàng
năm; iii) báo cáo của HĐQT về quản trị và kết quả hoạt động của HĐQT và từng
thành viên HĐQT, iv) báo cáo của BKS về kết quả kinh doanh công ty và kết
quả hoạt động của HĐQT và (Tổng) giám đốc, v) báo cáo sự đánh giá kết quả
hoạt động của BKS và từng kiểm soát viên và vi) mức cổ tức đối với mỗi cổ
phần của từng loại [24, điều 136.2].
ĐHĐCĐ tiến hành cuộc họp bất thường khi được HĐQT triệu tập nếu: 1)
HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích công ty; 2) số thành viên HĐQT hoặc BKS
còn lại ít hơn số thành viên theo quy định pháp luật; 3) theo yêu cầu của (nhóm)
cổ đông 10% khi: i) hội đồng cổ đông vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông,
nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao,
ii) nhiệm kỳ của HĐQT đã vượt quá 06 tháng mà HĐQT mới chưa được bầu
thay thế hoặc iii) các trường hợp khác theo quy định của điều lệ công ty; 4) theo
yêu cầu của BKS; và 5) các trường hơp khác theo quy định pháp luật và điều lệ
37
công ty. HĐQT phải triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày xảy ra các trường hợp trên (trừ khi điều lệ công ty quy định khác). Trong
trường hợp HĐQT không triệu tập họp ĐHĐCĐ thì trong thời hạn 30 ngày tiếp
theo, BKS thay thế HĐQT triệu tập họp ĐHĐCĐ. Trong trường hợp BKS không
triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ thì (nhóm) cổ đông 10% có quyền đại diện công ty
triệu tập họp ĐHĐCĐ [24, điều 136.4, 136.5, 136.6.]. Luật doanh nghiệp hiện
hành không hạn chế số lần họp ĐHĐCĐ bất thường là bao nhiêu trong một năm.
Quy định này mang tính mềm dẻo, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các
CTCP hoạt động hiệu quả bởi quá trình kinh doanh diễn ra năng động và bất
thường, có những vấn đề có thể phát sinh đột xuất đòi hỏi cần được giải quyết
kịp thời mà vấn đề đó lại thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ nên nếu không quy
định cuộc họp bất thường thì không thể đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của
công ty, vì không thể cứ phải chờ đến cuộc họp thường niên của ĐHĐCĐ mỗi
năm chỉ một kỳ họp.
Việc không triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường có thể làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của người có trách nhiệm triệu tập họp ĐHĐCĐ bất
thường. Ngoài các trách nhiệm pháp lý tiềm tàng khác, chủ tịch HĐQT và các
thành viên HĐQT có thể phải bồi thường thiệt hại phát sinh đối với CTCP trong
trường hợp HĐQT không triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường như quy định trên.
Cũng như vậy, BKS có thể, ngoài các trách nhiệm pháp lý tiềm tàng khác, phải
bồi thường thiệt hại phát sinh đối với CTCP trong trường hợp BKS không triệu
tập họp ĐHĐCĐ [24, Điều 136.4, 136.5].
LDN 2014 cũng quy định cổ đông có quyền xem xét, tra cứu và trích lục:
1) các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết (và yêu cầu sửa
đổi các thông tin không chính xác); 2) điều lệ công ty; 3) bên bản họp và các
nghị quyết của đại hội đồng cổ đông cho dù cổ đông chỉ sở hữu một phần [24,
Điều 114.1.(đ), Điều 114.1(e)]. (Nhóm) cổ đông 10% có quyền tiếp cận thông tin
nhiều hơn cổ đông thường. Ngoài các quyền như cổ đông thường, (nhóm) cổ
đông 10% theo luật có quyền xem xét và trích lục: i) sổ biên bản và các nghị
quyết của hội đồng quản trị; ii) báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo
38
mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam; và iii) báo cáo của Ban kiểm soát [24, Điều
114.2.(b)]. Với quy định cho các cổ đông có quyền tiếp cận thông tin, LDN tạo
điều kiện cho các cổ đông tiếp cận các thông tin liên quan đến hoạt động công ty
để từ đó có thể thực hiện các quyền kiểm soát của mình. Điều lệ có thể quy định
quyền tiếp cận thông tin khác của cổ đông CTCP. Đối với các quyết định của cơ
quan quản lý, cổ đông có quyền xem xét và huỷ bỏ các quyết định của cơ quan
này nếu thấy không phù hợp, quyền này phát sinh khi tỉ lệ sở hữu cổ phần đạt
một giá trị nhất định.
Liên quan đến hoạt động kiểm soát các giao dịch tư lợi, pháp luật đã trao
cho cổ đông những công cụ pháp lý nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực
của người quản lý để tránh việc họ thực hiện các giao dịch tư lợi gây thiệt hại
cho cổ đông. LDN 2014 quy định cụ thể các hợp đồng và giao dịch có giá trị lớn
hơn 35% tổng giá trị tài sản công ty ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc
một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ phải được ĐHĐCĐ thông qua [24,
135.2(d)]. Hợp đồng hoặc giao dịch sẽ bị vô hiệu và xử lý theo quy định của
pháp luật khi được giao kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận của các chủ
thể có thẩm quyền và gây thiệt hại cho công ty. Khoản 1 điều 162 LDN 2014
quy định các hoạt động giao dịch giữa cổ đông, người đại diện uỷ quyền của cổ
đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có
liên quan của họ; thành viên HĐQT, (Tổng) giám đốc và người có liên quan của
họ; doanh nghiệp quy định tại Khoản 2 điều 159 phải được ĐHĐCĐ hoặc
HĐQT chấp thuận.
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định (nhóm) cổ đông 10% có quyền yêu cầu
Toà án hoặc Trọng tài huỷ bỏ nghị quyết của ĐHĐCĐ mà không phụ thuộc vào
tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông hay nhóm cổ đông này. Quy định này nhằm
bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số. Cụ thể trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
nhận được biên bản họp ĐHĐCĐ hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến
ĐHĐCĐ, nếu trình tự thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nghị quyết đó không thực
hiện đúng hoặc không phù hợp với quy định điều lệ và pháp luật, (nhóm) cổ
đông có quyền yêu cầu Toà án hoặc trọng tài xem xét huỷ bỏ một phần hoặc toàn
39
bộ nội dung nghị quyết [24, Điều 147]. Nhưng bên cạnh đó, LDN 2014 chưa có
quy định về quyền của (nhóm) cổ đông 10 % yêu cầu huỷ bỏ quyết định của
HĐQT CTCP. Riêng đối với công ty đại chúng, cổ đông công ty đại chúng có
quyền yêu cầu huỷ bỏ quyết định của HĐQT nếu quyết định ấy “vi phạm pháp
luật hoặc vi phạm những quyền lợi cơ bản của cổ đông theo quy định pháp luật”
[2, Điều 3.2]. Theo đó, nếu công ty đại chúng có quyền yêu cầu huỷ bỏ quyết
định của HĐQT, có thể suy luận là cổ đông của CTCP không phải công ty đại
chúng có quyền trên và các trường hợp mà cổ đông có thể thực hiện quyền trên
có thể quy định trong điều lệ công ty.
Luật Doanh nghiệp 2014 cũng đã đưa ra một số quy định mới nhằm tăng
cường quyền kiểm soát của cổ đông thiểu số so với Luật Doanh nghiệp 2005:
Thứ nhất, về quyền dự họp, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cổ đông
tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ thông qua hai hình thức là trực tiếp và thông qua
người đại diện [23, Điều 101]. Luật DN 2014 quy định thêm hình thức khác do
pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định” [ 24, Điều 140.1, 140.2]. Mặc dù chưa
có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung này nhưng có thể hiểu rằng ngoài dự
họp trực tiếp và thông qua người đại diện, nếu điều lệ công ty có quy định về
hình thức tham dự cuộc họp khác thì cổ đông thiểu số có quyền được dự họp
thông qua các hình thức này. Quy định này thể hiện sự chủ động của công ty
trong việc lựa chọn các hình thức tham dự cuộc họp phù hợp với tình hình hoạt
động của công ty. Ví dụ: gửi phiếu biểu quyết bằng thư bảo đảm, họp trực tuyến,
v.v. Mặt khác, nếu như trước đây, Điều 102 LDN 2005 quy định về cuộc họp
ĐHĐCĐ: cuộc họp ĐHĐCĐ lần thứ nhất được tiến hành khi có số cổ đông dự
họp đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, lần thứ hai là 51%
thì nay Luật Doanh nghiệp 2014 đã thay đổi, quy định điều kiện tiến hành họp
ĐHĐCĐ lần lượt với các tỉ lệ tương ứng, lần thứ nhất là 51%, lần thứ hai là
33%, lần thứ ba không phụ thuộc vào tổng số biểu quyết của các cổ đông dự họp
[24, Điều 141.1, 141.2]. Việc quy định tỷ lệ mới rõ ràng đã tạo điều kiện cho các
cổ đông thiểu số thực hiện quyền tiến hành họp ĐHĐCĐ được dễ dàng hơn, các
40
cổ đông nhỏ sở hữu ít cổ phần nên họ phải phối hợp với nhau để tạo thành nhóm
cổ đông, họ có thể phối hợp để đạt tỷ lệ đủ điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ lần
hai mà không cần phải chờ đến lần thứ ba.
Thứ hai, về quyền biểu quyết thông qua quyết định, trước đây, Điều 104
LDN 2005 quy định tỷ lệ tối thiểu cho tổng số phiếu biểu quyết của tất các cổ
đông dự họp khi thông qua quyết định của ĐHĐCĐ phải ít nhất là 65% (tỷ lệ
này được sử dụng không phải đối với tất cả các vấn đề được ĐHĐCĐ xem xét,
đối với các quyết định đặc biệt, tỷ lệ tối thiểu là 75%). Với quy định này, các cổ
đông nắm giữ từ hơn 51% tổng số phiếu biểu quyết bị hạn chế hơn trong việc
kiểm soát, quyết định các vấn đề thuộc quyền hạn của ĐHĐCĐ bởi tỷ lệ thông
qua biểu quyết càng cao thì phải có nhiều người tham gia biểu quyết, khi đó sẽ
có cơ hội cho cổ đông thiểu số, hạn chế sự độc đoán chuyên quyền của cổ đông
lớn. Tuy nhiên, việc quy định tỷ lệ thông qua quyết định, nghị quyết ĐHĐCĐ
cao như trên có thể dẫn đến trường hợp cổ đông thiểu số lợi dụng quyền phủ
quyết của mình để làm cho hoạt động công ty đình trệ nhằm mưu cầu lợi ích
riêng. Thậm chí có những công ty mà Nhà nước chỉ nắm 36%, thậm chí 26% đã
có quyền phủ quyết các vấn đề quan trọng gây khó khăn cho người điều hành.
Hơn nữa trên thực tế, nhiều công ty niêm yết không triệu tập được do không đủ
65% số cổ phần đến dự họp. Do vậy, để đưa ra một tỷ lệ hợp lý bảo vệ hài hoà
quyền lợi ích cho tất cả cổ đông trong công ty là vô cùng cần thiết và cần được
cân nhắc kĩ lưỡng. Luật doanh nghiệp 2014 đã thay đổi tỷ lệ này, theo đó, giảm
tỷ lệ biểu quyết tối thiểu của ĐHĐCĐ tuỳ theo vấn đề, từ 65% xuống còn 51%,
75% xuống còn 65% [ 24, Điều 144].
Như vậy, LDN 2014 đã soạn thảo nội dung phù hợp hơn với cam kết của
Việt Nam với WTO, theo đó các quyết định thường và các quyết định lấy ý kiến
bằng văn bản trong CTCP có thể áp dụng tỷ lệ 51% [7]. Có quan điểm cho rằng,
với quy định trên, LDN 2014 đã phần nào hạn chế quyền của cổ đông nhỏ so với
quy định LDN 2005, cụ thể nó sẽ làm tăng nguy cơ vô hiệu hoá vai trò của
(nhóm) cổ đông thiểu số. Nếu trước kia, nhóm cổ đông sở hữu trên 35% luôn có
vai trò phủ quyết, thì nay có thể mất tác dụng, thậm chí nhóm cổ đông sở hữu
41
49% cũng đành phục tùng nhóm cổ đông 51%. Nhưng dù sao, một lẽ thường tình
mà ai cũng hiểu, đó là ai bỏ vốn nhiều hơn thì người đó có quyền quyết định,
hơn nữa, tỷ lệ trên cũng ở mức tối thiểu và điều lệ công ty có thể quy định một tỉ
lệ khác cao hơn, do vậy, việc thay đổi tỷ lệ như trên là hợp lý và chưa thể nói là
vô hiệu hoá hoàn toàn quyền biểu quyết của cổ đông thiểu số.
Thứ ba, về quyền khởi kiện, trước đây, văn bản hướng dẫn thi hành LDN
2005 cũng trao quyền khởi kiện HĐQT, (tổng) giám đốc cho (nhóm) cổ đông sở
hữu tối thiểu 1% cổ phần liên tục trong 06 tháng, tuy nhiên, họ không được trực
tiếp khởi kiện ngay từ đầu mà phải thông qua BKS. BKS sẽ khởi kiện theo yêu
cầu của cổ đông, nhóm cổ đông này [9, Điều 25]. Sau 15 ngày kể từ ngày BKS
nhận yêu cầu mà không tiến hành khởi kiện theo yêu cầu thì cổ đông, nhóm cổ
đông có quyền trực tiếp khởi kiện. Đây được xem là rào cản, gây chậm trễ cho
cổ đông trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Trên thực tế, tỷ lệ BKS
thực hiện yêu cầu khởi kiện không nhiều, hơn nữa pháp luật doanh nghiệp không
quy định trách nhiệm gì cho BKS nếu BKS không khởi kiện. Khắc phục điều
này, LDN 2014 quy định quyền trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý của cổ
đông, nhóm cổ đông này ngay từ đầu mà không phải thông qua BKS. Cụ thể, cổ
đông, nhóm cổ đông có quyền tự mình khởi kiện hoặc nhân danh công ty để khởi
kiện HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc [24, Điều 161.1]. Ngoài ra, đáng
chú ý là chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện
nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty [24, Điều 161.1].
Có thể thấy, xét trên tổng thể, quy định của LDN 2014 đã thể hiện khá
đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đặc biệt là nhóm cổ
đông thiểu số. Nhưng nhìn chung, quyền lợi của cổ đông thiểu số có được bảo vệ
hiệu quả hay không không hẳn do các quy định pháp luật thiếu mà một phần
cũng xuất phát từ việc các cổ đông không nắm rõ các quyền của mình, hay tâm
lý phó thác cho cổ đông lớn và thiếu động lực đấu tranh cho các quyền lợi của
chính mình. Do vậy, cổ đông thiểu số cần ý thức được việc bảo vệ quyền lợi của
mình thông qua việc liên kết với nhau cùng xác lập một tỷ lệ biểu quyết đối
42
trọng với các cổ đông lớn được ghi nhận trong các văn bản pháp lý doanh nghiệp
để có cơ hội tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của công ty, thực hiện
quyền giám sát của mình với hoạt động quản trị điều hành công ty.
Bên cạnh việc kiểm soát trực tiếp, cổ đông có thể uỷ quyền cho cơ quan
quản lý thay mình giám sát cơ quan điều hành, đây là sự uỷ quyền gián tiếp
thông qua uỷ quyền cho HĐQT hoặc BKS.
2.3.2. Quy định về kiểm soát của Hội đồng quản trị
HĐQT là cơ quan quản lý CTCP, có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ [24, Điều 149.1].
So với LDN 2005, LDN 2014 đã quy định rõ ràng hơn về tiêu chuẩn
thành viên HĐQT nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát, quản lý của thành viên
HĐQT trong CTCP, cụ thể:
Thứ nhất, thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của công ty,
trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác. Quy định này đã dành quyền tự
quyết trong việc xác định điều kiện sở hữu cổ phần để làm thành viên HĐQT,
đồng thời khắc phục được mâu thuẫn của LDN 2005: khoản 1 điều 109 LDN
2005 quy định thành viên HĐQT không nhất thiết phải là cổ đông của công ty
nhưng điều 110 điểm b khoản 1 của Luật lại quy định tiêu chuẩn làm thành viên
HĐQT là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc
người khác có trình độ chuyên môn kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc
trong ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty.
Thứ hai, thành viên HĐQT của công ty có thể đồng thời là thành viên
HĐQT của công ty khác. Quy định này mới, giúp lý giải rõ ràng hơn về LDN
nhưng không thực sự cần thiết, bởi quy định về tiêu chuẩn là yêu cầu cần phải
đáp ứng mà với quy định này thì chỉ mang tính chất tuỳ nghi.
Thứ ba, đối với công ty con mà nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số vốn điều
lệ thì thành viên HĐQT không được là vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi,
con, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của (Tổng)
giám đốc và cán bộ quản lý khác của công ty; không được là người có liên quan của
43
người quản lý, người có thẩm quyền bổ nhiệm quản lý công ty mẹ.
Như vậy trong khi LDN 2005 lựa chọn phương án quy định các tiêu chuẩn
cụ thể đồng thời bổ sung “hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ
công ty” [23, Điều 110.1(b)] thì LDN 2014 chỉ quy định tiêu chuẩn “ít nhất”
phải đáp ứng. Quy định này thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự do tự quyết
trong kinh doanh của công ty cũng như các cổ đông CTCP, đồng thời đảm bảo
được việc lựa chọn thành viên HĐQT phù hợp với thực tế yêu cầu hoạt động
kinh doanh của mỗi công ty.
Thành viên HĐQT độc lập
Quy định về thành viên HĐQT độc lập là một quy định mới của LDN
2014 so với LDN 2005. LDN 2014 quy định trường hợp CTCP theo mô hình
Hội đồng đơn gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, Giám đốc và Tổng giám đốc thì phải có ít
nhất 20% số thành viên HĐQT là thành viên độc lập và có BKTNB trực thuộc
HĐQT. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực
hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty [24, Điều 134.1(b)]. Thành
viên HĐQT độc lập phải đáp ứng điều kiện mà pháp luật quy định, trong đó có
điều kiện không phải là người đã từng làm thành viên HĐQT, BKS công ty ít
nhất 5 năm liền trước đó [24, Điều 151.2(đ)].
Quy định về thành viên HĐQT độc lập trước đây đã được thiết lập theo
Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các Công ty niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán được ban hành kèm theo Quyết
định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13-3-2007 của Bộ Tài Chính (gọi tắt là Quyết
định số 12/2007/QĐ-BTC). Theo đó, Hội đồng quản trị có số lượng thành viên ít
nhất là năm (05) người và nhiều nhất là mười một (11) người, trong đó khoảng
1/3 tổng số thành viên HĐQT là thành viên độc lập không điều hành (khoản 1
điều 11). Thành viên HĐQT độc lập là thành viên HĐQT không phải là giám
đốc (Tổng giám đốc), phó giám đốc (phó tổng giám đốc), kế toán trưởng và
những người quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm hoặc cổ đông lớn của công ty
(Điểm d khoản 1 điều 2) [14, tr.175, 176].
Thông tư 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 của BTC quy định về quản
44
trị công ty áp dụng cho các Công ty đại chúng thay thế Quyết định số
12/2007/QĐ- BTC (gọi tắt là Thông tư 121) ngoài việc ghi nhận các điều kiện
trong Quy chế trên, đã bổ sung thêm điều kiện để trở thành thành viên HĐQT
độc lập là: không phải là thành viên HĐQT, (tổng) giám đốc, phó (tổng) giám
đốc của các công ty con, công ty liên kết, công ty do công ty đại chúng nắm
quyền kiểm soát; người đại diện cổ đông lớn hoặc người có liên quan đến cổ
đông lớn, không làm việc tại các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, kiểm
toán cho công ty trong hai (02) năm gần nhất, không phải là đối tác hoặc người
liên quan của đối tác có giá trị giao dịch hằng năm với công ty chiếm từ 30% trở
lên tổng doanh thu hoặc tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào của công ty trong
hai (02) năm gần nhất [2, Điều 2.3].
Thông tư số 121 đã thể hiện rõ ý tưởng lập pháp, xác định vị trí độc lập
của thành viên HĐQT trong quan hệ chi phối vốn, hoạt động quản lý, điều hành
của công ty mẹ, công ty con, và công ty liên quan cũng như quan hệ bạn hàng có
khả năng tác động vào vị trí độc lập của thành viên này. Có nghĩa là, thành viên
này có thể thực hiện quyền giám sát độc lập toàn bộ quá trình thực thi quyết định
của HĐQT không thiên vị vì lợi ích của bất cứ một chủ thể nào. Xét những điều
kiện trên có thể thấy, ứng cử viên đại diện cho cổ đông thiểu số có khả năng đáp
ứng đủ điều kiện trên. Bởi lẽ, thông thường khi trở thành cổ đông lớn, tổ chức
góp vốn và cá nhân có thể đề cử người để được bầu và trực tiếp tham gia quản lý
với tư cách là thành viên HĐQT hoặc KSV. Chế độ bầu dồn phiếu theo Luật
doanh nghiệp hiện hành [24, Điều 144.3] có thể giúp cho cổ đông thiểu số đạt
được mục đích này [14, tr. 176, 177]. Chế độ này khắc phục được hạn chế của
phương thức bầu phiếu thông thường, theo đó số cổ đông hoặc nhóm cổ đông
nắm giữ tỷ lệ 51% tổng số phiếu biểu quyết trở lên sẽ có quyền lựa chọn người
của mình vào HĐQT, BKS; sau đó, HĐQT lại bổ nhiệm Tổng giám đốc, giám
đốc; vậy bộ máy điều hành công ty lúc này đều do các cổ đông đa số lựa chọn.
Cơ chế KSNB không còn đạt được mục đích như thiết kế của nhà làm luật và
công ty sẽ bị chi phối bởi các cổ đông đa số. Chính điều này khiến các cổ đông
thiểu số không có tiếng nói trong việc quyết định các vấn đề của công ty. Với
45
chế độ bầu dồn phiếu cùng với quy định LDN 2014 về tỷ lệ biểu quyết để thông
qua quyết định bầu thành viên HĐQT là ít nhất 51 % tổng số phiếu biểu quyết
của tất cả các cổ đông dự họp, các cổ đông có thể dễ liên kết thành nhóm để đề
cử người của mình vào HĐQT và BKS hơn so với tỷ lệ 65% quy định tại LDN
2005 trước đây. Bởi vậy, việc tạo ra cơ chế để đại diện cổ đông thiểu số có điều
kiện tham gia vị trí thành viên hội đồng quản trị độc lập để kiểm soát giao dịch
tư lợi của đại diện cổ đông chi phối là phù hợp.
Quyền hạn quản lý, kiểm soát của HĐQT
LDN 2014 hiện hành quy định khoảng mười bảy (17) quyền chính của
HĐQT, các quyền này chủ yếu là quyền kiến nghị lên HĐQT các vấn đề liên quan
đến cổ phần, cổ tức, trình báo cáo tài chính hàng năm; quyền quyết định các vấn
đề chiến lược, hoạch địch kế hoạch hằng năm của công ty và các quyền khác
không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Ngoài các quyền theo luật, điều lệ của
công ty có thể quy định thêm các quyền khác của HĐQT. [24, Điều 149.2, 162.2]
Như vậy, HĐQT có thẩm quyền quản trị rất rộng theo LDN. HĐQT thực
hiện quyền giám sát cùng với quá trình ra quyết định quản lý. HĐQT có quyền
giám sát, chỉ đạo (Tổng) giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc
kinh doanh hàng ngày của công ty [24, Điều 149.2(k)]. Phần lớn quyết định của
ĐHĐCĐ đều dựa trên quyết định hoặc kiến nghị của HĐQT. HĐQT cũng duyệt
chương trình và nội dung tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ. Do vậy, quyết định hoặc
kiến nghị của HĐQT có ảnh hưởng lớn đến quyết định của ĐHĐCĐ.
2.3.3. Kiểm soát của Ban kiểm soát
Theo LDN 2014, chức năng chính của BKS là là giám sát. Luật doanh
nghiệp xác định vị trí độc lập cho BKS trong hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt
động quản lý của HĐQT, thành viên HĐQT và (Tổng) giám đốc. Tuy nhiên, Ban
kiểm soát không có quyền ra quyết định mà chỉ có thẩm quyền kiến nghị với
ĐHĐCĐ.
Đại hội đồng bầu ra các thành viên BKS, đồng thời ban hành điều lệ và
quy chế tổ chức và hoạt động của BKS để xác định thẩm quyền, nghĩa vụ cũng
như các hoạt động cụ thể của BKS. Do ĐHĐCĐ họp thường niên một năm một
46
lần, nên việc giám sát của cổ đông qua phiên họp bị hạn chế, BKS trở thành cơ
quan được uỷ quyền trong hoạt động kiểm tra, giám sát theo yêu cầu của
ĐHĐCĐ, cổ đông hoặc nhóm cổ đông theo quy định của LDN hiện hành.
Thẩm quyền của BKS được quy định cụ thể tại điều 165 LDN. Theo đó,
BKS có các quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan quản lý, điều hành
công ty, kiểm tra đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ,
kiến nghị với HĐQT, ĐHĐCĐ về những vấn đề trong phạm vi kiểm tra, giám sát
của mình. Để thực hiện các quyền và nghĩa vụ trên, BKS có quyền được tiếp cận
thông tin đối với các tài liệu hồ sơ của công ty, xem xét các sổ sách kế toán, các
báo cáo về công tác hoạt động quản lý điều hành của HĐQT, (tổng) giám đốc,
nghị quyết, biên bản họp HĐQT, ĐHĐCĐ bất cứ lúc nào nếu xét thấy cần thiết
[24, Điều 165].
Đối cới CTCP niêm yết, hoạt động của BKS trong công ty này được quy
định tại Thông tư số 121, kế thừa quy định về trách nhiệm của BKS theo Quy
chế quản trị công ty ban hành kèm theo Quyết định số 12/2007/QĐ-TTC. Cụ thể:
BKS có trách nhiệm giám sát tình hình tài chính công ty, tính hợp pháp trong các
hoạt động của thành viên HĐQT, (tổng) giám đốc điều hành, cán bộ quản lý
khác, sự phối hợp hoạt động giữa BKS với HĐQT, (tổng) giám đốc điều hành,
cổ đông và các nhiệm vụ khác theo quy định pháp luật và điều lệ công ty nhằm
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công ty và cổ đông [2, Điều 121.1]. Quy định này
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho BKS có thực quyền và khả
năng nhận được sự hợp tác từ phía HĐQT giúp cho quá trình kiểm tra giám sát
được tiến hành thuận lợi. Cũng theo quy định về quản trị công ty đại chúng, BKS
họp ít nhất 2 lần trong năm, số lượng thành viên dự họp ít nhất là 2/3 số thành
viên BKS [2, Điều 21.2], đồng thời, xác định nghĩa vụ lập biên bản họp và thể
thức lập biên bản. Quy định này nhằm minh bạch hoá nội dung hoạt động của
BKS cũng như vai trò của từng thành viên BKS trong thực hiện hoạt động kiểm
tra, giám sát. [14, tr.180].
Nghiên cứu LDN 2014 có thể thấy, việc xác định quyền giám sát của BKS
trong CTCP chủ yếu tập trung vào quan hệ tài chính. Xuất phát từ đặc thù hoạt
47
động kiểm tra, giám sát của BKS, LDN hiện hành quy định BKS có từ 3 -5 thành
viên, nếu điều lệ công ty không quy định khác; nhiệm kỳ của KSV không quá 5
năm và kiểm soát viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế; các
KSV bầu một người trong số họ làm trưởng BKS theo nguyên tắc đa số [24,
Điều 163.1]; trưởng BKS phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên
nghiệp và phải làm việc chuyên trách tại công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty
quy định tiêu chuẩn khác cao hơn [ 24, Điều 163.2]. Kiểm soát viên công ty cổ
phần niêm yết, công ty do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm
toán viên hoặc kế toán viên [khoản 2 điều 164]. Ngoài ra Thông tư số 121 quy
định thêm điều kiện thành viên BKS không phải là người trong bộ phận kế toán,
tài chính của công ty và không phải là thành viên hay nhân viên của công ty
kiểm toán độc lập đang thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của công ty [2,
điều 18.2]. Những quy định này làm tách bạch chức năng giám sát độc lập của
ban kiểm soát với chức năng quản lý tài chính của ban điều hành cũng như với
chức năng kiểm soát của kiểm toán viên độc lập.
So với Luật doanh nghiệp hiện hành, Thông tư số 121 quy định cụ thể hơn
bảo đảm vị trí độc lập của BKS và thành viên BKS trong thực hiện quyền hạn và
trách nhiệm theo quy định pháp luật. Nếu so sánh quy định về tổ chức và hoạt
động của công ty đại chúng và công ty chưa đại chúng, các quy định về tổ chức
và hoạt động của công ty đại chúng có ý nghĩa tăng cường minh bạch và đề cao
vai trò của ban kiểm soát trong công ty, cũng như tạo ra cơ chế để BKS có thể dễ
dàng phối hợp với cơ quan trong tổ chức nội bộ để thực hiện nghĩa vụ và quyền
hạn được giao.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, trong mô hình quản trị CTCP có BKS,
thì vai trò của BKS chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh: i) giám sát độc lập hoạt
động của các cơ quan quản lý điều hành công ty; ii) giám sát tài chính. BKS như
quy định trong LDN 2014 không có cấu trúc như mô hình hội đồng đơn cấp theo
luật công ty của hầu hết các nước thuộc họ pháp luật Anh – Mỹ, cũng không
giống với HĐGS trong cấu trúc mô hình hội đồng song cấp như pháp luật Đức,
bởi mô hình có BKS trong CTCP tại Việt Nam chỉ có chức năng cơ bản nhất là
48
giám sát công tác của bộ máy quản lý điều hành, nó không có thẩm quyền bổ
nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức các thành viên của bộ máy quản lý,
điều hành, cũng không có chức năng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng
như của HĐQT tại pháp luật Đức. BKS trong CTCP theo pháp luật Việt Nam có
nhiều điểm tương đồng với BKS trong mô hình quản trị CTCP tại Nhật Bản.
2.3.4. Kiểm soát của Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị
Thông thường, Kiểm toán nội bộ (KTNB) được hiểu là hoạt động độc lập
và khách quan do một tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp tiến hành nhằm bảo
đảm khả năng kiểm soát các hoạt động của tổ chức, tư vấn các giải pháp chấn
chỉnh hoạt động của tổ chức [14, tr.182]. Trong lĩnh vực ngân hàng, KTNB là
việc rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ
đánh giá độc lập về tính thích hợp và tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ
tục, quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các hệ thống, quy trình, quy
định góp phần bảo đảm tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả [3, Điều
3.2]. Trong doanh nghiệp, KTNB thực hiện chức năng đánh giá tính đúng đắn,
trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động kinh
doanh. Sự tồn tại của tổ chức KTNB giúp Doanh nghiệp lập báo cáo tài chính,
góp phần minh bạch thông tin doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên đây chỉ là các quan niệm chủ quan, LDN 2014 chưa quy
định rõ cơ cấu và cách thức lựa chọn thành viên BKTNB cũng như quyền hạn
của BKTNB.
2.4. Những vấn đề pháp lý đặt ra trước quy định pháp luật hiện hành
về cơ chế kiểm soát nội bộ trong công ty cổ phần
2.4.1. Cơ chế kiểm soát nội bộ chưa được đầu tư đúng mức khi xây
dựng bản Điều lệ công ty
Dựa trên giá trị pháp định đã được trình bày tại mục 2.1, có thể khẳng
định rằng Điều lệ công ty lẽ ra phải luôn là văn bản được các công ty đầu tư
đúng mức trong việc xây dựng và sử dụng. Tuy nhiên, trên thực tế tại Việt Nam,
giá trị của bản điều lệ lại tồn tại theo một xu hướng hoàn toàn ngược lại, với
49
những biểu hiện điển hình:
Thứ nhất, điều lệ công ty bị xem nhẹ, mang tính hình thức, và thậm chí bị
bỏ qua. Biểu hiện của việc này đó là thiếu sự đầu tư đúng mức khi xây dựng nó.
Rất nhiều doanh nghiệp chỉ xem điều lệ là một loại văn bản làm tròn thủ tục với
cơ quan công quyền khi thành lập. Với tư duy ấy, họ thản nhiên sử dụng những
bản điều lệ mẫu được soạn sẵn như là một phiên bản sao chép và biến tấu của
luật doanh nghiệp hay sao chụp điều lệ của các công ty lớn. Chúng ta biết rằng,
điều lệ công ty là văn bản được ưu tiên trước luật khi có tranh chấp xảy ra trong
công ty. Tuy nhiên thực tế, việc các công ty tự xác định và thực hiện cơ chế kiểm
soát cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp trong nội bộ lại chủ yếu mang tính
hình thức, thậm chí chỉ là một quy định lấy lệ được ghi trong điều lệ công ty.
Một trong những hệ quả nghiêm trọng của việc này, là trước hết các công ty sẽ
không xác định hoặc xác định không đúng cơ chế kiểm soát nội bộ cần xây
dựng, họ không hề có sự cân nhắc trước, xem xét tình hình, hoàn cảnh đặc thù
của công ty mình để xây dựng mô hình kiểm soát công ty cho phù hợp, dẫn đến
hậu quả là rối loạn hoạt động quản trị nội bộ, như là nhầm lẫn, chồng chéo về
thẩm quyền, không có sự hiệu quả trong hoạt động kiểm soát, chế ước quyền lực
lẫn nhau, từ đó hiệu quả hoạt động tổ chức quản lý và quản trị kinh doanh không
được thực hiện đúng theo mục tiêu đã đặt ra, dễ phát sinh tranh chấp. Và khi xảy
ra tranh chấp, cũng do không xác định được rõ ràng cơ chế kiểm soát và giải
quyết tranh chấp nội bộ trong điều lệ, nên các bên không có phương hướng cụ
thể để giải quyết, gây bất lợi cho những nhà đầu tư và những chủ thể khác có
liên quan, gánh nặng giải quyết hậu quả vấn đề được đẩy cho xã hội.
Thứ hai, các bên quá thần thánh hoá điều lệ công ty, cố tình hoặc vô ý
“thượng tôn” điều lệ, đứng ngoài khuôn khổ pháp luật. Dù điều lệ được xây
dựng trên nền tảng quyền tự chủ doanh nghiệp, nhưng sự tự chủ phải nằm trong
nguyên tắc pháp quyền, không đi vào những vùng cấm mà pháp luật đã vạch ra.
Thực tế nhiều công ty lại tự quy định về tỷ lệ tham dự ĐHĐCĐ, tỷ lệ cổ phiếu
phải nắm giữ để được quyền tham dự ĐHĐCĐ, rồi tự sáng tạo các trình tự thủ
tục tổ chức phân chia quyền lực ĐHĐCĐ một cách vô lý, gây cản trở quyền lợi
50
nhiều cổ đông nhỏ lẻ.
Thứ ba, tại nhiều công ty, dù điều lệ được lưu giữ tại trụ sở chính, nhưng
nhiều cổ đông không thể tiếp cận để xem xét, sao chép, trích lục, nhằm bảo vệ
quyền lợi của mình. Quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với những vi
phạm về lưu giữ tài liệu như điều lệ công ty không được ban hành càng khiến
cho việc vi phạm trở nên phổ biến hơn. Nhiều trường hợp cổ đông không xem
trọng điều lệ công ty, không nhận biết được đó là công cụ bảo vệ quyền lợi của
mình, mà tất cả vịn vào và tin tưởng tuyệt đối quy định của LDN. Khi có tranh
chấp xảy ra, vấn đề tự chịu trách nhiệm của các thành viên công ty với tư cách
chủ sở hữu công ty do chính họ tạo ra trong bản điều lệ lại không được quan tâm
đúng mức, các bên thường đẩy vụ việc cho các thiết chế bên ngoài công ty giải
quyết thông qua việc khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện tại Toà án hoặc Trọng
tài, gánh nặng pháp lý chưa tự giải quyết mà đẩy ngay cho xã hội. Thực tế là,
pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về chế tài đối với những công
ty không thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế kiểm soát và giải quyết tranh chấp
nội bộ công ty [21].
2.4.2. Quyền kiểm soát của cổ đông chưa thực sự được bảo đảm
Thứ nhất, LDN 2014 cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông 10% có quyền
triệu tập họp ĐHĐCĐ trong một số trường hợp; quy định này là nhằm bảo vệ
quyền lợi của các cổ đông nhỏ trong công ty, hạn chế sự lạm dụng quyền lực kiểm
soát công ty của các cổ đông lớn và những chủ thể quản lý công ty (HĐQT và
BKS). Tuy nhiên, LDN lại cho phép HĐQT có quyền duyệt chương trình, nội
dung, tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ [24, Điều 149.2(m)]. Như vậy, nếu cổ đông
hoặc nhóm cổ đông nêu trên triệu tập họp ĐHĐCĐ mà HĐQT không thông qua
chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp thì ĐHĐCĐ trong trường hợp này có thể
không tiến hành họp được. Điều này rất dễ xảy ra trong trường hợp HĐQT lạm
dụng quyền lực để tư lợi và không thông qua chương trình, nội dung cuộc họp.
Thứ hai, Khoản 2 điều 156 LDN 2014 vẫn giữ quan điểm như Khoản 2
điều 115 LDN 2005 khi quy định thành viên HĐQT có thể bị bãi nhiệm bất cứ
lúc nào theo quyết định của ĐHĐCĐ, điều này có thể gây khó khăn cho nhóm cổ
51
đông thiểu số. Theo quy định này, thành viên HĐQT và thành viên BKS có thể
bị bãi miễn bất cứ lúc nào theo quyết định của ĐHĐCĐ mà không cần phải có
điều kiện bãi miễn. Quy định này khiến cho quy định về nguyên tắc bầu dồn
phiếu tại Khoản 3 điều 144 (nhằm tạo điều kiện cho nhóm cổ đông thiểu số được
cử người của mình vào HĐQT) ngay lập tức bị vô hiệu hoá. Trong khi (nhóm)
cổ đông thiểu số phải dồn tất cả phiếu biểu quyết của mình mới cử được người
vào HĐQT thì ngay lập tức đứng trước nguy cơ bị nhóm cổ đông lớn bãi miễn.
LDN 2014 đã bỏ quy định về nhiệm kỳ của HĐQT là 5 năm, chỉ có nhiệm kỳ
của thành viên HĐQT; bỏ việc bắt buộc phải bầu thành viên HĐQT và BKS theo
phương thức bầu dồn phiếu [24, Điều 144]. Việc bỏ quy định về nhiệm kỳ của
HĐQT và cho phép không bắt buộc phải bầu cử theo phương thức bầu dồn phiếu
cũng như việc được tự do bãi miễn thành viên HĐQT sẽ dẫn đến nguy cơ cổ
đông thiểu số bị mất quyền bầu đại diện của mình vào HĐQT và BKS, từ đó mất
quyền kiểm soát của cổ đông thiểu số. Quyền lợi của cổ đông thiểu số ngày càng
bị đe doạ.
Thứ ba, quy định của luật còn chưa chặt chẽ, thể hiện ở điều kiện triệu tập
họp ĐHĐCĐ. Theo quy định tại mục a khoản 3 điều 114 thì cổ đông hoặc nhóm cổ
đông nêu trên triệu tập họp ĐHĐCĐ trong trường hợp HĐQT “vi phạm nghiêm
trọng” nghĩa vụ của người quản lý và quyền của cổ đông. Nhưng Luật không xác
định rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng, và việc xác định vi phạm đến mức độ nào,
trong trường hợp nào là nghiêm trọng sẽ rất phức tạp trên thực tế.
2.4.3. Sự chồng chéo khi phân định quyền lực kiểm soát nội bộ
Theo LDN 2014, quyền quản lý kiểm soát công ty của HĐQT hiện nay là
rất rộng. Thông thường, hoạt động điều hành công việc kinh doanh hàng ngày
công ty của (Tổng) giám đốc sẽ chịu sự giám sát của HĐQT. Tuy nhiên, LDN
hiện hành cho phép Chủ tịch HĐQT có thể kiêm chức danh (Tổng) giám đốc, trừ
trường hợp điều lệ công ty hoặc pháp luật chứng khoán không có quy định khác
[24, Điều 152.1], đồng thời, chủ tịch HĐQT lại được giao giám sát quá trình tổ
chức thực hiện các quyết định của HĐQT [24, Điều 152.3(d)].
Trên thực tế tại rất nhiều công ty cổ phần hiện nay, chức danh chủ tịch
52
HĐQT và tổng giám đốc do cùng một người nắm giữ. Nhưng vấn đề đặt ra là,
liệu sự kiêm nhiệm này có thể bảo đảm thực hiện giám sát của chủ tịch HĐQT
một cách khách quan hay không? Không thể phủ nhận một số công ty niêm yết
tuy có sự kiêm nhiệm này nhưng thành tích kinh doanh tốt, tuy nhiên nếu một
người kiêm nhiệm hai chức danh thì giám sát của HĐQT thông qua chủ tịch
HĐQT đối với Tổng giám đốc có thể không được tiến hành khách quan nếu
không có phân định thẩm quyền giám sát và điều hành cũng như quy chế hoá
trình tự thủ tục tổ chức thực hiện giám sát [14, tr.173, 174].
Mặc dù Khoản 2 điều 152 LDN 2014 quy định CTCP Nhà nước nắm giữ
trên 50% tổng số phiếu biểu quyết thì Chủ tịch HĐQT không được kiêm (Tổng)
giám đốc và Điều 11 khoản 3 Thông tư 121 quy định Chủ tịch HĐQT không
được kiêm nhiệm chức danh TGĐ (trừ khi việc kiêm nhiệm này được phê chuẩn
hàng năm bởi ĐHĐCĐ thường niên), nhưng nhìn chung, LDN hiện hành vẫn
chưa quy định sự tách biệt về vị trí, thẩm quyền giữa thành viên HĐQT và người
quản lý điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày trong các CTCP nói chung.
Điều 134 khoản 2 LDN hiện hành quy định: chủ tịch HĐQT, (tổng) giám đốc có
thể là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu điều lệ công ty không quy
định khác, quy định này sẽ dễ gây nhầm lẫn khi xác định trách nhiệm cá nhân
nếu xảy ra tranh chấp giữa công ty với chủ thể thứ ba. Với những quy định nêu
trên, quyền lực của HĐQT có thể bị thâu tóm vào tay chủ tịch HĐQT (người
đồng thời kiêm tổng giám đốc công ty), hoạt động thực tế của HĐQT trong nội
bộ công ty lúc này có vẻ sẽ thiên lệch về quản lý điều hành hơn là hoạch định
chiến lược và giám sát thực thi. Chức năng của HĐQT phải là chức năng hoạch
địch chiến lược và giám sát ban giám đốc điều hành. Trên thực tế, thành viên
HĐQT lại nắm giữ một số vị trí trọng trách trong BGĐ và tham gia vào nhiều
hoạt động tác nghiệp hàng ngày. Sự chồng chéo này sẽ khiến các chủ thể quản lý
công ty không phân định rõ ràng trách nhiệm, trách nhiệm tập thể nhiều hơn
trách nhiệm cá nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hoạt động động công
ty. Đặc biệt đối với CTCP theo mô hình có BKS nằm ngoài HĐQT, khi mà vị trí
của BKS theo pháp luật Việt Nam hiện nay còn chưa thực sự độc lập và chịu sự
53
chi phối của HĐQT thì việc kiêm nhiệm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng thâu tóm
quyền lực của HĐQT, nguy cơ lạm dụng quyền lực của HĐQT nói chung, chủ
tịch HĐQT nói riêng để thu lợi cho riêng mình và người khác là rất lớn. HĐQT
dễ dàng trục lợi cho mình hơn là bảo vệ quyền lợi của công ty và các cổ đông, sự
tồn tại của BKS lúc này chỉ mang tính hình thức, chỉ có thể “đứng nhìn” mà
không giải quyết được gì cả.
Vấn đề tiếp theo, LDN 2014 hiện nay quy định trường hợp CTCP theo mô
hình Hội đồng đơn gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, (Tổng) giám đốc thì phải có ít nhất
20% số thành viên HĐQT là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực
thuộc HĐQT. Về nguyên tắc, thành viên HĐQT độc lập sẽ đóng vai trò giám sát,
làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý, điều hành, góp
phần bảo vệ lợi ích chính đáng của cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số. Mặc dù
quy định các tiêu chí độc lập về nhân thân, về quan hệ sở hữu kinh tế, tuy nhiên,
LDN 2014 chưa xác định rõ vị trí độc lập thành viên HĐQT độc lập trong quan
hệ với các chủ thể khác trong công ty, như trong việc kiểm soát việc thực thi
quyết định của HĐQT, xem xét các vấn đề về công ty dựa trên lợi ích công ty
chứ không thiên vị vì lợi ích của bất cứ một chủ thể nào. Có thể hình dung các
thành viên độc lập giống như một BKS nhỏ trong HĐQT, thực hiện chức năng
giám sát và hỗ trợ công tác quản lý, điều hành công ty không? Nếu vậy thì mối
quan hệ về thẩm quyền của các thành viên này có gì khác với Ban kiểm toán nội
bộ cùng trực thuộc? LDN hiện hành chưa xác định rõ cơ cấu, tiêu chuẩn điều
kiện của thành viên Ban kiểm toán nội bộ hay vai trò trách nhiệm của nó trong
mối quan hệ với các chủ thể khác trong nội bộ công ty: Ban kiểm toán nội bộ có
quyền kiểm soát công ty như thế nào, thành viên Ban kiểm toán nội bộ là ai, mối
quan hệ của cơ quan này với thành viên HĐQT độc lập ra sao, thành viên HĐQT
độc lập có thể là thành viên Ban kiểm toán nội bộ hay không? v.v. Đây là những
vấn đề gây khó khăn cho cá nhân hay tổ chức nào đó muốn thành lập CTCP theo
mô hình này, họ có thể thành lập ra Ban kiểm toán nội bộ và chọn ra thành viên
HĐQT độc lập theo đúng quy định nhưng rất dễ lúng túng khi xây dựng tiêu chí
tuyển chọn nhân sự, phân định quyền hạn cho các chủ thể này khi thiết lập mô
54
hình quản trị CTCP này. Việc lựa chọn phát triển mô hình BKS nhưng lại hình
thành một bộ máy khác là BKTNB trực thuộc HĐQT mà không có sự phân định
cụ thể về vai trò và chức năng của bộ máy có nguy cơ dẫn đến tình trạng không
rõ ràng khi áp dụng. Mặt khác, về bản chất, kiểm toán liên quan đến lĩnh vực kế
toán, còn kiểm soát là kiểm soát chung mọi hoạt động. Liên quan đến lĩnh vực kế
toán đã có những công cụ khác thay thế hiệu quả hơn như quy định của pháp luật
kiểm toán, cơ quan thuế, các đơn vị tư vấn kế toán ngoài doanh nghiệp, pháp luật
chứng khoán. Như vậy, mảng kiểm soát hoạt động chung của công ty chưa được
thực hiện mà mảng kiểm toán lại quá nhiều có thể gây ra nhầm lẫn, chồng chéo
về thẩm quyền trong hoạt động. Việc pháp luật không định hướng rõ ràng đã dẫn
đến việc phân chia quyền lực không phù hợp, các cơ quan được thiết lập nhiều
khi mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò của mình trong
công ty, khiến hoạt động công ty kém hiệu quả.
Liên quan đến thành viên HĐQT độc lập, thực tế cho thấy, thành viên
HĐQT độc lập không hoàn toàn độc lập, mà lại rất phụ thuộc vào Chủ tịch
HĐQT và những thành viên điều hành khác, bởi vì, vị trí của những thành viên
này trong cơ cấu quản lý điều hành thường thấp hơn nhiều so với Chủ tịch
HĐQT và các thành viên điều hành khác. Các thành viên độc lập có thể có xu
hướng củng cố vị trí hoặc xu hướng muốn làm hài lòng các thành viên HĐQT
khác và ban điều hành, điều này càng tạo điều kiện cho nguy cơ lạm dụng quyền
lực của HĐQT, qua đó các thành viên độc lập cũng có thể chỉ quan tâm đến
quyền lợi cá nhân, thay vì bảo vệ quyền lợi của cổ đông.
2.4.4. Ban kiểm soát chưa thực sự phát huy đúng vai trò của mình
Hoạt động của BKS chưa thực sự độc lập. Theo quy định của pháp luật
doanh nghiệp hiện hành, trong mô hình quản trị CTCP có BKS, thành viên BKS
không được giữ chức vụ quản lý công ty và thành viên BKS không nhất thiết là cổ
đông hoặc người lao động của công ty [24, Điều 164.1(c)]. Tuy nhiên, rất nhiều
khả năng thành viên BKS là người lao động bình thường được bầu lên, hoạt động
kiểm soát nhiều khi bị chi phối bởi quan hệ phụ thuộc. Trong vai trò kiểm soát
viên, họ cần độc lập với HĐQT và BGĐ, nhưng trong vai trò là người lao động,
55
họ chịu sự quản lý của HĐQT và BGĐ. Hơn nữa, LDN hiện hành còn quy định
rằng trong quy trình hoạt động của mình, BKS phải báo cáo giải trình những vấn
đề được yêu cầu kiểm tra (do cổ đông 10% yêu cầu) đến HĐQT- đối tượng được
kiểm tra giám sát. Đồng thời, pháp luật trao cho HĐQT quyền duyệt chương trình,
nội dung tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ [24, Điều 149.2(m)]. Trong hoàn cảnh như
vậy, hoạt động kiểm soát của BKS liệu có còn độc lập? Lúc này, hoạt động của
BKS sẽ trở nên thiếu tính khách quan bởi họ chịu nhiều áp lực, với tư cách người
lao động, số phận của họ nằm trong tay những người quản lý, bởi thành viên
HĐQT đồng thời là những cổ đông lớn, họ quyết định cả về địa vị, tiền lương của
thành viên BKS và theo lẽ thường, những người này sẽ chọn con đường “an
phận”, chịu sự phụ thuộc vào HĐQT.
Liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, LDN 2014 đã bổ sung quy định
chi tiết hơn và bổ sung một số quyền được cung cấp thông tin của BKS. Trong
quá trình thực hiện quyền kiểm soát nội bộ, BKS có quyền tiếp cận những báo
cáo tài chính, sổ sách, thông tin tài liệu có liên quan nhằm phát hiện kịp thời
những sai phạm trong quản lý điều hành và quyết định kinh doanh gây thiệt hại
đến lợi ích công ty và cổ đông [24, Điều 165]. Ngoài ra khoản 2 điều 166 đã
được bổ sung nhằm mở rộng quyền tiếp cận thông tin cho BKS, theo đó, các
nghị quyết, quyết định và biên bản họp của ĐHĐCĐ, HĐQT báo cáo của (Tổng)
giám đốc hoặc các tài liệu khác do công ty phát hành phải được gửi đến cho các
thành viên BKS cùng thời điểm và theo phương thức như đối với cổ đông, thành
viên HĐQT. Mặc dù vậy, liệu BKS đã thực sự đủ khả năng tiếp cận đầy đủ mọi
thông tin về hoạt động quản lý, điều hành để có được kết quả kiểm tra một cách
chân thực và xác đáng nhất? Thực tế, BKS ở các CTCP hiện nay không được
trang bị một hệ thống thông tin quản lý đặc thù cho công việc giám sát, vì vậy rất
dễ có khả năng các thành viên BKS chỉ nhận được các thông tin như các cổ đông
bình thường khác của công ty, như vậy chưa thể hiện rõ vai trò giám sát độc lập
mà chủ sở hữu giao cho cơ quan này, thông thường, BKS chỉ dựa vào các báo
cáo định kỳ của doanh nghiệp và chỉ tiếp cận những thông tin chung mà doanh
nghiệp cung cấp cho họ. Ngoài ra, LDN còn quy định hoạt động kiểm tra, giám
sát của BKS không được cản trở hay gây gián đoạn hoạt động bình thường của
56
công ty [24, Điều 165.6], quy định này có thể là một công cụ để các cơ quan bị
kiểm tra trong công ty dễ dàng từ chối yêu cầu của BKS. Mặt khác trên thực tế,
BKS không thể theo dõi giám sát thường xuyên, liên tục mọi thời điểm, mọi hoạt
động của người quản lý để có thể phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh, phần
lớn thành viên BKS chỉ gặp nhau định kỳ hàng quý hoặc thậm chí là ít hơn. Do
vậy, khả năng ngăn ngừa sự lạm dụng quyền của người quản lý công ty vẫn chưa
thực sự hiệu quả.
Liên quan đến các báo cáo và kiến nghị của BKS nhằm thực hiện chức
năng của mình, LDN hiện hành quy định các báo cáo thẩm định của BKS thường
được trình cho ĐHĐCĐ vào mỗi kỳ họp [24, Điều 165.3]. Tuy nhiên thời gian
giữa các kỳ họp lại quá xa và như vậy khiến cho báo cáo của BKS không còn
tính thời sự. Mặt khác, tại Khoản 2 điều 171 LDN 2014 quy định CTCP công bố
các thông tin liên quan đến hoạt động công ty trong đó có báo cáo kết quả hoạt
động hằng năm của BKS trên trang thông tin điện tử “nếu có”. Như vậy, các báo
cáo của BKS không phải là tài liệu bắt buộc được đem ra xem xét khi công bố
thông tin theo pháp luật hiện hành. Trong khi đó, báo cáo của BKS là một tài
liệu quan trọng, giúp nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có cái nhìn toàn
diện về doanh nghiệp hơn khi mà các báo cáo tài chính thông thường không đề
cập đến. Bên cạnh đó, theo pháp luật hiện hành, đề xuất của BKS chỉ mới ở dạng
kiến nghị, chưa có cơ chế buộc thực thi các đề xuất hợp lý của BKS. Chức năng
cơ bản nhất thường được biết đến của BKS là giám sát và xử lý các vi phạm
trong hoạt động của bộ máy quản lý điều hành, tuy nhiên quyền hạn của BKS
theo pháp luật Việt Nam mới dừng lại ở việc: khi phát hiện thành viên HĐQT,
người quản lý công ty vi phạm nghĩa vụ, BKS chỉ có quyền thông báo ngay bằng
văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
và có giải pháp khắc phục hậu quả [24, Điều 165.8], BKS không có quyền xử lý
vi phạm. Với tư cách là cơ quan đại diện ĐHĐCĐ thực hiện chức năng giám sát
thường xuyên hoạt động của cơ quan quản lý điều hành, khi mà các cuộc họp
ĐHĐCĐ diễn ra không thường xuyên, pháp luật nên trao cho BKS có quyền
khởi kiện HĐQT cũng như người quản lý công ty hay những cổ đông khác của
công ty nếu xét thấy cần thiết để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chung của các
57
cổ đông và công ty.
Nhìn chung, thiết chế về BKS theo pháp luật doanh nghiệp hiện hành
thoạt nhìn khá đầy đủ và mạnh mẽ, tuy nhiên thẩm quyền của BKS có thể bị vô
hiệu hoá bằng nhiều thủ đoạn, cách thức khác nhau. Rõ ràng, với những vấn đề
được nêu trên, hoạt động kiểm soát của BKS chỉ còn mang tính hình thức, BKS
không được độc lập và do đó không thể phát huy hết vai trò của mình trong hoạt
động kiểm soát nội bộ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương này tìm hiểu chi tiết các quy định của LDN hiện hành về cơ chế
kiểm soát, phân chia quyền lực trong nội bộ Công ty cổ phần. Đồng thời đã phân
tích cụ thể mối quan hệ phân quyền chế ước giữa các cơ quan quyền lực trong
nội bộ công ty gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS, BKTNB nhằm khẳng định lại cơ chế
kiểm soát trong CTCP hiện nay hình thành và tồn tại phụ thuộc vào cơ cấu quản
trị nội bộ và cơ cấu cổ đông trong công ty. Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích mối
quan hệ phân quyền chế ước giữa các cơ quan quyền lực trong cơ cấu quản trị
nội bộ CTCP, đi sâu phân tích nội dung hoạt động kiểm soát của từng cơ quan
trong cơ cấu quản trị công ty theo quy định pháp luật, tác giả đã nêu ra thực
trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật vào đời sống kinh tế.
Qua việc tìm hiểu pháp luật hiện hành quy định về mối quan hệ phân
quyền chế ước, hoạt động kiểm soát của từng cơ quan quản trị trong nội bộ
CTCP. Có thể thấy, xét trên tổng thể, quy định của LDN 2014 đã có các quy
định nhằm định hướng cho các CTCP tại Việt Nam thiết lập cơ chế kiểm soát
trong nội bộ công ty, đảm bảo cho các CTCP cổ phần hoạt động đúng mục đích
và chức năng của nó, đặc biệt trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông – chủ sở
hữu công ty. Tuy nhiên, LDN 2014 vẫn có những điểm chưa hợp lý và chưa
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Các vấn đề chưa hợp lý được nêu ra tại chương
này liên quan đến: quyền kiểm soát của cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số, sự
chồng chéo khi phân định quyền kiểm soát và quyền quản lý điều hành giữa Chủ
tịch HĐQT và (Tổng) giám đốc; sự chưa rõ ràng của luật liên quan đến thành
viên HĐQT độc lập và BKTNB; hoạt động kiểm soát của BKS; chế độ tiếp cận
58
thông tin chưa hiệu quả.
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT TRONG NỘI BỘ CÔNG TY
CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM
3.1. Giải pháp pháp lý
Từ cơ sơ lý luận và thực tiễn được nêu ra về chế độ kiểm soát trong nội
bộ công ty cổ phần ở Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật nhằm xây dựng cơ
chế kiểm soát hiệu quả trong nội bộ công ty cổ phần cần lưu ý những vấn đề
như sau:
3.1.1 Hoàn thiện một số quy định nhằm tằng cường quyền kiểm soát
của cổ đông
Trong CTCP, cổ đông là các chủ sở hữu công ty, về nguyên tắc, chủ sở
hữu được quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, do
những đặc điểm riêng biệt của CTCP, các cổ đông đã chuyển một phần quyền sở
hữu của mình cho người quản lý, cổ đông chỉ tham gia quyết định những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền ĐHĐCĐ. Theo quy luật diễn biến tự nhiên như đã
được phân tích về quan hệ đại diện ở Chương 1, do sự tách bạch giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý nên thường xảy ra xung đột về lợi ích giữa người sở hữu
và người quản lý trong CTCP. Thực chất, cơ chế kiểm soát công ty chính là cơ
chế giúp cổ đông thực hiện quyền kiểm soát của chủ sở hữu đối với người thay
mặt mình quản lý, điều hành công ty. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật nhằm
tăng cường quyền kiểm soát của cổ đông là cần thiết để cổ đông tự bảo vệ quyền
lợi của mình.
Thứ nhất, như đã nêu ở Chương 2 liên quan đến nhiệm kỳ HĐQT và cơ
chế bãi miễn thành viên HĐQT và BKS, việc quy định thành viên HĐQT có thể
bị bãi miễn bất cứ lúc nào theo quyết định của ĐHĐCĐ đồng thời bỏ việc bắt
buộc bầu dồn phiếu đối với thành viên HĐQT và BKS có thể gây khó khăn cho
(nhóm) cổ đông thiểu số khi họ thực hiện quyền kiểm soát của mình. LDN 2014
59
cần sửa đổi quy định về bãi miễn thành viên HĐQT và BKS theo hướng bảo vệ
cổ đông thiểu số, phải có cơ sở và điều kiện cùng lý do bãi miễn rõ ràng chứ
không thể bãi miễn tuỳ tiện bất cứ lúc nào.
Thứ hai, do sự tách bạch về quyền sở hữu và quyền quản lý nên các chủ
sở hữu phải có thông tin đầy đủ, chính xác về tình hình hoạt động công ty để ra
quyết định. LDN 2014 hiện hành quy định khá đầy đủ về quyền được thông tin
của cổ đông. Tuy nhiên, để đảm bảo việc thực thi các quyền này của cổ đông
trên thực tế thì LDN 2014 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành cần hướng dẫn
cụ thể về điều kiện, cách thức, cơ chế để cổ đông có thể tiếp cận với các thông
tin. Bên cạnh đó, cần quy định rõ trách nhiệm của người quản lý khi người này
có hành vi ngăn cản việc tiếp cận thông tin của cổ đông, cũng như quyền khởi
kiện của cổ đông khi quyền tiếp cận thông tin hợp pháp của họ bị ngăn chặn. Các
thông tin cơ bản mà cổ đông có quyền được tiếp cận nên bao gồm: i) Thông tin
về sở hữu, cổ đông và cơ cấu sở hữu công ty; ii) thông tin về những đánh giá dự
báo của HĐQT về tiềm năng phát triển, các rủi ro có thể xảy đến với công ty và
mức độ rủi ro đó; và đặc biệt iii) thông tin về nhân thân, trình độ chuyên môn,
năng lực và uy tín của thành viên HĐQT cùng những người quản lý khác.
Nhìn chung, đồng thời với việc bổ sung các quy định của pháp luật về
quyền tiếp cận thông tin của cổ đông, thì việc nâng cao nhận thức của các CTCP,
đặc biệt là các công ty niêm yết trong việc công khai và minh bạch hoá thông tin
là cần thiết. Việc công bố và minh bạch hoá thông tin không chỉ là quy định bắt
buộc của pháp luật đối với công ty mà còn phát sinh từ nhu cầu phát triển công
ty, công ty chủ động công bố thông tin sẽ góp phần nâng cấp hiểu biết cho các cổ
đông, giúp cổ đông hiểu biết được hoạt động và cơ cấu công ty, dễ dàng kiểm
soát công ty và củng cố niềm tin đối với công ty. CTCP nói riêng và doanh
nghiệp nói chung cần xây dựng một hệ thống công bố thông tin đa dạng, phù
hợp, đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời giúp các nhà đầu tư dễ dàng
tiếp cận mà không gặp phải bất cứ trở ngại nào.
3.1.2. Bãi bỏ quy định chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc
Những bất cập về vấn đề Chủ tịch HĐQT có thể kiêm (Tổng) giám đốc
60
công ty như đã được trình bày ở Chương 2 cho thấy rằng quy định này là không
hợp lý, gây cản trở cho hoạt động tổ chức quản lý cũng như kiểm soát nội bộ
công ty. Vì vậy, việc sửa đổi bổ sung theo hướng tạo sự tách bạch giữa chức
danh Chủ tịch HĐQT và (Tổng) giám đốc là cần thiết để đảm bảo sự cân bằng
quyền lực, tính hiệu quả trong việc kiềm chế đối trọng nhau giữa các cơ quan
trong nội bộ công ty, đồng thời tạo sự thuận lợi khi truy cứu trách nhiệm người
có liên quan nếu xảy ra vi phạm nghĩa vụ. Khoản 1 điều 152 Luật Doanh nghiệp
2014 nên bỏ hoàn toàn quy định Chủ tịch HĐQT có thể kiêm nhiệm chức danh
(Tổng) giám đốc công ty chứ không phải chỉ loại trừ một số trường hợp như hiện
nay để tránh tình trạng phân quyền chế ước chồng chéo nhau, gây nhầm lẫn khi
công ty đi vào hoạt động.
3.1.3. Bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền thành viên HĐQT
độc lập
Việc quy định thành viên HĐQT độc lập là một xu hướng tiến bộ đã được
áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, việc quy định thành viên HĐQT theo pháp
luật hiện hành là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2014 mới chỉ
quy định việc phải có thành viên HĐQT độc lập là yêu cầu bắt buộc khi lựa chọn
mô hình quản trị CTCP không có BKS, những quy định cụ thể hơn về loại thành
viên này chưa được đề cập.
LDN 2014 chưa định nghĩa thế nào là “thành viên HĐQT độc lập”, thuật
ngữ này mới chỉ được quy định rải rác và chưa đầy đủ ở một số văn bản hướng
dẫn LDN 2005 như: Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2009 về tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại, Thông tư 121/2012/TT-BTC
ngày 26/07/2012 quy định về quản trị công ty áp dụng cho công ty đại chúng,
v.v. Nếu đã quy định bắt buộc về thành viên HĐQT độc lập thì đạo luật mang
tính hướng dẫn chung như Luật doanh nghiệp phải có định hướng rõ ràng về
khái niệm này. Do vậy, khái niệm “thành viên HĐQT độc lập” phải được đưa
vào giải thích rõ ràng trong Luật doanh nghiệp 2014 để xác định được cụ thể vị
trí của loại thành viên này trong mối quan hệ phân quyền chế ước với các cơ
61
quan quyền lực trong nội bộ công ty.
Bên cạnh đó, liên quan đến thẩm quyền của thành viên HĐQT độc lập,
thẩm quyền của thành viên HĐQT độc lập theo Luật doanh nghiệp hiện hành
được đồng nhất với thẩm quyền chung của HĐQT. Tuy nhiên, Luật doanh
nghiệp nên xác định thêm thẩm quyền riêng biệt của thành viên HĐQT độc lập,
đặc biệt là trong mối quan hệ giám sát, kìm chế đối trọng với các thành viên điều
hành thuộc HĐQT. Bởi mục đích cốt yếu của việc quy định thành viên độc lập là
nhằm kiểm soát hoạt động của thành viên điều hành, cũng như kiểm soát hoạt
động của các cơ quan quản lý điều hành khác. Theo cá nhân người viết, thẩm
quyền riêng biệt của thành viên độc lập HĐQT nên được phân định theo hướng
đảm bảo được 5 quyền cơ bản như sau:
Thứ nhất, thành viên HĐQT độc lập giám sát hoạt động của HĐQT, giám
đốc, tổng giám đốc trong việc quản lý, điều hành công ty.
Thứ hai, rà soát, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ
cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, rà soát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro và cảnh báo sớm cho công ty.
Thứ tư, có quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp
ĐHĐCĐ, HĐQT và các cuộc họp khác của công ty.
Thứ năm, có quyền kiến nghị HĐQT hoặc ĐHĐCĐ các biện pháp sửa
đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý giám sát và điều hành hoạt động
kinh doanh của công ty.
Thứ sáu, khi phát hiện vi phạm nghĩa vụ của thành viên HĐQT, giám đốc,
tổng giám đốc, hoặc người quản lý điều hành khác, phải thông báo ngay bằng
văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi
phạm, nếu xét thấy cần thiết, có quyền khởi kiện HĐQT cũng như người quản lý
công ty để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chung của các cổ đông và công ty.
3.1.4. Bổ sung quy định liên quan đến Ban kiểm toán nội bộ trực
thuộc HĐQT
Như đã trình bày ở chương 2, hiện nay tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm
62
toán nội bộ cũng như nhiệm vụ quyền hạn của Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc
HĐQT chưa được quy định cụ thể trong LDN 2014. Do vậy việc bổ sung quy
định về Ban kiểm toán là cần thiết và phải đảm bảo xác định rõ vị trí của cơ quan
này trong HĐQT mà đặc biệt là trong mối quan hệ với thành viên HĐQT độc
lập.
Liên quan đến tiêu chuẩn thành viên BKTNB, có thể quy định tiêu chuẩn
thành viên BKS tương tự như tiêu chuẩn thành viên HĐQT độc lập mà LDN
hiện hành quy định. Tuy nhiên nên xác định rõ thành viên BKS có thể là thành
viên HĐQT độc lập hay không? Theo cá nhân người viết, thành viên HĐQT độc
lập vẫn có thể là thành viên của Ban kiểm toán bởi vai trò kiểm soát của họ trong
công ty, chỉ có điều, thành viên Ban kiểm toán có thể được yêu cầu phải có
chuyên môn về lĩnh vực kế toán kiểm toán hoặc lĩnh vực có liên quan nên không
phải mọi thành viên HĐQT đều có thể làm thành viên Ban kiểm toán. Dù sao,
nếu tinh thần điều luật đã quy định rõ thiết lập cả thành viên HĐQT độc lập và
Ban kiểm toán nội bộ cùng trực thuộc HĐQT thì nên tách biệt hai loại thành viên
này với nhau để tránh việc chồng chéo, nhầm lẫn nhiệm vụ quyền hạn khi thiết
lập và vận hành các chủ thể này trong hoạt động công ty.
Về nhiệm vụ quyền hạn của BKTNB, do mô hình BKTNB trực thuộc
HĐQT và thành viên độc lập HĐQT chỉ tồn tại trong CTCP không thành lập
BKS nên cần phân định hợp lý thẩm quyền của BKS cho hai cơ quan này, đồng
thời, thẩm quyền của BKTNB và thẩm quyền của thành viên HĐQT độc lập phải
được phân định rõ ràng. Trước khi quy định về nhiệm vụ quyền hạn của
BKTNB, LDN hoặc những văn bản hướng dẫn thi hành cần giải thích rõ thế nào
là “kiểm toán nội bộ”, việc giải thích khái niệm KTNB nhằm hướng đến cách
hiểu thống nhất, xác định rõ phạm vi hoạt động của lĩnh vực này, phân biệt với
hoạt động kiểm soát khác, đồng thời có định hướng khi thiết lập nhiệm vụ quyền
hạn cho chủ thể thực hiện nó.
BKTNB trực thuộc HĐQT có thể được phân định nhiệm vụ quyền hạn cơ
bản sau:
Thứ nhất, kiểm tra tính thống nhất, nhất quán và phù hợp của công tác kế
63
toán, thống kê, và lập báo cáo tài chính.
Thứ hai, thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình
hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và 6 tháng của công ty.
Thứ ba, kiểm tra việc tuân thủ nguyên tắc hoạt động quản lý, việc tuân thủ
pháp luật, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của lãnh
đạo đơn vị kế toán.
Thứ tư, phát hiện những sơ hở yếu kém, gian lận trong quản lý, bảo vệ tài
sản của đơn vị, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý
điều hành hoạt động của đơn vị kế toán.
Thứ năm, khi phát hiện vi phạm nghĩa vụ đơn vị kế toán, phải thông báo bằng
văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm.
Hoạt động của BKTNB nên được kiểm soát bởi thành viên HĐQT độc lập.
Ngoài ra, LDN hoặc các văn bản hướng dẫn thi hành có thể quy định một
số thẩm quyền chung của thành viên HĐQT độc lập và Ban kiểm toán như: thực
hiện yêu cầu của nhóm cổ đông thiểu số, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác
nếu điều lệ quy định, sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện nhiệm vụ được giao.
3.1.5. Bảo đảm tính độc lập và tính thực thi quyền kiểm soát của Ban
kiểm soát
Nhìn chung LDN đã tạo điều kiện đảm bảo tính độc lập của BKS trong
mối quan hệ với các cơ quan quyền lực khác. Cụ thể là thành viên BKS không
được giữ chức vụ quản lý công ty, thù lao của BKS được quyết định bởi
ĐHĐCĐ. LDN không cấm thành viên BKS là người lao động công ty nên khả
năng một người lao động đồng thời là cổ đông sẽ được ĐHĐCĐ bầu làm thành
viên BKS. Ở đây cần phải hiểu rằng tại thời điểm được bầu làm thành viên BKS,
thành viên này không còn là người lao động công ty mà hoạt động độc lập với
HĐQT và BĐH. Tuy nhiên, như đã đề cập ở Chương 2, thành viên BKS được
bầu cử thường được những cổ đông lớn đề cử và có quan hệ thân quen với thành
viên HĐQT và chịu nhiều phụ thuộc với HĐQT, do đó cần đặt ra tiêu chuẩn cụ
thể và giám sát chặt chẽ việc áp dụng tiêu chuẩn, điều kiện của thành viên BKS
từ khi ứng cử đến hết nhiệm kỳ nhằm đảm bảo vị trí độc lập của thành viên BKS
64
trong thực hiện thẩm quyền và nhiệm vụ được giao.
Chúng ta có thể học hỏi pháp luật công ty Nhật Bản về chế độ KSV từ bên
ngoài, LDN 2014 nên bổ sung tại điều 164 nhằm nâng cao tính độc lập, khách
quan của BKS bằng việc quy định thêm về tỷ lệ thành viên BKS bắt buộc là
người ngoài công ty hoặc không đồng thời là người lao động công ty nhằm giảm
bớt áp lực trong quá trình giám sát của BKS do phụ thuộc và chịu sự chi phối
của HĐQT, từ đó nâng cao tính độc lập của họ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý chế độ
này có thể có mặt tiêu cực, khi mà KSV từ bên ngoài vào nếu so với người bên
trong công ty thì họ có ít hiểu biết về hoạt động công ty, thành viên trong công ty
có xu hướng ít cung cấp thông tin cho những người này, hơn nữa KSV bên ngoài
có thể kiêm nhiệm hoạt động tại các công ty khác nên không nhiều thời gian để
thực hiện hoạt động giám sát. Nhưng dù sao, những hạn chế này dễ dàng có thể
khắc phục nếu công ty có chế độ đãi ngộ tốt với họ, nhân tố KSV bên ngoài sẽ
có tác dụng thúc đẩy, tham vấn, bổ trợ đối với hoạt động của thành viên BKS
còn lại, đảm bảo tính độc lập của BKS.
Không nên quy định tính trực thuộc của BKS vào HĐQT như vấn đề
thường xuyên thông báo và tham khảo ý kiến của HĐQT [24, Điều 165.6,
165.11], Luật chỉ nên dừng lại ở việc quy định nghĩa vụ thông báo cho HĐQT
biết những vấn đề thật sự cần thiết trước khi trình lên ĐHĐCĐ, điều này sẽ hạn
chế sự phụ thuộc của BKS vào HĐQT, đảm bảo tính độc lập và khách quan
trong hoạt động, đánh giá của BKS, tránh việc HĐQT thâu tóm, mua chuộc
thành viên BKS nhằm bưng bít, xoá dấu vết những giao dịch tư lợi gây tổn thất
cho cổ đông và công ty.
Việc quy định về thù lao của BKS cần rõ ràng. Vấn đề thù lao, đãi ngộ đối
với BKS là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của cơ quan
này, xét cho cùng đa số họ là người lao động trong công ty nhưng phải kiểm soát
lại những người trực tiếp quyết định thu nhập của họ, điều này là một khó khăn
lớn. Pháp luật nên đưa ra những quy định mang tính định hướng liên quan đến
việc công khai thù lao cho thành viên BKS, cách thức hưởng thù lao cũng như
những chế độ đãi ngộ cần thiết khác cho họ, và chế độ thù lao của BKS nên được
65
xem xét độc lập với đề xuất của HĐQT. LDN cần có những quy định định
hướng để đảm bảo rằng, thành viên BKS không còn gặp trở ngại, áp lực trong
hoạt động thực thi trách nhiệm của mình.
Như đã phân tích tại Chương 2, theo quy định của LDN, BKS có nghĩa vụ
trình báo cáo, thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của HĐQT và
BĐH trước ĐHĐCĐ, nhưng thông thường ĐHĐCĐ chỉ họp 1 năm một lần, bản
thân báo cáo sẽ không còn tính thời sự. Để khắc phục điều này, pháp luật đã định
ra yêu cầu các CTCP phải công bố các báo cáo của BKS trên trang thông tin điện
tử của mình nếu có, quy định này mang tính tuỳ nghi bởi không phải CTCP nào
cũng có trang thông tin điện tử. Tuy nhiên theo cá nhân người viết, các báo cáo
của BKS có ý nghĩa quan trọng khi thực hiện quyền kiểm soát công ty của cổ
đông, nó giúp các cổ đông nắm bắt được tình hình công ty nên các thông tin này
phải được cập nhật thường xuyên, đáp ứng tính thời sự, giúp các cổ đông kịp
thời xem xét chấn chỉnh lại hoạt động của HĐQT, BGĐ, đưa công ty trở lại hoạt
động bình thường, có hiệu quả, vì lợi ích tốt nhất của cổ đông, do đó bên cạnh
hình thức công bố thông tin trên trang thông tin điện tử mang tính tuỳ nghi, cần
phải quy định việc thiết lập các hình thức khác về công bố thông tin thường
xuyên của CTCP và điều này nên mang tính bắt buộc.
Liên quan đến thẩm quyền của BKS, LDN nên trao thêm quyền năng đại
diện khởi kiện cho BKS khi xét thấy cần thiết nếu phát hiện có vi phạm nghĩa vụ
của HĐQT và BGĐ. Theo thông lệ ở nhiều nước, thành viên BKS có quyền đại
diện cho công ty khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với vi phạm của
thành viên HĐQT và BGĐ. Chẳng hạn, Luật công ty Nhật Bản quy định quyền
khởi kiện yêu cầu truy cứu trách nhiệm của thành viên HĐQT (Điều 386), nghĩa
vụ của BKS trong việc thông báo khởi kiện (Điều 847 khoản 4). Mặc dù theo
pháp luật hiện hành, BKS được trao cho các thẩm quyền kiểm soát bất cứ lúc
nào theo yêu cầu của cổ đông và nhóm cổ đông nhưng việc kiểm soát này chỉ
giới hạn ở hoạt động đề xuất kiến nghị và thực tế việc kiến nghị này chưa đem
lại hiệu quả trong việc chấn chỉnh lại hoạt động của các cơ quan quản trị. Rõ
ràng BKS có lợi thế hơn các cổ đông trong việc kiểm soát thường xuyên hoạt
66
động của HĐQT và BGĐ cùng những người quản lý khác trong công ty, do vậy,
việc trao cho cơ quan này thẩm quyền đại diện khởi kiện là cần thiết, giúp phát
huy vai trò thực thi kiểm soát của BKS trong CTCP.
3.1.6. Bổ sung quy định về xác định trách nhiệm của ĐHĐCĐ trong
việc xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế kiểm soát nội bộ công ty
Một điều dễ nhận thấy là cơ chế kiểm soát quyền lực nội bộ nếu không
được đầu tư đúng mức và vận hành không hiệu quả rất dễ dẫn đến xảy ra tranh
chấp nội bộ giữa các thành viên, giữa thành viên với công ty. Tuy nhiên, hiện
nay, vấn đề tự chịu trách nhiệm của các thành viên công ty với tư cách là chủ sở
hữu công ty trước những tranh chấp do chính họ tạo ra vẫn chưa được chú trọng
từ cả hai phía. Khi tranh chấp xảy ra, các bên thường đưa vụ việc ra ngoài công
ty bằng việc khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện tại các cơ quan tài phán và theo
đuổi đến cùng trình tự tố tụng do các thiết chế bên ngoài công ty thực hiện, gánh
nặng pháp lý chưa tự giải quyết mà đẩy sang cho xã hội. Trong cơ cấu tổ chức
nội bộ công ty, ĐHĐCĐ được xác định là cơ quan quyết định cao nhất của công
ty, với tư cách đó, ĐHĐCĐ cần phải được xác định là cơ quan có thẩm quyền,
có trách nhiệm xác lập cơ chế KSNB và giải quyết tranh chấp nội bộ công ty.
Liên quan đến vấn đề này, LDN 2014 chưa có quy định cụ thể ngoài một quy
phạm tại Điều 135, theo đó ĐHĐCĐ có quyền “xem xét và xử lý các vi phạm
của HĐQT, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty” [21].
Trong tổ chức và quản trị công ty, những sai lệch, bất đồng giữa các chủ thể là
một hiện tượng khách quan và cần được giải quyết, vấn đề hiệu quả và ý nghĩa
của việc giải quyết phụ thuộc rất nhiều vào tính đáp ứng kịp thời của cơ quan
giải quyết, xử lý mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ. Cơ chế KSNB công ty được
tổ chức và vận hành tốt vừa nhằm hạn chế sai lệch, mâu thuẫn phát sinh, vừa
nhằm giải quyết tranh chấp trong nội bộ công ty từ sớm, ngay từ khi tranh chấp
mới phát sinh, vừa nhằm bảo vệ kịp thời quyền lợi chính đáng của các bên, vừa
góp phần ngăn chặn tranh chấp bùng phát. Cơ chế KSNB và giải quyết tranh
chấp trong công ty được xác định tự phát và tuỳ nghi như hiện nay chưa thực sự
tạo điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu này. Việc xác định cơ chế kiểm soát và
67
giải quyết tranh chấp trong nội bộ công ty chưa được pháp luật nhìn nhận như là
một cơ chế tất yếu và quan trọng trong tổ chức và hoạt động công ty. Trong cơ
chế KSNB, việc thiết lập một cơ quan có thẩm quyền trực thuộc chỉ đạo của
ĐHĐCĐ, có chức năng độc lập với các bộ phận quản lý khác để thực hiện nhiệm
vụ kiểm soát công ty và giải quyết tranh chấp trong nội bộ là vấn đề cần phải
được xác định rõ cả trong nhận thức của cổ đông trong công ty và sự bảo đảm
của các cơ quan công quyền, trong đó có sự ghi nhận của luật pháp. Trên thực tế,
cơ chế kiểm soát việc phân chia và vận hành quyền lực tại các công ty hiện nay
chưa được đầu tư đúng mức đã dẫn đến xuất hiện ngày càng nhiều các vụ tranh
chấp trong nội bộ công ty, trong tương lai gần, pháp luật cần có những quy định
cụ thể định hướng cho doanh nghiệp thiết lập và thực hiện có hiệu quả cơ chế
kiểm soát nội bộ, pháp luật cần xác định những vấn đề về nguyên tắc, trình tự
thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm của công ty trong việc tổ chức và thực hiện cơ
chế kiểm soát và giải quyết tranh chấp nội bộ.
3.2. Giải pháp khác
3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, hiểu biết pháp luật của thành viên
kiểm soát trong CTCP
Luật Doanh nghiệp 2014 đã có quy định khá cụ thể về điều kiện của thành
viên BKS tại điều 163, 164. Một trong những điều kiện về chuyên môn được xác
định đối với Trưởng Ban kiểm soát “phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên
chuyên nghiệp” hoặc đối với công ty niêm yết, công ty do Nhà nước nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ thì kiểm soát viên “phải là kiểm toán viên hoặc kế toán
viên”. Có thể thấy, quy định của pháp luật hiện hành đã thực sự chú trọng đến
năng lực kiểm tra, giám sát về tài chính của BKS. Tuy nhiên, KSNB công ty là
hoạt động liên quan trực tiếp đến nhiều nội dung về tổ chức và quản trị công ty,
về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong tổ chức và quản lý công ty. Bởi thế
pháp luật cần có quy định xác định rõ trình độ hiểu biết pháp luật tối thiểu của
thành viên Ban kiểm soát và những người tham gia vào hoạt động kiểm soát nội
bộ công ty.
Bên cạnh việc bổ sung quy định pháp luật về chuyên môn bắt buộc, bản
68
thân thành viên BKS hay thành viên HĐQT độc lập cũng như thành viên Ban
kiểm toán với vai trò giám sát độc lập phải thường xuyên tự rèn luyện, nâng cao
trình độ chuyên môn để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ kiểm tra giám sát của
mình. Đồng thời, bản thân CTCP nên xây dựng và triển khai các chương trình
đào tạo dành riêng cho thành viên kiểm soát để họ có điều kiện bổ sung, không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu liên quan đến
vị trí công việc.
3.2.2. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của cơ quan
kiểm soát trong CTCP
Qua việc phân tích nội dung cơ chế kiểm soát trong CTCP nói chung, có
thể nhận thấy BKS trong mô hình quản trị CTCP song cấp hay thành viên HĐQT
độc lập trong mô hình quản trị CTCP đơn cấp là những thiết chế cần được chú
trọng nhất trong CTCP theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Thế nhưng trên thực
tế, nhiều CTCP hiện nay lập ra BKS hay thành viên HĐQT độc lập chỉ mang
tính hình thức để đáp ứng đủ yêu cầu của luật, chính các cổ đông không nhận
thức được đúng vai trò của các cơ quan này. Các cơ quan kiểm soát này được ví
như “cánh tay nối dài” của ĐHĐCĐ, trong khi ĐHĐCĐ chỉ họp một hoặc hai lần
trong năm thì việc lập ra BKS hay thành viên HĐQT độc lập sẽ giúp kiểm soát
thường xuyên hoạt động của bộ máy quản lý điều hành, phát hiện và bảo vệ kịp
thời lợi ích của các cổ đông và công ty. Các cổ đông khi xây dựng điều lệ công
ty cần nhận thức đúng và thiết lập phân bổ quyền hạn giám sát rõ ràng cho cơ
quan này, xây dựng các chính sách đãi ngộ phù hợp, đảm bảo họ hoạt động một
cách độc lập, mẫn cán trong quan hệ với các cơ quan quyền lực khác đặc biệt là
HĐQT và BGĐ.
Về phía HĐQT hay BGĐ, các cơ quan này cần nhận thức được vị trí của
BKS trong CTCP nói chung và trong mối quan hệ quyền lực với họ nói riêng.
Thực tế tại các CTCP hiện nay đang có sự nhầm lẫn ngay trong nhận thức của
ban quản lý điều hành công ty. Họ không biết, vô tình hay hữu ý quên rằng BKS
có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động của họ. Họ chỉ coi cơ quan này như
một phòng ban trong công ty và nằm dưới quyền hạn của mình. Hơn nữa, bản
69
thân BKS hay thành viên HĐQT độc lập cũng chỉ coi bản thân được các cơ quan
quản lý cân nhắc đề bạt lên chứ không nhận thức rõ vị trí, nhiệm vụ quyền hạn
của mình.
Như vậy bản thân các thiết chế nội bộ công ty nếu có những nhận thức
không đúng đắn và đầy đủ, xem nhẹ vai trò của BKS hoặc thành viên HĐQT độc
lập sẽ khiến các chủ thể này hoạt động một cách hời hợt, hoạt động mang tính
hình thức và không hiệu quả.
3.2.3. Nâng cao ý thức xây dựng hệ thống công khai hoá và minh bạch
thông tin của doanh nghiệp
Công khai hoá thông tin là việc công bố thông tin cần thiết liên quan đến
hoạt động công ty ra công chúng nhằm đáp ứng được nhu cầu quản lý của Nhà
nước và nhu cầu tìm kiếm thông tin của các tổ chức cá nhân.
Minh bạch thông tin là việc cung cấp các thông tin cần thiết về hoạt động
công ty một cách đầy đủ, nhất quán, kịp thời và đáng tin cậy theo cách thức mà
các chủ thể có nhu cầu có thể tiếp cận một cách thuận tiện nhất.
Đồng thời với việc bổ sung các quy định của Luật liên quan đến chế độ
công khai hoá và minh bạch thông tin trong các CTCP, thì việc nâng cao ý thức
của các công ty trong việc tự nguyện thực hiện chế độ minh bạch thông tin và
công khai hoá thông tin là rất cần thiết. Việc minh bạch thông tin và công khai hoá
thông tin giúp nâng cao hiểu biết của các cổ đông về cơ cấu và hoạt động công ty,
một hệ thống thông tin tốt sẽ đảm bảo cho cổ đông tiếp cận thông tin một cách đầy
đủ, chính xác và kịp thời, giúp cổ đông nắm bắt kiểm soát được hoạt động công
ty, đặc biệt là nguồn vốn đã đầu tư, từ đó gây dựng được niềm tin từ phía cổ đông
đối với hoạt động công ty, thu hút nguồn vốn và duy trì lòng tin của thị trường.
Ngược lại nếu công ty có hệ thống thông tin yếu kém và không minh bạch sẽ dẫn
đến việc dễ dàng xảy ra những vi phạm ngoài tầm kiểm soát, gây thiệt hại không
chỉ cho cổ đông mà còn tới thị trường, suy giảm nền kinh tế, khi đã mất niềm tin
thị trường, hoạt động doanh nghiệp đi xuống và tự bị đào thải. Do vậy, mỗi công
ty phải ý thức được ý nghĩa của việc công khai và minh bạch hoá thông tin đối với
sự tồn tại và phát triển thịnh vượng của mình. Các CTCP cổ phần nên xây dựng
cho mình đa dạng các kênh thông tin cần thiết đảm bảo thông tin được công bố và
70
cung cấp một cách kịp thời, chi tiết và chính xác.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích lý luận về cơ chế kiểm soát và thực
tiễn hoạt động kiểm soát trong CTCP theo Luật doanh nghiệp 2014, tại chương
này, người viết đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, định hướng nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan. Các giải pháp, định hướng này tập trung
giải quyết các vấn đề liên quan đến thực thi quyền kiểm soát của cổ đông; sự
chồng chéo khi phân định nhiệm vụ quyền hạn đặc biệt giữa quyền kiểm soát và
quản lý điều hành; những quy định cần phải bổ sung mà pháp luật hiện hành
chưa đề cập: thẩm quyền thành viên độc lập HĐQT, tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền
hạn của BKTNB; vấn đề kiểm soát độc lập của BKS; chế độ công khai minh
bạch hoá thông tin.
Nhìn chung, sự hoàn thiện về mặt pháp luật liên quan đến hoạt động công
ty luôn luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật công ty phải được xác
định là một quá trình liên tục, lâu dài, với những bước đi và giải pháp thích hợp.
Hoàn thiện các quy định về kiểm soát nội bộ công ty cổ phần một mặt nhằm
khắc phục kịp thời những khó khăn cho việc tổ chức vận hành công ty, mặt khác
nhằm tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu
71
kiểm soát hiệu quả, ổn định lâu dài của các công ty cổ phần.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài “Cơ chế kiểm soát trong nội bộ công
ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, chúng tôi rút ra một số kết luận
như sau:
Thứ nhất, cơ chế kiểm soát nội bộ là một vấn đề quan trọng của quản trị
công ty, chính cách quản trị tạo nên cơ chế phân quyền kiểm soát trong nội bộ
công ty cổ phần. Việc thiết lập mô hình quản trị một phần chính là nhằm tạo cơ
sở cho việc thiết lập cơ chế kiểm soát phân chia quyền lực trong nội bộ công ty.
Thứ hai, Luật doanh nghiệp 2014 đã có khá đầy đủ các quy định nhằm
định hướng cho các CTCP tại Việt Nam thiết lập cơ chế kiểm soát trong nội bộ
công ty. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn còn những điểm chưa hợp lý và phù hợp
với thực tiễn. Để phù hợp với sự phát triển đa dạng của CTCP, LDN 2014 cần
tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, đồng bộ hoá với các văn bản hướng dẫn chuyên
ngành để nâng cao hiệu quả thi hành.
Thứ ba, nhìn chung, sự hoàn thiện về mặt pháp luật liên quan đến hoạt
động công ty trong nền kinh tế thị trường chỉ có tính tương đối, đặc biệt là đối với
loại hình công ty phức tạp như CTCP với sự phát triển ngày càng đa dạng của nó.
Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật công ty cổ phần phải được xác định
là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp phù hợp.
Từ những phân tích lý luận, đánh giá các vấn đề pháp lý liên quan, dựa
trên những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, định hướng của Đảng và Nhà nước
cùng những tri thức đã được lĩnh hội về pháp luật doanh nghiệp. Khóa luận đã đề
xuất một số giải pháp và định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam về cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ CTCP với mong muốn
được đóng góp một phần nào đó vào công cuộc hoàn thiện và phát triển pháp
luật về CTCP tại Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình
72
công ty này, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài chính (2007) Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13-3-2007 Về việc
ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch
Chứng khoán/ Trung tâm giao dịch Chứng khoán.
2. Bộ tài chính (2012), Thông tư 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 của BTC
Quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng thay thế
Quyết định số 12/2007/QĐ – BTC.
3. Bộ tài chính (2011), Thông tư 44/2011/TT-NHNN Quy định về hệ thống kiểm
soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài.
4. Nguyễn Ngọc Bích Nguyễn Đình Cung, (2009), Công ty - vốn, quản lý và
tranh chấp theo Luật doanh Nghiệp 2005, Nxb. Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Ngọc Bích, (2005). Chế độ kiểm soát nội bộ trong công ty, Thời báo
kinh tế Sài Gòn.
6. Ngô Huy Cương, (2013), Giáo trình Luật thương Mại phần chung và thương
nhân, Nxb.Đại học quốc gia Hà nội, Hà Nội.
7. Chính phủ Việt Nam (2006), Nghị quyết 71 năm 2006 Phê chuẩn Nghị định
thư gia nhập hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới WTO và Công
văn 71 năm 2007 về việc áp dụng Nghị quyết 71.
8. Chính phủ Việt Nam (2009), Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm
2009 Quy định về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại.
9. Chính phủ Việt Nam (2010), Nghi định 102/2010/NĐ-CP ngày 15/11/2010
Hướng dẫn chi tiết thi hành Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005.
10. Mạn Đình, (2015). Vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong các
công ty cổ phần. Tạp chí khoa học và đào tạp ngân hàng, số 163, tháng 12.
11. Trần Lương Đức, (2006), Chế độ pháp lý về quản trị Công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật (ĐHQG Hà Nội),
73
Hà Nội.
12. Bùi Xuân Hải, (2008), So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của Công ty cổ phần
Việt Nam với các mô hình điển hình trên thế giới,
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/02/965/ [Ngày truy cập: 13/3/2017].
13. Nguyễn Thị Lan Hương, (2009), “Một số so sánh về Công ty cổ phần theo
Luật công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Luật học 25.
14. Nguyễn Thị Lan Hương, (2013), Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh
nghiệp, Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia.
15. Trần Thành Long (2012), Ban kiểm soát trong quản trị nội bộ công ty cổ
phần theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa
luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
16. Hoàng Thị Mai (2015), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ
phần, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
17. Lưu Tiến Ngọc (2002), Pháp luật về quản lý nội bộ trong Công ty cổ phần ở
Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
18. Ngô Viễn Phú, (2005), Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phẩn theo
pháp luật CHXHCNVN và Pháp luật Cộng hoà Nhân dân Trung hoa, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
19. Trần Trí Trung (2012), Nguyên tắc xây dựng và thực hiện chế định tổ chức
lại Doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh Nghiệp, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Luật học 28.
20. Trần Trí Trung (2015), Bài giảng môn Luật Thương Mại 1, Khoa Luật
ĐHQGHN.
21. Trần Trí Trung (2016), Tranh chấp và giải quyết tranh chấp giữa các thành
viên, giữa thành viên với công ty theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
22. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OEDC), (2004), Các nguyên tắc quản
trị công ty của OEDC.
23. Quốc hội Việt Nam (2005), Luật doanh nghiệp 2005.
74
24. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật doanh nghiệp 2014.
25. William H. Meckling, Michael C. Jensen, October, 1976. Theory of the
Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure, Journal
of Financial Economics, V. 3, No. 4, pp. 305-360.
26. John Armour, Henry Hansmann, Reinier Kraakman, 7/2009. Agency
Problems, Legal Strategies and Enforcement, Harvard John M.Olin Center
for Law, Economics, and Business, Discussion Paper No. 644.
27. Website:
(1)https://home.kpmg.com/content/dam/kpmg/pdf/2016/05/2750-New-COSO-
2013-Framework-WHITEPAPER-V4.pdf [Ngày truy cập: 11/03/2017].
(2) Free Advice Legal [ Ngày truy cập: 10/03/2017]
http://business-law.freeadvice.com/business-
75
law/corporations/organizational_structure.htm#ixzz4aXNxY7DW