ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Minh Trang

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, NGHIÊN

CỨU TẠI CÁC LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI, 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- Nguyễn Minh Trang QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, NGHIÊN

CỨU TẠI CÁC LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. MAI HẢI ĐĂNG

HÀ NỘI, 2016

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. 5

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 6

1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 6

2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 8

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 12

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................. 13

7. Kết cấu khóa luận ................................................................................... 14

PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 15

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG .................................................................. 15

1.1 Một số khái niệm ................................................................................... 15

1.1.1 Môi trường ....................................................................................... 15

1.1.2 Pháp luật bảo vệ môi trường ........................................................... 16

1.1.3 Nguồn pháp luật về bảo vệ môi trường .......................................... 17

1.2 Làng nghề và vai trò của bảo vệ môi trường làng nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................................. 22

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, THỰC TRẠNG TẠI MỘT SỐ LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI ...................................................................................... 27

2.1 Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường .......................................... 27

2.1.1 Bảo vệ môi trường các làng nghề ................................................... 27

2.1.2 Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường các làng nghề .................... 34

2.2 Thực trạng môi trường và áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường tại một số làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà Nội ................................................. 40

2.2.1 Hiện trạng môi trường ..................................................................... 40

2.2.2 Việc áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường..................................... 54

2.3 Kết quả đạt được và một số tồn tại ..................................................... 60

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ........................................................................................................ 67

3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường ............... 67

3.2 Một số đề xuất và kiến nghị ................................................................. 70

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 80

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

The Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các nước Đông Nam Á)

BLDS Bộ luật dân sự

BLHS Bộ luật hình sự

BVMT Bảo vệ môi trường

Bộ/ Sở TN&MT Bộ/ Sở Tài nguyên và Môi trường

CNTT Công nghệ thông tin

CSDL Cơ sở dữ liệu

ĐTM

NGOs

Đánh giá tác động môi trường Non – governmental – organizations (Các tổ chức phi chính phủ)

NSTP Nông sản thực phẩm

ÔNMT Ô nhiễm môi trường

QCCP Quy chuẩn cho phép

QCVN Quy chuẩn môi trường

QPPL Quy phạm pháp luật

TCVN Tiêu chuẩn môi trường

TT Thứ tự

UBND Ủy ban nhân dân

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ô nhiễm môi trường đã, đang và sẽ là mối quan tâm chung của cộng đồng.

Hiện tường này đang ngày một gia tăng và tác động tiêu cực ngày càng rõ nét ở sự

biến đổi khí hậu, theo kết quả nghiên cứu về tổng thiệt hại của nền kinh tế nước ta

trong thời gian qua do ÔNMT gây ra, tối thiểu chiếm từ 1,5-3% GDP. Ngoài ra mỗi

năm Việt Nam còn phải chịu thiệt hại tới 780 triệu USD trong các lĩnh vực chăm sóc

sức khỏe cộng đồng vì ÔNMT1. Kinh nghiệm từ các nước phát triển đã cho thấy, quá

trình phát triển kinh tế mà không quan tâm đến các vấn đề môi trường sẽ đưa ra hiệu

quả kinh tế thấp, chi phí cho các hoạt động xử lý ô nhiễm sẽ cao hơn chi phí đầu tư

cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm.

Ô nhiễm môi trường sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy to lớn, bao gồm cả ô nhiễm

thực phẩm, tuy nhiên, chính thực phẩm chế biến bởi cách thức “bẩn” thì cũng sẽ tạo ra

các tác động xấu đến môi trường. Thực phẩm là nguồn chính để nuôi sống con người

và cũng đồng thời là mối quan tâm hàng đầu trong đời sống sinh hoạt của mỗi cá

nhân. Những năm vừa qua, làng nghề chế biến thực phẩm phát triển khá mạnh mẽ và

đóng góp phần đáng kể cho phát triển kinh tế tại địa phương. Nhiều sản phẩm của các

làng nghề được bạn bè quốc tế biết đến và được xuất khẩu mạnh. Việc phát triển làng

nghề nhất là làng nghề chế biến thực phẩm đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm

truyền thống có giá trị kinh tế, sử dụng tối đa nguồn lao động tại địa phương. Đời

sống nông dân nhiều vùng có làng nghề đã được nâng cao hơn nhờ sự phát triển của

làng nghề. Tuy nhiên chính về việc ưu tiên phát triển kinh tế tại địa phương mà nhiều

nơi có làng nghề phải đối mặt với tình trạng ÔNMT đáng báo động.

Vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề đang rất được xã hội

hiện nay quan tâm. Hàng loạt các vụ việc về bún chứa nhiều hàn the, sản phẩm nông

1 Ô nhiễm gây thiệt hại 1,5% - 3% GDP, Mai Anh, Báo điện tử Moitruong.com.vn, 30/07/2015

sản chứa thuốc bảo vệ thực vật quá hàm lượng cho phép, các loại thịt gia súc, gia cầm

ôi thiu vẫn được chế biến lại để bán cho người dân…vẫn đang diễn ra và đang có xu

hướng ngày một nhiều lên nhiều lên. Chưa bao giờ con đường từ dạ dày đến nghĩa địa

lại ngắn đến thế! Từ xưa, chế biến thực phẩm vốn là một nghề thủ công truyền thống

và hiện đang rất phát triển nhờ sự hội nhập của nước ta, đặc biệt là tại các thành phố

lớn như Hà Nội. Trước đây các làng nghề chế biến thực phẩm tồn tại như một nghề

tay trái của những người nông dân, nhằm phục vụ những nhu cầu hằng ngày, hoặc là

nhu cầu tinh thần về văn hóa ẩm thực. Hiện nay, với nền kinh tế thị trường ngày càng

phát triển các mặt hàng truyền thống ngày càng có giá trị xuất khẩu, Nhà nước đã tăng

cường đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho việc sản xuất các sản phẩm thực phẩm tại các

làng nghề này. Tuy nhiên, do sự phát triển ồ ạt, tự phát thiếu quy hoạch mà môi

trường tại các làng nghề nói chung và ở làng nghề chế biến thực phẩm nói riêng bị ô

nhiễm trầm trọng. Ô nhiễm đã tác động xấu đến sức khỏe con người, người dân ở đây

có nguy cơ mắc bệnh do ÔNMT gây ra rất cao.

Các sản phẩm thực phẩm chế biến trong môi trường bẩn, thực phẩm chế biến

bằng phương thức “bẩn” từ các làng nghề dần trở thành nỗi lo canh cánh trong lòng

những người dân. Các vụ án về thực phẩm bẩn, xả chất thải bừa bãi từ các làng nghề

và khu vực lân cận được báo chí tìm hiểu và đưa tin đã làm tạo ra những lo ngại về

tính an toàn của các sản phẩm thực phẩm được tiêu thụ hàng ngày tại địa phương. Vấn

đề thực phẩm bẩn đã thực sự trở thành một mối lo ngại mới và Quốc hội cũng đang rất

quan tâm về vấn đề này.

Trước tình trạng ÔNMT và thực phẩm bẩn tràn lan, mới đây Thủ tướng Chính

phủ Nguyễn Xuân Phúc đã phải chủ trì cuộc họp yêu cầu bộ máy mới tập trung bàn

một số việc cấp bách, trong đó đưa ra vấn đề về giải quyết tình trạng thực phẩm bẩn,

bảo đảm an toàn thực phẩm…Với nhu cầu to lớn đến từ những người dân và sự phát

triển không kiểm soát của các thiết bị công nghệ, các phương thức sản xuất, các làng

nghề đã xuất hiện và tồn tại sự biến chất về lương tâm, sự thờ ơ của người sản xuất

khi áp dụng các biện pháp sản xuất không những có thể làm ảnh hưởng trực tiếp tới

người sử dụng sản phẩm cũng như ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe của những

người đang sinh sống ở trong và lân cận khu vực làng nghề, gây tổn hại đến môi

trường đất, nước và không khí một cách nghiêm trọng. Để có cái nhìn toàn cảnh về

môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm chung tôi đã chọn đề tài “ Pháp luật

Việt Nam về bảo vệ môi trường, nghiên cứu tại các làng nghề chế biến thực phẩm

tại Hà Nội”

Đề tài được thực hiện để cung cấp thông tin cụ thể về thực trạng môi trường tại

khu vực làng nghề và đề xuất một số giải pháp cụ thể để hạn chế ô nhiễm và phục vụ

cho sư phát triển môi trường làng nghề bền vững.

2. Tình hình nghiên cứu

Liên quan đến quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và làng nghề, đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, một trong số đó có thể kể đến là:

Ở cấp nhà nước đã có những công trình nghiên cứu như : Đánh giá sự tham gia

của các tổ chức quần chúng trong BVMT làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông thôn (lấy làng nghề giấy Phong Khê làm ví dụ) - Đề tài NCKH,

Trần Yêm; Nguyễn Thị Hà; Nguyễn Thị Ánh Tuyết; Nguyễn Đức Tùng, ĐHKHTN,

2003

Có rất nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu về đề tài môi trường làng nghề, trong đó

mới nhất gần đây đó là luận án tiến sĩ với đề tài “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi

trường do các hoạt động của làng nghề gây ra tại Việt Nam hiện nay” của TS. Lê Kim

Nguyệt (Khoa Luật – ĐHQGHN, 2015). Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu

và toàn diện về kiểm soát ô nhiễm tại các làng nghề Việt Nam nhìn dưới góc độ pháp

luật; đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần ổn định đời sống của người dân, đảm bảo sự

phát triển bền vững của làng nghề; tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đoàn

thể, nhà nghiên cứu và người dân nhận diện bức tranh toàn cảnh về pháp luật kiểm

soát ÔNMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay; đi sâu phân

tích, bình luận và đưa ra những tiêu chí khoa học cần thiết giúp cho Nhà nước có căn

cứ xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật kiểm soát ÔNMT do các hoạt động

của làng nghề gây ra ở Việt Nam. Đây là một đề tài không mới, nhưng lại đi sâu hơn

về pháp luật kiểm soát ô nhiễm tại các làng nghề, một góc nhìn tổng quát mà ít ai

nghiên cứu.

Dưới một cách tiếp cận và nghiên cứu khác, theo TS Ngô Trà Mai (2009) :

“Hoạt động sản xuất phân tán, công nghệ thủ công lạc hậu, quản lý thiếu chặt chẽ,

không xử lý chất thải trong suốt quá trình phát triển sản xuất là những nguyên nhân

chủ yếu gây ÔNMT và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng ở làng nghề tái chế

kim loại Phùng Xá và làng nghề sơn mài Duyên Thái. Quy hoạch BVMT làng nghề

với hai loại hình: quy hoạch điểm công nghiệp và quy hoạch phân tán được nghiên

cứu điển hình ở Phùng Xá và Duyên Thái, là công cụ hữu hiệu góp phần đẩy mạnh

sản xuất và BVMT làng nghề” - Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học cho quy hoạch

BVMT một số làng nghề ở tỉnh Hà Tây (cũ) (Luận án TS. Địa lý tự nhiên)

Trong Luận án tiến sĩ Nghiên cứu đề xuất giải pháp tổng hợp xử lý ô nhiễm

nhằm BVMT và phát triển theo hướng bền vững cho làng nghề chế biến tinh bột sắn -

Cát Quế - Hoài Đức - Hà Tây (Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2007)

ông Vũ Tuấn Hiệp có nói: “tăng trưởng kinh tế thông qua mở rộng sản xuất kinh

doanh, nhất là đối với mô hình làng nghề mà không có đầu tư đổi mới thiết bị và công

nghệ xử lý chất thải cũng đồng nghĩa với quá trình gia tăng tốc độ ô nhiễm và lan rộng

phạm vi ÔNMT. Nó đã trở thành vấn đề bức xúc, cấp bách ảnh hưởng rất lớn tới đời

sống sức khỏe và sản xuất của nhân dân lao động. Hiện trạng ÔNMT làng nghề thể

hiện rất rõ theo đặc thù của công nghệ sản xuất, của từng làng nghề mà mức độ

ÔNMT cũng khác nhau.”

Ở cấp nghiên cứu thấp hơn, cụ thể là luận văn Thạc sĩ, thì số lượng đề tài

nghiên cứu về môi trường làng nghề là rất nhiều, tuy nhiên, có thể kể đến một vài luận

văn nổi bật sau:

Đầu tiên là luận văn thạc sĩ với đề tài Đánh giá hiện trạng môi trường làng

nghề và thực hiện chính sách pháp luật về BVMT làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ -

Luận văn ThS. Môi trường trong phát triển bền vững – Trần Duy Khánh (Trung tâm

nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2012). Khi nghiên cứu về môi trường làng nghề

một số tỉnh Bắc Bộ, ông Trần Duy Khánh cho rằng: “Các quy định về BVMT còn

“đứng ngoài” làng nghề, dẫn đến, môi trường làng nghề ngày càng bị ô nhiễm nghiêm

trọng, ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe của ngƣời dân nông thôn không chỉ trong khu

vực sản xuất mà còn cả những vùng lân cận, thậm chí nhiều nơi, xung đột do ÔNMT

đã nảy sinh, khiến đời sống xã hội nông thôn bị xáo trộn nghiêm trọng.”

Tiếp đến là Bà Nguyễn Thị Huế với đề tài luận văn Đánh giá hiện trạng môi

trường làng nghề nấu rượu Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và đề xuất giải

pháp cải thiện (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT, 2011) đã đưa ra đánh

giá sau về hoạt động sản xuất tại các làng nghề: “Các làng nghề thường tận dụng lao

động phụ, mặt bằng sản xuất tại nhà, nhà xưởng tạm bợ, trang thiết bị thô sơ nên các

phế thải, nước thải, tiếng ồn quá tải là không tránh khỏi. Do hạn chế về vốn và kỹ

thuật, ở các làng nghề hiện nay chưa có nhiều dự án xử lý chất thải, khói bụi độc hại

cho người sản xuất. Ở một số làng nghề đã có báo động về sự xuống cấp và nạn

ÔNMT. Hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng nghề chỉ lo sản xuất kinh doanh, chưa

chú trọng đúng mức đến BVMT. Mặt khác, diện tích mặt bằng sản xuất của các làng

nghề là rất hạn hẹp. Cùng với sự phát triển của các làng nghề thì không gian làm việc

ngày càng bị thu hẹp, nhiều nơi qui mô sản xuất đã vượt quá sự chịu đựng của môi

trường. Qua khảo sát, các hộ làm nghề ở đây thường sử dụng ngay nhà ở làm xưởng

sản xuất, duy chỉ có HTX Vân Hương là có nhà xưởng kiên cố. Thêm vào đó công

nghệ sản xuất thô sơ, lạc hậu, thiết bị cũ... đã làm tăng khả năng gây ô nhiễm môi

trường”

Bên cạch các công trình nghiên cứu trên, còn một số các công trình luận văn

thạc sĩ khác có thể kể đến như: Vai trò của cộng đồng dân cư trong việc hạn chế và

khắc phục ô nhiễm môi trường làng nghề tại tỉnh Nam Định - Vũ Thị Hồng Loan (-

Luận văn ThS. Khoa học quản lý, ĐHKHXH&NV , 2015); Nghiên cứu vấn đề môi

trường của làng nghề chế biến chè và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm trên địa

bàn tỉnh Thái Nguyên - Trần Thế Long (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và

BVMT, ĐHKHTN, 2013); Vai trò của cộng đồng dân cư trong việc hạn chế và khắc

phục ô nhiễm môi trường làng nghề tại tỉnh Nam Định (Nghiên cứu trường hợp huyện

Ý Yên) Vũ Thị Hồng Loan; Phạm Xuân Hằng (Luận văn ThS. Khoa học quản lý ,

ĐHKHXH&NV , 2015); Chính sách công nghệ nhằm hạn chế xung đột môi trường

giữa các làng nghề và cộng đồng dân cư ( Nghiên cứu trường hợp tại Làng Phú Đô) -

Huỳnh Thị Dung; Trịnh Ngọc Thạch (Luận văn ThS. Kinh doanh và quản lý,

ĐHKHXH&NV , 2015); Đánh giá hiện trạng môi trường tại một số làng nghề chế

biến thủy hải sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An - Nguyễn Thị Thanh Phương; Nguyễn

Mạnh Khải; Trần Văn Quy (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT,

ĐHKHTN , 2014); Đánh giá hiện trạng môi trường đất, nước tại một số làng nghề

trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh và đề xuất giải pháp giảm thiểu ô nhiễm - Nguyễn Thị

Thắm (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT, ĐHKHTN, 2012); Chính

sách hỗ trợ để đổi mới công nghệ trong các làng nghề (nghiên cứu trường hợp tại

làng nghề ở tỉnh Hải Dương), Nguyễn Ngọc Thụy (Luận văn ThS. Kinh doanh và

quản lý, ĐHKHXH & NV, 2009) ; Quy hoạch môi trường làng nghề Tề Lỗ huyện Yên

Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc - Đinh Thị Quỳnh Lâm (Luận văn ThS. Khoa học Môi trường

và BVMT,Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2007)…

Ở cấp độ nghiên cứu thấp hơn, đã có nhiều khóa luận tốt nghiệp về vấn đề môi

trường và pháp luật BVMT làng nghề: Tìm hiểu môi trường du lịch tại làng cốm Bát

Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) – Trần Thị Thu Hà, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,

2010; Tìm hiểu môi trường làng nghề đá mỹ nghệ tại xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư,

tỉnh Ninh Bình – Nguyễn Thị Thanh Huế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,

2013; Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý môi trường nước thải làng

nghề đúc đồng Quảng Bố, Xã Quảng Phú, Huyện Lương Tài, Tỉnh Bắc Ninh - Nguyễn

Thị Tuyến, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, 2014;…

Có thể thấy số lượng công trình nghiên cứu về môi trường làng nghề và pháp

luật BVMT làng nghề là không nhỏ. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về vấn

đề vệ sinh an toàn thực phẩm kết hợp với môi trường làng nghề và pháp luật BVMT

làng nghề là không nhiều, có phần nhỏ lẻ và chưa mang tính tổng quát. Kết hợp hai

vấn đề hết sức được quan tâm hiện nay là vệ sinh an toàn thực phẩm và pháp luật

BVMT làng nghề, ta nhìn ra được một khía cạnh khác từ môi trường đó là “môi

trường làng nghề chế biến thực phẩm”. Tôi xin được phép tiếp tục nghiên cứu về vấn

đề “môi trường làng nghề chế biến thực phẩm” và dựa trên phân tích khoa học pháp lý

để hoàn thiện hơn góc nhìn của chúng ta về môi trường và pháp luật BVMT tại Việt

Nam.

3. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam về BVMT

- Thực trạng ÔNMT tại một vài khu vực làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà

Nội để đưa ra những hướng đi, giải pháp hạn chế ÔNMT nhất là môi trường tại các

khu làng nghề.

- Đề xuất một số biện pháp nhằm giảm thiểu ÔNMT nâng cao hiệu quả quá

trình quản lý môi trường tại khu vực làng nghề

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT

và hoạt đông quản lý môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về pháp luật Việt Nam về

BVMT, công tác quản lý môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm. Cụ thể, đề

tài tập trung nghiên cứu hiện trạng chất lượng môi trường (đất, nước, không khí) ở

khu vực một số làng nghề chế biến thực phẩm như làng bún Phú Đô, làng nghề chế

biến nông sản thực phẩm (NSTP) Minh Khai tại Hà Nội.

Khóa luận nghiên cứu pháp luật Pháp luật Việt Nam về BVMT tại các làng

nghề chế biến thực phẩm Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2008 cho đến hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu: cơ sở của

phương pháp này là thu thập, nghiên cứu tất cả các tài liệu có liên quan tới vấn đề

nghiên cứu, các quy định, các tiêu chuẩn môi trường cho các mục đích khác nhau.

- Phương pháp phân tích tổng hợp: sử dụng trong quá trình thực hiện và hoàn

thiện luận văn. Kết quả từ các số liệu hồi cứu, điều tra, khảo sát thực địa sẽ được diễn

giải, phân tích và thảo luận chi tiết

- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn (Phân tích số liệu thứ cấp)

Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân tích một số tài liệu liên quan

đến vấn đề nghiên cứu như sách báo, tạp chí nghiên cứu chuyên sâu và một số công

trình nghiên cứu về nội dung liên quan đến vấn đề môi trường, từ đó nhằm nhận diện

thực trạng vấn đề môi trường và xung đột môi trường hiện nay. Đồng thời tác giả còn

tham khảo một số đề tài, luận văn, các số liệu thống kê báo cáo có liên quan đến xung

đột môi trường để lấy tư liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu và đánh giá kết quả

nghiên cứu thực nghiệm của đề tài.

- Phương pháp quan sát thực địa: đây là phương pháp rất cần thiết giúp người

nghiên cứu có cái nhìn thực tế hơn và sơ bộ về đối tượng nghiên cứu đồng thời kiểm

tra lại tính chính xác của những tài liệu, số liệu đã thu thập từ đó xử lý tốt hơn trong

bước tổng hợp và phân tích. Do địa bàn nghiên cứu khá rộng vì vậy chúng tôi không

thể khảo sát thực địa tất cả các địa điểm mà chỉ chọn một số điểm điển hình để xem

xét và quan sát. Từ khảo sát thực tế đó đưa ra nhận xét chung cho tình trạng ô nhiễm

của toàn vùng và những ảnh hưởng môi trường khác nhau.

- Phương pháp thống kê: Các phương pháp và kỹ thuật thống kê hiện đại sẽ

được áp dụng trong xử lý số liệu liên quan về kinh tế - xã hội, môi trường và y tế phục

vụ các mục tiêu phân tích và đánh giá về sức khoẻ môi trường ở địa phương.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Thứ nhất, khóa luận đã khái quát và đánh giá được về hiện trạng môi trường

làng nghề nói chung và tại các làng nghề chế biến thực phẩm ở Việt Nam.

Thứ hai, khóa luận đã phân tích mức độ ô nhiễm, làm rõ những nguyên nhân

dẫn đến ÔNMT và các tác động xấu của ÔNMT làng nghề tới sức khỏe con người, sự

phát triển của kinh tế - văn hóa – xã hội; phân tích được thực thực trạng áp dụng pháp

luật BVMT tại các làng nghề nói chung và các làng nghề chế biến thực phẩm ở Hà

Nội hiện nay.

Thứ ba, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật BVMT để phù

hợp với thực tiễn tại các làng nghề chế biến thực phẩm hiện nay.

7. Kết cấu khóa luận

Trong khóa luận, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh

mục các tài liệu tham khảo. Phần nội dung của khóa luận bao gồm ba chương chính:

Chương I: Một số vấn đề lý luận về BVMT, pháp luật

BVMT tại khu vực làng nghề chế biến thực

phẩm

Chương II: Quy định pháp luật Việt Nam về BVMT,

thực trạng tại một số làng nghề chế biến thực

phẩm tại Hà Nội

Chương III: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật BVMT

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, PHÁP

LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

1.1 Một số khái niệm

1.1.1 Môi trường

Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác

nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972. Trong Tuyên ngôn của

UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là "Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các

hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng

lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả

mãn các nhu cầu của con người".

Quyển: "Môi trường và tài nguyên Việt Nam", NXB Khoa học và kỹ thuật đã

đưa ra định nghĩa: "Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là

một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã

hội2". Cũng có những tác giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn, chẳng hạn như

R.G.Sharme (1988) đưa ra một định nghĩa: "Môi trường là tất cả những gì bao quanh

con người".

Trong cuốn: “Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ

quyền con người” có nhắc đến khái niệm môi trường như sau: “ “Envoronment” trong

tiếng Anh có nghĩa là môi trường, có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Environner”, có nghĩa

là bao quanh một điểm nào đấy, hay tất cả những gì bao quanh một điểm trung tâm.

Theo cách hiểu như vậy, môi trường có thể được hiểu là toàn bộ điều kiện tự nhiên, xã

hội và văn hóa có ảnh hưởng cuộc sống của một cá nhân hay cộng đồng. Như vậy, vấn

2 Cuốn Môi trường và tài nguyên Việt Nam, Nguyễn Ngọc Sinh và nnk, NXB Khoa học và Kỹ thuật,H.,1984

đề môi trường có thể được coi là bao gồm các vấn đề như tắc nghẽn giao thông, tội

phạm và tiếng ồn…Về mặt địa lý, môi trường có thể hiểu là một khu vực nào đó hoặc

có thể hiểu là toàn bộ hành tinh của chúng ta.3”

Nếu hiểu theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì môi trường là “toàn bộ nói

chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại,

pháy triển trong quan hệ với con người, sinh vật ấy4”

Theo pháp luật Việt Nam khi định nghĩa về môi trường, khoản 1, 2 Điều 3 Luật

BVMT năm 2014 quy định như sau: “1. Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự

nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh

vật. 2. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước,

không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.5”

Chúng ta có thể hiểu các thành tố của môi trường bao gồm:

- Nguồn tài nguyên thiên nhiên, gồm cả sinh vật, phi sinh vật như không khí,

nước, đất, động vật, thực vật và sự tương tác giữa các yếu tố đó;

- Những tài sản là một phần của di sản văn hóa;

- Các đặc điểm khía cạnh của cảnh quan.

Tất cả các thành tố môi trường này đều có mối quan hệ phụ thuộc, tương tác

lẫn nhau. Nếu có bất cứ thành tố nào thay đổi, bị tổn hại thì sẽ nhanh chóng ảnh

hưởng đến các thành tố khác, gây ra hệ quả to lớn không lường trước được cho môi

trường sống và các sinh vật trên Trái Đất, đặc biệt là con người.

1.1.2 Pháp luật bảo vệ môi trường

Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm khi định nghĩa về luật môi trường,

tuy vậy, các quan điểm đều đồng nhất cho rằng: Luật môi trường (với tư cách là một

ngành luật độc lập) là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể có hành vi khai thác, sử dụng

3 Trang 42, Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ quyền con người, TS. Mai Hải Đăng, NXB Tư Pháp, 2015 4, Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2004 5 Luật BVMT 2014, NXB Lao Động , Hà Nội, 2014

hoặc tác động đến một hoặc nhiều thành phần môi trường.

Có thể nói, hầu hết tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam

đều có những quy định ở mức độ này hay mức độ khác có liên quan đến việc điều

chỉnh các quan hệ môi trường và các quan hệ liên quan đến môi trường. Trên thực tế,

ở nước ta trong những năm gần đây, trong hoạch định và tổ chức xây dựng các văn

bản pháp luật, các nhà quản lý, nhà làm luật đều rất quan tâm đến vấn đề BVMT.

Trong phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể trong từng văn bản pháp luật, các quan

hệ về BVMT với luật chuyên ngành đã được xử lý một cách hài hoà và ngày càng

mang tính khả thi cao. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường là các quan hệ

xã hội trong quá trình tác động giữa xã hội, con người và môi trường. Cụ thể, đối

tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo

vệ, cải thiện môi trường; ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu do con người và

thiên nhiên gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.

Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật chung và văn bản pháp

luật chuyên ngành khác có quy định về nghĩa vụ BVMT mà các chủ thể phải thực

hiện nhằm góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường trong sạch và

phát triển bền vững.

1.1.3 Nguồn pháp luật về bảo vệ môi trường

Hiện nay, pháp luật về BVMT Việt Nam chịu sự điều chỉnh của rất nhiều các

quy tắc, tiêu chuẩn, tập quán pháp lý quốc tế và các quy phạm pháp luật quốc tế về

môi trường (hay còn gọi là Luật môi trường quốc tế). Tương tự, pháp luật về BVMT

các làng nghề tại Việt Nam nằm trong pháp luật về BVMT Việt Nam, cũng chịu sự

điều chỉnh của Luật môi trường quốc tế. Để có thể xây dựng được Luật bào vệ môi

trường, đã có rất nhiều các nguồn cùng các quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung

thì nguồn của Luật BVMT Việt Nam bao gồm: Các điều ước quốc tế (chung/riêng),

quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận, đã được Việt

Nam kí kết; Các tập quán tại Việt Nam; Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia

văn minh thừa nhận, trong đó có Việt Nam; Các án lệ ; Ngoài ra còn có pháp luật của

các quốc gia có liên quan và các Nghị quyết của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam

tham gia.

Thứ nhất, về nguồn của pháp luật BVMT nói chung. Điều ước quốc tế là sự

thỏa thuận giữa các chủ thể, trước hết và chủ yếu là giữa các quốc gia, trên cơ sở tự

nguyện, bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ với

nhau. Một trong những nguồn cơ bản nhất của Luật môi trường Việt Nam đó chính là

điều ước quốc tế (ĐƯQT). Trong số các ĐƯQT mà Việt Nam đã tham gia ký kết, có một

số điều ước quy định khung pháp lý chung đối với việc giải quyết vấn đề ÔNMT, một số

khác lại đưa ra những quy định cụ thể điều chỉnh các vấn dề liên quan đến ÔNMT.

Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam tham gia có: Công ước

Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944; Thoả thuận về thiết lập Uỷ ban nghề các

Ấn Độ dương - Thái bình dương, 1948; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967;

Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư

trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1988); Nghị định thư bổ sung công

ước về các vùng ngập nước có tầm quan trọng, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài

chim nước, Paris, 1982; Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên

(19/10/1982); Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (29/8/1991); Công

ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công ước của Liên Hợp

Quốc về Luật biển (25/7/1994); Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn

trùng, FAO, 1985; Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải

độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến

đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học, 1992 (16/11/1994);…

Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, Việt Nam còn tham gia vào điều ước quốc

tế song phương trong vấn đề bảo vệ môi trường như Hiệp định tương trợ tư pháp về các

vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với nước Công hòa nhân dân Bungari (01/10/1979).

Tập quán quốc tế là quy tắc ứng xử do một số quốc gia áp dụng trong quan hệ

quốc tế, dần dần được áp các quốc gia khác chấp nhận và áp dụng như một quy phạm

pháp luật. Trên thực tế, không phải tất cả các tập quán quốc tế đều được các quốc gia

công nhận như là nguồn của pháp luật nước mình, có những tập quán chỉ áp dụng

trong quan hệ giữa 2 hay một nhóm quốc gia mà thôi. Pháp luật Việt Nam hiện nay

thừa nhận tập quán quốc tế và tập quán Việt Nam là nguồn của pháp luật Việt Nam về

BVMT và cho phép áp dụng tập quán với điều kiện việc áp dụng tập quán đó không

trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Các nguyên tắc chung của luật được các quốc gia thừa nhận cũng là một trong

những nguồn chính của luật BVMT Việt Nam, trong đó có nguyên tắc “Các nhà chức

trách quốc gia nên cố gắng đẩy mạnh sự quốc tế hóa những chi phí môi trường và sự

sử dụng các biện pháp kinh tế, căn cứ vào quan điểm cho rằng về nguyên tắc người

gây ô nhiễm phải chịu phí tổn ô nhiễm, với sự quan tâm đúng mức đối với quyền lợi

chung và không ảnh hưởng xấu đến nền thương mại và đầu tư quốc tế6” là nguyên tắc

được hầu hết các quốc gia thừa nhận . Đây là một trong số 27 nguyên tắc chung xác

định các quyền và trách nhiệm của các quốc gia làm cho thế giới phát triển bền vững

được thống nhất cùng với chương trình hành động “Chương trình Nghị sự 21” tại Hội

nghị Rio 1992. Văn kiện của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ghi nhận

nguyên tắc này, nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” cũng được Việt Nam

ghi nhận và coi như là nguồn pháp luật của Luật môi trường Việt Nam. Bên đó, các

nguyên tắc như nguyên tắc “Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau” và nguyên

tắc “tôn trọng các quyền cơ bản của con người” cũng là nguồn của Luật môi trường

Việt Nam.

Án lệ là những bản án, quyết định trước đây của tòa án có giá trị làm nguồn

luật hoặc khuôn mẫu cho tòa án giải quyết các vụ việc tương tự sau này. Tại Việt Nam

năm 2004, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố và phát hành hai số chuyên đề về các

quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán, đây là việc làm có ý nghĩa và

cần thiết (Việt Nam đã và đang là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO)

6 Nguyên tăc 26, Chương trình nghị sự 21, Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED), Rio de Janeiro, 1992

khi VIệt Nam cần phải tuân thủ các nguyên tắc về minh bạch hóa, trong đó yêu cầu

các Tòa cần phải công bố công khai các bản án đã xét xử. Theo đó “Tòa án nhân tối

cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.7”

Thứ hai, về nguồn của pháp luật Việt Nam về BVMT nói riêng. Có thể nói rằng

hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được xây dựng một cách khá

đầy đủ và toàn diện. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã dành hẳn chương II

để nói về quyền con người. Đặc biệt trong Hiến pháp 2013, lần đầu tiên sau bao nhiêu

năm, đã đưa ra những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Điều

43 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa

vụ bảo vệ môi trường”. Hiến pháp cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm

thực hiện quyền về môi trường.

Nhằm cụ thể hóa những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi

trường trong Hiến pháp 2013, Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật bảo vệ môi

trường 2014, quy định về hoạt động môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực

để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia

đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường (Điều 1). Đi cùng với Luật bảo vệ môi

trường 2014 là Luật đất đai 2013, Luật tài nguyên nước 2012, Luật đa dạng sinh học

2008… Đặc biệt là Luật Bảo vệ Môi trường 2014 có nội dung về Bảo vệ môi trường

làng nghề được quy định cụ thể tại Điều 70. Điều này đã xác định rõ những điều kiện

về bảo vệ môi trường mà các làng nghề cần phải thực hiện và cũng nêu ra yêu cầu của

Chính phủ quy định rõ danh mục những làng nghề được khuyến khích phát triển và

yêu cầu bảo vệ môi trường với những nhóm đối tượng sản xuất các ngành nghề này.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung nhóm các tội phạm môi trường

theo hướng cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường (Chương XIX).

Hơn nữa, Bộ luật cũng đã đưa pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự

đối với 09 tội danh gây ÔNMT, hủy hoại động, thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng

đến đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái. 7 Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính trị, 02/6/2005.

Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng có những sửa đổi tiến bộ hơn so với luật cũ

trong vấn đề bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT. Tại Điều 602 Bộ Luật Dân sự 2015

quy định về Bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT đã thay cụm từ “cá nhân, pháp nhân”

thành cụm từ “chủ thể” để bao quát hết các đối tượng gây ÔNMT.

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ cũng đã ban hành các

văn bản dưới luật để cụ thể hóa và lồng ghép vào việc bảo vệ môi trường – môi

trường làng nghề vào các chương trình kinh tế - xã hội như: Chiến lược bảo vệ môi

trường quốc gia năm 2003; Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam; Chiến lược quốc

gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2003.

Hơn nữa vào ngày 29/11/2011 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số

19/2011/QH13 về kết quả giám sát và đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về

môi trường tại khu kinh tế, làng nghề. Đồng thời cũng phê duyệt Chương trình mục

tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012-2015

trọng tâm là xử lý ÔNMT tại các làng nghề. Bên cạnh đó Chính phủ cũng ban hành

Nghị quyết số 35/NQ-CP năm 2013về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ

môi trường trong đó xác định ÔNMT tại các làng nghề là một vấn đề nóng của gia

đoạn này. Kèm theo đó chính phủ còn phê duyệt Quyết định số 577/QĐ-TTg phê

duyệt đề án “Bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 định hướng đến năm 2030”.

Thêm vào đó Nhà nước còn ban hành những văn bản đề cập đến những vấn đề

bảo vệ môi trường tại khu vực làng nghề như: Nghị quyết 41/NQ-TƯ năm 2004 của

Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiên đại

hóa đất nướcl; Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7-7-2006 của Thủ tướng Chính phủ

về phát triển ngành nghề nông thôn; Thông tư số 113/TT-BTC ngày 28-12-2006 của

Bộ Tài chính về việc hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát

triển ngành nghề nông thôn; Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về bảo vệ môi

trường các làng nghề...

Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, Việt Nam

cũng đã sử dụng các văn bản điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường để làm cơ sở cho

việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật và kết hợp vào thực thi công tác bảo vệ

môi trường một cách hiệu quả hơn.

1.2 Làng nghề và vai trò của bảo vệ môi trường làng nghề đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội

Theo thông tư 46/2011/TT-BTNMT của Bộ TN&MT, khái niệm “làng nghề”

được hiểu là “một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc

hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, phường, thị trấn (sau đây gọi

chung là cấp xã) có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất tiểu thủ công

nghiệp sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. 8”

Tại các nước Châu Âu và Châu Mỹ, khái niệm “làng nghề” hầu như không tồn

tại, đơn cử như Pháp, chỉ có các cơ sở thủ công sản xuất vừa và nhỏ trong các khu dân

cư, họ là các tiểu thương, thương nhân và chịu quy chế quản lý theo các chính sách

pháp luật chung của địa phương và quốc gia đó, chứ không có những quy chế riêng để

phân biệt và điều chỉnh. Mô hình “làng nghề” chủ yếu chỉ tập trung tại các khu vực

Châu Á, phổ biến tại Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan. Đơn cử với Nhật Bản, quốc

gia có nhiều ngành thủ công truyền thống, nhưng chỉ có một số ít loại nghề được bảo

tồn và phát triển. Làng nghề ở đây đã được tập trung phát triển và trở thành những

điểm du lịch quảng bá văn hóa và du lịch nổi tiếng thế giới.

Từ thuở xa xưa, hoạt động sản xuất nghề thủ công đã là một trong những nét

văn hóa đặc thù trong đời sống của người dân nông thôn Việt Nam. Theo thời gian,

các hoạt động sản xuất đơn lẻ dần gắn kết với nhau, hình thành nên khái niệm “làng

nghề, xóm nghề”, trong đó có nhiều làng mang tính truyền thống, tồn tại lâu đời, trở

thành một hình thức kết cấu kinh tế - xã hội của nông thôn và cho đến nay khái niệm

này đã trở nên rất phổ biến. Bên cạnh sự đóng góp to lớn vào đời sống kinh tế, hoạt

động sản xuất làng nghề còn giúp người dân gắn bó với nhau, tạo ra những truyền

8 Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, Bộ trưởng Bộ TN&MT, 26/12/2011.

thống, nét đẹp trong đời sống văn hóa, tinh thần cho nông thôn Việt Nam.

Làng nghề và làng có nghề ở Việt Nam xuất hiện từ rất lâu đời, có nơi có lịch

sử phát triển hàng trăm năm, thậm chí tới cả nghìn năm. Như làng nghề đúc đồng Đại

Bái (Bắc Ninh) với gần nghìn năm phát triển, gốm Bát Tràng (Hà Nội) gần 500 năm;

chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình); điêu khắc Non Nước (Tp. Đà Nẵng) đều có lịch sử

hơn 400 năm. Sự phát triển của các làng nghề, ngành nghề truyền thống đã có nhiều

thay đổi qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Làng

nghề đã và đang được hình thành tại hầu hết các tỉnh ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt

Nam có 4.575 làng nghề, trong đó có 1.324 làng nghề được công nhận và 3.221 làng có

nghề 9. Tuy nhiên, số liệu công bố về số lượng các làng nghề không thống nhất, có khi

khác nhau rất lớn. Điều này gây ra khó khăn không nhỏ khi xây dựng các chính sách cụ

thể cho làng nghề.

Tỷ lệ làng

Làng

Làng có

Tổng số

nghề được

làng Tỉnh/Thành phố

nghề

nghề

công nhận

TT

trực thuộc Trung

(làng nghề

nghề và

được

so với tổng

ương

công

chưa được

làng có

số

nhận

công nhận)

nghề

(%)

An Giang Bà Rịa - Vũng Tàu Bạc Liêu Bắc Giang Bắc Ninh Bến Tre Bình Dương Bình Định Bình Thuận

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Cà Mau 11. Cao Bằng 12. Cần Thơ 13. Đà Nẵng 14. Đồng Nai 15. Điện Biên 16. Đắk Lắc

23 0 8 33 0 31 1 35 21 0 0 1 0 0 0 0

10 31 0 0 90 4 22 16 14 38 16 54 7 14 5 0

33 31 8 33 90 35 23 51 35 38 16 55 7 14 5 0

69,70 0 100 100 0 88,57 4,35 68,63 60 0 0 1,82 0 0 0 0

9 Tr.22, Báo cáo Kết quả giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề, Quốc hội (2011).

Bả

ng. Số

lượng

làng nghề

tại các

địa

phương10

ng

nghề

và BVMT

làng nghề

tầm

ảnh

hưởng

trực

tiếp

không

nhỏ tới sự

phát triển

kinh tế -

xã hội của

địa

phương,

những

ảnh

44 0 4 153 272 0 56 17 32 0 0 0 0 2 16 0 0 102 44 3 37 7 24 19 5 4 1 0 12 0 229 32 0 0 0 13 7 17 19 0 1.324

16 5 0 0 1078 21 244 21 34 6 4 25 23 11 0 25 96 282 0 14 0 11 7 42 14 0 48 56 0 8 0 128 472 15 84 0 4 64 39 3 3.221

73,33 0 100 100 20,15 0 18,67 44,74 48,49 0 0 0 0 15,38 100 0 0 26,56 89,80 17,65 62,71 38,89 77,42 31,15 22,73 100 2,04 0 100 0 100 20 0 0 0 100 63,64 20,99 32,76 0 28,94

60 5 4 153 1350 21 300 38 66 6 4 25 23 13 16 25 96 384 49 17 59 18 31 61 22 4 49 56 12 8 229 160 472 15 84 13 11 81 58 3 4.575

17. Đồng Tháp 18. Gia Lai 19. Hà Giang 20. Hà Nam 21. Hà Nội 22. Hà Tĩnh 23. Hải Dương 24. Hải Phòng 25. Hưng Yên 26. Khánh Hòa 27. Kiên Giang 28. Kon Tum 29. Lai Châu 30. Lâm Đồng 31. Lào Cai 32. Long An 33. Nam Định 34. Nghệ An 35. Ninh Bình 36. Ninh Thuận 37. Phú Thọ 38. Phú Yên 39. Quảng Bình 40. Quảng Nam 41. Quảng Ngãi 42. Quảng Ninh 43. Quảng Trị 44. Sơn La 45. Sóc Trăng 46. Tây Ninh 47. Thái Bình 48. Thái Nguyên 49. Thanh Hóa 50. TP. Hồ Chí Minh 51. Thừa Thiên Huế 52. Tiền Giang 53. Trà Vinh 54. Vĩnh Long 55. Vĩnh Phúc 56. Yên Bái Tổng cộng

hưởng đó

bao gồm:

10 Tr.24, Báo cáo giám sát khu kinh tế và làng nghề, tiếp thu UBTVQH, 19/10/2011

Một là, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần

xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động, phát triển

ngành nghề nông thôn sẽ tạo thêm việc làm cho lao động lúc nông nhàn; lao động phụ

như người già, trẻ em, khuyết tật… Tuy nhiên, khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển,

ÔNMT trở thành vấn đề nhức nhối thì những xung đột phát sinh giữa nhóm gây ô nhiễm

và cộng đồng bị ô nhiễm tại các khu vực làng nghề, các cơ sở sản xuất công nghiệp,

những xung đột liên quan đến công tác quy hoạch bãi rác tập trung lại càng trở lên phổ

biến và trở thành những điển hình về xung đột môi trường tại khu vực làng nghề. Môi

trường nước mặt (sông, hồ, kênh, mương) là nguồn tưới tiêu chính trong hoạt động sản

xuất. Khi chất lượng nước của hệ thống này bị ô nhiễm dẫn tới những thiệt hại không nhỏ

đối với sinh hoạt của người dân. Khí thải tại các khu vực làng nghề chưa qua xử lý có

nồng độ cao các chất độc hại cũng gây thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập của

người dân.

Ô nhiễm môi trường gây ra những thiệt hại không chỉ gây ảnh hưởng tới đời sống

của người nông dân mà còn gây ra những tổn thất lớn tới vấn đề phát triển kinh tế khu

vực. Hoạt động sản xuất nông nghiệp – sinh hoạt cũng chịu nhiều tác động tiêu cực do

ÔNMT đất. Ảnh hưởng của ÔNMT đất đến sức khoẻ còn người thể hiện rõ nhất ở sự tích

tụ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón trong đất. Việc sử dụng không đúng cách

hoặc quá nhiều các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật khiến cho cây trồng không hấp

thụ hết gây từ đó tích luỹ vào nông sản, thực phẩm, gây ra tình trạng ngộ độc thực phẩm

và những tác động lâu dài, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người, ảnh hưởng đến

chất lượng và giá trị kinh tế của sản phẩm, từ đó thu nhập của người nông dân cũng bị

giảm đáng kể.

Hai là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, đa dạng hóa kinh tế địa

phương, thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Bảo tồn và phát triển làng nghề có tác dụng rõ rệt

đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Hiện nay, các làng nghề đang phát triển đã đóng góp vai trò quan trọng

trong việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Sự phát triển của các nghề truyền thống

kéo theo sự phát triển của nhiều nghề khác nhau như thương mại, vận tải, thông tin liên

lạc, cung cấp điện nước, đặc biệt là du lịch – dịch vụ…và ngược lại, những ngành nghề

này lại hỗ trợ trực tiếp cho sự phát triển của các làng nghề.

Sự kết hợp giữa du lịch và nghề thủ công truyền thống là một đặc điểm mà ngoài

Việt Nam ra thì hầu như các quốc gia trong khối ASEAN không có. Đây chính là điều

kiện thuận lợi để Du lịch Việt Nam tạo ra lợi thế cạnh tranh với các đối thủ trong cùng

khu vực. Ngành du lịch hiện nay phát triển đã góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế, văn

hóa, xã hội và khôi phục các làng nghề truyền thống. Đây là cơ hội tốt để các làng nghề

truyền thống giới thiệu sản phẩm và tiếp cận thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, do bắt nguồn

từ yếu tố lịch sử và mang tính chất địa phương nên các làng nghề đều phát triển tự phát,

thiếu quy hoạch, từ đó đã phát sinh những vấn đề về môi trường. Ô nhiễm môi trường

như khói, bụi, tiếng ồn cũng là yếu tố gây cản trở lớn tới các họat động phát triển du lịch,

đặc biệt là du lịch làng nghề. Ô nhiễm môi trường khiến lượng khách đến thăm quan và

mua sắm tại các làng nghề giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của cộng đồng làm

nghề.

Ba là, làng nghề thể hiện nền văn hóa đặc trưng của quốc gia, khu vực. Lao

động sản xuất tại làng nghề là loại hình hoạt động hầu như chỉ có tại số ít các nước

Châu Á và trong đó có Việt Nam. Mỗi một làng nghề đều mang một giá trị tinh thần

và kinh tế riêng, đem lại cho người dân không chỉ những vật chất để đáp ứng nhu cầu

thường nhật mà còn đem lại cho họ sức sống về tinh thần, mang theo truyền thống ông

cha, giữ gìn lại những dư vị cổ xưa, làm cho đời sống tinh thần của họ trở nên phong

phú hơn.

Với vai trò quan trọng của làng nghề và BVMT làng nghề trong phát triển kinh

tế - xã hội, việc định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề, BVMT làng nghề tại các

địa phương trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết hiện nay. Để

làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần tìm ra các giải pháp và lập kế hoạch BVMT

làng nghề trong khoảng thời gian dài. Bên cạnh đó, cần có định hướng đối với một số

ngành nghề, làng nghề lạc hậu về công nghệ sản xuất gây hại đến môi trường, tạo điều

kiện cho môi trường các làng nghề ngày được phục hồi và phát triển, đảm bảo sự ổn

định và cải thiện đời sống của người dân.

CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG, THỰC TRẠNG TẠI MỘT SỐ LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC

PHẨM TẠI HÀ NỘI

2.1 Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường

2.1.1 Bảo vệ môi trường các làng nghề

Có thể nói rằng hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT đã được xây dựng

một cách khá đầy đủ và toàn diện. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã dành

hẳn chương II để nói riêng về quyền con người, trong đó có quyền con người với môi

trường. Đặc biệt trong Hiến pháp 2013, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, đã đưa ra

những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Điều 43 quy định:

“Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”.

Đồng thời Hiến pháp cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm thực hiện quyền

về môi trường. Thêm vào đó, Hiến pháp cũng đề cập đến quyền tiếp cận thông tin liên

quan đến môi trường, cụ thể : “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp

cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật

quy định 11” (Điều 25).

Nhằm cụ thể hóa những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi

trường trong Hiến pháp 2013, Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật BVMT

2014, quy định về hoạt động môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để

BVMT; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân

trong BVMT (Điều 1). Đi cùng với Luật BVMT 2014 là Luật đất đai 2013, Luật tài

nguyên nước 2012, Luật đa dạng sinh học 2008…

Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ cũng đã ban hành các

11 Quốc hội, 28/11/2013, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

văn bản dưới luật để cụ thể hóa và lồng ghép vào việc BVMT – môi trường làng nghề

vào các chương trình kinh tế - xã hội như: Chiến lược BVMT quốc gia năm 2003;

Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam; Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ

sinh nông thôn đến năm 2003.

Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về BVMT, Việt Nam cũng đã sử

dụng các văn bản điều ước quốc tế về BVMT để làm cơ sở cho việc xây dựng, ban

hành văn bản pháp luật và kết hợp vào thực thi công tác BVMT một cách hiệu quả

hơn.

Cho tới thời điểm hiện tại, Quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT bao

trùm chủ yếu lên các vấn đề lớn sau:

Một là, quy hoạch làng nghề gắn với BVMT. Để vừa có thể phát triển, vừa gìn

giữ và BVMT thì các làng nghề buộc phải có những quy hoạch mang tính tổng thể và

có định hướng tốt. Trong trong Nghị quyết trung ương Đảng khóa IX đã vạch ra

những giải pháp về quy hoạch: “Quản lý, cập nhật thông tin và kịp thời điều chỉnh

quy hoạch. Chú trọng làm tốt quy quy hoạch những vùng sản xuất hàng hóa tập trung;

Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển khu dân cư,

xây dựng làng xã thị trấn... giữ gìn bản sắc dân tộc”12. Quy hoạch đất đai cho làng

nghề, BVMT làng nghề phát huy văn hóa là vấn đề quan trọng và cấp bách hơn bao

giờ hết. Nhà nước đầu tư kinh phí cho các dự án quy hoạch, nâng cấp làng nghề trọng

điểm. Cùng với đó là những quy phạm pháp luật quy hoạch làng nghề nông thôn được

quy định trong Luật Xây dựng, Pháp lệnh làng nghề nông thôn, Luật về quy hoạch,

Luật Nhà ở... đặc biệt là Nghị định số 18/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày

14/02/2015 Quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá

tác động môi trường.

Tại quyết định số 577/QĐ – TTg ngày 11/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về

phê duyệt đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm

12 Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010

2030, một trong các giải pháp thực hiện quy hoạch đã được đưa ra, đó là triển khai

xây dựng, thực hiện quy hoạch, di đời, chuyển đổi ngành nghề sản xuất, giài pháp đó

được cụ thể hóa thành hai hướng: Quy hoạch lại sản xuất và chuyển đổi ngành nghề

sản xuất hoặc di dời vào khu, cụm công nghiệp tập trung.

Ngoài ra tại chỉ thị số 28/2007/CT-BNN13 về đẩy mạnh thực hiện quy hoạch

phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ÔNMT làng nghề (Bộ NN&PTNT),

chỉ thị đã đưa ra hai việc lớn cần khải được thực hiện: về quy hoạch phát triển ngành

nghề nông thôn và về phòng chống ÔNMT làng nghề.

Ở địa phương, cụ thể là tại Hà Nội, để nâng cao nhận thức về việc BVMT làng

nghề, UBND TP Hà Nội đã ban hành quyết định 14/QĐ-UBND của UBND TP Hà

Nội về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến

năm 2020, định hướng đến năm 2030, theo như nội dung quy hoạch phát triển tổng

thể nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Sở

Công thương nghiên cứu lập quy hoạch, thành phố sẽ ưu tiên phát triển các nghề, làng

nghề có giá trị truyền thống như: ngành thủ công mỹ nghệ (nghề sơn mài, khảm trai;

chạm, điêu khắc đá, kim loại, gỗ, xương, sừng; dát quỳ, vàng, bạc); ngành nghề chế

biến lâm sản; ngành nghề dệt lụa; ngành nghề thêu, ren; ngành nghề gốm sứ; ngành

nghề da, giầy, khâu bóng... Bên cạnh đó, thành phố cũng sẽ tập trung quy hoạch phát

triển các ngành nghề theo hướng tham gia sản xuất các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho

sản xuất công nghiệp bao gồm ngành nghề dệt may; ngành nghề cơ kim khí, điện, rèn

dao kéo..14

Bên cạnh quyết định, UBND TP Hà Nội cũng đã đưa ra “Kế hoạch thực hiện

công tác BVMT làng nghề trên địa bàn Hà Nội, giai đoạn 2016-2020”. Và trong năm

2016 UBND TP cũng phê duyệt thêm “Đề án BVMT trên thành phố Hà Nội đến năm

2020 định hướng đến năm 2030”, phê duyệt quy hoạch các khu công nghiệp, cụm

13 Chỉ thị 28/2007/CT-BNN về đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 18/04/2007 14 Quyết định 14/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, UBND TP Hà Nội, 02/01/2013.

công nghiệp thành phố hà nội định hướng đến năm 2030 và xem xét đưa điều kiện

BVMT được quy định là tiêu chí bắt buộc trong việc công nhận các làng nghề. UBND

TP Hà Nội còn ban hành Chương trình số 154/UBND-CT về việc phát triển làng nghề

kết hợp du lịch trong giai đoạn 2012-2015.

Hai là, xây dựng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường. Cho đến hiện tại,

ngoài Luật BVMT 2014 ra, vẫn chưa có văn bản QPPL nào được ban hành chi tiết

hơn về vấn đề xây dưng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường, đặc biệt là về môi

trường làng nghề.

Thông tin môi trường gồm số liệu, dữ liệu về thành phần môi trường, các tác

động đối với môi trường, chính sách, pháp luật về BVMT, hoạt động BVMT.15 Hiện

tại chỉ có Bộ TN&MT, các bộ ngành và cơ quan quản lý địa phương trong nhiệm vụ,

quyền hạn của mình mới có quyền thu thập và quản lý thông tin môi trường, tích hợp

với cơ sở dữ liệu quốc gia. Cụ thể, điều 129 Luật BVMT quy định về việc thu thập và

quản lý thông tin môi trường như sau:

“1. Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành và địa phương thu thập và

quản lý thông tin môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.

2. Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình thu thập, quản lý thông tin môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường của

Bộ, ngành, địa phương và tích hợp với cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.

3. Khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công

nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ lập hồ sơ môi trường, quản lý

thông tin về tác động đối với môi trường từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.”

Ba là, đánh giá tác động môi trường tại khu vực làng nghề. Luật BVMT năm

2014 đã quy định khái quát 3 nhóm đối tượng cần lập báo cáo đánh giá tác động môi

trường (ĐTM) tại Điều 18. Trong đó ở điểm c, khoản 1, Điều 18 đã được sửa đổi tiến

bộ hơn Luật BVMT 2005 bằng việc thay đổi ... thành “các dự án có nguy cơ tác động

xấu đến môi trường”, quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường

đầy đủ gồm: Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, 15 Điều 128, Mục 1, Chương XIII, Luật BVMT 2014

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Dự án có sử dụng đất của khu bảo tồn thiên nhiên,

vườn quốc gia, khu di tích lịch sử - văn hóa, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh

quyển, khu danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng; Dự án có nguy cơ tác động xấu

đến môi trường.

Riêng đối với các khu vực làng nghề, đã một vài văn bản riêng về việc đánh giá

tác động môi trường như :Thông tư 46/2011/TT-BTNMT BVMT làng nghề do Bộ

TN&MT ban hành, “Đề án BVMT làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm

2020 và định hướng đến năm 2030” đã được phê duyệt dựa trên Kế hoạch 235/KH-

UBND công tác BVMT làng nghề Hà Nội của UBND TP Hà Nội 16. Nghị định

18/2015/ NĐ-CP về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác

động môi trường và kế hoạch BVMT tại Phụ lục 2 đã liệt kê 113 loại dự án phải lập

báo cáo ĐTM trong đó khu vực các làng nghề, các dự án về làng nghề trong khu vực

này thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường như quy định tại

Điều 18 Luật BVMT 2014 thì phải thực hiện việc lập báo cáo đánh giá tác động môi

trường như quy định của pháp luật.

Theo như phụ lục II về Danh sách dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi

trường kèm theo Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ thì: “Tất

cả các các dự án về xây dựng hạ tần kỹ thuật làng nghề phải thực hiện đánh giá tác

động môi trường”. Ngoài ra Bộ TN&MT ban hành thông tư số 27/2015/TT-BTNMT

về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT

để hướng dẫn thi hành Nghị định 18/2015/NĐ-CP.

Cụ thể hơn, tại Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định, đối tượng phải thực hiện

đánh giá tác động môi trường gồm: các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ

trương đầu tư của Quốc hội, thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ; dự án có sử dụng đất của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,

16 Kế hoạch 235/KH-UBND công tác BVMT làng nghề Hà Nội, UBND TP Hà Nội, 31/12/2015.

khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển; các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu

công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại,

làng nghề và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác; các dự án có tác động đến

môi trường khác…17

Nghị định quy định, quy hoạch BVMT được lập phù hợp với quy hoạch phát

triển kinh tế - xã hội với kỳ đầu cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2040

theo 2 cấp độ là quy hoạch BVMT cấp quốc gia và quy hoạch BVMT cấp tỉnh.

Bốn là, các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường chung. Về cơ bản, các

quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường đã được đưa ra tại

Chương XI của Luật BVMT 2014, trong đó có đưa ra hệ thống quy chuẩn kỹ thuật

môi trường: các nhóm quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh (đất,

nước mặt, nước dưới đất, nước biển, không khí, âm thanh, ánh sáng, bức xạ, tiếng ồn,

độ rung), các nhóm quy chuẩn kỹ thuật về chất thải (nước thải công nghiệp, dịch vụ,

nước thải từ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nước thải sinh hoạt, phương tiện giao

thông, khí thải của các nguồn di động và cố định, chất thải nguy hại…) và nhóm quy

chuẩn kỹ thuật môi trường khác18. Ngoài ra chương XI còn quy định về nguyên tắc

xây dựng, ký hiệu quy chuẩn kỹ thuật môi trường, yêu cầu đối với quy chuẩn kỹ thuật

môi trường xung quanh và chất thải, xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật, tiêu

chuẩn môi trường.

Dựa trên những điều luật cơ bản được đưa ra tại Luật BVMT 2014, Bộ

TN&MT đã đưa ra các văn bản cụ thể quy định chi tiết về quy chuẩn kĩ thuật môi

trường chung như:

Đối với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đất: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

về giới hạn cho phép của kim loại nặng trong đất QCVN 03 : 2008/BTNMT; Quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong đất QCVN 15:

17 Nghị định 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Chính phủ, 14/02/2015. 18 Khoản 1, Điều 13, Chương XI, Luật BVMT 2014

2008/BTNMT;

Quy định về quy chuẩn kỹ thuật với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường

không khí được ban hành dưới các văn bản sau: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất

lượng không khí xung quanh QCVN 05: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

về một số chất độc hại trong không khí xung quanh QCVN 06: 2009/BTNMT; Quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ QCVN

19: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với một

số chất hữu cơ QCVN 20: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải

công nghiệp sản xuất phân bón hóa học QCVN 21: 2009/BTNMT;

Với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước, Bộ TN&MT đã ban hảnh các

văn bản quy định về quy chuẩn kỹ thuật như : Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất

lượng nước mặt QCVN 08: 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất

lượng nước ngầm QCVN 09 : 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất

lượng nước biển ven bờ QCVN 10: 2008/BTNMT; QCVN 38:2011/BTNMT Quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh; QCVN

39:2011/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước dùng cho tưới tiêu.

Với nhóm quy chuẩn kỹ thuật tiếng ồn, Bộ TN&MT đã đưa ra Quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia về tiếng ồn QCVN 26: 2010/BTNMT nhằm quy định giới hạn tối đa

các mức tiếng ồn tại các khu vực có con người sinh sống, hoạt động và làm việc. hiện

quy chuẩn này không áp dụng để đánh giá mức tiếng ồn bên trong các cơ sở sản xuất,

xây dựng, thương mại, dịch vụ.

Về quy chuẩn kỹ thuật đối với chất thải, Bộ TN&MT đã ban hành các văn bản

như: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế biến thủy sản QCVN

11: 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột

giấy QCVN 12: 2008/BTNMT; QCVN 38:2011/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc

gia về ngưỡng chất thải nguy hại QCVN 07: 2009/BTNMT;…

Bên cạnh các quy chuẩn kỹ thuật đối với môi trường chung và chất thải, Bộ

TN&MT còn ban hành quy chuẩn kỹ thuật đối với nguyên liệu nhập khẩu như : Quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu sắt, thép nhập khẩu QCVN 31:

2010/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhựa

nhập khẩu QCVN 32: 2010/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối

với phế liệu giấy nhập khẩu QCVN 33: 2010/BTNMT;…

2.1.2 Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường các làng nghề

Sự phát triển của các làng nghề trong những thời gian qua còn mang tính tự

phát cao, chưa có quy hoạch cụ thể, tập trung trong các hộ gia đình nhỏ lẻ. Cùng với

những trang thiết bị công nghệ thấp, giản đơn, kinh nghiệm truyền miệng từ người

này sang người khác (như những dẫn chứng trong phần hiện trạng môi trường làng

nghề). Với việc 100% các làng nghề vi phạm quy định về BVMT, như việc không xây

hệ thống xử lý chất thải, các loại khí thải, chất thải rắn, xả thẳng nước thải ra môi

trường.19 Vậy ai sẽ là chủ thể phải chịu trách nhiệm gây ÔNMT và truy cứu như thế

nào? Đây sẽ là trách nhiệm của những hộ gia đình xả thải hay là cả làng nghề đó?

Chính những vướng mắc khó giải quyết này đã tạo ra những tác động xấu không chỉ

tới sự phát triển chung của các làng nghề mà còn ảnh hưởng đặc biệt lớn đến môi

trường và cuộc sống của người dân.

Để đảm bảo việc thực hiện áp dụng pháp luật BVMT một cách có hiệu quả

hơn, Quốc hội và các cơ quan lập pháp đã ban hành những văn bản quy định về các

vấn đề sau:

Một là, quy định về quản lý chất thải trong khu vực làng nghề. Chương VII,

Luật BVMT 2014 đã quy định về việc làng nghề phải có kết cấu hạ tầng bảo đảm thu

gom, phân loại, xử lý, thải bỏ chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Xét về mặt

định hướng thì Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Quyết định 2149/QĐ-TTg Chiến

lược Quốc gia về chất thải rắn đến 2025, ảnh hướng đến 2050 qua đó với mục tiêu cụ

19 Vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng, Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 13/08/2013

thể trong giai đoạn từ 2015 đến 2025 thì có thể thu gom, xử lý được 50% đến 100%

chất thải rắn tại các làng nghề.20 Để hỗ trợ cho việc quản lý chất thải tại làng nghề thì

Chính phủ đã ban hành những nghị định như: Nghị định số 59/2007/NĐ-CP Về quản

lý chất thải rắn và được bổ sung trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất

thải và phế liệu.

Tại các làng nghề chế biến thực phẩm như làng bún Phú Đô và làng nghề chế

biến NSTP, các hộ sản xuất đã xả thẳng nước thải trực tiếp ra cống rãnh, kênh mương,

sông ngòi khiến nguồn nước chuyển màu đen và bốc mùi nồng nặc. Đứng trước vấn

nạn ÔNMT các làng nghề Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Đề

án tổng thể BVMT lưu vực sông Nhuệ-sông Đáy đến năm 2020 để quản lý nước thải

từ khu vực làng nghề thải vào hai con sông Nhuệ và sông Đáy. Kế hoạch này xác định

các nhiệm vụ, dự án, làm cơ sở cho các bộ, ngành liên quan và các địa phương trên

lưu vực sông triển khai nhằm đạt được các chỉ tiêu của Đề án tổng thể BVMT lưu vực

sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020 tại Quyết định 57/2008/QĐ-TTg ngày

29/4/2008.

Bên cạnh đó, tại địa phương, UBND TP Hà Nội đã đưa ra đề án BVMT làng

nghề đến năm 2020 định hướng đến năm 2030, thành phố đặt mục tiêu đến năm 2020

sẽ hoàn thành xử lý ÔNMT tại 50 làng nghề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ngoài

ra UBND TP Hà Nội còn ban hành Quyết định 105/2014/QĐ-UBND về việc ban hành

quy định quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh để quy định về hoạt động

phát thải, lưu giữ, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn, quy định trách nhiệm

của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có liên quan trong việc quản lý chất thải rắn

trên địa bàn tỉnh.

Hai là, quy định về trách nhiệm BVMT của các chủ thể làm phát sinh ô nhiễm,

phát sinh chất thải tại khu vực các làng nghề. Khi quy định về trách nhiệm BVMT của

các chủ thể gây tác động tới môi trường – các chủ thể sản xuất, làm phát sinh ô nhiễm,

20 Quyết định 2149/QĐ-TTg năm 2009 phê duyệt chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ, 17/12/2009.

phát sinh chất thải – nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật, văn bản dưới luật làm

rõ trách nhiệm cũng như tạo điều kiện cho những nhà quản lý, cơ quan có thẩm quyền

xác định được chủ thể gây ô nhiễm khi có sự cố môi trường xảy ra.

Luật BVMT 2014, Chương III đã đưa ra 3 điều luật quy định về trách nhiệm

của chủ thể làm ô nhiễm, phát sinh chất thải (cá nhân, hộ gia đình, tổ chức) bao gồm:

trách nhiệm của chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển chất thải và trách nhiệm của

chủ xử lý chất thải rắn. Trong đó có điều 107, khoản 1 quy định rất rõ ràng về trách

nhiệm của chủ thể gây ÔNMT trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường.

Ngoài ra, luật BVMT còn quy định một vài trách nhiệm khác của các chủ thể

tác động đến môi trường: trách nhiệm phân loại chất thài rắn thông thường; trách

nhiệm của chủ thể có nguy cơ gây ra sự cố môi trường thực hiện các biện pháp phòng

ngừa; trách nhiệm ứng phó sự cố môi trường của tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi

trường; trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường của các tổ chức, cá nhân gây ra sự cố

môi trường; xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi trường;…

Cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ sở sản xuất làng nghề đã có Nghị định

19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều luật của Luật BVMT 2015 do

Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó, Bộ TN&MT cũng đã ban hành Thông tư

46/2011/TT-BTNMT quy định về BVMT làng nghề. Điều 12 của thông tư đã cụ thể

hóa các quy định về trách nhiệm của các cơ sở sản xuất tại làng nghề đối với môi

trường

Ba là, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước tại làng nghề. Luật

BVMT 2014 đã dành hẳn một chương để đưa ra các quy định về trách nhiệm của cơ

quan quản lý nhà nước về BVMT. Ngoài ra theo pháp lệnh số 10/2014/UBTVQH13

và nghị định của chính phủ số 105/2015/NĐ – CP đã quy định về quyền hạn và nhiệm

vụ của lực lượng cảnh sát môi trường trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và

vi phạm hành chính về môi trường và tài nguyên, an toàn thực phẩm có liên quan đến

môi trường.

Theo Nghị định 19/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật BVMT, điều 10 đã đưa ra trách nhiệm của các cơ quản quản lý và các đơn vị có

liên quan bảo gồm: Trách nhiệm của Bộ TN&MT; . Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan

ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi tắt là Bộ, ngành); Trách nhiệm của Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh. Các trách nhiệm của các cơ quan quản lý và các đơn vị có liên

quan bao gồm những công việc như: Phối hợp xây dựng và ban hành các hướng dẫn

về trình tự, thủ tục, nội dung thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận hoàn thành

phương án, phương án bổ sung và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt

động khai thác khoáng sản; Phối hợp xây dựng và ban hành hướng dẫn kỹ thuật

BVMT, thống nhất triển khai các quy định quản lý nhà nước về cải tạo, phục hồi môi

trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng

sản; Thẩm định, phê duyệt và kiểm tra, xác nhận hoàn thành phương án, phương án bổ

sung thuộc thẩm quyền; Kiểm tra, thanh tra công tác BVMT, cải tạo, phục hồi môi

trường của các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.

Cụ thể hơn khi nói về trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc BVMT tại

các làng nghề, Bộ TN&MT đã ban hành: Quy định về BVMT làng nghề. Trong đó,

điều 13, 14, 15, 16, 17 đã quy định rất cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý

từ UBND cấp xã, huyện, tỉnh cho đến Sở TN&MT. Đặc biệt điều 13 của thông tư đã

đưa ra quy định về trách nhiệm về tổ chức tự quản về BVMT – một tổ chức có mối

liên hệ mật thiết đến hoạt động của cộng đồng dân cư tại làng nghề (tổ chức tự quản

về BVMT là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện,

cộng đồng trách nhiệm theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật BVMT 2014.

Khi quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước đối với việc

quản lý chất thải tại địa phương, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND TP Hà

Nội đã đưa ra nghị quyết 105/2014/QĐ-UBND, trong đó 3 điều quy định về trách

nhiệm của các Sở, ban ngành, trách nhiệm của UBND các huyện, thị xã, thành phố và

trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn.21 Có thể nói, ngoài trách nhiệm của cơ

21 Quyết định 105/2014/QĐ-UBND quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND TP Hà Nội, 31/03/2014.

quan nhà nước trong việc BVMT làng nghề là không nhỏ. Tuy vậy, sự quan tâm cũng

như giúp đỡ từ cộng đồng dân cư đóng góp một phần hết sức quan trọng trong công

cuộc xây dựng môi trường làng nghề sạch đẹp.

Bốn là, quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Thứ nhất, xử lý hành chính là một trong những biện pháp chính trong việc răn

đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Ngày

14/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế Nghị định số

117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009. Nghị định này đã làm rõ những hành vi vi phạm

hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được quy định tại khoản 2 Điều 1. Nghị

định 179/2013/NĐ-CP được ban hành đã khắc phục những cấp bất cập, quy định

không còn phù hợp về bảo vệ môi trường, về đa dạng sinh học so với nghị định

117/2009/NĐ-CP. Đặc biệt về mức phạt tiền lớn nhất tại Nghị định 179/2013/NĐ-CP

tối đa là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức. Như vậy, mức phạt

tối đa theo quy định tại Nghị định 179/2013/NĐ-CP cao gấp 4 lần so với mức phạt tối

đa quy định tại Nghị định 117/2009/NĐ-CP đã hết hiệu lực.

Bên cạnh việc áp dụng mức phạt cao hơn mang tính rắn đe, thì nghị định

179/2013/NĐ-CP cũng đã định nghĩa về hành vi xả thải. Trước đây, việc xả thải vào

môi trường được hiểu là xả ra ngoài phạm vi quản lý của cơ sở sản xuất kinh doanh,

như khi xả nước thải ra ngoài tường rào. Còn trường hợp đơn vị xả thải ở trong khu

đất của đơn vị vẫn được coi là chưa vi phạm. Tuy nhiên ở Nghị định 179/2013/NĐ-

CP, xả thải không chỉ là “xả ra ngoài” mà còn là “xả thải vào môi trường đất, nước

dưới đất, nước mặt bên trong và ngoài cơ sở….” (Khoản 1 điều 3)22. Như vậy có

nghĩa là việc xả nước thải ra đất vào ao chứa, hồ chứa mà không có biện pháp lót đáy

chống thấm dù bên trong hay bên ngoài diện tích đất thuộc quản lý của cơ sở đều

được coi là xả thải vào môi trường. Điều này đã tạo điều kiện tốt hơn cho việc kiểm

22 Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Chính phủ, 14/11/2013.

soát xả thải ở các khu vực làng nghề, các hộ dân cư hay tại các khu công nghiệp.

Thêm vào dó, Nghị định 179/2013/NĐ-CP cũng đã phân định rõ ràng về thẩm

quyền kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm của các cơ quan Công an, Thuế, Kiểm lâm,

Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường, Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi

trường, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp và Sở Tài nguyên và Môi trường.

Ngoài những biện pháp về phạt tiền và tước giấy phép, các chủ thể của hành vi

gây ÔNMT có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc khôi phục

tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra, buộc tháo dỡ công

trình, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ÔNMT và các biện pháp bảo

vệ môi trường, buộc thu hồi sản phẩm…

Thứ hai, pháp luật Việt Nam còn quy định về trách nhiệm dân sự của những

chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường. BLDS 2015 đã có những

bước tiến bộ trong quy định về bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT. BLDS 1999 đang

sử dụng hiện nay chỉ quy định “cá nhân, pháp nhân” mà gây ô nhiễm thì phải bồi

thường theo quy định của pháp luật kể cả trường hợp người gây ô nhiễm không có lỗi.

Quy định của BLDS 1999 chưa bao quát hết được những đối tượng gây ÔNMT hiện

nay vì vậy mà BLDS 2015 đã thay thế cụm “cá nhân, pháp nhân” thành “chủ thể”.

Chính những quy định vừa nêu trên của pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý cho

những người bị thiệt hại do ÔNMT có thể tự bảo vệ được quyền lợi của bản thân,

đồng thời các cơ quan nhà nước có cơ sở để xem xét trách nhiệm của các tổ chức cá

nhân, chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật môi trường.

Thứ ba, chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự với những hành vi gây hậu quả

nghiêm trọng mà xử lý hành chính và trách nhiệm dân sự không thể áp dụng đựng.

Hiện nay, vi phạm pháp luật về môi trường càng trở nên phức tạp với những hậu quả

không ngờ tới được. Mặc dù gây hậu quả nghiệm trọng cho xã hội nhưng trách nhiệm

hình sự áp dụng cho những hành vi vi phạm môi trường lại còn quá nhẹ thậm chí

nhiều trường hợp còn không thể xử lý được. Nghĩa là, mặc dù đã được sửa đổi bổ

sung vào năm 2009 nhưng Bộ Luật Hình sự hiện hành vẫn có những lỗ hổng để các

đối tượng “lách luật”. BLHS hiện hành quy định tội phạm với đa số cấu thành tội

phạm vật chất nghĩa là hành vi đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra. Tuy nhiên điều này lại

nảy sinh một số vướng mắc trong áp dụng bởi: i/ Hành vi được thực hiện nhưng hậu

quả xảy ra ở thời gian sau đó rất xa khiến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với hành vi đó không còn; ii/ Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi

phạm và hậu quả xảy ra là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật cao,

không phải địa phương nào cũng có khả năng thực hiện . Cụ thể là trong 11 tội phạm

môi trường mà BLHS hiện hành quy định đã có tới 6 cấu thành tội phạm được xây

dựng là cấu thành tội phạm vật chất. Có thể nói rằng các tội phạm trong BLHS hiện

hành được xây dựng là những cấu thành tội phạm vật chất với dấu hiệu chung chung,

không có căn cứ rõ ràng. Để khắc phục những yếu điểm BLHS 2015 đã đưa và những

quy định cấu thành hình thức đối với tội phạm môi trường và đã cụ thể hóa các quy

định cấu thành vật chất bằng các con số để dễ dàng đối chiếu chứng minh trong định

tội23.

2.2 Thực trạng môi trường và áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường tại một số

làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà Nội

2.2.1 Hiện trạng môi trường

Một là, về hiện trạng môi trường làng nghề: Theo Báo cáo môi trường quốc gia

2008, ÔNMT làng nghề làm gia tăng người mắc bệnh đang lao động và sinh sống tại

chính làng nghề. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong những năm gần đây24.

Môi trường làng nghề xấu đi đã tác động không nhỏ đến sức khỏe người dân tại

địa phương, gây ra các căn bệnh từ nguồn nước, từ không khí và nhiều nguồn ô nhiễm

khác. Tại các khu vực làng nghề chế biến thực phẩm, chế biến NSTP xuất hiện những

bệnh phổ biến là bệnh ngoài da, viêm niêm mạc như nấm kẽ, nấm móng, dày sừng

gan bàn chân, viêm chân tóc,… Còn tại các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da

23 Cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường, TS. Phạm Văn Beo, Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ, Báo Thiên Nhiên, 29/10/2015, 24 Báo cáo môi trường quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở Tài Nguyên môi trường, 2008

thì các bệnh thường gặp là bệnh đường hô hấp, tiêu hóa, thần kinh; ở làng nghề sản

xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: bệnh đặc trưng của người dân và người lao

động chủ yếu là hô hấp, tiêu hóa, phụ khoa và các bệnh về mắt; ở làng tái chế phế

liệu: các bệnh thường gặp là hô hấp, bệnh ngoài da, thần kinh và đặc biệt là tỷ lệ

người mắc bệnh ung thư tương đối cao; ở làng nghề thủ công, mỹ nghệ, thêu ren:

thường là bệnh hô hấp, ngoài da.

Ở nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc bệnh, nhất là nhóm người trong độ tuổi lao

động đang có xu hướng tăng cao. Ở một số làng nghề có mức độ ô nhiễm cao thì tuổi

thọ trung bình của người dân giảm, thấp hơn đến 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn

quốc và thấp hơn từ 5 đến 10 năm so với làng không làm nghề.

Qua nghiên cứu cũng như những khảo sát thống kê từ nhiều công trình lớn và

nhỏ từ trước đến nay thì sự phân bố các làng nghề tại Việt Nam diễn ra không đồng

đều. Sự phân bố và mật độ không đều của các làng nghề truyền thống ở các vùng

miền trên phạm vi toàn quốc phản ánh những nét đặc thù của dân tộc.m Tính đến ngày

31 tháng 3 năm 2014 thì tổng số làng nghề và làng có nghề trên toàn quốc là 4.487

làng, trong đó có 1.534 làng nghề đã được công nhận25. Và hầu như các làng nghề chỉ

tập trung vào ở khu vực miền Bắc và tại những vùng nông thôn, do xu thế đô thị hóa

nên nhiều khu vực nông thôn đã trở thành đô thị, nhưng vẫn duy trì xét sản xuất văn

hóa truyền thống nên đã tạo ra những “lỗ hổng” trong chính sách phát triển và hành

lang pháp lý về quản lý làng nghề. Sự phân bố không đồng đều này, đối với các tỉnh

thuộc đồng bằng song Hồng (có diện tích chật hẹp, mật độ dân cư cao, hoạt động sản

xuất quy mô công nghiệp và bán công nghiệp gắn liền với sinh hoạt) thì hậu quả của

ÔNMT là rõ rệt nhất. Với một sự nhìn nhận khách quan thì không phải tất cả các làng

nghề đều gây ra ô nhiễm, trên thực tế, mức độ tác động đến môi trường do hoạt động

sản xuất làng nghề rất khác nhau, phụ thuộc vào loại hình sản xuất và đặc điểm phân

25 BVMT làng nghề: Huy động sự vào cuộc của các tổ chức chính trị - xã hội, Phạm Trọng Duy, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục môi trường, 23/11/2015

bố theo vùng, miền. Các tác động của con người trong hoạt động sản xuất tại các làng

nghề tới môi trường có thể kể đến như: môi trường đất, môi trường nước, môi trường

không khí, môi trường tiếng ồn…

Tính đến năm 2011, cả nước có 3.355 làng nghề và tình trạng ÔNMT tại hầu

hết các làng nghề này đang rất nghiêm trọng26.

Ở các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, nước mặt nhiều nơi có hàm

lượng COD, BOD5, NH4+, coliform vượt hàng chục lần đến hàng trăm lần quy

chuẩn. Ngoài ra, hầu hết các làng nghề đều có hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho

phép; nồng độ khí SO2 tại các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm cao hơn rất

nhiều so với tiêu chuẩn cho phép.

Giá trị giới hạn

STT

Thông số

Đơn vị

Mức A

Mức B

1

COD

mg/l

10-9999999

35-9999999

2

Coliform

MPN/100ml

5000

10000

BOD5(20 độ

mg/l

0-4

0-25

3

C)

Amoni(tính

4

mg/l

1

theo Nitơ)

0,05

26 Ô nhiễm môi trường nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái (theo Thông tấn xã Việt Nam), Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam, 02/03/2013

Bảng. Quy chuẩn chất lượng nước mặt 27

Bên cạnh đó, tại các làng nghề khí thải, nước thải, chất thải rắn chưa được xử lý

đã xả thẳng vào môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng không khí và các nguồn nước

mặt, nước dưới đất tại địa phương. Trên thực tế, ý thức BVMT của người dân tại các

làng nghề còn hạn chế. Bên cạnh đó, các hộ sản xuất làm nghề nằm phân tán trong

khu dân cư và chủ yếu tận dụng diện tích đất ở để làm cơ sở sản xuất, quy mô sản

xuất nhỏ, vì vậy gây nhiều khó khăn, bất cập trong công tác BVMT.

Dựa vào những số liệu thống kê ta có thể nhận xét ÔNMT làng nghề có một số

đặc điểm sau: (i) Là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu vực (thôn, làng,

xã…). Vì đặc điểm quy mô sản xuất của các làng nghề hầu như là nhỏ, đan xen, phân

tán,với các khu sinh hoạt của dân cư và thậm chí là ngôi nhà của chính những người

dân là những cơ sở sản xuất, nên việc kiểm soát và quy hoạch ô nhiễm trở nên rất khó

khăn và phức tạp; (ii) Mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề

sản xuất, mùa vụ sản xuất, loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp tới môi trường

nước, khí, đất trong khu vực; (iii) Mức độ ô nhiễm khá cao tại khu vực sản xuất và

ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động do sinh hoạt ngay trong khu vực sản

xuất.1 Tác động của ô nhiễm là tác động cộng hưởng của nhiều nguồn ô nhiễm trong

cùng một khu vực (gồm nhiều hộ sản xuất gia đình).

Thứ nhất, về ÔNMT nước và nước thải của làng nghề. Qua kết quả xét nghiệm

các mẫu nước thải ở các làng nghề của Viện khoa học và công nghệ môi trường

(trường Đại học Bách khoa Hà Nội)28 thì 100% các mẫu nước đều vượt quá tiêu chuẩn

27 Tr. 4, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN: 2008 – BTNMT, Bộ TN&MT, 2008 28 Bài viết Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội, Phúc Lập, Báo Nông nghiệp Việt Nam, 08/04/2015

cho phép, nước ngầm và nước mặt đều có dấu hiệu ô nhiễm vượt mức.

Theo đặc trưng chất gây ô nhiễm trong nước thải của từng loại hình sản xuất có

thể phân loại ÔNMT nước như sau: Ô nhiễm chất hữu cơ tại các làng nghề chế biến

lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ. Đây là các loại hình sản xuất có nhu cầu

sử dụng nước rất lớn và nước thải có đặc tính chung là giàu chất hữu cơ, dễ phân hủy

sinh học và có độ ô nhiễm hữu cơ rất cao. Hàm lượng các chất ô nhiễm, vượt quy

chuẩn Việt Nam (QCVN) hàng chục lần. Đặc biệt là nước thải từ khâu lọc tách bã,

tách bột đen của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn và dong giềng có độ chua (pH)

thấp, hàm lượng nhu cầu ôxy sinh hóa (BOD5), nhu cầu ôxy hóa học (COD) vượt trên

200 lần QCCP;

Ô nhiễm chất vô cơ và hóa chất chủ yếu tập trung tại các làng nghề dệt nhuộm,

thủ công mỹ nghệ và mây tre đan, tái chế giấy, do sản xuất có sử dụng nhiều nước,

hóa chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm trong nước thải làng nghề dệt

nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải: chất bẩn, sáp, dầu, hợp chất

chứa nitơ, pectin.. và các hóa chất rong quá trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH,

H2SO4, HCL, NA2CO3, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 -30% lượng

thuốc nhuộm và hóa chất sử dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải. Hơn nữa nước

thải dệt nhuộm chứa nhiều hóa chất và có độ màu rất cao, có nơi lên tới 13.000 (Pt-

Co);

Ô nhiễm kim loại nặng độc hại, dầu thải từ nước thải của các làng nghề mạ, tái

chế kim loại…Quá trình mạ bạc còn tạo ra muối thủy ngân xyanua, oxit kim loại và

các tạp chất khác vượt QCVN từ 1,5 -10 lần29.

Thứ hai, về vấn đề ÔNMT không khí tại các làng nghề. Với đặc trưng của các

làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là sự dễ phân hủy của các hợp chất hữu cơ có

trong chất thải rắn và nước thải từ các cống, rãnh, mương. Quá trình trình phân hủy đã

sinh ra nhiều các khí độc như SO2, NO2, H2S, NH3, CH4 và nhiều các loại khí ô

nhiễm gây mùi tanh ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người dân làng

nghề. Đặc biệt như làng Bún Phú Đô, Hà Nội hay làng Bún Vũ Hội, Thái Bình đều có 29 Tr.27, Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề - Tiếp thu UBTVQH ngày 29/10/2011

hàm lượng SO2 rất cao vượt qua ngưỡng cho phép là 0.35mg/m3 không khí (theo

TCVN 5937 – 2005(SO2)).

Ở các làng ươm tơ, dệt vải và thuộc da thì mức độ ô nhiễm không khí mang

tính cục bộ. Các khu vực sản xuất của làng nghề dệt nhuộm ô nhiễm chủ yếu ở các

thông số như bụi, SO2, NO2. Đặc biệt, các làng nghề dệt thường bị ô nhiễm tiếng ồn

từ các máy dệt thủ công hoặc bán tự động, mức ồn vượt TCVN từ 4 - 14 dBA.30

Đặc biệt ÔNMT không khí tại các làng nghề có nghề tái chế có mức độ nặng

nhất và dạng ô nhiễm ở đây là bụi, hơi kiềm, Cl2 do dùng nước Javen để tẩy trắng và

H2S. Trong công nghệ tái chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ việc nhựa cháy làm phát

sinh các khí độc như HCL, HCN, CO, HC. Trong đó, ngành sản xuất có thải lượng ô

nhiễm lớn nhất là tái chế kim loại, tiếp theo sản xuất vật liệu xây dựng và gốm sứ.

Ngoài ra, quá trình tái chế và gia công cũng gây phát sinh các khí độc như hơi axit,

kiềm, oxit kim loại và ô nhiễm nhiệt. Hàm lượng bụi ở khu vực sản xuất vật liệu xây

dựng tại một số địa phương vượt QCVN là 3 - 8 lần, hàm lượng SO2 có nơi vượt 6,5

lần31.

Thứ ba, về chất thải rắn tại các làng nghề. Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề

chưa được thu gom và xử lý triệt để, nhiều làng nghề xả thải bừa bãi gây tác động xấu

tới cảnh quan môi trường, gây ÔNMT không khí, nước và đất.

Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, đặc biệt là sản xuất tinh bột

sắn, dong giềng tạo ra khối lượng lớn chất thải rắn. Khối lượng chất thải rắn này

không được thu gom, xử lý mà xả bừa bãi ở các khu vực công cộng, đặc biệt là ao hồ,

bờ đê gây tắc nghẽn hệ thống thoát nước, ô nhiễm nghiêm trọng nước mặt, nước dưới

đất; bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan khu vực nông thôn

Làng nghề tái chế kim loại, với nguồn chất thải rắn phát sinh bao gồm bavia,

bụi kim loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1-7 tấn/ngày. Làng nghề tái chế giấy,

30 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008: Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở TN&MT 31 Tr.27, Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề - Tiếp thu UBTVQH ngày 29/10/2011

nhựa thải ra các chất thải rắn gồm: nhãn mác, bột giấy, băng ghim, băng dán, tạp chất

không tái sinh được, các chi tiết bằng kim loại, cao su. Các tạp chất loại này thường

chiếm 5-10% trong phế liệu32.

Hai là, về thực trạng môi trường của một vài làng nghề chế biến thực phẩm là

làng bún Phú Đô và làng nghề chế biến NSTP Minh Khai.

Đầu tiên, về hiện trạng môi trường làng bún Phú Đô – Hà Nội. Làng bún Phú

Đô (xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có nghề sản xuất bún truyền thống lâu đời

hơn 400 năm, trung bình hằng ngày có 50 tấn bún được sản xuất để đưa đi tiêu thụ

cho gần một nửa thị trường Hà Nội33. Trước kia, khi quy mô sản xuất bún tại các hộ

gia đình của làng Phú Đô còn nhỏ hẹp, nước thải từ quá trình sản xuất được tận dụng

lại cho chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, quay trở lại gần chục năm trở lại đây, khi quy

mô sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng cũng đẩy mạnh thì việc sư dụng các thiết bị

hóa chất cho hoạt động sản xuất bún đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề.

Nước thải

Khí thải

Tên làng nghề (địa chỉ -

Thành phần chất ô

TT

loại hình)

Chất ô nhiễm đặc trưng

nhiễm

Làng nghề

lương

thực,

lần,

SO2 vượt 1,4-1,8

thực phẩm Yên Viên, Gia 1

NO2 vượt 1,3-1,6 lần

Lâm

Làng nghề chế biến nông

sản, 2

thực phẩm Dương

BOD, COD, N, P, TSS

SO2, NO2

Liễu, Hoài Đức

32 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008: Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở TN&MT 33 Bài viết “Làng bún Phú Đô: Bao giờ hết ô nhiễm?”, Nguyễn Quyết Thắng, Báo Tài Nguyên và Môi trường, 2014

Nước thải

Khí thải

Tên làng nghề (địa chỉ -

Thành phần chất ô

TT

loại hình)

Chất ô nhiễm đặc trưng

nhiễm

Làng nghề chế biến nông

5/5 chỉ tiêu quan trắc

sản thực phẩm Bá Nội 3

vượt 2,5-14 lần

Làng nghề tinh bột thôn

4/5 chỉ tiêu quan trắc

Công Hòa 4

vượt 6,5 lần

Hình. Hiện trạng môi trường tại một số làng nghề chế biến tinh bột tại Hà

Nội34

Qua các bài báo và các tài liệu báo cáo thì phần lớn nước thải đều được trực

tiếp đổ ra sông hồ mà không hoặc rất ít thông qua khâu xử lý nào. Đây là một trong

những nguyên nhân hết sức to lớn tạo ra tình trạng ô nhiễm ngày càng nặng nề hơn.

Hầu hết các kết quả phân tích mẫu nước thải, khí thải ở làng nghề cho thấy đã vượt

tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đã và đang ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân mà

còn gây hại đến cả môi trường sinh thái xung quanh.

Qua khảo sát từ những người dân tham gia hoạt động sản xuất bún tại làng

nghề, hầu hết những gia đình sản xuất bún đều nuôi lợn để tiện sử dụng bã gạo từ quá

trình sản xuất bún vào chăn nuôi. Tuy nhiên, nước thải từ gạo ngâm chua làm bún,

thêm vào đó là nước thải từ việc chăn nuôi đã bị người dân đổ thẳng trực tiếp vào hệ

thống nước thải chung của thôn. Trung bình mỗi hộ sử dụng 50 mét khối nước cho

việc sản xuất bún mỗi ngày, lượng nước thải gần như tương đương sau khi đã qua sử

dụng đều được thải trực tiếp vào cống thoát nước ra sông Nhuệ, gây tác động xấu trực 34 Tr. 138, Phụ lục XIV, Phụ lục Báo cáo giám sát môi trường Khu kinh tế và làng nghề: Tiếp thu UBTVQH ngày 19/10/2011

tiếp đến các sinh vật dưới vùng sông, nước. Đặc biệt nguồn nước thải này không chỉ

gây ra ô nhiễm nước mà nó còn thấm vào đất gây ô nhiễm đất và cả nguồn nước

ngầm. Năm 2005 phường Phú Đô đã được đầu tư xây dựng một trạm xử lý nước thải

rộng 6 ha nằm tại phường. Trạm xử lý nước thải công suất 84.000 m3/ngày đêm này

nằm trong chương trình cải thiện môi trường Hà Nội. Nguồn vốn vay ODA và vốn đối

ứng của Việt Nam. Theo lời người dân sinh sống và làm việc tại địa phương, trạm xử

lý nước thải với công suất nhỏ hoạt động không hiệu quả. Bởi toàn bộ nước thải sinh

hoạt, sản xuất đều chỉ qua trạm, dẫn tới quá tải. Và một điều vô cùng bất cập, là hiện

tại trạm xử lý nước thải Phú Đô không hoạt động và có dấu hiệu sử dụng sai mục

đích. Nguồn nước ngay tại khu vực làng nghề bị ô nhiễm bởi chính quá trình sản xuất

đó. Cho tới hiện nay, làng nghề bún Phú Đô, cứ trong 10.200 tấn sản phẩm mỗi năm

đã thải các chất ô nhiễm 76,9 tấn COD; 53,14 tấn BOD5; 9,38 tấn SS gây ô nhiễm

môi trường nước nghiêm trọng. Và chính nó lại đang "đầu độc" thẳng con sông Nhuệ

ngang qua khu vực. Ở tầm vi mô là chính sức khỏe người dân khu vực, ở tầm vĩ mô là

35 Bài viết “Làng bún Phú Đô: Trạm xử lí chỉ để làm "cảnh”, nước thải vẫn xả thẳng ra sông Nhuệ”, Báo Ngày nay, 2015

ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường nước khu vực Hà Nội35.

Hình. Một kênh nước bị ô nhiễm khi đi qua khu vực xả thải của làng bún phú

Đô (nguồn: internet)

Có thể thấy được các chất thải của việc sản xuất bún đa phần là chất thải hữu

cơ, tuy nhiên khi thấm vào đất, những chất thải này (bao gồm cả vô cơ và hữu cơ) đều

làm thay dổi môi trường sống của các sinh vật trong long đất, ảnh hưởng đến quá trình

phân hủy, trao đổi chất của các loại vi sinh vật, làm cho cây cối không phát triển

được, phát triển và chống chịu kém hoặc chết mòn.

Ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng tới con người và các loài sinh vật

thông qua đất nước mà còn qua đường không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại

trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí làm cho

mật độ bụi bẩn trong khống khí tăng lên. Không chỉ vậy, các hơi nước này còn làm

giá bám cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp độc hại khác.

Đối với không khí, nguồn gây ô nhiễm đặc trưng nhất của làng nghề là mùi hôi

thối do quá trình phân hủy của các chất hữu cơ, quá trình ủ, lên men của bún. Quá

trình này tạo ra các khí độc gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thêm vào đó còn

có một điểm đáng chú ý đó là việc sử dụng than củi. Với nhu cầu sử dụng rất lớn thì

bùi, khí thải do đốt nhiên liệu than củi cũng là nguồn gây ô nhiễm đối với môi trường

không khí.

Báo cáo MT quốc gia năm 2008 cho thấy, tại nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc

bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ tuổi lao động) đang có xu hướng gia tăng. Tuổi

thọ trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm so

với làng không làm nghề. Tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, bênh phụ

khoa chiếm chủ yếu (13-18%), bệnh về đường tiêu hóa (8-30%), bệnh viêm da (4,5 –

23%), bệnh đường hô hấp (6-18%), bệnh đau mắt (9-15%). Tỷ lệ mắc bệnh nghề

nghiệp ở làng bún Phú Đô hiện đang ở mức 50%.36 Tác hại của ô nhiễm MT qua các

36 Báo cáo môi trường quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở Tài Nguyên môi trường, 2008

chỉ số là hết sức lo ngại. Dòng sông chảy qua thông nước trong xanh, nhưng giờ đây

vì bị ô nhiễm mà trở nên đen kịt. Vào những ngày hè nắng nóng, nước bốc mùi nồng

nặc khiến người dân xung quanh không thể thở nổi.

Thứ hai, về hiện trạng làng nghề chế biến nông sản thực phẩm (NSTP)Minh

Khai – Hà Nội. Huyện Thanh Trì, huyện Hoài Đức hiện có 51 trên 53 làng có nghề,

trong số đó có 3 làng chế biến nông sản gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (gồm

Dương Liễu, Cát Quế và Minh Khai) và đặc biệt phải kể đến làng nghề chế biến

NSTP Minh Khai.

Làng chế biến NSTP Minh Khai một làng nghề truyền thống với đa dạng các

mặt hàng mỳ, miến được bán và xuất khẩu đi trong, ngoài nước. Nghề làm miến xuất

hiện ở xã Minh Khai từ nhưng năm 60 của thế kỷ 20. Khi đó, thực hiện chủ trương

phát triển kinh tế, một số hộ gia đình thông qua nghiên cứu thực tiễn, từ việc chỉ làm

ra tinh bột bán ra thị trường, các hộ đã thí nghiệm lấy bột tinh ra hấp nóng để chế biến

thành sợi miến. Từ đó trở đi, nghề sản xuất miến dong được hình thành và phát triển.

Cho đến cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20, xã có thêm nghề mới

là nghề chế biến bún, phở khô từ gạo tẻ. Trước đây, việc làm mỳ, miến chủ yếu là làm

thủ công, sử dụng sức lao động của con người là chính song đến nay, các hộ sản xuất

đã áp dụng công nghệ tiên tiến. Những chiếc máy mỳ bỏ bột tự động, máy sản xuất

miến dong liên hoàn đã hoàn toàn thay thế những loại máy móc cũ đã giúp giảm bớt

sức lao động, tạo ra năng suất cao. Hiện nay, toàn xã Minh Khai có 48 hộ làm miến,

và 183 hộ làm bún, phở khô. Cơ cấu kinh tế chuyển dần sang hướng phát triển công

nghiệp, thủ công nghiệp. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh năm 2015 đạt 996,5 tỷ

đồng, thu nhập bình quân đầu người là 41,2 triệu đồng. Với sự nỗ lực thi đua của toàn

Đảng, toàn dân, Minh Khai đang ngày càng thay đổi rõ rệt, đời sống kinh tế của nhân

dân ổn định, thu nhập cao so với mặt bằng chung của huyện, chủ yếu từ nghề chế biến

37 Bài viết “Minh Khai: Rộn ràng làng nghề dịp tết”, Hương Đõ, Cổng thông tin điện tử UBND Huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội, 2016

nông sản, thực phẩm37.

Hình. Cánh đồng miến tại làng nghề chế biến NSTP Minh Khai

(nguồn: internet)

Đặc thù của làng nghề này là chế biến tinh bột nên lượng nước thải rất lớn tới

3.155.000m3/năm. Nước thải phát sinh do quá trình tẩy rửa các nguyên liệu, các khâu

chế biến trong sản xuất, lượng nước sử dụng lớn, có nơi lên tới 7.000 m3/ngày,

thường không được xử lý đã xả thải trực tiếp ra môi trường38. Kết quả phân tích mẫu

nước cho thấy nguồn nước mặt có màu đen xám, cao hơn mức độ màu trung bình 2,12

lần, hàm lượng chất ô nhiễm cao Coliform (một nhóm vi khuẩn rất phổ biến) cao hơn

vài nghìn lần so với mức trung bình, lượng oxy hòa tan trong nước thấp hơn tiêu

chuẩn 2mg/l, lượng oxy cần thiết để oxy hóa các hợp chất hóa học trong nước cao hơn

tiêu chuẩn 18,23 lần, lượng oxy cần thiết để vi sinh vật oxy hóa các chất hữu cơ theo

phản ứng cũng cao hơn tiêu chuẩn 12,3 lần…39 Toàn bộ lượng nước thải trên chưa

qua xử lý được xả thải vào hệ thống kênh tiêu và chảy vào sông Nhuệ, sông Đáy, chất

38 Bài viết Hà Nội cần khoảng 1.350 tỷ đồng để xử lý môi trường làng nghề, Vũ Lê, Báo Kinh tế và Đô thị Online, 2015 39 Bài viết Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội, Nguyễn Gia, Báo Lao động thủ đô, 2014

lượng nước thải các làng nghề chế biến nông sản có đặc điểm là nồng độ các chất ô

nhiễm hữu cơ cao hơn tiêu chuẩn nước thải công nghiệp từ vài chục đến hàng trăm

lần. Vì vậy, đã gây ảnh hưởng suy thoái, ÔNMT nghiêm trọng, nhất là vào vụ sản

xuất từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm, gây thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp, nuôi

trồng thuỷ sản, đời sống của nhân dân; làm suy thoái môi trường nước sông Nhuệ,

sông Đáy Việc làng nghề đã bị ô nhiễm môi trường ở mức báo động đã ảnh hưởng

đến sức khỏe như các bệnh tiêu hóa, bệnh ngoài da, mắt chiếm hơn 30%, bệnh hô hấp

20% và các bệnh khác như các bệnh tai, mũi họng, thần kinh..

Hình. Một cống thoát nước lộ thiên tại một làng nghề ở huyện Hoài Đức

(nguồn: internet)

Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Quan trắc - Phân tích tài nguyên môi

trường Hà Nội và điều tra của Chi cục BVMT Hà Nội tại hơn 40 làng nghề trên địa

bàn thành phố trong đó có làng nghề Minh Khai (Hoài Đức) cho thấy, môi trường

nước, không khí, đất đai bị ô nhiễm nặng bởi các chất hóa học độc hại. Nguồn nước

ngầm bị nhiễm nặng COD, NH4, phenol; hàm lượng Ecoli, coliform, kim loại nặng

như As, Hg “vượt ngưỡng” cho phép nhiều lần. Hầu hết ao, hồ, kênh mương thủy lợi

bị nhiễm độc bởi các chất như SS, BOD5, NH4, NO2¸PO4, Hg, phenol, dầu mỡ,

40 Bài viết Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội, Phúc Lập, Báo Nông nghiệp, ngày 08/04/2015.

coliform. Còn môi trường đất bị nhiễm các kim loại nặng như đồng, kẽm…40

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ÔNMT làng nghề là do ý thức người

dân. Nhiều người biết rõ mức độ nguy hiểm của việc gây ô nhiễm nhưng vẫn vi phạm,

trong khi đó cơ quan quản lý nhà nước lại chưa chú trọng việc kiểm tra, xử lý. Một

nguyên nhân khác là nguồn kinh phí đầu tư cho công tác khắc phục ÔNMT làng nghề

còn hạn chế, đa phần cơ sở sản xuất, hộ gia đình không có kinh phí đầu tư cho hệ

thống xử lý nước thải, khí thải, thu gom phân loại chất thải rắn... Bên cạnh đó, thiết bị,

công nghệ sản xuất ở các làng nghề vẫn lạc hậu, mặt bằng thì chật hẹp... Một nguyên

nhân nữa có thể nói tuy là nhỏ, nhưng lại có tác động hết sức to lớn dẫn đến những

nguyên nhân trên, đó là sự quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm từ chính quyền địa

phương, việc áp dụng pháp luật và xử lý vi phạm hời hợt đã khiến cho ý thức người

dân, sự quan tâm của các nhà đầu tư…không những không có tiến triển mà còn có xu

hướng “lách luật”, phá luật. Một lần nữa, chúng ta lại phải đặt ra câu hỏi về tính khả

thi của các văn bản pháp luật cũng như khả năng áp dụng các văn bản pháp luật đến

đâu.

Trong khi tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc thì nhiều

chương trình, dự án nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn lại

không phát huy hiệu quả. Cụ thể, từ năm 1995-2001, huyện Hoài Đức đã đầu tư xây

dựng công trình sản xuất phân hữu cơ từ bã sắn, đót và xử lý nước thải ở xã Dương

Liễu trị giá gần 5 tỷ đồng, sau khi hoàn thành, công trình đã bàn giao cho Công ty

TNHH Mặt Trời Xanh sử dụng nhưng không phát huy được hiệu quả. Mặt khác, công

ty này cũng không tìm ra được thị trường cho sản phẩm phân bón hữu cơ nên sản xuất

bị đình đốn. Ngoài dự án trên, năm 2002, được sự giúp đỡ của Viện Công nghệ sinh

học (Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam), xã Minh Khai cũng hoàn thành công

trình xử lý nước thải với công suất 120m3/ngày với tổng số tiền đầu tư 100 triệu đồng.

Nhưng sau khi đưa vào sử dụng một thời gian ngắn, công trình đã phải “đắp chiếu” do

41 Bài viết Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội, Nguyễn Gia, Báo Lao động thủ đô, 11/09/2014

đặt sai vị trí 41.

Có thể thấy, mặc cho những nỗ lực “sửa đổi” của các nhà đầu tư nhằm thay đổi

môi trường, tình trạng môi trường đang ngày càng xấu đi vẫn là những vấn đề không

thể chối cãi. Nếu như chỉ biết chữa mà không biết phòng tránh, thì rõ ràng sẽ không

có vấn đề nào được giài quyết triệt để và thấu đáo. Các con sông, con kênh thì vẫn

nằm ngoài kia, và tình trạng ÔNMT sẽ mãi không thể thay đổi khi chưa có sự can

thiệp thực sự từ chính quyền địa phương, các cơ quan thi hành pháp luật và sự quan

tâm đến từ những người dân đang sinh sống và làm việc tại các làng nghề chế biến

thực phẩm.

2.2.2 Việc áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường

Các làng nghề chế biến thực phẩm ở Hà nội nói riêng và ở Việt nam nói chung

đề là các cơ sở sản xuất nhỏ có quy mô hộ gia đình, mặt bằng sản xuất thì chật hẹp

xen lần với khu vực sinh sống của người dân. Vậy nên trong quá trình sản xuất không

thể không tránh khỏi làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân nơi đây. Đồng

nghĩa với việc sản xuất ở các khu vực làng nghề này càng phát triển thì nguy cơ phát

thải ô nhiễm tới các khu dân cư càng cao hơn. Các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường

chọn quy trình sản xuất thô sơ, tận dụng sức lao động với trình độ thấp để tiết kiệm

chi phí những cũng gián tiếp thực hiện hành vi phá hoại môi trường sống đối với

những người dân quanh khu vực này. Thậm chí một số cơ sở còn sử dụng những

nguyên nhiên liệu rẻ tiền nhưng lại mang rất nhiều chất độc hại trong đó có cả các loại

chất cấm sử dụng nhằm tăng năng suất, tăng tính cạnh tranh với các làng nghề trong

khu vực. Nhận thấy ÔNMT đang trở thành vấn nạn tại các làng nghề thì các cơ quan

Nhà nước đã có những chính sách để hạn chế, khắc phục tình trạng ÔNMT ở các làng

nghề. Thế nhưng, trên thực tế, khi những biện pháp pháp luật BVMT được áp dụng

lên các làng nghề thì lại gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng.

Tình hình thực thi pháp luật làng nghề còn yếu kém. Số vụ thanh tra kiểm tra

đối với làng nghề rất hạn chế, công tác quy hoạch phát triển, di dời còn nhiều bất cập.

Quan trắc môi trường còn bị bỏ ngỏ, đầu tư ngân sách hạn hẹp... Làng nghề không có

kết cấu hạ tầng BVMT. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân gây nên tình

trạng ÔNMT hiện nay là do người dân chưa có ý thức trong việc BVMT.

Phân loại cơ sở

Hình thức xử lý hành chính đã áp dụng

Gây ô

Số cơ

Số cơ sở

Phạt tiền

nhiễm

Tên địa

sở được

được

Gây ô

Số cơ sở

Số cơ sở bị

MT

Cảnh

phương

kiểm

thanh

nhiễm

Số

phải di

đình chỉ hoạt

nghiê

cáo

tra

tra

MT

Số tiền phạt

dời

động

m

sở

trọng

Năm 2006

Bắc

35

Ninh

Năm 2008

Bắc

02

02

02

72.000.000

Ninh

Năm 2009

0

0

Hà Nội

06

01

03

01

04

03

52.300.000

Năm 2010

0

0

Hà Nội

06

0

01

01

03

03

158.000.000

Hình. Kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý VPPL về môi trường tại các làng nghề

ở Hà Nội từ năm 2006-2010 42

Thứ nhất, đối với vấn đề quy hoạch tại các làng bún Phú Đô và làng nghề chế

biến NSTP Minh Khai. Hiện tại vẫn chưa có văn bản nào chính thức từ UBND TP Hà

Nội về việc triển khai quy hoạch làng nghề Phú Đô. Còn tại làng nghề chế biến NSTP

42 Tr.125, Phụ lục XII, Phụ lục Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề: Tiếp thu UBTVQH, ngày 19/10/2011

Minh Khai, theo thống kê của UBND huyện Hoài Đức, toàn huyện hiện có 51 làng

nghề với hàng vạn hộ sản xuất, kinh doanh, nên vấn đề xử lý môi trường gặp nhiều

khó khăn.43 Quy hoạch tiêu thoát nước chung của huyện đã được phê duyệt nhưng

chưa được đầu tư. Đặc biệt, tiến độ xây dựng CCN làng nghề, trạm xử lý nước thải

chưa đáp ứng yêu cầu. Để khắc phục những bất cập đang tồn tại, huyện Hoài Đức đã

tập trung hoàn thành Quy hoạch BVMT đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

Đồng thời, tổ chức nhiều hội nghị để tham khảo ý kiến của các nhà khoa học về xử lý

môi trường tại các làng nghề một cách triệt để, tránh chồng chéo, đảm bảo hiệu quả

đầu tư. Việc quy hoạch và triển khai quy hoạch xây dựng làng nghề, cụm tiểu thủ

công nghiệp làng nghề còn khá chậm.

Thứ hai, đối với vấn đề áp dụng pháp luật ĐTM tại làng bún Phú Đô và làng

nghề chế biến thực phẩm thì công tác quản lý tại các làng nghề này còn lỏng lẻo. Hệ

thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thiếu tính đặc thì mỗi loại ngành nghề

truyền thống. Ở các cơ sở tại làng nghề Vạn Phúc thì quá trình chế biến, tẩy rửa, sử

dụng hóa chất bảo quản là nguyên nhân chính gây ra ÔNMT. Chính vì vậy mà cần

phải có hoạt động phân tích, dự báo các tác động đến môi trường khi vận hành các cơ

sở này. Tuy nhiên, đa số cơ sở sản xuất kinh doanh ở làng nghề chế biến thực phẩm

không thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Nguyên nhân là phần lớn các

chủ cơ sở ở đây chưa hiểu biết hết về trách nhiệm BVMT của mình nên họ không biết

cần phải thực hiện ĐTM. Hơn thế, khi hỏi các chủ hộ sản xuất là tại sao không đánh

giá tác động môi trường thì hầu hết cầu trả lời đều là: “Không làm vì các nhà khác

cũng không thấy làm”. Thậm chí có những nhà đã xây dựng hệ thống nước thải rồi bỏ

dở không vận hành vì hàng xóm không làm như vậy. Cũng có nhiều trường hợp chủ

cở sở khai giảm công suất của cơ sở mình để chỉ cần lập Cam kết BVMT để trốn tránh

việc lập ĐTM. Trên thực tế việc phê duyệt báo cáo ĐTM còn lỏng lẻo bởi cơ quan địa

phương còn chưa đủ nhân lực, tranh thiết bị, chuyên môn để phê duyệt. Pháp luật

43 Bải viết Giải tỏa bức xúc cho làng nghề, Thiện Quang, Báo Kinh tế đô thị, 30/03/2015

cũng chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm những bên liên quan trong phê duyệt để

bảo đảm hiệu quả trong quá trình làm việc. Điều đáng quan ngại hơn nữa là hiện nay

có một số công ty mọc lên chuyên nhận làm những báo cáo đánh giá tác động môi

trường cho các công ty kinh doanh cần phải lập ĐTM. Những công ty này vô hình

chung tạo ra những ĐTM giả để đối phó với cơ quan môi trường làm công tác kiểm

tra. Đây cũng là nguyên nhân cho hai con sông Nhuệ, Đáy sau bao nỗ lực cải tạo tình

trạng hai con sông vẫn xuống cấp trầm trọng như vậy có thể nó công tác ĐTM tại các

làng nghề chế biến thực phẩm không hiệu quả và trở nên vô nghĩa.

Thứ ba, về việc quản lý chất thải trong khu vực làng nghề chế biến thực phẩm

tại Hà nội, cùng với sự phát triển nhanh chóng của làng nghề khối lượng rác thải càng

ngày càng lớn, các địa điểm tập kết rác càng lúc càng ô nhiễm. Các tổ thu gom rác tự

quản tại các làng nghề chế biến thực phẩm đã được thành lập để thu gom rác thải sinh

hoạt trong thôn. Tuy nhiên, lượng rác thải càng lúc càng nhiều hơn, UBND các

phường đã ký hợp đồng với các Công ty Môi trường để di dời rác từ những nơi tập

kết, giữ gìn cảnh quan thôn xóm. Chất thải sinh hoạt và chất thải rắn đã được xử lý thế

nhưng nước thải chứa hóa chất trong quá trình dệt lụa vẫn được thải trực tiếp cùng với

nước sinh hoạt đổ ra sông Nhuệ. Trong quá trình sản xuất thực phẩm tại làng bún Phú

Đô và làng nghề chế biến NSTP Minh Khai, người dân vẫn sử dụng phương pháp thủ

công, xả thải trực tiếp. Tuy rằng, các địa phương đã cố gắng triển khai thực hiện tốt

công tác thu gom chất thải rắn và chất thải sinh hoạt xong các chất thải khí, nước,

tiếng ồn thì lại không có biện pháp để xử lý. Hay nói cách khác công tác quản lý nước

thải, khí thải trong quá trình sản xuất thực phẩm còn yếu và kém hiệu quả.

Bên cạnh đó, có một vấn đề khá thật mà hầu như hiện nay chúng ta đang cố

gắng không nhắc đến vì tính nhạy cảm đó là môi quan hệ giữa cán bộ trong hệ thống

chính quyền tại địa phương và giữa các cán bộ không sản xuất và sản xuất tại các làng

nghề có gắn bó về mặt tình cảm. Tại làng nghề Phú Đô cũng như làng nghề chế biến

NSTP, một số cán bộ lại vì việc này mà e ngại áp dụng các biện pháp chính quyền và

luật pháp đối với chủ các cở sở sản xuất làng nghề ô nhiễm có các cán bộ kinh doanh

hay là người nhà cán bộ đó kinh doanh. Việc ngại xung đột do quan hệ hàng xóm láng

giềng tư duy sai lầm có thể dẫn đến nhiều tổn hại hơn nữa cho hiện tại và tương lai

vẫn còn đang tồn tại giữa các cán bộ thực hiện nhiệm vụ trong ngành với nhau. Hầu

như các cán bộ ở địa phương nhất là nơi có các làng nghề đang hoạt động họ bỏ qua

cho những cơ sở sản xuất có chủ là các cán bộ khác hoặc là người nhà của các cán bộ

đó. Bởi những bất cập trên mà công tác quản lý, kiểm soát vấn đề ô nhiễm tại các làng

nghề thực sự chưa hiệu quả và còn quá nhiều những hạn chế mà khó có thể xử lý

trong ngày một ngày hai. Đây là vấn đề mang tính thời sự vì nó không chỉ đang trực

tiếp ảnh hưởng đến môi trường mà còn gián tiếp ảnh hưởng lên sức khỏe con người

với một lối sống vô trách nhiệm với môi trường.

Thứ tư, về việc áp dụng các chế tài xử lý về mặt hành chính, dân sự, hình sự,

quy trách nhiệm của các tổ chức cá nhân khi vi phạm pháp luật về BVMT, hiện tại

pháp luật BVMT đang ngày càng chặt chẽ và bao quát hết các đối tượng gây ÔNMT.

Bên cạnh đó thì vẫn còn những hạn chế khi áp dụng chính sách pháp luật đối với các

khu vực làng nghề chế biến thực phẩm, trong đó có làng bún Phú Đô và làng nghề chế

biến NSTP Minh Khai. Về mặt xử lý hành chính, mặc dù Nghị định 179/2013/NĐ-CP

đã quy định những chế tài xử phạt đối với những hành vi gây ÔNMT. Trên thực tế,

việc kiểm tra và xử lý các hành vi xả thải còn là một nhiệm vụ rất khó khăn, bởi bản

chất của các hành vi vi phạm về môi trường đều là hành vi lén lút, ngụy trang, luôn

tìm cơ hội để che dấu và một trong những biện pháp xả thải trong phạm vi đất của

doanh nghiệp, hộ gia đình, làng nghề là một hiện tượng rất phổ biến. Chính điều này

đã tạo nên những khó khăn rất lớn cho lực lượng công an môi trường, cả về thẩm

quyền và nghiệp vụ. Đối với bồi thường thiệt hại do gây ÔNMT thì pháp luật dân sự

đã có những sửa đổi bổ sung bao quát, chặt chẽ trong Bộ luật Dân sự 2015. Việc xác

định bồi thường thiệt hại của các bên còn khó khăn khi Bộ luật Dân sự hiện hành và

Luật BVMT 2014 nội dung dẫn chiếu chưa đi vào cụ thể. Hơn nữa, pháp luật Dân sự

còn chưa thể hiện những quy định đặc thù về quy trình và thủ tục trong trách nhiệm

đòi bồi thường thiệt hại do gây ÔNMT. Trên thực tế ở các làng nghề thì người thực

hiện quyền bồi thường này gặp không ít khó khăn trong trường hợp họ không thoả

thuận được với đối tượng gây thiệt hại mà phải kiện ra Tòa án. Thế nhưng những

người bị thiệt hại lại không có chứng cớ chứng minh thiệt hại đó là do đối tượng vi

phạm gây ra. Hơn nữa, người bị thiệt hại do ÔNMT chủ yếu là người dân vùng nông

thôn trình độ hiểu biết còn hạn chế. Họ chưa tự mình đứng lên đòi bồi thường thiệt hại

do ÔNMT gây ra. Và đối các tội phạm môi trường pháp luật Hình sự cũng có những

sửa đổi đáng kể trong Bộ luật Hình sự 2015 khi mà cụ thể hóa tội phạm cấu thành vật

chất bằng những con số và thêm vào những tội phạm cấu thành hình thức cải thiện

những bất cập trước đây. Đối với vấn đề làng nghề những quy định về trách nhiệm

hình sự còn tỏ ra kém hiệu quả. Hiện nay vẫn chưa có vụ án nghiêm trọng nào về môi

trường tại các cơ sở sản xuất ở làng bún Phú Đô cũng như làng nghề chế biến NSTP.

Bởi các cơ sở ở đây đều có quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình hành vi gây ô nhiễm không

phải chỉ do một người gây ra nên việc xác định chủ thể vi phạm rất khó khăn trên thực

tế. BLHS 2015 đã đưa pháp nhân thương mại là chủ thể của hành vi phạm tội trong

lĩnh vực môi trường.

Đứng ở góc độ một nhà nghiên cứu chuyên môn, GS.TS Đặng Kim Chi, Hội

Bảo vệ thiên nhiên Việt Nam lý giải, hiện nay thiếu chế tài xử phạt các hành vi vi

phạm BVMT làng nghề. Thẩm quyền của địa phương còn hạn chế, nguồn tài chính,

trợ giúp kỹ thuật và cung cấp thông tin về kĩ thuật công nghệ mới thân thiện môi

trường còn ít. Nhận thức và sự tham gia của các hộ sản xuất làng nghề trong BVMT

còn hạn chế. Việc xử lý ÔNMT làng nghề hiện nay cần phải tiến hành đồng bộ, có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, Bộ, ngành và sự tham gia đồng bộ của các tổ

chức, đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp44.

Tóm lại, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật tại các cơ sở

44 Bài viết Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập, Trung Hiếu, Báo Mới,ngày 09/11/2011

trong làng nghề thực hiện chưa thường xuyên, xử lý chưa thực sự nghiêm minh, ý

thức chấp hành pháp luật về BVMT của một số chính quyền các cấp, các cơ sở, hộ gia

đình sản xuất, kinh doanh tại làng nghề chưa cao

2.3 Kết quả đạt được và một số tồn tại

Một là, về các kết quả đạt được.

Thứ nhất, về các quy định pháp luật BVMT: hệ thống VBQPPL đối với làng

nghề từng bước được quan tâm hoàn chỉnh. Hệ thống VBQPPL về BVMT nói chung,

các văn bản pháp luật khác có liên quan đến làng nghề tương đối đầy đủ và nhiều văn

bản riêng về quy hoạch, quản lý, BVMT tại các làng nghề cũng đã được ban hành; đặc

biệt là các địa phương đã ban hành rất nhiều văn bản có liên quan cho sự phát triển

bền vững của làng nghề.

Thứ hai, về thực trạng áp dụng pháp luật BVMT các khu vực làng nghề chế

biến thực phẩm: Công tác chỉ đạo, điều hành các cấp, các ngành đối với hoạt động của

làng nghề đã được quan tâm. Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã ban hành nhiều

văn bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT làng

nghề; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề.

Hệ thống VBQPPL về BVMT nói chung, các văn bản pháp luật khác có liên

quan đến làng nghề tương đối đầy đủ và nhiều văn bản riêng về quy hoạch, quản lý,

BVMT tại các làng nghề cũng đã được ban hành; đặc biệt là các địa phương đã ban

hành rất nhiều văn bản có liên quan cho sự phát triển bền vững của làng nghề.

Công tác chỉ đạo, điều hành các cấp, các ngành đối với hoạt động của làng

nghề đã được quan tâm. Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã ban hành nhiều văn

bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề;

tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề.

Hai là, về một số tồn tại.

Thứ nhất, về các quy định pháp luật BVMT. Hệ thống VBQPPL về BVMT,

đặc biệt là quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tương đối đầy đủ nhưng nhiều

quy định thiếu khả thi đối với làng nghề nên việc tổ chức thực hiện pháp luật của

chính quyền địa phương các cấp còn có nhiều hạn chế. Giữa các văn bản luật còn có

sự chồng chéo lẫn nhau gây nên khó khăn trong việc áp dụng. Tuy đã thể hiện được

tính khái quát lên gần hết các vấn đề của BVMT, quy định của pháp luật BVMT tại

Việt Nam vẫn còn mang những thiếu sót.

Về quy hoạch làng nghề với BVMT: Theo kế hoạch triển khai công tác quy

hoạch làng nghề đã được ban hành bởi các cấp hiện nay, có thể nói rằng công tác quy

hoạch làng nghề về cơ bản đang dần được hoàn thiện. Vấn đề của quy hoạch hiện nay

là phải làm thế nào để kết nối được các vùng với nhau, tạo mảng liên kết cộng đồng

thông thương, tạo ra được các vùng sản xuất chuyên canh mang lại giá trị cao cho các

vùng. Các đô thị bùng nổ quá nhanh trong khi các đề xuất quy hoạch các vùng (trong

đó có làng nghề) mới cũng ồ ạt chạy theo, nhưng lại thiếu những quy hoạch tổng quát

có tính chiến lược, bền vững. Thêm vào đó, việc thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ,

không kiểm soát được việc quản lý xây dựng hoặc không kịp xây dựng đồng bộ các

cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khiến nhiều giá trị của các quĩ đất đô thị bị mai

một, nhiều giá trị văn hoá tại các vùng bị phá vỡ.

Các kế hoạch quy hoạch làng nghề hiện nay vẫn chưa thật sự kết hợp sâu sắc

với các tổ chức chuyên ngành trong việc đánh giá và nhận diện đầy đủ những giá trị

của quỹ di sản làng nghề, phân loại đặc điểm của từng nhóm làng nghề, hơn nữa

chúng ta cũng đang bị thiếu những tổ chức như thế này để thực hiện công việc một

cách thống nhất và đầy đủ. Việc Quy hoạch các Làng đòi hỏi sự xem xét cụ thể và cân

nhắc cẩn trọng trên nhiều mặt, bắt đầu bằng việc điều tra, phân loại, và xác định

những đặc thù của từng Làng, những giá trị văn hoá cần được bảo tồn, những khu vực

cần cải tạo, và những khu vực cần giải toả, xây dựng lại để phát triển; trên cơ sở đó

tiến hành bước nghiên cứu các khả năng xử lý không gian.

Về xây dựng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường: Do hiện nay chưa có qui

định về mẫu thông tin dữ liệu cụa thể của các cơ quan chức năng Việt Nam, các cơ

quản có thẩm quyền về thu thập, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường phải tổng

hợp và phân tích nhiều mẫu thông tin về dữ liệu của các nước khác. Về cơ bản, thông

tin về môi trường được liệt kê như sau sau: tên lớp thông tin, tỷ lệ, lưới chiếu, phương

pháp xây dựng, dữ liệu sử dụng để xây dựng, ngày hoàn thành, người xây dựng, người

biên tập, nơi lưu chữ, liên hệ chia sẻ dữ liệu. Các thông tin này được lập thành biểu

bảng và được xây dựng như một công cụ xem thông tin về dữ liệu trong hệ thông cơ

sở dữ liệu45.

Hiện nay cơ chế chính trong xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường,

dữ liệu thông tin về môi trường chỉ là báo cáo bao gồm: báo cáo lên các cơ quan có

thẩm quyền quản lý và thông báo, công khai thông tin môi trường. Thêm vào đó, việc

thu thập quản lý truy cập thông tin về tài nguyên đất và nước còn rất phân tán. Các dữ

liệu của các cơ quan khác nhau còn chưa nhất quán và thiếu trao đổi giữa các cơ quan

Nhà nước. Trên hết, chúng ta hiện vẫn đang thiếu cơ chế chia sẻ thông tin dữ liệu và

thiếu cả các quy chế, quy định về lưu trữ, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu; các

thông tin dữ liệu còn phân tán chồng chéo và thiếu sự phối hợp, trao đổi thông tin, dữ

liệu giữa các cơ quan ban ngành, giữa địa phương và Trung ương, việc giao nộp, lưu

trữ để đưa vào khai thác, sử dụng còn rất chậm. Thông tin, dữ liệu về môi trường còn

nằm rải rác ở nhiều Bộ, ngành, cơ quan khác nhau, dưới dạng tài liệu hay số liệu thô

chưa chuẩn hóa và chỉnh lý theo chuẩn thống nhất Nguồn thông tin dữ liệu này rất

lớn, có giá trị sử dụng cao và lâu dài. Chúng ta cần chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng khái

niệm, mục đích chung của cả hệ thống thông tin dữ liệu. Cần ưu tiên xây dựng những

thông tin dữ liệu đang được mọi người quan tâm, ví dụ như thông tin dữ liệu môi

trường về các nhóm làng nghề, môi trường tại các khu công nghiệp...

Về đánh giá tác động môi trường, lập kế hoạch BVMT tại các làng nghề: Nhìn

chung, các quy định về hoạt động ĐTM đang ngày càng được hoàn thiện, các quy

định pháp luật cũng được xây dựng ngày càng chặt chẽ, có tính khả thi và khả năng

thích nghi cao trong bối cảnh xã hội thay đổi từng ngày. Tuy vậy, nhìn vào hệ thống

45 Cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường biển tỉnh Thanh Hóa

các quy định pháp luật về ĐTM ở Việt Nam nói chung và quy định về hoạt động

ĐTM ở các khu kinh tế nói riêng vẫn còn rất sơ sài, yếu kém. Các văn bản rời rạc,

không tập trung, các quy định nằm rải rác ở các văn bản khiến cho người làm luật gặp

rất nhiều khó khăn. Thực trạng các quy định chồng chéo nhau vẫn còn xảy ra rất

nhiều. Với đặc trưng của các khu vực như khu công nghiệp, khu vực nông thôn, khu

vực làng nghề, và khu vực kinh tế, tùy từng đặc trưng của các vùng mà có cách ứng

dụng các quy định về ĐTM sao cho hợp lý và đạt hiệu quả cao là điều chúng ta chưa

làm được. Hơn nữa, việc các quy định của pháp luật xa rời với thực tế, khó áp dụng là

một trong những nguyên nhân khiến cho ĐTM chỉ đảm bảo tính hình thức để đủ điều

kiện cho hoạt động đầu tư còn về bản chất vẫn chưa được phát huy.

Về quy định các quy chuẩn kỹ thuật môi trường: Các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ

thuật môi trường hiện nay chậm được nghiên cứu, đổi mới do được biên soạn từ lâu,

chưa kịp cập nhật nên chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Điều này phần lớn là do

nguồn lực hạn chế, có sự thay đổi trong phân cấp quản lý nên kéo dài thời gian biên

soạn và công bố tiêu chuẩn. Nội dung quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường

chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu thực tế; một số nội dung chưa thể áp dụng

trong điều kiện kinh tế- kỹ thuật hiện tại. Nội dung giữa các văn bản còn có sự chồng

chéo, mâu thuẫn, thiếu sự đồng bộ, thống nhất; chưa đạt được sự đồng thuận giữa các

bên có liên quan.

Khi ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn riêng cho một số ngành đặc thù cũng dẫn

đến sự không công bằng nhất định cho các cơ sở sản xuất ở những loại hình làng nghề

khác nhau. Do chủ yếu dựa vào các quy chuẩn, tiêu chuẩn nước ngoài nên nhiều nội

dung của quy chuẩn, tiêu chuẩn chưa tính đến điều kiện tự nhiên (địa hình, địa chất,

thủy văn), điều kiện kinh tế- xã hội giữa các vùng miền, trình độ tư vấn, thi công ở

Việt Nam. Nội dung quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường chưa đáp ứng yêu cầu

và chưa đạt được sự đồng thuận của các bên tham gia: cơ quan quản lý, các hộ sản

xuất, doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà khoa học. Tại các làng nghề các hộ sản

xuất, cá nhân lao động sản xuất ngại thay đổi những thói quen, việc sản xuất chủ yếu

dựa theo kinh nghiệm truyền nghề. Việc áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật phức tạp

hơn không có tài liệu để kiểm soát, kiểm tra.

Thứ hai, về thực trạng áp dụng pháp luật BVMT các khu vực làng nghề chế

biến thực phẩm. Công tác BVMT tại một số làng nghề không đạt kết quả như mong

muốn, còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập chưa được giải quyết. Một phần không nhỏ

môi trường tại các làng nghề Việt Nam đã và đang bị ô nhiễm, có làng nghề gây

ÔNMT đến mức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và cộng đồng

dân cư.

Trong bài viết “Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng nghề ở Việt

Nam” trong tạp chí Khoa học ĐHQGHN (2012)46, TS. Lê Kim Nguyệt đã nhận xét

rằng: “Việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT tại các làng nghề ở

Việt Nam hiện đang là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ

nhiều yếu tố như: tuyên truyền giáo dục để các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực này

hiểu biết cặn kẽ nội dung của pháp luật BVMT tại các làng nghề và nâng cao được ý

thức tự giác trong việc thực hiện trách nhiệm của mình; thực hiện chức năng, vai trò

quản lý nhà nước trong việc triển khai giám sát thực thi pháp luật BVMT tại các làng

nghề; vấn đề đầu tư vốn, phương tiện xử lý chất thải; việc xác định mức độ vi phạm

và các chế tài xử phạt, v.v...”. Theo thống kê hiện tại thì có khoảng trên 60 văn bản

pháp luật có nội dung quy định về BVMT, một con số không hề nhỏ các văn bản, vậy

điều đó có nghĩa là pháp luật sẽ đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan hơn? “Luật BVMT

năm 2005 là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực

BVMT, trong đó có 1 điều riêng (Điều 38) quy định về vấn đề BVMT làng nghề và

các điều khoản liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện

luật, cần có các văn bản quy định cụ thể, nhưng mãi đến thời điểm gần đây (cuối năm

2011) tức là sau khoảng 6 năm, các quy định cụ thể về BVMT làng nghề mới được Bộ

46 Bài viết Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng nghề ở Việt Nam, TS. Lê Kim Nguyệt; Luật học 28 (2012) 180‐185, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN

TN&MT ban hành: Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về BVMT làng nghề

(sau đây viết tắt là Thông tư 46/2011/TT-BTNMT). Thông tư bao gồm 4 chương, 19

điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2012. Đây được xem là cây "gậy" xử lý trách

nhiệm của người gây ra ô nhiễm làng nghề.”

Về công tác tổ chức, chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành,

UBND các địa phương về BVMT. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về BVMT nói

chung và môi trường làng nghề nói riêng hiện nay đã được tổ chức từ Trung ương đến

địa phương nhưng lực lượng còn quá mỏng và hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.

Theo báo cáo của Chính phủ và kết quả giám sát cho thấy số lượng cán bộ tham

gia vào công tác quản lý môi trường ở địa phương trên phạm vi toàn quốc là trên

2.600 cán bộ. Trong đó có khoảng 95% cán bộ quản lý môi trường cấp huyện không

có bằng cấp chuyên môn trực tiếp về môi trường. Đối với cấp xã, phường và thị trấn

cán bộ môi trường thường là cán bộ địa chính được giao kiêm nhiệm công tác quản lý

môi trường, công việc rất nặng nề, nhưng chế độ chính sách đối với đối tượng này

chưa tương xứng, do đó thời gian dành cho việc thực hiện trách nhiệm về BVMT rất

hạn chế. Cho đến nay, chưa có làng nghề nào (kể cả làng nghề đã được công nhận và

làng nghề chưa được công nhận) có cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường. .

Về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT: Chức

năng thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp

luật về BVMT nói riêng đối với các đối tượng sản xuất trong làng nghề được giao cho

nhiều ngành, nhưng việc triển khai thực hiện lại rất hạn chế.

Đối với làng nghề, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường

xuyên, triệt để. Hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, rất ít trường hợp bị xử lý hành

chính cũng như áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung khác. Theo Quyết định số

64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch xử lý triệt để

các cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng hiện đang phải áp dụng các biện pháp cải thiện

môi trường hoặc dần thu hẹp quy mô hoạt động tiến tới chuyển đổi hoàn toàn ngành

nghề sản xuất. Bên cạnh đó, do tâm lý họ hàng, dòng tộc, làng xã nên các hộ dân (có

sản xuất và không sản xuất nghề) có tâm lý e ngại, nể nang và ngại va chạm, nên

không tố giác các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật về BVMT nói

riêng. Tại một số địa phương, số ít người dân còn có lúc che dấu hành vi vi phạm

pháp luật BVMT của các hộ sản xuất.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG

3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường

Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, BVMT luôn luôn là vấn

đề được mọi người quan tâm, đặc biệt là Đảng và Nhà nước. Công tác BVMT ở nước

ta trong thời gian vừa qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể

chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công

tác BVMT. Ý thức BVMT trong mỗi con người ngày một nâng cao; công tác bảo tồn

thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được những thành quả có ý nghĩa tích

cực.

Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn đang có xu hướng xuống cấp nhanh, điển

hình ở các hiện tượng như: đất bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng nguồn nước suy

giảm mạnh; không khí các khu đô thị- dân cư, khu kinh tế - làng nghề bị ô nhiễm

nặng; khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng; đa dạng

sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường và vấn đề cung cấp

nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp

hóa, quá trình đô thị hoá, sự gia tăng dân số chóng mặt mặc dù mật độ dân số tại nhiều

vùng đã quá cao, khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng, các thảm hoạ do thiên tai và

những diễn biến xấu đi của khí hậu toàn cầu gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi

trường. Trước tình hình này, mới đây Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-

NQ/TW đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết này đã đưa ra các quan điểm sau:

“BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm

sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát

triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế

quốc tế của nước ta.

BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển

bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát

triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú

trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ BVMT. Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho

phát triển bền vững.

BVMT là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi

người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội

văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của

cha ông ta.

BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng

rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý

thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân. 47”

Như vậy, BVMT vừa là nghĩa vụ, vừa là lợi ích của từng cá nhân và là trách

nhiệm của toàn xã hội. Môi trường càng đi xuống đồng nghĩa với việc cơ hội được sống

trong môi trường trong sạch của con cháu chúng ta đang trở nên hết sức hạn hẹp. Trước

tình hình này, con người cần đặt vấn đề BVMT lên thành mối quan tâm hàng đầu và để

có thể biến những quan tâm thành hành động, việc đầu tiên chúng ta phải làm đó chính là

đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật BVMT.

Pháp luật Việt Nam về BVMT đã chú ý đến tính hội nhập, sự thay đổi nhanh

chóng của nền kinh tế - xã hội và luôn cố gắng tương thích với sự phát triển của nước ta.

Việc tham gia vào những sân chơi lớn sẽ khiến cho đời sống văn hóa – kinh tế - xã hội

và đặc biệt là pháp luật có những thay đổi đáng kể và chúng ta buộc phải thay đổi để

có thể được chấp nhận như là một thành viên tham gia vào cộng đồng thế giới, hưởng

các quyền lợi ưu việt hơn. Việt Nam đã tham gia rất nhiều điều ước quốc tế, mà mới

47 Bộ Chính trị, 15/11/2004, Nghị quyết 41-NQ/TW Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

nhất đây Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng

với 11 nước thành viên Hiệp định tại New Zealand ngày 4/2/2016 48. Như vậy, chúng

ta đã chính thức gia nhập Hiệp định TPP và hiệp định này sẽ có hiệu lực vào năm

2018, đây là dấu mốc quan trọng cho hội nhập kinh tế khu vực. Các chuẩn mực được

thiết lập bởi TPP sẽ thúc đẩy thương mại và đầu tư tự do giữa 12 nước thành viên.

Đây là hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên đưa các nội dung về môi

trường thành một chương trong các cam kết. Điều này một lần nữa khẳng định, vị trí

quan trọng của môi trường trong các hoạt động thương mại, cũng như những đóng

góp của thương mại đối với phát triển bền vững.

Việc tham gia ký kết Hiệp định TPP đã mở ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội

trong việc cải thiện, BVMT, phát triển bền vững. Những cơ hội này bao gồm: Tự do

hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường sẽ góp phần hỗ trợ Việt nam

giảm thiểu ô nhiễm với chi phí thấp hơn, gia tăng các cơ hội kinh doanh cho doanh

nghiệp và tạo thêm nhiều việc làm; Việc chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp của

Việt nam với các hoạt động về thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái

tạo, cũng như thúc đẩy các hoạt động về hiệu quả năng lượng sẽ được thuận lợi hơn;

Các vấn đề về bảo tồn đa dạng sinh học, buôn bán trái phép các loại động thực vật quý

hiếm sẽ được ngăn chặn; Cộng đồng và các tổ chức NGOs sẽ có vai trò quan trọng

hơn trong việc tham gia vào các họa động ngăn chặn thương mại kém bền vững và

được góp tiếng nói, được cung cấp thông tin; Việt Nam được tham gia vào các hoạt

động và sẽ có tiếng nói hơn trong các hoạt động thúc đẩy thương mại bền vững do cơ

chế tổ chức luân phiên về vị trí Chủ tịch của Ủy ban môi trường TPP; Việt nam sẽ

được hưởng các lợi ích và có cơ hội nhận được các tài trợ cho thực hiện các hoạt động

thương mại bền vững do cơ chế trợ hợp tác và trợ giúp của các nước phát triển trong

48 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương

khối.

Có thể thấy tuy rằng hệ thống các văn bản pháp luật về BVMT tương đối toàn

diện, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường có nhiều, nhưng lại chồng

chéo, bị hiểu chưa chính xác, gây ra rất nhiều khó khăn và tạo ra nhiều lỗ hổng trong quá

trình áp dụng, xử lý các tình huống và thực thi pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật

BVMT vẫn luôn là điều cần thiết và luôn luôn phải được quan tâm một cách đúng đắn,

thực hiện thường xuyên để Pháp luật Việt Nam về BVMT luôn là một chỗ dựa pháp lý

vững chắc, đáng tin cậy của chúng ta trong công tác BVMT trong sạch ở thời kì đổi mới

– hội nhập với bạn bè quốc tế.

3.2 Một số đề xuất và kiến nghị

Trước thực trạng đáng báo động về sự thay đổi chóng mặt của công nghệ, sự

biến đổi khí hậu một cách tiêu cực. Chúng ta phải sớm nhìn nhận vấn đề môi trường

một cách hết sức nghiêm túc và đưa nó vào những quan tâm hàng đầu trong hoạt động

của chính từng cá nhân con người. Vấn đề ÔNMT không thể được giải quyết một sớm

một chiều, và điều có thể làm ngay bây giờ của chúng ta đó chính là đưa ra các cách

giải quyết cả về mặt con người, khoa học công nghệ và cả về mặt khoa học pháp lý.

Nhưng trước khi có thể đưa ra được những cách giải quyết, ta buộc phải xem xét

những rào cản, thách thức chúng ta có thể đang phải đối mặt, và đưa ra những ý kiến

mang tính khách quan, hợp lý nhất đề phù hợp với những thay đổi đang có hiện nay

và sẽ tiếp tục biến đổi trong tương lai.

Một là, về các quy định pháp luật. Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp

lý hoạt động của các làng nghề. Đối với hệ thống pháp luật, chính sách BVMT làng

nghề hiện nay đã tương đối đầy đủ, tuy nhiên việc áp dụng cho các loại hình đối tượng

khác nhau vẫn chưa rõ ràng. Hiện nay có 23 quy chuẩn quốc gia được xây dựng và

ban hành nhưng không thực sự khả thi đối với cơ sở sản xuất làng nghề. Bên cạnh đó,

hiện vẫn còn nhiều địa phương còn quá coi trọng phát triển kinh tế đã bỏ qua nhiều

trách nhiệm về BVMT.

Thứ nhất, cần ban hành các chính sách phát triển từng nhóm làng nghề như hỗ

trợ kinh phí, đào tạo nhân lực, việc ban hành chính sách và lộ trình xóa bỏ "mảng tối”

về ÔNMT làng nghề,... cũng cần được quan tâm hơn 49. Mỗi một nhóm làng nghề sẽ

mang những đặc trưng khác nhau nên những vấn đề đi kèm như quy hoạch, vấn đề xã

hội, vấn đề môi trường cũng sẽ khác nhau. Việc ban hành chính sách phát triển cho

từng nhóm làng nghề sẽ giúp cho việc cải thiện và BVMT được thực hiện có trật tự,

từng bước một chắc chắn tạo nên tổng thể hệ thống môi trường các làng nghề sạch

đẹp, giữ gìn được những bản sắc văn hóa truyền thống, thu hút du lịch và thân thiện

với cộng đồng dân cư.

Thứ hai, chúng ta cần xây dựng những quy chế cụ thể về xây dựng, quản lý dữ

liệu thông tin về môi trường cho nhóm các làng nghề chẳng hạn như quy chế cung cấp

dữ liệu, xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác và bảo trì CSDL tài nguyên và môi

trường Quốc gia về làng nghề, quy trình kỹ thuật xây dựng danh mục CSDL tài

nguyên và môi trường về làng nghề, quy chế lập, thực hiện, kiểm tra, nghiệm thu sản

phẩm các dự án ứng dụng CNTT trong ngành TN&MT, quy chế thẩm định và khuyến

nghị sử dụng các sản phẩm phần mềm ứng dụng trong ngành TN&MT đối với môi

trường làng nghề…

Thứ ba, cần có quy định cụ thể, sát thực tế về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và

các giải pháp cụ thể, khả thi đối với làng nghề, làng có nghề gây nhiễm môi trường

nghiêm trọng phải xử lý. Cần có quy chuẩn, tiêu chuẩn riêng dành cho môi trường các

nhóm làng nghề, Các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường phải tiếp cận được với

trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới. Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn

môi trường quốc gia về môi trường làng nghề phải gần sát với hệ thống tiêu chuẩn

chung của quốc gia và quốc tế. Các quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường làng nghề

phải đáp ứng được yêu cầu của cộng đồng dân cư trong và xung quanh khu vực làng

nghề trên cơ sở xác định tầm quan trọng và tính cấp thiết ở từng giai đoạn và khả năng

49 Bài viết Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập, Trung Hiếu, Báo Mới,ngày 09/11/2011

phát triển. Quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường cần đảm bảo tính cập nhật để phù

hợp với điều kiện kinh tế – xã hội.

Việc biên soạn quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường làng nghề phải có tính hợp

tác, liên kết các cơ quan có thẩm quyền, nhà nghiên cứu, cộng đồng dân cư để việc

trao đổi dữ liệu để được chấp nhận một cách rộng rãi, minh bạch. Ngoài ra việc xã hội

hóa công tác xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn cũng rất là cần thiết. Chúng ta cần tăng

cường việc tham gia xây dựng tiêu chuẩn từ hiệp hội các hộ sản xuất tại làng nghề.

Bản thân người lao động và các hộ sản xuất tại làng nghề phải tham gia thực hiện quá

trình xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn.

BVMT và quyền được sống trong môi trường trong lành là vấn đề toàn cầu,

một quốc gia không tự mình có thể giải quyết được, do vậy cần phải có sự kết hợp

phát huy nội lực với hợp tác quốc tế. Cần chủ động và tích cực tham gia các hoạt động

hợp tác quốc tế về BVMT và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế đã ký kết; tăng

cường hợp tác trong các lĩnh vực chuyển giao các công nghệ sản xuất sạch và thân

thiện với môi trường; tìm kiếm sự giúp đỡ quốc tế nhằm BVMT toàn cầu; cần tích cực

tham gia các diễn đàn, hoạt động BVMT và phát triển bền vững toàn cầu, mở rộng

liên kết với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong việc kiểm soát khí thải gây hiệu ứng

nhà kính, hạn chế sự ô nhiễm do hoá chất và chất thải nguy hại, kiểm soát sự vận

chuyển chúng xuyên biên giới, BVMT biển và đa dạng sinh học để cùng ứng phó với

biến đổi khí hậu, giữ gìn, bảo tồn Trái đất - ngôi nhà chung của nhân loại. Chúng ta

cũng cần nội luật hóa các quy định của công ước quốc tế nói chung và công ước quốc

tế liên quan đến lĩnh vực BVMT, đặc biệt là các công ước quốc tế về bồi thường thiệt

hại.

Thứ tư, thêm những quy định mới cụ thể về lượng giá tổn thất môi trường.

ÔNMT không những ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và còn ảnh hưởng nghiêm

trọng đến hệ sinh thái, gây tổn thất nghiêm trọng đến các mặt khác như văn hóa, xã

hội và đặc biệt là nền kinh tế. Môi trường là nơi chứa đựng và cung cấp tài nguyên

cho đời sống sản xuất của con người chúng ta. Khi con xã hội ngày càng phát triển thì

nhu cầu của con người ngày càng tăng số lượng tài nguyên được khai thác tăng lên

càng cao để đáp độ phức tạp phát triển của xã hội.

ÔNMT gây ra những thiệt hại không nhỏ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

và khai thác, nuôi trồng thủy sản cũng như hoạt động phát triển du lịch. Những vấn đề

này không chỉ gây ảnh hưởng tới đời sống của người dân mà còn gây ra những tổn

thất lớn tới vấn đề phát triển kinh tế. Hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng chịu nhiều

tác động tiêu cực do ÔNMT đất. Việc sử dụng không đúng cách hoặc quá nhiều các

loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) khiến cho cây trồng không hấp thụ hết

gây nên tình trạng tồn dư phân bón, thuốc BVTV trong đất, từ đó tích luỹ vào nông

sản, thực phẩm, gây ra những tác động xấu không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.

Môi trường bị ô nhiễm không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà

còn làm cho người dân sinh sống trong và quanh khu vực ô nhiễm bị mất kế sinh nhai,

cuộc sống thiếu thốn. Môi trường nước mặt (sông, hồ, kênh, mương) là nguồn tưới

tiêu chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Khi chất lượng nước của hệ thống

này bị ô nhiễm dẫn tới những thiệt hại không nhỏ đối với hoạt động canh tác tại các

khu vực nông thôn. Theo số lượng thống kê, sản lượng nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là

nuôi cá bè trên sông) đã bị giảm sút nhiều do vấn đề ô nhiễm nước mặt. Nhiều vụ cá

bè chết hàng loạt trên các sông tại Vũng Tàu, Quảng Ngãi, Đà Nẵng đã ảnh hưởng

đến nguồn thu nhập của hàng trăm hộ dân, gây không ít bức xúc, hoang mang. Hiện

nay, trên các kênh thông tin thời sự đều đang đưa tin về vùng biển Vũng Áng với hiện

tượng cá chết hàng loạt, không rõ hiện tượng cá chết hàng loạt này có phải chỉ do sự

xả thải chui từ các nhà máy của tập đoàn Formosa hay không, nhưng chúng ta có thể

thấy được Formosa sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi xả thải chất thải chưa qua xử

lý chui ra biển của mình. Nhìn nhận từ vụ việc này, ta có 2 vấn đề cần xem xét và giải

quyết.

Cần phải xác định người, tổ chức chịu trách nhiệm cho việc gây ra tổn thất cho

môi trường vì hành vi gây ô nhiễm. Ô nhiễm môi trường là hiện tượng chỉ có thể xảy

ra do nhiều cá thể thực hiện hành gây ô nhiễm trong một thời gian dài. Vì thế việc xác

đinh, quy trách nhiệm cho các cá thể gây ô nhiễm là một việc không hề đơn giản.

Bên cạnh đó, cho dù có xác định được trách nhiệm quy về các cá nhân, tổ chức

nào cụ thể, thì việc lượng giá tổn thất đối với môi trường, con người là rất khó khăn.

Tại Việt Nam hiện nay, có hơn 30.000 tiến sĩ về môi trường có thể tham gia vào công

việc lượng giá tổn thất, nhưng chúng ta lại chưa có quy định cụ thể về lượng giá tổn

thất. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia có quy định về lượng giá tổn thất và có đến 80

phương pháp lượng giá tổn thất được sử dụng. Việc học tập và đưa vào trong các quy

định của pháp luật Việt Nam về lượng giá tổn thất đến môi trường là hoàn toàn cần

thiết và đúng đắn.

Như vậy, để giải quyết cũng như phòng chống các “án môi trường” sau này,

chúng ta cần sớm có những quy định cụ thể về lượng giá tổn thất đến môi trường, con

người, giúp cho môi trường và quyền con người đối với môi trường được bảo vệ toàn

diện hơn.

Hai là, về việc thực thi pháp luật. Thứ nhất, về vấn đề công tác thực hiện triển khai pháp luật, việc phải làm là

tăng cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho sự

nghiệp BVMT. Hiện nay, không ít địa phương chưa thực hiện đúng việc chi 01%

NSNN cho sự nghiệp môi trường, mặc dù mức kinh phí này là rất ít. Do đó, cần tăng

cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử dụng chi cho sự nghiệp BVMT tại các bộ,

ngành, địa phương. Việc đầu tư phải có trọng điểm, không dàn trải, đúng mục đích.

Nghiên cứu cần tăng đầu tư từ nhiều nguồn cho công tác BVMT bằng nhiều chính

sách phù hợp về đa dạng hóa nguồn đầu tư…

Thứ hai, có chính sách về đầu tư phát triển phù hợp, ban hành các chính sách

cụ thể về hỗ trợ vốn và thuế, công nghệ sản xuất, đào tạo nhân lực. Có lộ trình đầu tư

kinh phí nâng cấp cơ sở hạ tầng đối với các làng nghề được công nhận, đặc biệt là đối

với các làng nghề truyền thống; hỗ trợ tài chính cho các hoạt động BVMT, chuyển

giao công nghệ tiên tiến và công nghệ sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi

trường; xây dựng vùng nguyên liệu. Có chính sách ưu tiên vay vốn của Quỹ BVMT

Việt Nam để hỗ trợ di dời, xử lý, khắc phục ÔNMT ở những làng nghề ô nhiễm

nghiêm trọng.

Thứ ba, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội,

Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH và ĐBQH về việc thực

hiện chính sách, pháp luật BVMT và việc ban hành VBQPPL đối với làng nghề. Trên

cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định thiếu thống nhất, mâu thuẫn,

chồng chéo, không phù hợp với các luật đã được ban hành.

Thứ tư, cần quy hoạch làng nghề một cách khoa học, phân loại làng nghề phải

dựa vào các yếu tố làng nghề truyền thống, không truyền thống, mức độ ÔNMT, bảo

tồn và phát huy văn hóa dân tộc.

Quy hoạch làng nghề phải chú ý đến loại hình nghề nghiệp và mức độ gây

ÔNMT theo 3 hình thức: Quy hoạch tập trung (các nghề có mức độ ô nhiễm cao); quy

hoạch phân tán (các nghề ít gây ô nhiễm) và quy hoạch vừa tập trung vừa phân tán

(đỗi với các ngành nghề thích hợp).

Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề, cùng với đó là việc

chỉ đạo xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện đề án tổng thể xử lý ÔNMT làng

nghề; phân loại làng nghề ô nhiễm. Trong quá trình đó, có lúc cũng cần thiết phải sử

dụng giải pháp cứng rắn.

Thứ năm, tăng cường công tác quản lý làng nghề một cách hiệu lực và hiệu

quả, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động có tác động đến môi

trường của con người. Việc quản lý làng nghề tại các địa phương hiện nay là không

thống nhất. Có địa phương giao quản lý làng nghề là sở NN&PTNT, có nơi là sở

Công Thương, có địa phương giao cho Liên minh hợp tác xã. Do đó, cần nghiên cứu

mô hình quản lý làng nghề một các hiệu quả nhất, có nên tập trung quản lý làng nghề

vào một đầu mối theo hệ thống thống nhất hay không Các tác động môi trường có thể

đến từ những người dân bình thường, có thể đến từ các nhà máy, khu công nghiệp

hoặc làng nghề, hoặc có thể đến từ sự tự động của chính những người thi hành pháp

luật. Việc tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động sẽ làm cho các hành

vi vi phạm pháp luật môi trường bị giảm đi, dần đi vào ý thức hệ của người dân việc

gây ÔNMT là một hành vi bị cấm và làm cho họ có ý thức hơn trong việc BVMT.

Thứ sáu, cần phải có cơ quan đặc trách ứng phó cấp cao nhất khẩn cấp xử lý

những vụ án môi trường, giải quyết những trường hợp gây ÔNMT. Tuy hiện tại đã có

rất nhiều cơ quan quản lý về môi trường, nhưng trước các vụ án về môi trường đa

phần xảy ra một cách bất ngờ, thì việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền lại hoàn

toàn lúng túng và khi có tình huống bất ngờ xảy ra thì các cơ quan này thường lâm

vào tình trạng tình trạng bị động “chờ đợi kết quả”, cảnh sát môi trường vẫn chưa thể

hiện được khả năng kiểm soát của mình đối với các hoạt động gây tác động đến môi

trường. Lấy vụ án cá chết ở biển Vũng Áng – Hà Tĩnh làm ví dụ. Theo các nguồn

thông tin cho biết, trong hoạt động sản xuất thép của mình thì việc nhà máy Formosa

thải ra biển một lượng chất thải lớn được cho rằng là nguyên nhân chính gây nên hiện

tượng cá chết hàng loạt tại Hà Tĩnh. Các cơ quan chức năng vào cuộc, Sở tài nguyên

Môi trường đã kiểm tra các mẫu nước thải của nhà máy và đưa ra kết luận trước buổi

họp báo. Điều đáng nói ở đây là Sở Tài nguyên Môi trường Hà Tĩnh chỉ dựa trên báo

cáo định kỳ 3 tháng của nhà máy để kiểm tra, đánh giá và chỉ kiểm tra mẫu nước khi

mà có hiện tượng bất thường về môi trường xung quanh doanh nghiệp thì Sở mới vào

cuộc. Như vậy hiện nay ở Hà Tĩnh không phải chỉ có riêng nhà máy Formosa hoạt

động trên địa bàn tỉnh vậy mà lúc nào có biến động bất thường về môi trường thì Sở

Tài Nguyên Môi trường của tỉnh mới thực hiện công tác kiểm tra chất thải của doanh

nghiệp. Liên hệ tới việc BVMT các làng nghề, để tránh xảy ra những trường hợp

giống như vụ án cá chết ở biển Vũng Áng, phòng những tình huống môi trường làng

nghề bị ô nhiễm nặng gây hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra chúng ta nên suy nghĩ

đến việc lập ra một cơ quan đặc trách ứng phó khẩn cấp có thể kiểm tra, ngăn chặn

ngay khi có sự việc xảy ra, có thể điều tra tìm nguyên nhân, chủ thể gây ô nhiễm ngay

lập tức mà không bị từ chối vì “không có thẩm quyền” để kịp thời ra tay trước khi

hậu quả để lại cho môi trường quá nặng nề và không thể cứu chữa.

Thứ bảy, lồng ghép việc giảng dạy quyền con người nói chung, quyền về môi

trường nói riêng vào chương trình giảng dạy trong các chương trình đại học, cao học

trong cả nước; đào tạo đội ngũ thẩm phán và đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức

chuyên sâu luật trong nước và luật quốc tế, luật môi trường và các vấn đề về quyền

con người, quyền môi trường, để trang bị thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong

việc giám sát và kiểm soát việc thực thi pháp luật về môi trường. Bên cạnh việc hoàn

thiện hệ thống pháp luật về BVMT, thì vấn đề con người là yếu quyết định trong việc

thực thi các chính sách pháp luật. Hiện nay đội ngũ lãnh đạo và cán bộ trong lĩnh vực

BVMT chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết khi có sự cố xảy ra, đặc biệt

là tại môi trường làng nghề. Do vậy cần có sự quan tâm từ phía Nhà nước trong việc

đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Các trường đại học ở Việt Nam hiện nay

có rất ít trường mở mã ngành đào tạo chuyên sâu về môi trường, một số trường có mã

ngành đào tạo, nhưng sinh viên lại không được trang bị nhiều kiến thức pháp luật về

BVMT, quyền con người về môi trường, đặc biệt là những kiến thức chuyên sâu về

luật quốc tế. Chính vì thế, khi có sự cố xảy ra thì những người được giao giải quyết

công việc tỏ ra lúng túng, không giải quyết kịp thời, hiệu quả công việc chưa cao. Do

vậy, cần đào tạo đội ngũ nhân lực trong lĩnh vực BVMT nói chung, bảo vệ quyền môi

trường để thực hiện quyền con người trong môi trường làng nghề. Cụ thể, cần có kế

hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ của cơ quan Toà án, nâng cao trình độ, chuyên môn

nghiệp vụ cho các thẩm phán xét xử các vụ án tranh chấp khi có ÔNMT, đặc biệt là

cần đào tạo đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các vụ án vi phạm pháp luật về ÔNMT.

Đào tạo các cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước khác bằng việc mở các lớp

đào tạo trong nước có sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài giảng dạy về luật

quốc tế cũng như kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại do

ÔNMT, nghiên cứu các án lệ, bản án điển hình đã xét xử và có hiệu lực của toà án các

nước có kinh nghiệm xử lý khi có ÔNMT tại các làng nghề tại các quốc gia châu Á

tân tiến.

KẾT LUẬN

Tuyên bố của Liên hợp quốc về môi trường đã đưa ra quyền của con người

được sống trong một môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa

các quốc gia và luôn ở vị trí đầu tiên trong các nguyên tắc. Nguyên tắc 1 Tuyên bố

của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường con người (Tuyên bố Stockholm – năm

1972) nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và đầy đủ các điều

kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc

lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và

mai sau”. Tiếp đó đến Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và phát

triển ( Tuyên bố Rio de Janeiro – 1992) khẳng định rằng: “Con người là trung tâm

của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng

một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Từ hai Tuyên bố trên

có thể thấy rằng Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền tự nhiên

của con người và là quyền rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng

cuộc sống.

Trong Hiến pháp 2013 của nước CHXHCN Việt Nam đã quy định : “Mọi

người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”, đây là

một vấn đề lớn và chưa thực sự được cân nhắc một cách đúng đắn cho đến gần đây,

khi môi trường và sức khỏe của con người xuống cấp một cách trầm trọng. Những vụ

án về môi trường, những bài báo về sự nhiễm độc thực phẩm, những báo cáo về số

lượng ca tử vong do ung thư, do ngộ độc thực phẩm hiện nay đang cho thấy quyền

con người vẫn chưa được đảm bảo toàn diện; môi trường làng nghề cũng ngày một

xuống cấp nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt cũng như sức

khỏe con người về lâu dài.

BVMT và vệ sinh an toàn thực phẩm là hai vấn đề đang rất được nhà nước và

xã hội quan tâm hiện nay. Việc tạo ra những thay đổi và chỉnh sửa trong pháp luật

BVMT Việt Nam là vấn đề cần triển khai một cách cẩn thận và đồng thời cần phù hợp

với những thay đổi lớn trong tương lai mà Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt. Để có thể

tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVMT và bảo vệ quyền con người với môi trường, việc

nghiên cứu sâu hơn vào từng ngành nghề có tác động đến môi trường là hoàn toàn cần

thiết. Từ những vấn đề trên trong đề tài nghiên cứu này, thiết nghĩ chúng ta phải có

những giải pháp mang tính kịp thời, khẩn cấp. Bản thân tôi cho rằng việc bây giờ cần

làm là ban hành các văn bản QPPL có tính chi tiết hơn (về QCMT, ĐTM,…) và phù

hợp với những đặc trưng của từng nhóm làng nghề, thiết lập các cơ chế, cơ quan xử lý

khẩn cấp những tình huống bất ngờ. Bởi thời gian là không chờ đợi, và môi trường

một khi đã phá hủy thì sự phục hồi là rất chậm, có thể mất đến hàng thế kỉ để cứu

chữa, nên con người muốn sống khỏe mạnh và tiếp tục phát triển thì chỉ còn cách

chung tay BVMT và xây dựng một xã hội lành mạnh hơn, “xanh” hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED), 1992, Chương

trình nghị sự 21, Rio de Janeiro;

2. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership

Agreement), 0/02/2016, ,Auckland, New Zealand;

3. Quốc hội, 2011, Báo cáo Kết quả giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật

về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề;

4. Quốc hội, 2013, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;

5. Quốc hội, 2014, Luật BVMT 2014 - 55/2014/QH13;

6. Ủy ban thường vụ Quốc hội, 19/10/2011, Báo cáo giám sát khu kinh tế và làng

nghề;

7. Ủy ban thường vụ Quốc hội, 29/10/2011, Phụ lục Báo cáo giám sát Khu kinh tế và

Làng nghề;

8. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đẩy

nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010;

9. Chính phủ, 14/11/2013, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;

10. Chính phủ, 14/02/2015, Nghị định 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ

môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế

hoạch bảo vệ môi trường;

11. Thủ tướng Chính phủ, 17/12/2009, Quyết định 2149/QĐ-TTg năm 2009 phê duyệt

chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến

năm 2050;

12. Bộ chính trị, 15/11/2014, Nghị quyết 41-NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;

13. Bộ Chính trị, 02/6/2005, Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020;

14. Bộ Khoa học và công nghệ, 2011, Chương trình khoa học và công nghệ trọng

điểm cấp nhà nước, KC 08, “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ phòng tránh

thiên tai, BVMT và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên”;

15. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 18/04/2007, Chỉ thị 28/2007/CT-BNN về

đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô

nhiễm môi trường làng nghề;

16. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008, Báo cáo môi trường quốc gia - Môi trường

làng nghề Việt Nam, Hà Nội;

17. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008, Quy chuẩn kỹ thuâṭ quốc gia về chất lượng

nước mặt (QCVN 08:2008/BTNMT), Hà Nội;

18. Bộ TN&MT, 2009, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại

(QCVN 07: 2009/BTNMT), Hà Nội;

19. Bộ TN&MT, 2010, Báo cáo môi trường quốc gia 2010 – Tổng quan môi trường

Việt Nam;

20. Bộ TN&MT, 2015, Quy chuẩn kỹ thuâṭ quốc gia về giới hạn ̣cho phép của kim

loại nặng trong đất (QCVN 03-MT:2015/BTNMT);

21. UBND TP Hà Nội, 02/01/2013, Quyết định 14/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt

Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng

đến năm 2030;

22. UBND TP Hà Nội, 31/03/2014, Quyết định 105/2014/QĐ-UBND quản lý chất

thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;

23. UBND TP Hà Nội, 31/12/2015, Kế hoạch 235/KH-UBND công tác BVMT làng

nghề Hà Nội;

24. UBND TP Hà Nội, 2016, Kế hoạch Thực hiện công tác BVMT làng nghề trên địa

bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn 2016 – 2020;

25. Sở TN&MT Hà Nội, 26/11/2015, T.Bình, Bài viết “Hà Nội: Từ 2016, BVMT là

tiêu chí bắt buộc khi công nhận làng nghề”;

26. Sở TN&MT Hà Nội, 08/12/2015, Bài viết “Hà Nội: Cam kết, thống nhất hành

động BVMT”;

27. Sở TN&MT Hà Nội, 13/01/2016, BVMT làng nghề Thủ đô giai đoạn 2016 -

2020;

28. TS. Mai Hải Đăng, cuốn “Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc

bảo vệ quyền con người”, NXB Tư Pháp, 2015;

29. Nguyễn Ngọc Sinh và nnk, cuốn “Môi trường và tài nguyên Việt Nam”, NXB

Khoa học và Kỹ thuật, 1984;

30. Cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường biển tỉnh Thanh Hóa,

http://117.6.86.117:8089/databases_csdlmetadatabase.asp;

31. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,Viện ngôn ngữ học, 2004;

32. Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học và kĩ thuật, 2005;

33. Mai Anh, Bài viết “Ô nhiễm gây thiệt hại 1,5% - 3% GDP”, 30/07/2015, Báo điện

tử Moitruong.com.vn, http://moitruong.com.vn/tin-tuc-su-kien/o-nhiem-gay-thiet-hai-

1-5-3-gdp-14805.htm;

34. TS. Phạm Văn Beo, Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Cần

Thơ, Báo Thiên Nhiên, Bài viết “Cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi

trường”, 29/10/2015, http://www.baomoi.com/cau-thanh-toi-pham-cua-cac-toi-pham-

ve-moi-truong/c/17862519.epi;

35. Phạm Trọng Duy, “BVMT làng nghề: Huy động sự vào cuộc của các tổ chức

chính trị - xã hội”, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục môi trường, 23/11/2015;

36. Hương Đỗ, Bài viết “Minh Khai: Rộn ràng làng nghề dịp tết”, , 19/11/2016, Cổng

thông tin điện tử UBND Huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội,

http://hoaiduc.hanoi.gov.vn/tin-noi-bat/-

/news/J8aPiv4HOyhK/1/415765.html;jsessionid=22Sd+iTFY11fnRMoEgM270aP.ap

p2;

37. Nguyên Gia, Bài viết “Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội”, Báo Lao

động thủ đô, 11/09/2014, http://laodongthudo.vn/gian-nan-viec-xu-ly-o-nhiem-lang-

nghe-o-ha-noi-624.html;

38. Trung Hiếu, Bài viết “Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập”,

Báo Mới, 09/11/2011, http://www.baomoi.com/thuc-thi-phap-luat-tai-cac-lang-nghe-

con-nhieu-bat-cap/c/7324541.epi;

39. Phúc Lập, Bài viết “Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội”’, Báo Nông nghiệp Việt

Nam, 08/04/2015, http://m.nongnghiep.vn/o-nhiem-lang-nghe-bua-vay-ha-noi-

post141155.html;

40. Vũ Lê, Bài viết “Hà Nội cần khoảng 1.350 tỷ đồng để xử lý môi trường làng nghề”,

Báo Kinh tế và Đô thị Online, 06/10/2015, http://www.kinhtedothi.vn/do-thi/moi-

truong/2015/10/8102f490/ha-noi-can-khoang-1-350-ty-do-ng-de-xu-ly-moi-truong-

lang-nghe/;

41. TS. Lê Kim Nguyệt, Bài viết “Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng

nghề ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 180‐185;

42. Thiện Quang, Bài viết “Giải tỏa bức xúc cho làng nghề”, Báo Kinh tế đô thị,

30/03/2015, http://www.kinhtedothi.vn/kinh-te/nong-thon-

moi/2015/03/8102b16e/giai-toa-buc-xuc-cho-lang-nghe/;

43. Nguyễn Quyết Thắng, Bài viết “Làng bún Phú Đô: Bao giờ hết ô nhiễm?”, Báo

TN&MT, 26/03/2014, http://baotainguyenmoitruong.vn/moi-truong-va-phat-

trien/201403/lang-bun-phu-do-bao-gio-het-o-nhiem-518754/;

44. “Làng bún Phú Đô: Trạm xử lí chỉ để làm "cảnh"”, nước thải vẫn xả thẳng ra sông

Nhuệ,”, Báo Ngày nay, 07/07/2015, http://www.ngaynay.vn/lang-bun-phu-do-tram-

xu-li-chi-de-lam-canh-nuoc-thai-van-xa-thang-ra-song-nhue-p275582.html;

45. Bài “Vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng”, Báo Điện tử Đảng

cộng sản Việt Nam, 13/08/2013, http://dangcongsan.vn/khoa-giao/vi-pham-phap-luat-

bao-ve-moi-truong-ngay-cang-gia-tang-200705.html;

46. Bài “Ô nhiễm môi trường nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái”

(theo Thông tấn xã Việt Nam), Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam,

02/03/2013, http://www.tinmoitruong.vn/home/print_detail/21706;