ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT Nguyễn Minh Trang
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, NGHIÊN
CỨU TẠI CÁC LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
HÀ NỘI, 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- Nguyễn Minh Trang QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, NGHIÊN
CỨU TẠI CÁC LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. MAI HẢI ĐĂNG
HÀ NỘI, 2016
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. 5
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 6
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... 6
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 8
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 12
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................. 13
7. Kết cấu khóa luận ................................................................................... 14
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 15
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG .................................................................. 15
1.1 Một số khái niệm ................................................................................... 15
1.1.1 Môi trường ....................................................................................... 15
1.1.2 Pháp luật bảo vệ môi trường ........................................................... 16
1.1.3 Nguồn pháp luật về bảo vệ môi trường .......................................... 17
1.2 Làng nghề và vai trò của bảo vệ môi trường làng nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ............................................................................................. 22
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, THỰC TRẠNG TẠI MỘT SỐ LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM TẠI HÀ NỘI ...................................................................................... 27
2.1 Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường .......................................... 27
2.1.1 Bảo vệ môi trường các làng nghề ................................................... 27
2.1.2 Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường các làng nghề .................... 34
2.2 Thực trạng môi trường và áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường tại một số làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà Nội ................................................. 40
2.2.1 Hiện trạng môi trường ..................................................................... 40
2.2.2 Việc áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường..................................... 54
2.3 Kết quả đạt được và một số tồn tại ..................................................... 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ........................................................................................................ 67
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường ............... 67
3.2 Một số đề xuất và kiến nghị ................................................................. 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 80
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
The Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các nước Đông Nam Á)
BLDS Bộ luật dân sự
BLHS Bộ luật hình sự
BVMT Bảo vệ môi trường
Bộ/ Sở TN&MT Bộ/ Sở Tài nguyên và Môi trường
CNTT Công nghệ thông tin
CSDL Cơ sở dữ liệu
ĐTM
NGOs
Đánh giá tác động môi trường Non – governmental – organizations (Các tổ chức phi chính phủ)
NSTP Nông sản thực phẩm
ÔNMT Ô nhiễm môi trường
QCCP Quy chuẩn cho phép
QCVN Quy chuẩn môi trường
QPPL Quy phạm pháp luật
TCVN Tiêu chuẩn môi trường
TT Thứ tự
UBND Ủy ban nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ô nhiễm môi trường đã, đang và sẽ là mối quan tâm chung của cộng đồng.
Hiện tường này đang ngày một gia tăng và tác động tiêu cực ngày càng rõ nét ở sự
biến đổi khí hậu, theo kết quả nghiên cứu về tổng thiệt hại của nền kinh tế nước ta
trong thời gian qua do ÔNMT gây ra, tối thiểu chiếm từ 1,5-3% GDP. Ngoài ra mỗi
năm Việt Nam còn phải chịu thiệt hại tới 780 triệu USD trong các lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe cộng đồng vì ÔNMT1. Kinh nghiệm từ các nước phát triển đã cho thấy, quá
trình phát triển kinh tế mà không quan tâm đến các vấn đề môi trường sẽ đưa ra hiệu
quả kinh tế thấp, chi phí cho các hoạt động xử lý ô nhiễm sẽ cao hơn chi phí đầu tư
cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm.
Ô nhiễm môi trường sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy to lớn, bao gồm cả ô nhiễm
thực phẩm, tuy nhiên, chính thực phẩm chế biến bởi cách thức “bẩn” thì cũng sẽ tạo ra
các tác động xấu đến môi trường. Thực phẩm là nguồn chính để nuôi sống con người
và cũng đồng thời là mối quan tâm hàng đầu trong đời sống sinh hoạt của mỗi cá
nhân. Những năm vừa qua, làng nghề chế biến thực phẩm phát triển khá mạnh mẽ và
đóng góp phần đáng kể cho phát triển kinh tế tại địa phương. Nhiều sản phẩm của các
làng nghề được bạn bè quốc tế biết đến và được xuất khẩu mạnh. Việc phát triển làng
nghề nhất là làng nghề chế biến thực phẩm đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm
truyền thống có giá trị kinh tế, sử dụng tối đa nguồn lao động tại địa phương. Đời
sống nông dân nhiều vùng có làng nghề đã được nâng cao hơn nhờ sự phát triển của
làng nghề. Tuy nhiên chính về việc ưu tiên phát triển kinh tế tại địa phương mà nhiều
nơi có làng nghề phải đối mặt với tình trạng ÔNMT đáng báo động.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề đang rất được xã hội
hiện nay quan tâm. Hàng loạt các vụ việc về bún chứa nhiều hàn the, sản phẩm nông
1 Ô nhiễm gây thiệt hại 1,5% - 3% GDP, Mai Anh, Báo điện tử Moitruong.com.vn, 30/07/2015
sản chứa thuốc bảo vệ thực vật quá hàm lượng cho phép, các loại thịt gia súc, gia cầm
ôi thiu vẫn được chế biến lại để bán cho người dân…vẫn đang diễn ra và đang có xu
hướng ngày một nhiều lên nhiều lên. Chưa bao giờ con đường từ dạ dày đến nghĩa địa
lại ngắn đến thế! Từ xưa, chế biến thực phẩm vốn là một nghề thủ công truyền thống
và hiện đang rất phát triển nhờ sự hội nhập của nước ta, đặc biệt là tại các thành phố
lớn như Hà Nội. Trước đây các làng nghề chế biến thực phẩm tồn tại như một nghề
tay trái của những người nông dân, nhằm phục vụ những nhu cầu hằng ngày, hoặc là
nhu cầu tinh thần về văn hóa ẩm thực. Hiện nay, với nền kinh tế thị trường ngày càng
phát triển các mặt hàng truyền thống ngày càng có giá trị xuất khẩu, Nhà nước đã tăng
cường đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho việc sản xuất các sản phẩm thực phẩm tại các
làng nghề này. Tuy nhiên, do sự phát triển ồ ạt, tự phát thiếu quy hoạch mà môi
trường tại các làng nghề nói chung và ở làng nghề chế biến thực phẩm nói riêng bị ô
nhiễm trầm trọng. Ô nhiễm đã tác động xấu đến sức khỏe con người, người dân ở đây
có nguy cơ mắc bệnh do ÔNMT gây ra rất cao.
Các sản phẩm thực phẩm chế biến trong môi trường bẩn, thực phẩm chế biến
bằng phương thức “bẩn” từ các làng nghề dần trở thành nỗi lo canh cánh trong lòng
những người dân. Các vụ án về thực phẩm bẩn, xả chất thải bừa bãi từ các làng nghề
và khu vực lân cận được báo chí tìm hiểu và đưa tin đã làm tạo ra những lo ngại về
tính an toàn của các sản phẩm thực phẩm được tiêu thụ hàng ngày tại địa phương. Vấn
đề thực phẩm bẩn đã thực sự trở thành một mối lo ngại mới và Quốc hội cũng đang rất
quan tâm về vấn đề này.
Trước tình trạng ÔNMT và thực phẩm bẩn tràn lan, mới đây Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Xuân Phúc đã phải chủ trì cuộc họp yêu cầu bộ máy mới tập trung bàn
một số việc cấp bách, trong đó đưa ra vấn đề về giải quyết tình trạng thực phẩm bẩn,
bảo đảm an toàn thực phẩm…Với nhu cầu to lớn đến từ những người dân và sự phát
triển không kiểm soát của các thiết bị công nghệ, các phương thức sản xuất, các làng
nghề đã xuất hiện và tồn tại sự biến chất về lương tâm, sự thờ ơ của người sản xuất
khi áp dụng các biện pháp sản xuất không những có thể làm ảnh hưởng trực tiếp tới
người sử dụng sản phẩm cũng như ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe của những
người đang sinh sống ở trong và lân cận khu vực làng nghề, gây tổn hại đến môi
trường đất, nước và không khí một cách nghiêm trọng. Để có cái nhìn toàn cảnh về
môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm chung tôi đã chọn đề tài “ Pháp luật
Việt Nam về bảo vệ môi trường, nghiên cứu tại các làng nghề chế biến thực phẩm
tại Hà Nội”
Đề tài được thực hiện để cung cấp thông tin cụ thể về thực trạng môi trường tại
khu vực làng nghề và đề xuất một số giải pháp cụ thể để hạn chế ô nhiễm và phục vụ
cho sư phát triển môi trường làng nghề bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến quy định pháp luật về bảo vệ môi trường và làng nghề, đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, một trong số đó có thể kể đến là:
Ở cấp nhà nước đã có những công trình nghiên cứu như : Đánh giá sự tham gia
của các tổ chức quần chúng trong BVMT làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn (lấy làng nghề giấy Phong Khê làm ví dụ) - Đề tài NCKH,
Trần Yêm; Nguyễn Thị Hà; Nguyễn Thị Ánh Tuyết; Nguyễn Đức Tùng, ĐHKHTN,
2003
Có rất nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu về đề tài môi trường làng nghề, trong đó
mới nhất gần đây đó là luận án tiến sĩ với đề tài “Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường do các hoạt động của làng nghề gây ra tại Việt Nam hiện nay” của TS. Lê Kim
Nguyệt (Khoa Luật – ĐHQGHN, 2015). Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu
và toàn diện về kiểm soát ô nhiễm tại các làng nghề Việt Nam nhìn dưới góc độ pháp
luật; đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần ổn định đời sống của người dân, đảm bảo sự
phát triển bền vững của làng nghề; tạo điều kiện cho các cơ quan chính quyền, đoàn
thể, nhà nghiên cứu và người dân nhận diện bức tranh toàn cảnh về pháp luật kiểm
soát ÔNMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay; đi sâu phân
tích, bình luận và đưa ra những tiêu chí khoa học cần thiết giúp cho Nhà nước có căn
cứ xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật kiểm soát ÔNMT do các hoạt động
của làng nghề gây ra ở Việt Nam. Đây là một đề tài không mới, nhưng lại đi sâu hơn
về pháp luật kiểm soát ô nhiễm tại các làng nghề, một góc nhìn tổng quát mà ít ai
nghiên cứu.
Dưới một cách tiếp cận và nghiên cứu khác, theo TS Ngô Trà Mai (2009) :
“Hoạt động sản xuất phân tán, công nghệ thủ công lạc hậu, quản lý thiếu chặt chẽ,
không xử lý chất thải trong suốt quá trình phát triển sản xuất là những nguyên nhân
chủ yếu gây ÔNMT và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng ở làng nghề tái chế
kim loại Phùng Xá và làng nghề sơn mài Duyên Thái. Quy hoạch BVMT làng nghề
với hai loại hình: quy hoạch điểm công nghiệp và quy hoạch phân tán được nghiên
cứu điển hình ở Phùng Xá và Duyên Thái, là công cụ hữu hiệu góp phần đẩy mạnh
sản xuất và BVMT làng nghề” - Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học cho quy hoạch
BVMT một số làng nghề ở tỉnh Hà Tây (cũ) (Luận án TS. Địa lý tự nhiên)
Trong Luận án tiến sĩ Nghiên cứu đề xuất giải pháp tổng hợp xử lý ô nhiễm
nhằm BVMT và phát triển theo hướng bền vững cho làng nghề chế biến tinh bột sắn -
Cát Quế - Hoài Đức - Hà Tây (Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2007)
ông Vũ Tuấn Hiệp có nói: “tăng trưởng kinh tế thông qua mở rộng sản xuất kinh
doanh, nhất là đối với mô hình làng nghề mà không có đầu tư đổi mới thiết bị và công
nghệ xử lý chất thải cũng đồng nghĩa với quá trình gia tăng tốc độ ô nhiễm và lan rộng
phạm vi ÔNMT. Nó đã trở thành vấn đề bức xúc, cấp bách ảnh hưởng rất lớn tới đời
sống sức khỏe và sản xuất của nhân dân lao động. Hiện trạng ÔNMT làng nghề thể
hiện rất rõ theo đặc thù của công nghệ sản xuất, của từng làng nghề mà mức độ
ÔNMT cũng khác nhau.”
Ở cấp nghiên cứu thấp hơn, cụ thể là luận văn Thạc sĩ, thì số lượng đề tài
nghiên cứu về môi trường làng nghề là rất nhiều, tuy nhiên, có thể kể đến một vài luận
văn nổi bật sau:
Đầu tiên là luận văn thạc sĩ với đề tài Đánh giá hiện trạng môi trường làng
nghề và thực hiện chính sách pháp luật về BVMT làng nghề tại một số tỉnh Bắc Bộ -
Luận văn ThS. Môi trường trong phát triển bền vững – Trần Duy Khánh (Trung tâm
nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2012). Khi nghiên cứu về môi trường làng nghề
một số tỉnh Bắc Bộ, ông Trần Duy Khánh cho rằng: “Các quy định về BVMT còn
“đứng ngoài” làng nghề, dẫn đến, môi trường làng nghề ngày càng bị ô nhiễm nghiêm
trọng, ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe của ngƣời dân nông thôn không chỉ trong khu
vực sản xuất mà còn cả những vùng lân cận, thậm chí nhiều nơi, xung đột do ÔNMT
đã nảy sinh, khiến đời sống xã hội nông thôn bị xáo trộn nghiêm trọng.”
Tiếp đến là Bà Nguyễn Thị Huế với đề tài luận văn Đánh giá hiện trạng môi
trường làng nghề nấu rượu Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và đề xuất giải
pháp cải thiện (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT, 2011) đã đưa ra đánh
giá sau về hoạt động sản xuất tại các làng nghề: “Các làng nghề thường tận dụng lao
động phụ, mặt bằng sản xuất tại nhà, nhà xưởng tạm bợ, trang thiết bị thô sơ nên các
phế thải, nước thải, tiếng ồn quá tải là không tránh khỏi. Do hạn chế về vốn và kỹ
thuật, ở các làng nghề hiện nay chưa có nhiều dự án xử lý chất thải, khói bụi độc hại
cho người sản xuất. Ở một số làng nghề đã có báo động về sự xuống cấp và nạn
ÔNMT. Hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng nghề chỉ lo sản xuất kinh doanh, chưa
chú trọng đúng mức đến BVMT. Mặt khác, diện tích mặt bằng sản xuất của các làng
nghề là rất hạn hẹp. Cùng với sự phát triển của các làng nghề thì không gian làm việc
ngày càng bị thu hẹp, nhiều nơi qui mô sản xuất đã vượt quá sự chịu đựng của môi
trường. Qua khảo sát, các hộ làm nghề ở đây thường sử dụng ngay nhà ở làm xưởng
sản xuất, duy chỉ có HTX Vân Hương là có nhà xưởng kiên cố. Thêm vào đó công
nghệ sản xuất thô sơ, lạc hậu, thiết bị cũ... đã làm tăng khả năng gây ô nhiễm môi
trường”
Bên cạch các công trình nghiên cứu trên, còn một số các công trình luận văn
thạc sĩ khác có thể kể đến như: Vai trò của cộng đồng dân cư trong việc hạn chế và
khắc phục ô nhiễm môi trường làng nghề tại tỉnh Nam Định - Vũ Thị Hồng Loan (-
Luận văn ThS. Khoa học quản lý, ĐHKHXH&NV , 2015); Nghiên cứu vấn đề môi
trường của làng nghề chế biến chè và đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên - Trần Thế Long (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và
BVMT, ĐHKHTN, 2013); Vai trò của cộng đồng dân cư trong việc hạn chế và khắc
phục ô nhiễm môi trường làng nghề tại tỉnh Nam Định (Nghiên cứu trường hợp huyện
Ý Yên) Vũ Thị Hồng Loan; Phạm Xuân Hằng (Luận văn ThS. Khoa học quản lý ,
ĐHKHXH&NV , 2015); Chính sách công nghệ nhằm hạn chế xung đột môi trường
giữa các làng nghề và cộng đồng dân cư ( Nghiên cứu trường hợp tại Làng Phú Đô) -
Huỳnh Thị Dung; Trịnh Ngọc Thạch (Luận văn ThS. Kinh doanh và quản lý,
ĐHKHXH&NV , 2015); Đánh giá hiện trạng môi trường tại một số làng nghề chế
biến thủy hải sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An - Nguyễn Thị Thanh Phương; Nguyễn
Mạnh Khải; Trần Văn Quy (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT,
ĐHKHTN , 2014); Đánh giá hiện trạng môi trường đất, nước tại một số làng nghề
trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh và đề xuất giải pháp giảm thiểu ô nhiễm - Nguyễn Thị
Thắm (Luận văn ThS. Khoa học môi trường và BVMT, ĐHKHTN, 2012); Chính
sách hỗ trợ để đổi mới công nghệ trong các làng nghề (nghiên cứu trường hợp tại
làng nghề ở tỉnh Hải Dương), Nguyễn Ngọc Thụy (Luận văn ThS. Kinh doanh và
quản lý, ĐHKHXH & NV, 2009) ; Quy hoạch môi trường làng nghề Tề Lỗ huyện Yên
Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc - Đinh Thị Quỳnh Lâm (Luận văn ThS. Khoa học Môi trường
và BVMT,Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, 2007)…
Ở cấp độ nghiên cứu thấp hơn, đã có nhiều khóa luận tốt nghiệp về vấn đề môi
trường và pháp luật BVMT làng nghề: Tìm hiểu môi trường du lịch tại làng cốm Bát
Tràng (Gia Lâm – Hà Nội) – Trần Thị Thu Hà, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
2010; Tìm hiểu môi trường làng nghề đá mỹ nghệ tại xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư,
tỉnh Ninh Bình – Nguyễn Thị Thanh Huế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
2013; Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý môi trường nước thải làng
nghề đúc đồng Quảng Bố, Xã Quảng Phú, Huyện Lương Tài, Tỉnh Bắc Ninh - Nguyễn
Thị Tuyến, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, 2014;…
Có thể thấy số lượng công trình nghiên cứu về môi trường làng nghề và pháp
luật BVMT làng nghề là không nhỏ. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu về vấn
đề vệ sinh an toàn thực phẩm kết hợp với môi trường làng nghề và pháp luật BVMT
làng nghề là không nhiều, có phần nhỏ lẻ và chưa mang tính tổng quát. Kết hợp hai
vấn đề hết sức được quan tâm hiện nay là vệ sinh an toàn thực phẩm và pháp luật
BVMT làng nghề, ta nhìn ra được một khía cạnh khác từ môi trường đó là “môi
trường làng nghề chế biến thực phẩm”. Tôi xin được phép tiếp tục nghiên cứu về vấn
đề “môi trường làng nghề chế biến thực phẩm” và dựa trên phân tích khoa học pháp lý
để hoàn thiện hơn góc nhìn của chúng ta về môi trường và pháp luật BVMT tại Việt
Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam về BVMT
- Thực trạng ÔNMT tại một vài khu vực làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà
Nội để đưa ra những hướng đi, giải pháp hạn chế ÔNMT nhất là môi trường tại các
khu làng nghề.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm giảm thiểu ÔNMT nâng cao hiệu quả quá
trình quản lý môi trường tại khu vực làng nghề
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT
và hoạt đông quản lý môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về pháp luật Việt Nam về
BVMT, công tác quản lý môi trường tại các làng nghề chế biến thực phẩm. Cụ thể, đề
tài tập trung nghiên cứu hiện trạng chất lượng môi trường (đất, nước, không khí) ở
khu vực một số làng nghề chế biến thực phẩm như làng bún Phú Đô, làng nghề chế
biến nông sản thực phẩm (NSTP) Minh Khai tại Hà Nội.
Khóa luận nghiên cứu pháp luật Pháp luật Việt Nam về BVMT tại các làng
nghề chế biến thực phẩm Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2008 cho đến hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu, số liệu: cơ sở của
phương pháp này là thu thập, nghiên cứu tất cả các tài liệu có liên quan tới vấn đề
nghiên cứu, các quy định, các tiêu chuẩn môi trường cho các mục đích khác nhau.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: sử dụng trong quá trình thực hiện và hoàn
thiện luận văn. Kết quả từ các số liệu hồi cứu, điều tra, khảo sát thực địa sẽ được diễn
giải, phân tích và thảo luận chi tiết
- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn (Phân tích số liệu thứ cấp)
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân tích một số tài liệu liên quan
đến vấn đề nghiên cứu như sách báo, tạp chí nghiên cứu chuyên sâu và một số công
trình nghiên cứu về nội dung liên quan đến vấn đề môi trường, từ đó nhằm nhận diện
thực trạng vấn đề môi trường và xung đột môi trường hiện nay. Đồng thời tác giả còn
tham khảo một số đề tài, luận văn, các số liệu thống kê báo cáo có liên quan đến xung
đột môi trường để lấy tư liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu và đánh giá kết quả
nghiên cứu thực nghiệm của đề tài.
- Phương pháp quan sát thực địa: đây là phương pháp rất cần thiết giúp người
nghiên cứu có cái nhìn thực tế hơn và sơ bộ về đối tượng nghiên cứu đồng thời kiểm
tra lại tính chính xác của những tài liệu, số liệu đã thu thập từ đó xử lý tốt hơn trong
bước tổng hợp và phân tích. Do địa bàn nghiên cứu khá rộng vì vậy chúng tôi không
thể khảo sát thực địa tất cả các địa điểm mà chỉ chọn một số điểm điển hình để xem
xét và quan sát. Từ khảo sát thực tế đó đưa ra nhận xét chung cho tình trạng ô nhiễm
của toàn vùng và những ảnh hưởng môi trường khác nhau.
- Phương pháp thống kê: Các phương pháp và kỹ thuật thống kê hiện đại sẽ
được áp dụng trong xử lý số liệu liên quan về kinh tế - xã hội, môi trường và y tế phục
vụ các mục tiêu phân tích và đánh giá về sức khoẻ môi trường ở địa phương.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất, khóa luận đã khái quát và đánh giá được về hiện trạng môi trường
làng nghề nói chung và tại các làng nghề chế biến thực phẩm ở Việt Nam.
Thứ hai, khóa luận đã phân tích mức độ ô nhiễm, làm rõ những nguyên nhân
dẫn đến ÔNMT và các tác động xấu của ÔNMT làng nghề tới sức khỏe con người, sự
phát triển của kinh tế - văn hóa – xã hội; phân tích được thực thực trạng áp dụng pháp
luật BVMT tại các làng nghề nói chung và các làng nghề chế biến thực phẩm ở Hà
Nội hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật BVMT để phù
hợp với thực tiễn tại các làng nghề chế biến thực phẩm hiện nay.
7. Kết cấu khóa luận
Trong khóa luận, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh
mục các tài liệu tham khảo. Phần nội dung của khóa luận bao gồm ba chương chính:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về BVMT, pháp luật
BVMT tại khu vực làng nghề chế biến thực
phẩm
Chương II: Quy định pháp luật Việt Nam về BVMT,
thực trạng tại một số làng nghề chế biến thực
phẩm tại Hà Nội
Chương III: Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật BVMT
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, PHÁP
LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972. Trong Tuyên ngôn của
UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là "Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các
hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng
lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả
mãn các nhu cầu của con người".
Quyển: "Môi trường và tài nguyên Việt Nam", NXB Khoa học và kỹ thuật đã
đưa ra định nghĩa: "Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là
một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã
hội2". Cũng có những tác giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn, chẳng hạn như
R.G.Sharme (1988) đưa ra một định nghĩa: "Môi trường là tất cả những gì bao quanh
con người".
Trong cuốn: “Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ
quyền con người” có nhắc đến khái niệm môi trường như sau: “ “Envoronment” trong
tiếng Anh có nghĩa là môi trường, có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Environner”, có nghĩa
là bao quanh một điểm nào đấy, hay tất cả những gì bao quanh một điểm trung tâm.
Theo cách hiểu như vậy, môi trường có thể được hiểu là toàn bộ điều kiện tự nhiên, xã
hội và văn hóa có ảnh hưởng cuộc sống của một cá nhân hay cộng đồng. Như vậy, vấn
2 Cuốn Môi trường và tài nguyên Việt Nam, Nguyễn Ngọc Sinh và nnk, NXB Khoa học và Kỹ thuật,H.,1984
đề môi trường có thể được coi là bao gồm các vấn đề như tắc nghẽn giao thông, tội
phạm và tiếng ồn…Về mặt địa lý, môi trường có thể hiểu là một khu vực nào đó hoặc
có thể hiểu là toàn bộ hành tinh của chúng ta.3”
Nếu hiểu theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì môi trường là “toàn bộ nói
chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại,
pháy triển trong quan hệ với con người, sinh vật ấy4”
Theo pháp luật Việt Nam khi định nghĩa về môi trường, khoản 1, 2 Điều 3 Luật
BVMT năm 2014 quy định như sau: “1. Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự
nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh
vật. 2. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước,
không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác.5”
Chúng ta có thể hiểu các thành tố của môi trường bao gồm:
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên, gồm cả sinh vật, phi sinh vật như không khí,
nước, đất, động vật, thực vật và sự tương tác giữa các yếu tố đó;
- Những tài sản là một phần của di sản văn hóa;
- Các đặc điểm khía cạnh của cảnh quan.
Tất cả các thành tố môi trường này đều có mối quan hệ phụ thuộc, tương tác
lẫn nhau. Nếu có bất cứ thành tố nào thay đổi, bị tổn hại thì sẽ nhanh chóng ảnh
hưởng đến các thành tố khác, gây ra hệ quả to lớn không lường trước được cho môi
trường sống và các sinh vật trên Trái Đất, đặc biệt là con người.
1.1.2 Pháp luật bảo vệ môi trường
Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm khi định nghĩa về luật môi trường,
tuy vậy, các quan điểm đều đồng nhất cho rằng: Luật môi trường (với tư cách là một
ngành luật độc lập) là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể có hành vi khai thác, sử dụng
3 Trang 42, Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc bảo vệ quyền con người, TS. Mai Hải Đăng, NXB Tư Pháp, 2015 4, Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2004 5 Luật BVMT 2014, NXB Lao Động , Hà Nội, 2014
hoặc tác động đến một hoặc nhiều thành phần môi trường.
Có thể nói, hầu hết tất cả các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
đều có những quy định ở mức độ này hay mức độ khác có liên quan đến việc điều
chỉnh các quan hệ môi trường và các quan hệ liên quan đến môi trường. Trên thực tế,
ở nước ta trong những năm gần đây, trong hoạch định và tổ chức xây dựng các văn
bản pháp luật, các nhà quản lý, nhà làm luật đều rất quan tâm đến vấn đề BVMT.
Trong phạm vi và đối tượng điều chỉnh cụ thể trong từng văn bản pháp luật, các quan
hệ về BVMT với luật chuyên ngành đã được xử lý một cách hài hoà và ngày càng
mang tính khả thi cao. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường là các quan hệ
xã hội trong quá trình tác động giữa xã hội, con người và môi trường. Cụ thể, đối
tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo
vệ, cải thiện môi trường; ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu do con người và
thiên nhiên gây ra cho môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật chung và văn bản pháp
luật chuyên ngành khác có quy định về nghĩa vụ BVMT mà các chủ thể phải thực
hiện nhằm góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường trong sạch và
phát triển bền vững.
1.1.3 Nguồn pháp luật về bảo vệ môi trường
Hiện nay, pháp luật về BVMT Việt Nam chịu sự điều chỉnh của rất nhiều các
quy tắc, tiêu chuẩn, tập quán pháp lý quốc tế và các quy phạm pháp luật quốc tế về
môi trường (hay còn gọi là Luật môi trường quốc tế). Tương tự, pháp luật về BVMT
các làng nghề tại Việt Nam nằm trong pháp luật về BVMT Việt Nam, cũng chịu sự
điều chỉnh của Luật môi trường quốc tế. Để có thể xây dựng được Luật bào vệ môi
trường, đã có rất nhiều các nguồn cùng các quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung
thì nguồn của Luật BVMT Việt Nam bao gồm: Các điều ước quốc tế (chung/riêng),
quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận, đã được Việt
Nam kí kết; Các tập quán tại Việt Nam; Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia
văn minh thừa nhận, trong đó có Việt Nam; Các án lệ ; Ngoài ra còn có pháp luật của
các quốc gia có liên quan và các Nghị quyết của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam
tham gia.
Thứ nhất, về nguồn của pháp luật BVMT nói chung. Điều ước quốc tế là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể, trước hết và chủ yếu là giữa các quốc gia, trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ với
nhau. Một trong những nguồn cơ bản nhất của Luật môi trường Việt Nam đó chính là
điều ước quốc tế (ĐƯQT). Trong số các ĐƯQT mà Việt Nam đã tham gia ký kết, có một
số điều ước quy định khung pháp lý chung đối với việc giải quyết vấn đề ÔNMT, một số
khác lại đưa ra những quy định cụ thể điều chỉnh các vấn dề liên quan đến ÔNMT.
Các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam tham gia có: Công ước
Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944; Thoả thuận về thiết lập Uỷ ban nghề các
Ấn Độ dương - Thái bình dương, 1948; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967;
Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư
trú của các loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1988); Nghị định thư bổ sung công
ước về các vùng ngập nước có tầm quan trọng, đặc biệt như là nơi cư trú của các loài
chim nước, Paris, 1982; Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên
(19/10/1982); Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển MARPOL (29/8/1991); Công
ước của Liên Hợp Quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật biển (25/7/1994); Cam kết quốc tế về phổ biến và sử dụng thuốc diệt côn
trùng, FAO, 1985; Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải
độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến
đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học, 1992 (16/11/1994);…
Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, Việt Nam còn tham gia vào điều ước quốc
tế song phương trong vấn đề bảo vệ môi trường như Hiệp định tương trợ tư pháp về các
vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với nước Công hòa nhân dân Bungari (01/10/1979).
Tập quán quốc tế là quy tắc ứng xử do một số quốc gia áp dụng trong quan hệ
quốc tế, dần dần được áp các quốc gia khác chấp nhận và áp dụng như một quy phạm
pháp luật. Trên thực tế, không phải tất cả các tập quán quốc tế đều được các quốc gia
công nhận như là nguồn của pháp luật nước mình, có những tập quán chỉ áp dụng
trong quan hệ giữa 2 hay một nhóm quốc gia mà thôi. Pháp luật Việt Nam hiện nay
thừa nhận tập quán quốc tế và tập quán Việt Nam là nguồn của pháp luật Việt Nam về
BVMT và cho phép áp dụng tập quán với điều kiện việc áp dụng tập quán đó không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Các nguyên tắc chung của luật được các quốc gia thừa nhận cũng là một trong
những nguồn chính của luật BVMT Việt Nam, trong đó có nguyên tắc “Các nhà chức
trách quốc gia nên cố gắng đẩy mạnh sự quốc tế hóa những chi phí môi trường và sự
sử dụng các biện pháp kinh tế, căn cứ vào quan điểm cho rằng về nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải chịu phí tổn ô nhiễm, với sự quan tâm đúng mức đối với quyền lợi
chung và không ảnh hưởng xấu đến nền thương mại và đầu tư quốc tế6” là nguyên tắc
được hầu hết các quốc gia thừa nhận . Đây là một trong số 27 nguyên tắc chung xác
định các quyền và trách nhiệm của các quốc gia làm cho thế giới phát triển bền vững
được thống nhất cùng với chương trình hành động “Chương trình Nghị sự 21” tại Hội
nghị Rio 1992. Văn kiện của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ghi nhận
nguyên tắc này, nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” cũng được Việt Nam
ghi nhận và coi như là nguồn pháp luật của Luật môi trường Việt Nam. Bên đó, các
nguyên tắc như nguyên tắc “Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau” và nguyên
tắc “tôn trọng các quyền cơ bản của con người” cũng là nguồn của Luật môi trường
Việt Nam.
Án lệ là những bản án, quyết định trước đây của tòa án có giá trị làm nguồn
luật hoặc khuôn mẫu cho tòa án giải quyết các vụ việc tương tự sau này. Tại Việt Nam
năm 2004, Tòa án nhân dân tối cao đã công bố và phát hành hai số chuyên đề về các
quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán, đây là việc làm có ý nghĩa và
cần thiết (Việt Nam đã và đang là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO)
6 Nguyên tăc 26, Chương trình nghị sự 21, Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED), Rio de Janeiro, 1992
khi VIệt Nam cần phải tuân thủ các nguyên tắc về minh bạch hóa, trong đó yêu cầu
các Tòa cần phải công bố công khai các bản án đã xét xử. Theo đó “Tòa án nhân tối
cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.7”
Thứ hai, về nguồn của pháp luật Việt Nam về BVMT nói riêng. Có thể nói rằng
hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được xây dựng một cách khá
đầy đủ và toàn diện. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã dành hẳn chương II
để nói về quyền con người. Đặc biệt trong Hiến pháp 2013, lần đầu tiên sau bao nhiêu
năm, đã đưa ra những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Điều
43 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa
vụ bảo vệ môi trường”. Hiến pháp cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm
thực hiện quyền về môi trường.
Nhằm cụ thể hóa những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi
trường trong Hiến pháp 2013, Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật bảo vệ môi
trường 2014, quy định về hoạt động môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực
để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường (Điều 1). Đi cùng với Luật bảo vệ môi
trường 2014 là Luật đất đai 2013, Luật tài nguyên nước 2012, Luật đa dạng sinh học
2008… Đặc biệt là Luật Bảo vệ Môi trường 2014 có nội dung về Bảo vệ môi trường
làng nghề được quy định cụ thể tại Điều 70. Điều này đã xác định rõ những điều kiện
về bảo vệ môi trường mà các làng nghề cần phải thực hiện và cũng nêu ra yêu cầu của
Chính phủ quy định rõ danh mục những làng nghề được khuyến khích phát triển và
yêu cầu bảo vệ môi trường với những nhóm đối tượng sản xuất các ngành nghề này.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung nhóm các tội phạm môi trường
theo hướng cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường (Chương XIX).
Hơn nữa, Bộ luật cũng đã đưa pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với 09 tội danh gây ÔNMT, hủy hoại động, thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái. 7 Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Chính trị, 02/6/2005.
Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng có những sửa đổi tiến bộ hơn so với luật cũ
trong vấn đề bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT. Tại Điều 602 Bộ Luật Dân sự 2015
quy định về Bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT đã thay cụm từ “cá nhân, pháp nhân”
thành cụm từ “chủ thể” để bao quát hết các đối tượng gây ÔNMT.
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ cũng đã ban hành các
văn bản dưới luật để cụ thể hóa và lồng ghép vào việc bảo vệ môi trường – môi
trường làng nghề vào các chương trình kinh tế - xã hội như: Chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia năm 2003; Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam; Chiến lược quốc
gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2003.
Hơn nữa vào ngày 29/11/2011 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
19/2011/QH13 về kết quả giám sát và đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật về
môi trường tại khu kinh tế, làng nghề. Đồng thời cũng phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012-2015
trọng tâm là xử lý ÔNMT tại các làng nghề. Bên cạnh đó Chính phủ cũng ban hành
Nghị quyết số 35/NQ-CP năm 2013về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường trong đó xác định ÔNMT tại các làng nghề là một vấn đề nóng của gia
đoạn này. Kèm theo đó chính phủ còn phê duyệt Quyết định số 577/QĐ-TTg phê
duyệt đề án “Bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 định hướng đến năm 2030”.
Thêm vào đó Nhà nước còn ban hành những văn bản đề cập đến những vấn đề
bảo vệ môi trường tại khu vực làng nghề như: Nghị quyết 41/NQ-TƯ năm 2004 của
Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiên đại
hóa đất nướcl; Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7-7-2006 của Thủ tướng Chính phủ
về phát triển ngành nghề nông thôn; Thông tư số 113/TT-BTC ngày 28-12-2006 của
Bộ Tài chính về việc hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát
triển ngành nghề nông thôn; Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về bảo vệ môi
trường các làng nghề...
Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, Việt Nam
cũng đã sử dụng các văn bản điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường để làm cơ sở cho
việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật và kết hợp vào thực thi công tác bảo vệ
môi trường một cách hiệu quả hơn.
1.2 Làng nghề và vai trò của bảo vệ môi trường làng nghề đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội
Theo thông tư 46/2011/TT-BTNMT của Bộ TN&MT, khái niệm “làng nghề”
được hiểu là “một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc
hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã) có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất tiểu thủ công
nghiệp sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. 8”
Tại các nước Châu Âu và Châu Mỹ, khái niệm “làng nghề” hầu như không tồn
tại, đơn cử như Pháp, chỉ có các cơ sở thủ công sản xuất vừa và nhỏ trong các khu dân
cư, họ là các tiểu thương, thương nhân và chịu quy chế quản lý theo các chính sách
pháp luật chung của địa phương và quốc gia đó, chứ không có những quy chế riêng để
phân biệt và điều chỉnh. Mô hình “làng nghề” chủ yếu chỉ tập trung tại các khu vực
Châu Á, phổ biến tại Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan. Đơn cử với Nhật Bản, quốc
gia có nhiều ngành thủ công truyền thống, nhưng chỉ có một số ít loại nghề được bảo
tồn và phát triển. Làng nghề ở đây đã được tập trung phát triển và trở thành những
điểm du lịch quảng bá văn hóa và du lịch nổi tiếng thế giới.
Từ thuở xa xưa, hoạt động sản xuất nghề thủ công đã là một trong những nét
văn hóa đặc thù trong đời sống của người dân nông thôn Việt Nam. Theo thời gian,
các hoạt động sản xuất đơn lẻ dần gắn kết với nhau, hình thành nên khái niệm “làng
nghề, xóm nghề”, trong đó có nhiều làng mang tính truyền thống, tồn tại lâu đời, trở
thành một hình thức kết cấu kinh tế - xã hội của nông thôn và cho đến nay khái niệm
này đã trở nên rất phổ biến. Bên cạnh sự đóng góp to lớn vào đời sống kinh tế, hoạt
động sản xuất làng nghề còn giúp người dân gắn bó với nhau, tạo ra những truyền
8 Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, Bộ trưởng Bộ TN&MT, 26/12/2011.
thống, nét đẹp trong đời sống văn hóa, tinh thần cho nông thôn Việt Nam.
Làng nghề và làng có nghề ở Việt Nam xuất hiện từ rất lâu đời, có nơi có lịch
sử phát triển hàng trăm năm, thậm chí tới cả nghìn năm. Như làng nghề đúc đồng Đại
Bái (Bắc Ninh) với gần nghìn năm phát triển, gốm Bát Tràng (Hà Nội) gần 500 năm;
chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình); điêu khắc Non Nước (Tp. Đà Nẵng) đều có lịch sử
hơn 400 năm. Sự phát triển của các làng nghề, ngành nghề truyền thống đã có nhiều
thay đổi qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Làng
nghề đã và đang được hình thành tại hầu hết các tỉnh ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt
Nam có 4.575 làng nghề, trong đó có 1.324 làng nghề được công nhận và 3.221 làng có
nghề 9. Tuy nhiên, số liệu công bố về số lượng các làng nghề không thống nhất, có khi
khác nhau rất lớn. Điều này gây ra khó khăn không nhỏ khi xây dựng các chính sách cụ
thể cho làng nghề.
Tỷ lệ làng
Làng
Làng có
Tổng số
nghề được
làng Tỉnh/Thành phố
nghề
nghề
công nhận
TT
trực thuộc Trung
(làng nghề
nghề và
được
so với tổng
ương
công
chưa được
làng có
số
nhận
công nhận)
nghề
(%)
An Giang Bà Rịa - Vũng Tàu Bạc Liêu Bắc Giang Bắc Ninh Bến Tre Bình Dương Bình Định Bình Thuận
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Cà Mau 11. Cao Bằng 12. Cần Thơ 13. Đà Nẵng 14. Đồng Nai 15. Điện Biên 16. Đắk Lắc
23 0 8 33 0 31 1 35 21 0 0 1 0 0 0 0
10 31 0 0 90 4 22 16 14 38 16 54 7 14 5 0
33 31 8 33 90 35 23 51 35 38 16 55 7 14 5 0
69,70 0 100 100 0 88,57 4,35 68,63 60 0 0 1,82 0 0 0 0
9 Tr.22, Báo cáo Kết quả giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề, Quốc hội (2011).
Bả
ng. Số
lượng
làng nghề
tại các
địa
phương10
Là
ng
nghề
và BVMT
làng nghề
có
tầm
ảnh
hưởng
trực
tiếp
không
nhỏ tới sự
phát triển
kinh tế -
xã hội của
địa
phương,
những
ảnh
44 0 4 153 272 0 56 17 32 0 0 0 0 2 16 0 0 102 44 3 37 7 24 19 5 4 1 0 12 0 229 32 0 0 0 13 7 17 19 0 1.324
16 5 0 0 1078 21 244 21 34 6 4 25 23 11 0 25 96 282 0 14 0 11 7 42 14 0 48 56 0 8 0 128 472 15 84 0 4 64 39 3 3.221
73,33 0 100 100 20,15 0 18,67 44,74 48,49 0 0 0 0 15,38 100 0 0 26,56 89,80 17,65 62,71 38,89 77,42 31,15 22,73 100 2,04 0 100 0 100 20 0 0 0 100 63,64 20,99 32,76 0 28,94
60 5 4 153 1350 21 300 38 66 6 4 25 23 13 16 25 96 384 49 17 59 18 31 61 22 4 49 56 12 8 229 160 472 15 84 13 11 81 58 3 4.575
17. Đồng Tháp 18. Gia Lai 19. Hà Giang 20. Hà Nam 21. Hà Nội 22. Hà Tĩnh 23. Hải Dương 24. Hải Phòng 25. Hưng Yên 26. Khánh Hòa 27. Kiên Giang 28. Kon Tum 29. Lai Châu 30. Lâm Đồng 31. Lào Cai 32. Long An 33. Nam Định 34. Nghệ An 35. Ninh Bình 36. Ninh Thuận 37. Phú Thọ 38. Phú Yên 39. Quảng Bình 40. Quảng Nam 41. Quảng Ngãi 42. Quảng Ninh 43. Quảng Trị 44. Sơn La 45. Sóc Trăng 46. Tây Ninh 47. Thái Bình 48. Thái Nguyên 49. Thanh Hóa 50. TP. Hồ Chí Minh 51. Thừa Thiên Huế 52. Tiền Giang 53. Trà Vinh 54. Vĩnh Long 55. Vĩnh Phúc 56. Yên Bái Tổng cộng
hưởng đó
bao gồm:
10 Tr.24, Báo cáo giám sát khu kinh tế và làng nghề, tiếp thu UBTVQH, 19/10/2011
Một là, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần
xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động, phát triển
ngành nghề nông thôn sẽ tạo thêm việc làm cho lao động lúc nông nhàn; lao động phụ
như người già, trẻ em, khuyết tật… Tuy nhiên, khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển,
ÔNMT trở thành vấn đề nhức nhối thì những xung đột phát sinh giữa nhóm gây ô nhiễm
và cộng đồng bị ô nhiễm tại các khu vực làng nghề, các cơ sở sản xuất công nghiệp,
những xung đột liên quan đến công tác quy hoạch bãi rác tập trung lại càng trở lên phổ
biến và trở thành những điển hình về xung đột môi trường tại khu vực làng nghề. Môi
trường nước mặt (sông, hồ, kênh, mương) là nguồn tưới tiêu chính trong hoạt động sản
xuất. Khi chất lượng nước của hệ thống này bị ô nhiễm dẫn tới những thiệt hại không nhỏ
đối với sinh hoạt của người dân. Khí thải tại các khu vực làng nghề chưa qua xử lý có
nồng độ cao các chất độc hại cũng gây thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập của
người dân.
Ô nhiễm môi trường gây ra những thiệt hại không chỉ gây ảnh hưởng tới đời sống
của người nông dân mà còn gây ra những tổn thất lớn tới vấn đề phát triển kinh tế khu
vực. Hoạt động sản xuất nông nghiệp – sinh hoạt cũng chịu nhiều tác động tiêu cực do
ÔNMT đất. Ảnh hưởng của ÔNMT đất đến sức khoẻ còn người thể hiện rõ nhất ở sự tích
tụ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón trong đất. Việc sử dụng không đúng cách
hoặc quá nhiều các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật khiến cho cây trồng không hấp
thụ hết gây từ đó tích luỹ vào nông sản, thực phẩm, gây ra tình trạng ngộ độc thực phẩm
và những tác động lâu dài, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người, ảnh hưởng đến
chất lượng và giá trị kinh tế của sản phẩm, từ đó thu nhập của người nông dân cũng bị
giảm đáng kể.
Hai là, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, đa dạng hóa kinh tế địa
phương, thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Bảo tồn và phát triển làng nghề có tác dụng rõ rệt
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Hiện nay, các làng nghề đang phát triển đã đóng góp vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Sự phát triển của các nghề truyền thống
kéo theo sự phát triển của nhiều nghề khác nhau như thương mại, vận tải, thông tin liên
lạc, cung cấp điện nước, đặc biệt là du lịch – dịch vụ…và ngược lại, những ngành nghề
này lại hỗ trợ trực tiếp cho sự phát triển của các làng nghề.
Sự kết hợp giữa du lịch và nghề thủ công truyền thống là một đặc điểm mà ngoài
Việt Nam ra thì hầu như các quốc gia trong khối ASEAN không có. Đây chính là điều
kiện thuận lợi để Du lịch Việt Nam tạo ra lợi thế cạnh tranh với các đối thủ trong cùng
khu vực. Ngành du lịch hiện nay phát triển đã góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế, văn
hóa, xã hội và khôi phục các làng nghề truyền thống. Đây là cơ hội tốt để các làng nghề
truyền thống giới thiệu sản phẩm và tiếp cận thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, do bắt nguồn
từ yếu tố lịch sử và mang tính chất địa phương nên các làng nghề đều phát triển tự phát,
thiếu quy hoạch, từ đó đã phát sinh những vấn đề về môi trường. Ô nhiễm môi trường
như khói, bụi, tiếng ồn cũng là yếu tố gây cản trở lớn tới các họat động phát triển du lịch,
đặc biệt là du lịch làng nghề. Ô nhiễm môi trường khiến lượng khách đến thăm quan và
mua sắm tại các làng nghề giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của cộng đồng làm
nghề.
Ba là, làng nghề thể hiện nền văn hóa đặc trưng của quốc gia, khu vực. Lao
động sản xuất tại làng nghề là loại hình hoạt động hầu như chỉ có tại số ít các nước
Châu Á và trong đó có Việt Nam. Mỗi một làng nghề đều mang một giá trị tinh thần
và kinh tế riêng, đem lại cho người dân không chỉ những vật chất để đáp ứng nhu cầu
thường nhật mà còn đem lại cho họ sức sống về tinh thần, mang theo truyền thống ông
cha, giữ gìn lại những dư vị cổ xưa, làm cho đời sống tinh thần của họ trở nên phong
phú hơn.
Với vai trò quan trọng của làng nghề và BVMT làng nghề trong phát triển kinh
tế - xã hội, việc định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề, BVMT làng nghề tại các
địa phương trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết hiện nay. Để
làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần tìm ra các giải pháp và lập kế hoạch BVMT
làng nghề trong khoảng thời gian dài. Bên cạnh đó, cần có định hướng đối với một số
ngành nghề, làng nghề lạc hậu về công nghệ sản xuất gây hại đến môi trường, tạo điều
kiện cho môi trường các làng nghề ngày được phục hồi và phát triển, đảm bảo sự ổn
định và cải thiện đời sống của người dân.
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG, THỰC TRẠNG TẠI MỘT SỐ LÀNG NGHỀ CHẾ BIẾN THỰC
PHẨM TẠI HÀ NỘI
2.1 Quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
2.1.1 Bảo vệ môi trường các làng nghề
Có thể nói rằng hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT đã được xây dựng
một cách khá đầy đủ và toàn diện. Hiến pháp CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã dành
hẳn chương II để nói riêng về quyền con người, trong đó có quyền con người với môi
trường. Đặc biệt trong Hiến pháp 2013, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, đã đưa ra
những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Điều 43 quy định:
“Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”.
Đồng thời Hiến pháp cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm thực hiện quyền
về môi trường. Thêm vào đó, Hiến pháp cũng đề cập đến quyền tiếp cận thông tin liên
quan đến môi trường, cụ thể : “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định 11” (Điều 25).
Nhằm cụ thể hóa những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi
trường trong Hiến pháp 2013, Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật BVMT
2014, quy định về hoạt động môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để
BVMT; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
trong BVMT (Điều 1). Đi cùng với Luật BVMT 2014 là Luật đất đai 2013, Luật tài
nguyên nước 2012, Luật đa dạng sinh học 2008…
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ cũng đã ban hành các
11 Quốc hội, 28/11/2013, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
văn bản dưới luật để cụ thể hóa và lồng ghép vào việc BVMT – môi trường làng nghề
vào các chương trình kinh tế - xã hội như: Chiến lược BVMT quốc gia năm 2003;
Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam; Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ
sinh nông thôn đến năm 2003.
Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về BVMT, Việt Nam cũng đã sử
dụng các văn bản điều ước quốc tế về BVMT để làm cơ sở cho việc xây dựng, ban
hành văn bản pháp luật và kết hợp vào thực thi công tác BVMT một cách hiệu quả
hơn.
Cho tới thời điểm hiện tại, Quy định của pháp luật Việt Nam về BVMT bao
trùm chủ yếu lên các vấn đề lớn sau:
Một là, quy hoạch làng nghề gắn với BVMT. Để vừa có thể phát triển, vừa gìn
giữ và BVMT thì các làng nghề buộc phải có những quy hoạch mang tính tổng thể và
có định hướng tốt. Trong trong Nghị quyết trung ương Đảng khóa IX đã vạch ra
những giải pháp về quy hoạch: “Quản lý, cập nhật thông tin và kịp thời điều chỉnh
quy hoạch. Chú trọng làm tốt quy quy hoạch những vùng sản xuất hàng hóa tập trung;
Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển khu dân cư,
xây dựng làng xã thị trấn... giữ gìn bản sắc dân tộc”12. Quy hoạch đất đai cho làng
nghề, BVMT làng nghề phát huy văn hóa là vấn đề quan trọng và cấp bách hơn bao
giờ hết. Nhà nước đầu tư kinh phí cho các dự án quy hoạch, nâng cấp làng nghề trọng
điểm. Cùng với đó là những quy phạm pháp luật quy hoạch làng nghề nông thôn được
quy định trong Luật Xây dựng, Pháp lệnh làng nghề nông thôn, Luật về quy hoạch,
Luật Nhà ở... đặc biệt là Nghị định số 18/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
14/02/2015 Quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá
tác động môi trường.
Tại quyết định số 577/QĐ – TTg ngày 11/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm
12 Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010
2030, một trong các giải pháp thực hiện quy hoạch đã được đưa ra, đó là triển khai
xây dựng, thực hiện quy hoạch, di đời, chuyển đổi ngành nghề sản xuất, giài pháp đó
được cụ thể hóa thành hai hướng: Quy hoạch lại sản xuất và chuyển đổi ngành nghề
sản xuất hoặc di dời vào khu, cụm công nghiệp tập trung.
Ngoài ra tại chỉ thị số 28/2007/CT-BNN13 về đẩy mạnh thực hiện quy hoạch
phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ÔNMT làng nghề (Bộ NN&PTNT),
chỉ thị đã đưa ra hai việc lớn cần khải được thực hiện: về quy hoạch phát triển ngành
nghề nông thôn và về phòng chống ÔNMT làng nghề.
Ở địa phương, cụ thể là tại Hà Nội, để nâng cao nhận thức về việc BVMT làng
nghề, UBND TP Hà Nội đã ban hành quyết định 14/QĐ-UBND của UBND TP Hà
Nội về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030, theo như nội dung quy hoạch phát triển tổng
thể nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Sở
Công thương nghiên cứu lập quy hoạch, thành phố sẽ ưu tiên phát triển các nghề, làng
nghề có giá trị truyền thống như: ngành thủ công mỹ nghệ (nghề sơn mài, khảm trai;
chạm, điêu khắc đá, kim loại, gỗ, xương, sừng; dát quỳ, vàng, bạc); ngành nghề chế
biến lâm sản; ngành nghề dệt lụa; ngành nghề thêu, ren; ngành nghề gốm sứ; ngành
nghề da, giầy, khâu bóng... Bên cạnh đó, thành phố cũng sẽ tập trung quy hoạch phát
triển các ngành nghề theo hướng tham gia sản xuất các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho
sản xuất công nghiệp bao gồm ngành nghề dệt may; ngành nghề cơ kim khí, điện, rèn
dao kéo..14
Bên cạnh quyết định, UBND TP Hà Nội cũng đã đưa ra “Kế hoạch thực hiện
công tác BVMT làng nghề trên địa bàn Hà Nội, giai đoạn 2016-2020”. Và trong năm
2016 UBND TP cũng phê duyệt thêm “Đề án BVMT trên thành phố Hà Nội đến năm
2020 định hướng đến năm 2030”, phê duyệt quy hoạch các khu công nghiệp, cụm
13 Chỉ thị 28/2007/CT-BNN về đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 18/04/2007 14 Quyết định 14/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, UBND TP Hà Nội, 02/01/2013.
công nghiệp thành phố hà nội định hướng đến năm 2030 và xem xét đưa điều kiện
BVMT được quy định là tiêu chí bắt buộc trong việc công nhận các làng nghề. UBND
TP Hà Nội còn ban hành Chương trình số 154/UBND-CT về việc phát triển làng nghề
kết hợp du lịch trong giai đoạn 2012-2015.
Hai là, xây dựng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường. Cho đến hiện tại,
ngoài Luật BVMT 2014 ra, vẫn chưa có văn bản QPPL nào được ban hành chi tiết
hơn về vấn đề xây dưng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường, đặc biệt là về môi
trường làng nghề.
Thông tin môi trường gồm số liệu, dữ liệu về thành phần môi trường, các tác
động đối với môi trường, chính sách, pháp luật về BVMT, hoạt động BVMT.15 Hiện
tại chỉ có Bộ TN&MT, các bộ ngành và cơ quan quản lý địa phương trong nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mới có quyền thu thập và quản lý thông tin môi trường, tích hợp
với cơ sở dữ liệu quốc gia. Cụ thể, điều 129 Luật BVMT quy định về việc thu thập và
quản lý thông tin môi trường như sau:
“1. Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành và địa phương thu thập và
quản lý thông tin môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.
2. Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình thu thập, quản lý thông tin môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường của
Bộ, ngành, địa phương và tích hợp với cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.
3. Khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công
nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ lập hồ sơ môi trường, quản lý
thông tin về tác động đối với môi trường từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.”
Ba là, đánh giá tác động môi trường tại khu vực làng nghề. Luật BVMT năm
2014 đã quy định khái quát 3 nhóm đối tượng cần lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường (ĐTM) tại Điều 18. Trong đó ở điểm c, khoản 1, Điều 18 đã được sửa đổi tiến
bộ hơn Luật BVMT 2005 bằng việc thay đổi ... thành “các dự án có nguy cơ tác động
xấu đến môi trường”, quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường
đầy đủ gồm: Dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, 15 Điều 128, Mục 1, Chương XIII, Luật BVMT 2014
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Dự án có sử dụng đất của khu bảo tồn thiên nhiên,
vườn quốc gia, khu di tích lịch sử - văn hóa, khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh
quyển, khu danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng; Dự án có nguy cơ tác động xấu
đến môi trường.
Riêng đối với các khu vực làng nghề, đã một vài văn bản riêng về việc đánh giá
tác động môi trường như :Thông tư 46/2011/TT-BTNMT BVMT làng nghề do Bộ
TN&MT ban hành, “Đề án BVMT làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030” đã được phê duyệt dựa trên Kế hoạch 235/KH-
UBND công tác BVMT làng nghề Hà Nội của UBND TP Hà Nội 16. Nghị định
18/2015/ NĐ-CP về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác
động môi trường và kế hoạch BVMT tại Phụ lục 2 đã liệt kê 113 loại dự án phải lập
báo cáo ĐTM trong đó khu vực các làng nghề, các dự án về làng nghề trong khu vực
này thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường như quy định tại
Điều 18 Luật BVMT 2014 thì phải thực hiện việc lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường như quy định của pháp luật.
Theo như phụ lục II về Danh sách dự án phải thực hiện đánh giá tác động môi
trường kèm theo Nghị định 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ thì: “Tất
cả các các dự án về xây dựng hạ tần kỹ thuật làng nghề phải thực hiện đánh giá tác
động môi trường”. Ngoài ra Bộ TN&MT ban hành thông tư số 27/2015/TT-BTNMT
về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT
để hướng dẫn thi hành Nghị định 18/2015/NĐ-CP.
Cụ thể hơn, tại Nghị định 18/2015/NĐ-CP quy định, đối tượng phải thực hiện
đánh giá tác động môi trường gồm: các dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư của Quốc hội, thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; dự án có sử dụng đất của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,
16 Kế hoạch 235/KH-UBND công tác BVMT làng nghề Hà Nội, UBND TP Hà Nội, 31/12/2015.
khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển; các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu
công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu thương mại,
làng nghề và các khu sản xuất kinh doanh tập trung khác; các dự án có tác động đến
môi trường khác…17
Nghị định quy định, quy hoạch BVMT được lập phù hợp với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội với kỳ đầu cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2040
theo 2 cấp độ là quy hoạch BVMT cấp quốc gia và quy hoạch BVMT cấp tỉnh.
Bốn là, các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường chung. Về cơ bản, các
quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường đã được đưa ra tại
Chương XI của Luật BVMT 2014, trong đó có đưa ra hệ thống quy chuẩn kỹ thuật
môi trường: các nhóm quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng môi trường xung quanh (đất,
nước mặt, nước dưới đất, nước biển, không khí, âm thanh, ánh sáng, bức xạ, tiếng ồn,
độ rung), các nhóm quy chuẩn kỹ thuật về chất thải (nước thải công nghiệp, dịch vụ,
nước thải từ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, nước thải sinh hoạt, phương tiện giao
thông, khí thải của các nguồn di động và cố định, chất thải nguy hại…) và nhóm quy
chuẩn kỹ thuật môi trường khác18. Ngoài ra chương XI còn quy định về nguyên tắc
xây dựng, ký hiệu quy chuẩn kỹ thuật môi trường, yêu cầu đối với quy chuẩn kỹ thuật
môi trường xung quanh và chất thải, xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật, tiêu
chuẩn môi trường.
Dựa trên những điều luật cơ bản được đưa ra tại Luật BVMT 2014, Bộ
TN&MT đã đưa ra các văn bản cụ thể quy định chi tiết về quy chuẩn kĩ thuật môi
trường chung như:
Đối với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường đất: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về giới hạn cho phép của kim loại nặng trong đất QCVN 03 : 2008/BTNMT; Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật trong đất QCVN 15:
17 Nghị định 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, Chính phủ, 14/02/2015. 18 Khoản 1, Điều 13, Chương XI, Luật BVMT 2014
2008/BTNMT;
Quy định về quy chuẩn kỹ thuật với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường
không khí được ban hành dưới các văn bản sau: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
lượng không khí xung quanh QCVN 05: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về một số chất độc hại trong không khí xung quanh QCVN 06: 2009/BTNMT; Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ QCVN
19: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với một
số chất hữu cơ QCVN 20: 2009/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải
công nghiệp sản xuất phân bón hóa học QCVN 21: 2009/BTNMT;
Với nhóm quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước, Bộ TN&MT đã ban hảnh các
văn bản quy định về quy chuẩn kỹ thuật như : Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
lượng nước mặt QCVN 08: 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
lượng nước ngầm QCVN 09 : 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
lượng nước biển ven bờ QCVN 10: 2008/BTNMT; QCVN 38:2011/BTNMT Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh; QCVN
39:2011/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước dùng cho tưới tiêu.
Với nhóm quy chuẩn kỹ thuật tiếng ồn, Bộ TN&MT đã đưa ra Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về tiếng ồn QCVN 26: 2010/BTNMT nhằm quy định giới hạn tối đa
các mức tiếng ồn tại các khu vực có con người sinh sống, hoạt động và làm việc. hiện
quy chuẩn này không áp dụng để đánh giá mức tiếng ồn bên trong các cơ sở sản xuất,
xây dựng, thương mại, dịch vụ.
Về quy chuẩn kỹ thuật đối với chất thải, Bộ TN&MT đã ban hành các văn bản
như: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế biến thủy sản QCVN
11: 2008/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột
giấy QCVN 12: 2008/BTNMT; QCVN 38:2011/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về ngưỡng chất thải nguy hại QCVN 07: 2009/BTNMT;…
Bên cạnh các quy chuẩn kỹ thuật đối với môi trường chung và chất thải, Bộ
TN&MT còn ban hành quy chuẩn kỹ thuật đối với nguyên liệu nhập khẩu như : Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu sắt, thép nhập khẩu QCVN 31:
2010/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với phế liệu nhựa
nhập khẩu QCVN 32: 2010/BTNMT; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối
với phế liệu giấy nhập khẩu QCVN 33: 2010/BTNMT;…
2.1.2 Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường các làng nghề
Sự phát triển của các làng nghề trong những thời gian qua còn mang tính tự
phát cao, chưa có quy hoạch cụ thể, tập trung trong các hộ gia đình nhỏ lẻ. Cùng với
những trang thiết bị công nghệ thấp, giản đơn, kinh nghiệm truyền miệng từ người
này sang người khác (như những dẫn chứng trong phần hiện trạng môi trường làng
nghề). Với việc 100% các làng nghề vi phạm quy định về BVMT, như việc không xây
hệ thống xử lý chất thải, các loại khí thải, chất thải rắn, xả thẳng nước thải ra môi
trường.19 Vậy ai sẽ là chủ thể phải chịu trách nhiệm gây ÔNMT và truy cứu như thế
nào? Đây sẽ là trách nhiệm của những hộ gia đình xả thải hay là cả làng nghề đó?
Chính những vướng mắc khó giải quyết này đã tạo ra những tác động xấu không chỉ
tới sự phát triển chung của các làng nghề mà còn ảnh hưởng đặc biệt lớn đến môi
trường và cuộc sống của người dân.
Để đảm bảo việc thực hiện áp dụng pháp luật BVMT một cách có hiệu quả
hơn, Quốc hội và các cơ quan lập pháp đã ban hành những văn bản quy định về các
vấn đề sau:
Một là, quy định về quản lý chất thải trong khu vực làng nghề. Chương VII,
Luật BVMT 2014 đã quy định về việc làng nghề phải có kết cấu hạ tầng bảo đảm thu
gom, phân loại, xử lý, thải bỏ chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Xét về mặt
định hướng thì Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Quyết định 2149/QĐ-TTg Chiến
lược Quốc gia về chất thải rắn đến 2025, ảnh hướng đến 2050 qua đó với mục tiêu cụ
19 Vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng, Báo Điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 13/08/2013
thể trong giai đoạn từ 2015 đến 2025 thì có thể thu gom, xử lý được 50% đến 100%
chất thải rắn tại các làng nghề.20 Để hỗ trợ cho việc quản lý chất thải tại làng nghề thì
Chính phủ đã ban hành những nghị định như: Nghị định số 59/2007/NĐ-CP Về quản
lý chất thải rắn và được bổ sung trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất
thải và phế liệu.
Tại các làng nghề chế biến thực phẩm như làng bún Phú Đô và làng nghề chế
biến NSTP, các hộ sản xuất đã xả thẳng nước thải trực tiếp ra cống rãnh, kênh mương,
sông ngòi khiến nguồn nước chuyển màu đen và bốc mùi nồng nặc. Đứng trước vấn
nạn ÔNMT các làng nghề Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Đề
án tổng thể BVMT lưu vực sông Nhuệ-sông Đáy đến năm 2020 để quản lý nước thải
từ khu vực làng nghề thải vào hai con sông Nhuệ và sông Đáy. Kế hoạch này xác định
các nhiệm vụ, dự án, làm cơ sở cho các bộ, ngành liên quan và các địa phương trên
lưu vực sông triển khai nhằm đạt được các chỉ tiêu của Đề án tổng thể BVMT lưu vực
sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020 tại Quyết định 57/2008/QĐ-TTg ngày
29/4/2008.
Bên cạnh đó, tại địa phương, UBND TP Hà Nội đã đưa ra đề án BVMT làng
nghề đến năm 2020 định hướng đến năm 2030, thành phố đặt mục tiêu đến năm 2020
sẽ hoàn thành xử lý ÔNMT tại 50 làng nghề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ngoài
ra UBND TP Hà Nội còn ban hành Quyết định 105/2014/QĐ-UBND về việc ban hành
quy định quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh để quy định về hoạt động
phát thải, lưu giữ, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn, quy định trách nhiệm
của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có liên quan trong việc quản lý chất thải rắn
trên địa bàn tỉnh.
Hai là, quy định về trách nhiệm BVMT của các chủ thể làm phát sinh ô nhiễm,
phát sinh chất thải tại khu vực các làng nghề. Khi quy định về trách nhiệm BVMT của
các chủ thể gây tác động tới môi trường – các chủ thể sản xuất, làm phát sinh ô nhiễm,
20 Quyết định 2149/QĐ-TTg năm 2009 phê duyệt chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ, 17/12/2009.
phát sinh chất thải – nhà nước đã ban hành nhiều văn bản luật, văn bản dưới luật làm
rõ trách nhiệm cũng như tạo điều kiện cho những nhà quản lý, cơ quan có thẩm quyền
xác định được chủ thể gây ô nhiễm khi có sự cố môi trường xảy ra.
Luật BVMT 2014, Chương III đã đưa ra 3 điều luật quy định về trách nhiệm
của chủ thể làm ô nhiễm, phát sinh chất thải (cá nhân, hộ gia đình, tổ chức) bao gồm:
trách nhiệm của chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển chất thải và trách nhiệm của
chủ xử lý chất thải rắn. Trong đó có điều 107, khoản 1 quy định rất rõ ràng về trách
nhiệm của chủ thể gây ÔNMT trong việc khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường.
Ngoài ra, luật BVMT còn quy định một vài trách nhiệm khác của các chủ thể
tác động đến môi trường: trách nhiệm phân loại chất thài rắn thông thường; trách
nhiệm của chủ thể có nguy cơ gây ra sự cố môi trường thực hiện các biện pháp phòng
ngừa; trách nhiệm ứng phó sự cố môi trường của tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi
trường; trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường của các tổ chức, cá nhân gây ra sự cố
môi trường; xây dựng lực lượng ứng phó sự cố môi trường;…
Cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ sở sản xuất làng nghề đã có Nghị định
19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều luật của Luật BVMT 2015 do
Chính phủ ban hành. Bên cạnh đó, Bộ TN&MT cũng đã ban hành Thông tư
46/2011/TT-BTNMT quy định về BVMT làng nghề. Điều 12 của thông tư đã cụ thể
hóa các quy định về trách nhiệm của các cơ sở sản xuất tại làng nghề đối với môi
trường
Ba là, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước tại làng nghề. Luật
BVMT 2014 đã dành hẳn một chương để đưa ra các quy định về trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước về BVMT. Ngoài ra theo pháp lệnh số 10/2014/UBTVQH13
và nghị định của chính phủ số 105/2015/NĐ – CP đã quy định về quyền hạn và nhiệm
vụ của lực lượng cảnh sát môi trường trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và
vi phạm hành chính về môi trường và tài nguyên, an toàn thực phẩm có liên quan đến
môi trường.
Theo Nghị định 19/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật BVMT, điều 10 đã đưa ra trách nhiệm của các cơ quản quản lý và các đơn vị có
liên quan bảo gồm: Trách nhiệm của Bộ TN&MT; . Trách nhiệm của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (gọi tắt là Bộ, ngành); Trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh. Các trách nhiệm của các cơ quan quản lý và các đơn vị có liên
quan bao gồm những công việc như: Phối hợp xây dựng và ban hành các hướng dẫn
về trình tự, thủ tục, nội dung thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, xác nhận hoàn thành
phương án, phương án bổ sung và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt
động khai thác khoáng sản; Phối hợp xây dựng và ban hành hướng dẫn kỹ thuật
BVMT, thống nhất triển khai các quy định quản lý nhà nước về cải tạo, phục hồi môi
trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng
sản; Thẩm định, phê duyệt và kiểm tra, xác nhận hoàn thành phương án, phương án bổ
sung thuộc thẩm quyền; Kiểm tra, thanh tra công tác BVMT, cải tạo, phục hồi môi
trường của các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.
Cụ thể hơn khi nói về trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc BVMT tại
các làng nghề, Bộ TN&MT đã ban hành: Quy định về BVMT làng nghề. Trong đó,
điều 13, 14, 15, 16, 17 đã quy định rất cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý
từ UBND cấp xã, huyện, tỉnh cho đến Sở TN&MT. Đặc biệt điều 13 của thông tư đã
đưa ra quy định về trách nhiệm về tổ chức tự quản về BVMT – một tổ chức có mối
liên hệ mật thiết đến hoạt động của cộng đồng dân cư tại làng nghề (tổ chức tự quản
về BVMT là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
cộng đồng trách nhiệm theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật BVMT 2014.
Khi quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước đối với việc
quản lý chất thải tại địa phương, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND TP Hà
Nội đã đưa ra nghị quyết 105/2014/QĐ-UBND, trong đó 3 điều quy định về trách
nhiệm của các Sở, ban ngành, trách nhiệm của UBND các huyện, thị xã, thành phố và
trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn.21 Có thể nói, ngoài trách nhiệm của cơ
21 Quyết định 105/2014/QĐ-UBND quản lý chất thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, UBND TP Hà Nội, 31/03/2014.
quan nhà nước trong việc BVMT làng nghề là không nhỏ. Tuy vậy, sự quan tâm cũng
như giúp đỡ từ cộng đồng dân cư đóng góp một phần hết sức quan trọng trong công
cuộc xây dựng môi trường làng nghề sạch đẹp.
Bốn là, quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Thứ nhất, xử lý hành chính là một trong những biện pháp chính trong việc răn
đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Ngày
14/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 179/2013/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thay thế Nghị định số
117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009. Nghị định này đã làm rõ những hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được quy định tại khoản 2 Điều 1. Nghị
định 179/2013/NĐ-CP được ban hành đã khắc phục những cấp bất cập, quy định
không còn phù hợp về bảo vệ môi trường, về đa dạng sinh học so với nghị định
117/2009/NĐ-CP. Đặc biệt về mức phạt tiền lớn nhất tại Nghị định 179/2013/NĐ-CP
tối đa là 1 tỷ đồng đối với cá nhân và 2 tỷ đồng đối với tổ chức. Như vậy, mức phạt
tối đa theo quy định tại Nghị định 179/2013/NĐ-CP cao gấp 4 lần so với mức phạt tối
đa quy định tại Nghị định 117/2009/NĐ-CP đã hết hiệu lực.
Bên cạnh việc áp dụng mức phạt cao hơn mang tính rắn đe, thì nghị định
179/2013/NĐ-CP cũng đã định nghĩa về hành vi xả thải. Trước đây, việc xả thải vào
môi trường được hiểu là xả ra ngoài phạm vi quản lý của cơ sở sản xuất kinh doanh,
như khi xả nước thải ra ngoài tường rào. Còn trường hợp đơn vị xả thải ở trong khu
đất của đơn vị vẫn được coi là chưa vi phạm. Tuy nhiên ở Nghị định 179/2013/NĐ-
CP, xả thải không chỉ là “xả ra ngoài” mà còn là “xả thải vào môi trường đất, nước
dưới đất, nước mặt bên trong và ngoài cơ sở….” (Khoản 1 điều 3)22. Như vậy có
nghĩa là việc xả nước thải ra đất vào ao chứa, hồ chứa mà không có biện pháp lót đáy
chống thấm dù bên trong hay bên ngoài diện tích đất thuộc quản lý của cơ sở đều
được coi là xả thải vào môi trường. Điều này đã tạo điều kiện tốt hơn cho việc kiểm
22 Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Chính phủ, 14/11/2013.
soát xả thải ở các khu vực làng nghề, các hộ dân cư hay tại các khu công nghiệp.
Thêm vào dó, Nghị định 179/2013/NĐ-CP cũng đã phân định rõ ràng về thẩm
quyền kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm của các cơ quan Công an, Thuế, Kiểm lâm,
Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường, Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi
trường, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp và Sở Tài nguyên và Môi trường.
Ngoài những biện pháp về phạt tiền và tước giấy phép, các chủ thể của hành vi
gây ÔNMT có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như: buộc khôi phục
tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra, buộc tháo dỡ công
trình, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ÔNMT và các biện pháp bảo
vệ môi trường, buộc thu hồi sản phẩm…
Thứ hai, pháp luật Việt Nam còn quy định về trách nhiệm dân sự của những
chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường. BLDS 2015 đã có những
bước tiến bộ trong quy định về bồi thường thiệt hại do làm ÔNMT. BLDS 1999 đang
sử dụng hiện nay chỉ quy định “cá nhân, pháp nhân” mà gây ô nhiễm thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật kể cả trường hợp người gây ô nhiễm không có lỗi.
Quy định của BLDS 1999 chưa bao quát hết được những đối tượng gây ÔNMT hiện
nay vì vậy mà BLDS 2015 đã thay thế cụm “cá nhân, pháp nhân” thành “chủ thể”.
Chính những quy định vừa nêu trên của pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý cho
những người bị thiệt hại do ÔNMT có thể tự bảo vệ được quyền lợi của bản thân,
đồng thời các cơ quan nhà nước có cơ sở để xem xét trách nhiệm của các tổ chức cá
nhân, chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật môi trường.
Thứ ba, chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự với những hành vi gây hậu quả
nghiêm trọng mà xử lý hành chính và trách nhiệm dân sự không thể áp dụng đựng.
Hiện nay, vi phạm pháp luật về môi trường càng trở nên phức tạp với những hậu quả
không ngờ tới được. Mặc dù gây hậu quả nghiệm trọng cho xã hội nhưng trách nhiệm
hình sự áp dụng cho những hành vi vi phạm môi trường lại còn quá nhẹ thậm chí
nhiều trường hợp còn không thể xử lý được. Nghĩa là, mặc dù đã được sửa đổi bổ
sung vào năm 2009 nhưng Bộ Luật Hình sự hiện hành vẫn có những lỗ hổng để các
đối tượng “lách luật”. BLHS hiện hành quy định tội phạm với đa số cấu thành tội
phạm vật chất nghĩa là hành vi đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra. Tuy nhiên điều này lại
nảy sinh một số vướng mắc trong áp dụng bởi: i/ Hành vi được thực hiện nhưng hậu
quả xảy ra ở thời gian sau đó rất xa khiến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với hành vi đó không còn; ii/ Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm và hậu quả xảy ra là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật cao,
không phải địa phương nào cũng có khả năng thực hiện . Cụ thể là trong 11 tội phạm
môi trường mà BLHS hiện hành quy định đã có tới 6 cấu thành tội phạm được xây
dựng là cấu thành tội phạm vật chất. Có thể nói rằng các tội phạm trong BLHS hiện
hành được xây dựng là những cấu thành tội phạm vật chất với dấu hiệu chung chung,
không có căn cứ rõ ràng. Để khắc phục những yếu điểm BLHS 2015 đã đưa và những
quy định cấu thành hình thức đối với tội phạm môi trường và đã cụ thể hóa các quy
định cấu thành vật chất bằng các con số để dễ dàng đối chiếu chứng minh trong định
tội23.
2.2 Thực trạng môi trường và áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường tại một số
làng nghề chế biến thực phẩm tại Hà Nội
2.2.1 Hiện trạng môi trường
Một là, về hiện trạng môi trường làng nghề: Theo Báo cáo môi trường quốc gia
2008, ÔNMT làng nghề làm gia tăng người mắc bệnh đang lao động và sinh sống tại
chính làng nghề. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong những năm gần đây24.
Môi trường làng nghề xấu đi đã tác động không nhỏ đến sức khỏe người dân tại
địa phương, gây ra các căn bệnh từ nguồn nước, từ không khí và nhiều nguồn ô nhiễm
khác. Tại các khu vực làng nghề chế biến thực phẩm, chế biến NSTP xuất hiện những
bệnh phổ biến là bệnh ngoài da, viêm niêm mạc như nấm kẽ, nấm móng, dày sừng
gan bàn chân, viêm chân tóc,… Còn tại các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da
23 Cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi trường, TS. Phạm Văn Beo, Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ, Báo Thiên Nhiên, 29/10/2015, 24 Báo cáo môi trường quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở Tài Nguyên môi trường, 2008
thì các bệnh thường gặp là bệnh đường hô hấp, tiêu hóa, thần kinh; ở làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: bệnh đặc trưng của người dân và người lao
động chủ yếu là hô hấp, tiêu hóa, phụ khoa và các bệnh về mắt; ở làng tái chế phế
liệu: các bệnh thường gặp là hô hấp, bệnh ngoài da, thần kinh và đặc biệt là tỷ lệ
người mắc bệnh ung thư tương đối cao; ở làng nghề thủ công, mỹ nghệ, thêu ren:
thường là bệnh hô hấp, ngoài da.
Ở nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc bệnh, nhất là nhóm người trong độ tuổi lao
động đang có xu hướng tăng cao. Ở một số làng nghề có mức độ ô nhiễm cao thì tuổi
thọ trung bình của người dân giảm, thấp hơn đến 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn
quốc và thấp hơn từ 5 đến 10 năm so với làng không làm nghề.
Qua nghiên cứu cũng như những khảo sát thống kê từ nhiều công trình lớn và
nhỏ từ trước đến nay thì sự phân bố các làng nghề tại Việt Nam diễn ra không đồng
đều. Sự phân bố và mật độ không đều của các làng nghề truyền thống ở các vùng
miền trên phạm vi toàn quốc phản ánh những nét đặc thù của dân tộc.m Tính đến ngày
31 tháng 3 năm 2014 thì tổng số làng nghề và làng có nghề trên toàn quốc là 4.487
làng, trong đó có 1.534 làng nghề đã được công nhận25. Và hầu như các làng nghề chỉ
tập trung vào ở khu vực miền Bắc và tại những vùng nông thôn, do xu thế đô thị hóa
nên nhiều khu vực nông thôn đã trở thành đô thị, nhưng vẫn duy trì xét sản xuất văn
hóa truyền thống nên đã tạo ra những “lỗ hổng” trong chính sách phát triển và hành
lang pháp lý về quản lý làng nghề. Sự phân bố không đồng đều này, đối với các tỉnh
thuộc đồng bằng song Hồng (có diện tích chật hẹp, mật độ dân cư cao, hoạt động sản
xuất quy mô công nghiệp và bán công nghiệp gắn liền với sinh hoạt) thì hậu quả của
ÔNMT là rõ rệt nhất. Với một sự nhìn nhận khách quan thì không phải tất cả các làng
nghề đều gây ra ô nhiễm, trên thực tế, mức độ tác động đến môi trường do hoạt động
sản xuất làng nghề rất khác nhau, phụ thuộc vào loại hình sản xuất và đặc điểm phân
25 BVMT làng nghề: Huy động sự vào cuộc của các tổ chức chính trị - xã hội, Phạm Trọng Duy, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục môi trường, 23/11/2015
bố theo vùng, miền. Các tác động của con người trong hoạt động sản xuất tại các làng
nghề tới môi trường có thể kể đến như: môi trường đất, môi trường nước, môi trường
không khí, môi trường tiếng ồn…
Tính đến năm 2011, cả nước có 3.355 làng nghề và tình trạng ÔNMT tại hầu
hết các làng nghề này đang rất nghiêm trọng26.
Ở các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, nước mặt nhiều nơi có hàm
lượng COD, BOD5, NH4+, coliform vượt hàng chục lần đến hàng trăm lần quy
chuẩn. Ngoài ra, hầu hết các làng nghề đều có hàm lượng bụi vượt tiêu chuẩn cho
phép; nồng độ khí SO2 tại các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm cao hơn rất
nhiều so với tiêu chuẩn cho phép.
Giá trị giới hạn
STT
Thông số
Đơn vị
Mức A
Mức B
1
COD
mg/l
10-9999999
35-9999999
2
Coliform
MPN/100ml
5000
10000
BOD5(20 độ
mg/l
0-4
0-25
3
C)
Amoni(tính
4
mg/l
1
theo Nitơ)
0,05
26 Ô nhiễm môi trường nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái (theo Thông tấn xã Việt Nam), Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam, 02/03/2013
Bảng. Quy chuẩn chất lượng nước mặt 27
Bên cạnh đó, tại các làng nghề khí thải, nước thải, chất thải rắn chưa được xử lý
đã xả thẳng vào môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng không khí và các nguồn nước
mặt, nước dưới đất tại địa phương. Trên thực tế, ý thức BVMT của người dân tại các
làng nghề còn hạn chế. Bên cạnh đó, các hộ sản xuất làm nghề nằm phân tán trong
khu dân cư và chủ yếu tận dụng diện tích đất ở để làm cơ sở sản xuất, quy mô sản
xuất nhỏ, vì vậy gây nhiều khó khăn, bất cập trong công tác BVMT.
Dựa vào những số liệu thống kê ta có thể nhận xét ÔNMT làng nghề có một số
đặc điểm sau: (i) Là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu vực (thôn, làng,
xã…). Vì đặc điểm quy mô sản xuất của các làng nghề hầu như là nhỏ, đan xen, phân
tán,với các khu sinh hoạt của dân cư và thậm chí là ngôi nhà của chính những người
dân là những cơ sở sản xuất, nên việc kiểm soát và quy hoạch ô nhiễm trở nên rất khó
khăn và phức tạp; (ii) Mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề
sản xuất, mùa vụ sản xuất, loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp tới môi trường
nước, khí, đất trong khu vực; (iii) Mức độ ô nhiễm khá cao tại khu vực sản xuất và
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động do sinh hoạt ngay trong khu vực sản
xuất.1 Tác động của ô nhiễm là tác động cộng hưởng của nhiều nguồn ô nhiễm trong
cùng một khu vực (gồm nhiều hộ sản xuất gia đình).
Thứ nhất, về ÔNMT nước và nước thải của làng nghề. Qua kết quả xét nghiệm
các mẫu nước thải ở các làng nghề của Viện khoa học và công nghệ môi trường
(trường Đại học Bách khoa Hà Nội)28 thì 100% các mẫu nước đều vượt quá tiêu chuẩn
27 Tr. 4, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN: 2008 – BTNMT, Bộ TN&MT, 2008 28 Bài viết Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội, Phúc Lập, Báo Nông nghiệp Việt Nam, 08/04/2015
cho phép, nước ngầm và nước mặt đều có dấu hiệu ô nhiễm vượt mức.
Theo đặc trưng chất gây ô nhiễm trong nước thải của từng loại hình sản xuất có
thể phân loại ÔNMT nước như sau: Ô nhiễm chất hữu cơ tại các làng nghề chế biến
lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ. Đây là các loại hình sản xuất có nhu cầu
sử dụng nước rất lớn và nước thải có đặc tính chung là giàu chất hữu cơ, dễ phân hủy
sinh học và có độ ô nhiễm hữu cơ rất cao. Hàm lượng các chất ô nhiễm, vượt quy
chuẩn Việt Nam (QCVN) hàng chục lần. Đặc biệt là nước thải từ khâu lọc tách bã,
tách bột đen của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn và dong giềng có độ chua (pH)
thấp, hàm lượng nhu cầu ôxy sinh hóa (BOD5), nhu cầu ôxy hóa học (COD) vượt trên
200 lần QCCP;
Ô nhiễm chất vô cơ và hóa chất chủ yếu tập trung tại các làng nghề dệt nhuộm,
thủ công mỹ nghệ và mây tre đan, tái chế giấy, do sản xuất có sử dụng nhiều nước,
hóa chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm trong nước thải làng nghề dệt
nhuộm bao gồm: các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải: chất bẩn, sáp, dầu, hợp chất
chứa nitơ, pectin.. và các hóa chất rong quá trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH,
H2SO4, HCL, NA2CO3, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10 -30% lượng
thuốc nhuộm và hóa chất sử dụng bị thải ra ngoài cùng với nước thải. Hơn nữa nước
thải dệt nhuộm chứa nhiều hóa chất và có độ màu rất cao, có nơi lên tới 13.000 (Pt-
Co);
Ô nhiễm kim loại nặng độc hại, dầu thải từ nước thải của các làng nghề mạ, tái
chế kim loại…Quá trình mạ bạc còn tạo ra muối thủy ngân xyanua, oxit kim loại và
các tạp chất khác vượt QCVN từ 1,5 -10 lần29.
Thứ hai, về vấn đề ÔNMT không khí tại các làng nghề. Với đặc trưng của các
làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là sự dễ phân hủy của các hợp chất hữu cơ có
trong chất thải rắn và nước thải từ các cống, rãnh, mương. Quá trình trình phân hủy đã
sinh ra nhiều các khí độc như SO2, NO2, H2S, NH3, CH4 và nhiều các loại khí ô
nhiễm gây mùi tanh ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người dân làng
nghề. Đặc biệt như làng Bún Phú Đô, Hà Nội hay làng Bún Vũ Hội, Thái Bình đều có 29 Tr.27, Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề - Tiếp thu UBTVQH ngày 29/10/2011
hàm lượng SO2 rất cao vượt qua ngưỡng cho phép là 0.35mg/m3 không khí (theo
TCVN 5937 – 2005(SO2)).
Ở các làng ươm tơ, dệt vải và thuộc da thì mức độ ô nhiễm không khí mang
tính cục bộ. Các khu vực sản xuất của làng nghề dệt nhuộm ô nhiễm chủ yếu ở các
thông số như bụi, SO2, NO2. Đặc biệt, các làng nghề dệt thường bị ô nhiễm tiếng ồn
từ các máy dệt thủ công hoặc bán tự động, mức ồn vượt TCVN từ 4 - 14 dBA.30
Đặc biệt ÔNMT không khí tại các làng nghề có nghề tái chế có mức độ nặng
nhất và dạng ô nhiễm ở đây là bụi, hơi kiềm, Cl2 do dùng nước Javen để tẩy trắng và
H2S. Trong công nghệ tái chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ việc nhựa cháy làm phát
sinh các khí độc như HCL, HCN, CO, HC. Trong đó, ngành sản xuất có thải lượng ô
nhiễm lớn nhất là tái chế kim loại, tiếp theo sản xuất vật liệu xây dựng và gốm sứ.
Ngoài ra, quá trình tái chế và gia công cũng gây phát sinh các khí độc như hơi axit,
kiềm, oxit kim loại và ô nhiễm nhiệt. Hàm lượng bụi ở khu vực sản xuất vật liệu xây
dựng tại một số địa phương vượt QCVN là 3 - 8 lần, hàm lượng SO2 có nơi vượt 6,5
lần31.
Thứ ba, về chất thải rắn tại các làng nghề. Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề
chưa được thu gom và xử lý triệt để, nhiều làng nghề xả thải bừa bãi gây tác động xấu
tới cảnh quan môi trường, gây ÔNMT không khí, nước và đất.
Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, đặc biệt là sản xuất tinh bột
sắn, dong giềng tạo ra khối lượng lớn chất thải rắn. Khối lượng chất thải rắn này
không được thu gom, xử lý mà xả bừa bãi ở các khu vực công cộng, đặc biệt là ao hồ,
bờ đê gây tắc nghẽn hệ thống thoát nước, ô nhiễm nghiêm trọng nước mặt, nước dưới
đất; bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan khu vực nông thôn
Làng nghề tái chế kim loại, với nguồn chất thải rắn phát sinh bao gồm bavia,
bụi kim loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1-7 tấn/ngày. Làng nghề tái chế giấy,
30 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008: Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở TN&MT 31 Tr.27, Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề - Tiếp thu UBTVQH ngày 29/10/2011
nhựa thải ra các chất thải rắn gồm: nhãn mác, bột giấy, băng ghim, băng dán, tạp chất
không tái sinh được, các chi tiết bằng kim loại, cao su. Các tạp chất loại này thường
chiếm 5-10% trong phế liệu32.
Hai là, về thực trạng môi trường của một vài làng nghề chế biến thực phẩm là
làng bún Phú Đô và làng nghề chế biến NSTP Minh Khai.
Đầu tiên, về hiện trạng môi trường làng bún Phú Đô – Hà Nội. Làng bún Phú
Đô (xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có nghề sản xuất bún truyền thống lâu đời
hơn 400 năm, trung bình hằng ngày có 50 tấn bún được sản xuất để đưa đi tiêu thụ
cho gần một nửa thị trường Hà Nội33. Trước kia, khi quy mô sản xuất bún tại các hộ
gia đình của làng Phú Đô còn nhỏ hẹp, nước thải từ quá trình sản xuất được tận dụng
lại cho chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, quay trở lại gần chục năm trở lại đây, khi quy
mô sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng cũng đẩy mạnh thì việc sư dụng các thiết bị
hóa chất cho hoạt động sản xuất bún đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề.
Nước thải
Khí thải
Tên làng nghề (địa chỉ -
Thành phần chất ô
TT
loại hình)
Chất ô nhiễm đặc trưng
nhiễm
Làng nghề
lương
thực,
lần,
SO2 vượt 1,4-1,8
thực phẩm Yên Viên, Gia 1
NO2 vượt 1,3-1,6 lần
Lâm
Làng nghề chế biến nông
sản, 2
thực phẩm Dương
BOD, COD, N, P, TSS
SO2, NO2
Liễu, Hoài Đức
32 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008: Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở TN&MT 33 Bài viết “Làng bún Phú Đô: Bao giờ hết ô nhiễm?”, Nguyễn Quyết Thắng, Báo Tài Nguyên và Môi trường, 2014
Nước thải
Khí thải
Tên làng nghề (địa chỉ -
Thành phần chất ô
TT
loại hình)
Chất ô nhiễm đặc trưng
nhiễm
Làng nghề chế biến nông
5/5 chỉ tiêu quan trắc
sản thực phẩm Bá Nội 3
vượt 2,5-14 lần
Làng nghề tinh bột thôn
4/5 chỉ tiêu quan trắc
Công Hòa 4
vượt 6,5 lần
Hình. Hiện trạng môi trường tại một số làng nghề chế biến tinh bột tại Hà
Nội34
Qua các bài báo và các tài liệu báo cáo thì phần lớn nước thải đều được trực
tiếp đổ ra sông hồ mà không hoặc rất ít thông qua khâu xử lý nào. Đây là một trong
những nguyên nhân hết sức to lớn tạo ra tình trạng ô nhiễm ngày càng nặng nề hơn.
Hầu hết các kết quả phân tích mẫu nước thải, khí thải ở làng nghề cho thấy đã vượt
tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đã và đang ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân mà
còn gây hại đến cả môi trường sinh thái xung quanh.
Qua khảo sát từ những người dân tham gia hoạt động sản xuất bún tại làng
nghề, hầu hết những gia đình sản xuất bún đều nuôi lợn để tiện sử dụng bã gạo từ quá
trình sản xuất bún vào chăn nuôi. Tuy nhiên, nước thải từ gạo ngâm chua làm bún,
thêm vào đó là nước thải từ việc chăn nuôi đã bị người dân đổ thẳng trực tiếp vào hệ
thống nước thải chung của thôn. Trung bình mỗi hộ sử dụng 50 mét khối nước cho
việc sản xuất bún mỗi ngày, lượng nước thải gần như tương đương sau khi đã qua sử
dụng đều được thải trực tiếp vào cống thoát nước ra sông Nhuệ, gây tác động xấu trực 34 Tr. 138, Phụ lục XIV, Phụ lục Báo cáo giám sát môi trường Khu kinh tế và làng nghề: Tiếp thu UBTVQH ngày 19/10/2011
tiếp đến các sinh vật dưới vùng sông, nước. Đặc biệt nguồn nước thải này không chỉ
gây ra ô nhiễm nước mà nó còn thấm vào đất gây ô nhiễm đất và cả nguồn nước
ngầm. Năm 2005 phường Phú Đô đã được đầu tư xây dựng một trạm xử lý nước thải
rộng 6 ha nằm tại phường. Trạm xử lý nước thải công suất 84.000 m3/ngày đêm này
nằm trong chương trình cải thiện môi trường Hà Nội. Nguồn vốn vay ODA và vốn đối
ứng của Việt Nam. Theo lời người dân sinh sống và làm việc tại địa phương, trạm xử
lý nước thải với công suất nhỏ hoạt động không hiệu quả. Bởi toàn bộ nước thải sinh
hoạt, sản xuất đều chỉ qua trạm, dẫn tới quá tải. Và một điều vô cùng bất cập, là hiện
tại trạm xử lý nước thải Phú Đô không hoạt động và có dấu hiệu sử dụng sai mục
đích. Nguồn nước ngay tại khu vực làng nghề bị ô nhiễm bởi chính quá trình sản xuất
đó. Cho tới hiện nay, làng nghề bún Phú Đô, cứ trong 10.200 tấn sản phẩm mỗi năm
đã thải các chất ô nhiễm 76,9 tấn COD; 53,14 tấn BOD5; 9,38 tấn SS gây ô nhiễm
môi trường nước nghiêm trọng. Và chính nó lại đang "đầu độc" thẳng con sông Nhuệ
ngang qua khu vực. Ở tầm vi mô là chính sức khỏe người dân khu vực, ở tầm vĩ mô là
35 Bài viết “Làng bún Phú Đô: Trạm xử lí chỉ để làm "cảnh”, nước thải vẫn xả thẳng ra sông Nhuệ”, Báo Ngày nay, 2015
ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường nước khu vực Hà Nội35.
Hình. Một kênh nước bị ô nhiễm khi đi qua khu vực xả thải của làng bún phú
Đô (nguồn: internet)
Có thể thấy được các chất thải của việc sản xuất bún đa phần là chất thải hữu
cơ, tuy nhiên khi thấm vào đất, những chất thải này (bao gồm cả vô cơ và hữu cơ) đều
làm thay dổi môi trường sống của các sinh vật trong long đất, ảnh hưởng đến quá trình
phân hủy, trao đổi chất của các loại vi sinh vật, làm cho cây cối không phát triển
được, phát triển và chống chịu kém hoặc chết mòn.
Ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng tới con người và các loài sinh vật
thông qua đất nước mà còn qua đường không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại
trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí làm cho
mật độ bụi bẩn trong khống khí tăng lên. Không chỉ vậy, các hơi nước này còn làm
giá bám cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp độc hại khác.
Đối với không khí, nguồn gây ô nhiễm đặc trưng nhất của làng nghề là mùi hôi
thối do quá trình phân hủy của các chất hữu cơ, quá trình ủ, lên men của bún. Quá
trình này tạo ra các khí độc gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thêm vào đó còn
có một điểm đáng chú ý đó là việc sử dụng than củi. Với nhu cầu sử dụng rất lớn thì
bùi, khí thải do đốt nhiên liệu than củi cũng là nguồn gây ô nhiễm đối với môi trường
không khí.
Báo cáo MT quốc gia năm 2008 cho thấy, tại nhiều làng nghề, tỷ lệ người mắc
bệnh (đặc biệt là nhóm người trong độ tuổi lao động) đang có xu hướng gia tăng. Tuổi
thọ trung bình của người dân tại các làng nghề ngày càng giảm, thấp hơn 10 năm so
với làng không làm nghề. Tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, bênh phụ
khoa chiếm chủ yếu (13-18%), bệnh về đường tiêu hóa (8-30%), bệnh viêm da (4,5 –
23%), bệnh đường hô hấp (6-18%), bệnh đau mắt (9-15%). Tỷ lệ mắc bệnh nghề
nghiệp ở làng bún Phú Đô hiện đang ở mức 50%.36 Tác hại của ô nhiễm MT qua các
36 Báo cáo môi trường quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Sở Tài Nguyên môi trường, 2008
chỉ số là hết sức lo ngại. Dòng sông chảy qua thông nước trong xanh, nhưng giờ đây
vì bị ô nhiễm mà trở nên đen kịt. Vào những ngày hè nắng nóng, nước bốc mùi nồng
nặc khiến người dân xung quanh không thể thở nổi.
Thứ hai, về hiện trạng làng nghề chế biến nông sản thực phẩm (NSTP)Minh
Khai – Hà Nội. Huyện Thanh Trì, huyện Hoài Đức hiện có 51 trên 53 làng có nghề,
trong số đó có 3 làng chế biến nông sản gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (gồm
Dương Liễu, Cát Quế và Minh Khai) và đặc biệt phải kể đến làng nghề chế biến
NSTP Minh Khai.
Làng chế biến NSTP Minh Khai một làng nghề truyền thống với đa dạng các
mặt hàng mỳ, miến được bán và xuất khẩu đi trong, ngoài nước. Nghề làm miến xuất
hiện ở xã Minh Khai từ nhưng năm 60 của thế kỷ 20. Khi đó, thực hiện chủ trương
phát triển kinh tế, một số hộ gia đình thông qua nghiên cứu thực tiễn, từ việc chỉ làm
ra tinh bột bán ra thị trường, các hộ đã thí nghiệm lấy bột tinh ra hấp nóng để chế biến
thành sợi miến. Từ đó trở đi, nghề sản xuất miến dong được hình thành và phát triển.
Cho đến cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20, xã có thêm nghề mới
là nghề chế biến bún, phở khô từ gạo tẻ. Trước đây, việc làm mỳ, miến chủ yếu là làm
thủ công, sử dụng sức lao động của con người là chính song đến nay, các hộ sản xuất
đã áp dụng công nghệ tiên tiến. Những chiếc máy mỳ bỏ bột tự động, máy sản xuất
miến dong liên hoàn đã hoàn toàn thay thế những loại máy móc cũ đã giúp giảm bớt
sức lao động, tạo ra năng suất cao. Hiện nay, toàn xã Minh Khai có 48 hộ làm miến,
và 183 hộ làm bún, phở khô. Cơ cấu kinh tế chuyển dần sang hướng phát triển công
nghiệp, thủ công nghiệp. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh năm 2015 đạt 996,5 tỷ
đồng, thu nhập bình quân đầu người là 41,2 triệu đồng. Với sự nỗ lực thi đua của toàn
Đảng, toàn dân, Minh Khai đang ngày càng thay đổi rõ rệt, đời sống kinh tế của nhân
dân ổn định, thu nhập cao so với mặt bằng chung của huyện, chủ yếu từ nghề chế biến
37 Bài viết “Minh Khai: Rộn ràng làng nghề dịp tết”, Hương Đõ, Cổng thông tin điện tử UBND Huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội, 2016
nông sản, thực phẩm37.
Hình. Cánh đồng miến tại làng nghề chế biến NSTP Minh Khai
(nguồn: internet)
Đặc thù của làng nghề này là chế biến tinh bột nên lượng nước thải rất lớn tới
3.155.000m3/năm. Nước thải phát sinh do quá trình tẩy rửa các nguyên liệu, các khâu
chế biến trong sản xuất, lượng nước sử dụng lớn, có nơi lên tới 7.000 m3/ngày,
thường không được xử lý đã xả thải trực tiếp ra môi trường38. Kết quả phân tích mẫu
nước cho thấy nguồn nước mặt có màu đen xám, cao hơn mức độ màu trung bình 2,12
lần, hàm lượng chất ô nhiễm cao Coliform (một nhóm vi khuẩn rất phổ biến) cao hơn
vài nghìn lần so với mức trung bình, lượng oxy hòa tan trong nước thấp hơn tiêu
chuẩn 2mg/l, lượng oxy cần thiết để oxy hóa các hợp chất hóa học trong nước cao hơn
tiêu chuẩn 18,23 lần, lượng oxy cần thiết để vi sinh vật oxy hóa các chất hữu cơ theo
phản ứng cũng cao hơn tiêu chuẩn 12,3 lần…39 Toàn bộ lượng nước thải trên chưa
qua xử lý được xả thải vào hệ thống kênh tiêu và chảy vào sông Nhuệ, sông Đáy, chất
38 Bài viết Hà Nội cần khoảng 1.350 tỷ đồng để xử lý môi trường làng nghề, Vũ Lê, Báo Kinh tế và Đô thị Online, 2015 39 Bài viết Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội, Nguyễn Gia, Báo Lao động thủ đô, 2014
lượng nước thải các làng nghề chế biến nông sản có đặc điểm là nồng độ các chất ô
nhiễm hữu cơ cao hơn tiêu chuẩn nước thải công nghiệp từ vài chục đến hàng trăm
lần. Vì vậy, đã gây ảnh hưởng suy thoái, ÔNMT nghiêm trọng, nhất là vào vụ sản
xuất từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm, gây thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, đời sống của nhân dân; làm suy thoái môi trường nước sông Nhuệ,
sông Đáy Việc làng nghề đã bị ô nhiễm môi trường ở mức báo động đã ảnh hưởng
đến sức khỏe như các bệnh tiêu hóa, bệnh ngoài da, mắt chiếm hơn 30%, bệnh hô hấp
20% và các bệnh khác như các bệnh tai, mũi họng, thần kinh..
Hình. Một cống thoát nước lộ thiên tại một làng nghề ở huyện Hoài Đức
(nguồn: internet)
Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Quan trắc - Phân tích tài nguyên môi
trường Hà Nội và điều tra của Chi cục BVMT Hà Nội tại hơn 40 làng nghề trên địa
bàn thành phố trong đó có làng nghề Minh Khai (Hoài Đức) cho thấy, môi trường
nước, không khí, đất đai bị ô nhiễm nặng bởi các chất hóa học độc hại. Nguồn nước
ngầm bị nhiễm nặng COD, NH4, phenol; hàm lượng Ecoli, coliform, kim loại nặng
như As, Hg “vượt ngưỡng” cho phép nhiều lần. Hầu hết ao, hồ, kênh mương thủy lợi
bị nhiễm độc bởi các chất như SS, BOD5, NH4, NO2¸PO4, Hg, phenol, dầu mỡ,
40 Bài viết Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội, Phúc Lập, Báo Nông nghiệp, ngày 08/04/2015.
coliform. Còn môi trường đất bị nhiễm các kim loại nặng như đồng, kẽm…40
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ÔNMT làng nghề là do ý thức người
dân. Nhiều người biết rõ mức độ nguy hiểm của việc gây ô nhiễm nhưng vẫn vi phạm,
trong khi đó cơ quan quản lý nhà nước lại chưa chú trọng việc kiểm tra, xử lý. Một
nguyên nhân khác là nguồn kinh phí đầu tư cho công tác khắc phục ÔNMT làng nghề
còn hạn chế, đa phần cơ sở sản xuất, hộ gia đình không có kinh phí đầu tư cho hệ
thống xử lý nước thải, khí thải, thu gom phân loại chất thải rắn... Bên cạnh đó, thiết bị,
công nghệ sản xuất ở các làng nghề vẫn lạc hậu, mặt bằng thì chật hẹp... Một nguyên
nhân nữa có thể nói tuy là nhỏ, nhưng lại có tác động hết sức to lớn dẫn đến những
nguyên nhân trên, đó là sự quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm từ chính quyền địa
phương, việc áp dụng pháp luật và xử lý vi phạm hời hợt đã khiến cho ý thức người
dân, sự quan tâm của các nhà đầu tư…không những không có tiến triển mà còn có xu
hướng “lách luật”, phá luật. Một lần nữa, chúng ta lại phải đặt ra câu hỏi về tính khả
thi của các văn bản pháp luật cũng như khả năng áp dụng các văn bản pháp luật đến
đâu.
Trong khi tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc thì nhiều
chương trình, dự án nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn lại
không phát huy hiệu quả. Cụ thể, từ năm 1995-2001, huyện Hoài Đức đã đầu tư xây
dựng công trình sản xuất phân hữu cơ từ bã sắn, đót và xử lý nước thải ở xã Dương
Liễu trị giá gần 5 tỷ đồng, sau khi hoàn thành, công trình đã bàn giao cho Công ty
TNHH Mặt Trời Xanh sử dụng nhưng không phát huy được hiệu quả. Mặt khác, công
ty này cũng không tìm ra được thị trường cho sản phẩm phân bón hữu cơ nên sản xuất
bị đình đốn. Ngoài dự án trên, năm 2002, được sự giúp đỡ của Viện Công nghệ sinh
học (Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam), xã Minh Khai cũng hoàn thành công
trình xử lý nước thải với công suất 120m3/ngày với tổng số tiền đầu tư 100 triệu đồng.
Nhưng sau khi đưa vào sử dụng một thời gian ngắn, công trình đã phải “đắp chiếu” do
41 Bài viết Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội, Nguyễn Gia, Báo Lao động thủ đô, 11/09/2014
đặt sai vị trí 41.
Có thể thấy, mặc cho những nỗ lực “sửa đổi” của các nhà đầu tư nhằm thay đổi
môi trường, tình trạng môi trường đang ngày càng xấu đi vẫn là những vấn đề không
thể chối cãi. Nếu như chỉ biết chữa mà không biết phòng tránh, thì rõ ràng sẽ không
có vấn đề nào được giài quyết triệt để và thấu đáo. Các con sông, con kênh thì vẫn
nằm ngoài kia, và tình trạng ÔNMT sẽ mãi không thể thay đổi khi chưa có sự can
thiệp thực sự từ chính quyền địa phương, các cơ quan thi hành pháp luật và sự quan
tâm đến từ những người dân đang sinh sống và làm việc tại các làng nghề chế biến
thực phẩm.
2.2.2 Việc áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường
Các làng nghề chế biến thực phẩm ở Hà nội nói riêng và ở Việt nam nói chung
đề là các cơ sở sản xuất nhỏ có quy mô hộ gia đình, mặt bằng sản xuất thì chật hẹp
xen lần với khu vực sinh sống của người dân. Vậy nên trong quá trình sản xuất không
thể không tránh khỏi làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân nơi đây. Đồng
nghĩa với việc sản xuất ở các khu vực làng nghề này càng phát triển thì nguy cơ phát
thải ô nhiễm tới các khu dân cư càng cao hơn. Các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường
chọn quy trình sản xuất thô sơ, tận dụng sức lao động với trình độ thấp để tiết kiệm
chi phí những cũng gián tiếp thực hiện hành vi phá hoại môi trường sống đối với
những người dân quanh khu vực này. Thậm chí một số cơ sở còn sử dụng những
nguyên nhiên liệu rẻ tiền nhưng lại mang rất nhiều chất độc hại trong đó có cả các loại
chất cấm sử dụng nhằm tăng năng suất, tăng tính cạnh tranh với các làng nghề trong
khu vực. Nhận thấy ÔNMT đang trở thành vấn nạn tại các làng nghề thì các cơ quan
Nhà nước đã có những chính sách để hạn chế, khắc phục tình trạng ÔNMT ở các làng
nghề. Thế nhưng, trên thực tế, khi những biện pháp pháp luật BVMT được áp dụng
lên các làng nghề thì lại gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng.
Tình hình thực thi pháp luật làng nghề còn yếu kém. Số vụ thanh tra kiểm tra
đối với làng nghề rất hạn chế, công tác quy hoạch phát triển, di dời còn nhiều bất cập.
Quan trắc môi trường còn bị bỏ ngỏ, đầu tư ngân sách hạn hẹp... Làng nghề không có
kết cấu hạ tầng BVMT. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân gây nên tình
trạng ÔNMT hiện nay là do người dân chưa có ý thức trong việc BVMT.
Phân loại cơ sở
Hình thức xử lý hành chính đã áp dụng
Gây ô
Số cơ
Số cơ sở
Phạt tiền
nhiễm
Tên địa
sở được
được
Gây ô
Số cơ sở
Số cơ sở bị
MT
Cảnh
phương
kiểm
thanh
nhiễm
Số
phải di
đình chỉ hoạt
nghiê
cáo
tra
tra
MT
cơ
Số tiền phạt
dời
động
m
sở
trọng
Năm 2006
Bắc
35
Ninh
Năm 2008
Bắc
02
02
02
72.000.000
Ninh
Năm 2009
0
0
Hà Nội
06
01
03
01
04
03
52.300.000
Năm 2010
0
0
Hà Nội
06
0
01
01
03
03
158.000.000
Hình. Kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý VPPL về môi trường tại các làng nghề
ở Hà Nội từ năm 2006-2010 42
Thứ nhất, đối với vấn đề quy hoạch tại các làng bún Phú Đô và làng nghề chế
biến NSTP Minh Khai. Hiện tại vẫn chưa có văn bản nào chính thức từ UBND TP Hà
Nội về việc triển khai quy hoạch làng nghề Phú Đô. Còn tại làng nghề chế biến NSTP
42 Tr.125, Phụ lục XII, Phụ lục Báo cáo giám sát Khu kinh tế và Làng nghề: Tiếp thu UBTVQH, ngày 19/10/2011
Minh Khai, theo thống kê của UBND huyện Hoài Đức, toàn huyện hiện có 51 làng
nghề với hàng vạn hộ sản xuất, kinh doanh, nên vấn đề xử lý môi trường gặp nhiều
khó khăn.43 Quy hoạch tiêu thoát nước chung của huyện đã được phê duyệt nhưng
chưa được đầu tư. Đặc biệt, tiến độ xây dựng CCN làng nghề, trạm xử lý nước thải
chưa đáp ứng yêu cầu. Để khắc phục những bất cập đang tồn tại, huyện Hoài Đức đã
tập trung hoàn thành Quy hoạch BVMT đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Đồng thời, tổ chức nhiều hội nghị để tham khảo ý kiến của các nhà khoa học về xử lý
môi trường tại các làng nghề một cách triệt để, tránh chồng chéo, đảm bảo hiệu quả
đầu tư. Việc quy hoạch và triển khai quy hoạch xây dựng làng nghề, cụm tiểu thủ
công nghiệp làng nghề còn khá chậm.
Thứ hai, đối với vấn đề áp dụng pháp luật ĐTM tại làng bún Phú Đô và làng
nghề chế biến thực phẩm thì công tác quản lý tại các làng nghề này còn lỏng lẻo. Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh thiếu tính đặc thì mỗi loại ngành nghề
truyền thống. Ở các cơ sở tại làng nghề Vạn Phúc thì quá trình chế biến, tẩy rửa, sử
dụng hóa chất bảo quản là nguyên nhân chính gây ra ÔNMT. Chính vì vậy mà cần
phải có hoạt động phân tích, dự báo các tác động đến môi trường khi vận hành các cơ
sở này. Tuy nhiên, đa số cơ sở sản xuất kinh doanh ở làng nghề chế biến thực phẩm
không thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Nguyên nhân là phần lớn các
chủ cơ sở ở đây chưa hiểu biết hết về trách nhiệm BVMT của mình nên họ không biết
cần phải thực hiện ĐTM. Hơn thế, khi hỏi các chủ hộ sản xuất là tại sao không đánh
giá tác động môi trường thì hầu hết cầu trả lời đều là: “Không làm vì các nhà khác
cũng không thấy làm”. Thậm chí có những nhà đã xây dựng hệ thống nước thải rồi bỏ
dở không vận hành vì hàng xóm không làm như vậy. Cũng có nhiều trường hợp chủ
cở sở khai giảm công suất của cơ sở mình để chỉ cần lập Cam kết BVMT để trốn tránh
việc lập ĐTM. Trên thực tế việc phê duyệt báo cáo ĐTM còn lỏng lẻo bởi cơ quan địa
phương còn chưa đủ nhân lực, tranh thiết bị, chuyên môn để phê duyệt. Pháp luật
43 Bải viết Giải tỏa bức xúc cho làng nghề, Thiện Quang, Báo Kinh tế đô thị, 30/03/2015
cũng chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm những bên liên quan trong phê duyệt để
bảo đảm hiệu quả trong quá trình làm việc. Điều đáng quan ngại hơn nữa là hiện nay
có một số công ty mọc lên chuyên nhận làm những báo cáo đánh giá tác động môi
trường cho các công ty kinh doanh cần phải lập ĐTM. Những công ty này vô hình
chung tạo ra những ĐTM giả để đối phó với cơ quan môi trường làm công tác kiểm
tra. Đây cũng là nguyên nhân cho hai con sông Nhuệ, Đáy sau bao nỗ lực cải tạo tình
trạng hai con sông vẫn xuống cấp trầm trọng như vậy có thể nó công tác ĐTM tại các
làng nghề chế biến thực phẩm không hiệu quả và trở nên vô nghĩa.
Thứ ba, về việc quản lý chất thải trong khu vực làng nghề chế biến thực phẩm
tại Hà nội, cùng với sự phát triển nhanh chóng của làng nghề khối lượng rác thải càng
ngày càng lớn, các địa điểm tập kết rác càng lúc càng ô nhiễm. Các tổ thu gom rác tự
quản tại các làng nghề chế biến thực phẩm đã được thành lập để thu gom rác thải sinh
hoạt trong thôn. Tuy nhiên, lượng rác thải càng lúc càng nhiều hơn, UBND các
phường đã ký hợp đồng với các Công ty Môi trường để di dời rác từ những nơi tập
kết, giữ gìn cảnh quan thôn xóm. Chất thải sinh hoạt và chất thải rắn đã được xử lý thế
nhưng nước thải chứa hóa chất trong quá trình dệt lụa vẫn được thải trực tiếp cùng với
nước sinh hoạt đổ ra sông Nhuệ. Trong quá trình sản xuất thực phẩm tại làng bún Phú
Đô và làng nghề chế biến NSTP Minh Khai, người dân vẫn sử dụng phương pháp thủ
công, xả thải trực tiếp. Tuy rằng, các địa phương đã cố gắng triển khai thực hiện tốt
công tác thu gom chất thải rắn và chất thải sinh hoạt xong các chất thải khí, nước,
tiếng ồn thì lại không có biện pháp để xử lý. Hay nói cách khác công tác quản lý nước
thải, khí thải trong quá trình sản xuất thực phẩm còn yếu và kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, có một vấn đề khá thật mà hầu như hiện nay chúng ta đang cố
gắng không nhắc đến vì tính nhạy cảm đó là môi quan hệ giữa cán bộ trong hệ thống
chính quyền tại địa phương và giữa các cán bộ không sản xuất và sản xuất tại các làng
nghề có gắn bó về mặt tình cảm. Tại làng nghề Phú Đô cũng như làng nghề chế biến
NSTP, một số cán bộ lại vì việc này mà e ngại áp dụng các biện pháp chính quyền và
luật pháp đối với chủ các cở sở sản xuất làng nghề ô nhiễm có các cán bộ kinh doanh
hay là người nhà cán bộ đó kinh doanh. Việc ngại xung đột do quan hệ hàng xóm láng
giềng tư duy sai lầm có thể dẫn đến nhiều tổn hại hơn nữa cho hiện tại và tương lai
vẫn còn đang tồn tại giữa các cán bộ thực hiện nhiệm vụ trong ngành với nhau. Hầu
như các cán bộ ở địa phương nhất là nơi có các làng nghề đang hoạt động họ bỏ qua
cho những cơ sở sản xuất có chủ là các cán bộ khác hoặc là người nhà của các cán bộ
đó. Bởi những bất cập trên mà công tác quản lý, kiểm soát vấn đề ô nhiễm tại các làng
nghề thực sự chưa hiệu quả và còn quá nhiều những hạn chế mà khó có thể xử lý
trong ngày một ngày hai. Đây là vấn đề mang tính thời sự vì nó không chỉ đang trực
tiếp ảnh hưởng đến môi trường mà còn gián tiếp ảnh hưởng lên sức khỏe con người
với một lối sống vô trách nhiệm với môi trường.
Thứ tư, về việc áp dụng các chế tài xử lý về mặt hành chính, dân sự, hình sự,
quy trách nhiệm của các tổ chức cá nhân khi vi phạm pháp luật về BVMT, hiện tại
pháp luật BVMT đang ngày càng chặt chẽ và bao quát hết các đối tượng gây ÔNMT.
Bên cạnh đó thì vẫn còn những hạn chế khi áp dụng chính sách pháp luật đối với các
khu vực làng nghề chế biến thực phẩm, trong đó có làng bún Phú Đô và làng nghề chế
biến NSTP Minh Khai. Về mặt xử lý hành chính, mặc dù Nghị định 179/2013/NĐ-CP
đã quy định những chế tài xử phạt đối với những hành vi gây ÔNMT. Trên thực tế,
việc kiểm tra và xử lý các hành vi xả thải còn là một nhiệm vụ rất khó khăn, bởi bản
chất của các hành vi vi phạm về môi trường đều là hành vi lén lút, ngụy trang, luôn
tìm cơ hội để che dấu và một trong những biện pháp xả thải trong phạm vi đất của
doanh nghiệp, hộ gia đình, làng nghề là một hiện tượng rất phổ biến. Chính điều này
đã tạo nên những khó khăn rất lớn cho lực lượng công an môi trường, cả về thẩm
quyền và nghiệp vụ. Đối với bồi thường thiệt hại do gây ÔNMT thì pháp luật dân sự
đã có những sửa đổi bổ sung bao quát, chặt chẽ trong Bộ luật Dân sự 2015. Việc xác
định bồi thường thiệt hại của các bên còn khó khăn khi Bộ luật Dân sự hiện hành và
Luật BVMT 2014 nội dung dẫn chiếu chưa đi vào cụ thể. Hơn nữa, pháp luật Dân sự
còn chưa thể hiện những quy định đặc thù về quy trình và thủ tục trong trách nhiệm
đòi bồi thường thiệt hại do gây ÔNMT. Trên thực tế ở các làng nghề thì người thực
hiện quyền bồi thường này gặp không ít khó khăn trong trường hợp họ không thoả
thuận được với đối tượng gây thiệt hại mà phải kiện ra Tòa án. Thế nhưng những
người bị thiệt hại lại không có chứng cớ chứng minh thiệt hại đó là do đối tượng vi
phạm gây ra. Hơn nữa, người bị thiệt hại do ÔNMT chủ yếu là người dân vùng nông
thôn trình độ hiểu biết còn hạn chế. Họ chưa tự mình đứng lên đòi bồi thường thiệt hại
do ÔNMT gây ra. Và đối các tội phạm môi trường pháp luật Hình sự cũng có những
sửa đổi đáng kể trong Bộ luật Hình sự 2015 khi mà cụ thể hóa tội phạm cấu thành vật
chất bằng những con số và thêm vào những tội phạm cấu thành hình thức cải thiện
những bất cập trước đây. Đối với vấn đề làng nghề những quy định về trách nhiệm
hình sự còn tỏ ra kém hiệu quả. Hiện nay vẫn chưa có vụ án nghiêm trọng nào về môi
trường tại các cơ sở sản xuất ở làng bún Phú Đô cũng như làng nghề chế biến NSTP.
Bởi các cơ sở ở đây đều có quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình hành vi gây ô nhiễm không
phải chỉ do một người gây ra nên việc xác định chủ thể vi phạm rất khó khăn trên thực
tế. BLHS 2015 đã đưa pháp nhân thương mại là chủ thể của hành vi phạm tội trong
lĩnh vực môi trường.
Đứng ở góc độ một nhà nghiên cứu chuyên môn, GS.TS Đặng Kim Chi, Hội
Bảo vệ thiên nhiên Việt Nam lý giải, hiện nay thiếu chế tài xử phạt các hành vi vi
phạm BVMT làng nghề. Thẩm quyền của địa phương còn hạn chế, nguồn tài chính,
trợ giúp kỹ thuật và cung cấp thông tin về kĩ thuật công nghệ mới thân thiện môi
trường còn ít. Nhận thức và sự tham gia của các hộ sản xuất làng nghề trong BVMT
còn hạn chế. Việc xử lý ÔNMT làng nghề hiện nay cần phải tiến hành đồng bộ, có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, Bộ, ngành và sự tham gia đồng bộ của các tổ
chức, đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp44.
Tóm lại, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật tại các cơ sở
44 Bài viết Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập, Trung Hiếu, Báo Mới,ngày 09/11/2011
trong làng nghề thực hiện chưa thường xuyên, xử lý chưa thực sự nghiêm minh, ý
thức chấp hành pháp luật về BVMT của một số chính quyền các cấp, các cơ sở, hộ gia
đình sản xuất, kinh doanh tại làng nghề chưa cao
2.3 Kết quả đạt được và một số tồn tại
Một là, về các kết quả đạt được.
Thứ nhất, về các quy định pháp luật BVMT: hệ thống VBQPPL đối với làng
nghề từng bước được quan tâm hoàn chỉnh. Hệ thống VBQPPL về BVMT nói chung,
các văn bản pháp luật khác có liên quan đến làng nghề tương đối đầy đủ và nhiều văn
bản riêng về quy hoạch, quản lý, BVMT tại các làng nghề cũng đã được ban hành; đặc
biệt là các địa phương đã ban hành rất nhiều văn bản có liên quan cho sự phát triển
bền vững của làng nghề.
Thứ hai, về thực trạng áp dụng pháp luật BVMT các khu vực làng nghề chế
biến thực phẩm: Công tác chỉ đạo, điều hành các cấp, các ngành đối với hoạt động của
làng nghề đã được quan tâm. Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT làng
nghề; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề.
Hệ thống VBQPPL về BVMT nói chung, các văn bản pháp luật khác có liên
quan đến làng nghề tương đối đầy đủ và nhiều văn bản riêng về quy hoạch, quản lý,
BVMT tại các làng nghề cũng đã được ban hành; đặc biệt là các địa phương đã ban
hành rất nhiều văn bản có liên quan cho sự phát triển bền vững của làng nghề.
Công tác chỉ đạo, điều hành các cấp, các ngành đối với hoạt động của làng
nghề đã được quan tâm. Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề;
tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BVMT làng nghề.
Hai là, về một số tồn tại.
Thứ nhất, về các quy định pháp luật BVMT. Hệ thống VBQPPL về BVMT,
đặc biệt là quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tương đối đầy đủ nhưng nhiều
quy định thiếu khả thi đối với làng nghề nên việc tổ chức thực hiện pháp luật của
chính quyền địa phương các cấp còn có nhiều hạn chế. Giữa các văn bản luật còn có
sự chồng chéo lẫn nhau gây nên khó khăn trong việc áp dụng. Tuy đã thể hiện được
tính khái quát lên gần hết các vấn đề của BVMT, quy định của pháp luật BVMT tại
Việt Nam vẫn còn mang những thiếu sót.
Về quy hoạch làng nghề với BVMT: Theo kế hoạch triển khai công tác quy
hoạch làng nghề đã được ban hành bởi các cấp hiện nay, có thể nói rằng công tác quy
hoạch làng nghề về cơ bản đang dần được hoàn thiện. Vấn đề của quy hoạch hiện nay
là phải làm thế nào để kết nối được các vùng với nhau, tạo mảng liên kết cộng đồng
thông thương, tạo ra được các vùng sản xuất chuyên canh mang lại giá trị cao cho các
vùng. Các đô thị bùng nổ quá nhanh trong khi các đề xuất quy hoạch các vùng (trong
đó có làng nghề) mới cũng ồ ạt chạy theo, nhưng lại thiếu những quy hoạch tổng quát
có tính chiến lược, bền vững. Thêm vào đó, việc thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ,
không kiểm soát được việc quản lý xây dựng hoặc không kịp xây dựng đồng bộ các
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khiến nhiều giá trị của các quĩ đất đô thị bị mai
một, nhiều giá trị văn hoá tại các vùng bị phá vỡ.
Các kế hoạch quy hoạch làng nghề hiện nay vẫn chưa thật sự kết hợp sâu sắc
với các tổ chức chuyên ngành trong việc đánh giá và nhận diện đầy đủ những giá trị
của quỹ di sản làng nghề, phân loại đặc điểm của từng nhóm làng nghề, hơn nữa
chúng ta cũng đang bị thiếu những tổ chức như thế này để thực hiện công việc một
cách thống nhất và đầy đủ. Việc Quy hoạch các Làng đòi hỏi sự xem xét cụ thể và cân
nhắc cẩn trọng trên nhiều mặt, bắt đầu bằng việc điều tra, phân loại, và xác định
những đặc thù của từng Làng, những giá trị văn hoá cần được bảo tồn, những khu vực
cần cải tạo, và những khu vực cần giải toả, xây dựng lại để phát triển; trên cơ sở đó
tiến hành bước nghiên cứu các khả năng xử lý không gian.
Về xây dựng, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường: Do hiện nay chưa có qui
định về mẫu thông tin dữ liệu cụa thể của các cơ quan chức năng Việt Nam, các cơ
quản có thẩm quyền về thu thập, quản lý dữ liệu thông tin về môi trường phải tổng
hợp và phân tích nhiều mẫu thông tin về dữ liệu của các nước khác. Về cơ bản, thông
tin về môi trường được liệt kê như sau sau: tên lớp thông tin, tỷ lệ, lưới chiếu, phương
pháp xây dựng, dữ liệu sử dụng để xây dựng, ngày hoàn thành, người xây dựng, người
biên tập, nơi lưu chữ, liên hệ chia sẻ dữ liệu. Các thông tin này được lập thành biểu
bảng và được xây dựng như một công cụ xem thông tin về dữ liệu trong hệ thông cơ
sở dữ liệu45.
Hiện nay cơ chế chính trong xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường,
dữ liệu thông tin về môi trường chỉ là báo cáo bao gồm: báo cáo lên các cơ quan có
thẩm quyền quản lý và thông báo, công khai thông tin môi trường. Thêm vào đó, việc
thu thập quản lý truy cập thông tin về tài nguyên đất và nước còn rất phân tán. Các dữ
liệu của các cơ quan khác nhau còn chưa nhất quán và thiếu trao đổi giữa các cơ quan
Nhà nước. Trên hết, chúng ta hiện vẫn đang thiếu cơ chế chia sẻ thông tin dữ liệu và
thiếu cả các quy chế, quy định về lưu trữ, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu; các
thông tin dữ liệu còn phân tán chồng chéo và thiếu sự phối hợp, trao đổi thông tin, dữ
liệu giữa các cơ quan ban ngành, giữa địa phương và Trung ương, việc giao nộp, lưu
trữ để đưa vào khai thác, sử dụng còn rất chậm. Thông tin, dữ liệu về môi trường còn
nằm rải rác ở nhiều Bộ, ngành, cơ quan khác nhau, dưới dạng tài liệu hay số liệu thô
chưa chuẩn hóa và chỉnh lý theo chuẩn thống nhất Nguồn thông tin dữ liệu này rất
lớn, có giá trị sử dụng cao và lâu dài. Chúng ta cần chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng khái
niệm, mục đích chung của cả hệ thống thông tin dữ liệu. Cần ưu tiên xây dựng những
thông tin dữ liệu đang được mọi người quan tâm, ví dụ như thông tin dữ liệu môi
trường về các nhóm làng nghề, môi trường tại các khu công nghiệp...
Về đánh giá tác động môi trường, lập kế hoạch BVMT tại các làng nghề: Nhìn
chung, các quy định về hoạt động ĐTM đang ngày càng được hoàn thiện, các quy
định pháp luật cũng được xây dựng ngày càng chặt chẽ, có tính khả thi và khả năng
thích nghi cao trong bối cảnh xã hội thay đổi từng ngày. Tuy vậy, nhìn vào hệ thống
45 Cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường biển tỉnh Thanh Hóa
các quy định pháp luật về ĐTM ở Việt Nam nói chung và quy định về hoạt động
ĐTM ở các khu kinh tế nói riêng vẫn còn rất sơ sài, yếu kém. Các văn bản rời rạc,
không tập trung, các quy định nằm rải rác ở các văn bản khiến cho người làm luật gặp
rất nhiều khó khăn. Thực trạng các quy định chồng chéo nhau vẫn còn xảy ra rất
nhiều. Với đặc trưng của các khu vực như khu công nghiệp, khu vực nông thôn, khu
vực làng nghề, và khu vực kinh tế, tùy từng đặc trưng của các vùng mà có cách ứng
dụng các quy định về ĐTM sao cho hợp lý và đạt hiệu quả cao là điều chúng ta chưa
làm được. Hơn nữa, việc các quy định của pháp luật xa rời với thực tế, khó áp dụng là
một trong những nguyên nhân khiến cho ĐTM chỉ đảm bảo tính hình thức để đủ điều
kiện cho hoạt động đầu tư còn về bản chất vẫn chưa được phát huy.
Về quy định các quy chuẩn kỹ thuật môi trường: Các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ
thuật môi trường hiện nay chậm được nghiên cứu, đổi mới do được biên soạn từ lâu,
chưa kịp cập nhật nên chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Điều này phần lớn là do
nguồn lực hạn chế, có sự thay đổi trong phân cấp quản lý nên kéo dài thời gian biên
soạn và công bố tiêu chuẩn. Nội dung quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường
chậm đổi mới, chưa theo kịp với yêu cầu thực tế; một số nội dung chưa thể áp dụng
trong điều kiện kinh tế- kỹ thuật hiện tại. Nội dung giữa các văn bản còn có sự chồng
chéo, mâu thuẫn, thiếu sự đồng bộ, thống nhất; chưa đạt được sự đồng thuận giữa các
bên có liên quan.
Khi ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn riêng cho một số ngành đặc thù cũng dẫn
đến sự không công bằng nhất định cho các cơ sở sản xuất ở những loại hình làng nghề
khác nhau. Do chủ yếu dựa vào các quy chuẩn, tiêu chuẩn nước ngoài nên nhiều nội
dung của quy chuẩn, tiêu chuẩn chưa tính đến điều kiện tự nhiên (địa hình, địa chất,
thủy văn), điều kiện kinh tế- xã hội giữa các vùng miền, trình độ tư vấn, thi công ở
Việt Nam. Nội dung quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường chưa đáp ứng yêu cầu
và chưa đạt được sự đồng thuận của các bên tham gia: cơ quan quản lý, các hộ sản
xuất, doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà khoa học. Tại các làng nghề các hộ sản
xuất, cá nhân lao động sản xuất ngại thay đổi những thói quen, việc sản xuất chủ yếu
dựa theo kinh nghiệm truyền nghề. Việc áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật phức tạp
hơn không có tài liệu để kiểm soát, kiểm tra.
Thứ hai, về thực trạng áp dụng pháp luật BVMT các khu vực làng nghề chế
biến thực phẩm. Công tác BVMT tại một số làng nghề không đạt kết quả như mong
muốn, còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập chưa được giải quyết. Một phần không nhỏ
môi trường tại các làng nghề Việt Nam đã và đang bị ô nhiễm, có làng nghề gây
ÔNMT đến mức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và cộng đồng
dân cư.
Trong bài viết “Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng nghề ở Việt
Nam” trong tạp chí Khoa học ĐHQGHN (2012)46, TS. Lê Kim Nguyệt đã nhận xét
rằng: “Việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT tại các làng nghề ở
Việt Nam hiện đang là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ
nhiều yếu tố như: tuyên truyền giáo dục để các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực này
hiểu biết cặn kẽ nội dung của pháp luật BVMT tại các làng nghề và nâng cao được ý
thức tự giác trong việc thực hiện trách nhiệm của mình; thực hiện chức năng, vai trò
quản lý nhà nước trong việc triển khai giám sát thực thi pháp luật BVMT tại các làng
nghề; vấn đề đầu tư vốn, phương tiện xử lý chất thải; việc xác định mức độ vi phạm
và các chế tài xử phạt, v.v...”. Theo thống kê hiện tại thì có khoảng trên 60 văn bản
pháp luật có nội dung quy định về BVMT, một con số không hề nhỏ các văn bản, vậy
điều đó có nghĩa là pháp luật sẽ đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan hơn? “Luật BVMT
năm 2005 là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực
BVMT, trong đó có 1 điều riêng (Điều 38) quy định về vấn đề BVMT làng nghề và
các điều khoản liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện
luật, cần có các văn bản quy định cụ thể, nhưng mãi đến thời điểm gần đây (cuối năm
2011) tức là sau khoảng 6 năm, các quy định cụ thể về BVMT làng nghề mới được Bộ
46 Bài viết Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng nghề ở Việt Nam, TS. Lê Kim Nguyệt; Luật học 28 (2012) 180‐185, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN
TN&MT ban hành: Thông tư 46/2011/TT-BTNMT quy định về BVMT làng nghề
(sau đây viết tắt là Thông tư 46/2011/TT-BTNMT). Thông tư bao gồm 4 chương, 19
điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2012. Đây được xem là cây "gậy" xử lý trách
nhiệm của người gây ra ô nhiễm làng nghề.”
Về công tác tổ chức, chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành,
UBND các địa phương về BVMT. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về BVMT nói
chung và môi trường làng nghề nói riêng hiện nay đã được tổ chức từ Trung ương đến
địa phương nhưng lực lượng còn quá mỏng và hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo báo cáo của Chính phủ và kết quả giám sát cho thấy số lượng cán bộ tham
gia vào công tác quản lý môi trường ở địa phương trên phạm vi toàn quốc là trên
2.600 cán bộ. Trong đó có khoảng 95% cán bộ quản lý môi trường cấp huyện không
có bằng cấp chuyên môn trực tiếp về môi trường. Đối với cấp xã, phường và thị trấn
cán bộ môi trường thường là cán bộ địa chính được giao kiêm nhiệm công tác quản lý
môi trường, công việc rất nặng nề, nhưng chế độ chính sách đối với đối tượng này
chưa tương xứng, do đó thời gian dành cho việc thực hiện trách nhiệm về BVMT rất
hạn chế. Cho đến nay, chưa có làng nghề nào (kể cả làng nghề đã được công nhận và
làng nghề chưa được công nhận) có cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường. .
Về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BVMT: Chức
năng thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp
luật về BVMT nói riêng đối với các đối tượng sản xuất trong làng nghề được giao cho
nhiều ngành, nhưng việc triển khai thực hiện lại rất hạn chế.
Đối với làng nghề, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường
xuyên, triệt để. Hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, rất ít trường hợp bị xử lý hành
chính cũng như áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung khác. Theo Quyết định số
64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch xử lý triệt để
các cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng hiện đang phải áp dụng các biện pháp cải thiện
môi trường hoặc dần thu hẹp quy mô hoạt động tiến tới chuyển đổi hoàn toàn ngành
nghề sản xuất. Bên cạnh đó, do tâm lý họ hàng, dòng tộc, làng xã nên các hộ dân (có
sản xuất và không sản xuất nghề) có tâm lý e ngại, nể nang và ngại va chạm, nên
không tố giác các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật về BVMT nói
riêng. Tại một số địa phương, số ít người dân còn có lúc che dấu hành vi vi phạm
pháp luật BVMT của các hộ sản xuất.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường
Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, BVMT luôn luôn là vấn
đề được mọi người quan tâm, đặc biệt là Đảng và Nhà nước. Công tác BVMT ở nước
ta trong thời gian vừa qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể
chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công
tác BVMT. Ý thức BVMT trong mỗi con người ngày một nâng cao; công tác bảo tồn
thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được những thành quả có ý nghĩa tích
cực.
Tuy nhiên, môi trường nước ta vẫn đang có xu hướng xuống cấp nhanh, điển
hình ở các hiện tượng như: đất bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng nguồn nước suy
giảm mạnh; không khí các khu đô thị- dân cư, khu kinh tế - làng nghề bị ô nhiễm
nặng; khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng; đa dạng
sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường và vấn đề cung cấp
nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp
hóa, quá trình đô thị hoá, sự gia tăng dân số chóng mặt mặc dù mật độ dân số tại nhiều
vùng đã quá cao, khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng, các thảm hoạ do thiên tai và
những diễn biến xấu đi của khí hậu toàn cầu gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi
trường. Trước tình hình này, mới đây Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-
NQ/TW đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết này đã đưa ra các quan điểm sau:
“BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm
sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta.
BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển
bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú
trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ BVMT. Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho
phát triển bền vững.
BVMT là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi
người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội
văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với tự nhiên của
cha ông ta.
BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng
rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý
thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân. 47”
Như vậy, BVMT vừa là nghĩa vụ, vừa là lợi ích của từng cá nhân và là trách
nhiệm của toàn xã hội. Môi trường càng đi xuống đồng nghĩa với việc cơ hội được sống
trong môi trường trong sạch của con cháu chúng ta đang trở nên hết sức hạn hẹp. Trước
tình hình này, con người cần đặt vấn đề BVMT lên thành mối quan tâm hàng đầu và để
có thể biến những quan tâm thành hành động, việc đầu tiên chúng ta phải làm đó chính là
đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật BVMT.
Pháp luật Việt Nam về BVMT đã chú ý đến tính hội nhập, sự thay đổi nhanh
chóng của nền kinh tế - xã hội và luôn cố gắng tương thích với sự phát triển của nước ta.
Việc tham gia vào những sân chơi lớn sẽ khiến cho đời sống văn hóa – kinh tế - xã hội
và đặc biệt là pháp luật có những thay đổi đáng kể và chúng ta buộc phải thay đổi để
có thể được chấp nhận như là một thành viên tham gia vào cộng đồng thế giới, hưởng
các quyền lợi ưu việt hơn. Việt Nam đã tham gia rất nhiều điều ước quốc tế, mà mới
47 Bộ Chính trị, 15/11/2004, Nghị quyết 41-NQ/TW Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhất đây Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng
với 11 nước thành viên Hiệp định tại New Zealand ngày 4/2/2016 48. Như vậy, chúng
ta đã chính thức gia nhập Hiệp định TPP và hiệp định này sẽ có hiệu lực vào năm
2018, đây là dấu mốc quan trọng cho hội nhập kinh tế khu vực. Các chuẩn mực được
thiết lập bởi TPP sẽ thúc đẩy thương mại và đầu tư tự do giữa 12 nước thành viên.
Đây là hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên đưa các nội dung về môi
trường thành một chương trong các cam kết. Điều này một lần nữa khẳng định, vị trí
quan trọng của môi trường trong các hoạt động thương mại, cũng như những đóng
góp của thương mại đối với phát triển bền vững.
Việc tham gia ký kết Hiệp định TPP đã mở ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội
trong việc cải thiện, BVMT, phát triển bền vững. Những cơ hội này bao gồm: Tự do
hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường sẽ góp phần hỗ trợ Việt nam
giảm thiểu ô nhiễm với chi phí thấp hơn, gia tăng các cơ hội kinh doanh cho doanh
nghiệp và tạo thêm nhiều việc làm; Việc chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp của
Việt nam với các hoạt động về thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo, cũng như thúc đẩy các hoạt động về hiệu quả năng lượng sẽ được thuận lợi hơn;
Các vấn đề về bảo tồn đa dạng sinh học, buôn bán trái phép các loại động thực vật quý
hiếm sẽ được ngăn chặn; Cộng đồng và các tổ chức NGOs sẽ có vai trò quan trọng
hơn trong việc tham gia vào các họa động ngăn chặn thương mại kém bền vững và
được góp tiếng nói, được cung cấp thông tin; Việt Nam được tham gia vào các hoạt
động và sẽ có tiếng nói hơn trong các hoạt động thúc đẩy thương mại bền vững do cơ
chế tổ chức luân phiên về vị trí Chủ tịch của Ủy ban môi trường TPP; Việt nam sẽ
được hưởng các lợi ích và có cơ hội nhận được các tài trợ cho thực hiện các hoạt động
thương mại bền vững do cơ chế trợ hợp tác và trợ giúp của các nước phát triển trong
48 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp đinh/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New Zealand sau 5 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương
khối.
Có thể thấy tuy rằng hệ thống các văn bản pháp luật về BVMT tương đối toàn
diện, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường có nhiều, nhưng lại chồng
chéo, bị hiểu chưa chính xác, gây ra rất nhiều khó khăn và tạo ra nhiều lỗ hổng trong quá
trình áp dụng, xử lý các tình huống và thực thi pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật
BVMT vẫn luôn là điều cần thiết và luôn luôn phải được quan tâm một cách đúng đắn,
thực hiện thường xuyên để Pháp luật Việt Nam về BVMT luôn là một chỗ dựa pháp lý
vững chắc, đáng tin cậy của chúng ta trong công tác BVMT trong sạch ở thời kì đổi mới
– hội nhập với bạn bè quốc tế.
3.2 Một số đề xuất và kiến nghị
Trước thực trạng đáng báo động về sự thay đổi chóng mặt của công nghệ, sự
biến đổi khí hậu một cách tiêu cực. Chúng ta phải sớm nhìn nhận vấn đề môi trường
một cách hết sức nghiêm túc và đưa nó vào những quan tâm hàng đầu trong hoạt động
của chính từng cá nhân con người. Vấn đề ÔNMT không thể được giải quyết một sớm
một chiều, và điều có thể làm ngay bây giờ của chúng ta đó chính là đưa ra các cách
giải quyết cả về mặt con người, khoa học công nghệ và cả về mặt khoa học pháp lý.
Nhưng trước khi có thể đưa ra được những cách giải quyết, ta buộc phải xem xét
những rào cản, thách thức chúng ta có thể đang phải đối mặt, và đưa ra những ý kiến
mang tính khách quan, hợp lý nhất đề phù hợp với những thay đổi đang có hiện nay
và sẽ tiếp tục biến đổi trong tương lai.
Một là, về các quy định pháp luật. Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp
lý hoạt động của các làng nghề. Đối với hệ thống pháp luật, chính sách BVMT làng
nghề hiện nay đã tương đối đầy đủ, tuy nhiên việc áp dụng cho các loại hình đối tượng
khác nhau vẫn chưa rõ ràng. Hiện nay có 23 quy chuẩn quốc gia được xây dựng và
ban hành nhưng không thực sự khả thi đối với cơ sở sản xuất làng nghề. Bên cạnh đó,
hiện vẫn còn nhiều địa phương còn quá coi trọng phát triển kinh tế đã bỏ qua nhiều
trách nhiệm về BVMT.
Thứ nhất, cần ban hành các chính sách phát triển từng nhóm làng nghề như hỗ
trợ kinh phí, đào tạo nhân lực, việc ban hành chính sách và lộ trình xóa bỏ "mảng tối”
về ÔNMT làng nghề,... cũng cần được quan tâm hơn 49. Mỗi một nhóm làng nghề sẽ
mang những đặc trưng khác nhau nên những vấn đề đi kèm như quy hoạch, vấn đề xã
hội, vấn đề môi trường cũng sẽ khác nhau. Việc ban hành chính sách phát triển cho
từng nhóm làng nghề sẽ giúp cho việc cải thiện và BVMT được thực hiện có trật tự,
từng bước một chắc chắn tạo nên tổng thể hệ thống môi trường các làng nghề sạch
đẹp, giữ gìn được những bản sắc văn hóa truyền thống, thu hút du lịch và thân thiện
với cộng đồng dân cư.
Thứ hai, chúng ta cần xây dựng những quy chế cụ thể về xây dựng, quản lý dữ
liệu thông tin về môi trường cho nhóm các làng nghề chẳng hạn như quy chế cung cấp
dữ liệu, xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác và bảo trì CSDL tài nguyên và môi
trường Quốc gia về làng nghề, quy trình kỹ thuật xây dựng danh mục CSDL tài
nguyên và môi trường về làng nghề, quy chế lập, thực hiện, kiểm tra, nghiệm thu sản
phẩm các dự án ứng dụng CNTT trong ngành TN&MT, quy chế thẩm định và khuyến
nghị sử dụng các sản phẩm phần mềm ứng dụng trong ngành TN&MT đối với môi
trường làng nghề…
Thứ ba, cần có quy định cụ thể, sát thực tế về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và
các giải pháp cụ thể, khả thi đối với làng nghề, làng có nghề gây nhiễm môi trường
nghiêm trọng phải xử lý. Cần có quy chuẩn, tiêu chuẩn riêng dành cho môi trường các
nhóm làng nghề, Các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường phải tiếp cận được với
trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới. Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn
môi trường quốc gia về môi trường làng nghề phải gần sát với hệ thống tiêu chuẩn
chung của quốc gia và quốc tế. Các quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường làng nghề
phải đáp ứng được yêu cầu của cộng đồng dân cư trong và xung quanh khu vực làng
nghề trên cơ sở xác định tầm quan trọng và tính cấp thiết ở từng giai đoạn và khả năng
49 Bài viết Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập, Trung Hiếu, Báo Mới,ngày 09/11/2011
phát triển. Quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường cần đảm bảo tính cập nhật để phù
hợp với điều kiện kinh tế – xã hội.
Việc biên soạn quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường làng nghề phải có tính hợp
tác, liên kết các cơ quan có thẩm quyền, nhà nghiên cứu, cộng đồng dân cư để việc
trao đổi dữ liệu để được chấp nhận một cách rộng rãi, minh bạch. Ngoài ra việc xã hội
hóa công tác xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn cũng rất là cần thiết. Chúng ta cần tăng
cường việc tham gia xây dựng tiêu chuẩn từ hiệp hội các hộ sản xuất tại làng nghề.
Bản thân người lao động và các hộ sản xuất tại làng nghề phải tham gia thực hiện quá
trình xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn.
BVMT và quyền được sống trong môi trường trong lành là vấn đề toàn cầu,
một quốc gia không tự mình có thể giải quyết được, do vậy cần phải có sự kết hợp
phát huy nội lực với hợp tác quốc tế. Cần chủ động và tích cực tham gia các hoạt động
hợp tác quốc tế về BVMT và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế đã ký kết; tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực chuyển giao các công nghệ sản xuất sạch và thân
thiện với môi trường; tìm kiếm sự giúp đỡ quốc tế nhằm BVMT toàn cầu; cần tích cực
tham gia các diễn đàn, hoạt động BVMT và phát triển bền vững toàn cầu, mở rộng
liên kết với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là trong việc kiểm soát khí thải gây hiệu ứng
nhà kính, hạn chế sự ô nhiễm do hoá chất và chất thải nguy hại, kiểm soát sự vận
chuyển chúng xuyên biên giới, BVMT biển và đa dạng sinh học để cùng ứng phó với
biến đổi khí hậu, giữ gìn, bảo tồn Trái đất - ngôi nhà chung của nhân loại. Chúng ta
cũng cần nội luật hóa các quy định của công ước quốc tế nói chung và công ước quốc
tế liên quan đến lĩnh vực BVMT, đặc biệt là các công ước quốc tế về bồi thường thiệt
hại.
Thứ tư, thêm những quy định mới cụ thể về lượng giá tổn thất môi trường.
ÔNMT không những ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hệ sinh thái, gây tổn thất nghiêm trọng đến các mặt khác như văn hóa, xã
hội và đặc biệt là nền kinh tế. Môi trường là nơi chứa đựng và cung cấp tài nguyên
cho đời sống sản xuất của con người chúng ta. Khi con xã hội ngày càng phát triển thì
nhu cầu của con người ngày càng tăng số lượng tài nguyên được khai thác tăng lên
càng cao để đáp độ phức tạp phát triển của xã hội.
ÔNMT gây ra những thiệt hại không nhỏ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
và khai thác, nuôi trồng thủy sản cũng như hoạt động phát triển du lịch. Những vấn đề
này không chỉ gây ảnh hưởng tới đời sống của người dân mà còn gây ra những tổn
thất lớn tới vấn đề phát triển kinh tế. Hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng chịu nhiều
tác động tiêu cực do ÔNMT đất. Việc sử dụng không đúng cách hoặc quá nhiều các
loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) khiến cho cây trồng không hấp thụ hết
gây nên tình trạng tồn dư phân bón, thuốc BVTV trong đất, từ đó tích luỹ vào nông
sản, thực phẩm, gây ra những tác động xấu không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.
Môi trường bị ô nhiễm không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà
còn làm cho người dân sinh sống trong và quanh khu vực ô nhiễm bị mất kế sinh nhai,
cuộc sống thiếu thốn. Môi trường nước mặt (sông, hồ, kênh, mương) là nguồn tưới
tiêu chính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Khi chất lượng nước của hệ thống
này bị ô nhiễm dẫn tới những thiệt hại không nhỏ đối với hoạt động canh tác tại các
khu vực nông thôn. Theo số lượng thống kê, sản lượng nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là
nuôi cá bè trên sông) đã bị giảm sút nhiều do vấn đề ô nhiễm nước mặt. Nhiều vụ cá
bè chết hàng loạt trên các sông tại Vũng Tàu, Quảng Ngãi, Đà Nẵng đã ảnh hưởng
đến nguồn thu nhập của hàng trăm hộ dân, gây không ít bức xúc, hoang mang. Hiện
nay, trên các kênh thông tin thời sự đều đang đưa tin về vùng biển Vũng Áng với hiện
tượng cá chết hàng loạt, không rõ hiện tượng cá chết hàng loạt này có phải chỉ do sự
xả thải chui từ các nhà máy của tập đoàn Formosa hay không, nhưng chúng ta có thể
thấy được Formosa sẽ phải chịu trách nhiệm cho hành vi xả thải chất thải chưa qua xử
lý chui ra biển của mình. Nhìn nhận từ vụ việc này, ta có 2 vấn đề cần xem xét và giải
quyết.
Cần phải xác định người, tổ chức chịu trách nhiệm cho việc gây ra tổn thất cho
môi trường vì hành vi gây ô nhiễm. Ô nhiễm môi trường là hiện tượng chỉ có thể xảy
ra do nhiều cá thể thực hiện hành gây ô nhiễm trong một thời gian dài. Vì thế việc xác
đinh, quy trách nhiệm cho các cá thể gây ô nhiễm là một việc không hề đơn giản.
Bên cạnh đó, cho dù có xác định được trách nhiệm quy về các cá nhân, tổ chức
nào cụ thể, thì việc lượng giá tổn thất đối với môi trường, con người là rất khó khăn.
Tại Việt Nam hiện nay, có hơn 30.000 tiến sĩ về môi trường có thể tham gia vào công
việc lượng giá tổn thất, nhưng chúng ta lại chưa có quy định cụ thể về lượng giá tổn
thất. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia có quy định về lượng giá tổn thất và có đến 80
phương pháp lượng giá tổn thất được sử dụng. Việc học tập và đưa vào trong các quy
định của pháp luật Việt Nam về lượng giá tổn thất đến môi trường là hoàn toàn cần
thiết và đúng đắn.
Như vậy, để giải quyết cũng như phòng chống các “án môi trường” sau này,
chúng ta cần sớm có những quy định cụ thể về lượng giá tổn thất đến môi trường, con
người, giúp cho môi trường và quyền con người đối với môi trường được bảo vệ toàn
diện hơn.
Hai là, về việc thực thi pháp luật. Thứ nhất, về vấn đề công tác thực hiện triển khai pháp luật, việc phải làm là
tăng cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho sự
nghiệp BVMT. Hiện nay, không ít địa phương chưa thực hiện đúng việc chi 01%
NSNN cho sự nghiệp môi trường, mặc dù mức kinh phí này là rất ít. Do đó, cần tăng
cường giám sát việc phân bổ, quản lý, sử dụng chi cho sự nghiệp BVMT tại các bộ,
ngành, địa phương. Việc đầu tư phải có trọng điểm, không dàn trải, đúng mục đích.
Nghiên cứu cần tăng đầu tư từ nhiều nguồn cho công tác BVMT bằng nhiều chính
sách phù hợp về đa dạng hóa nguồn đầu tư…
Thứ hai, có chính sách về đầu tư phát triển phù hợp, ban hành các chính sách
cụ thể về hỗ trợ vốn và thuế, công nghệ sản xuất, đào tạo nhân lực. Có lộ trình đầu tư
kinh phí nâng cấp cơ sở hạ tầng đối với các làng nghề được công nhận, đặc biệt là đối
với các làng nghề truyền thống; hỗ trợ tài chính cho các hoạt động BVMT, chuyển
giao công nghệ tiên tiến và công nghệ sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi
trường; xây dựng vùng nguyên liệu. Có chính sách ưu tiên vay vốn của Quỹ BVMT
Việt Nam để hỗ trợ di dời, xử lý, khắc phục ÔNMT ở những làng nghề ô nhiễm
nghiêm trọng.
Thứ ba, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH và ĐBQH về việc thực
hiện chính sách, pháp luật BVMT và việc ban hành VBQPPL đối với làng nghề. Trên
cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định thiếu thống nhất, mâu thuẫn,
chồng chéo, không phù hợp với các luật đã được ban hành.
Thứ tư, cần quy hoạch làng nghề một cách khoa học, phân loại làng nghề phải
dựa vào các yếu tố làng nghề truyền thống, không truyền thống, mức độ ÔNMT, bảo
tồn và phát huy văn hóa dân tộc.
Quy hoạch làng nghề phải chú ý đến loại hình nghề nghiệp và mức độ gây
ÔNMT theo 3 hình thức: Quy hoạch tập trung (các nghề có mức độ ô nhiễm cao); quy
hoạch phân tán (các nghề ít gây ô nhiễm) và quy hoạch vừa tập trung vừa phân tán
(đỗi với các ngành nghề thích hợp).
Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề, cùng với đó là việc
chỉ đạo xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện đề án tổng thể xử lý ÔNMT làng
nghề; phân loại làng nghề ô nhiễm. Trong quá trình đó, có lúc cũng cần thiết phải sử
dụng giải pháp cứng rắn.
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý làng nghề một cách hiệu lực và hiệu
quả, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động có tác động đến môi
trường của con người. Việc quản lý làng nghề tại các địa phương hiện nay là không
thống nhất. Có địa phương giao quản lý làng nghề là sở NN&PTNT, có nơi là sở
Công Thương, có địa phương giao cho Liên minh hợp tác xã. Do đó, cần nghiên cứu
mô hình quản lý làng nghề một các hiệu quả nhất, có nên tập trung quản lý làng nghề
vào một đầu mối theo hệ thống thống nhất hay không Các tác động môi trường có thể
đến từ những người dân bình thường, có thể đến từ các nhà máy, khu công nghiệp
hoặc làng nghề, hoặc có thể đến từ sự tự động của chính những người thi hành pháp
luật. Việc tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động sẽ làm cho các hành
vi vi phạm pháp luật môi trường bị giảm đi, dần đi vào ý thức hệ của người dân việc
gây ÔNMT là một hành vi bị cấm và làm cho họ có ý thức hơn trong việc BVMT.
Thứ sáu, cần phải có cơ quan đặc trách ứng phó cấp cao nhất khẩn cấp xử lý
những vụ án môi trường, giải quyết những trường hợp gây ÔNMT. Tuy hiện tại đã có
rất nhiều cơ quan quản lý về môi trường, nhưng trước các vụ án về môi trường đa
phần xảy ra một cách bất ngờ, thì việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền lại hoàn
toàn lúng túng và khi có tình huống bất ngờ xảy ra thì các cơ quan này thường lâm
vào tình trạng tình trạng bị động “chờ đợi kết quả”, cảnh sát môi trường vẫn chưa thể
hiện được khả năng kiểm soát của mình đối với các hoạt động gây tác động đến môi
trường. Lấy vụ án cá chết ở biển Vũng Áng – Hà Tĩnh làm ví dụ. Theo các nguồn
thông tin cho biết, trong hoạt động sản xuất thép của mình thì việc nhà máy Formosa
thải ra biển một lượng chất thải lớn được cho rằng là nguyên nhân chính gây nên hiện
tượng cá chết hàng loạt tại Hà Tĩnh. Các cơ quan chức năng vào cuộc, Sở tài nguyên
Môi trường đã kiểm tra các mẫu nước thải của nhà máy và đưa ra kết luận trước buổi
họp báo. Điều đáng nói ở đây là Sở Tài nguyên Môi trường Hà Tĩnh chỉ dựa trên báo
cáo định kỳ 3 tháng của nhà máy để kiểm tra, đánh giá và chỉ kiểm tra mẫu nước khi
mà có hiện tượng bất thường về môi trường xung quanh doanh nghiệp thì Sở mới vào
cuộc. Như vậy hiện nay ở Hà Tĩnh không phải chỉ có riêng nhà máy Formosa hoạt
động trên địa bàn tỉnh vậy mà lúc nào có biến động bất thường về môi trường thì Sở
Tài Nguyên Môi trường của tỉnh mới thực hiện công tác kiểm tra chất thải của doanh
nghiệp. Liên hệ tới việc BVMT các làng nghề, để tránh xảy ra những trường hợp
giống như vụ án cá chết ở biển Vũng Áng, phòng những tình huống môi trường làng
nghề bị ô nhiễm nặng gây hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra chúng ta nên suy nghĩ
đến việc lập ra một cơ quan đặc trách ứng phó khẩn cấp có thể kiểm tra, ngăn chặn
ngay khi có sự việc xảy ra, có thể điều tra tìm nguyên nhân, chủ thể gây ô nhiễm ngay
lập tức mà không bị từ chối vì “không có thẩm quyền” để kịp thời ra tay trước khi
hậu quả để lại cho môi trường quá nặng nề và không thể cứu chữa.
Thứ bảy, lồng ghép việc giảng dạy quyền con người nói chung, quyền về môi
trường nói riêng vào chương trình giảng dạy trong các chương trình đại học, cao học
trong cả nước; đào tạo đội ngũ thẩm phán và đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức
chuyên sâu luật trong nước và luật quốc tế, luật môi trường và các vấn đề về quyền
con người, quyền môi trường, để trang bị thêm những kiến thức, kinh nghiệm trong
việc giám sát và kiểm soát việc thực thi pháp luật về môi trường. Bên cạnh việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về BVMT, thì vấn đề con người là yếu quyết định trong việc
thực thi các chính sách pháp luật. Hiện nay đội ngũ lãnh đạo và cán bộ trong lĩnh vực
BVMT chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết khi có sự cố xảy ra, đặc biệt
là tại môi trường làng nghề. Do vậy cần có sự quan tâm từ phía Nhà nước trong việc
đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
có rất ít trường mở mã ngành đào tạo chuyên sâu về môi trường, một số trường có mã
ngành đào tạo, nhưng sinh viên lại không được trang bị nhiều kiến thức pháp luật về
BVMT, quyền con người về môi trường, đặc biệt là những kiến thức chuyên sâu về
luật quốc tế. Chính vì thế, khi có sự cố xảy ra thì những người được giao giải quyết
công việc tỏ ra lúng túng, không giải quyết kịp thời, hiệu quả công việc chưa cao. Do
vậy, cần đào tạo đội ngũ nhân lực trong lĩnh vực BVMT nói chung, bảo vệ quyền môi
trường để thực hiện quyền con người trong môi trường làng nghề. Cụ thể, cần có kế
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ của cơ quan Toà án, nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ cho các thẩm phán xét xử các vụ án tranh chấp khi có ÔNMT, đặc biệt là
cần đào tạo đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các vụ án vi phạm pháp luật về ÔNMT.
Đào tạo các cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước khác bằng việc mở các lớp
đào tạo trong nước có sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài giảng dạy về luật
quốc tế cũng như kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại do
ÔNMT, nghiên cứu các án lệ, bản án điển hình đã xét xử và có hiệu lực của toà án các
nước có kinh nghiệm xử lý khi có ÔNMT tại các làng nghề tại các quốc gia châu Á
tân tiến.
KẾT LUẬN
Tuyên bố của Liên hợp quốc về môi trường đã đưa ra quyền của con người
được sống trong một môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa
các quốc gia và luôn ở vị trí đầu tiên trong các nguyên tắc. Nguyên tắc 1 Tuyên bố
của Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường con người (Tuyên bố Stockholm – năm
1972) nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và đầy đủ các điều
kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc
lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và
mai sau”. Tiếp đó đến Tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và phát
triển ( Tuyên bố Rio de Janeiro – 1992) khẳng định rằng: “Con người là trung tâm
của những mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng
một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Từ hai Tuyên bố trên
có thể thấy rằng Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền tự nhiên
của con người và là quyền rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
cuộc sống.
Trong Hiến pháp 2013 của nước CHXHCN Việt Nam đã quy định : “Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”, đây là
một vấn đề lớn và chưa thực sự được cân nhắc một cách đúng đắn cho đến gần đây,
khi môi trường và sức khỏe của con người xuống cấp một cách trầm trọng. Những vụ
án về môi trường, những bài báo về sự nhiễm độc thực phẩm, những báo cáo về số
lượng ca tử vong do ung thư, do ngộ độc thực phẩm hiện nay đang cho thấy quyền
con người vẫn chưa được đảm bảo toàn diện; môi trường làng nghề cũng ngày một
xuống cấp nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt cũng như sức
khỏe con người về lâu dài.
BVMT và vệ sinh an toàn thực phẩm là hai vấn đề đang rất được nhà nước và
xã hội quan tâm hiện nay. Việc tạo ra những thay đổi và chỉnh sửa trong pháp luật
BVMT Việt Nam là vấn đề cần triển khai một cách cẩn thận và đồng thời cần phù hợp
với những thay đổi lớn trong tương lai mà Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt. Để có thể
tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVMT và bảo vệ quyền con người với môi trường, việc
nghiên cứu sâu hơn vào từng ngành nghề có tác động đến môi trường là hoàn toàn cần
thiết. Từ những vấn đề trên trong đề tài nghiên cứu này, thiết nghĩ chúng ta phải có
những giải pháp mang tính kịp thời, khẩn cấp. Bản thân tôi cho rằng việc bây giờ cần
làm là ban hành các văn bản QPPL có tính chi tiết hơn (về QCMT, ĐTM,…) và phù
hợp với những đặc trưng của từng nhóm làng nghề, thiết lập các cơ chế, cơ quan xử lý
khẩn cấp những tình huống bất ngờ. Bởi thời gian là không chờ đợi, và môi trường
một khi đã phá hủy thì sự phục hồi là rất chậm, có thể mất đến hàng thế kỉ để cứu
chữa, nên con người muốn sống khỏe mạnh và tiếp tục phát triển thì chỉ còn cách
chung tay BVMT và xây dựng một xã hội lành mạnh hơn, “xanh” hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc (UNCED), 1992, Chương
trình nghị sự 21, Rio de Janeiro;
2. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Partnership
Agreement), 0/02/2016, ,Auckland, New Zealand;
3. Quốc hội, 2011, Báo cáo Kết quả giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật
về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề;
4. Quốc hội, 2013, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;
5. Quốc hội, 2014, Luật BVMT 2014 - 55/2014/QH13;
6. Ủy ban thường vụ Quốc hội, 19/10/2011, Báo cáo giám sát khu kinh tế và làng
nghề;
7. Ủy ban thường vụ Quốc hội, 29/10/2011, Phụ lục Báo cáo giám sát Khu kinh tế và
Làng nghề;
8. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010;
9. Chính phủ, 14/11/2013, Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
10. Chính phủ, 14/02/2015, Nghị định 18/2015/NĐ-CP Quy định về quy hoạch bảo vệ
môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế
hoạch bảo vệ môi trường;
11. Thủ tướng Chính phủ, 17/12/2009, Quyết định 2149/QĐ-TTg năm 2009 phê duyệt
chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2050;
12. Bộ chính trị, 15/11/2014, Nghị quyết 41-NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
13. Bộ Chính trị, 02/6/2005, Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020;
14. Bộ Khoa học và công nghệ, 2011, Chương trình khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp nhà nước, KC 08, “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ phòng tránh
thiên tai, BVMT và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên”;
15. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 18/04/2007, Chỉ thị 28/2007/CT-BNN về
đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô
nhiễm môi trường làng nghề;
16. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008, Báo cáo môi trường quốc gia - Môi trường
làng nghề Việt Nam, Hà Nội;
17. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008, Quy chuẩn kỹ thuâṭ quốc gia về chất lượng
nước mặt (QCVN 08:2008/BTNMT), Hà Nội;
18. Bộ TN&MT, 2009, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại
(QCVN 07: 2009/BTNMT), Hà Nội;
19. Bộ TN&MT, 2010, Báo cáo môi trường quốc gia 2010 – Tổng quan môi trường
Việt Nam;
20. Bộ TN&MT, 2015, Quy chuẩn kỹ thuâṭ quốc gia về giới hạn ̣cho phép của kim
loại nặng trong đất (QCVN 03-MT:2015/BTNMT);
21. UBND TP Hà Nội, 02/01/2013, Quyết định 14/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt
Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng
đến năm 2030;
22. UBND TP Hà Nội, 31/03/2014, Quyết định 105/2014/QĐ-UBND quản lý chất
thải rắn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
23. UBND TP Hà Nội, 31/12/2015, Kế hoạch 235/KH-UBND công tác BVMT làng
nghề Hà Nội;
24. UBND TP Hà Nội, 2016, Kế hoạch Thực hiện công tác BVMT làng nghề trên địa
bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn 2016 – 2020;
25. Sở TN&MT Hà Nội, 26/11/2015, T.Bình, Bài viết “Hà Nội: Từ 2016, BVMT là
tiêu chí bắt buộc khi công nhận làng nghề”;
26. Sở TN&MT Hà Nội, 08/12/2015, Bài viết “Hà Nội: Cam kết, thống nhất hành
động BVMT”;
27. Sở TN&MT Hà Nội, 13/01/2016, BVMT làng nghề Thủ đô giai đoạn 2016 -
2020;
28. TS. Mai Hải Đăng, cuốn “Pháp luật quốc tế và Việt Nam về môi trường với việc
bảo vệ quyền con người”, NXB Tư Pháp, 2015;
29. Nguyễn Ngọc Sinh và nnk, cuốn “Môi trường và tài nguyên Việt Nam”, NXB
Khoa học và Kỹ thuật, 1984;
30. Cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường biển tỉnh Thanh Hóa,
http://117.6.86.117:8089/databases_csdlmetadatabase.asp;
31. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,Viện ngôn ngữ học, 2004;
32. Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học và kĩ thuật, 2005;
33. Mai Anh, Bài viết “Ô nhiễm gây thiệt hại 1,5% - 3% GDP”, 30/07/2015, Báo điện
tử Moitruong.com.vn, http://moitruong.com.vn/tin-tuc-su-kien/o-nhiem-gay-thiet-hai-
1-5-3-gdp-14805.htm;
34. TS. Phạm Văn Beo, Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật – Đại học Cần
Thơ, Báo Thiên Nhiên, Bài viết “Cấu thành tội phạm của các tội phạm về môi
trường”, 29/10/2015, http://www.baomoi.com/cau-thanh-toi-pham-cua-cac-toi-pham-
ve-moi-truong/c/17862519.epi;
35. Phạm Trọng Duy, “BVMT làng nghề: Huy động sự vào cuộc của các tổ chức
chính trị - xã hội”, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục môi trường, 23/11/2015;
36. Hương Đỗ, Bài viết “Minh Khai: Rộn ràng làng nghề dịp tết”, , 19/11/2016, Cổng
thông tin điện tử UBND Huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội,
http://hoaiduc.hanoi.gov.vn/tin-noi-bat/-
/news/J8aPiv4HOyhK/1/415765.html;jsessionid=22Sd+iTFY11fnRMoEgM270aP.ap
p2;
37. Nguyên Gia, Bài viết “Gian nan việc xử lý ô nhiễm làng nghề ở Hà Nội”, Báo Lao
động thủ đô, 11/09/2014, http://laodongthudo.vn/gian-nan-viec-xu-ly-o-nhiem-lang-
nghe-o-ha-noi-624.html;
38. Trung Hiếu, Bài viết “Thực thi pháp luật tại các làng nghề: Còn nhiều bất cập”,
Báo Mới, 09/11/2011, http://www.baomoi.com/thuc-thi-phap-luat-tai-cac-lang-nghe-
con-nhieu-bat-cap/c/7324541.epi;
39. Phúc Lập, Bài viết “Ô nhiễm làng nghề bủa vây Hà Nội”’, Báo Nông nghiệp Việt
Nam, 08/04/2015, http://m.nongnghiep.vn/o-nhiem-lang-nghe-bua-vay-ha-noi-
post141155.html;
40. Vũ Lê, Bài viết “Hà Nội cần khoảng 1.350 tỷ đồng để xử lý môi trường làng nghề”,
Báo Kinh tế và Đô thị Online, 06/10/2015, http://www.kinhtedothi.vn/do-thi/moi-
truong/2015/10/8102f490/ha-noi-can-khoang-1-350-ty-do-ng-de-xu-ly-moi-truong-
lang-nghe/;
41. TS. Lê Kim Nguyệt, Bài viết “Thực trạng thực thi pháp luật BVMT tại các làng
nghề ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 180‐185;
42. Thiện Quang, Bài viết “Giải tỏa bức xúc cho làng nghề”, Báo Kinh tế đô thị,
30/03/2015, http://www.kinhtedothi.vn/kinh-te/nong-thon-
moi/2015/03/8102b16e/giai-toa-buc-xuc-cho-lang-nghe/;
43. Nguyễn Quyết Thắng, Bài viết “Làng bún Phú Đô: Bao giờ hết ô nhiễm?”, Báo
TN&MT, 26/03/2014, http://baotainguyenmoitruong.vn/moi-truong-va-phat-
trien/201403/lang-bun-phu-do-bao-gio-het-o-nhiem-518754/;
44. “Làng bún Phú Đô: Trạm xử lí chỉ để làm "cảnh"”, nước thải vẫn xả thẳng ra sông
Nhuệ,”, Báo Ngày nay, 07/07/2015, http://www.ngaynay.vn/lang-bun-phu-do-tram-
xu-li-chi-de-lam-canh-nuoc-thai-van-xa-thang-ra-song-nhue-p275582.html;
45. Bài “Vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng”, Báo Điện tử Đảng
cộng sản Việt Nam, 13/08/2013, http://dangcongsan.vn/khoa-giao/vi-pham-phap-luat-
bao-ve-moi-truong-ngay-cang-gia-tang-200705.html;
46. Bài “Ô nhiễm môi trường nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái”
(theo Thông tấn xã Việt Nam), Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam,
02/03/2013, http://www.tinmoitruong.vn/home/print_detail/21706;