TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
PHẠM THỊ THÁI NGÂN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THU THỦY PHẠM THỊ THÁI NGÂN
Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn trường Đại học Võ Trường Toản, cùng Giảng viên
hướng dẫn đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa luận. Đặc biệt xin chân
thành gửi lời cảm ơn đến cô Nguyễn Thị Thu Thủy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài này!
Cảm ơn quý thầy cô Khoa Khoa học cơ bản cùng các cán bộ của Thư viện
trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, giúp đỡ
tôi trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi và tham khảo.
Xin chân thành biết ơn!
Sinh viên thực hiện
i
(Ký và ghi rõ họ tên)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất
cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
ii
(Kí và ghi rõ họ tên)
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ...................................................................................................... i LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... ii PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài: ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................ 1 3. Mục đích yêu cầu: ....................................................................................... 4 4. Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: ......................................................................... 5 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÀNH NGỮ VÀ TỪ........ 6 1.1.Thành ngữ: ................................................................................................ 6 1.1.1. Định nghĩa: ........................................................................................ 6 1.1.2. Đặc điểm của thành ngữ: ................................................................. 7 1.1.3. Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ với tục ngữ: ......... 13 1.2. Từ: ........................................................................................................... 17 1.2.1.Các quan niệm và định nghĩa về từ: .............................................. 17 1.2.2.Một số đặc điểm của từ tiếng Việt: ................................................. 18 1.2.3. Tìm hiểu về lớp từ chỉ động vật trong tiếng Việt: ........................ 18 CHƢƠNG 2: GIÁ TRỊ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT ........... 20 2.1. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật có thực: ......................... 20 2.1.1. Động vật trên cạn: ........................................................................... 20 2.1.2. Động vật sống trên không: ............................................................. 41 2.1.3. Động vật sống dƣới nƣớc: .............................................................. 47
2.2. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật chỉ có trong truyền thuyết, trong tƣởng tƣợng: .......................................................................... 54
iii
CHƢƠNG 3: TÁC DỤNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT TRONG THÀNH NGỮ ................................................................................... 56 3.1. Tăng tính hình tƣợng, biểu cảm: ......................................................... 56 3.2. Tính cô đọng, hàm súc: ......................................................................... 57 3.3. Tính khách quan, thuyết phục: ............................................................ 58 3.4. Tính dân tộc đậm đà: ............................................................................ 59 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 61
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thành ngữ là một mảng đề tài phong phú trong kho tàng văn học dân gian
và cũng là mảng đề tài gần gũi nhất, vì nó từ lâu đã đi vào lời ăn tiếng nói hằng
ngày. Với các từ chỉ động vật, chỉ hành động, vật liệu mang đậm tính dân tộc,
thành ngữ đã tạo cho mình một vị thế quan trọng trong trường ngôn ngữ dân tộc.
Vốn là người yêu thích văn chương và say mê với những giá trị truyền
thống dân gian với mong muốn được khai thác, tìm hiểu sâu hơn về thành ngữ dân
tộc nên tôi quyết định chọn một góc nhỏ về mảng đề tài này đó là đề tài: “Các từ
chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt”. Hy vọng rằng, sau khi hoàn thành đề tài,
tôi có thể có thêm vốn kiến thức về thành ngữ và từ tiếng Việt, để góp phần cho
công việc nghiên cứu Văn học sau này và góp một phần nhỏ công sức vào việc giữ
gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ, cũng như những giá trị quý báu của ngôn ngữ
dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề:
Thành ngữ là mảng đề tài thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới nghiên
cứu, với mỗi công trình nghiên cứu của mỗi tác giả khác nhau đưa ra những quan
điểm khác nhau. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu về thành ngữ như:
Trong quyển Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu, Nhà xuất bản
Giáo dục 1981, ở phần III, chương ba tác giả đã nêu lên khái niệm về thành ngữ,
phân loại thành ngữ. Ông còn phân chia thành ngữ căn cứ theo kết cấu cú pháp
gốc (trừ thành ngữ gốc Hán) thành hai loại: thành ngữ có kết cấu câu và thành ngữ
có kết cấu cụm từ. Bên cạnh đó, ông còn trình bày sự khác biệt giữa thành ngữ và
tục ngữ dựa trên hình thức ngữ pháp, nội dung ý nghĩa, đối tượng nghiên cứu.
Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thị Thu Thủy đã đề cập đến
ngữ cố định, phân biệt thành ngữ với tục ngữ, đặc điểm, phân loại và giá trị sử
1
dụng của thành ngữ.
Giáo trình Phong cách học tiếng Việt của Nguyễn Văn Nở đã có trình bày
khái niệm về thành ngữ, cách phân chia thành ngữ dựa trên phạm vi sử dụng cũng
như đặc điểm khái quát của từng loại thành ngữ và giá trị biểu đạt của chúng. Bên
cạnh đó, tác giả còn trích dẫn quan điểm của Cù Đình Tú về sự khác nhau giữa
thành ngữ và tục ngữ.
Trong giáo trình Văn học dân gian, phần hai, Trần Văn Nam đã trình bày sự
khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ. Qua đó, ta có thể phân biệt ranh giới
giữa thành ngữ và tục ngữ.
Trong quyển Từ điển thành ngữ tiếng Việt, Hoàng Văn Hành (chủ biên) đã
tập hợp rất nhiều thành ngữ tiếng Việt và giải thích ý nghĩa của chúng. Hay quyển
“Kể chuyện thành ngữ và tục ngữ” Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1997 của
Hoàng Văn Hành cũng đã kể, sưu tầm rất nhiều câu chuyện để giải thích, giới
thiệu nguồn gốc hình thành các thành ngữ, tục ngữ. Qua đó ta có thể hiểu được ý
nghĩa và nguồn gốc của rất nhiều thành ngữ.
Nguyễn Bích Hằng trong quyển Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam đã
tuyển soạn giải thích nghĩa của các thành ngữ - tục ngữ một cách ngắn gọn, rõ
ràng và tương đối đầy đủ.
Trong bộ sách Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam gồm hai
quyển, dày gần 2000 trang, soạn giả Việt Chương đã tập hợp hơn 15000 câu thành
ngữ - tục ngữ ca dao (trong đó có một số thành ngữ Hán Việt tham khảo) được
giải thích tường tận dễ hiểu. Bộ sách là một công trình đồ sộ được trình bày rõ
ràng, khoa học. Toàn bộ thành ngữ - tục ngữ - ca dao được tác giả sưu tầm, sắp
xếp theo thứ tự mẫu chữ cái, chia làm hai quyển: quyển thượng gồm những câu
thành ngữ - tục ngữ - ca dao có chữ cái đầu từ A đến L; quyển hạ gồm những
thành ngữ - tục ngữ - ca dao có chữ cái đầu từ M trở về sau cho đến Y.
Tác giả Trịnh Mạnh trong quyển Tiếng Việt lí thú cũng đã đề cập đến nguồn
gốc và nghĩa của một số thành ngữ - tục ngữ thông qua cách giải thích rõ ràng, cụ
2
thể và một số câu chuyện đầy lí thú.
Định nghĩa từ, các quan niệm về từ và phân loại từ từ lâu đã được sự quan
tâm rất nhiều của giới nghiên cứu ngôn ngữ. Có thể kể đến các công trình nghiên
cứu như:
Giáo trình từ vựng học Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2011 của Đỗ Việt
Hùng đã biên soạn lại ngắn gọn các giáo trình truyền thống về Từ vựng học nói
chung và Từ vựng học tiếng Việt nói riêng của các nhà khoa học tên tuổi hàng đầu
trong và ngoài nước. Ngoài những nội dung truyền thống, giáo trình này còn bổ
sung những vấn đề mới như: sử dụng quan hệ đồng nhất và đối lập để xác định đặc
điểm cấu tạo từ, các phương pháp phân tích nét nghĩa, hoạt động của các nét nghiã
trong thực tế giao tiếp, hiện tượng đồng nghĩa và hiện tượng đồng chiếu vật. Trong
giáo trình này, tác giả đã nêu định nghĩa về từ, phân loại từ, định nghĩa về ngữ cố
định, trong đó có thành ngữ và một số đặc điểm về nghĩa của thành ngữ. Đặc biệt
tác giả còn khẳng định rằng tục ngữ không thuộc ngữ cố định dù chúng đều do các
từ tạo nên và có tính ổn định cao.
Ngữ pháp tiếng Việt Nhà xuất bản Giáo dục, Diệp Quang Ban (chủ biên),
Hoàng Văn Thung viết theo tinh thần vừa kế thừa kiến thức truyền thống đã và
đang được lưu hành, vừa bổ sung kiến thức là thành tựu của giới nghiên cứu tiếng
Việt trong những năm thập niên 90. Trong quyển này, hai tác giả đã đề cập rõ
ràng, chi tiết về cấu tạo từ và cách phân chia từ loại trong tiếng Việt. Qua đó ta có
thể hiểu thêm về các danh từ chỉ động vật.
Trong quyển Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (Theo định hướng ngữ pháp
chức năng) – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Diệp Quang Ban một lần nữa biên
soạn lại cách phân chia từ loại tiếng Việt một cách cụ thể hơn, rành mạch hơn về
các lớp từ, trong đó ông đề cập khá chi tiết về lớp danh từ chỉ động vật.
Đỗ Thị Kim Liên trong quyển Ngữ pháp tiếng Việt Nhà xuất bản Giáo dục,
1999 đã dành riêng hai chương (II và III) để trình bày về định nghĩa của từ, cấu
tạo từ và phân chia từ loại tiếng Việt. Những từ loại trong tiếng Việt được tác giả
3
phân chia và hệ thống bằng sơ đồ rất rành mạch và chi tiết. Trong lớp danh từ, tác
giả lại chia ra các tiểu loại, các nhóm rất cụ thể. Qua quyển sách này, ta có thể
hiểu rõ về các từ chỉ động vật trong tiếng Việt thuộc từ loại gì? Trong tiểu loại
nào? Thuộc nhóm nào?...
Nguyễn Văn Tư trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt 1 đã khá chuẩn xác
khi nêu định nghĩa về từ, cấu trúc của từ, cấu tạo từ và cách phân chia từ loại trong
tiếng Việt. Các từ chỉ động vật cũng được tác giả đề cập đến một cách cụ thể, rõ
ràng trong giáo trình này.
Tuy nhiên, nhìn chung tất cả các tài liệu, công trình nghiên cứu trên đều
chưa bàn đến nghiên cứu nghĩa của các từ chỉ động vật trong thành ngữ một cách
cụ thể.
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài những công trình nghiên cứu trên,
người viết còn tìm hiểu tham khảo các tài liệu khác có liên quan. Các tài liệu đó sẽ
được liệt kê ở danh mục tài liệu tham khảo.
3. Mục đích yêu cầu:
Khảo sát đề tài này, người viết hướng tới những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Sưu tầm, hệ thống lại những thành ngữ có chứa từ chỉ động vật.
- Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ và từ, đặc biệt là các từ chỉ động vật.
- Hiểu được ý nghĩa và tác dụng của các từ chỉ động vật trong thành ngữ.
Đồng thời rút ra nhận xét việc sử dụng các từ chỉ động vật trong thành ngữ: những
tích cực và hạn chế.
Qua nghiên cứu đề tài, người viết có thể hiểu thêm về ý nghĩa của các thành
ngữ cũng như nguồn gốc của nó, để từ đó thêm yêu và tự hào bởi sự giàu có và
trong sáng của tiếng mẹ đẻ với những giá trị truyền thống bất hủ.
4. Phạm vi nghiên cứu:
“Từ” trong tiếng Việt là một phạm vi rất rộng. Nhưng do yêu cầu của đề tài
là “Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt”, nên người viết chỉ nghiên cứu,
tìm hiểu lớp từ chỉ động vật. Trên cơ sở đó, người viết tập trung nghiên cứu về
4
cách sử dụng từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt, có tham khảo những
công trình nghiên cứu trước đó có liên quan, đặc biệt là hai công trình nghiên cứu:
Kể chuyện thành ngữ và tục ngữ của Hoàng Văn Hành và Từ điển thành ngữ - tục
ngữ - ca dao Việt Nam của Việt Chương.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trước khi tìm hiểu nghiên cứu một vấn đề nào đó, chúng ta cần xác định
phương hướng và phương pháp cụ thể để công việc nghiên cứu đạt hiệu quả. Vì
vậy, để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
Trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê và phân loại những
thành ngữ có chứa từ chỉ động vật.
Thứ hai, dựa trên sự thống kê, phân loại đó chúng tôi tiến hành phân tích để
thấy rõ ý nghĩa của từ chỉ động vật trong thành ngữ qua mỗi trường hợp cụ thể.
Cuối cùng, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy được
5
tác dụng của việc sử dụng từ chỉ động vật trong thành ngữ.
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÀNH NGỮ VÀ TỪ
1.1.Thành ngữ:
1.1.1. Định nghĩa:
Thành ngữ - “đội quân tinh nhuệ của ngôn ngữ dân tộc” (Cù Đình Tú) là
mảng đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Rất nhiều nhà nghiên
cứu ngôn ngữ đưa ra những định nghĩa về thành ngữ khác nhau, chẳng hạn như:
Theo Đỗ Hữu Châu: “Cho một tổ hợp có ý nghĩa S do các đơn vị A, B, C…
mang ý nghĩa lần lượt s1, s2, s3… tạo nên; nếu như ý nghĩa S không thể giải thích
bằng các ý nghĩa s1, s2, s3 thì tổ hợp A, B, C có tính thành ngữ” [3; tr.61].
Theo Nguyễn Bích Hằng: “Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định nhằm
diễn đạt một khái niệm, một ý tưởng nào đó” [7; tr.5].
Hoàng Văn Hành cho rằng: “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định, bền vững về
hình thái cấu trúc, hoàn chỉnh và bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi
trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ” [6; tr.25].
Trần Văn Nam thì cho rằng: “Thành ngữ là đơn vị có sẵn, mang chức năng
định danh, dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động… là những đơn vị tương
đương như từ hoặc cụm từ”…[11; tr.21].
Nguyễn Văn Nở đưa ra định nghĩa: “Thành ngữ là những tổ hợp từ có sẵn
(cụm từ cố định), tương đối bền vững về hình thái cấu trúc, có khả năng định danh
như từ dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động” [12; tr.88].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Thành ngữ là
cụm từ hay ngữ cố định, bền vững có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm
diễn đạt trọn một nhận xét như tục ngữ mà nhằm thể hiện một quan niệm, một
hình thức sinh động, hàm súc” [5; tr.297].
Đỗ Việt Hùng cho rằng: “Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định về
6
tính ổn định trong cấu tạo và tính thành ngữ về mặt nghĩa” [8; tr.18].
Theo Cù Đình Tú: “Thành ngữ vốn là những tổ hợp từ mang tính chất tự do,
được nhiều người cùng dùng, cùng tham gia sửa đổi dần dần, gọt giũa dần dần
trong trường kì lịch sử cuối cùng trở thành những từ tổ cố định” [15; tr.149].
Nhìn chung, ở mỗi định nghĩa của mỗi tác giả khác nhau thì có cách lập
luận và quan điểm không giống nhau. Nhưng qua các định nghĩa trên, ta có thể
nhận thấy rằng vô hình chung các tác giả đều thống nhất nhau ở chỗ: cho rằng
thành ngữ là ngữ cố định, hoàn chỉnh về hình thức và nội dung có tính biểu cảm
cao và tính gọt giũa bóng bẩy.
Từ các nhận định trên, ta có thể hiểu:
Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định, có khả năng định danh như
từ dung để gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Vừa có cấu tạo gọt giũa, vừa có
tính biểu cảm. Ví dụ: Ếch ngồi đáy giếng, tốt mã dẻ cùi, rừng vàng biển bạc, …
1.1.2. Đặc điểm của thành ngữ:
Thành ngữ mang một số đặc điểm chung sau đây:
1.1.2.1. Tính biểu trƣng:
Như chúng ta đã biết thì hầu hết tất cả các thành ngữ đều là những bức tranh
nho nhỏ về những vật thực, việc thực, cụ thể, riêng lẻ, được nâng lên để nói về cái
phổ biến, khái quát, trừu tượng. Có khi chúng là các hình ảnh ẩn dụ (chuột sa hủ
nếp, kiến bò miệng chén, …) hoán dụ (một nắng hai sương, nhà cao cửa rộng, …)
hay so sánh (thẳng như kẻ chỉ, đẹp như tiên, …). Nhưng nhìn chung, thành ngữ
thực chất là những vật thực, việc thực được dùng để biểu trưng cho những đặc
điểm, tính chất, hoạt động, tình thế, … phổ biến khái quát.
Ví dụ: thành ngữ “Nhà dột cột xiêu” nhằm nói lên cảnh sống quá túng hụt,
nghèo khổ, chạy ăn hàng ngày còn không nổi nói chi đến chuyện sửa nhà. Hay
“Tốt mã dẻ cùi” là thành ngữ biểu trưng cho những người có bề ngoài đẹp đẽ
nhưng lại có tâm địa bẩn thiểu và bất tài. Hoặc như thành ngữ “Lời ong tiếng ve”
7
ám chỉ những lời bàn tán xỏ xiên, đâm thọc của bàn dân thiên hạ về vụ việc gì đó.
Rõ ràng, trong mỗi thành ngữ những hình ảnh về vật thực, việc thực được
đề cập đến không chỉ đơn thuần là việc miêu tả chúng `một cách cụ thể, riêng lẻ
mà ta đã mượn những hình ảnh về vật thực, việc thực đó để biểu trưng cho cái phổ
biến, khái quát, trừu tượng. Ta có thể dễ dàng nhận thấy các thành ngữ vừa nêu
trong ví dụ trên (Nhà dột cột xiêu, tốt mã dẻ cùi, lời ong tiếng ve) đã minh chứng
cho điều này.
Nhờ có tính biểu trưng nên thành ngữ tiếng Việt còn có tính hình tương,
tính cụ thể, tính dân tộc, … Tính biểu trưng của thành ngữ có hai mức độ: biểu
trưng cao và biểu trưng thấp. Tùy vào phương thức cấu tạo mà mỗi thành ngữ có
mức độ biểu trưng thấp hay cao khác nhau.
Cụ thể là ở những thành ngữ mà nghĩa của chúng gần như hiển hiện trên bề
mặt ngôn từ, nghĩa là ta có thể hiểu nghĩa của nó một cách dễ dàng, không cần
phải tra cứu, liên tưởng sâu xa thì những thành ngữ như vậy có mức biểu trưng
thấp. Các thành ngữ dạng này chủ yếu được cấu tạo bằng phương thức so sánh.
Ví dụ: thành ngữ “Đẹp như tiên”, yếu tố biểu trưng là “tiên”. Theo quan
niệm người xưa, tiên sống ở trên trời, có phép thuật và đặc biệt là rất xinh đẹp, đẹp
một cách toàn diện, tuyệt vời. Nên thành ngữ này để chỉ những người có nhan sắc
tuyệt trần, không ai sánh bằng. Hay thành ngữ “Chậm như sên”, hình ảnh biểu
trưng là con “sên”. Đặc điểm của sên là bò rất chậm, chậm nhất trong tất cả các
loài động vật. Vì vậy, thành ngữ “chậm như sên” là chỉ tốc độ hành động, công
việc quá chậm chạp, trễ nãy.
Ngược lại với những thành ngữ có tính biểu trưng thấp, thành ngữ có tính
biểu trưng cao là những thành ngữ mà nghĩa của chúng ẩn đằng sau cấu trúc bề
mặt ngôn từ. Hầu hết những thành ngữ dạng này được cấu tạo bởi phương thức ẩn
dụ và hoán dụ.
Ví dụ: thành ngữ “Nhà cao cửa rộng” không phải nói đến cái nhà thì cao,
cửa thì rộng. Mà qua hai hình ảnh “nhà cao”, “cửa rộng” đó người ta muốn nói đến
8
một sự giàu có, sang trọng, bề thế của người nào đó. Hay thành ngữ “Chuột chạy
cùng sào” không phải để nói việc con chuột chạy trên sào đến hết sào thì cùng
đường, không chạy được nữa. Thực ra người ta dùng hình ảnh đó để nói đến tình
thế cùng quẫn, bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát mặc dù đã xoay trở
hết cách.
1.1.2.2.Tính dân tộc:
“Tính dân tộc là đặc điểm nói chung của ngôn ngữ cụ thể, song nó thể hiện
đậm nét hơn ở các ngữ cố định” [3; tr.70].
Thành ngữ là đơn vị đặc trưng của ngữ cố định, đồng thời nó mang tính biểu
trưng nên đương nhiên thành ngữ có tính dân tộc.
Trong thành ngữ tiếng Việt, ta thấy những vật thực, việc thực được nói đến
rất đậm chất Việt Nam. Chẳng hạn như: con vật (gà, mèo, chuột, trâu, chó, ong,
kiến, …), đồ vật (cuốc, cày, niêu, cái khố, chiếc áo, manh quần, …) sự việc hay
tình thế (lấy chung chồng, tảo hôn, gà trống nuôi con, đỉa phải vôi, cốc mò cò xơi,
…).
Đôi khi trong thành ngữ còn thể hiện lòng tự hào dân tộc (con rồng cháu
tiên, con Hồng cháu Lạc, …) thể hiện phong tục, tập quán sống (một nắng hai
sương, chịu thương chịu khó, cày sâu cuốc bẩm, một lòng một dạ, …).
“Dân tộc nào cũng có kho tàng thành ngữ của mình. Vốn thành ngữ này
gồm những thành ngữ do bản thân dân tộc đó tạo nên, đã ghi lại cuộc sống của
dân tộc mình bằng những hình ảnh riêng của đất nước mình và bằng những cách
diễn đạt riêng của dân tộc mình” [15; tr.153]. Nhờ tính dân tộc của thành ngữ mà
khi tiếp xúc với ngôn ngữ cụ thể nào đó, ta không chỉ hiểu đặc điểm ngôn ngữ mà
còn hiểu thêm các vấn đề về văn hóa, tư duy, lịch sử của dân tộc ấy.
1.1.2.3. Tính biểu thái và tính cụ thể:
- Tính biểu thái:
Do thành ngữ là sự tái hiện lại những vật thực, việc thực mà ta có thể cảm
giác được, quan sát được nên khi nhắc đến bất kì thành ngữ nào cụ thể đều gây ra
9
cho ta “ấn tượng mạnh mẽ, đột ngột, tác động của chúng đậm đà và sắc, càng
“ngẫm” càng thú vị”. (Đỗ Hữu Châu). Có những thành ngữ biểu hiện thái độ -
tình cảm dương tính, nhưng có những thành ngữ biểu hiện thái độ đánh giá âm
tính. Và chính vì vậy, ta nói thành ngữ có tính biểu thái.
Ví dụ: thành ngữ “gối đất nằm sương” dùng để nói lên sự chịu thương chịu
khó, dãi dầu mưa nắng của người nào đó. Hình tượng trong thành ngữ này đã thể
hiện thái độ đánh giá dương tính. Hay thành ngữ “Ham sống sợ chết” để chỉ kẻ
hèn nhát, bạc nhược, thiếu dũng khí. Hình tượng trong thành ngữ này đã biểu hiện
thái độ đánh giá âm tính.
Ví dụ: Khi nói “Thắt lưng buộc bụng” là nói đến sự tiết kiệm đúng mức, vừa
phải kèm theo sự tán thành, đồng tình của người nói. Còn nếu nói “Vắt chày ra
nước” là thái độ chê bai, mỉa mai đối với những người keo kiệt, bủn xỉn.
Tùy thuộc vào sự đánh giá tốt xấu, vào tính chất thẩm mĩ của những hình
ảnh được lấy làm dấu hiệu biểu trưng mà sắc thái biểu cảm của thành ngữ có thể là
dương tính hay âm tính. Vì vậy, khi sử dụng ta phải hết sức lưu ý đến sắc thái biểu
cảm của chúng để dùng đúng đối tượng, đúng trường hợp. Tránh tình trạng nhập
nhằng về nghĩa hay phản tác dụng khi sử dụng thành ngữ không phù hợp.
- Tính cụ thể:
Tính cụ thể của thành ngữ gắn liền với tính hình tượng, hay nói cách khác
do có tính hình tượng nên thành ngữ có tính cụ thể. Tính cụ thể trong thành ngữ
được thể hiện qua hai phương diện sau:
Thứ nhất, tính cụ thể của thành ngữ thể hiện ở tính bị quy định về phạm vi
sử dụng. Ở phương diện này, có hai điểm cần lưu ý: Một là, không phải thành ngữ
có thể dùng cho bất cứ đối tượng nào miễn là nó có tính chất hay đặc điểm mà
thành ngữ biểu thị. Ví dụ: thành ngữ “Ngáy như bò rống” là để chỉ những người
ngáy rất to khi ngủ nhưng ta nên thận trọng, không được tùy tiện dùng thành ngữ
này cho bất cứ người nào cũng được, nó chỉ được dùng với những người nhỏ hơn
ta, hoặc ngang hàng ta với ý đùa vui hay dùng cho những người mà ta thù ghét,
10
khinh bỉ, xem thường. Hai là, tùy ở mỗi trường hợp, hoàn cảnh hay hiện tượng mà
ta lựa chọn thành ngữ áp dụng sao cho phù hợp. Chẳng hạn, thành ngữ “Con rồng
cháu tiên” hay “Con Hồng cháu Lạc” hoặc “Oan Thị Kính”,… ta chỉ nên dùng
với người Việt Nam và trong nước Việt Nam. Vì nếu ta dùng những thành ngữ rất
Việt Nam này với những nước phương Tây thì sẽ vi phạm phương châm hội thoại,
hoặc nếu không thì cũng bị nhập nhằng về nghĩa. Hay khi muốn chỉ sự gặp nhau
của hai kẻ xấu, gian ngoan ta có các thành ngữ: “Mạt cưa mướp đắng”, “kẻ cắp
gặp bà già”, … không được dùng “ngậm máu phun người” hay “mưu sâu kế độc”,
… đại loại như vậy. Tùy vào trường hợp cụ thể mà ta có những thành ngữ cụ thể
tương ứng với nó, hợp nghĩa với nó, cần phải hiểu rõ nghĩa của từng thành ngữ để
lựa chọn cho phù hợp và xác đáng .
Thứ hai, tính cụ thể của thành ngữ còn thể hiện ở tính bị quy định về sắc
thái ngữ nghĩa. Chính bởi tính bị quy định về sắc thái làm cho nghĩa của các thành
ngữ hẹp lại, do đó mà tính cụ thể tăng lên.
Ví dụ: cũng đều là các thành ngữ chỉ sự lúng túng, nhưng thành ngữ “lúng
túng như cá vào rọ” là nói đến tình thế khó khăn đột ngột, bất ngờ không biết làm
cách nào để thoát ra, để giải quyết được. “Lúng túng như thợ vụng mất kim” để chỉ
sự vụng về của người chưa quen việc, chưa có kinh nghiệm. “Lúng túng như gà
mắc tóc” nói đến sự mất bình tĩnh của người quá nhiều việc, công việc dồn dập,
rối rắm. “Lúng túng như ngậm hột thị” chỉ sự ấp a, ấp úng, nói không nên lời,
không giải thích, biện bạch gì được.
1.1.2.4. Tính điệp và tính đối:
Tính điệp và tính đối của thành ngữ được thể hiện ở mặt quan hệ ngữ âm và
ý nghĩa của các thành tố tạo nên chúng.
Tính điệp: làm cho yếu tố của thành ngữ gắn liền với nhau thành một khối
có âm điệu hài hòa, dễ nhớ. Tính điệp của thành ngữ được thể hiện ở hai mặt: điệp
về mặt ngữ âm và điệp về mặt ngữ nghĩa.
Điệp về mặt ngữ âm: thành ngữ thường lặp lại phần vần hay phần đầu âm
11
tiết.
Ví dụ: thành ngữ “Chém to kho mặn”, do có sự lặp lại vần “o” ở hai từ “to”
và “kho” nên làm những thành tố của thành ngữ gắn liền với nhau tạo thành một
khối có âm điệu hài hòa, nhịp nhàng, dễ đọc, dễ nhớ.
Hay như thành ngữ “Kén cá chọn canh”, chính vì sự lặp lại âm tiết “c” ở hai
từ “cá” và “canh” làm những thành tố của thành ngữ gắn liền với nhau, tạo nên
một khối có âm điệu nhịp nhàng, hài hòa, dễ đọc, dễ nhớ.
Điệp về mặt ngữ nghĩa: thành ngữ thường sử dụng từ đồng nghĩa hay gần
nghĩa. Khi sử dụng từ đồng nghĩa vào trong thành ngữ thì thành ngữ sẽ hay hơn,
tránh lặp từ và tăng thêm ý nghĩa biểu đạt của nội dung thành ngữ.
Ví dụ: thành ngữ “Bán phấn buôn son”, ta thấy hai từ “bán” và “buôn” có
nghĩa tương đồng nhau, cả hai từ đều chỉ sự trao đổi giữa một bên là hàng hóa,
một bên là tiền bạc. Hay như thành ngữ “Hao binh tổn tướng”, rõ ràng hai từ
“hao” và “tổn” có nét tương đồng nhau về nghĩa, hai từ đều chỉ sự tiêu giảm về số
lượng hay chất lượng.
Tính đối: là giữa các bộ phận trong thành ngữ có sự đối xứng nhau. Tính
đối được thể hiện ở các mặt: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Về mặt ngữ âm: thành ngữ sử dụng những từ đối nhau theo quy luật bằng
trắc như sau:
Bằng – bằng – trắc – trắc
Ví dụ: Màn trời chiếu đất, nam thanh nữ tú, tiền trao cháo múc, tôn sư trọng
đạo, …
Trắc - trắc - bằng - bằng
Ví dụ: Nhắm mắt đưa chân, thở ngắn than dài, vạ gió tai bay, vợ dại con
thơ, …
Trắc – bằng – bằng – trắc
Ví dụ: Quỷ tha ma bắt, thuận mua vừa bán, uốn lưng quỳ gối, vững như bàn
thạch, …
12
Bằng – trắc – trắc –bằng
Ví dụ: Lời nói gió bay, tiền mất tật mang, thay ngựa giữa dòng, thua chị
kém em, …
Về mặt ngữ pháp: mỗi vế của thành ngữ gồm các từ cùng một từ loại, cùng
kiểu kết cấu và cùng chức năng ngữ pháp.
Ví dụ: thành ngữ “Vợ dại con thơ”, trong thành ngữ này ta thấy hai từ “vợ”
và “con” đều là danh từ, “dại” và “thơ” đều là tính từ; thành ngữ “vợ dại con thơ”
được cấu tạo bởi hai vế “vợ dại” và “con thơ”, hai vế này có cùng kiểu kết cấu là:
1 danh từ + 1 tính từ = 1 vế, và mỗi vế đều gồm hai thành tố giữ vai trò chủ - vị.
Về mặt ngữ nghĩa: thành ngữ sử dụng các từ trái nghĩa nhau hoặc có nghĩa
tương đồng nhau.
Ví dụ: thành ngữ “Đi đông đi tây”, đối nhau ở hai từ “đông” và “tây” cho
thấy sự mênh mông, từ tây sang đông có rất nhiều nơi, thành ngữ này chỉ sự đi
nhiều, biết nhiều. Ta có thể nói nhờ có tính đối mà giá trị biểu đạt của thành ngữ
sẽ cao hơn.
Chính bởi tính điệp và tính đối mà thành ngữ trở nên cân đối, hài hòa, dễ
thuộc, dễ nhớ; giàu nhạc tính và giá trị biểu đạt cao hơn.
1.1.3. Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ với tục ngữ:
1.1.3.1. Phân loại thành ngữ:
Trong mỗi công trình nghiên cứu của mỗi tác giả khác nhau thì có cách
phân chia thành ngữ khác nhau. Cụ thể, ta thấy có các cách phân chia như sau: dựa
theo các kết cấu cú pháp gốc của thành ngữ, dựa vào phạm vi sử dụng, dựa vào
chức năng biểu thị của thành ngữ, dựa vào sắc thái biểu cảm, …
- Dựa vào chức năng biểu thị, ta có các loại thành ngữ:
+ Thành ngữ biểu thị sự vật.
Ví dụ: Con Hồng cháu Lạc, núi cao sông dài, …
+ Thành ngữ biểu thị tính chất.
Ví dụ: Chân lấm tay bùn, sức dài vai rộng, chịu thương chịu khó, …
13
+ Thành ngữ biểu thị hành động.
Ví dụ: Nước đổ lá khoai, đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên, …
[15; tr.149]
- Dựa vào phạm vi sử dụng ta có các loại thành ngữ:
+ Thành ngữ đa phong cách.
Ví dụ: Con rồng cháu tiên, chôn nhau cắt rốn, chị ngã em nâng, …
+ Thành ngữ gọt giũa.
Ví dụ: Thanh thiên bạch nhật, môn đăng hộ đối, hương lửa ba sinh, …
+ Thành ngữ khẩu ngữ.
Ví dụ: Đầu trâu mặt ngựa, miệng hùm gan sứa, nói toạc móng heo, …
[13; tr.89]
- Dựa vào nguồn gốc, ta có hai loại thành ngữ cơ bản nhất là:
+ Thành ngữ thuần Việt.
Ví dụ: Núi cao sông dài, ba que xỏ lá, nước đổ đầu vịt, …
+ Thành ngữ gốc Hán.
Ví dụ: Thanh thiên bạch nhật, môn đăng hộ đối, đồng tâm hiệp lực, …
1.1.3.2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ:
Thành ngữ và tục ngữ có mối quan hệ gần gũi và có những nét tương đồng
nhau, vì thế rất dễ nhầm lẫn giữa hai thể loại dân gian này. Từ lâu đã có rất nhiều
ý kiến về việc phân biệt ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ.
Cù Đình Tú trong bài viết Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ
(Đăng trong Tạp chí ngôn ngữ – số 1/1973) ông quan niệm: “Thực ra, xét về nội
dung, tục ngữ cũng như thành ngữ đều là sự đúc kết kinh nghiệm, là kết tinh trí tuệ
của quần chúng, đều từ sự khái quát hóa hiện thực để rút ra bản chất, quy luật mà
có.” Ông cho rằng “sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác
nhau về chức năng” [15; tr.274].
Đồng quan điểm trên, trong giáo trình Văn học dân gian (phần hai), Trần
Văn Nam viết: “Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau
14
về chức năng. Thành ngữ là đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, dùng để
gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Về mặt này, thành ngữ là những đơn vị tương
đương như từ hoặc cụm từ. Chúng chỉ đưa đến cho ta một hình ảnh chứ chưa phải
một thông báo, một phán đoán, một câu trọn vẹn. Thành ngữ có tính chất như
những tấm “bê tông đúc sẵn”, những “bán thành phẩm” cần phải thêm những yếu
tố khác mới diễn đạt được phán đoán. Tục ngữ đứng ở góc độ ngôn ngữ học có
chức năng khác hẳn thành ngữ. Nó thông báo một nhận định, một kết luận về một
phương diện nào đó của thế giới khách quan. Mỗi câu tục ngữ là một câu hoàn
chỉnh diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng. Thành ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu
của khoa học ngôn ngữ. Còn tục ngữ tuy có nhiều mặt đáng được khoa ngôn ngữ
học chú ý đến, song về cơ bản cần được nghiên cứu như là một hiện tượng ý thức
xã hội, một hiện tượng văn hóa tinh thần của nhân dân lao động, trong đó biểu
hiện khá rõ ràng thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân lao động trong
một thời kì lịch sử nhất định” [11; tr.22].
Tục ngữ Nga có câu “Thành ngữ là hoa, tục ngữ là quả”. Câu tục ngữ này
phần nào đã nói lên được sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ một cách
hình ảnh và sinh động. Rõ ràng thành ngữ là “hoa” còn tục ngữ là “quả” ; thành
ngữ chỉ mang chức năng định danh, biểu thị một khái niệm còn tục ngữ là một
phát ngôn hoàn chỉnh, biểu thị một phán đoán, có chức năng thông báo.
Sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ được Cù Đình Tú trình bày qua
15
bảng sau:
Bảng 1.1.Bảng tóm tắt phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Thành ngữ Tục ngữ
Định danh: Thông báo: Chức năng
Gọi tên sự vật, tính Thông báo một nhận
chất, hành động. định, một kết luận về
một phương diện của
thế giới khách quan.
- Đại bộ phận là - Kết cấu hai trung Cấu tạo
kết cấu một trung tâm.
tâm. - Có thể có thêm
- Có thể thêm các các hư từ chỉ
trợ từ để nhấn quan hệ đã tỉnh
mạnh nội dung. lượt để làm rõ
mối quan hệ giữa
các bộ phận trong
thông báo.
Có khả năng độc lập tạo Vận dụng trong lời nói Dùng làm một bộ phận
để tạo thành câu. thành câu, cũng có khi
dùng làm một bộ phận
(Nguồn: Cù Đình Tú (1983). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp) [15; tr.278].
để tạo thành câu.
Tóm lại, thành ngữ và tục ngữ là sản phẩm của tư duy, kết tinh từ lời ăn
tiếng nói của dân tộc, lưu truyền những tri thức, kinh nghiệm, những triết lí về thế
giới quan và nhân sinh quan được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy
16
có nhiều nét tương đồng và có mối quan hệ khá gần gũi nhau, song thành ngữ và
tục ngữ là hai thể loại dân gian khác nhau và có ranh giới khác biệt rõ ràng. Khi
nghiên cứu về thành ngữ (hay tục ngữ) ta cần đặc biệt lưu ý, tránh gây nhầm lẫn
trong việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
1.2. Từ:
1.2.1. Các quan niệm và định nghĩa về từ:
Khái niệm về từ đầu tiên do các nhà nghiên cứu các ngôn ngữ Ấn – Âu đưa
ra. Họ tri nhận từ là một cái gì đó có sẵn, thực hiện một chức năng cụ thể. Từ đó
họ đưa ra một định nghĩa chung cũng như đặc điểm của từ rồi lấy đó làm căn cứ
để xét đến từ của các ngôn ngữ khác. Việc làm này xem ra có tính chất quy chụp,
chung chung bởi vì không thể lấy đó làm căn cứ để xem xét toàn bộ các thứ tiếng
Ấn – Âu, cụ thể khi áp dụng vào tiếng Việt thì không có sự phù hợp, vì:
- Từ trong tiếng Việt không biến hình.
- Có hiện tượng từ trùng hình vị.
- Nhiều từ ghép có mô hình giống kết cấu tự do. Chính vì vậy đã có ý kiến
tranh luận về từ, ranh giới từ và hình vị.
Dù đã có rất nhiều định nghĩa về từ nhưng chưa có một định nghĩa nào có
thể thỏa mãn được yêu cầu nghiên cứu của tất cả các nhà từ vựng học. Thậm chí
có những nhà khoa học cực đoan cho rằng không thể có được định nghĩa về từ.
Bởi khó khăn trong việc định nghĩa từ là do trong mỗi ngôn ngữ khác nhau có
những đặc điểm khác nhau. Hơn nữa, trong một ngôn ngữ biểu hiện hình thức và
nghĩa của các từ khác nhau cũng rất khác nhau. Do vậy mà trong nghiên cứu ngôn
ngữ luôn tồn tại hơn một định nghĩa về từ. Có thể kể đến các định nghĩa về từ
tiếng Việt như sau:
“Từ là đơn vị có tính chất tính hiệu tồn tại hiển nhiên trong ngôn ngữ ở
trạng thái tĩnh và thực hiện chức năng làm đơn vị nhỏ nhất để tạo câu khi ngôn
ngữ hành chức” [8; tr.17].
“Từ là một đơn vị của ngôn ngữ, gồm một hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ
17
nhất, có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu” [9; tr.17].
“Từ là đơn vị nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do (trong câu)”
[1; tr.38].
“Đó là những đơn vị mà với chúng ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp
và tư duy thông qua thao tác kết hợp chúng với nhau. Những đơn vị như vậy là từ”
[3; tr.12].
“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định bất biến, mang những
đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, lớn nhất
trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [16; tr.37].
1.2.2. Một số đặc điểm của từ tiếng Việt:
- Từ là đơn vị ngôn ngữ gồm một hoặc một số âm tiết, có nghĩa nhỏ nhất.
- Từ có cấu tạo hoàn chỉnh.
- Từ có khả năng vận dụng tự do để tạo câu.
1.2.3. Tìm hiểu về lớp từ chỉ động vật trong tiếng Việt:
Đây là lớp từ riêng dùng để chỉ loài vật và có biệt loại.
Ví dụ: trâu, bò, dê, ngỗng, gà, vịt, heo, …
Về ngữ pháp, danh từ chỉ động vật có khả năng kết hợp với các đơn vị như:
- Kết hợp với đại từ tổng thể.
Ví dụ: tất cả gà, vịt đã được nhốt vào chuồng.
- Kết hợp với số từ (có từ chỉ loại ở giữa).
Ví dụ: nhà tôi có nuôi hai con heo.
- Kết hợp với cái chỉ xuất (có từ chỉ loại ở giữa).
Ví dụ: cái con chó này dữ quá.
Nhìn chung, danh từ chỉ động vật chỉ có thể kết hợp với danh từ chỉ loại
“con” (con gà, con khỉ, con mèo, …) tuy nhiên có khi chúng cũng kết hợp được
với danh từ chỉ loại “cái” (cái cò, cái vạc, cái nông, …).
“Sở dĩ có sự kết hợp này là nhằm để biểu thị thái độ, tình cảm của người nói
18
đối với sự vật được nêu lên ở danh từ chỉ động vật. Ngoài ra cũng có thể dùng
những danh từ chỉ loại lâm thời như: anh, chị, lão, … để nhằm nhân hóa sự vật,
loài vật” [16; tr.62].
19
Ví dụ: anh mèo mướp, chị cốc, lão chim trả, …
CHƢƠNG 2: GIÁ TRỊ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
Bằng các phương thức ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, các thành ngữ tiếng Việt đã
mượn những hình ảnh, đặc điểm, bản năng, bản tính,… của những con vật có thực
hoặc không có thực (trong tưởng tượng, truyền thuyết) để biểu trưng cho con
người một cách khái quát, phổ biến.
Những động vật có thực ta thường bắt gặp trong thành ngữ là: những động
vật trên cạn (trâu, bò, dê, ngỗng, …), những động vật trên không (bìm bịp, diều
hâu, cò, vạc, …) và những động vật sống dưới nước (cua, cá, dã tràng, lươn,
chạch, …). Ngoài ra còn có những con vật không có thực mà chỉ tồn tại trong
truyền thuyết, trong tưởng tượng như: rồng, phụng, loan, lân, …
Để quá trình nghiên cứu đề tài “Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt”
được khách quan và cụ thể hơn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 500 câu thành ngữ
có chứa các từ chỉ động vật tiếng Việt và thu được kết quả như sau:
Bảng thống kê từ chỉ động vật đƣợc sử dụng trong thành ngữ tiếng
Việt.
Từ gọi tên động vật có thực Từ gọi tên động vật
không có thực (chỉ có Động vật Động vật Động vật
trong truyền thuyết, trong trên cạn trên không dưới nước
tưởng tượng)
Số lần
Xuất hiện 263 154 74 9
Tỉ lệ
phần trăm 52,6% 30,8% 14,8% 1,8%
(Kết quả khảo sát 500 câu thành ngữ tiếng Việt có chứa các từ chỉ động vật)
2.1. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật có thực:
20
2.1.1. Động vật trên cạn:
Đây là lớp động vật được nhắc đến nhiều nhất trong thành ngữ, lớp động vật
này có đặc điểm chung là sống di chuyển bằng chân trên mặt đất, không biết bay,
có thể biết bơi nhưng không sống được dưới nước. Lớp động vật này vừa là thú
nuôi trong nhà, vừa là những động vật hoang dã sống trong tự nhiên như: trâu, bò,
dê, ngỗng, gà, vịt, chó, lợn, voi, ngựa,…
- Bò:
“Bò gầy leo dốc”, “bò” trong thành ngữ này dùng để chỉ tình trạng sức lực,
sức lao động của con người. Bò bình thường đi đứng đã không được nhanh nhẹn,
đã thế lại còn gầy, hơn nữa lại leo dốc thì thật là nặng nề, quá sức. Người ta dùng
“bò” để chỉ sức lao động của con người không đủ sức khỏe mà lại lao động quá
sức của mình, công việc quá nặng nề.
“Không voi bò làm lớn” là thành ngữ ám chỉ đến trường hợp kẻ bất tài gặp
thời, gặp thế nên kẻ bất tài được cất nhấc lên địa vị cao sang. “Bò” trong thành
ngữ này để chỉ kẻ bất tài gặp may. Bò xưa nay vốn là con vật tầm thường, không
thông minh, không khỏe mạnh, không dữ dằn, to lớn. Ấy vậy mà bò gặp may là
được cất nhấc lên làm lớn bởi vì xung quanh nó không có voi, trường hợp này
người ta dùng bò để chỉ những kẻ bất tài gặp may quả thật chí lí.
“Liệu bò đo chuồng” là thành ngữ nêu lên sự suy tính thật kĩ càng, nhắm
khả năng của mình, điều kiện mình có được tới đâu thì làm tới đó cho phù hợp. Từ
“bò” trong trường hợp này để chỉ cái khả năng, cái điều kiện mà mình có được.
Muốn làm chuồng bò ta phải ước lượng được kích thước của con bò rồi mới làm
chuồng thì mới thích hợp. Cũng như khi làm việc gì ta cũng phải xem khả năng,
điều kiện của mình có được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu.
“Mất bò mới lo làm chuồng” là thành ngữ nêu lên sự lo xa, tính toán đề
phòng những chuyện sắp xảy ra, không để việc xảy ra rồi mới cuống cuồng lo
lắng, cảnh giác thì chuyện đã quá muộn màng. “Bò” trong thành ngữ này để chỉ tài
21
sản hoặc vật mà mình sở hữu.
“Ngáy như bò rống” là thành ngữ dùng để chỉ những người xấu nết khi ngủ
ngáy rất to, cứ rít lên từng hồi. Từ “bò” trong thành ngữ này để chỉ đối tượng âm
thanh kéo dài, tần số lớn. Thành ngữ này được hình thành từ sự quan sát thực tế, vì
bò có tiếng rống rất to và kéo dài nên ta liên tưởng đến tiếng ngáy của con người.
“Tin bợm mất bò” là thành ngữ nói lên lòng tin đặt không đúng chỗ, vì cả
tin, tin người xấu (bợm) nên mất của cải, tài sản vốn dĩ thuộc về mình (bò). “Bò”
trong thành ngữ này chỉ tài sản, của cải thuộc về mình. Trong thực tế, những tay
bợm là những kẻ chuyên lừa bịp, lợi dụng lòng tin của người khác để chuộc lợi.
Và bò là tài sản khá quý, vì thế người ta dùng thành ngữ này để răn dạy chúng ta
đừng quá nhẹ dạ cả tin, để rồi có hối cũng đã muộn.
- Cáo:
“Cáo giả oai hùm” là thành ngữ ám chỉ những kẻ mượn danh nghĩa kẻ
mạnh để giương oai, lừa bịp, nạt nộ mọi người. “Cáo” trong thành ngữ này để chỉ
những người núp dưới bóng của người có quyền thế, mượn danh của họ để thị oai
hoặc làm điều xằng bậy. Loài cáo là loài khôn lanh, ranh mãnh nó có thể giả danh
chúa sơn lâm để ăn hiếp, bắt nạt những con thú khác là chuyện từng nghe nhiều
trong các câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn. Vì thế mà ta dùng nó để tượng trưng cho
những kẻ núp dưới bóng những người có quyền uy để thị oai, hiếp người.
“Mèo già hóa cáo”, thành ngữ này dùng để chỉ những người tinh ranh, càng
lớn tuổi, thời gian sống càng lâu thì càng thêm tinh khôn, ranh mãnh. “Cáo” trong
trường hợp này để chỉ hạng người khôn ngoan,quỷ quyệt. Câu thành ngữ này hình
thành dựa trên sự quan sát thực tế là bản tính của cáo rất khôn lanh, ranh mãnh.
“Nuôi cáo trong nhà” là thành ngữ nói lên việc nuôi dưỡng, giúp đỡ kẻ ranh
mãnh, độc ác, có thể rắp tâm phản bội, làm hại mình bất cứ lúc nào mà không hề
hay biết. “Cáo” trong ở đây để chỉ những người lấy oán báo ơn, lòng dạ phản bội.
Thành ngữ này đã dựa vào đặc tính riêng biệt của loài cáo là rất khôn lanh, cáu
22
kỉnh, để chỉ sự độc ác, trở mặt của con người.
“Vênh râu cáo” là thành ngữ chỉ sự đắc chí, thỏa mãn, hãnh diện với mọi
người xung quanh, với vẻ tự đắc. “Cáo” trong thành ngữ này chỉ kẻ tự cao, tự đắc,
tự thỏa mãn của con người. Vì bản tính khôn lanh hiếp đáp người khác của mình,
nên cáo được xem là loài thú tự kiêu, tự đại nhất.
- Chó:
“Bơ vơ như chó lạc nhà (đàn)” là thành ngữ nói đến cảnh sống đơn chiếc
một thân một mình của người nào đó ở nơi đất khách quê người, không ai là
người thân thích. “Chó” trong thành ngữ này chỉ những người tứ cố vô thân không
nơi nương tựa.
“Chó ăn thịt chó” là thành ngữ ám chỉ những người cùng chung hoàn cảnh
khốn khổ như nhau, lại không biết yêu thương đùm bọc nhau lại còn đan tâm hại
nhau. “Chó” trong trường hợp này để chỉ hạng người bất nhân, tàn ác.
“Chó cắn áo rách” là thành ngữ để chỉ sự túng thiếu cùng cực lại còn bị kẻ
xấu làm hại, bóc lột thêm. “Chó” trong trường hợp này để chỉ kẻ bất lương, làm
hại người khốn khó.
“Chó có váy lĩnh” là thành ngữ chỉ những kẻ vốn xấu xí lại đua đòi, chưng
diện một cách quá lố bịch, chướng mắt. “Chó” trong trường hợp này là để chỉ
những kẻ đua đòi, chưng diện màu mè không phù hợp với hoàn cảnh của mình. Do
chó là loài động vật thấp hèn, xấu xí nên những tính khí xấu, mang vẻ “âm tính”
của con người thường được gán với chó.
“Chó chê mèo rậm lông” là thành ngữ ám chỉ những kẻ mà bản thân mình
không tốt đẹp gì lại còn chê bai người khác. “Chó” trong thành ngữ này để nói đến
những người hay xăm soi, chê bai người khác trong khi bản thân mình cũng chẳng
tốt đẹp gì. Đặc tính của chó là hay sủa, gặp ai, cái gì nó cũng gâu gâu, oẳng oẳng.
Dựa vào đặc tính này người ta dùng chó để ám chỉ những người hay xăm soi, chê
bai người khác xem ra cũng không quá đáng lắm.
“Chó đen giữ mực” ý nói những người bản chất xấu xa thì dù có xảy ra
23
chuyện gì rồi cũng vẫn vậy, đánh chết cũng không chừa. “Chó” trong thành ngữ
này để chỉ những người bản chất xấu xa, không biết hối cải, không biết hướng
thiện.
“Chó ngáp phải ruồi” là thành ngữ ám chỉ những kẻ tài thô trí thiển, nhưng
gặp được sự may mắn ngẫu nhiên thì lấy làm đắc ý. “Chó” trong trường hợp này
để chỉ những kẻ bất tài vô dụng lại tình cờ gặp may. Hình ảnh chó ngáp vô tình lại
bắt được ruồi thì quả thật may mắn, một sự may mắn dun rủi tình cờ, chó không
phải tốn công sức, không cần phải mưu trí hay tài nghệ gì, vậy mà cũng bắt được
ruồi. Dựa vào hình ảnh này người ta liên tưởng đến những kẻ bất tài vô dụng chỉ
cần một sự may mắn tình cờ lại có thể thu được lợi.
“Chó tha đi mèo tha lại” là thành ngữ chỉ những người quá tầm thường, mạt
hạng, không ai muốn ngó ngàng tới, dùng tới. “Chó” ở đây để chỉ sự chê bai một
cách thậm tệ.
“Khổ như chó” là thành ngữ chỉ cảnh sống nghèo khổ, cơm không đủ no, áo
không đủ ấm, phải làm lụng vất vả, khổ sở mà không thoát khỏi cảnh túng quẫn.
“Chó” trong trường hợp này để chỉ những người quá nghèo, quá khổ. Chó là loài
động vật người ta cho là khổ nhất trong các loài động vật. Là vật nuôi trong nhà
nhưng chó vừa bị đánh ,bị chửi, có khi còn bị bỏ đói; ngày xưa người ta nuôi chó
để… dọn phân cho trẻ. Dựa vào nỗi khổ của chó mà người ta dùng thành ngữ này
để chỉ những người quá khổ, khổ như chó.
“Lang lảng như chó cái trốn con” là thành ngữ ám chỉ sự cố tình lẩn tránh
thiên hạ vì sợ bị người ta đụng chạm đến điều mình che giấu. “Chó” trong thành
ngữ này là để chỉ kẻ lảng tránh, vờ vịt vì sợ người ta gọi đến mình.
“Lầu bầu như chó hóc xương” là thành ngữ chê bai lối mắng nhiếc dai dẳng,
khiến người nghe mệt óc. “Chó” trong thành ngữ này để ám chỉ những người ưa
nói dai, cứ đụng chuyện gì là lầu bầu nhằng nhử trong miệng mãi.
“Lên voi xuống chó” là thành ngữ sự thăng trầm của con người trong cuộc
sống, khi giàu khi nghèo, khi sang khi hèn không ai có thể lường trước được.
24
“Chó” trong thành ngữ này để chỉ sự nghèo khổ, thấp hèn khi không gặp thời. Voi
thì vóc dáng cao to, lại là con vật thiêng (theo quan niệm của người xưa ) còn chó
thì thấp lùn, lại là con vật hèn mọn, tầm thường. Thành ngữ này đã mượn sự đối
lập giữa hai hình ảnh voi và chó để chỉ cuộc đời thăng trầm lúc sang, lúc hèn, khi
giàu, khi nghèo của con người. Và chó tượng trưng cho sự nghèo khổ, thấp hèn
quả không sai.
“Mèo đàng chó điếm” chỉ loại người vô giáo dục, đầu đường xó chợ, chuyên
làm việc càn quấy, phá phách. “Chó” trong thành ngữ này chỉ hạng người không
ra gì, chuyên phá xóm phá làng khiến mọi người căm ghét.
“Ngay lưng như chó trèo chạn”, đây là thành ngữ ám chỉ sự lười biếng, chỉ
biết siêng ăn mà không siêng làm. “Chó” trong trường hợp này để ám chỉ những
kẻ lười biếng. Hình ảnh lúc chó trèo chạn thì ngay lưng thẳng đơ, giống như tướng
người lười biếng lưng cũng thẳng đơ như vậy. Dựa vào nét tương đồng này, người
ta dùng chó để chỉ hạn người làm biếng siêng ăn biếng làm.
“Thui chó nửa chừng hết rơm” là thành ngữ chỉ sự chuẩn bị thiếu chu đáo,
làm công việc dở dang. “Chó” trong thành ngữ này thể hiện công việc đang làm
giữa chừng thì bị bỏ dở. Đang thui chó nửa chừng mà hết rơm thì đúng là tức thật.
Đang làm việc mình ưa thích mình quan tâm, hoặc có lợi cho mình mà giữa chừng
buộc phải dừng lại thật là khó chịu. Người ta dùng chó để chỉ công việc đang làm
giữa chừng công việc dở dang thể hiện sự khó chịu ấm ức.
- Chuột:
“Ẩy mèo bắt chuột” là thành ngữ nói đến hành động của hạng người hiếu
chiến, hiếu sát trong xã hội, luôn luôn muốn tạo ra những cảnh đau thương, tang
tóc cho kẻ khác để thỏa mãn thú tính ác độc của mình. “Chuột” trong trường hợp
này để chỉ những kẻ bất nhơn, không ngay thẳng.
“Bày đường chuột chạy” là thành ngữ chỉ sự dung túng, bao che, tạo điều
kiện cho kẻ ác làm điều xấu. “Chuột” trong thành ngữ này để chỉ những người có
25
tâm địa xấu xa, không ngay thẳng.
“Cháy nhà ra mặt chuột”, thành ngữ này ý nói nhân biến cố đặc biệt mới
phát hiện ra tung tích của kẻ phá hoại, bộc lộ rõ bản chất của kẻ xấu xa, độc ác.
“Chuột” trong trường hợp này để chỉ những người xấu xa, từ lâu được che đậy,
ngụy trang, giờ mới bị phát giác.
“Chuột cắn dây cột mèo” là thành ngữ nêu lên những kẻ ngu si, nối giáo cho
kẻ thù giết hại thân nhân của mình, đe dọa tính mạng của mình, lại còn cho rằng
mình làm việc đó là đúng đắn. “Chuột” trong thành ngữ này để chỉ những người
ngu si khờ khạo, tự chuốt điều nguy hiểm cho mình.
“Chuột chạy cùng sào” là thành ngữ chỉ những người lâm vào thế bí, bước
đường cùng, vùng vẫy cách nào cũng không thoát được cảnh ngặt nghèo. “Chuột”
trong thành ngữ này chỉ những người bị lâm vào bước đường cùng.
“Chuột đội vỏ trứng”, thành ngữ này để chỉ những người xấu xa, đê tiện
phải núp dưới vẻ hào nhoáng bên ngoài để che giấu sự xấu xa bỉ ổi của mình.
“Chuột” trong thành ngữ này để chỉ những người lòng dạ xấu xa, đê tiện.
“Chuột sa chĩnh gạo” ám chỉ những người đang gặp vận bĩ bỗng vớ được
điều may khiến tiền vô như nước. Hoặc nói về một anh chàng kiết xác nào đó
bỗng vớ được cô vợ giàu lại đẹp. “Chuột” trong trường hợp này để chỉ những
người bỗng dưng có được vận may bất ngờ, làm thay đổi cả cuộc đời của họ.
“Đầu voi đuôi chuột” là thành ngữ ám chỉ những việc lúc khởi đầu thì khoa
trương, có vẻ to tát lắm, nhưng kết cục lại chẳng ra gì. “Chuột” trong thành ngữ
này để chỉ kết quả cuối cùng thu được nhỏ bé, không đáng kể.
“Hôi như chuột chù” là lời chê bai cay độc, nói đến sự ăn ở quá dơ bẩn, hôi
hám khiến người xung quanh không dám gần gũi. “Chuột” trong thành ngữ này để
chỉ sự hôi hám, dơ bẩn quá độ đến không chịu nổi.
“Lấm lét như chuột ngày” là thành ngữ chỉ sự lấm lét, sợ sệt đề phòng của
những người có chuyện giấu diếm không muốn ai biết hoặc những người có tâm
địa không ngay thẳng. “Chuột” trong thành ngữ này để chỉ những người có tâm
26
địa đen tối, không ngay thẳng.
“Mắt dơi mày chuột” là thành ngữ được dùng để chỉ hạng người gian xảo,
quỷ quyệt, chơi với ai cũng muốn hơn người ta, không chịu thua ai. “Chuột” trong
thành ngữ này để chỉ con người lanh lợi, khôn ngoan.
Thành ngữ “Ném chuột vỡ chum” để chỉ việc làm không mang lại kết quả gì
đáng kể mà còn gây ra tổn hại lớn. “Chuột” trong trường hợp này là tiêu điểm mà
con người hướng tới.
- Gà:
“Bìm bịp bắt gà con” là thành ngữ chỉ những người biết tự lượng sức mình
để làm những việc phù hợp với khả năng của mình, với điều kiện mà mình có
được. “Gà” trong thành ngữ này chỉ những công việc phù hợp với khả năng, với
công sức của mình.
“Bút sa gà chết” là thành ngữ khuyên ta khi đặt bút viết bất cứ điều gì cũng
nên suy nghĩ cho thật kĩ, vì khi viết ra giấy trắng mực đen thì phải chịu trách
nhiệm chứ không sao chối cãi được nữa. “Gà” trong thành ngữ này chỉ những
người phải chịu trách nhiệm với những gì mình viết ra.
“Cõng rắn cắn gà nhà” là thành ngữ chỉ việc làm của những kẻ phản phúc,
vì lợi ích riêng mà đan tâm cấu kết với người ngoài, với kẻ xấu để làm hại người
thân thiết, ruột thịt của mình. “Gà” trong thành ngữ này để chỉ những người thân
thuộc, có quan hệ gần gũi với mình.
“Đầu gà đít vịt” nói đến những chuyện không đâu ra đâu, không thống nhất.
Trong thành ngữ này, “đầu” đối với “đít”, “gà” đối với “vịt”. Gà và vịt là hai con
vật gần gũi bởi đều là hai gia cầm, tuy nhiên chúng khác biệt nhau. Do vậy lấy đầu
con này để ghép với đít con kia thì sẽ không ra con nào cả. “Gà” trong trường hợp
này để chỉ một phần của công việc hay câu chuyện.
“Gà mái đá gà cồ” là thành ngữ nói đến hạng đàn bà dữ tợn, ăn hiếp chồng,
giành quyền cai quản, quyết định mọi chuyện trong nhà. “Gà” trong thành ngữ này
27
để chỉ những người đàn bà dữ tợn, lấn quyền chồng, ăn hiếp chồng.
“Gà mượn áo công” là thành ngữ ám chỉ hành động dựa vào quyền uy của
kẻ khác để thị oai, lên mặt với những người xung quanh. “Gà” trong thành ngữ
này để chỉ những người có tính như vậy.
“Gà què bị chó đuổi” là thành ngữ chỉ tình thế đã xui nay lại gặp chuyện rủi
hơn, đã nghèo lại còn bị tai họa từ đâu giáng xuống. “Gà” trong thành ngữ này chỉ
những người đã xui, nghèo lại còn gặp chuyện không may khiến khó khăn thêm.
“Gà trống nuôi con” là thành ngữ nói lên cảnh góa vợ, phải một mình chăm
nuôi đàn con thơ dại. “Gà” ở đây dùng để chỉ người đàn ông góa vợ sống một
mình nuôi con.
“Gà tức nhau tiếng gáy” là thành ngữ chỉ tính cách đố kị, háo thắng của kẻ
không muốn ai hơn mình, nếu có ai hơn mình thì ghen tức, khó chịu. “Gà” trong
trường hợp này để chỉ những người háo thắng lại hay ghanh tỵ với người khác.
“Lăng xăng như gà mắc đẻ” là thành ngữ chỉ hành động lăng xăng lít xít,
nhất là khi gặp việc thì rối cả lên, không ngồi yên được. “Gà” trong thành ngữ này
chỉ những người tính tình lăng xăng, bộp chộp, không đằm thắm, bình tĩnh.
“Lép bép như gà mổ tép” là thành ngữ ám chỉ tính cách hay hành động ưa
cằn nhằn về lỗi lầm của người khác. “Gà” trong trường hợp này để chỉ những
người có tính hay nói nhiều, hay cằn nhằn người khác.
“Mặt tái xanh như gà cắt tiết” là thành ngữ chỉ trạng thái sợ hãi quá độ đến
nỗi thất thần, biến sắc mặt. “Gà” trong trường hợp này là đối tượng được so sánh
với vẻ biểu hiện của sự kinh hãi, rung sợ quá mức trước một việc gì đó.
“Nghe gà hóa cuốc” là thành ngữ chỉ sự lệch lạc, nghe không rõ nên hiểu sai
lời của người nói. “Gà” trong thành ngữ này chỉ việc người nói muốn đề cập tới.
“Như gà mất mẹ” là thành ngữ chỉ hoàn cảnh bơ vơ, sợ hãi như gà bị lạc
mất mẹ. “Gà” trong thành ngữ này để nói đến những người bị rơi vào hoàn cảnh
28
bơ vơ, nháo nhác, không nơi nương tựa.
“Phù thủy đền gà” dùng để ám chỉ việc làm không đạt kết quả, còn phải đền
bù phí tổn, dẫn đến bị thiệt hại nặng nề cả về vật chất lẫn danh tiếng. “Gà” trong
thành ngữ này chỉ sự đền bù vì không làm được việc.
“Thóc chắc nuôi gà rừng” là thành ngữ chỉ những việc làm phí công, phí
của vào những việc vô ích. “Gà rừng” trong trường hợp này để chỉ đối tượng đầu
tư vô ích, không mang lại lợi lộc gì mà còn phải phí công, phí của.
“Trói gà không chặt” là thành ngữ chỉ những người không quen lao động
nên làm gì cũng vụng về. “Gà” trong thành ngữ này để chỉ việc làm nhỏ nhoi, bình
thường.
- Gấu:
“Hỗn như gấu” là thành ngữ ám chỉ đến những thói hỗn láo của bọn trẻ
thiếu giáo dục đối với người lớn tuổi hơn mình. “Gấu” trong trường hợp này để
chỉ người hỗn láo, xấc xược đối với người lớn hơn mình.
- Hùm (hổ, cọp):
“Ăn như hùm đổ đó” là thành ngữ chỉ ám chỉ những người phàm ăn, vào
mâm thì không gắp từng miếng mà bưng cả bát trút vào miệng. “Hùm” trong
thành ngữ này để chỉ những người ăn uống thô tục, thiếu văn hóa.
“Dữ như hùm (cọp)” là thành ngữ ám chỉ tính cộc cằn, hung tợn, trên không
sợ ai, dưới thì thẳng tay đàn áp. “Hùm (cọp)” trong thành ngữ này để chỉ người
cộc tính, dữ dằn.
“Hùm tha sấu bắt” là thành ngữ nêu tình thế nguy hiểm khó khăn mà khó
tránh khỏi .“Hùm” trong thành ngữ này thể hiện sự nguy hiểm rình rập, đe dọa con
người.
“Khỏe như hùm như hổ”, thành ngữ này nói những người có sức khỏe tốt,
sức mạnh phi thường, sức chịu đựng dẻo dai. “Hùm” và “hổ” trong thành ngữ này
29
để chỉ sức khỏe phi thường, sức lao động dẻo dai.
“Kí ca kí cóp cho cọp nó ăn” là thành ngữ ám chỉ những người có tính hà
tiện, không dám ăn, không dám xài để cho bọn lưu manh lừa hoặc bọn ăn cướp vơ
vét sạch. “Cọp” trong thành ngữ này để bọn lưu manh hoặc ăn cướp.
“Làm hùm làm hổ” là thành ngữ chỉ sự hung hăng, dọa nạt một cách quá
đáng để bắt nạt, uy hiếp người ta. “Hùm” và “hổ” trong trường hợp này để chỉ sự
hung hăng, dữ tợn.
“Miệng hùm gan sứa” là thành ngữ ám chỉ những người miệng nói thì hùng
hổ, mạnh bạo lắm, nhưng thực chất thì sợ sệt, nhút nhát. “Cọp” trong trường hợp
này để chỉ cách nói năng mạnh bạo, dữ tợn.
“Thả hổ về rừng” là thành ngữ chỉ việc làm của những kẻ dại dột, thả kẻ
hung hãn, độc ác về môi trường sống quen thuộc của nó để nó mặc sức tung
hoành. “Hổ” trong trường hợp này để chỉ kẻ hung hãn, độc ác.
“Tránh hùm mắc hổ” là thành ngữ chỉ việc tránh kẻ hung hãn, độc ác này lại
gặp kẻ hung hãn, độc ác khác. “Hùm” và “hổ” trong thành ngữ này đều chỉ những
kẻ hung hãn, độc ác.
“Vuốt râu hùm” là thành ngữ chỉ những việc làm dại dột, liều lĩnh, nguy
hiểm đến tính mạng. “Hùm” ở đây chỉ sự nguy hiểm đe dọa đang rình rập.
- Hƣơu:
“Chỉ đường hươu chạy” là thành ngữ nói đến việc bày vẽ bao che, tạo điều
kiện cho kẻ khác làm điều xấu. “Hươu” trong thành ngữ này để chỉ kẻ được bao
che, dung túng làm điều xằng bậy.
“Nói hươu nói vượn” là thành ngữ chỉ việc nói bậy bạ, nói chuyện trên trời
dưới đất, không ăn nhập vào đâu cả. “Hươu” trong trường hợp này là để chỉ những
câu chuyện không đâu ra đâu, những câu chuyện ta hay gọi là tào lao.
- Khỉ:
“Dạy khỉ leo cây” là thành ngữ ám chỉ việc làm dư thừa, không cần thiết,
dạy bảo người thành thạo hơn mình. “Khỉ” trong trường hợp này để chỉ người
30
chuyên môn, người thạo việc.
“Khỉ ho cò gáy” là thành ngữ chỉ nơi hoang dã, xa xôi hẻo lánh, ít người
sinh sống. “Khỉ” trong thành ngữ này là tượng trưng của nơi rừng rú hoang sơ,
vắng vẻ.
“Rung cây nhát khỉ” là thành ngữ chỉ việc làm không được lợi ích gì, cũng
như lời dọa nạt nhằm đe dọa kẻ khác nhưng kết quả không đi đến đâu. “Khỉ” trong
thành ngữ này để chỉ đối tượng bị đe dọa nhưng trên cơ mình.
- Kiến:
“Con ong cái kiến” đây là thành ngữ ám chỉ những người thân phận bọt bèo,
hèn mọn, không đáng kể gì. “Kiến” trong thành ngữ này để chỉ thân phận hèn mọn
của những người bần cùng trong xã hội.
“Đông như kiến cỏ” là thành ngữ nói đến những nơi tụ hợp rất đông người,
đông đến nỗi không sao đếm xuể. “Kiến” trong thành ngữ này chỉ sự đông đúc, rất
nhiều người cùng tụ hợp lại.
“Khi kiến ăn cá khi cá ăn kiến” là thành ngữ chỉ sự thăng trầm trong đời
người, lúc lên voi khi xuống chó. “Kiến” trong trường hợp này để chỉ thân phận
hay thân thế của con người ở những giai đoạn khác nhau.
“Kiến bò miệng chén” là thành ngữ ngụ ý nói đến tình cảnh bế tắc, đường
cùng, quẩn quanh, không thể thoát ra được. “Kiến” trong thành ngữ này để chỉ
người rơi vào cảnh tù túng, quẩn quanh, không lối thoát.
“Lòng kiến dạ kiến” là thành ngữ ngụ ý nói những người bụng dạ hẹp hòi,
nhỏ nhen, ích kỉ. “Kiến” trong trường hợp này để chỉ sự nhỏ nhen, hẹp lượng.
- Lợn (heo):
“Cá cả lợn lớn” ý nói con cái trong nhà đã lớn khôn, đã trưởng thành.
“Lợn” trong thành ngữ này ý nói con cái trong nhà.
“Lợn lành chữa lợn toi” là thành ngữ ám chỉ sự vụng về, bất tài, không làm
nên được công việc gì có kết quả như ý. “Lợn” trong thành ngữ này chỉ công việc
31
mà người ta làm hay bỏ công sức.
“Lợn trong chuồng thả ra mà đuổi”, ý thành ngữ này nói là vận may đến với
mình mà để tuộc khỏi tầm tay. “Lợn” trong trường hợp này là để chỉ vận may, cơ
hội trong đời người.
- Mèo:
“Ăn như mèo” là chỉ những người có cách ăn từ tốn, nhỏ nhẻ từng miếng
một, lại ăn ít. “Mèo” ở đây chỉ cách ăn từ tốn, nhỏ nhẻ.
“Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào” là thành ngữ nói đến hai đối tương đấu
đá với nhau, mà ai cũng có sở trường riêng của mình, chưa biết là ai sẽ thua, ai sẽ
thắng. “Mèo” trong thành ngữ này để chỉ người có sở trường, có bản lĩnh, dù phải
đấu đá với người khác thì cũng không có gì phải kinh sợ.
“Chửi chó mắng mèo” là lối chửi xéo, không chửi trực tiếp mà chửi người
này nhưng thực chất là nhắm vào người kia. “Mèo” trong thành ngữ này để chỉ đối
tượng “được nhắm” đến thực sự thông qua việc chửi một đối tượng khác.
“Đá mèo quèo chó” là thành ngữ chỉ người hiểm độc, chửi người này nhưng
lại chửi xiên, chửi xéo luôn người khác để dằn mặt, bắn một mũi tên mà nhắm đến
hai con chim. “Mèo” trong trường hợp này để chỉ đối tượng được dùng làm
phương hướng để nhắm đến đối tượng khác.
“Im ỉm như mèo ăn vụng” là thành ngữ chỉ thái độ cố tình che giấu của
những kẻ phạm lỗi, hoặc những kẻ xấu bụng thấy có điều lợi thì giấu giếm, hưởng
trọn một mình. “Mèo” ở đây để chỉ những người có lòng dạ hẹp hòi, xấu xa.
“Làm như mèo mửa” là chỉ những cách làm việc tắc trách, không đến nơi
đến chốn, đáng khinh. Thành ngữ này so sánh giữa làm và mèo mửa, do đó “mèo”
trong thành ngữ này có nghĩa là công việc đã hoàn tất mà kết quả chẳng ra gì.
“Mèo già hóa cáo” thành ngữ này dùng để chỉ những người tinh ranh, càng
lớn tuổi, thời gian sống càng lâu thì càng thêm tinh khôn, ranh mãnh. “Mèo” ở đây
32
chỉ những người tinh ranh, khôn ngoan.
“Mèo khen mèo dài đuôi” là thành ngữ nói đến những người tự mình đề cao
mình, tự cho mình là đẹp, là hay, là giỏi hơn người. “Mèo trong thành ngữ này để
chỉ những người có tính kiêu căng, tự phụ.
“Mèo lại hoàn mèo” chỉ những người không bằng lòng với những thứ mình
có, muốn đạt được những điều cao xa, nhưng rồi cũng phải chấp nhận với những
thứ mà mình có, không thể đổi khác được. “Mèo” trong thành ngữ này để chỉ
những người có tính hay mơ mộng hão huyền, đèo bồng sang cả nhưng rồi cũng
phải chấp nhận hiện thực không có gì của mình.
“Mèo mả gà đồng” thành ngữ này chỉ những người vô lại, hạng trai thì
trộm cướp, gái lăng loàn đĩ thõa, chuyên phá rối xóm làng, ai cũng khinh ghét.
“Mèo” trong trường hợp này để chỉ những hạng người không ra gì, bị xã hội lên
án, xem thường.
“Mỡ để miệng mèo” là thành ngữ chỉ tình thế trai gái được dịp gần gũi để
xảy ra cớ sự. “Mèo” trong trường hợp này là chỉ người con trai được có cơ hội
sớm hôm cận kề người con gái.
“Như mèo thấy mỡ” là thành ngữ ám chỉ những hành động vồ vập do quá
thèm muốn, ham thích của một người nào đó. “Mèo” trong thành ngữ này để chỉ
những người không kiềm chế được, tỏ ra vồ vập, luýnh quýnh khi thấy được thứ
mà mình ưa chuộng, ao ước.
- Ngựa:
“Bóng câu qua cửa sổ”, thành ngữ này nêu lên sự trôi qua của thời gian.
“Câu (ngựa tơ)” trong thành ngữ này để chỉ thời gian trôi rất nhanh.
“Lên xe xuống ngựa” là thành ngữ chỉ sự giàu sang sung sướng của người
nhà giàu, có quyền thế. “Ngựa” trong thành ngữ này để chỉ phương tiện đi lại của
những người nhà giàu.
“Ngựa non háu đá” là thành ngữ nêu lên sự háo thắng của những người trẻ
tuổi. “Ngựa” trong trường hợp này để chỉ những người trẻ tuổi chưa từng trải nên
33
hung hăng, ngạo mạn, không biết nể sợ ai.
“Ngựa quen đường cũ” là thành ngữ ý nói người phóng túng, hư hỏng thì rất
khó sửa đổi được vì đã quen lối sống như vậy. Dù có sửa đổi thì một thời gian sau
cũng tái phạm lỗi lầm cũ. “Ngựa” trong trường hợp này để chỉ người từng sai
phạm, hư hỏng dù có sửa đổi nhưng rồi cũng tái phạm.
“Thay ngựa giữa dòng” là thành ngữ ám chỉ việc thay đổi tay sai, đầy tớ
giữa chừng, giữa cuộc. Tìm điều kiện mới tốt hơn giữa lúc điều kiện cũ vẫn còn
tác dụng. “Ngựa” ở đây để chỉ người đồng hành (bạn, đầy tớ, tay sai cùng đi một
chuyến hành trình với mình).
“Thẳng ruột ngựa”là thành ngữ ý nói đến người thẳng thắn, bộc trực, thiếu
ý tứ trong giao tiếp, nghĩ sao là nói ra làm vậy, không biết lèo lái, che giấu.
“Ngựa” trong thành ngữ này để chỉ tính bộc trực, thật tình của con người.
- Rắn (xà):
“Cõng rắn cắn gà nhà” là thành ngữ chỉ việc làm của những kẻ phản phúc,
vì lợi ích riêng mà đan tâm cấu kết với người ngoài, với kẻ xấu để làm hại người
thân thiết, ruột thịt của mình. “Rắn” trong thành ngữ này để chỉ kẻ thù địch, kẻ
gian ác.
“Khẩu phật tâm xà” là thành ngữ ám chỉ những người miệng nói ra toàn lời
đạo đức, nhân nghĩa, nhưng thực chất tâm địa vô cùng hiểm ác, thâm độc. “Xà”
trong trường hợp này chỉ lòng dạ độc ác, hiểm sâu.
“Khẩu xà tâm phật” là thành ngữ chỉ những người ăn nói thì bặm trợn, ác
nhân, nhưng tâm địa lại rất tốt, rất hiền lành. “Xà” trong trường hợp này để chỉ
những lời nói cộc cằn, ác khẩu.
“Rắn con hăm nuốt cá voi” là thành ngữ ám chỉ đến những người có tính tự
kiêu, làm việc gì không biết lượng sức mình. “Rắn trong thành ngữ này chỉ những
người có tính tự kiêu, không biết trời cao đất dày, tự cho mình là hay, là tài giỏi
34
hơn thiên hạ.
“Rắn đổ nọc cho lươn” là thành ngữ ý nói kẻ gây ác lại đổ trút, vu oan cho
người hiền lành vô tội. “Rắn” trong thành ngữ này để chỉ những kẻ gian ác, hiểm
độc, chơi trò ném đá giấu tay.
“Vẽ rắn thêm chân” là thành ngữ nói đến những kẻ ưa bày vẽ những chuyện
không có thật. “Rắn” ở đây dùng để chỉ những việc hay đối tượng mà người ta nói.
- Rận:
“Đầu chấy váy rận” là thành ngữ ám chỉ những người ăn ở dơ bẩn quá độ,
trông gớm ghiếc. “Rận” trong thành ngữ này để chỉ sự ăn ở dơ bẩn, mất vệ sinh.
“Giận con rận đốt cái áo” là thành ngữ khuyên ta nên bình tĩnh, kiềm chế
cơn nóng giận để giải quyết sự việc cho hợp tình hợp lí. Nóng nảy thì chỉ có hại
mà thôi. “Rận” trong trường hợp này để chỉ sự việc, nguyên nhân làm ta bực tức.
“Trứng khôn hơn rận” là thành ngữ ám chỉ bọn trẻ hiểu biết chưa tới đâu mà
đã đòi hơn người lớn, tưởng mình khôn lanh, tài giỏi hơn người lớn. “Rận” trong
thành ngữ này để chỉ người lớn tuổi, từng trải, hiểu biết nhiều.
- Sâu:
“Con sâu bỏ rầu nồi canh”, ý của thành ngữ này nói một phần tử xấu làm
ảnh hưởng đến cả tập thể. “Sâu” trong thành ngữ này chỉ phần tử xấu gây ảnh
hưởng cho tập thể.
“Rau nào sâu nấy”, thành ngữ này ý nói con cái chịu ảnh hưởng sâu nặng
đến những thói hư tật xấu của cha mẹ chúng. Bố mẹ không tốt thì con cái cũng xấu
xa, hư hỏng. “Sâu” trong thành ngữ này để chỉ những đứa con hư hỏng do bị ảnh
hưởng từ bố mẹ chúng.
“Vạch lá tìm sâu” là thành ngữ ám chỉ việc tìm tòi một cách quá tỉ mỉ những
khuyết điểm không đáng kể, kẻ soi mói, nhỏ nhặt. “Sâu” trong trường hợp này để
chỉ những khuyết điểm nhỏ nhặt, không đáng kể.
35
- Sƣ tử:
“Lừa đội lốt sư tử” là thành ngữ ám chỉ những kẻ bất tài vô tướng dựa vào
quyền thế của kẻ khác để hống hách với mọi người. “Sư tử” trong trường hợp này
để chỉ những người có quyền, có thế.
- Tằm:
“Như tằm ăn rỗi” là thành ngữ nói đến sự ăn uống quá tốn kém của nhà
đông con, mà con lại ở tuổi đang lớn. “Tằm” trong câu này để chỉ kẻ gây hao tốn
nhiều.
“Như tằm rút ruột” là thành ngữ ý nói đến sự đau đớn đến tột cùng. “Tằm”
trong thành ngữ này để chỉ đối tượng đau đớn tột độ về tinh thần hoặc thể xác.
“Trăm dâu đổ đầu tằm” là thành ngữ ám chỉ trăm công ngàn việc chỉ đổ dồn
vào một người, khiến họ làm không hở tay mà vẫn không kịp. “Tằm” trong trường
hợp này để chỉ những người bị gánh chịu quá nhiều việc, quá bận rộn.
- Thỏ:
“Miệng cọp gan thỏ” là thành ngữ ý nói miệng thì nói mạnh dạn, bạo gan
lắm, nhưng thực chất là nhút nhát, sợ sệt. “Thỏ” trong thành ngữ này để chỉ sự
nhát gan, sợ sệt.
“Ôm cây đợi thỏ” là thành ngữ thường được dùng để phê phán hành vi chờ
đợi cầu may một cách vô ích, ngốc nghếch. “Thỏ” trong trường hợp này chỉ sự
may mắn.
- Trâu (nghé):
“Cưa sừng làm nghé” là thành ngữ ám chỉ những người đã lão luyện, già
dặn rồi mà cứ vờ thơ ngây hầu đánh lừa kẻ khác. Hoặc người đã cao tuổi lại chưng
diện, làm dáng như ta đay vẫn còn xuân sắc lắm. “Nghé” trong trường hợp này để
chỉ những người trẻ trung, thơ ngây.
“Dắt trâu chuôi qua ống”, thành ngữ này ám chỉ những kẻ ngu si khờ khạo,
làm việc gì cũng không biết tính toán cân nhắc, suy tính cho thấu đáo. “Trâu”
36
trong thành ngữ này để chỉ việc làm không có tính toán, cân nhắc thiệt hơn.
“Đàn gảy tai trâu” dùng để chỉ những hành động phí công vô ích, đưa cái
hay cái tốt đến cho người không hiểu biết. Từ “trâu” trong trường hợp này để chỉ
người không hiểu biết.
“Khỏe như trâu” là thành ngữ chỉ sức khỏe phi thường, sức chịu đựng dẻo
dai của con người. Từ “trâu” trong trường hợp này để chỉ sức lao động của con
người.
“Không có trâu bắt bò đi đẩm”, câu thành ngữ này dùng để chỉ điều cực
chẳng đã, không có người chuyên môn, người thạo việc nên phải để người khác
làm thay. Từ “trâu” trong thành ngữ này để chỉ người chuyên môn, người thạo
việc.
“Làm thân trâu ngựa”, câu thành ngữ này dùng để chỉ hoàn cảnh cơ cực, tủi
nhục của những người làm nô lệ. Từ “trâu” trong thành ngữ này chỉ thân phận cơ
cực, tủi nhục, thấp hèn.
“Sẩy đàn tan nghé” là thành ngữ ý nói việc cha mẹ qua đời sớm, bỏ lại con
cái nheo nhóc, tan tác hoặc một tập thể mất đi người đứng đầu. “Nghé” trong
trường hợp này để chỉ những đứa con bơ vơ không cha không mẹ, hoặc người
trong một tập thể bị mất đi thủ trưởng nên tan tác, bơ vơ.
“Trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết” là thành ngữ chỉ sự tranh chấp, xung đột
giữa hai bên kẻ mạnh khiến cho những người dưới quyền, yếu thế hơn xung quanh
bị liên lụy. Vậy từ “trâu” trong thành ngữ này để chỉ kẻ mạnh, có quyền, có thế.
“Trâu buộc ghét trâu ăn” là thành ngữ chỉ sự ghen ghét, đố kị vì thấy người
khác được hưởng sự sung sướng, hay quyền lợi hơn mình. Từ “trâu” trong trường
hợp này để chỉ hai đối tượng đố kị nhau, ghen ghét nhau.
- Vịt:
“Mẹ gà con vịt” là thành ngữ ám chỉ cảnh sống của người đàn bà với những
đứa con không phải do mình đẻ ra. “Vịt” trong thành ngữ này là để chỉ những đứa
37
con nuôi, con riêng của chồng.
“Như vịt nghe sấm” là thành ngữ ý nói người dốt nát, người chậm hiểu,
nghe người ta nói chẳng biết mô tê gì. “Vịt” ở đây để chỉ người chậm hiểu, người
dốt nát.
“Nước đổ đầu vịt” là thành ngữ là thành ngữ ý nói việc khuyên bảo, dạy dỗ
hoài công vô ích, vì người nghe không để tâm học hỏi, không tiếp thu. “Vịt” trong
thành ngữ này để chỉ những người lì lợm, cứng đầu cứng cổ, không chịu nghe lời
khuyên dạy của ai.
“Ông nói gà bà nói vịt” là thành ngữ ý nói mỗi người một phách, không
hiểu ý, không thống nhất quan điểm với nhau. “Vịt” trong trường hợp này để chỉ
lập trường, quan điểm riêng của mỗi người.
“Thấp như vịt” là thành ngữ ám chỉ những người có chiều cao quá “khiêm
tốn”. “Vịt” trong thành ngữ này để chỉ người thấp lè tè, khó coi.
“Trứng khôn hơn vịt” là thành ngữ chỉ bọn trẻ con hiểu biết chưa tới đâu mà
đòi khôn hơn người nhiều tuổi, từng trải. “Vịt” trong thành ngữ này để chỉ những
người lớn tuổi, già dặn kinh nghiệm, có nhiều hiểu biết.
“Vạ vịt chưa qua vạ gà đã đến” là thành ngữ chỉ những tai vạ, rủi ro đến
dồn dập, chưa thoát rủi ro này thì rủi ro khác lại đến. “Vịt” trong trường hợp này
để chỉ những xui xẻo, những tai họa ập đến.
- Voi:
“Ba voi không được bát nước xáo” là thành ngữ dùng để ám chỉ những
người hay nói dối, nói khoác, nói không đúng sự thật. “Voi” trong thành ngữ này
để chỉ việc được nói thì rất quy mô, rất dữ dội, nhưng sự thật thì chẳng đáng là
bao.
“Buộc chỉ chân voi” là thành ngữ ngụ ý nói làm chuyện tào lao, làm cho có
lệ chứ không mang lại hiệu quả. “Voi” trong thành ngữ này để chỉ việc làm được
38
làm cho có, hoặc làm tạm bợ, không chắc chắn.
“Đầu voi đuôi chuột” là thành ngữ ám chỉ đến sự việc gì mà mở đầu thì có
vẻ khoa trương vĩ đại, nhưng kết cuộc lại không ra gì. “Voi” trong trường hợp này
để chỉ quy mô của sự việc to lớn, tầm cỡ.
“Được voi đòi tiên” là thành ngữ ám chỉ những kẻ tham lam, không bằng
lòng với những thứ mình có, trong lòng nuôi nhiều tham vọng. “Voi” trong trường
hợp này để chỉ những thứ mình đang có nhưng vẫn không bằng lòng.
“Lẩm cẩm như ông xẩm sờ voi” là thành ngữ ngụ ý chê bai những người
không thấy xa trông rộng mà tự cho mình là xuất chúng hơn người. “Voi” trong
trường hợp này để chỉ sự thiển cận, kém hiểu biết.
“Lấy thúng úp voi” là thành ngữ chỉ việc cố tình che giấu điều sai trái quá
lớn và quá lộ liễu. “Voi” trong thành ngữ này để chỉ những sự việc, những điều sai
trái quá to tát, không thể che giấu được.
“Lừ đừ mắt voi” là thành ngữ ám chỉ người tính tình kín đáo, lúc nào mặt
cũng “lạnh như tiền”, nghi ngờ lòng dạ của kẻ khác. “Voi” ở đây dùng để chỉ
những người lúc nào cũng lạnh lùng, thờ ơ, không muốn gây thiện cảm với ai.
“Theo voi hít bã mía” là thành ngữ ngụ ý cười chê những người dại dột chạy
theo đuôi kẻ khác để hi vọng kiếm chút lợi lộc thừa thải mà sống, nhưng rốt cuộc
lại chẳng được gì. “Voi” trong thành ngữ này để chỉ những người có quyền, có
thế.
“Thiếu voi phải dùng ngựa” là thành ngữ chỉ việc sử dụng gượng ép vì hoàn
cảnh thiếu thốn, không đáp ứng đủ nhu cầu. “Voi” trong thành ngữ này để chỉ nhu
cầu cần thiết không được đáp ứng đủ.
“Thừa giấy vẽ voi” là thành ngữ ý nói việc làm thừa thải, phí công, vô bổ.
“Voi” trong trường hợp này để chỉ việc làm dư thừa, vô ích.
“To như voi” là thành ngữ chỉ những người có vóc hình to lớn, kềnh càng,
39
thô kệch. “Voi” trong thành ngữ này để chỉ tầm vóc to lớn quá khổ.
“Trói voi bỏ rọ” là thành ngữ ám chỉ những người ăn nói khoác lác, toàn
chuyện phi lí, không sao tin được. “Voi” ở đây dùng để chỉ cách nói khoác lác, nói
không đúng sự thật.
-Vƣợn:
“Chim kêu vượn hú” là thành ngữ chỉ cảnh hoang dã buồn thảm ở nơi thâm
sơn cùng cốc. “Vượn” trong thành ngữ này để chỉ nơi hoang dã, vắng người.
“Hứa hươu hứa vượn” có nghĩa là lời hứa hẹn không có bảo đảm gì, hứa
cho qua chuyện vậy thôi. “Vượn” trong trường hợp này để chỉ sự chông chênh,
mong manh không có gì chắc chắn.
Qua những điều vừa khảo sát trên, ta có thể thấy rằng người xưa đã dựa vào
nét tương đồng giữa sự vật, sự việc hay đối tượng được nói đến với hình dáng, bản
năng hay bản tính vốn có của con vật trong tự nhiên để từ đó đưa ra một hình ảnh
của con vật được ẩn dụ, so sánh hay hoán dụ để chỉ con người, hành động hay tính
chất có nét tương đồng.
Ví dụ: “Bò” là loài vật có giá trị về kinh tế, lại cao to có sức khỏe nên “bò”
trong thành ngữ tiếng Việt thường được dùng để chỉ tài sản hoặc vật mình sở hữu
hay sức lao động, sức chịu đựng của con người.
Hay “cáo” thì thường được dùng để chỉ những người khôn ngoan, quỷ
quyệt, lấy oán báo ơn, tâm địa phản trắc hoặc những kẻ tự cao tự đại, tự thỏa mãn
về mình. Có được điều này là do người ta dựa vào thực tế bản tính rất khôn lanh,
ranh mãnh, hống hách của loài cáo.
Chẳng hạn như “chó” trong thành ngữ tiếng Việt thường được dùng để chỉ
những tính khí xấu, mang vẻ âm tính của con người như: sự bất nhân, tàn ác, xấu
xa, không biết hướng thiện, lười biếng, nói dai… hoặc có khi “chó” để chỉ những
người quá nghèo, quá khổ, mang thân phận thấp hèn. Bởi từ thực tế ta có thể thấy
chó là loài động vật xấu xí, tầm thường, lại hay bị chủ đánh chửi, bỏ đói, rẻ rung
40
coi thường nên chẳng có tí gì sang cả, mang vẻ dương tính.
Hoặc như “chuột” là loài động vật sống chui rút, lén lút, phá hoại, vóc dáng
thì nhỏ bé lại nhanh nhẹn nên phần lớn “chuột” trong thành ngữ tiếng Việt thường
được dùng để chỉ những người có tâm địa xấu xa, đê tiện, không ngay thẳng
nhưng đôi khi trong một vài thành ngữ “chuột” được dùng để chỉ quy mô sự việc
nhỏ bé, hay thân phận hèn mọn, thấp cổ bé họng của con người.
“Hùm (hổ, cọp)” bản năng của chúng là ăn thịt và bản tính thì hung hăng,
dữ tợn nên trong thành ngữ tiếng Việt ta thấy chúng thường được dùng để chỉ
những người hung hăng, dữ tợn, độc ác hoặc sự nguy hiểm đe dọa, rình rập con
người.
“Kiến” thường được dùng để chỉ những sự việc quy mô nhỏ bé, không tầm
cỡ hay thân phận hèn mọn, tầm thường của con người hoặc sự nhỏ nhen, hẹp
lượng trong tính cách con người. Có được điều này là do người ta liên tưởng nét
tương đồng giữa hình dáng, kích cỡ bề ngoài của “kiến” với sự việc, đối tượng
được đề cập.
“Rắn” thì thường hay cắn người, lại có nọc độc rất nguy hiểm. Dựa vào
điểm này mà phần lớn “rắn” trong thành ngữ tiếng Việt thường chỉ những người
gian ác, thâm hiểm, tâm địa độc ác, xấu xa…
2.1.2. Động vật sống trên không:
Động vật sống trên không là những loài động vật có cánh, biết bay, di
chuyển được trên không. Khi nói đến các loài động vật này, thành ngữ thường
dùng danh từ chung là “chim” hoặc gọi tên cụ thể từng loài như: yến, oanh, dơi,
sáo, chích chòe, …
- Chim:
“Cá bể chim ngàn” là thành ngữ ý nói cuộc sống tự do tự tại, tha hồ bay
nhảy, không bị gò ép, bó buộc. “Chim” ở đây dùng để chỉ đối tượng sống tự do,
thoải mái, không bị bó buộc.
“Cá chậu chim lồng” là thành ngữ ngụ ý nói cuộc sống tù túng, bó buộc mất
41
tự do. “Chim” trong thành ngữ này để chỉ đối tượng sống bị ràng buộc, mất tự do.
“Đất lành chim đậu”, thành ngữ này ý nói nơi có điều kiện dễ làm ăn, nhiều
người tìm đến sinh sống. “Chim” trong trường hợp này chỉ điều kiện làm ăn thuận
lợi, phát đạt.
“Gạo tám xoan, chim ra ràng” chỉ những món ăn ngon mà chỉ những người
sành ăn mới được thưởng thức. “Chim” trong thành ngữ này để chỉ món ăn ngon,
bổ và rất đắt tiền.
“Lá gió cành chim” là thành ngữ chỉ người con gái lẳng lơ, nếu không cũng
làm nghề “đưa người cửa trước, đón người cửa sau” chứ chẳng nết na thuần hậu
gì. “Chim” trong thành ngữ này chỉ nếp sống phóng túng, phong lưu.
“Tăm cá bóng chim” là thành ngữ ý nói người đi xa không có tin tức, thư từ
gì hoặc nói những cái xa vời không thực tế. “Chim” trong trường hợp này để chỉ
những gì ở rất xa, không thực tế.
Bên cạnh đó, trong thành ngữ, còn có các loài chim được gọi tên cụ thể như:
“Ba hoa chích chòe” là thành ngữ ám chỉ những người có tính ba hoa, ưa
nói chuyện khoe khoang, thêm thắt, có ít xít ra nhiều, không đáng tin cậy. “Chích
chòe” trong thành ngữ này để chỉ những người lúc nào cũng luôn mồm, có khi
chưa thấy người đã nghe thấy tiếng.
“Biệt mong cà cưỡng” là thành ngữ nói đến sự vô ơn bạc nghĩa, mang ơn rồi
lại phủi ơn. “Cà cưỡng” trong trường hợp này để chỉ những người vô ơn bạc
nghĩa.
“Bìm bịp bắt gà con”, thành ngữ này ý nói những người bề ngoài hiền lành
ngờ nghệch nhưng thực chất đáo để, làm được những điều bất ngờ. “Bìm bịp”
trong thành ngữ này để chỉ những người bề ngoài hiền lành, ngờ nghệch nhưng lại
đáo để, làm những điều mà người xung quanh không ngờ tới.
“Bọ nẹt có dẻ cùi” là thành ngữ cho rằng mọi việc lớn nhỏ trên đời đều có
sự sắp đặt của trời đất: kẻ làm ác sẽ gặp ác, người ngang ngược sẽ có người cao
42
tay trừng trị. “Dẻ cùi” trong trường hợp này để chỉ kẻ cao tay, có bản lĩnh.
“Cà cuống chết đít vẫn còn cay” là thành ngữ chỉ sự ngoan cố, cố chấp, bảo
thủ ở một số người. “Cà cuống” trong thành ngữ này để chỉ những người ngoan
cố, bảo thủ.
“Cà cuống lội ngược” là câu thành ngữ ám chỉ những người làm việc gì
cũng có tính cách ngược ngạo khác người. “Cà cuống” ở đây chỉ sự trái khoái,
ngược ngạo, khác người.
“Cốc mò cò xơi” là thành ngữ ám chỉ việc người này đổ mồ hôi công sức ra
làm việc nhưng rốt cuộc lại bị kẻ khác tranh mất thành quả. “Cốc” trong thành ngữ
này để chỉ những người bỏ tâm trí, sức lao động của mình ra làm việc, cuối cùng
lại không hưởng được thành quả công việc của mình. Còn “cò” ở đây dùng để chỉ
hạng người gian ác, đi cướp công lao, thành quả của người khác để một mình
hưởng lợi.
“Cun cút được mấy hột lông” là thành ngữ ám chỉ kẻ tầm thường, bất tài,
nhưng lại tỏ ra ta đây tài giỏi, không thua kém một ai. “Cun cút” trong trường hợp
này để chỉ những người tài thô trí thiển mà lại có tính tự kiêu, tự đại.
“Đỉa đeo chân hạc” là thành ngữ ám chỉ những anh chàng có địa vị thấp hèn
mà lại đòi đèo bồng những tiểu thư sang cả. “Hạc” trong thành ngữ này để chỉ con
gái nhà quyền quý.
“Đục nước béo cò” là thành ngữ ý nói người ngoài sẽ lợi dụng sự xào xáo,
tranh chấp của ta để đứng ngoài hưởng lợi. “Cò” ở đây ý nói người gian ác, hiểm
độc, lợi dụng sự bất hòa, xào xáo của gia đình người khác để trục lợi.
“Gà mượn áo công” là thành ngữ ám chỉ đến người chuyên dựa vào quyền
uy của kẻ khác mà hợm hĩnh lên mặt với những người chung quanh. “Công” trong
thành ngữ này để chỉ người có uy quyền, có tiền, có thế.
“Hoài cành mại cho cú đậu” là thành ngữ ám chỉ đến cảnh duyên nợ trái
ngang giữa người con gái đẹp với anh chàng cộc cằn thô lỗ chẳng ra gì. “Cú”
43
trong trường hợp này để chỉ người chồng tầm thường, cộc cằn, thô lỗ.
“Hót như khướu” là thành ngữ ý nói người có tính khoe khoang, đi đâu cũng
nói về cái hay, cái đẹp của bản thân mình, gia đình mình. “Khướu” trong trường
hợp này để chỉ tính hay khoe khoang, phóng đại.
“Hôi như tổ cú” là thành ngữ ám chỉ đến những người ăn ở dơ bẩn quá độ,
hôi hám không ai dám đến gần. “Cú” trong thành ngữ này để chỉ sự dơ bẩn, hôi
hám quá độ, không chịu nổi.
“Lò dò như cò ăn đêm” là thành ngữ ám chỉ đến những người đi đứng quá
chậm chạp, làm việc gì cứ y như mò mẫm không linh hoạt chút nào. “Cò” trong
trường hợp này để chỉ những người chậm chạp, bê trễ.
“Lủi như cuốc” là thành ngữ ám chỉ hành động lẩn trốn vừa nhanh vừa kín
đáo của một người nào đó khiến không ai tìm ra tung tích được. “Cuốc” trong
thành ngữ này để chỉ hành động lẩn trốn nhanh, gọn và bí hiểm.
“Mắt bồ câu” là thành ngữ chỉ đôi mắt đẹp, to tròn và đen láy. “Bồ câu”
trong trường hợp này để chỉ người thanh tú, xinh đẹp.
“Mắt cú vọ” là thành ngữ chỉ người có tâm địa gian xảo, luôn luôn rình mò
sự sơ hở của người để hại người lợi mình (quan niệm xưa). “Cú vọ” trong thành
ngữ này để chỉ người gian xảo, hiểm ác.
“Nghe gà hóa cuốc” là thành ngữ ý nói nghe không rõ , sai lệch, hiểu sai
điều người ta nói. “Cuốc” trong trường hợp này để chỉ sự sai lệch, nhầm lẫn.
“Nhanh như cắt” là thành ngữ chỉ hành động cực nhanh, bất ngờ. “Cắt”
trong thành ngữ này để chỉ tốc độ hành động nhanh, có tính bất ngờ, chớp nhoáng.
“Nhảy chân sáo” là thành ngữ chỉ tâm trạng vui mừng, nhảy nhót tung tăng.
“Sáo” trong thành ngữ này chỉ sự linh hoạt, nhanh nhẹn, yêu đời.
“Quạ mổ diều tha” là thành ngữ chỉ hạng người rác rưởi, không ra gì, đáng
nguyền rủa. “Quạ” và “diều” trong thành ngữ này để chỉ những người đáng bị
44
khinh khi, nguyền rủa, loại người không ra gì.
“Tốt mã dẻ cùi” là thành ngữ ám chỉ những người có bề ngoài tốt đẹp,
bảnh bao nhưng thực chất là con người xấu xa, bất tài. “Dẻ cùi” trong thành ngữ
này để chỉ những người chỉ được vẻ bề ngoài, còn bên trong thì rỗng tuếch.
“Thóc đâu bồ câu đấy” là thành ngữ ý nói nơi nào có thể làm ăn sinh sống
được, có lợi cho mình thì người ta sẽ kéo đến. “Bồ câu” ở đây dùng để chỉ những
người nhanh nhẹn, linh hoạt, thức thời.
“Yến sớm oanh chiều” là thành ngữ chỉ người đàn ông có quan hệ tình cảm
không đúng đắn, nay gần gũi người này, mai yêu chiều người khác. “Yến” và
“oanh” trong thành ngữ này để chỉ người con gái xinh tươi, diễm lệ.
Ngoài ra, thành ngữ tiếng Việt còn sử dụng các từ chỉ động vật sống trên
không nhưng không thuộc lớp chim như: bướm (điệp), cào cào, chuồn chuồn, đom
đóm, muỗi, ong, ruồi, …
“Bọ ngựa chống xe” là thành ngữ chỉ những người tuy có chí khí nhưng
không đủ sức chống lại đối thủ, nên rốt cuộc cũng nếm mùi thất bại. “Bọ ngựa” ở
đây để chỉ những người trong cuộc chiến đấu “có lòng nhưng không đủ sức”.
“Bướm chán ong chường” là thành ngữ nói về người phụ nữ khi không còn
nhan sắc, tiết hạnh, bị thờ ơ lạnh nhạt, rẻ rúng coi thường. “Bướm” và “ong” để
chỉ sự lạnh nhạt coi thường của những người đàn ông đối với những phụ nữ không
còn trinh tiết và nhan sắc nữa.
“Cái tổ con chuồn chuồn” là thành ngữ tượng trưng cho sự bí ẩn, không thể
biết. “Chuồn chuồn” trong trường hợp này để chỉ việc gì đó bí ẩn, không biết
được.
“Chó ngáp phải ruồi” là thành ngữ chỉ sự may mắn dun rủi một cách ngẫu
nhiên đối với những người tài thô trí thiển. “Ruồi” trong trường hợp này để chỉ sự
may mắn một cách ngẫu nhiên, trùng hợp.
“Chuồn chuồn đạp nước” là thành ngữ để ám chỉ những người có tác phong
làm việc qua loa, đại khái, thiếu sâu sắc tỉ mỉ. “Chuồn chuồn” trong thành ngữ này
45
để chỉ tác phong làm việc không tận tâm, tận tình.
“Con ong cái kiến” là thành ngữ chỉ những kẻ thân phận hèn mọn, không có
địa vị gì trong xã hội. “Ong” và “kiến” trong trường hợp này để chỉ những người
thân phận hèn mọn, thấp kém.
“Đom đóm bắt nạt ma trơi” là thành ngữ cho rằng những người tài cán
không ra gì lại dám thi thố với người tài giỏi hơn mình, đáng bậc thầy của mình
mà không biết thẹn. “Đom đóm” ở đây để chỉ kẻ tự cao, tự đại, không biết tự
lượng sức mình.
“Hoa đâu bướm đấy” là câu thành ngữ ám chỉ sự gần gũi, ve vãn của trai
gái tuổi mới yêu. “Bướm” ở trường hợp này để chỉ người con trai.
“Hung hăng con bọ xít” là thành ngữ ám chỉ những kẻ bề ngoài tỏ ra hung
tợn, nhưng bên trong lại là kẻ nhút nhát, nếu gặp phản ứng mạnh từ phía đối
phương thì tìm đường lẩn tránh. “Bọ xít” trong thành ngữ này dùng để chỉ những
người có tính như vậy.
“Loạn cào cào” nghĩa thành ngữ này chỉ những sự việc khác nhau xảy ra
cùng một lúc khiến ta không thể nhận định được đâu là đâu. “Cào cào” ở đây dùng
để chỉ những sự việc xảy ra cùng một lúc làm rối ren cả lên.
“Mật ít ruồi nhiều” là thành ngữ ám chỉ người thì đông nhu cầu thì nhiều mà
số lượng thứ họ cần lại không đủ để đáp ứng nhu cầu. “Ruồi” trong thành ngữ này
để chỉ nhu cầu về tinh thần, hoặc vật chất của con người.
“Như ong vỡ tổ” là thành ngữ chỉ một đám đông người nhốn nháo vô trật tự
túa ra khắp mọi hướng. “Ong” trong trường hợp này để chỉ sự mất trật tự, nhốn
nha nhốn nháo, ỏm tỏi cả lên.
“Tin ong sứ điệp” là thành ngữ chỉ việc mối lái, dạm hỏi việc hôn nhân.
“Ong” và “điệp” trong thành ngữ này để chỉ người mai mối, người chuyền thư
trong việc trai gái làm quen, dạm hỏi.
“Trâu bò hút nhau ruồi muỗi chết”, thành ngữ này chỉ sự xung đột, tranh
46
chấp giữa hai bên kẻ mạnh thì người yếu, người xung quanh bị vạ lây, tai họa liên
lụy. “Ruồi muỗi” trong trường hợp này để chỉ những người vô tình bị vạ lây bởi
xung đột, tranh chấp giữa hai bên kẻ mạnh.
Ở lớp từ chỉ động vật sống trên không này thì tùy vào bản năng, bản tính
hay hình dáng riêng của từng loài mà người ta liên tưởng nó với những sự vật, sự
việc hay đối tượng có nét tương đồng thông qua hình ảnh được ẩn dụ, so sánh hay
hoán dụ.
Ví dụ: “Dẻ cùi” được dùng để chỉ những người chỉ được vẻ bề ngoài, còn
bên trong thì rỗng tuếch, bất tài. Bởi thực tế dẻ cùi là một loài chim có bề ngoài rất
đẹp nhưng lại hót không hay và chỉ ăn toàn phân heo.
“Hạc” là loài chim đẹp và quý nên trong thành ngữ người ta thường dùng
chúng để chỉ tầng lớp thượng lưu, quyền quý, có danh phận trong xã hội.
“Ong” thì đặc điểm của nó là khi bay sẽ phát ra âm thanh tương đối lớn và
liên tục. Dựa vào điểm này mà “ong” trong thành ngữ tiếng Việt thường được
dùng để chỉ những lời xầm xì bàn tán của thiên hạ, hay sự rối ren, mất trật tự.
Trong thành ngữ tiếng Việt, ta thấy thường người ta không gọi tên loài chim
nào đó cụ thể mà gọi chung là “chim”. Trường hợp này qua khảo sát chúng tôi
thấy rằng “chim” thường được dùng để chỉ đối tượng sống tự do, thoải mái hoặc
nếp sống phóng túng, phong lưu của một người nào đó. Có được điều này là do
người ta khai thác đặc điểm sống tự do, tự tại bay nhảy, ca hót của loài chim.
2.1.3. Động vật sống dƣới nƣớc:
Lớp động vật sống dưới nước gồm cá (danh từ chung gọi tên các loài cá)
hoặc từng tên riêng như: cá sấu, chạch, nheo, rô, …
- Cá:
“Ăn cá bỏ lờ” là thành ngữ ám chỉ những người vô ơn bạc nghĩa, chỉ biết
hưởng thành quả mà không nhớ đến những người đã mang lại thành quả ấy cho
mình. “Cá” trong trường hợp này để chỉ cái ơn, cái thành quả mà mình đã nhận
47
được.
“Bắt cá hai tay” là thành ngữ ám chỉ việc làm tham lam, trong cùng một lúc
muốn mà muốn có được nhiều thứ. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ việc làm
mang lại lợi lộc cho mình.
“Cá lớn nuốt cá bé” là thành ngữ chỉ trích những người ỷ vào quyền thế
hiếp đáp những kẻ thân yếu thế cô để trục lợi một cách bỉ ổi. “Cá” trong thành ngữ
này để chỉ quyền thế của con người.
“Cá nằm trên thớt” là thành ngữ để chỉ tình thế nguy kịch, không biết sống
chết thế nào, sự sống và cái chết của bản thân do người khác định đoạt. “Cá” trong
trường hợp này để chỉ những người đang bị người khác khống chế, tình thế nguy
kịch, liên quan đến tính mạng.
“Chim sa cá lặn”, thành ngữ này dùng để chỉ người đàn bà có sắc đẹp lộng
lẫy, tuyệt vời. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ sự ngẩn ngơ, mất vía vì ngắm nhìn
nhan sắc quá lộng lẫy, tuyệt vời.
“Chim trời cá nước” ý nói cuộc sống tự do, phóng khoáng, không bị bó
buộc. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ người tự do tự tại, sống không lệ thuộc ai,
ràng buộc cái gì.
“Dụ cá vô nò” là thành ngữ nêu lên thủ đoạn thấp hèn, dùng những mánh
khóe riêng dụ người lương thiện vào bẫy rập của chúng, để chúng tha hồ hưởng
lợi. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ người lương thiện bị, ngây thơ không biết gì.
“Được cá quên nơm” là thành ngữ ám chỉ những người có tâm địa phản
trắc, khi gặp chuyện thì nhờ vả, khi xong chuyện thì phủi ơn. “Cá” trong trường
hợp này để chỉ cái ơn mà mình đã nhận.
“Giận cá chém thớt” là thành ngữ ám chỉ những người có tính xấu là khi tức
giận người này, nhưng không làm gì được, nên trút nỗi bực dọc lên người khác có
liên quan để trả thù. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ người làm ra chuyện, người
gây ra sự bực tức.
“Lòng chim dạ cá” là thành ngữ chỉ sự hẹp hòi, xấu bụng, phản trắc, vô thủy
48
vô chung của người đời. “Cá” ở đây để chỉ người hẹp lượng, có tâm địa phản trắc.
“Kén cá chọn canh” là thành ngữ ý nói sự kén chọn quá mức. “Cá” trong
trường hợp này để chỉ việc lựa chọn quá kỹ tính.
“Lúng túng như cá vào rọ” là thành ngữ ý nói tâm trạng rối bời của người
đang gặp chuyện khó khăn mà tự mình không sao giải quyết nổi. “Cá” trong
trường hợp này để chỉ người đang lo lắng, rối bời ruột gan, không giải quyết được
chuyện khó của mình.
“Như cá gặp nước”, thành ngữ này ý nói gặp được người hoặc cơ hội thuận
lợi mà mình đang mong ước, khát khao. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ người
được thỏa lòng vì gặp được cơ hội mình mong ước.
“Rau già cá ươn” là thành ngữ để chỉ những thứ kém phẩm chất, kém giá
trị, chẳng ra gì. “Cá” trong thành ngữ này để chỉ những thứ không chất lượng,
không giá trị.
Trong thành ngữ tiếng Việt, ta thấy còn có những câu sử dụng từ chỉ động
vật là tên riêng của từng loài cá như:
“Bắt chạch đằng đuôi” là thành ngữ ám chỉ cách làm việc thiếu mưu mẹo,
không chắc chắn nên khó có thể thành công được. “Chạch” trong trường hợp này
để chỉ việc làm không chắc chắn, không có sự suy tính cho thấu đáo.
“Cá mè một lứa” là thành ngữ ám chỉ đến những người cùng hội cùng
thuyền, cùng một loại, một phường giống nhau. “Cá mè” trong thành ngữ này để
chỉ những người có chung thói tật như nhau, cùng một giuộc với nhau.
“Cá thia quen chậu” là thành ngữ ý nói người sống ở đâu thì thích hợp,
quen thuộc, gần gũi với môi trường sống của mình. “Cá thia” trong trường hợp
này để chỉ sự thích hợp, quen thuộc.
“Cá trê chui ống” là thành ngữ ý nói những người nhút nhát, làm gì cũng
không bạo gan, cũng sợ sệt. “Cá trê” trong thành ngữ này để chỉ người nhát gan,
49
sợ sệt.
“Lẩn như chạch” là thành ngữ chỉ người cố tình lẩn trốn, cố tình che giấu
tông tích của mình. “Chạch” trong thành ngữ này để chỉ sự lẩn trốn, biệt tăm biệt
tích của một người nào đó để người khác không tìm ra mình.
“Lươn đổ cho nheo” là thành ngữ ám chỉ những người cùng loại, cùng
phường mà khi có tội bị hỏi đến thì người này đổ cho người kia, không ai chịu
nhận lỗi về phần mình. “Lươn” và “nheo” trong trường hợp này để chỉ những
người cùng loại, cùng phường với nhau (ngụ ý chê bai).
“Nước mắt cá sấu” là thành ngữ ý nói những hành vi giả nhân giả nghĩa, đã
gây đau khổ cho người khác lại còn vờ vịt ra vẻ xót thương, cảm thông trước hoạn
nạn của họ. “Cá sấu” trong trường hợp này là để chỉ những con người giả tạo, vờ
vỉnh.
“Tham con giếc tiếc con rô” là thành ngữ ám chỉ những người tham lam
quá độ, cái gì cũng muốn có. “Giếc” và “rô” ở đây dùng để chỉ cái lợi về tinh thần
hoặc vật chất.
Ngoài ra, trong thành ngữ còn sử dụng nhiều từ chỉ động vật sống dưới
nước khác nhưng không phải là cá như: sên, ốc, tôm, tép, cua, dã tràng, …
“Bắt cua trong giỏ” là thành ngữ chỉ một công việc dễ dàng, nằm trong khả
năng, hễ làm là thành công, không sợ thất bại. “Cua” trong trường hợp này để chỉ
việc làm quá dễ dàng, đã nắm chắc trong tay sự thành công.
“Bâu như đỉa đói” là thành ngữ ám chỉ hành động bâu vào cái có lợi. “Đỉa”
trong thành ngữ này để chỉ kẻ đeo bám, ăn bám.
“Bới đầu cá vạch đầu tôm” là thành ngữ ngụ ý cười chê những người lòng
dạ hẹp hòi, ưa bươi móc những lỗi lầm dù là nhỏ nhặt của người khác. “Tôm”
trong thành ngữ này để chỉ việc bị bươi móc, quở trách của người nào đó.
“Cái tôm chật gì bể” là thành ngữ ý nói thêm một cá nhân không thấm tháp,
ảnh hưởng gì tới số đông. “Tôm” trong thành ngữ này để chỉ một cá nhân, một
50
thành viên nào đó.
“Chắc như cua gạch”, thành ngữ này ý nói đến một việc gì đó chắc chắn,
đúng hoàn toàn. “Cua” trong thành ngữ này để chỉ sự chắc chắn, không xê lệch
được.
“Chê tôm ăn cá”, thành ngữ này chỉ những người quá kén chọn, lựa đi chọn
lại mãi cuối cùng lại chọn thứ thấp kém hơn. “Tôm” trong trường hợp này để chỉ
cái tốt.
“Chữ như cua bò” là thành ngữ những người ít học, nét chữ rất khó coi.
“Cua” trong thành ngữ này để chỉ hình dáng nét chữ.
“Dai như đỉa” là thành ngữ ám chỉ đến việc gì có vẻ dai dẳng, khó dứt ra
được. “Đỉa” trong thành ngữ này để chỉ những việc có tính chất dai dẳng, kéo dài.
“Dính như sam” là thành ngữ chỉ những cặp tình nhân yêu nhau tha thiết,
lúc nào cũng bịn rịn bên nhau, không muốn rời nhau. “Sam” trong thành ngữ này
để chỉ sự dính chặt, không tách rời được.
“Đắt như tôm tươi”, thành ngữ này chỉ việc mua bán rất đắt hàng, khách
hàng tới mua nườm nượp. “Tôm” trong trường hợp này để chỉ sự buôn bán thuận
lợi, đắt hàng.
“Đứt đuôi nòng nọc” là thành ngữ chỉ những cái rõ ràng, tách bạch, không
dính dáng, liên quan gì nữa. “Nòng nọc” ở đây dùng để chỉ những việc dứt khoát,
đâu ra đó, không thể chối cãi được.
“Ếch chết vì lỗ miệng” là thành ngữ ý nói những người có tính ba hoa, khoe
của nên dễ chuốt lấy tay họa. “Ếch” trong thành ngữ này để chỉ người hay khoe
khoang, khoác lác, không biết giữ mồm giữ miệng.
“Ếch ngồi đáy giếng” là thành ngữ ám chỉ những người ít hiểu biết, kiến
thức nông cạn, kẻ ngông nghênh tự phụ. “Ếch” trong trường hợp này để chỉ sự
thiển cận, sự ngông nghênh, tự phụ.
“Giãy lên như đỉa phải voi” là thành ngữ nói đến sự quyết liệt chối từ trước
một đề nghị nào đó người ta dành cho mình. “Đỉa” trong thành ngữ này để chỉ sự
51
từ chối, khước từ.
“Giật đầu cá vá đầu tôm”, thành ngữ này ý nói tình trạng thiếu trước hụt
sau, phải lấy chỗ này bù vào chỗ kia để sống tạm bợ qua ngày. “Tôm” trong
trường hợp này để chỉ sự thiếu trước hụt sau, phải lấy chỗ này bù vào chỗ kia để
sống tạm bợ qua ngày.
“Hàng tôm hàng cá” là thành ngữ để chỉ những người lỗ mãng, dữ dằn.
“Tôm” trong thành ngữ này để chỉ bản chất con người hung tợn, đanh đá.
“Họ nhà tôm lộn cứt trên đầu” là thành ngữ chỉ tình trạng lộn xộn, không có
tôn ti trật tự, không đạo đức, văn phép. “Tôm” trong thành ngữ này là để chỉ sự
lộn xộn, không tôn ti, trật tự.
“Kẻ ăn ốc người đổ vỏ” là thành ngữ ngụ ý sự bất công ở đời, người không
được hưởng lợi lại phải gánh chịu hậu quả do kẻ hưởng lợi gây ra. “Ốc” trong
trường hợp này để chỉ những thành quả, sự lợi lộc mà người nào đó được hưởng.
“Lạt như nước ốc” là thành ngữ ám chỉ đến tình cảm lợt lạt, đối xử không
được mặn mà nồng hậu. “Ốc” ở đây chỉ mức độ tình cảm lợt lạt, gượng gạo.
“Lổm ngổm như cua sàng” là thành ngữ ý nói những thứ lớn nhỏ lộn xộn,
bày ra tứ tung, không theo một trật tự nào. “Cua” trong trường hợp này để chỉ sự
lung tung, ngổn ngang, không có thứ tự gì.
“Mắt cú da lươn” là thành ngữ ám chỉ những người có tính lươn lẹo, hay
nhòm ngó, xoi mói chuyện người khác. “Lươn” trong thành ngữ này để chỉ tính
người lươn lẹo, xấu bụng.
“Ngoe nguẩy như cua gãy càng” là thành ngữ nói đến những người có cử
chỉ, điệu bộ lố bịch trông gượng gạo, chướng tai gai mắt. “Cua” trong thành ngữ
này để chỉ những cử chỉ lố bịch, khó coi.
“Nhát như cáy” là thành ngữ ám chỉ những người quá nhút nhát, sợ sệt,
không dám mạo hiểm. “Cáy” trong trường hợp này để chỉ người nhát gan, sợ sệt.
“Quân sên tướng ốc” là thành ngữ chỉ lực lượng yếu kém, cả quân lẫn tướng
đều hèn nhát, chậm chạp. “Sên” và “ốc” trong thành ngữ này để chỉ sự yếu kém,
52
chậm chạp.
“Thả tép bắt tôm” là thành ngữ ý nói bỏ vốn nhỏ mong kiếm lợi lớn, hi sinh
món lợi nhỏ để thu được món lợi lớn hơn nhiều lần. “Tép” và “tôm trong trường
hợp này để chỉ quy mô lớn nhỏ của món lợi.
“Trộm cướp như rươi” ngụ ý nói trộm cướp rất nhiều. “Rươi” trong trường
hợp này để chỉ sự đông đúc, số lượng nhiều.
“Trơ mắt ếch” là thành ngữ ý nói người kém xã giao, gặp ai cứ trố mắt ra
nhìn không biết chào hỏi. “Ếch” trong thành ngữ này là để chỉ người không biết xã
giao, vô phép vô tắc.
“Yếu như sên” là thành ngữ chỉ sự mềm yếu, chậm chạp. “Sên” trong thành
ngữ này để chỉ người yếu ớt, thiếu sức khỏe.
Cũng giống như lớp từ chỉ động vật sống trên không, ở lớp từ này tùy vào
hình dáng, đặc điểm, bản năng hay bản tính của mỗi con mà người ta liên tưởng
đến sự vật, hiện tượng hay đối tượng được đề cập đến với một hay vài nét tương
đồng nhất định nào đó.
Ví dụ: Bởi “cá sấu” là loài động vật ăn thịt và có một đặc điểm là khi ăn
xong con mồi tự nhiên cá sấu sẽ chảy nước mắt, vì điểm tự nhiên này mà “cá sấu”
thường được dùng để chỉ những kẻ độc ác, gian xảo hoặc giả nhân giả nghĩa, sống
giả tạo.
“Đỉa” là loài động vật rất dai, khó có thể cắt đứt cơ thể chúng, nên dựa vào
đặc điểm này người ta dùng “đỉa” trong thành ngữ tiếng Việt để chỉ những việc có
tính chất dai dẳng, kéo dài.
“Sam” có đặc điểm là đến mùa sinh sản thì con đực và con cái sẽ bám chặt
vào nhau, không sao tách ra được rất lâu, có khi đến vài tuần, chính vì đặc điểm
này mà người ta dùng “sam” để chỉ sự dính chặt, không tách rời được.
Trong thành ngữ tiếng Việt ta thấy có khi người ta không gọi tên một loài cá
nào đó cụ thể mà lại gọi chung là “cá”. Nhìn chung thì “cá” trong thành ngữ tiếng
53
Việt thường được dùng để chỉ cái ơn, cái lợi lộc hay thành quả mà mình nhận
được. Tuy nhiên, giá trị ngữ nghĩa này của “cá” trong thành ngữ chỉ mang tính
tương đối chứ không thông dụng lắm.
2.2. Các thành ngữ có chứa các từ chỉ động vật chỉ có trong truyền
thuyết, trong tƣởng tƣợng:
“Cá hóa long (rồng)” là thành ngữ ngụ ý nói đến những người đạt được
thắng lợi, thành tựu lớn làm thay đổi cuộc đời họ. “Rồng” trong thành ngữ này để
chỉ sự thành đạt, thắng lợi lớn.
“Con rồng cháu tiên” là thành ngữ nói đến nguồn gốc tổ tiên ta, theo quan
niệm duy tâm cho rằng con người ta thuộc dòng dõi rồng tiên. “Rồng” trong
trường hợp này để chỉ nguồn gốc, tổ tiên ta với niềm tự hào, sùng kính.
“Đầu rồng đuôi tôm” là thành ngữ ám chỉ hạng người có vẻ bề ngoài bề thế
nhưng thực chất là bọn hèn hạ tầm thường, tệ lậu, không ra làm sao cả. “Rồng”
trong trường hợp này để chỉ vẻ bề ngoài sang cả, bề thế của người nào đó.
“Loan phụng hòa minh” là thành ngữ ý nói đến việc vợ chồng chung sống
hòa thuận, hạnh phúc với nhau. “Loan” và “phụng” là hai loài chim chỉ có trong
truyền thuyết, dùng để chỉ cuộc sống hôn nhân vợ chồng hòa quyện, gắn bó nhau.
“Rồng bay phượng múa” là thành ngữ ngợi khen nét chữ đẹp (theo quan
niệm ngày xưa), nét chữ phóng khoáng, uyển chuyển, rõ ràng là nét chữ đẹp.
“Rồng” trong thành ngữ này để chỉ nét chữ đẹp, bay lượn uyển chuyển trên giấy.
“Rồng đến nhà tôm” là thành ngữ ám chỉ việc người có địa vị cao sang, giàu
có đến thăm người bình dân, người nghèo. “Rồng” ở đây để chỉ người thân phận
cao sang, quyền quý.
“Rồng mây gặp hội” là thành ngữ ý nói những người gặp được vận may, cơ
hội tốt có một không hai. “Rồng” trong thành ngữ này để chỉ người gặp được dịp
may, cơ hội hiếm có mà cả đời mình khao khát có được.
“Rồng thiêng uốn khúc” là thành ngữ nói đến kẻ anh hùng đang gặp vận xấu
phải ẩn nhẩn sống nương náu chờ thời. “Rồng trong trường hợp này để chỉ người
54
anh hùng chưa gặp thời.
“Vẽ rồng thành giun” là thành ngữ nói đến những kẻ bất tài, mưu mô thấp
kém, làm gì cũng sai, cũng trật. “Rồng” trong trường hợp này để chỉ sự đẹp đẽ,
đúng đắn thật sự.
“Vẽ rồng vẽ rắn” là thành ngữ ý chê cười kẻ bày ra lắm chuyện lôi thôi, dài
dòng luộm thuộm mà đáng lí ra phải gọn gàng, vắn tắt thì mới hay. “Rồng” trong
trường hợp này để chỉ công việc hay việc làm có tính chất dài dòng, không cần
thiết, không có chất lượng.
Nhìn chung, các từ chỉ động vật không có thực mà chỉ có trong truyền
thuyết, trong tưởng tượng thường được dùng để chỉ những đức tính cao đẹp, thân
phận sang cả, quyền quý, sự thành đạt, thắng lợi hay những sự đẹp đẽ, đúng chuẩn
55
mực (theo quan niệm của người xưa).
CHƢƠNG 3: TÁC DỤNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ
3.1. Tăng tính hình tƣợng, biểu cảm:
- Tính hình tƣợng:
Phần lớn thành ngữ thường có chứa các từ chỉ động vật, nhờ sự có mặt của
các từ chỉ động vật mà các thành ngữ giàu tính hình tượng và nghĩa biểu trưng
thâm thúy hơn.
Chẳng hạn như nói đến sự bất công, trớ trêu ở đời, kẻ khôn lanh lấn lướt
người cô thế, hiền lành, nếu ta nói: “Kẻ hưởng lợi người chịu thiệt” thì quá bình
thường, không gây ấn tượng, không diễn tả hết được sự trớ trêu, bất công đó.
Nhưng nếu ta nói: “Kẻ ăn ốc người đổ vỏ” thì lại khác. Qua từ chỉ động vật “ốc”
đã giúp câu thành ngữ thêm giàu tính hình tượng và nghĩa biểu trưng của nó cũng
trở nên thâm thúy hơn. Vì nói đến ốc, ta hình dung được đó là một món ăn ngon,
hấp dẫn, được nhiều người ưa thích, vậy mà “Kẻ ăn ốc người đổ vỏ” thì thật là bất
công. Một người được hưởng lợi (ăn ốc) lại ngồi không, người không được hưởng
thụ gì mà phải gánh chịu hậu quả, giải quyết tàn cuộc (đổ vỏ).
Hay như thành ngữ: “Đỉa đeo chân hạc” là để ám chỉ những anh chàng có
địa vị thấp hèn mà lại đòi đèo bồng những tiểu thư sang cả. Khi dùng thành ngữ
“Đỉa đeo chân hạc” sẽ tạo được ấn tượng mạnh, tác động sâu xa đến nhận thức
người nghe hơn khi nói: “Phận nghèo hèn lại mơ người sang cả”. Vì “hạc” là loài
chim quý và đẹp, có dáng sang trọng, quyền quý. Còn “đỉa” là con vật tầm thường,
ở chốn bùn nhơ, lại tanh hôi vì chuyên hút máu người và súc vật mà sống. Dùng
hình tượng “đỉa” và “hạc” để biểu trưng hai đối tượng có địa vị khác xa nhau, trái
ngược nhau như vậy rất thâm thúy và ý nghĩa.
- Tính biểu cảm:
Phần lớn, thông qua từ chỉ động vật trong thành ngữ ta có thể hiểu được giá
56
trị biểu cảm của nó là âm tính hay dương tính. Bởi sắc thái biểu cảm của thành
ngữ ít nhiều đã thể hiện ngay trên bản thân từ chỉ động vật được chứa trong thành
ngữ.
Ví dụ: thành ngữ “chó ngáp phải ruồi” – “chó” trong thành ngữ này để chỉ
những kẻ bất tài vô dụng lại tình cờ gặp may thì không thể nào mang sắc thái biểu
cảm là dương tính được. Rõ ràng chỉ thông qua từ chỉ động vật “chó” ta đã có thể
kết luận rằng thành ngữ này mang sắc thái biểu cảm là âm tính. Đây là thành ngữ
được dùng khi chê bai, mỉa mai một đối tượng nào đó chứ dứt khoát không thể
dùng để ngợi khen, tán dương được.
Hay thành ngữ: “Quạ mổ diều tha” thì rõ ràng nó mang sắc thái biểu cảm
âm tính. Bởi “quạ” và “diều” là hai từ chỉ động vật dùng để chỉ những người đáng
bị khinh khi nguyền rủa, loại người không ra gì thì thành ngữ này không thể nào
được dùng để ngợi khen, tán dương mà nó chỉ có thể dùng trong trường hợp chê
bai, nguyền rủa, …
Hoặc thành ngữ: “Cá hóa rồng (long)” là thành ngữ mang sắc thái biểu cảm
dương tính và nó chỉ được dùng để ngợi khen, tán dương chứ không thể nào dùng
trong trường hợp trách móc, chê bai. Bởi bản thân từ chỉ động vật “rồng (long)” đã
mang sắc thái biểu cảm dương tính vì nó được dùng trong thành ngữ này để chỉ sự
thành đạt, thắng lợi lớn.
3.2. Tính cô đọng, hàm súc:
“Hàm súc là hình thức diễn đạt, qua đó người nói có thể thông báo được
một nội dung lớn nhất bằng một số lượng các yếu tố ngôn ngữ ít nhất”[5, tr.138].
Qua định nghĩa trên, ta thấy rằng thành ngữ khi có sử dụng các từ chỉ động
vật thì tăng thêm tính cô đọng, hàm súc vốn có của nó. Bởi chỉ thông qua từ chỉ
động vật trong câu thành ngữ, người ta có thể liên tưởng đến bản năng, đặc tính,
thói quen, … của con vật được đề cập, rồi từ đó liên tưởng đến con người, sự việc
57
một cách khái quát hơn, nhờ vào nghĩa của câu thành ngữ.
Ví dụ: Khi nói đến thành ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”, chỉ qua từ “ếch” ta hiểu
được sự ngông nghênh, thiển cận của ếch trong câu chuyện cổ xưa và từ đó liên
tưởng đến tính kiêu ngạo, tự cao, tự đại, kém hiểu biết của con người.
Hay như thành ngữ “Lời ong tiếng ve”, qua hai từ chỉ động vật “ong” và
“ve” ta có thể hình dung được sự xầm xì, nhỏ to ra vào của bàn dân thiên hạ bàn
tán xôn xao về một vụ việc gì đó.
Tương tự như vậy, ta thấy thành ngữ “Nước mắt cá sấu” cũng vậy, chỉ
thông qua từ cá sấu ta có thể nghĩ ngay đến bản năng của nó là khi ăn xong con
mồi thì sẽ chảy nước mắt, từ đó liên tưởng đến sự giả tạo, đạo đức giả ngụy trang
bằng lớp vỏ nhân đạo bên ngoài của con người.
Rõ ràng thành ngữ chỉ là một tổ hợp từ cố định đưa đến cho ta một hình ảnh
chứ chưa phải là một nhận định, thông báo, lại càng không phải là một câu trọn
vẹn. Nhưng nhờ vào tính hàm súc mà ý nghĩa thành ngữ sâu và rộng mặc dù bề
mặt câu chữ thì rất ít.
3.3. Tính khách quan, thuyết phục:
Nếu trong thành ngữ không sử dụng các từ chỉ động vật mà chỉ đơn thuần là
một câu nói, nhận định suông thì thành ngữ chắc chắn sẽ không mang tính khách
quan và sẽ không thuyết phục được người nghe.
Ví dụ: thành ngữ “Trâu chậm uống nước đục” ý nói người nào tác phong
làm việc không nhanh nhẹn mà chậm chạp, bê trễ, lề mề thì sẽ thiệt thòi hơn
những người khác. Nhưng nếu ta không dùng từ chỉ động vật “trâu” vào thành ngữ
mà chỉ nói suông “người nào chậm chạp, lề mề sẽ bị thiệt thòi” thì câu này có vẻ
rất chủ quan và không thuyết phục được người nghe. Vì rõ ràng khi dùng từ
“trâu”thì thành ngữ “Trâu chậm uống nước đục” đã tác động đến người nghe,
người nghe lập tức liên tưởng ngay đến hình ảnh một đàn trâu đi đến một cái ao
uống nước, con nào cũng trầm mình xuống (đây là đặc tính của trâu), thì con nào
58
đi chậm đến sau sẽ phải uống nước đục (vì cả đàn trâu trầm mình xuống ao làm
bùn lên đục nước) đó là điều tất nhiên. Chính vì như vậy nên thành ngữ này mới
thật sự khách quan và vì thế nó thuyết phục được người nghe.
Hoặc như thành ngữ “Tâm xà khẩu phật” là thành ngữ ám chỉ những người
bề ngoài thì tu hiền, nhân nghĩa, đạo đức lắm, nhưng thực chất bên trong lòng dạ
độc ác, xấu xa, tàn nhẫn. Nếu ta chỉ nói suông là “bề ngoài tu hiền, nhân nghĩa,
nhưng bên trong tâm địa độc ác, xấu xa” thì đương nhiên quá chủ quan và sẽ
không thuyết phục được người nghe. Vì từ chỉ động vật “rắn” đã mang một ý
nghĩa khái quát, giá trị điển hình cho sự độc ác, tàn nhẫn, nên ta chỉ cần nhìn vào
từ “rắn” trong câu thành ngữ cũng đã hiểu được sự độc ác, tàn nhẫn trong tâm địa
của con người một cách khách quan và thuyết phục hơn nhiều.
Dùng từ chỉ động vật trong thành ngữ giúp đảm bảo được tính khách quan,
thuyết phục hơn vì đằng sau các từ chỉ động vật còn là một dẫn chứng xác thực.
3.4. Tính dân tộc đậm đà:
Các từ chỉ động vật được dùng trong thành ngữ mang đậm bản sắc dân tộc
vì nó là những hình ảnh rất Việt Nam, đó là những con: gà, vịt, trâu, lợn, … và
những con rất nhỏ bé, tầm thường như: rận, sâu, kiến, …
Ví dụ: thành ngữ “Giận con rận đốt cái áo” dùng để chỉ sự nông nỗi, tức
giận không kiềm chế được bản thân để gây ra thiệt hại, tổn thất cho chính mình.
“Rận” trong câu này mang đậm bản sắc dân tộc vì nó đã từng một thời quen thuộc
với cuộc sống nhân dân lao động nghèo Việt Nam.
Hoặc như thành ngữ “Ruộng sâu trâu nái” để chỉ cuộc sống dư dã, giàu có
của những phú nông ngày xưa. “Trâu” mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam vì nó
gắn liền với đời sống lao động nông thôn xưa, gắn bó với người nông dân, đã là
người Việt Nam thì không ai không biết con trâu.
Hay như thành ngữ: “Con rồng cháu tiên” là thành ngữ nói đến nguồn gốc
tổ tiên ta với lòng tự hào, sùng kính. “Rồng” trong thành ngữ này rõ ràng đậm đà
tính dân tộc, bởi “rồng” là con vật được cho là tổ tiên của người Việt Nam (theo
59
truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ). Chính vì vậy, nhờ từ chỉ động vật “rồng”
mà thành ngữ “Con rồng cháu tiên” thêm đậm đà tính dân tộc. Khi nghe đến thành
ngữ này thì dù là người nước ngoài vẫn có thể hiểu đây là thành ngữ Việt Nam, nó
nói về nguồn gốc tổ tiên người Việt Nam.
Tóm lại, nhờ vào các từ chỉ động vật được nhắc đến trong thành ngữ mà
60
tính dân tộc của thành ngữ thêm đậm đà hơn.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, chúng tôi đã cố gắng sắp xếp, trình bày
những luận điểm, luận cứ sao cho rõ ràng, rành mạch và lô gích nhất. Hệ thống
các phần, các chương, và các đề mục được đặt tên rõ ràng và sát với vấn đề trình
bày nhất.
Cụ thể ở từng chương trong mỗi phần, trước hết, chúng tôi đã tiến hành trình
bày lí thuyết, những quan điểm có liên quan của các nhà nghiên cứu tên tuổi trước
đó, sau đó đưa ra quan điểm của mình và những dẫn chứng xác thực nhất có thể.
Khóa luận này với đề tài: “Các từ chỉ động vật trong từ ngữ tiếng Việt” gồm
ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận được trình bày như sau:
Phần mở đầu gồm 5 nội dung: thứ nhất là trình bày lí do chọn đề tài, thứ hai
là lịch sử vấn đề, thứ ba là mục đích yêu cầu, thứ tư là phạm vi nghiên cứu, và sau
cùng là phương pháp nghiên cứu.
- Phần nội dung gồm ba chương với kết cấu trình bày như sau:
+ Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thành ngữ và từ.
Trong chương này, chủ yếu chúng tôi trình bày về định nghĩa, đặc điểm,
phân loại thành ngữ và cách phân biệt thành với tục ngữ. Chúng tôi cũng chú ý
trình bày các quan niệm, định nghĩa về từ, một số đặc điểm của từ tiếng Việt và
đặc biệt nghiêng về tìm hiểu lớp từ chỉ động vật trong tiếng Việt.
+ Chương 2: Giá trị ngữ nghĩa của từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt.
Ở chương này, chúng tôi tập trung hệ thống các thành ngữ có chứa các từ chỉ
động vật có thực (gồm các động vật trên cạn, động vật trên không, động vật dưới
nước) và các từ chỉ động vật không có thực (chỉ tồn tại trong truyền thuyết, trong
tưởng tượng của người xưa). Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành phân tích, tìm hiểu
nghĩa của các thành ngữ (gồm 500 thành ngữ), để từ đó khái quát giá trị ngữ nghĩa
của từ chỉ động vật trong thành ngữ, và chỉ ra mối quan hệ giữa nghĩa của những
61
từ chỉ động vật trong hệ thống và nghĩa của chúng trong thành ngữ.
+ Chương 3: Tác dụng của việc sử dụng các từ chỉ động vật trong thành ngữ
tiếng Việt.
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày tác dụng của việc sử dụng các từ
chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt là: Tăng tính hình tượng - biểu cảm, tính
cô đọng - hàm súc, tính khách quan - thuyết phục và thêm đậm đà tính dân tộc cho
thành ngữ. Song song với việc chỉ ra những tác dụng của từ chỉ động vật trong
thành ngữ, chúng tôi còn dẫn chứng một số thành ngữ cụ thể để làm rõ vấn đề
mình trình bày.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi để hoàn thành khóa luận, chúng tôi đã gặp
một số khó khăn hạn chế như:
- Tài liệu có liên quan không nhiều, đặc biệt là những tài liệu bàn về lớp từ
chỉ động vật trong tiếng Việt thì rất hiếm hoi, dù có nói thì cũng chỉ lướt qua chứ
không sâu lắm.
- Mỗi công trình nghiên cứu của mỗi tác giả khác nhau thì đưa ra những nhận
định, đánh giá không giống nhau, không thống nhất. Chính điều này làm chúng tôi
gặp không ít khó khăn trong việc xác định hướng đi đúng đắn cho “đứa con tinh
thần” của mình.
Đây là một đề tài rất lí thú, nếu sau này có điều kiện nghiên cứu tiếp, chúng
tôi nghĩ sẽ phải khảo sát số lượng thành ngữ nhiều hơn để đưa ra những ý kiến,
nhận định sâu, sát và cụ thể hơn, hình thức trình bày khoa học, rõ ràng hơn.
Khóa luận này nếu còn điều gì sai sót, rất mong nhận được sự thông cảm góp
ý, chỉ bảo của quý thầy cô em xin ghi nhận và chân thành biết ơn!
Hậu Giang, ngày tháng năm 2013
Sinh viên thực hiện
62
(Ký và ghi rõ họ tên)
63
64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (chủ biên) và Hoàng Văn Thung, Ngữ pháp tiếng
Việt, Nxb Giáo dục, 1996.
2. Diệp Quang Ban, Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Sư
phạm, 2012.
3. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1981.
4. Việt Chương, Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, Nxb
Đồng Nai, 1998
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ
điển thuật ngữ văn học, Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt nam, 2004
6. Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Hà Nội: Nxb Khoa
học Xã hội, 2002 .
7. Nguyễn Bích Hằng, Từ điển thành ngữ - tục ngữ Việt Nam, Nxb Từ
điển bách khoa.
8. Đỗ Việt Hùng, Giáo trình từ vựng học, Nxb Giáo dục Việt Nam,
2011.
9. Đỗ Thị Kim Liên, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1999.
10. Trịnh Mạnh Tiếng Việt lí thú, Nxb Giáo dục, 2001.
11. Trần Văn Nam, Văn học dân gian – phần 2, Trường Đại học Cần
Thơ.
12. Nguyễn Văn Nở, Phong cách học tiếng Việt, Trường Đại học Cần
Thơ, 2004.
13. Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Thị Hồng Nam và Nguyễn Lâm Điền,
Những vấn đề văn học, ngôn ngữ và giảng dạy ngữ văn, Nxb Giáo
dục Việt Nam, 2011
14. Nguyễn Thị Thu Thủy, Từ vựng học tiếng Việt, Trường Đại học Cần
Thơ, 2005.
15. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Đại
học và Trug học chuyên nghiệp, 1983.
16. Nguyễn Văn Tư, Ngữ pháp tiếng Việt, Trường Đại học Cần Thơ,
2004.