ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN HOÀI LINH
TÊN ĐỀ TÀI:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM MỘT SỐ VIRUS GÂY BỆNH THƯỜNG GẶP TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Ngành : Công nghệ sinh học
Khoa : CNSH - CNTP
Khóa học : 2016-2020
THÁI NGUYÊN, NĂM 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN HOÀI LINH
TÊN ĐỀ TÀI:
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM MỘT SỐ VIRUS GÂY BỆNH THƯỜNG GẶP TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
: Công nghệ sinh học Ngành
: K48 – CNSH Lớp
: CNSH - CNTP Khoa
Khóa học : 2016-2020
Họ tên người hướng dẫn : 1. TS. Nguyễn Văn Duy
2.Th.S BS. Lương Thị Hồng Nhung
THÁI NGUYÊN, NĂM 2020
i
LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Nông Lâm – Đại học
Thái Nguyên, được sự đồng ý của Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Công nghệ
Sinh học và Công nghệ Thực phẩm em được phân công đến thực tập tại Khoa Vi sinh
- Bệnh viện TW Thái Nguyên với đề tài: “Khảo sát tình hình nhiễm một số virus
gây bệnh thường gặp tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên”. Em xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành tới Th.S BS Lương Thị Hồng Nhung và toàn thể anh, chị kỹ
thuật viên làm việc tại Khoa Vi sinh - Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên đã luôn
tận tình hướng dẫn, tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn Văn Duy - Giảng viên Khoa
Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô trong Khoa Công
nghệ Sinh học và Công nghệ Thực phẩm - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong
suốt thời gian học tập.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm và kiến thức còn hạn
chế nên đề tài của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận đươc
sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của quý Thầy/Cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao
kiến thức phục vụ cho việc học tập, công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020
Sinh viên
Nguyễn Hoài Linh
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Kết quả xét nghiệm virus viêm gan trên các bệnh nhân điều trị tại
bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên bằng phương pháp test nhanh .............. 32
Bảng 4.2.Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus viêm gan theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh .................................................................................. 34
Bảng 4.3: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus HIV bằng phương pháp test
nhanh ............................................................................................................... 36
. Bảng 4.4.Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus HIV theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh .................................................................................. 37
Bảng 4.5.Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm A bằng phương pháp test
nhanh ............................................................................................................... 39
Bảng 4.6: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm A theo nhóm tuổi ...... 40
Bảng 4.7. Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm B theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh .................................................................................. 41
Bảng 4.8: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm B theo nhóm tuổi ...... 42
iii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
AIDS Acquired Immunodeficiency Syndrome (hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải)
Hepatitis C Virus (virus gây viêm gan C) HCV
Hepatitis B Virus (virus gây viêm gan B) HBV
Human Immunodeficiency virus (virus gây suy giảm miễn dịch HIV
ở người)
SARS Severe acute respiratory syndrome (Hội chứng hô hấp cấp tính
nặng)
World Health Organization- Tổ chức Y tế Thế giới WHO
Middle East Respiratory Syndrome (Hội chứng Hô hấp cấp MERS
Trung Đông)
DNA Deoxyribonucleic acid, 1 trong 2 loại vật chất mang thông tin di
truyền
RNA Ribonucleic acid, 1 trong 2 loại vật chất mang thông tin di truyền
SARS-CoV-2 Severe acute respiratory syndrome corona virus 2 (Virus corona
gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2)
CDC Centers for Disease Control and Prevention (Trung tâm kiểm soát
và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ )
Cs Cộng sự
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT ............................................ iii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
Phần 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài ....................................................................... 2
1.2.1.Mục tiêu của đề tài ................................................................................... 2
1.2.2. Yêu cầu của đề tài ................................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài .................................................................... 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................................................... 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
2.1. Tổng quan chung đối tượng nghiên cứu .................................................... 3
2.1.1. Khái niệm virus ....................................................................................... 3
2.1.2. Lịch sử và nguồn gốc .............................................................................. 3
2.1.3. Đặc điểm ................................................................................................. 4
2.1.4. Cấu trúc ................................................................................................... 4
2.1.5. Chu trình nhân lên ................................................................................... 8
2.2. Tổng quan về virus ................................................................................... 10
2.2.1. Tổng quan về virus cúm ........................................................................ 10
2.2.2. Tổng quan về virus HIV ........................................................................ 14
2.2.3. Tổng quan về virus viêm gan C ............................................................ 17
2.2.4. Tổng quan về virus HBV ...................................................................... 20
v
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 25
3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ......................................... 25
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 25
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 25
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 25
3.3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 25
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu nội dung 1 .................................................... 25
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu nội dung 2 .................................................... 27
3.3.3. Phương pháp nghiêm cứu nội dung 3 ................................................... 29
3.4. Các phương pháp xử lý số liệu ................................................................. 30
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 32
4.1. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm virus viêm gan B và viêm gan C trên các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên .......................... 32
4.2. Khảo sát tình hình nhiễm virus HIV trên các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên ....................................................................... 35
4.3. Khảo sát tình hình nhiễm virus Cúm A và Cúm B trên các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên .................................................... 38
4.3.1. Kết quả tình hình nhiễm virus cúm A bằng phương pháp test nhanh... 38
4.3.2. Kết quả tình hình nhiễm virus cúm B bằng phương pháp test nhanh ... 41
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................ 44
5.1. KẾT LUẬN .............................................................................................. 44
5.2. KIẾN NGHỊ ............................................................................................. 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 45
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Virus là tác nhân gây bệnh phổ biến trên người cùng với vi khuẩn và nấm trong
nhóm các tác nhân vi sinh vật[7]. Càng ngày, người ta ngày càng phát hiện ra nhiều
loại bệnh do virus nguy hiểm như AIDS, SARS, viêm não Nhật Bản, dại, quai bị, sốt
Ebola, sởi… Tùy từng loại virus mà có cách lây nhiễm và gây tác hại khác nhau (ví
dụ như lây qua đường tình dục: AIDS, viêm gan B; lây qua đường hô hấp: Cúm A,
cúm B, SARS,…).
Thế giới từng phải đối mặt với những đại dịch lớn do virus gây ra và có sức lây
lan khủng khiếp, với con số tử vong có thể lên đến hàng triệu người trong một đợt
dịch (dịch MERS năm 2012: tính đến ngày 7/6/2012 có 1.179 người nhiễm trong đó
442 người tử vong[24]; dịch Ebola năm 2014 WHO xác nhận gần 7.000 trường hợp
tử vong vì virus này[23]; cúm H1N1 năm 2009, lan nhanh tại 214 quốc gia và khiến
18.0000 người thiệt mạng trên tổng số 575.000 ca nhiễm bệnh[7]; dịch SARS năm
2002 phát hiện trường hợp đầu tiên tại Hồng Kông sau đó dịch lây lan sang 37 quốc
gia thông qua đường hàng không, khoảng 8000 ca nhiễm và 800 ca tử vong; đại dịch
HIV/AIDS khiến 1,5 triệu người tử vong trong số 35 triệu người nhiễm bệnh. Đặc
biệt, chủng virus mới SARS-CoV-2 (COVID- 19) gây hội chứng hô hấp cấp tính
bùng phát vào tháng 12 năm 2019 ở thành phố Vũ Hán và bắt đầu lây lan nhanh chóng
sau đó, là một đại dịch toàn cầu, theo WHO tính đến 12:54PM ngày 21 tháng 6 năm
2020 có 8.708.008 trường hợp xác nhận nhiễm COVID-19, 461.715 trường hợp tử
vong trên toàn cầu[26].
Đặc điểm chung của các bệnh do virus kí sinh gây ra trên người là lây lan nhanh,
dễ bùng phát thời gian ngắn, biểu biện bệnh không rõ ràng trong thời kì đầu, một số
có khả năng biến chủng lớn, gây chết trong thời gian ngắn gây rất nhiều khó khăn
trong chẩn đoán và điều trị và kiểm soát dịch tễ học[7]. Mặc dù virus gây bệnh cho
người và động vật được nghiên cứu khá kỹ nhưng hiện nay chưa có phương pháp
điều trị hiệu quả như AIDS, SARS, cúm A[5]; phương pháp điều trị chủ yếu là các
biện pháp hỗ trợ đề kháng của của cơ thể chống lại virus gây bệnh và ngày càng
2
có nhiều loại virus mới nguy hiểm xuất hiện. Do vậy, việc chẩn đoán chính xác
nguyên nhân gây bệnh trong thời gian ngắn, hiểu biết về tình hình dịch tễ học từ đó
đề xuất các biện pháp điều trị, phòng chống các bệnh do virus gây ra là rất quan trọng
nhằm bảo đảm điều trị trúng đích và cải thiện tử vong bệnh nhân.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát tình hình nhiễm
một số virus gây bệnh thường gặp tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên”
1.2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài
1.2.1.Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu này nhằm khảo sát tình hình nhiễm một số virus gây bệnh thường
gặp của bệnh nhân tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
Thu mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh do virus thường
gặp (virus cúm A, cúm B, HCV, HBV và HIV) từ các khoa chuyên môn tại Bệnh viện
viện Trung Ương Thái Nguyên.
- Xác định các virus gây bệnh từ mẫu bệnh phẩm bằng phương pháp test nhanh.
- Khảo sát tình hình tình hình nhiễm các virus của bệnh nhân.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về các
virus gây bệnh thường gặp ở bệnh nhân và các biện pháp điều trị, phòng chống bệnh
hiêu quả.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Kết quả của đề tài góp phần vào quá trình chẩn đoán các bệnh do các virus
thường gặp gây ra, cung cấp các thông tin cần thiết về dịch tễ học góp phần hỗ bác sĩ
lựa chọn phương pháp và thuốc phù hợp để điều trị đạt hiệu quả tối ưu cho bệnh do
virus.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tổng quan chung đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Khái niệm virus
Virus là tác nhân sinh học không có cấu tạo tế bào mang các nucleic acid, chi
có thể nhân lên trong các tế bào chủ và sử dụng bộ máy trao đổi chất và ribosome của
tế bào để tổng hợp nên các bộ phận cấu thành sau đó lắp ráp các bộ phận này tạo
thành các hạt virus gọi là các virion mang bộ gene virus và có thể nhiễm vào các tế
bào chủ khác [7].
Virus có thể lây nhiễm tất cả các dạng sống, từ động vật thực vật đến vi sinh
vật, bao gồm cả vi khuẩn và vi khuẩn cổ. Virus được tìm thấy trong hầu hết các hệ
sinh thái trên Trái đất và là loại thực thể sinh học nhiều nhất [7]. Khoảng 5.000 loại
virus đã được mô tả một cách chi tiết trong hàng triệu loại virus tồn tại trên Trái đât [7].
Khi không tồn tại trong tế bào bị lây nhiễm hoặc trong quá trình lây nhiễm một tế
bào, virus tồn tại dưới dạng các hạt độc lập hoặc virion bao gồm: các vật liệu di truyền
(DNA hoặc RNA mã hóa cấu trúc của protein; một protein áo, các capsid bao quanh và
bảo vệ vật liệu di truyền, trong một số trường hợp có vỏ ngoài lipid). Hình dạng của virus
đa dạng (xoắn ốc, chữ nhật đơn giản, hình khối, lập phương,… Hầu hết các loại virus
không quan sát được bằng kinh hiển vi quang học, kích thước khoảng một phần tram so
với hầu hết các vi khuẩn [7].
2.1.2. Lịch sử và nguồn gốc
Virus được tìm thấy ở bất cứ nơi nào có sự sống và có lẽ đã tồn tại kể từ khi các
tế bào sống phát triển đầu tiên. Nguồn gốc của virus không rõ ràng vì chúng không
tạo thành hóa thạch, vì vậy các kĩ thuật phân tử đã được sử dụng để sánh DNA hoặc
RNA của virus là một phương tiện hữu ích để điều tra cách chúng phát sinh. Ngoài
ra vật liệu di truyền của virus đôi khi có thể tích hợp vào dòng mầm của sinh vật chủ,
nhờ đó chúng có thể được truyền theo chiều dọc cho con cái của vật chủ trong nhiều
thế hệ. Các giả thiết về nguồn gốc của virus:
4
Giả thuyết hồi quy: virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ kí sinh trên các
tế bào lớn hơn. Theo thời gian các gene không được yêu cầu bởi kí sinh trùng của
chúng đã biến mất. Đây được gọi là giả thuyết thoái hóa hoặc giả thuyết giảm.
Giả thuyết nguồn gốc tế bào: một số virus có thể đã tiến hóa từ các DNA
hoặc RNA “thoát” khỏi gene của một vi sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể đến từ
các plasmid hoặc transpose của tế bào
Giả thuyết đồng tiến hóa: đây cùng là giả thuyết đầu tiên về virus và cho rằng
virus có thể đã tiến hóa từ các phân tử phức tạp của protein và axit nucleic cùng lức
với các tế bào xuất hiện lần đầu trên Trái Đất và đã phụ thuộc vào sự sống của tế bào
trong hàng tỉ năm. Viroid là các phân tử RNA không được phân loại là virus vì chúng
thiếu lớp vỏ protein. Chúng có những đặc điểm chung cho một số loại virus và thường
được gọi là tác nhân phụ. Viroid là mầm bệnh quan trọng của thực vật. Chúng không
mã hóa protein những tương tác với tế bào chủ và sự dụng bộ máy tế bào chủ để sao
chép.
2.1.3. Đặc điểm
Đặc điểm chung của virus [7]:
- Virus rất nhỏ bé, kích thước chỉ trong khoảng 20nm đến 200nm (nhỏ hơn vi
khuẩn hàng ngàn lần).
- Không có cấu tạo tế bào, không có màng kép lipid bao bọc.
- Có đời sống kí sinh bắt buộc.
- Vật chất di truyền là một trong hai loại: DNA hoặc RNA mà không có cả hai.
- Không có hệ giải mã và dịch mã.
- Không tăng kích thước
- Không tự di chuyển.
- Không có khả năng tự phát triển và phân chia.
- Không bất hoạt hoàn toàn khi ở ngoài vật chủ.
2.1.4. Cấu trúc
Virus có cấu trúc đơn giản, không có cấu tạo tế bào, chỉ gồm axit nucleic được
bao bọc bởi một lớp vỏ protein bảo vệ gọi là capsid. Lớp vỏ này được tạo thành từ
những tiểu đơn vị protein giống hệt nhau gọi là capsome. Một số virus có một vỏ
5
bọc bằng lipid có xuất xứ từ màng tế bào vật chủ. Vỏ capsid được cấu tạo từ
protein được dịch mã từ bộ gene của virus và là cơ sở để phân biệt về mặt hình thái
học. Các tiểu đơn vị protein do virus mã hóa sẽ tự láp ráp để tạo nên vỏ capsid.Những
virus phức tạp còn mã hóa những protein trợ giúp cho quá trình xây dựng capsid của
chúng. Những protein kết hợp với axit nucleic gọi là nucleoprotein, sự kết hợp củ
những protein ở capsid với axit nucleic gọi là nucleocapsid.
Nhìn chung, có 4 loại hình thái virus:
- Xoắn ốc: Những virus này được tạo thành từ một loại capsomer duy nhất xếp
chồng lên quanh một trục trung tâm để tạo nên cấu trúc xoắn ốc, có thể có một khoang
trung tâm hoặc là một ống rỗng.Virion dạng hình que hay sợi, chúng có thể ngắn và
rất cứng, hoặc dài và rất linh hoạt. Vật liệu di truyền nhìn chung là RNA sợi đơn
(ssRNA) hoặc DNA sợi đơn (ssDNA), và được gắn chặt với chuỗi xoắn protein. Nói
chung, độ dài của vỏ capsid xoắn ốc có liên quan tới độ dài của axít nucleic bên trong
nó và đường kính phụ thuộc vào kích thước và cách sắp xếp các capsomer. Virus
khảm thuốc lá là một ví dụ của virus dạng xoắn ốc.
- Khối hai mươi mặt đều: Hầu hết virus động vật đều có dạng khối hai mươi mặt
đều hoặc gần hình cầu với hai mươi mặt đều đối xứng. Một khối hai mươi mặt
đều bình thường là cách tối ưu để tạo nên một vỏ khép kín từ những tiểu đơn vị giống
y như nhau. Tối thiểu có 12 capsomer cấu tạo từ 5 tiểu phần giống hệt nhau. Nhiều
virus, ví dụ rotavirus, có nhiều hơn 12 capsomer và xuất hiện dưới dạng hình cầu
nhưng vẫn giữ tính đối xứng. Capsomer tại mỗi đỉnh được bao quanh bởi 5 capsomer
khác gọi là penton. Capsomer trên những mặt hình tam giác thì được bao quanh bởi
6 và gọi là hexon. Hexon về bản chất thường phẳng và penton, cấu trúc tạo nên 12
đỉnh, lại thường cong. Cùng một protein cũng có thể là tiểu đơn vị của cả penton và
hexon, hoặc chúng có thể được cấu tạo bởi những protein khác nhau.
- Kéo dài: Có cấu trúc một khối hai mươi mặt đều được kéo dài gấp năm lần
theo chiều dài của trục; đây cũng cách sắp xếp phổ biến ở đầu của mỗi bacteriophage.
Nó tạo thành một hình trụ với nắp đậy ở hai đầu.
- Phức tạp: Những virus này có một capsid mà không hoàn toàn xoắn hay hoàn
toàn khối hai mươi mặt đều, và có thể mang những cấu trúc thêm vào như đuôi
6
- protein hoặc một vách ngăn ngoài phức hợp. Một số bacteriophages,
như Enterobacteria phage T4, có cấu trúc phức tạp bao gồm một đầu hình khối hai
mươi mặt đều gắn với một đuôi xoắn; đuôi này có thể có một đĩa nền lục giác đều với
các sợi đuôi protein nhô ra. Cấu trúc đuôi này đóng vai trò một ống tiêm phân tử,
giúp gắn vào vi khuẩn vật chủ rồi sau đó bơm bộ gen của virus vào bên trong tế bào.
Vỏ bọc:
Một vài loài virus bao phủ bản thân chúng bằng một lớp vỏ bọc:có thể là lớp
màng ngoài bao quanh tế bào vật chủ bị nhiễm, hoặc màng trong như màng
nhân hay mạng lưới nội chất, tạo ra một lớp lipid kép bao ngoài được gọi là vỏ bọc
virus (viral envelope). Màng này được đính vào những protein mã hóa bởi bộ gen
virus và bộ gen vật chủ; ngoài ra, tất cả màng lipid và bất cứ carbohydrate đều có
nguồn gốc từ vật chủ (Virus cúm và HIV). Hầu hết các virus có màng đều phụ thuộc
vào lớp vỏ của chúng để có thể xâm nhiễm vào vật chủ
Ngoài ra, một số virus có hình thái bất thường như:
Poxvirus: Bộ gen được gắn với protein bên trong một cấu trúc đĩa ở trung tâm
gọi là một nucleoid. Nucleoid được bao quanh bởi một lớp màng và hai cơ quan ở hai
bên mà không rõ chức năng. Virus có một vỏ bọc ngoài với một lớp protein dày đính
trên bề mặt vỏ bọc
Mimivirus là virus lớn nhất thường được biết, đường kính vỏ capsid là 400 nm.
Các sợi protein có thể nhô lên khỏi bề mặt với chiều dài lên tới 100 nm. Vỏ capsid có
dạng đa giác đều dưới kính hiển vi điện tử, do đó có thể đây là một virus dạng khối
hai mươi mặt đều. Năm 2011, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra một virus lớn hơn
ở đáy đại dương gần bờ biển Las Cruces, Chile. Nó tạm được đặt tên là Megavirus
chilensis, và có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi quang học cơ bản.
Một vài loại virus trên vi khuẩn cổ có cấu trúc phức tạp mà không liên quan tới
bất kỳ dạng virus nào khác, với những hình dạng bất thường rất đa dạng, từ những
cấu trúc hình con suốt, cho tới hình que có móc, hình giọt nước, hay thậm chí cả hình
cái chai. Những virus trên vi khuẩn cổ giống khác thì tương tự với những
bacteriophage có đuôi, và có thể có nhiều dạng cấu trúc đuôi khác nhau.
7
Lõi virus
Cấu trúc bộ gene của virus rất đa dạng. Có tới hàng triệu loại virus khác nhau, những
chỉ có khoảng 5.000 trong số đó đã được mô tả chi tiết. Một virus có các gen DNA
hay RNA được gọi tương ứng là một virus DNA hoặc virus RNA. Phần lớn virus có
bộ gen là RNA. Virus thực vật có xu hướng có bộ gen RNA sợi đơn và bacteriophage
thường có bộ gen DNA sợi đôi.
Bộ gen virus có dạng mạch vòng, như ở polyomevirus, hay mạch thẳng, như
ở adenovirus. Loại axít nucleic không liên quan tới hình dạng của bộ gen. Ở các virus
RNA hay một số virus DNA, bộ gen thường được phân làm các phần riêng biệt, gọi
là bị phân đoạn. Với virus RNA, mỗi phân đoạn thường mã hóa cho chỉ một protein
và chúng thường được tìm thấy với nhau trong một capsid. Tuy nhiên, tất cả phân
đoạn không bắt buộc phải ở trong cùng một virion của virus để có thể xâm nhiễm, như
được minh chứng ở virus khảm brôm và vài loại virus thực vật khác.
Với hầu hết virus có bộ gen RNA và một số với bộ gen DNA sợi đơn, những
sợi đơn lẻ được cho là có tính dương (+) hoặc tính âm. RNA dương tính tức là chiều
với mRNA và do vậy có ít nhất một phần của nó có thể dịch mã trực tiếp bởi tế bào
vật chủ. RNA âm tính thì bổ sung với mRNA và do vậy phải được chuyển thành RNA
dương tính bởi một enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA trước khi dịch mã. Danh
pháp DNA với virus bộ gen ssDNA đơn tính thì tương tự như danh pháp RNA, trong
đó sợi mã hóa cho mRNA của virus thì bổ sung với nó (-) và sợi không mã hóa là một
bản sao của nó (+).Tuy nhiên, một vài loại virus ssDNA và ssRNA có bộ gen lưỡng
tính trong đó sự phiên mã và dịch mã có thể xảy ở cả hai loại sợi trong một trung gian
sao chép dạng sợi đôi. Ví dụ như geminivirus, những virus thực vật có bộ gen ssDNA,
và arenavirus, những virus động vật có bộ gen ssRNA.
Kích thước bộ gen khác biệt rất lớn giữa các loài khoảng 2000-1,2 triệu cặp
bazo. Nói chung, virus RNA có bộ gen nhỏ hơn virus DNA do có tỷ lệ lỗi cao hơn
khi sao chép, và có giới hạn trên về kích thước tối đa. Khi vượt qua giới hạn này,
những lỗi trong bộ gen khi sao chép sẽ làm cho virus trở nên vô dụng hoặc không có
tính cạnh tranh. Để khắc phục điều này, virus RNA thường có bộ gen phân đoạn –
chia bộ gen thành những phân tử nhỏ hơn – để làm giảm xác suất mà một lỗi
8
trong một bộ gen đơn phần sẽ làm mất khả năng của toàn bộ bộ gen. Trái ngược
lại, virus DNA thường có bộ gen lớn hơn do độ chính xác cao của những enzym sao
chép của chúng. Tuy nhiên những virus DNA sợi đơn là một ngoại lệ của quy luật
này, bởi tỷ lệ đột biến ở bộ gen những loại này có thể đạt đến mức cực đại như ở
trường hợp virus RNA sợi đơn.
2.1.5. Chu trình nhân lên [7]
Virus sử dụng bộ máy và hệ trao đổi chất của tế bào vật chủ để tạo ra rất nhiều
bản sao của chính chúng và tự lắp ráp ở bên trong đó. Chu trình sống của virus có sự
khác nhau rất lớn giữa các loài, nhưng nhìn chung có 6 giai đoạn cơ bản trong chu
trình sống của virus như sau:
1. Hấp phụ: Đây là giai đoạn liên kết đặc hiệu giữa protein của vỏ capsid của
virus với những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào vật chủ. Tính đặc hiệu này giúp
xác định biên độ vật chủ của virus. Ví dụ HIV xâm nhiễm vào một phạm vi giới hạn
những tế bào bạch cầu của người. Điều này là vì protein gp120 trên bề mặt của virus
tương tác đặc hiệu với phân tử CD4 – một thụ thể chemokine thường được tìm thấy
nhiều nhất trên bề mặt của tế bào T CD4+. Cơ chế này đã tiến hóa để giúp những
virus này có thể lây nhiễm chỉ trên những tế bào mà chúng có khả năng nhân lên trong
đó. Sự hấp phụ thụ thể có thể tạo ra những thay đổi đối với những protein của vỏ bọc
virus, dẫn đến sự hợp nhất lớp lipid kép của màng tế bào và màng virus, hoặc tạo ra
những biến đổi của protein bề mặt của virus để cho phép virus đi được vào bên trong.
2. Xâm nhập sau khi đã hấp phụ: Virion đi vào trong tế bào vật chủ nhờ sự nhập
bào qua trung gian thụ thể hoặc sự hợp nhất màng. Sự xâm nhiễm của virus lên tế bào
thực vật và nấm khác biệt với sự xâm nhiễm lên tế bào động vật. Thực vật có một
thành tế bào bằng cellulose rắn chắc, và nấm cũng có thành tế bào từ chitin, cho nên
hầu hết virus đều chỉ có thể đi vào trong những tế bào này sau một tổn thương nào
đấy lên thành tế bào. Tuy nhiên, gần như tất cả virus lại có thể di chuyển trực tiếp từ
tế bào này qua tế bào khác thông qua các lỗ gọi là sợi liên bào (plasmodesma). Vi
khuẩn, giống với thực vật, cũng có một thành tế bào vững chắc mà virus buộc phải
chọc thủng để xâm nhiễm vào tế bào. Tuy nhiên, thành tế
9
bào vi khuẩn kém dày hơn nhiều so với thành tế bào thực vật nên một số virus
đã phát triển những cơ chế giúp bơm bộ gen của chúng vào tế bào vi khuẩn
xuyên qua thành tế bào, trong khi vỏ capsid vẫn còn ở bên ngoài.
3. Loại bỏ lớp vỏ: lớp vỏ capsid của virus có thể bị tan rã do enzyme của virus
hoặc tế bào chủ hay bởi sự phân ly đơn giản dẫn đến sự giải phóng ra axít nucleic của
bộ gen virus.
4. Nhân lên: Sự nhân lên của virus chủ yếu liên quan đến sự nhân lên của bộ
gen virus. Quá trình nhân lên bao gồm sự tổng hợp những RNA thông tin (mRNA)
của virus từ những gen "sớm", sự tổng hợp protein, việc lắp ráp của những protein có
thể có, và sau cùng là sự sao chép bộ gen virus được quy hoạch bởi biểu
hiện của protein "sớm" hoặc protein điều hòa. Việc này có thể kéo theo một hoặc
nhiều chu kỳ tổng hợp mRNA - đối với những virus phức tạp có bộ gen lớn - tạo ra
sự biểu hiện gen "muộn" của protein virion hoặc protein cấu trúc.
5. Biến đổi protein sau lắp ráp: Sau sự tự lắp ráp do cấu trúc quy định để tạo
nên các phần tử virus, thường xảy ra một số thay đổi trong các protein. Ở những virus
như HIV, sự thay đổi này diễn ra sau khi virus đã được giải phóng ra khỏi tế bào chủ.
6. Phóng thích: Virus có thể được giải phóng ra khỏi tế bào vật chủ nhờ tiêu
bào. Đây là một quá trình tiêu diệt tế bào bằng cách phá tan màng tế bào (và thành tế
bào nếu có) của vật chủ. Sự phóng thích nhờ tiêu bào là một đặc tính của nhiều virus
động vật và vi khuẩn. Một số virus trải qua chu trình tiềm tan, khi mà bộ gen của
virus được kết hợp do tái tổ hơp di truyền vào một vị trí cụ thể trong chromosome của
vật chủ. Bộ gen của virus lúc này được gọi là một "provirus", hoặc trong trường hợp
của bacteriophages là một "prophage". Bất cứ khi nào vật chủ phân chia, bộ gen của
virus cũng được nhân lên cùng. Bộ gen này phần lớn thời gian sẽ không hoạt động ở
bên trong vật chủ, tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó, provirus hay prophage có thể
làm hoạt hóa virus, điều này có thể sẽ làm tan tế bào vật chủ. Những virus có vỏ bọc
(ví dụ HIV) có đặc trưng là giải phóng khỏi tế bào chủ nhờ "nảy chồi". Trong quá
trình này, virus sẽ nhận được vỏ bọc
10
của chúng, là một phần nhỏ đã qua chỉnh sửa của tế bào chất hoặc các màng bên
trong khác của tế bào vật chủ.
2.1.6. Bệnh do virus ở người
Virus là tác nhân gây ra nhiều loại bệnh ở người. Từ những bệnh thông thường
như cảm lạnh, cúm mùa, thủy đậu, mụn rộp… đến các bệnh nghiêm trọng như sốt
Ebola, AIDS, cúm gia cầm, SARS….
Các virus có những cơ chế gây bệnh khác nhau ở một sinh vật, phụ thuộc phần
lớn vào loài virus. Cơ chế ở cấp độ tế bào chủ yếu là tiêu bào dẫn đến cái chết của tế
bào sau đó. Ở các sinh vật đa bào, nếu có đủ số lượng tế bào chết, toàn bộ cơ thể sẽ
bắt đầu chịu tác động. Mặc dù virus cũng gây nên sự gián đoạn của cân bằng nội
môi gây nên bệnh tật, chúng có thể cùng tồn tại một cách vô hại bên trong cơ thể. Ví
dụ virus herpes, nguyên nhân gây ra bệnh rộp môi, virus Epstein-Barr, gây ra bệnh sốt
tuyến, virus varicella zoster, loại gây ra thủy đậu và zona có thể duy trì trạng thái bất
hoạt bên trong cơ thể người. Đây gọi là trạng thái tiềm ẩn (latency). Những virus tiềm
ẩn này đôi khi có thể có lợi, vì sự có mặt của virus làm gia tăng sự miễn dịch chống
lại các mầm bệnh vi khuẩn, ví dụ như Yersinia pestis.
Một số loại virus có thể gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính hoặc suốt đời, khi mà
virus tiếp tục nhân lên trong cơ thể bất kể có những cơ chế phòng ngự của vật
chủ. Điều này rất phổ biến với bệnh do virus viêm gan B và viêm gan C. Những người
bị nhiễm bệnh mãn tính gọi là những người mang (carrier), do họ đóng vai trò một
nguồn dự trữ loại virus xâm nhiễm. Ở những quần thể có tỷ lệ người mang cao, căn
bệnh được coi là có tính địa phương.
2.2. Tổng quan về virus
2.2.1. Tổng quan về virus cúm
Bệnh cúm gặp ở khắp nơi trên thế giới, xảy ra thành dịch theo mùa trong năm,
hằng năm bệnh gây chết cho hàng trăm ngàn người, trong các vụ đại dịch lớn con số
tử vong có thể lên đến hàng triệu người trên toàn cầu. Trong thế kỷ 20, virus cúm đã
gây nên 3 vụ đại dịch cúm lớn trên toàn cầu và đã cướp đi sinh mạng của hàng chục
triệu người [27]. Theo ước tính mới của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch
bệnh Hoa Kỳ (US-CDC), Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác y tế toàn cầu, có tới
11
650 000 ca tử vong hàng năm liên quan đến các bệnh hô hấp do cúm theo mùa
[27].Các đại dịch cúm lớn ở người gồm:
- Đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 do virus cúm A chủng H1N1.
- Cúm châu Á năm 1957 do chủng H2N2.
- Dịch cúm Hồng Kong năm 1968 do chủng H3N2.
- Dịch cúm Nga năm 1977 do chủng H1N1 [27]
Mỗi vụ dại dịch cúm này được gây ra do sự xuất hiện của một chủng của virus cúm
mới cho người. Thông thường, các chủng mới này có nguồn gốc của một virus cúm đã
có sẵn trên các loài động vật khác nhau, virus này đã biến đổi hệ gene để có những đặc
tính thích nghi hơn và có thể lây sang cho người [9].
Virus cúm thuộc họ Orthomyxoviridae, người ta chia virus cúm thành 3 type huyết
thanh và cúm A, B, C. Trong đó virus cúm type A (gọi tắt là virus cúm A) là tác nhân
chủ yếu gây bệnh cúm ở người và động vật, virus cúm B chỉ tìm thấy gây bệnh ở người,
virus cúm C ít khi gây bệnh cho người.
Đối với virus cúm type A, dựa vào các kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (kháng
nguyên H) và neuraminidase (kháng nguyên N) ở bề mặt của virus người ta phân chia
thành nhiều type. Hiện nay có khoảng 16 dưới type với kháng nguyên ngưng kết hồng
cầu (H1 đến H16) và 9 dưới type kháng nguyên N (từ N1 đến N9). Virus cúm A có nhiều
vật chủ gồm người, chim, lợn, ngựa. Các dưới type cúm A thường gây nhiễm trùng ở
những động vật vật chủ đặc thù, mặc dù đôi khi chúng có thể gây nhiễm trùng chéo.
Virus cúm dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ thường những có sức sống khá dai dẳng ở nhiệt độ
thấp.
Theo thống kê cứ khoảng 10-15 năm dịch cúm lại xuất hiện trở lại với những biến
chứng mới rất khó lường. Người ta nhận thấy rằng trong 3 type virus cúm A,B,C thì virus
cúm A thường là thủ phạm của các đại dịch. Những nghiêm cứu gần đây cho thấy virus
cúm A có khả năng thay đổi kháng nguyên để kháng lại kháng thể của người bệnh. Hơn
nữa virus cúm A gây bênh ở người còn có thể lai ghép với cúm A gây bệnh ở động vật
để tạo ra virus có kháng nguyên khác hẳn với kháng nguyên của virus cúm A nguyên
thủy.
12
Theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO) dự đoán có một đại dịch cúm
gia cầm mới sẽ bùng phát ở tất cả các nước, tấn công khoảng 25-30 % dân số thế giới và
cướp đi hàng triệu sinh mạng con người. vì vậy chính phủ các nước cần phải chuẩn bị và
tăng cường các biện pháp phòng ngừa để giảm thiệt hại về người và của [26].
Từ năm 1997 một chủng virus cúm A H5N1 bắt đầu phát hiện ở gia cầm và lây
nhiễm cho những người tiếp xúc trực tiếp và làm tử vong cho người trong một số nước
châu Á: Indonexia, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam,…
Hiện nay bệnh cúm đã và đang xảy ra ở gia cầm trong khu vực Châu Á và nhiều
nước trên thế giới. Dịch cúm A H5N1 là chủng có độc lực cao ở các loài chim di cư và
gia cầm, phát triển nhanh và khó kiểm soát vì ở gia cầm và các loài chim di cư, những
cá thể mang virus làm lan nhanh mầm bệnh từ vùng này đến vùng khác và từ quốc gia
này sang quốc gia khác [21].
Một chủng virus cúm A khác là H1N1 đã xuất hiện vào năm 2009 xuất phát từ
Mexico và Hoa Kỳ, và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Chủng này là một
biến thể mới do kết hợp nhiều gene khác nhau từ cúm người, cúm heo và cúm gà được
gọi là “cúm heo” (swine flue). Đến cuối tháng 4/2009, cúm heo H1N1 đã gây tử vong
cho hơn 150 người ở Mexico, và sau đó nhanh chóng lan ra khắp thế giới. Ngày
11/6/2009, Tổ chức sức khỏe Thế giới (WHO) đã công bố nâng cấp dịch cúm H1N1 lên
pha 6, pha dịch cúm toàn cầu [26][27]. Theo thông báo của trung tâm y tế dự phòng và
kiểm soát dịch bệnh Châu Âu (ECDC), đến ngày 11/8/2009 toàn thế giới đã ghi nhận
212.008 trường hợp dương tính với cúm A (H1N1) tại 168 Quốc gia và vùng lãnh thổ,
trong đó có 1.717 trường hợp tử vong (tỷ lệ tử vong vào khoảng 0,81%). Đến ngày
28/8/2009 đã có đến 209.438 người nhiễm virus cúm A (H1N1), trong đó có 2.185
trường hợp tử vong[26]. Bệnh cúm thông thường bệnh diễn biến nhẹ và hồi phục trong
vòng 2-7 ngày, nhưng đối với trẻ em, người già sức đề kháng kém, đặc biệt là người
có bệnh mãn tính về tim phổi, thận, bệnh chuyển hóa, thiếu máu hoặc suy giảm miễn
dịch ... thì bệnh cúm có thể diễn biến nặng hơn, dễ bị biến chứng và có thể dẫn đến
tử vong nếu không điều trị kịp thời. Biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là chủ động
tiêm vắc xin cúm để phòng bệnh. Mặc dù tỉ lệ tử vong thấp, những
13
bệnh diễn biến nhanh, lây lan mạnh. Tình hình dịch còn đang diễn biến phức tạp
và nguy cơ lây lan thành đại dịch trên toàn cầu [21].
Theo Trung tâm Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), từ năm 2010 trở lại đây,
mỗi năm trên thế giới có khoảng 9 - 45 triệu trường hợp mắc cúm với khoảng trên
61.000 trường hợp tử vong do biến chứng viêm phổi do cúm.
Những trường hợp đã được xác nhận bởi xét nghiệm tìm thấy virus cúm A (H1N1)
phần lớn là trẻ em và người trẻ tuổi. Nhiễm virus cúm H1N1 mới ở người trong đa số
trường hợp có biểu hiện cúm nhẹ, tỉ lệ tử vong thấp. Những trường hợp nặng chỉ xảy ra
ở phụ nữ có thai, hay người lớn tuổi bị bệnh tim phổi mãn tính. Trong vụ dịch cúm H1N1
năm 2009, phần lớn trường hợp nhiễm virus cúm A (H1N1) có diễn biến lành tính, chỉ
những trường hợp nặng cần phải nhập viện hoặc dùng kháng sinh [1].
Cúm lây nhiễm trục tiếp từ người sang người thông qua các giọt bắn nhỏ khi nói
chuyện, ho hoặc hắt hơi. Tại Việt Nam các virus gây bệnh cúm mùa thường gặp là cúm
A/H3N2, A/H1N1 và cúm B[1]. Nhiễm virus cúm gia cầm H5N1 bắt đầu được nghiên
cứu và thông báo ở Việt Nam sau những trường hợp đầu tiên được thông báo ở Hồng
Kong năm 1997. Sau khi tại Hà Nam các trường hợp bệnh được phát hiện bằng chẩn
đoán chính xác tại phòng thí nghiệm vào tháng 12/2003, ngành Y tế dự phòng đã tăng
cường tiến hành công tác giám sát chặt chẽ các trường hợp bệnh viêm đường hô hấp có
lâm sàng nghi ngờ do virus và tiền sử tiếp xúc với gia cầm, đặc biệt gia cầm bị bệnh,
chết. Các trường hợp có nghi ngờ đều được nhập viện tại bệnh viện Trung Ương tại Hà
Nội, TP Hồ Chí Minh và các bệnh viện lớn trên cả nước để lấy mẫu bệnh phẩm làm xét
nghiệm xác định căn nguyên virus gây bệnh. Kể từ tháng 12/2003 tới tháng 12/2013
cả nước đã ghi nhận 125 ca bệnh và 62 ca tử vong (tỷ lệ tử vong trong số ca mắc là
49,6%), là nước đứng thứ 3 trên thế giới về số ca mắc và số ca tử vong (sau Indonesia
và Ai Cập) [8].
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này đều là những virus nguy hiểm dễ bùng phát
thành đại, là mối nguy đối với xã hội vì vậy có rất nhiều nghiên cứu về tình hình dịch
tễ học cũng như các vấn đề liên quan đến Cúm A/B.Theo bài báo công bố trên tạp chí
Nhi khoa Ấn Độ của Kumar V. và cộng sự năm 2016, cúm là một trong
14
những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh hô hấp cấp tính ở trẻ em trong
đó Cúm A và Cúm B là 2 virus gây bệnh chính [34]. Theo báo cáo về bệnh nhân liên
quan đến dịch cúm A (H1N1) 2009 ở Ấn Độ chỉ ra rằng độ tuổi trung bình của bệnh
nhân dương tính với H1N1 từ 3 tháng đến 10 tuổi và 60% là nữ [35]. Phân tích trẻ
em bị nhiễm virus cúm A tại Thượng Hải-Trung Quốc, bệnh nhân có độ tuổi từ 11
tháng đến 14 tuổi, và nữ chiếm 40% [36].
Tại Việt Nam, Nguyễn Hòai Linh Ly nghiên cứu sự lưu hành của virus cúm B tại
miền Bắc Việt Nam chỉ ra rằng lưu hành đồng thời 2 dòng kháng nguyên B/Vicroria
(B/Victoria/2/87-lineage) và B/Yamagata (B/Yamagata/16/88-lineage), trong đó dòng
B/Victoria chiếm ưu thế năm 2010, 2011 và dòng B/Yamagata chiếm ưu thế năm 2012
[13]. Nguyễn Lê Khánh Hằng đã chỉ ra rằng các dịch cúm tại miền Bắc Việt Nam từ năm
2000 đến nay đều có nguyên nhân là virus cúm tuýp A/B. Virus cúm A/H1N1 là căn
nguyên chủ yếu gây dịch trong 3 năm: 2003, 2006 và 2008. Virus cúm A/H3N2 là căn
nguyên chủ yếu gây dịch trong 4 năm: 2002, 2004, 2005 và 2007. Virus cúm B là căn
nguyên chủ yếu gây dịch năm 2001. Virus cúm A/H5N1 là một trong những căn nguyên
gây viêm phổi nặng từ tháng 12/2003 đến tháng 5/2009. Virus cúm mùa lưu hành quanh
năm, thường tập trung vào 2 thời điểm là cuối mùa xuân (tháng 2-3) và giữa mùa hè ( tháng
7-8). Virus cúm A/H5N1 xuất hiện tập trung chủ yếu vào mùa đông –xuân.) [14].
2.2.2. Tổng quan về virus HIV
HIV (Human Immunodeficiency Virus) - tên gọi của một loại virus gây suy
giảm miễn dịch[3]. HIV làm cho cơ thể người mất dần sức đề kháng với các vi sinh
vật gây bệnh, tạo ra các nhiễm trùng cơ hội và tạo điều kiện phát triển ung thư cũng
như nhiều bệnh lý nguy hiểm khác. Nguồn gốc của HIV bắt nguồn từ châu Phi: có 2
chủng HIV là HIV-1 (bắt nguồn từ tinh tinh) và HIV-2 (bắt nguồn từ loài khỉ Sooty
Mangabey ở châu Phi). HIV-1 có khả năng lây truyền cao trên phạm vi toàn cầu[12].
Khi HIV xâm nhập vào cơ thể, nó sẽ xâm nhập vào tế bào bạch cầu CD4. Ngoài
ra, HIV còn có thể xâm nhập vào các tế bào khác như: lympho bào B, đại thực bào,
tế bào hình sao, tế bào nguồn, tế bào xơ non,... [5]. Khi đó, virus chiếm
15
lấy tế bào, sử dụng tế bào để sản sinh ra hàng trăm nghìn bản sao, đồng thời phá
hủy tế bào CD4. Tiếp theo, những bản sao virus HIV này sẽ xâm nhập vào hệ tuần
hoàn, tiếp tục gắn vào tế bào CD4 khác, tiếp tục nhân lên. Vì các tế bào CD4 có vai
trò chống lại các tác nhân gây bệnh cho cơ thể nên khi lượng tế bào CD4 bị thiếu hụt
thì sẽ làm giảm sức đề kháng khiến họ dễ mắc bệnh. Bên cạnh đó, khi số lượng virus
HIV trong máu tăng lên, nguy cơ lây truyền virus từ người bệnh sang người khỏe
mạnh cũng tăng theo.Ở người lớn khỏe mạnh số lượng CD4 dao động từ 500 - 1500
tế bào/mm3 máu. Ở người mắc HIV, nếu CD4 ở mức từ 350 - 500 tế bào/mm3 máu
tức là hệ miễn dịch suy giảm nhẹ. Nếu CD4 ≤ 200 tế bào/mm3 máu đồng nghĩa với
việc hệ miễn dịch bị suy giảm nặng, nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội cao
[5].
Các rối loạn chính trong đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân HIV/AIDS gồm: Giảm
số lượng tế bào lympho T toàn phần, đặc biệt là CD4 giảm nặng, tỷ lệ CD4/CD8
giảm. Giảm chức năng của các tế bào miễn dịch như giảm khả năng tăng sinh tế bào
đối với các chất gây phân bào và kháng nguyên, giảm đáp ứng độc tế bào vì giảm
chức năng tế bào CD8 và tế bào giết tự nhiên. Phức hợp miễn dịch tăng, tăng các tự
kháng thể và một số protein khác trong huyết thanh, tăng gamma-globulin. Giảm đáp
ứng kháng thể nguyên phát đối với những kháng nguyên mới tiếp xúc lần đầu.
Gamma-interferon trong các bệnh nhận HIV/AIDS giảm [7].
Thời gian trung bình từ khi nhiễm HIV virus tới khi tiến triển thành AIDS là
khoảng 10 năm. Một số bệnh nhân có thể tiến triển nhanh đến AIDS chỉ trong vài
tháng [7]. Bệnh tiến triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có liên quan chặt
chẽ tới số lượng và chức năng của tế bào CD4. Các giai đoạn nhiễm HIV virus gồm [2]:
Nhiễm cấp tính
Giai đoạn cấp tính xảy ra 2 – 4 tuần sau khi nhiễm virus. Đa số các trường hợp
bị lây bệnh có các triệu chứng giống như cúm: sốt, phát ban, đau cơ, đau khớp, đau
đầu, suy nhược, sưng hạch ở cổ và bẹn,... Các triệu chứng nhẹ, không gây chú ý
nhưng virus đang sinh sôi và lây lan khắp cơ thể trong thời gian này. Đây là thời kỳ
có khả năng lây truyền virus HIV sang người khác cao nhất vì số lượng virus trong
máu của bệnh nhân rất cao.
16
Ẩn bệnh:
Thường kéo dài nhiều năm. Xuất hiện rất ít triệu chứng của HIV trong giai
đoạn này. Nhiều người có thể không có triệu chứng trong nhiều năm. Virus có trong
cơ thể nhưng không tấn công hệ miễn dịch. Tuy nhiên, phát hiện và điều trị bệnh
trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng.
AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải):
Giai đoạn ADIS thường diễn ra nhiều năm sau khi bị lây nhiễm HIV. Số lượng
virus tăng nhanh, tấn công và tiêu diệt các tế bào miễn dịch của cơ thể. Vì vậy, người
bệnh có phản ứng miễn dịch rất yếu, mất khả năng kháng nhiễm. Người bệnh có nhiều
triệu chứng khác nhau: sụt cân nhiều, nấm miệng, sốt kéo dài, tiêu chảy kéo dài, viêm
phổi, lao phổi, viêm da, viêm mũi, viêm màng não, loét miệng nặng, thiếu máu,... Ở
giai đoạn cuối của AIDS, người bệnh có những biểu hiện như suy kiệt, nấm thực
quản, các bệnh nhiễm trùng cơ hội nặng, suy giảm trí nhớ, ung thư,... Có nhiều loại
thuốc có thể điều trị cho bệnh nhân AIDS nhưng không thể trị dứt điểm.
Trong 40 năm qua, đại dịch HIV/AIDS đã cướp đi sinh mạng của hơn 3 triệu
người trên thế giới. Theo thống kê của Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về
HIV/AIDS (UNAIDS), trên thế giới có khoảng 37,9 triệu người đang sống chung với
virus nguy hiểm này và 23,3 triệu người bệnh đang điều trị bằng thuốc kháng HIV
(ARV) [25]. Năm 2018, có khoảng 37,9 triệu người trên toàn cầu bị nhiễm HIV /
AIDS vào năm 2018. Trong số này, 36,2 triệu là người trưởng thành và 1,7 triệu là
trẻ em (<15 tuổi) [28]., số ca tử vong do nhiễm HIV đã giảm còn khoảng 770.000
trường hợp, giảm 30.000 ca so với năm 2017 và giảm 33% so với năm 2010- thời
điểm cả thế giới ghi nhận 1,2 triệu ca nhiễm HIV tử vong [28]. Đặc biệt, trong khi số
ca tử vong liên quan đến AIDS tại châu Phi- khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
của căn bệnh này- giảm trong thập kỷ vừa qua, thì khu vực Đông Âu lại ghi nhận số
ca tử vong tăng 5%, khu vực Trung Đông và Bắc Phi cùng ghi nhận mức tăng 9%.
Số ca nhiễm mới ở các khu vực này cùng có mức tăng lần lượt 29% và 10 %. Hơn
50% các ca nhiễm HIV mới trên toàn cầu thuộc nhóm người có nguy cơ cao như
người sử dụng ma túy, quan hệ đồng giới, chuyển giới, người làm nghề mại dâm và
tù nhân [28]. Và có chưa tới 50 % những người trong nhóm này được
17
sử dụng các biện pháp phòng ngừa HIV. Trong năm 2018, toàn thế giới có hơn
160.000 ca nhiễm HIV mới là trẻ em, giảm 41% so với năm 2010, song vẫn nhiều
gấp 4 lần so với mục tiêu đề ra. Hiện HIV được xác định là nguyên nhân gây tử vong
đừng hàng thứ tư ở các nước thu nhập thấp và đứng thứ 2 ở các nước châu Phi- cận
Sahara. Xung đột, nội chiến, biến đổi khí hậu và tình trạng di dân ồ ạt đã và đang
khiến nguy cơ lây nhiễm HIV tăng cao cùng như gây ra những khó khăn trong công
tác phát hiện, ngăn ngừa và điều trị HIV-AIDS.
Tính đến ngày 31/10/2019, Việt Nam có 211.981 người nhiễm HIV còn sống
và 103.426 người nhiễm HIV đã tử vong. Trong 10 tháng đầu năm 2019, cả nước xét
nghiệm phát hiện mới 8.479 trường hợp nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16-
29 (40,1%) và 30-39 (33,8%) [3]. Đường lây chủ yếu là quan hệ tình dục không an
toàn (67,2%) và qua đường máu (16,6%), mẹ sang con 1,8% còn lại không có thông
tin về đường lây truyền. Trong số nhiễm mới HIV, có 36% là phụ nữ lây từ chồng,
bạn tình bị nhiễm HIV, 24% là người quan hệ tình dục đồng giới và người chuyển
giới nữ, 23% là người nghiện chích ma túy, 10% là người mua dâm, 5% là nam giới
lây từ vợ, bạn tình bị nhiễm HIV, 2% là phụ nữ bán dâm. HIV/AIDS chủ yếu tập
trung ở 2 TP lớn là TP HCM và Hà Nội, chiếm 35% số người nhiễm HIV của cả
nước; tiếp đến là các tỉnh, thành Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Phòng, Quảng
Ninh, An Giang, Thái Nguyên, Đồng Nai, mỗi tỉnh chiếm khoảng 3% số người nhiễm
HIV cả nước [3] .
2.2.3. Tổng quan về virus viêm gan C
Viêm gan C là một trong những bệnh truyền nhiễm về gan, nguy hiểm do virus
Hepatitis C virus (HCV) gây nên [23]. Đây là một trong 5 loại viêm gan chính gồm
viêm gan A, viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D và viêm gan E [6]. Bệnh lây truyền
từ người mang virus viêm gan C sang cho người lành theo 3 con đường gồm đường
máu, đường tình dục và mẹ truyền cho con qua nhau thai khi sinh. Tuy vậy, nguy cơ
lây nhiễm theo đường tình dục của Viêm gan B hiếm hơn bệnh viêm gan B. Hiện
tượng mẹ truyền virus viêm gan C cho con đã có ghi nhận nhưng tỷ lệ cũng thấp. Như
vậy, nguy cơ lây nhiễm virus viêm gan C chủ yếu theo đường máu (người nhận máu
hoặc chế phẩm máu nhiễm siêu vi C; dùng chung kim tiêm; một
18
số nguyên nhân khác như châm cứu, bấm lỗ tai, xăm mình mà các dụng cụ hành
nghề không tuyệt đối vô khuẩn...) [5]. Ngoài ra, có một tỷ lệ khoảng từ 30 - 40%
trường hợp bị nhiễm HCV nhưng không rõ nguyên nhân lây nhiễm. Viêm gan C có
thể được điều trị bằng thuốc kháng vi rút vì hiện nay vẫn chưa có vắc xin phòng viêm
gan C [6].Viêm gan C chia thành 2 giai đoạn: Viêm gan C cấp tính và viêm gan C
mạn tính [23].
- Viêm gan C cấp tính: là một bệnh nhiễm virus phát triển trong những tuần đầu
tiên hoặc vài tháng sau khi siêu vi viêm gan C xâm nhập vào máu của một người. Tuy
nhiên, một số người sẽ có những biểu hiện từ nhẹ tới nặng sau khi bị nhiễm virus,
bao gồm: Mệt mỏi, chán ăn. Đây là dấu hiệu khá phổ biến ở người bệnh viêm gan C
cấp tính. Người bị nhiễm có triệu chứng này là do virus viêm gan C tấn công trực tiếp
vào hệ miễn dịch, từ đó khiến cho người bệnh mệt mỏi, lười hoạt động, ngại di chuyển
ngay cả khi nằm. Biểu hiện khác của thể cấp tính là Sốt nhẹ. Triệu chứng sốt này có
thể kéo dài hoặc xảy ra theo từng cơn. Thông thường, người bệnh khá lơ là khi có
dấu hiệu này vì nghĩ chỉ do thời tiết hoặc cảm mạo bình thường. Da vàng, ngứa hoặc
mắt vàng cũng là những biểu hiện của người mắc viên gan C thể cấp tính. Ở giai đoạn
đầu, triệu chứng này rất ít xuất hiện. Nguyên nhân của triệu chứng này là do virus
viêm gan C làm cho hoạt động của gan bị trì trệ, ảnh hưởng đến khả năng lọc thải các
chất độc có hại ra khỏi cơ thể, từ đó khiến cho nồng độ bilirubin trong máu tăng cao
nên sẽ gây hiện tượng vàng mắt, vàng da ở người bệnh. Ngoài những triệu chứng kể
trên, người bệnh còn có thể có một số biểu hiện khác, như: đau nhức cơ bắp, đau ở
phần trên bên phải của ổ bụng, đau cơ hoặc khớp, buồn nôn hoặc nôn, đau dạ dày, sụt
cân, nước tiểu vàng sậm, phân bạc màu, dễ chảy máu, dễ bầm tím. Trong 25% trường
hợp, virus sẽ tự xóa khỏi cơ thể mà không cần điều trị. Nếu không có dấu hiệu rõ rệt
về bệnh tật, hầu hết các ca viêm gan C cấp tính đều dẫn đến nhiễm trùng mãn tính.
Mỗi năm, có khoảng 150 triệu người bị nhiễm vi rút viêm gan C mạn tính có nguy cơ
phát triển thành xơ gan, ung thư gan hoặc suy gan dẫn đến tử vong. Sau lây nhiễm
ban đầu, khoảng 80% người không thể hiện bất kỳ triệu chứng nào và khi làm các xét
nghiệm anti-HCV vẫn cho
19
kết quả âm tính với virus bởi cơ thể chưa có thời gian để tạo ra các kháng thể
chống lại virus [23].
- Viêm gan C mạn tính: Ước tính từ 75% đến 85% những người bị viêm gan C
cấp tính sẽ bị nhiễm trùng mãn tính, kéo dài ít nhất 6 tháng và thường lâu hơn. Ngay
cả ở giai đoạn này, hầu hết mọi người không có triệu chứng, nhưng điều đó không có
nghĩa là nhiễm trùng là lành tính. Ở những bệnh nhân không có triệu chứng, viêm
gan C thường được phát hiện nhờ xét nghiệm men gan trong máu (ALT, AST) thấy
tăng cao và có tới 1/4 số người mắc bệnh viêm gan C mạn tính tiếp tục bị xơ gan,
hoặc sẹo nghiêm trọng ở gan. Những người này cũng có thể có các triệu chứng khác,
bao gồm sưng ở chân và bụng, tích tụ chất độc trong máu có thể dẫn đến tổn thương
não. Tuy nhiên, triệu chứng viêm gan C ở mỗi người bệnh khác nhau. Có những
người mắc bệnh nhưng không có bất kỳ một triệu chứng gì hoặc triệu chứng rất mờ
nhạt, không đủ để nhận biết. Thực tế, nhiều trường hợp mắc bệnh nhiều năm mà
không hề biết. Để phát hiện mình mắc viêm gan C hay không, cần làm xét nghiệm
máu để chẩn đoán. Vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo nên tầm soát viêm gan C ít
nhất 6 tháng/lần để nếu không may mắc bệnh thì tuyệt đối cần tuân theo chỉ định của
bác sĩ điều trị vì viêm gan C là một trong những loại virus có độ biến dị nhiều nhất,
với hơn 11 genotype (là các kiểu gen khác biệt của các vi sinh vật cùng loài dựa vào
sự khác biệt trên bộ gen của vi sinh vật đó) [23].
Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới WHO, trung bình 3% dân số thế giới
nhiễm HCV, tương đương với khoảng gần 200 triệu người với số nhiễm mới 3-4 triệu
người mỗi năm gần 71 triệu người bị nhiễm virus viêm gan C mãn tính [32]. Trong
đó, Đông Nam Á có khoảng 32,3 triệu người bị nhiễm, chiếm 2,15% dân số khu vực
này. Con số này cùng đã gia tăng trong những năm gần đây. Virus viêm gan C được
xem như là kẻ giết người thầm lặng vì bệnh nhân mắc phỉa virus này có thể không có
các triệu chứng gì trong khoảng hơn 10 năm trước khi phát triển thành viêm gan mãn
tính và ung thư gan [7]. Tỉ lệ nhiễm HVC ở các khu vực trên thế giới là khác nhau.
Trong đó các nước châu Phi và châu Á có tỉ lệ nhiễm cao nhất, có khu vực lên tới
>10% dân số [32]. Theo kết quả điều tra về y tế và dinh dưỡng quốc gia của Mỹ, từ
năm 1988 đến năm 1994 cho thấy số lượng nhiễm HCV là 3,9 triệu
20
người, trong đó 2,7 triệu người Mỹ mắc HCV mãn tính. Tuy nhiên, đa số người
bệnh có độ tuổi dưới 50. Khoảng 60-70% bệnh nhân sẽ tiến triển bệnh thành gan mãn
tính, xơ gan ung thư gan và có thể dẫn đến tử vong [32].
Ở Việt Nam hiện nay, theo số liệu của WHO có khoảng 5-10% dân số nhiễm
HCV. Năm 2003, tại Hải Phòng tỉ lệ nhiễm HCV ở nội thành là 1,7%, 0,88% ở nông
thôn và ở vùng ven biển là 0,87%. Ở Thanh Hóa là 0,38%. Ở Hà Nội, tỉ lệ nhiễm
HCV là 0,4% vào năm 1995. Còn ở các tỉnh phía Nam, tỉ lệ nhiễm HCV tại TP. Hồ
Chí Minh là 2,53%, tại An Giang là 4,1% và tại Cà Mau là 2,15%. Đối với các bệnh
nhân bị viêm gan, tỉ lệ có HCV là khoảng 11%, còn ở các bệnh nhân xơ gan là 12,5%
và ung thư gan là 8% [12].
2.2.4. Tổng quan về virus HBV
Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus viêm gan B (HBV)
[30]. Bệnh ảnh hưởng lớn đến hoạt động của gan, có thể gây nhiễm trùng gan thậm
chí đe dọa đến tính mạng. Hiện nay, virus viêm gan B vẫn là mối đe dọa lớn đến sức
khỏe toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có khoảng 400 triệu
người trên thế giới mắc viêm gan B mãn tính [33]. Ở Việt Nam hiện nay số người
nhiễm virus viêm gan B chiếm khoảng 20% dân số. Viêm gan B là nguyên nhân hàng
đầu dẫn đến suy gan, xơ gan, ung thư gan. Viêm gan B có thể xảy ra ở bất kỳ đối
tượng nào. Nếu bệnh xảy ra ở người lớn vẫn có thể điều trị để loại bỏ virus viêm gan
B dễ dàng [33]. Tuy nhiên, một số trường hợp trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn nhiễm
virus nhưng không thể điều trị khỏi hoàn toàn. Viêm gan B có triệu chứng không rõ
ràng nên người bệnh rất khó nhận biết. Thậm chí có rất nhiều người bị nhiễm viêm
gan B mà không hề hay biết [6]. Tuy nhiên, kể cả khi không có triệu chứng bệnh gì
thì virus viêm gan B vẫn có thể gây tổn hại nặng nề đến gan sau một thời gian phát
triển âm ỉ. Do đó, khi tìm hiểu bệnh viêm gan B là gì cần lưu ý những triệu chứng
nhận biết bệnh như sau: Cơ thể mệt mỏi, ăn uống không ngon miệng, đau nhức xương
khớp, thường xuyên buồn nôn, ói mửa, nước tiểu có màu vàng sẫm, đau bụng, đau hạ
sườn phải phân màu xanh xám, sẫm màu, người bệnh thường xuyên bị rối loạn tiêu
hóa, vàng da, vàng mắt, có hiện tượng xuất huyết dưới da, sưng bụng, chướng
21
bụng[5]. Viêm gan B nếu không được phát hiện và điều trị sớm có thể phát triển thành
suy gan, xơ gan cổ trướng rất nguy hiểm đến sức khỏe.
Virus viêm gan B có cơ chế lây nhiễm giống với virus HIV. Tuy nhiên, với
những đặc điểm riêng biệt virus viêm gan B được cảnh báo là còn nguy hiểm hơn cả
virus HIV. Nếu như virus HIV không thể tồn tại lâu ngoài cơ thể và không thể lây
nhiễm trong môi trường tự nhiên thì virus viêm gan B có thể sống ở ngoài tự nhiên
đến 1 tháng. Cũng giống như virus HIV, virus viêm gan B lây nhiễm chủ yếu qua
đường máu, quan hệ tình dục và lây từ mẹ sang con [6]. Tuy nhiên, khả năng lây
nhiễm của virus viêm gan B cao gấp 100 lần virus HIV. Dưới đây là 3 con đường lây
nhiễm viêm gan B cần lưu ý:
Lây từ mẹ sang con: Phụ nữ mang thai nếu bị viêm gan B có thể truyền bệnh
sang con. Tùy vào từng giai đoạn thai kỳ cụ thể mà tỷ lệ lây truyền sẽ khác nhau. Cụ
thể, nếu mẹ mắc bệnh trong 3 tháng đầu của thai kỳ tỷ lệ lây truyền khoảng 1%. Nếu
nhiễm bệnh ở 3 tháng giữa thai kỳ, tỷ lệ mắc bệnh ở thai nhi khoảng 10%. Nếu thai
phụ nhiễm virus viêm gan B ở 3 tháng cuối thai kỳ nguy cơ lây nhiễm sẽ tăng lên 70%.
Đặc biệt, nếu không có biện pháp bảo vệ sau sinh nguy cơ lây nhiễm sang con lên đến
90% [5].
Lây qua đường máu: Virus viêm gan B có thể dễ dàng lây qua truyền máu, hiến
máu, tiêm, xăm hình... nếu dụng cụ không được khử trùng đúng cách. Ngoài ra, việc
sử dụng chung dao cạo râu, bàn chải đánh răng...với người bị viêm gan B cũng có thể
khiến bạn dễ dàng bị lây bệnh [6].
Lây qua quan hệ tình dục: Quan hệ tình dục với người bị viêm gan B mà không
có biện pháp phòng tránh an toàn cũng khiến bạn có nguy cơ cao bị nhiễm bệnh. Virus
viêm gan B có thể lây nhiễm thông qua tất cả các hành vi tình dục khác giới hoặc đồng
giới [6].
HBV là một trong số 7 loại virus viêm gan hiện được biết. Bệnh được coi là rất
nguy hiểm cho cộng đồng cần phải được phòng tránh. Theo ước tính của Tổ chức y tế
Thế giới, hiện nay có khoảng 2 tỷ người nhiễm HBV, trong đó có khoảng 400 triệu
người mang virus viêm gan B mạn tính, trong khi đó xơ gan, ung thư tế bào gan nguyên
phát gặp ở 30% số người này [33]. Thế giới hàng năm có khoảng 50 triệu người bị
22
nhiễm HBV và có từ 1 đến 2 triệu người chết vì có liên quan đến HBV. Nguy cơ mắc
ung thư gan ở những người mang HBV mãn tính cao gấp 1000 lần so với những người
không mang HBV [33].
Theo tổ chức Y tế Thế giới, sự phân bố HBV trên thế giới phân thành 3 vùng.
Vùng lưu hành dịch cao: là vùng có tỉ lệ mang HBsAg mạn tính từ 8-15% và trên
70% số người lớn đã từng bị nhiễm HBV. Bao gồm phần lớn các nước Châu Á và Châu
Phi, Trung Cận Đông, Lưu vực sông Amazon và Tây Thái Bình Dương [33].
Vùng lưu hành dịch trung bình: là những vùng có tỉ lệ mang HBsAg mạn tính từ
2-7% và số người lớn tưng nhiễm từ 20-50%. Bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, các nước
Đông Âu, khu vực Nam Trung Mỹ [33].
Vùng lưu hành dịch thấp: là những vùng có tỉ lệ mang HBsAg mạn tính từ 0,1-
0,5% như ở Bắc Mỹ, Canada, Tây Âu, Australia, Newzeland và một số nước Nam Mỹ
[33].
Diễn biến hàng năm từ nhiễm HBV đến viêm gan mạn là 0,8-2,7%, từ viêm gan
mãn tính đến xơ gan 1-9,4% và từ xơ gan đến ung thư gan là 0,8-8%. Ở các nước châu
Á, Thái Bình Dương viêm gan B mạn, xơ gan và ug thư gan do HBV khá cao. Tại
Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, viêm virus đưa đến xơ gan chiêm 50% và ung
thư gan đến 70-90% [33].
Việt Nam nằm trong vùng có mật độ lưu hành HBV cao trên thế giới, tỉ lệ mang
HBV mạn tính trong cộng đồng Việt Nam và khoảng 10-15%, tức là có khoảng trên
dưới 10 triệu người mang HBV mạn tính. Theo số liệu điều tra của Bộ Y tế có khoảng
12-16 triệu người mang HBV tương ứng với tỉ lệ người có HBsAg dương tính trong
cộng đồng từ 14-26%, tỉ lệ người mang anti-HBc trên 60% [12].
Nhiều nghiên cứu tình hình nhiễm HIV, HBV và HCV ở nhiều nhóm đối tượng
khác nhau. Amanda J Noska và cộng sự khi nghiên cứu tỷ lệ mắc virus HIV, HBV và
HCV trong số các cựu chiến binh Hoa Kỳ vô gia cư năm 2015 đã chỉ ra rằng tỉ lệ xét
nghiệm HIV, HCV và HBV lần lượt xảy là 63,8%, 78,1% và 52,8%). Tỷ lệ cựu binh
vô gia cư nhiễm HIV là 1,52%. Tỷ lệ cựu binh nhiễm HCV 12,1% (29311/242740),
so với 2,7%, và tỉ lệ nhiễm HBV là 0,99% [37].
23
Năm 2016, Jamil A. Al Mughales và cộng sự khí đánh giá tỉ lệ HBV, HCV và
HIV của 628 bệnh nhân (218 HCV, 268 HBV và 142 HIV) ở Tây Ả Rập Saudi đã
nhận thấy. Tỷ lệ nhiễm HCV ở nam nữ là 1: 1,nhiễm HBV là 3: 4 và nhiễm HIV là
5: 3. Tuổi trung bình của bệnh nhân dương tính lần lượt là 54,24 (16,40), 44,53
(18,83) và 40,39 (15,92) đối với HCV, HBV và HIV. Trong nhóm HIV, tỷ lệ đồng
nhiễm HBV và HCV tương ứng là 8,5% và 2,8%. Trong nhóm HBV, tỷ lệ đồng
nhiễm HCV và HIV lần lượt là 1,1% và 1,5%. Trong nhóm HCV, đồng nhiễm HIV
hoặc HBV xảy ra ở cùng tần số (1,4%) [38].
Oluyinka Oladele Opaleye và cộng sự sau khi lấy ngẫu nhiễn 182 mẫu máu
của phụ nữ mang thai tại bệnh viện Đại học Ladoke Akintola, Osogbo- Tây Nam
Nigeria để sàng lọc các kháng thể HBsAg, HCV, HIV và HTLV-1 bằng bộ kit ELISA
thương mại đã chỉ ra rằng 13 bệnh nhân (7,1%) dương tính với HBsAg, 6 bệnh nhân
(2,7%) dương tính với HCV 9 bệnh nhân (4,9%) dương tính HIV và 44 (24,2%) bệnh
nhân dương tính với HTLV-1 [39]. RuiLing Dong và cộng sự sau khi nghiên cứu
ước tính tỉ lệ người đồng nhiễm virus HIV với virus viêm gan C và B (HCV và HBV)
ở tỉnh Sơn Tây- Trung Quốc năm 2004 đã chỉ ra rằng tỉ lệ nhiễm HIV, HCV và
HBsAg lần lượt là 1,3% (40/3 062), 12,7% (389/3 062) và 3,5% (103/2982) [41].
Tại Việt Nam, nhiễm trùng do virus viêm gan B/C và HIV vẫn đang là vấn đề
được quan tâm đối với sức khỏe cộng đồng. Năm 2012, Nguyễn Thị Thúy Vân,
Nguyễn Thiên Nga và cộng sự sau khi tổng hợp dữ liễu có sẵn về dịch tễ học của
virus viêm gan B, virus viêm gan C và đồng nhiễm HIV tại Việt Nam đã chỉ ra rằng
tỉ lệ người dương tính với HBsAg trong dân số dao động từ 5,7% đến 24,7%. Tỉ lệ
dương tính với HCV dao động từ 0,38% đến 4,3% trong dân số nói chung, trong khi
đó ở những người tiêm chích ma túy dao động từ 31% đến 97,2% [40]. Phạm Thị La
và cộng sự khi nghiên cứu tình hình nhiễm HBV, HCV, HIV, Giang mai ở người hiến
máu tình nguyện tại Thái Nguyên (2003 – 6/2007) cho thấy tỉ lệ HBV dương tính là
23/2614 ( 0,88%), HCV là 11/2614 (0,42%), HIV là 37/2614 (1,41%) và giang mai
là 12/2614, (0,45%).Tỷ lệ nhiễm HBV, HCV, HIV ở các đối tượng khác cao hơn sinh
viên [15].
24
Nguyễn Tiến Hòa khi nghiên cứu tình trạng nhiễm HIV, HBV, HCV ở nhóm
nghiện chích ma túy, phụ nữ bán dâm , bệnh nhân chạy thận nhân tạo và bệnh nhân
truyền máu nhiều lần ở Hà Nội (2008, 2009, 2010) cũng đưa ra các số liệu cụ thể về
tình hình nhiễm ở các đối tượng khác nhau và các yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm
các bệnh truyền nhiễm cơ hội[16].
25
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân nghi ngờ nhiễm bệnh truyền nhiễm do
virus thường gặp tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Khoa Vi sinh - Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
Thời gian nghiên cứu: Từ 01/12/2019 đến 30/5/2020
3.2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1. Khảo sát tình hình nhiễm virus viêm gan B và viêm gan C trên các
bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
Nội dung 2. Khảo sát tình hình nhiễm virus HIV trên các bệnh nhân điều trị tại
Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
Nội dung 3. Khảo sát tình hình nhiễm virus cúm A và cúm B trên các bệnh nhân
điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên..
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu nội dung 1
3.3.1.1. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu test viêm gan B và viêm gan C
Phương pháp lấy mẫu máu áp dụng theo hướng dẫn sử dụng đi kèm bộ kit
Asan Easy Test HCV và Asan Easy Test HBs.
Lấy mẫu và bảo quản mẫu
Theo hướng dẫn kèm theo của nhà sản xuất
- Máu toàn phần: lấy máu toàn phần cho vào ống thu (chứa chất chống đông
như heparin, EDTA và natri citrate) qua đường tĩnh mạch.
Nếu mẫu máu không được xét nghiệm ngay, nên để vào tủ lạnh ở 2-8oC và nên
dùng trong vòng 3 ngày hoặc ở -20oC nếu để lâu hơn.
- Huyết thanh: Lấy máu toàn phần cho vào trong ống thu (không chứa các chất
chống đông như heparin, EDTA và natri citrate) qua đường tĩnh mạch, để yên trong
26
30 phút để cho máu đông và sau đó gạn và cho vào máy ly tâm để có mẫu huyết
thanh.
Nếu mẫu huyết thanh hoặc huyết tương không xét nghiệm ngay, nên để vào tủ
lạnh ở 2-80C và nên dùng trong vòng 3 ngày hoặc ở -20oC nếu để lâu hơn.
Thận trọng
1. Khay thử cần thử nghiệm trên huyết thanh huyết tương người.
2. Nếu mẫu không xét nghiệm ngay, nên để vào tủ lạnh ở 2-8oC và nên dùng
trong vòng 3 ngày, nếu lâu hơn nên làm đông mẫu.
- Mẫu huyết thanh hay huyết tương có cặn có thể mang lại kết quả không phù
hợp. Những mẫu như thế phải được phát hiện trước khi xét nghiệm Sử dụng pipette
một lần hoặc đầu pipette riêng biệt cho mỗi mẫu để tránh sự lây nhiễm chéo của bất
cứ mẫu nào có thể gây ra sai lệch kết quả.
3.3.1.2. Phương pháp thử nghiệm phát hiện virus viêm gan B
Sử dụng phương pháp miễn dịch sắc kí để xác định nhanh chóng kháng nguyên
HBs trong huyết tương hay huyết thanh của người. Kháng nguyên bề mặt HBs ở
huyết tương hay huyết thanh được phản ứng với cộng hợp keo vàng – AntiHBs, phức
hợp này đã được sấy khô trên khay thử. Hỗn hợp sau đó di chuyển trên màng bằng
lực mao dẫn. Đối với kết quả dương tính, sẽ có một vạch nhìn thấy xuất hiện trên
vùng thử nghiệm của màng. Virus viêm gan B được phát hiện sử dụng bộ kit Asan
easy test HBs- bộ khay thử chẩn đoán phát hiện virus viêm gan B của hãng Asan
Pharmaceutical. Quy trình thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất như sau:
1. Tất cả vật liệu cần được để ở nhiệt độ phòng trước khi thực hiện thử nghiệm.
2. Lấy khay ra khỏi túi nhôm.
3. Lấy 100 ul huyết thanh, huyết tương cho vào giếng mẫu S của khay thử.
4. Lấy 100 ul huyết thanh, huyết tương cho vào giếng mẫu S của khay thử.
5. Đọc kết quả trong sau 20-30 phút. Không đọc kết quả sau quá 30 phút.
3.3.1.3. Phương pháp thử nghiệm phát hiện virus viêm gan C
Sử dụng phương pháp miễn dịch sắc kí để xác định nhanh chóng kháng thể
HCV trong huyết thanh, huyết tương toàn phần ở người. Đối với việc chẩn đoán HCV,
kháng nguyên tái tổ hợp HCV (core,NS3,NS4,NS5) được sư dụng như một vật liệu
27
“bắt giữ” của xét nghiệm miễn dịch sắc kí này. Kit HCV chứa lớp màng được bọc
với hỗn hợp kháng nguyên tái tổ hợp HCV (core, NS3,NS4,NS5) thích hợp trên vùng
“test band” Trong thời gian xét nghiệm, mẫu được phản ứng với cộng hợp keo vàng-
kháng nguyên HCV tái tổ hợp, phức hợp này đã được sấy khô trên miếng đệm cộng
hợp giữa miếng đêm màng và miếng đệm mẫu. Hỗn hợp sau đó di chuyển trên màng
bằng lực mao dẫn. Đối với kết quả dương tính,sẽ có một vạch nhìn thấy với độ đặc
hiệu và độ nhạy cao khi phức hợp kháng nguyên r HCV, hỗn hợp liên tục di chuyển
trên màng đến vạch “control line” đã được làm khô. Vì thế vạch control line và xác
định thử nghiệm có hợp lệ hay không. Virus viêm gan C được phát hiện sử dụng bộ
kit Asan easy test HCV- bộ khay thử chẩn đoán phát hiện virus viêm gan C của hãng
Asan Pharmaceutical. Quy trình thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất như sau:
1. Tất cả vật liệu cần được để ở nhiệt độ phòng trước khi thực hiện thử nghiệm.
2. Lấy khay ra khỏi túi nhôm.
3. Lấy 10 ul huyết thanh, huyết tương hoặc 20ul máu toàn phần cho vào giếng
mẫu S của khay thử.
4. Đọc kết quả trong vòng 20 phút. Không đọc kết quả sau quá 20 phút.
Thận trọng: Thời gian đọc kết quả trên được thực hiện trong phòng thí nghiệm
từ 15-30oC. Nếu nhiệt độ phòng thấp hơn 150C, thời gian đọc kết quả có thể tăng
thêm.
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu nội dung 2
3.3.2.1. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu test HIV
Phương pháp lấy mẫu máu áp dụng theo hướng dẫn sử dụng đi kèm bộ kit
Asan Easy Test HIV 1/2.
Lấy mẫu và bảo quản mẫu
- Máu toàn phần: lấy máu toàn phần cho vào ống thu (chứa chất chống đông
như heparin, EDTA và natri citrate) qua đường tĩnh mạch.
Nếu mẫu máu không được xét nghiệm ngay, nên để vào tủ lạnh ở 2-80C và nên
dùng trong vòng 3 ngày hoặc ở -200C nếu để lâu hơn.
- Huyết thanh: Lấy máu toàn phần cho vào trong ống thu (không chứa các chất
chống đông như heparin, EDTA và natri citrate) qua đường tĩnh mạch, để yên trong
28
30 phút để cho máu đông và sau đó gạn và cho vào máy ly tâm để có mẫu huyết
thanh.
Nếu mẫu huyết thanh hoặc huyết tương không xét nghiệm ngay, nên để vào tủ
lạnh ở 2-80C và nên dùng trong vòng 3 ngày hoặc ở -200C nếu để lâu hơn.
Thận trọng
- Mẫu huyết thanh hay huyết tương có cặn có thể mang lại kết quả không phù
hợp. Những mẫu như thế phải được phát hiện trước khi xét nghiệm.
- Các chất chống đông như heparin, EDTA và natri citrate không ảnh hưởng
đến kết quả thử nghiệm.
- Sử dụng pipette một lần hoặc đầu pipette riêng biệt cho mỗi mẫu để tránh sự
lây nhiễm chéo của bất cứ mẫu nào có thể gây ra sai lệch kết quả.
3.3.2.2. Phương pháp thử nghiệm phát hiện HIV
Sử dụng phương pháp miễn dịch sắc kí để xác định nhanh chóng kháng thể
HIV1/2 trong huyết thanh, huyết tương và máu toàn phần ở người. Đối với việc chẩn
doán HIV1/2, kháng nguyên tái tổ hợp HIV1/2 (loại 1: p24,gp41 và loại 2: gp36)
được sư dụng như một vật liệu “bắt giữ” của xét nghiệm miễn dịch sắc kí này. Kit
HIV1/2 chứa lớp màng được bọc với hỗn hợp kháng nguyên tái tổ hợp HIV1/2 thích
hợp trên vùng “test band” Trong thời gian xét nghiệm, mẫu được phản ứng với cộng
hợp keo vàng- kháng nguyên HIV1/2 tái tổ hợp, phức hợp này đã được sấy khô trên
phần “conjugate pad” giữa “membrane pad” và “sample pad”. Hỗn hợp sau đó di
chuyển trên màng bằng lực mao dẫn. Đối với kết quả dương tính,sẽ có một vạch nhìn
thấy với độ đặc hiệu và độ nhạy cao khi phức hợp kháng nguyên r HIV1/2, hỗn hợp
liên tục di chuyển trên màng đến vạch “control line” đã được làm khô. Vì thế vạch
control line và xác định thử nghiệm có hợp lệ hay không. Virus HIV được phát hiện
sử dụng bộ kit Asan easy test HIV- bộ khay thử chẩn đoán phát hiện virus HIV của
hãng Asan Pharmaceutical. Quy trình thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất như
sau:
Tất cả vật liệu cần được để ở nhiệt độ phòng trước khi thực hiện thử nghiệm
1. Lấy khay ra khỏi túi nhôm
29
2. Lấy 10 ul huyết thanh, huyết tương hoặc 20ul máu toàn phần cho vào giếng
mẫu S của khay thử
3. Thêm 3 giọt (khoảng 90ul) dung dịch khai triển vào trong giếng mẫu S của
khay thử
4. Đọc kết quả sau 10-15 phút. Không đọc kết quả sau quá 20 phút
3.3.3. Phương pháp nghiêm cứu nội dung 3
3.3.3.1. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu test cúm A và B
Phương pháp lấy mẫu cúm A/B áp dụng theo hướng dẫn sử dụng đi kèm bộ
kit Asan Easy Test Influenza A/B.
Virus cúm A và B khu trú tại các có quan hô hấp vì vậy mẫu bệnh phẩm được
lấy ở vị trí đường hô hấp trên hoặc đường hô hấp dưới:
- Bệnh phẩm đường hô hấp trên: dịch mũi, dịch hầu họng, dịch rửa mũi, dịch
tỵ hầu, dịch mũi họng (là phương pháp phổ biến)
- Bệnh phẩm đường hô hấp dưới: dịch phế quản, dịch phế nang, đờm, đầu
catheter.
- Mẫu bệnh phẩm cũng thể lấy ở các máy thở mà người bệnh đã sử dụng
Dịch tỵ hầu:
- Sử dụng ống tăm bông chuyên dụng.
- Lấy dịch tỵ hầu ở đường hô hấp trên
- Ghi nhãn lên ống đựng bệnh phẩm
Lấy đờm dãi:
- Bệnh phẩm là mẫu đờm được lấy bằng cách vỗ lưng và hướng dẫn bệnh
nhân khạc đờm, có hoặc hổ trợ bằng cách cho bệnh nhân xông khí dung với NaCl
0,9% trước khạc đờm hay soi phế quản và cấy dịch rửa phế quản (BAL).
- Bệnh phẩm được đựng ở lọ nhựa trong ghi rõ thông tin
Bảo quản mẫu:
Mẫu phải được thử nghiệm ngay sau khi được lấy. nếu cần thiết có thể bả quản
ở nhiệt độ phòng (1-300C), trong thùng đựng kín, khô ráo, sach sẽ trong 8 giờ hoặc
bảo quản trong tủ lạnh (2-8oC) trong 24h trước khi thử nghiệm. 3.3.3.2. Phương pháp thử nghiệm phát hiện cúm A và B
30
Sử dụng phương pháp test nhanh bằng ghi sắc ký nhanh trong chẩn đoán in
vitro để phát hiện định tính kháng nguyên nucleoprotein của virus cúm loại A và loại
B trực tiếp lấy từ mẫu mũi họng của bệnh nhân có triệu chứng. Loại xét nghiệm này
được sử dụng như là một trợ giúp trong việc chẩn đoán nhanh chóng các ca nhiễm
virus cúm A và cúm B cấp tính. Xét nghiệm này được dùng để phân biệt giữa kháng
nguyên virus loại A và loại B trong xét nghiệm đơn lẻ. Xét nghiệm này không dành
cho việc phát hiện virus cúm loại C. Kết quả âm tính không ngăn ngừa bị nhiễm virus
loại A và/hoặc loại B và khuyến khích không nên sử dụng làm cơ sở duy nhất để chẩn
đoán. Virus Cúm A và Cúm B được phát hiện sử dụng bộ kit Asan easy test Influenza
A/B- bộ khay thử chẩn đoán phát hiện kháng nguyên virus cúm tuýp A/B của hãng
Asan Pharmaceutical. Quy trình thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất như sau:
Để que xét nghiệm nhanh, thuốc thử, mẫu vật, và/hoặc các kiểm soát về nhiệt
độ phòng 15-30oC trước khi xét nghiệm
- Lấy que xét nghiệm ra khỏi túi
- Bộ xét nghiệm có chứa các lọ dung dịch chiết xuất sẵn. Xoay nắp đậy.
- Nhúng que đã lấy mẫu vào lọ chiết xuất và xoay mạnh ít nhất 5 lần
- Nâng que lên nửa trên lọ chiết xuất và xoay phần gạc của que vào cạnh của
lọ chiết xuất để giải phóng càng nhiều mẫu càng tốt. Sau đó loại bỏ que
- Đầu mũi tên hướng về phía hỗn hợp mẫu trong lọ chiết xuất, ngâm các que
test nhanh theo chiều dọc vào lọ chiết xuất và bắt đầu bấm thời gian. Đọc kết quả khi
được 10 phút. Chuẩn độ rất thấp của kháng nguyên cúm A và B có thể tạo ra một
đường mờ trong vùng xét nghiệm sau một thời gian kéo dài
3.4. Các phương pháp xử lý số liệu
Nghiên cứu dịch tễ học mô tả ,thu thập thông tin và hồi cứu các thông tin về cá
nhân (tuổi, giới tính), nơi cư trú khi mắc bệnh, ngày nhập viện, nơi điều trị, các triệu
chứng đầu tiên,…
Nghiên cứu các chỉ số tỉ lệ mắc, phân bố tỉ lệ trên theo giới tính, độ tuổi, nơi cư
trú, thời gian mắc bệnh, triệu chứng gặp phải.
Thu thập số liệu, hồi cứu phiếu kết quả xét nghiệm virus HIV, HCV, HBV, Cúm
A và Cúm B.
31
Xử lý số liệu bằng phần mềm Excel 2015.
32
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm virus viêm gan B và viêm gan C trên các
bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
Những bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B hoặc viêm gan C sẽ hình thành kháng
thể đặc hiệu chống lại sự có mặt của kháng nguyên bề mặt virus. Kháng thể sẽ tồn tại
trong máu của bệnh nhân. Để xét nghiệm bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B hoặc
viêm gan C, mẫu máu của bệnh nhận sẽ được sử dụng làm mẫu bệnh phẩm để phân
tích bằng phương pháp sắc ký miễn dịch. Kết quả xét nghiệm bệnh nhân nhiễm virus
viêm gan B và viêm gan C tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 8/2019
đến tháng 5/2020 được tổng hợp trong bảng 4.1.
Bảng 4.1. Kết quả xét nghiệm virus viêm gan trên các bệnh nhân điều trị tại
Tỷ lệ (%) STT Thời gian xét nghiệm
bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên bằng phương pháp test nhanh Tổng số người xét nghiệm Nữ Số người mắc Nam Nữ Nam Nữ Nam
Virus viêm gan B Tháng 8 năm 2019 Tháng 9 năm 2019 Tháng 10 năm 2019 Tháng 11 năm 2019 Tháng 12 năm 2019 Tháng 1 năm 2020 Tháng 2 năm 2020 Tháng 3 năm 2020 Tháng 4 năm 2020 Tháng 5 năm 2020 I 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tổng số 234 179 101 84 220 277 348 505 183 193 878 603 668 490 501 438 688 520 553 684 3.842 4.505 8 3 15 25 15 35 44 22 34 39 240 9 5 19 22 18 41 41 38 44 44 281 4,47 3,57 5,42 4,95 7,77 5,80 8,98 5,02 6,54 7,05 6,25
II Virus viêm gan C Tháng 8 năm 2019 1 Tháng 9 năm 2019 2 Tháng 10 năm 2019 3 Tháng 11 năm 2019 4 Tháng 12 năm 2019 5 Tháng 1 năm 2020 6 Tháng 2 năm 2020 7 Tháng 3 năm 2020 8 Tháng 4 năm 2020 9 10 Tháng 5 năm 2020 Tổng số 171 135 66 66 205 277 344 492 176 192 442 526 417 429 480 440 652 500 553 684 3.842 4.505 1 5 11 22 13 34 12 18 24 25 165 8 2 3 2 2 5 5 4 8 5 44 0,74 9,09 3,97 4,47 6,77 6,46 2,80 4,09 4,80 4,73 4,60 3,85 4,95 8,64 6,32 984 4,67 6,14 7,58 6,40 6,43 6,24 4,68 3,03 1,46 0,58 1,14 1,13 1,20 0,83 1,23 0,78 1,22
33
Kết quả thể hiện trong bảng 4.1 cho thấy:
Trong tổng số 8.347 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020 được xét nghiệm virus viên gan B gồm có 3.842
bệnh nhân nam (chiếm 46 %) và 4.505 bệnh nhân nữ (chiếm 54 %). Trong số 3.842
bệnh nhân nam có 240 bệnh nhân dương tính với virus viêm gan B (chiếm 6,25%).
Trong số 4.505 bệnh nhân nữ có 281 (chiếm 6,24%) bệnh nhân dương tính với virus
viêm gan B.
Trong tổng số 7.184 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020 được xét nghiệm virus viên gan C gồm có 3.586
bệnh nhân nam (chiếm 49 %) và 3.598 bệnh nhân nữ (chiếm 51 %). Trong số 3.586
bệnh nhân nam có 165 bệnh nhân dương tính với virus viêm gan C (chiếm 4,6%).
Trong số 3.598 bệnh nhân nữ có 44 (chiếm 1,22%) bệnh nhân dương tính với virus
viêm gan C.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Vân, Nguyễn Thiên Nga và cộng sự
năm 2012, tỉ lệ người dương tính với HBsAg trong tổng dân số toàn quốc dao động
từ 5,7% đến 24,7%; tỉ lệ dương tính với HCV dao động từ 0,38% đến 4,3% [40]. Như
vậy, kết quả trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm HBV và HCV tại bệnh viện
Trung Ương Thái Nguyên cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị
Thúy Vân và Nguyễn Thiên Nga năm 2012.
Một nghiên cứu khác của Phạm Thị La năm 2007 [15] tại khoa Huyết học- bệnh
viện Trung Ương Thái Nguyên trên những sinh viên hiến máu tình nguyện cho thấy
tỉ lệ HBV dương tính là 23/2614 (chiếm 0,88%), HCV là 11/2614 (0,42%). Như vậy,
tỷ lệ người nhiễm HBV và HCV trong nghiên cứu này đều cao hơn so với nghiên cứu
của Phạm Thị La năm 2007. Sự khác biệt này có thể được giải thích là do sự khác
nhau về đặc điểm đối tượng nghiên cứu.
34
Bảng 4.2.Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus viêm gan theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh
Virus viêm gan B
Virus viêm gan C
Tổng số
Tổng số
Số người
Số người
Lứa tuổi
người được
Tỷ lệ (%)
người được
Tỷ lệ (%)
mắc
mắc
xét nghiệm
xét nghiệm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Dưới 10 tuổi
492
308
6
1,22
3,57
473
287
0
2
0,00
0,70
11
Từ 10 đến 29 tuổi
743
1469
51
6,86
5,92
673
995
14
10
2,08
1,01
87
Từ 30 đến 49 tuổi
1255 1583
102
103
8,13
6,51
1175 1262
96
15
8,17
1,19
992
804
64
645
7,09
933
744
52
13
5,57
1,11
57
Từ 50 đến 70 tuổi
360
341
17
4,72
6,74
332
310
3
4
0,90
1,29
23
Trên 70 tuổi
3842 4505
240
281
6,25
6,24
3586 3598
165
44
4,60
1,22
Tổng số
Kết quả thể hiện trong bảng 4.2 cho thấy:
Trong tổng số 240 bệnh nhân nam dương tính với virus viêm gan B, tỉ lệ bệnh
nhân là nam viêm gan B ở nhóm tuổi 30-49 là cao nhất chiếm 8,13% tiếp đến là nhóm
tuổi 10-29 tuổi chiếm tỷ lệ 6,86%, nhóm tuổi 50-70 tuổi chiếm 6,45%, và nhóm trên
70 tuổi là 4,72%, trẻ nam dưới 10 tuổi có tỉ lệ dương tính với HBV là 1,22% là thấp
nhất. Trong tổng số 281 bệnh nhân nữ dương tính với virus viêm gan B, tỉ lệ bệnh
nhân là nữ viêm gan B nhóm tuổi 50-70 tuổi là cao nhất với với 7,09%, tiếp đến là
nhóm trên 70 tuổi là 6,74%, ở nhóm tuổi 30-49 là 6,51%, nhóm tuổi 10-29 tuổi với
5,92 %, đặc biệt trẻ em dưới 10 tuổi có tỉ lệ dương tính 3,57% . Tỉ lệ bệnh nhân nam
dương tính với HBV so với bệnh nhân nữ là tương đương nhau, không có nhiều chênh
lệch.
Tỉ lệ bệnh nhân là nam viêm gan C ở các nhóm tuổi có chênh lệch khá lớn: ở
nhóm tuổi 30-49 là cao nhất với 8.17% tiếp đến là nhóm tuổi 50-70 tuổi với 5,57%
nhóm tuổi 10-29 tuổi với 2,08%, và nhóm trên 70 tuổi là 0,9%, đặc biệt không có trẻ
em dưới 10 .Tỉ lệ bệnh nhân là nữ viêm gan C ở các nhóm tuổi không có sự chênh
lệch quá lớn: nhóm trên 70 tuổi là cao nhất với với 1,29% tiếp đến nhóm tuổi 30-49
là 19%, nhóm tuổi 50-70 tuổi với 1,11% và nhóm tuổi 10-29 tuổi với 1,01%, đặc biệt
35
trẻ em dưới 10 tuổi có tỉ lệ dương tính 0,7% . Tỉ lệ bệnh nhân nam dương tính với
HCV cao hơn hẳn so với bệnh nhân nữ (gấp khoảng 3,7 lần).
Theo nghiên cứu của Ngô Thị Quỳnh Trang năm 2011 [17] tại Xã Phú Cường-
huyện Kim Động- Tỉnh Hưng Yên, tỉ lệ nam và nữ nhiễm HBV là không bằng nhau,
nam chiếm tỉ lệ 19,35% cao hơn so với nữ giới (15,87%). Tỉ lệ dương tính với HBV
ở các độ tuổi cũng có khác biệt, cao nhất ở 21-40 tuổi (21,95%), sau đó đến 41-60
(17,65%) tiếp đến là độ tuổi dưới 20 (13,64%) và thấp nhất là nhóm tuổi trên 60
(10,71%)%. Tỉ lệ dương tính với HCV là 0,08%. So sánh với kết quả của nghiên cứu
này có sự sai khác về tỉ lệ nam nữ nhiễm HBV và độ tuổi trung bình.Tỉ lệ nam giới
và nữ giới dương tính ở nghiên cứu này thấp hơn so với của Ngô Thị Quỳnh Trang.
Sự khác biệt này nhóm đối tượng nghiên cứu, khu vực nghiên cứu của hai đề tài này
là khác nhau dẫn đến đặc điểm dịch tễ học cũng khác nhau.
4.2. Khảo sát tình hình nhiễm virus HIV trên các bệnh nhân điều trị tại Bệnh
viện Trung Ương Thái Nguyên
Những bệnh nhân nhiễm virus HIV sẽ hình thành kháng thể đặc hiệu chống lại
sự có mặt của kháng nguyên bề mặt virus. Kháng thể sẽ tồn tại trong máu của bệnh
nhân. Để xét nghiệm bệnh nhân nhiễm virus HIV, mẫu máu của bệnh nhận sẽ được
sử dụng làm mẫu bệnh phẩm để phân tích bằng phương pháp sắc ký miễn dịch. Kết
quả xét nghiệm bệnh nhân nhiễm virus HIV tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020 được tổng hợp trong bảng 4.3.
36
Bảng 4.3: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus HIV bằng phương pháp test
nhanh
Virus HIV
Tổng số Thời gian xét STT người được Số người mắc Tỉ lệ (%) nghiệm xét nghiệm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 Tháng 8 năm 2019 175 228 2 3 1,32 1,14
2 Tháng 9 năm 2019 85 144 0 0 0,00 0,00
3 Tháng 10 năm 2019 273 257 3 0 0,00 1,10
4 Tháng 11 năm 2019 502 348 4 4 1,15 0,80
5 Tháng 12 năm 2019 192 183 4 0 0,00 2,08
6 Tháng 1 năm 2020 589 842 4 2 0,24 0,68
7 Tháng 2 năm 2020 443 626 2 2 0,32 0,45
8 Tháng 3 năm 2020 440 500 2 2 0,40 0,45
9 Tháng 4 năm 2020 495 635 7 4 0,63 1,41
10 Tháng 5 năm 2020 525 633 4 3 0,47 0,76
Tổng số 3.720 4.396 32 20 0,45 0,86
Kết quả thể hiện trong bảng 4.3 cho thấy:
Trong tổng số 8.116 bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020 được xét nghiệm virus HIV gồm có 3.720 bệnh
nhân nam (chiếm 45,8 %) và 4.396 bệnh nhân nữ (chiếm 54,2 %).
Trong tổng số 8.116 người được xét nghiệm có 52 người dương tính với HIV,
chiếm 0,64%.
Trong số 3.720 bệnh nhân nam có 32 bệnh nhân dương tính với virus HIV
(chiếm 0,86%). Trong số 4.396 bệnh nhân nữ có 20 người nhiễm HIV (chiếm 0,45%).
Như vậy, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm HIV có sự khác nhau giữa hai giới, trong đó, tỷ lệ
nam cao hơn so với nữ giới (gấp khoảng gần 2 lần).
37
Theo kết quả công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2019 và nhiệm vụ trọng
tâm năm 2020 của Bộ Y tế ngày 15 tháng 1 năm 2020 [3], tỉ lệ nam giới nhiễm HIV
cao hơn gấp 3 lần nữ giới. Trung bình cứ 100.000 dân có 227 người dương tính với
HIV (chiếm 0,227%). Trong một nghiên cứu khác của Phạm Thị La và cộng sự khi
nghiên cứu tình hình nhiễm HBV, HCV, HIV và Giang mai ở sinh viên hiến máu tình
nguyện tại Thái Nguyên từ năm 2003 đến 6/2007, tỷ lệ sinh viên hiến máu tình nguyện
nhiễm HIV là 37/2614 (1,41%) [15].
Như vậy, tỉ lệ bệnh nhân dương tính với HIV trong nghiên cứu này cao hơn
trung bình chung của cả nước nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Thị La và
cộng sự. Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy, tỷ lệ nam giới dương tính với HIV
thấp hơn tỷ lệ nam trung bình cả nước nhưng tỷ lệ nữ dương tính với HIV lại cao hơn.
Bảng 4.4. Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus HIV theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh
Virus HIV
Tổng số người Số người Tỷ lệ % STT Lứa tuổi được xét nghiệm mắc
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
499 297 0 0 0,00 0,00 Dưới 10 tuổi 1
714 1474 3 1 0,42 0,06 Từ 10 đến 29 tuổi 2
1471 3 Từ 30 đến 49 tuổi 1199 26 14 2,17 0,95
964 784 3 4 0,31 0,51 Từ 50 đến 70 tuổi 4
344 370 0 1 0,00 0,27 Trên 70 tuổi 5
3.720 4.396 32 20 0,86 0,45 Tổng số
Kết quả thể hiện trong bảng 4.4 cho thấy:
Tỉ lệ bệnh nhân nam nhiễm HIV/AIDS ở nhóm tuổi 30-49 là cao nhất với 2,17%
tiếp đến là nhóm tuổi 10-29 tuổi với 0,42%, nhóm tuổi 50-70 tuổi với 31% và đặc
biệt không có trẻ em dưới 10 tuổi và trên 70 tuổi nghi ngờ nhiễm virus HIV/AIDS.
38
Tỉ lệ bệnh nhân nữ nhiễm HIV/AIDS ở nhóm tuổi 30-49 là cao nhất với 0,95%
tiếp đến là nhóm tuổi 50-70 tuổi với 0,51%, nhóm trên 70 tuổi với 0,27% và đặc biệt
không có trẻ em dưới 10 tuổi.
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên năm 2013,
tỉ lệ nữ nhiễm HIV lên tới 29,2% trong quần thể nghiên cứu. Người nhiễm HIV ở
nhóm tuổi 30-49 chiếm đa số và đây là nhóm lao động trụ cột chính [18].
Theo Báo cáo kết quả công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2019 và nhiệm vụ
trọng tâm năm 2020 của Bộ Y tế ngày 15 tháng 1 năm 2020 [3], số người nhiễm mới
HIV tập trung chủ yếu ở độ tuổi 16-29 (38%) và 20-39 (36%).
So sánh với các nghiên công bố trên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương
đồng với kết quả nghiên cứu của Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên năm 2013
nhưng có sự sai khác với kết quả công bố trong báo cáo của Bộ Y tế tháng 01/2020.
4.3. Khảo sát tình hình nhiễm virus Cúm A và Cúm B trên các bệnh nhân điều
trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên
Virus cúm A và cúm B có các triệu chứng ban đầu giống với cúm thường vì vậy
khó chẩn đoán nếu chỉ dựa vào biểu hiện của bệnh nhân. Khi virus lây nhiễm vào cơ
thể sẽ hình thành kháng thể đặc hiệu chống lại sự có mặt của kháng nguyên virus.
Kháng thể tồn tại trong dịch tị hầu, dịch họng hay đờm của bệnh nhân. Để chẩn đoán
chính xác nguyên nhân bệnh, các mẫu dịch tị hầu của bệnh nhân sẽ được phát hiện
bằng xét nghiệm miễn dịch sắc kí.
4.3.1. Kết quả tình hình nhiễm virus cúm A bằng phương pháp test nhanh
Kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm virus cúm A tại Bệnh viện Trung Ương
Thái Nguyên từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020 được thể hiện trong bảng 4.5 và 4.6
dưới đây
39
Bảng 4.5.Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm A bằng phương pháp
test nhanh
Cúm A
Tổng số người Thời gian xét Số người STT được xét (Tỷ lệ %) nghiệm mắc nghiệm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 Tháng 8 năm 2019 101 88 0 0,00 1,14 1
2 Tháng 9 năm 2019 101 40 2 1,98 1,01 1
3 Tháng 10 năm 2019 71 92 2 2,82 5,43 5
4 Tháng 11 năm 2019 139 158 22 24 15,83 15,19
5 Tháng 12 năm 2019 405 291 191 114 47,16 39,18
6 Tháng 1 năm 2020 856 620 348 300 40,65 48,39
7 Tháng 2 năm 2020 374 363 30 24 8,02 6,34
8 Tháng 3 năm 2020 250 180 0 0,00 0,56 1
9 Tháng 4 năm 2020 62 29 0 0,00 0,00 0
10 Tháng 5 năm 2020 70 49 0 0,00 0,00 0
Tổng số 2429 1910 595 470 24,50 24,61
Kết quả thể hiện trong bảng 4.5 cho thấy:
Trong tổng số 4339 bênh nhân được xét nghiệm virus cúm A, trong đó có 2429
bệnh nhân nam và 1910 bệnh nhân nữ. Trong tổng số 2.429 bệnh nhân nam được xét
nghiệm có 595 bệnh nhân dương tính (chiếm 24,50%). Tỷ lệ nữ bị nhiễm virus cúm
A là 470/1910 bệnh nhân, chiếm 24,61%.
Theo dõi tỷ nhiễm cúm A qua các tháng cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus
cúm A tăng mạnh vào các tháng 11 -12/2019 và tháng 01 -02 năm 2020 trong đó đỉnh
điểm là 12 năm 2019 và tháng 01 năm 2020.
Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm cúm A theo lứa tuổi được thể hiện trong bảng 4.6
40
Bảng 4.6: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm A theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh
Cúm A
Tổng số người STT Nhóm tuổi Số người mắc Tỷ lệ (%) được xét nghiệm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 Dưới 10 tuổi 1321 846 421 276 31,87 32,62
2 Từ 10 đến 29 tuổi 433 451 82 77 18,94 17,07
3 Từ 30 đến 49 tuổi 317 288 49 67 15,45 23,26
4 Từ 50 đến 70 tuổi 241 236 29 33 12,3 13,98
5 Trên 70 tuổi 117 89 14 17 11,7 19,10
Tổng số 2429 1910 595 470 24,0 24,61
Theo dõi tỷ lệ nhiễm virus cúm A theo nhóm tuổi, tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm
trẻ em dưới 10 tuổi (31,87% ở nam giới và 2,62% ở nữ giới), các nhóm nhóm tuổi
còn lại, tỷ lệ nhiễm có sự khác biệt nhau nhưng không đáng kể.
Theo nghiên cứu của Lưu Thị Kim Thanh tại bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên năm 2009 [19], tỉ lệ nhiễm cúm A trên bệnh nhân đến khám và điều trị là
49,9%, trong đó tỉ lệ mắc cao nhất thuộc về độ tuổi từ độ tuổi 11-20 (50,97%), lứa
tuổi 21-30 có tỉ lệ 28,79%, độ tuổi 1-10 chiếm 13,23% và không có ca nhiễm cúm
nào ở lứa tuổi trên 60. Như vậy, kết quả nghiên cứu này có sự khác biệt về nhóm tuổi
chiếm đa số so với nghiên cứu của Lưu Thị Kim Thanh năm 2009.
Kết quả nghiên cứu của Lưu Thị Kim Thanh năm 2009 cũng cho thấy, dịch
bùng phát của Cúm A năm 2009 rơi vào các tháng 10 (52,92%), tháng 11 (22,18%)
tháng 9 (15,56%) và tháng 12 (7,78%). Như vây, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy, đỉnh dịch cúm A chậm hơn so 1 tháng so với nghiên cứu của Lưu Thị Kim
Thanh năm 2008. Điều này cũng có thể được lý giải như sau: mùa đông năm 2019 có
nhiệt độ cao hơn và muộn hơn so với các năm làm cho những dịch theo mùa cũng
chậm hơn so với những năm khác.
41
4.3.2. Kết quả tình hình nhiễm virus cúm B bằng phương pháp test nhanh
Bảng 4.7. Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm B bằng phương pháp test
nhanh
Cúm B
Tổng số Thời gian xét STT người được Số người mắc Tỷ lệ (%) nghiệm xét nghiệm
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
101 88 1 Tháng 8 năm 2019 2 1 1,98 1,14
101 40 2 Tháng 9 năm 2019 0 2 0,00 5,00
71 92 3 Tháng 10 năm 2019 3 6 4,23 6,52
139 158 4 Tháng 11 năm 2019 6 2 4,30 1,27
405 291 5 Tháng 12 năm 2019 4 2 0,99 0,69
856 620 6 Tháng 1 năm 2020 15 16 1,75 2,58
374 363 7 Tháng 2 năm 2020 10 6 2,67 1,65
250 180 8 Tháng 3 năm 2020 0 0 0,00 0,00
62 29 9 Tháng 4 năm 2020 0 0 0,00 0,00
70 49 10 Tháng 5 năm 2020 0 0 0,00 0,00
1,65 1,83 Tổng số 2429 1910 40 35
Kết quả thể hiện trong bảng 4.7 cho thấy:
Trong tổng số 4339 bênh nhân được xét nghiệm virus cúm B, trong đó có 2429
bệnh nhân nam và 1910 bệnh nhân nữ. Tỷ lệ nữ bị nhiễm virus cúm B là 40/2429
bệnh nhân, chiếm 1,65%. Tỷ lệ nữ bị nhiễm virus cúm B là 35/1910 bệnh nhân, chiếm
1,83%.
Theo dõi tỷ nhiễm cúm B qua các tháng cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus
cúm B tăng mạnh vào các tháng 10 -11,12/2019 và tháng 1 năm 2020 trong đó đỉnh
điểm là 12 năm 2019 và tháng 01 năm 2020.
Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm cúm B theo lứa tuổi được thể hiện trong bảng 4.6
42
Bảng 4.8: Tổng hợp tỷ lệ bệnh nhân nhiễm virus cúm B theo nhóm tuổi bằng
phương pháp test nhanh
Cúm B
Tổng số người được Số người STT Nhóm tuổi Tỷ lệ (%) xét nghiệm mắc
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1321 846 25 18 1,89 2,13 1 Dưới 10 tuổi
433 451 9 11 2,08 2,44 Từ 10 đến 29 tuổi 2
317 288 2 4 0,63 1,39 Từ 30 đến 49 tuổi 3
241 236 4 2 1,66 0,85 Từ 50 đến 70 tuổi 4
117 89 0 0 0,00 0,00 Trên 70 tuổi 5
Tổng số 2429 1910 40 35 1,65 1,83
Theo dõi tỷ lệ nhiễm virus cúm B theo nhóm tuổi, tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm
trẻ em dưới 10 tuổi (1,89% ở nam giới và 2,13% ở nữ giới) và nhóm 20-39 tuổi
(2,08% ở nam và 2,44% ở nữ), các nhóm nhóm tuổi còn lại, tỷ lệ nhiễm có sự khác
biệt nhau nhưng không đáng kể.
Theo nghiên cứu của Nguyễn T. Yến và cs năm 2013 [42] khi làm chương
trình giám sát quốc gia về bệnh cúm ở Việt Nam đã chỉ ra rằng đối với dịch cúm
2009, tỉ lệ bệnh nhân cúm B là 38%, trong số đó bệnh nhân dưới 15 tuổi chiếm cao
nhất (8,2%). Virus cúm B thường lưu hành suốt cả năm, các đỉnh dịch thường rơi vào
tháng 11 và tháng 3. Tỉ lệ nam và nữ cho kết quả dương tính với cúm B là tương
đương nhau. So sánh với kết quả của nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ nhiễm virus cúm
B nhỏ hơn rất nhiều so với năm 2009, chứng tỏ cúm B đã được khống chế tốt. Độ
tuổi nhiễm bệnh phổ biến và thời gian nhiễm bệnh tương đối tương đồng giữa 2
nghiên cứu cho thấy đặc điểm dịch tễ học của cúm B không có sự thay đổi nhiều từ
2009 đến nay.
Nguyễn Lê Khánh Hằng năm 2019 [14] khi nghiên cứu căn nguyên của các
vụ dịch cúm người đầu những năm 2000 tại miền Bắc Việt Nam đã chỉ ra rằng các
dịch cúm tại miền Bắc Việt Nam từ năm 2000 đến nay đều có nguyên nhân là virus
43
cúm tuýp A/B. Virus cúm B là căn nguyên chủ yếu gây dịch năm 2001.Virus cúm
mùa lưu hành quanh năm, thường tập trung vào 2 thời điểm là cuối mùa xuân (tháng
2-3) và giữa mùa hè ( tháng 7-8)[14]. Nguyễn T. Yến và cs năm 2013 [42] khi làm
chương trình giám sát quốc gia về bệnh cúm ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng cúm A và
B thường lưu hành cùng nhau, mặc dù đỉnh dịch của chung có xu hướng xảy ra vào
các thời điểm khác nhau trong năm. Cùng với kết quả của nghiên cứu này cho thấy
cúm A và cúm B bùng phát dịch trong cùng thời điểm (từ tháng 10/2019 đến tháng
2/2020) tuy nhiên đỉnh dịch cúm A rơi vào tháng 12 và cúm B rơi vào tháng 10 cho
thấy cúm A và cúm B thường lưu hành cùng nhau trong cộng đồng, tuy nhiên thời
điểm dịch lên đỉnh và quy mô dịch có sự khác nhau giữa 2 loại và giữa các khu vực
và nhóm dân cư khác nhau, vì vậy cần có biện pháp riêng với từng khu vực trong
từng thời điểm khác nhau, ngăn chặn virus bùng phát thành dịch.
44
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1. Đã khảo sát tình hình nhiễm virus viêm gan B và viêm gan C trên các bệnh
nhân điều trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 8/2019 đến tháng
5/2020. Cụ thể:
- Tỷ lệ nhiễm viêm gan B là ở nam và nữ lần lượt là 6,25% và 6,24%; nhóm
tuổi nhiễm cao nhất là 30-49 tuổi, chiếm 8,13% ở nam giới.
- Tỷ lệ nhiễm viêm gan C là ở nam và nữ lần lượt là 4,60% và 1,22%; nhóm
tuổi nhiễm cao nhất là 30-49 tuổi, chiếm 8,17% ở nam giới.
2. Đã khảo sát tình hình nhiễm HIV trên các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện
Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020. Cụ thể: Số bệnh nhân
nhiễm HIV là 52 người, chiếm 0,64%; Tỷ lệ bệnh nhân nam nhiễm HIV cao gần gấp
2 lần so với bệnh nhân nữ (0,86% ở nam so với 0,45% ở nữ); nhóm tuổi nhiễm HIV
cao nhất là 30 – 49 tuổi (chiếm 2,17% ở nam giới và 0,95% ở nữ giới).
3. Đã khảo sát tình hình nhiễm virus cúm A và cúm B trên các bệnh nhân điều
trị tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ tháng 8/2019 đến tháng 5/2020:
- Tỉ lệ cúm A ở nam và nữ lần lượt là 24,50% và 24,61% , nhóm tuổi nhiễm cao
nhất là dưới 10 tuổi (31,87% ở nam giới và 2,62% ở nữ giới). Đỉnh dịch rơi vào 11 -
12/2019 và tháng 01 -02 năm 2020.
Tỉ lệ cúm B ở nam và nữ lần lượt là 1,65% và 1,83%, nhóm tuổi nhiễm cao nhất
là dưới 10 tuổi (1,89% ở nam giới và 2,13% ở nữ giới) và nhóm 20-39 tuổi (2,08% ở
nam và 2,44% ở nữ). Đỉnh dịch rơi vào 10 -11,12/2019 và tháng 1 năm 2020.
5.2. KIẾN NGHỊ
Tiếp tục theo dõi tình hình nhiễm virus viêm gan B, viêm gan C, HIV, cúm A
và cúm B trên các bệnh nhân điều trị tại bệnh viên Trung Ương Thái Nguyên trong
tháng 06 và tháng 07 để có số liệu theo dõi trong vòng 01 năm từ đó đánh giá được
sự biến động của các dịch bệnh này trong 01 năm.
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng việt
[1] Bộ Y tế (2011). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh cúm mùa, Quyết định số
2078/QĐ-BYT ngày 23/6/2011 của Bộ Y tế, Hà Nội.
[2] Bộ Y tế (2009), "Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS”, ban hành kèm
theo quyết định số 3003/QĐ-BYT ngày 19/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
[3] Bộ Y tế (2019), Báo cáo Kết quả công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2019 và
nhiệm vụ trọng tâm năm 2020 của Bộ Y tế ngày 15 tháng 1 năm 2020.
[4] Bùi Đại, Phạm Ngọc Đính, Châu Hữu Hầu (2008), Viêm gan vi rút B và D, NXB
Y học, Hà Nội.
[5] Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế (2010). Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
[6] Đào Đình Đức, Lê Đăng Hè, Nguyễn Đức Hiền, Trịnh Thị Minh Liên
(1997)“Dịch tễ học viêm gan vi rút ở Việt Nam”, Y học thực hành, số 9, tr.
1-3.
[7] Lê Huy Chính (2009), “Vi sinh vật Y học- Sách đào tạo bác sĩ đa khoa”, Nhà xuất
bản Y học.
[8] Nguyễn Văn Kính và cộng sự (2009) “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng bệnh cúm
A( H1N1)” Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương.
[9] N. T. Hiển (2011). Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và vi rút học của
cúm A/H1N1/09 đại dịch ở các tỉnh miền Bắc-Trung-Tây Nguyên, đề xuất
các giải pháp phòng chống dịch.
[10] Nguyễn Trường Sơn (2005), Nghiên cứu tỷ lệ các kiểu gen của vi rút viêm gan
B ở một số người lành mang vi rút và người mắc bệnh gan mạn tính,Luận
văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội
[11] Phạm Trần Diệu Hiền (2005), “Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của viêm
gan siêu vi B cấp có HBeAg âm tính”, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú,
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
46
[12] Trần Ngọc Quế (2003), Nghiên cứu tình hình nhiễm HIV, HBV, HCV ở các đối
tượng sinh viên – học sinh cho máu tại Viện Huyết học – Truyền máu, Luận
văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
[13] Phạm Hoài Linh Ly, Luận văn Thạc sĩ Khoa học: “Nghiên cứu sự lưu hành của
virus cúm B tại miền Bắc Việt Nam”
[14] Nguyễn Lê Khánh Hằng luận án Tiến sĩ Sinh học: “Nghiên cứu căn nguyên của
các vụ dịch cúm người đầu những năm 2000 tại miền Bắc Việt Nam” năm
2010
[15] Phạm Thị La và Đtg, “Nghiên cứu tình hình nhiễm HBV, HCV, HIV, Giang mai
ở người hiến máu tình nguyện tại Thái Nguyên (2003 – 6/2007)”
[16] Nguyễn Tiến Hòa, “Luận án Tiến sĩ Y học: Tình trạng nhiễm HIV, HBV, HCV
và yếu tố liên quan ở một số nhóm nguy cơ cao tại Hà Nội, năm 2008-2010
[17] Ngô Thị Quỳnh Trang, “Xác định tỉ lệ nhiễm vi rút viêm gan B (HBsAg) và
viêm gan C (Anti HCV) trong huyết thanh người tại một xã vùng đồng
bằng Bắc Bộ Việt Nam” năm 2011
[18] Trung tâm Y tế thành phố Thái Nguyên năm 2013 “Nghiên cứu về thực trạng
nhiễm HIV ở Thái Nguyên.”
[19] Lưu Thị Kim Thanh, Đào Thanh Quyên “Nghiên cứu tình hình nhiễm cúm A
trên bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái
Nguyên vụ dịch 2009”
2. Tài liệu Tiếng Anh
[20] Boni, M.F. at al (2009). Modeling the progression of pandemic influenza A
(H1N1) in Vietnam and the opportunities for reassortment with other
influenza virus. BMC, (7), 43.
[21] Cunha., Burke A. (2004). Influenza: historical aspects of epidemics and
pandemics. Infectious Disease clinics of North America, 18, 141-155.
[22] Clatts, M.C., Colon-Lopez V., Giang le M., et al. (2010). Prevalence and
incidence of HCV infection among Vietnam heroin users with recent onset
of injection. J Urban Health. 87(2), 278-91.
47
[23] Pagliaro, L., Peri V., Linea C., et al. (1999). Natural history of chronic hepatitis
C. Ital J Gastroenterol Hepatol. 31(1), 28-44.
[24] Viet, L., Lan N.T., Ty P.X., et al. (2012). Prevalence of hepatitis B & hepatitis
C virus infections in potential blood donors in rural Vietnam. Indian J Med
Res. 136(1), 74-81.
[25] World Health Organization (2012). Vaccines against influenza WHO position
paper - November 2012. Weekly Epidemiol Rec, 87(47), 461-76.
[26] World Health Organization (2013), Cummulative number of confirmed human
cases of avian influenza A(H5N1) reported to WHO, truy cập
ngày 18/12/2019, tại trang web http://www.who.int/influenza/human
animal interfac/ENGIXP20131210 CumulativeNumber H5N 1 cases.pdf.
[27] World Health Organization (2017), Up to 650 000 people die of respiratory
diseases linked to seasonal flu each year reported to WHO, truy cập
ngày 18/12/2019 tại trang web https://www.who.int/en/news-
room/detail.
[28] World Health Organization (2019), The Global HIV/AIDS Epidemic reported to
WHO, truy cập ngày 21/6/2020 tại trang web https://www.hiv.gov/hiv-
basics/overview/data-and-trends/global-statistics
[29] World Health Organization (2019), The Global COVID-19 pandemic reported
to WHO truy cập ngày 21/6/2020 tại trang web
https://www.who.int/emergencies/diseases/ novel-coronavirus-2019
[30] World Health Organization (2019), The Global EBOLA pandemic reported to
WHO, truy cập ngày 18/12/2019 tại trang web
https://www.who.int/health-topics/ebola#tab=tab_1
[31] World Health Organization (2019), The Global MERS pandemic reported to
WHO, truy cập ngày 18/12/2019 tại trang web
https://www.who.int/health-topics/middle-east-respiratory-syndrome-
coronavirus-mers#tab=tab_1
48
[32] World Health Organization (2019), Hepatitis C reported to WHO, truy cập
ngày 1/6/2020 tại trang web https://www.who.int/news-
room/factsheets/detail/ hepatitis-c
[33] World Health Organization (2019), Hepatitis B reported to WHO, truy cập
ngày 18/6/2020 tại trang web https://www.who.int/news-room/fact-
sheets/detail/hepatitis-b
[34] Kumar, V. Influenza in Children. Indian J Pediatr 84, 139–143 (2017).
https://doi.org/10.1007/s12098-016-2232-x
[35] Parakh, A., Kumar, A., Kumar, V. et al. “Pediatric Hospitalizations Associated
with 2009 Pandemic Influenza A (H1N1): An Experience from a Tertiary
Care Center in North India. Indian J Pediatr 77, 981–985 (2010)”.
[36] Xiang-Shi Wang , Jie-Hao Cai, Wei-Lei Yao, Yan-Ling Ge, Qi-Rong Zhu, Mei
Zeng “Clinical Characteristics and Molecular Epidemiology of the Novel
Influenza A (H1N1) Infection in Children in Shanghai”
[37] Amanda J Noska , Pamela S Belperio , Timothy P Loomis , Thomas P
O'Toole , Lisa I Backus “Prevalence of Human Immunodeficiency Virus,
Hepatitis C Virus, and Hepatitis B Virus Among Homeless and Nonhomeless
United States Veterans 2015”
[38] Jamil A Al-Mughales “Co-infection Assessment in HBV, HCV, and HIV
Patients in Western Saudi Arabia 2016”
[39] Oluyinka Oladele Opaleye , Magdalene C Igboama , Johnson Adeyemi
Ojo , Gbolabo Odewale “Seroprevalence of HIV, HBV, HCV, and HTLV
Among Pregnant Women in Southwestern Nigeria in 2016”
[40] Leandro Sereno , Fabio Mesquita , Masaya Kato , David Jacka , Thị Thúy
Van Nguyen , Thiên Nga Nguyễn “Epidemiology, Responses, and Way
Forward: The Silent Epidemic of Viral Hepatitis and HIV Coinfection in
Vietnam in 2012”
[41] RuiLing Dong , XiaoChun Qiao, WangQian Jia, Michelle Wong, HanZhu
Qian, XiWen Zheng, WenGe Xing, ShengHan Lai, ZhengLai Wu, Yan
49
Jiang, Ning Wang “HIV, HCV, and HBV Co-Infections in a Rural Area of
Shanxi Province With a History of Commercial Blood Donation in 2004”
[42] Yen T. Nguyen, Samuel B. Graitcer, Tuan H. Nguyen,Duong N. Tran, Tho D.
Pham, Mai T.Q. Le,Huu N. Tran,Chien T. Bui,Dat T. Dang,Long T.
Nguyen, Timothy M. Uyeki,David Dennis, James C. Kile, Bryan K.
Kapella,A.D. Iuliano, Marc-Alain Widdowson, and Hien T. Nguyen
“National surveillance for influenza and influenza-like illness in Vietnam,
2006–2010” on 2013 Jul 30
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các hình ảnh test nhanh phát hiện Virus
Test nhanh âm tính với virus HVC Test nhanh dương tính với virus HVC
Test nhanh âm tính với virus HBV Test nhanh dương tính với virus HBV