
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 477 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2019
69
nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngoài giờ và tại nhà của
người đến khám, điều trị bệnh tại bệnh viện phổi
Trung ương", Tạp chí Y học Dự phòng. 3(163).
4. Bộ Y tế & Tổng cục Thống kê (2003), Báo cáo
chuyên đề: Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ y tế
- Điều tra y tế quốc gia 2001-2002, Hà Nội
5. Lý Ngọc Kính (2008), Chính sách chăm sóc sức
khỏe của Việt Nam cơ hội và thách thức giữa khu
vực nhà nước và khu vực tư nhân, Tạp chí Chính
sách Y tế, 3, 34-37.
6. Viện Chiến lược Chính sách Y tế (2015), Tài liệu
tập huấn điều tra hộ gia đình - Khảo sát tình hình sức
khỏe, tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân,
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, HN.
7. Đàm Trọng Hiếu (2016). Thực trạng và nhu cầu
chăm sóc sức khỏe tại 2 phương của quận Tây Hồ,
Hà Nội năm 2016 và một số yếu tố liên quan. Luận
văn Thạc sỹ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y
tế công cộng.
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH THEO DÕI TRẺ SAU TIÊM CHỦNG
CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI 2 TUỔI TẠI HUYỆN XAY CHĂM PHON
TỈNH BO LI KHĂM XAY,
LÀO NĂM 2018
Santy PHANTHADALA1, Lê Thị Tài1, Lê Thị Lan Hương2
TÓM TẮT20
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiên trên
350 bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại huyện Xay Chăm
Phon, tỉnh Bo Li Khăm Xay Lào năm 2018 nhằm mô tả
kiến thức và thực hành của các bà mẹ này về theo dõi
các phản ứng sau tiêm chủng ở trẻ dưới 2 tuổi. Kết
quả cho thấy: Về kiến thức: tỷ lệ bà mẹ biết thời gian
cần theo dõi trẻ đủ 30 phút tại nơi tiêm và ít nhất 24
giờ tại nhà rất thấp (18,9% và 30%). Nhiều bà mẹ
biết các phản ứng sau tiêm như: sốt (98,3%), quấy
khóc (78,3%), sưng đau tại chỗ tiêm (12,3%), 93,1%
bà mẹ biết tiêm chủng có thể phòng được các bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm. Về thực hành: 98,9% bà mẹ
giữ sổ tiêm chủng của trẻ, 50% bà mẹ có thực hành
theo dõi trẻ đủ 30 phút tại nơi tiêm và ít nhất 24 giờ
tại nhà. Có nhiều lý do làm cho bà mẹ không theo dõi
trẻ đủ thời gian sau tiêm chủng như: quá bận
(72,7%), không có thời gian (39,2%), thấy trẻ không
có vấn đề bất thường (87,9%) và không biết cần phải
theo dõi gì (39,3%).
SUMMARY
KNOWLEDGE, PRACTICE FOLLOWING
CHILDREN UNDER TWO YEARS OLD POST-
VACCINATION OF THE MOTHERS IN
XAYCHAMPHONE, DISTRICT
BOLIKHAMXAY PROVINCE, LAO 2018
Cross-sectional descriptive study was conducted on
350 mothers with children under 2 years old in
Xaychamphone district, Bolikhamxay province, Lao -
2018 to describe the knowledge and practice of these
mothers on monitoring the reactions post-vaccination
application in children under 2 years old. The results
showed that: In terms of knowledge, the proportion of
1Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
2Trường Đại học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Santy PHANTHADALA
Email: phanthadala@gmail.com
Ngày nhận bài: 17.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 1.4.2019
Ngày duyệt bài: 8.4.2019
mothers who knew the time to monitor their children
at 30 minutes at the injection site and at least 24
hours at home was very low (18.9% and 30%). Many
mothers know the post-injection reactions such as
fever (98.3%), cry (78.3%), pain at the injection site
(12.3%), 93.1% of mothers know that vaccination can
prevent dangerous infectious diseases. In practice:
98.9% of mothers keep their children's vaccination
books, 50% of mothers practiced monitoring children
for 30 minutes at the injection site and at least 24
hours at home. There are many reasons of why
mothers do not follow children enough time after
vaccination such as: too busy (72.7%), not having
time (39.2%), seeing that children do not have
abnormal problems (87, 9%) and do not know what to
follow (39.3%).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dịch bệnh truyền nhiễm đã ảnh hưởng đến
sức khỏe và kinh tế của nhiều nước trên thế giới,
nhất là các nước đang phát triển, do bệnh truyền
nhiễm dẫn tới sự ốm đau và tử vong nhiều hơn
các nguyên nhân khác [1]. Thế kỷ XX đã đánh
dấu những thành tựu to lớn mà vắc xin đem lại
cho nền y học trong việc ngăn ngừa và giảm tỷ
lệ bệnh tật, khuyết tật và tử vong [2]. Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) ước tính rằng hàng năm có
thể giảm đến 2-3 triệu trẻ em tử vong vì các
bệnh truyền nhiễm [3],[4]. Việc phát hiện, báo
cáo những phản ứng bất thường sau tiêm chủng
có thể giúp xác định nguyên nhân từ đó đề ra
những biện pháp phù hợp đồng thời sẽ tránh
được những thông tin sai lệch có thể gây mất
lòng tin của cộng đồng đối với công tác tiêm
chủng [5],[6],[7]. Chính vì vậy, vấn đề an toàn
tiêm chủng cần được quan tâm và nghiên cứu để
đưa ra các khuyến nghị phù hợp nhằm hạn chế
hậu quả xấu của các trường hợp có phản ứng
sau tiêm chủng. Xuất phát từ thực tế trên, chủng
tôi tiến hành nghiên cứu về “Kiến thức, thực
hành theo dõi trẻ sau tiêm chủng của các bà mẹ

vietnam medical journal n02 - APRIL - 2019
70
có con dưới 2 tuổi tại huyện Xay Chăm Phon tỉnh
Bo Li Khăm Xay, Lào năm 2018”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng: Bà mẹ của trẻ dưới 2 tuổi
đang sinh sống tại huyện Xay Chăm phon tỉnh
Bo Li Khăm Xay, Lào.
2.2. Phương pháp
2.2.1. Thiết kế: Sử dụng thiết kế nghiên cứu
mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
• Cỡ mẫu: Số người cần phỏng vấn được
tính theo công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu
ước lượng một tỷ lệ trong quần thể:
Z2(1-α/2) x
p (1 - p)
n =
d2
Trong đó:
n: Số người cần được phỏng vấn.
Z (1-α/2): = 1,96 (Hệ số tin cậy ở mức xác suất
95%). p: = 35,8% là tỷ lệ người chăm sóc trẻ
dưới 1 tuổi biết được những dấu hiệu của phản
ứng sau tiêm chủng [8].
d = 0,05, là sai số tuyệt đối của kết quả
nghiên cứu từ mẫu so với quần thể.
Thay vào công thức tính được n=353. Thực
tế chúng tôi đã phỏng vấn 350 bà mẹ.
2.3. Công cụ thu thập thông tin: Thông
tin được thu thập bằng kỹ thuật phỏng vấn trực
tiếp bà mẹ theo bộ câu hỏi được thiết kế sẵn.
2.4. Các biến số cần thu thập: Tuổi, dân tộc,
giới, nghề nghiệp, trình độ học vấn, kiến thức, thực
hành theo dõi phản ứng sau tiêm chủng và nguồn
cung cấp thông tin về tiêm chủng.
2.5. Xử lý và phân tích số liệu: Số liệu
được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý
bằng phần mềm SPSS 22. Thống kê mô tả cung
cấp thông tin về số lượng, tỉ lệ phần trăm. Kết
quả được trình bày dưới dạng bảng kết quả.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên
cứu. Nghiên cứu tiến hành trên 350 bà mẹ. Trong
đó, chủ yếu nhóm tuổi ≤30 (85,1%). Về trình độ
học vấn, tỷ lệ không biết đọc/biết viết là 26,3%;
tiểu học: 34,9%, trung học cơ sở 17,1%, trung học
phổ thông 4,0% và 17,7% trên trung học phổ
thông. Về nghề nghiệp: nông dân chiếm tỷ lệ cao
nhất (72,0%), số người là công chức/viên chức
17,4%. Thu nhập bình/người/tháng <180,000 kíp
chiếm đa số (73,4%), thu nhập ≥180,000 kíp chỉ
chiếm 26,6%.
3.2. Kiến thức của bà mẹ về theo dõi phản ứng sau tiêm chủng.
Bảng 3.1. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của tiêm chủng.
Lợi ích của tiêm chủng
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Phòng được các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
326
93,1
Rẻ hơn so với chữa bệnh
86
24,6
Là phương pháp rẻ tiền, an toàn và hiệu quả
34
9,7
Trả lời đúng cả 3 lợi ích của tiêm chủng
29
8,3
Không biết
24
6,9
Theo bảng 3.1. Hầu hết các bà mẹ biết được tiêm chủng giúp phòng được các bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm (93,1%) nhưng vẫn có bà mẹ không biết lợi ích của tiêm chủng (6,9%). Về thời gian cần
thiết phải theo dõi phản ứng sau tiêm chủng cho trẻ, kết quả cho thấy trong số 350 bà mẹ được
phỏng vấn chỉ có 66 bà mẹ (18,9%) biết cần thiết phải theo dõi trẻ sau tiêm ít nhất 30 phút ở nơi
tiêm và 105 (30%) bà mẹ biết cần phải theo dõi trẻ ít nhất 24 giờ sau tiêm tại nhà.
Bảng 3.2. Kiến thức của bà mẹ về các loại phản ứng thông thường sau tiêm chủng (n= 350)
Phản ứng
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Sốt nhẹ
344
98,3
Quấy khóc nhẹ
274
78,3
Sưng đau tại chỗ tiêm
43
12,3
Theo bảng 3.2, có 98,3% bà mẹ biết trẻ sẽ có thể bị sốt nhẹ sau tiêm, quấy khóc nhẹ (78,3%),
sưng đau tại chỗ tiêm (12,3%).
Bảng 3.3. Kiến thức của bà mẹ về phản ứng nặng, hậu quả, cách xử trí sau tiêm chủng
(n=20)
Kiến thức
Số lượng
Tỷ lệ(%)
Biết phản ứng nặng
sau tiêm chủng
Sốt cao >390C
19
95,0
Quấy khóc kéo dài
12
60,0
Co giật
10
50,0
Biết hậu quả của phản
ứng nặng
Gây hậu quả dai dẳng
4
20,0
Ốm yếu, tàn tật
19
95,0
Đe dọa tính mạng
1
5,0

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 477 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2019
71
Gây tử vong
11
55,0
Biết dấu hiệu phản
ứng nặng ở trẻ cần
đưa trẻ đến cơ sở y tế
Sốt cao trên 390C
18
90,0
Quấy khóc kéo dài
15
75,0
Co giật
18
90,0
Tím tái, khó thở
15
75,0
Bú ít, bỏ bú
13
65,0
Biết nơi cần đưa trẻ
đến CSYT khi có phản
ứng nặng
Trạm Y tế
1
5,0
Bệnh viện huyện
15
75,0
Bệnh viện tỉnh
4
20,0
Theo bảng 3.3, đa số các bà mẹ đã từng nghe về phản ứng nặng sau tiêm chủng của trẻ, cụ thể:
biết trẻ có dấu hiệu phản ứng nặng sau tiêm chủng là sốt rất cao (95,0%), quấy khóc kéo dài là
60%, co giật là 50%. Phần lớn các bà mẹ này cho rằng cần đưa trẻ đến bệnh viện huyện khi trẻ có
phản ứng nặng (75%).
3.3. Thực hành theo dõi, xử trí phản ứng sau tiêm chủng của bà mẹ có con dưới 2 tuổi
Bảng 3.4. Thực hành của bà mẹ về theo dõi sức khỏe của trẻ sau tiêm chủng tại nơi
tiêm chủng và tại nhà (n=350).
Thực hành theo dõi trẻ
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Theo dõi trẻ tại nơi
tiêm sau tiêm
Không theo dõi
0
0
Đủ 30 phút
182
52,0
Không đủ 30 phút
168
48,0
Theo dõi trẻ khi về
nhà sau tiêm
Không theo dõi
9
2,6
Đủ 24 giờ
308
88,0
Không đủ 24 giờ
33
9,4
Thực hành theo dõi trẻ đủ 30 phút tại nơi tiêm
chủng và ít nhất 24 giờ tại nhà
175
50,0
Theo bảng 3.4, chỉ có 52,0% bà mẹ cho trẻ ở
lại nơi tiêm chủng đủ 30 phút để theo dõi tình
trạng sức khỏe của trẻ sau tiêm chủng. Có 88%
trẻ được theo dõi ít nhất 24 giờ tại nhà. Tỷ lệ bà
mẹ đồng thời thực hành theo dõi trẻ đủ 30 phút
tại nơi tiêm và theo dõi ít nhất 24 giờ tại nhà
chiếm tỷ lệ 50,0%. Về thực hành của bà mẹ xử
trí các phản ứng sau tiêm chủng khi trẻ sốt, kết
quả nghiên cứu cho thấy 100% các bà mẹ đã
dùng thuốc hạ sốt khi trẻ sốt và 26,3% cho trẻ
bú và uống nhiều nước.
Về thực hành xử trí chăm sóc khi có sưng đỏ
tại vị trí tiêm của bà mẹ, kết quả của nghiên cứu
cho thấy tất cả 33 bà mẹ có con bị sưng đỏ tại vị
trí tiêm đều không làm gì để xử trí các biểu hiện
đó. Về nơi chăm sóc trẻ khi trẻ có biểu hiện bất
thường, hầu hết các bà mẹ chăm sóc trẻ tại nhà
(97,6%), chỉ rất ít bà mẹ đưa con đến TYT
(1,8%), và bệnh viện (0,6%).
IV. BÀN LUẬN
4.1. Kiến thức của bà mẹ trẻ về theo dõi
phản ứng sau tiêm vắc xin.
Trong số 350 bà mẹ trẻ có 326 bà mẹ trẻ
tham gia nghiên cứu (93,1%) cho rằng tiêm
chủng giúp trẻ phòng được các bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ tương
tự trong nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung
và cộng sự tại Thanh Hóa năm 2016 là 96,3%
[8], nhưng cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Thị
Thùy Dung và cộng sự tại Bắc Ninh năm 2014 là
86,35%[9]. Chỉ có 34 bà mẹ trẻ (9,7%) cho rằng
tiêm chủng là phương pháp phòng bệnh an toàn,
rẻ tiền và hiệu quả nhất. Đây là những kiến thức
rất phổ thông cần được truyền thông giáo dục
cho các bà mẹ nhằm tăng cường kiến thức và
niềm tin cho họ để họ tin tưởng và cho con tiêm
chủng phòng bệnh đẩy đủ hơn.
Hiểu biết của bà mẹ về những mốc thời gian
cần phải theo dõi trẻ tại nơi tiêm chủng và sau khi
về nhà: Chỉ có 66 bà mẹ biết được thời gian cần
phải theo dõi trẻ đủ 30 phút tại nơi tiêm (chiếm
18,9%) và 105 bà mẹ biết cần thiết phải theo dõi
sức khỏe tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm (chiếm
30%). Tỷ lệ này là rất thấp. Đây là vấn đề rất
quan trọng để phát hiện và xử trí kịp thời khi có
biểu hiện bất thường ở trẻ sau tiêm chủng vì vậy
cần phải tiếp tục truyền thông cho bà mẹ biết thờ
gian cần thiết phải theo dõi trẻ sau tiêm chủng.
Hầu hết bà mẹ cho rằng biểu hiện của phản
ứng sau tiêm chủng là sốt mức độ nhẹ, nặng
(98,2% và 95%), tiếp đến là dấu hiệu quấy khóc
nhẹ (78,3%) và sưng đau tại chỗ tiêm (12,3%).
Kết quả này tương tự ở nghiên cứu tại Quảng
Bình và Thanh Hóa [8]. Không có bà mẹ nào biết
được các dấu hiệu quan trọng để phát hiện sớm
các phản ứng nặng sau tiêm như quấy khóc tím
tái, khó thở hay bú ít, bỏ bú. Do vậy, việc tư vấn,
truyền thông cho bà mẹ trẻ về các biểu hiện nêu

vietnam medical journal n02 - APRIL - 2019
72
trên cần được chú trọng trong thời gian tới đây.
Hiểu biết của bà mẹ về các phản ứng thông
thường sau tiêm chủng cao hơn so với kiến thức
của họ về các phản ứng nặng sau tiêm. Phần lớn
bà mẹ biết phản ứng thông thường sau tiêm là
sốt nhẹ (98,3%), trong khi đó tỷ lệ này đối với
quấy khóc nhẹ hoặc sưng đau tại chỗ tiêm lần
lượt là 78,3% và 12,3%. Điều này cho thấy rằng
những phản ứng thông thường sau tiêm chủng
sẽ được bà mẹ sớm nhận ra và xử trí kịp thời.
Về phản ứng nặng sau tiêm chủng, chỉ rất it
bà mẹ đã nghe về phản ứng nặng xảy ra sau khi
tiêm chủng (5,7%), trong số đó, tỷ lệ biết phản
ứng nặng của trẻ sau tiêm chủng là sốt tương
đối cao chiếm 95%, phản ứng nặng có thể gây
ra hậu quả tử vong chiếm 55%. Ngoài ra, trong
các phản ứng nặng thì tỷ lệ bà mẹ biết phản ứng
co giật (50%) và có thể gây tử vong (55%) thấp
hơn so với các tỷ lệ tương tự trong nghiên cứu
tại Thanh Hóa năm 2016 (61,9%) [8].
4.2. Thực hành về theo dõi phản ứng sau
tiêm chủng của bà mẹ có con dưới 2 tuổi.
Trong số 350 bà mẹ được hỏi, số bà mẹ theo
dõi sức khỏe trẻ ngay sau tiêm chủng đủ 30
phút tại nơi tiêm chủng, số bà mẹ tuân thủ đủ
thời gian theo dõi là 52% kết quả này thấp hơn
trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thùy Dung tại
Bắc Ninh 93,32% [9] và Nguyễn Thành Trung tại
Thanh Hóa (86,2%) [8]. Điều này cho thấy sự
cần thiết tiếp tục tuyên truyền, hướng dẫn các
bà mẹ tuân thủ theo dõi chăm sóc trẻ sau tiêm ít
nhất 30 phút tại nơi tiêm. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu này, tỷ lệ bà mẹ thực hành theo dõi
trẻ sau tiêm chủng đủ 30 phút tại nơi tiêm chủng
cao hơn so với tỷ lệ bà mẹ biết cần theo dõi trẻ
ngay sau tiêm chủng đủ 30 phút tại nơi tiêm
chủng. Chúng tôi đã hỏi thêm những người này
là tại sao không biết cần theo dõi trẻ ngay sau
tiêm chủng đủ 30 phút tại nơi tiêm chủng nhưng
vẫn cho trẻ ở lại trạm 30 phút để theo dõi thì có
một số người trả lời vì họ “không vội về nhà làm
gì” có người trả lời là họ “chờ bạn” hoặc “có việc
khác ở trạm”. Như vậy có thể nói thực hành của
họ chỉ là tình cờ chứ không phải vì biết mà chủ
động theo dõi và như thế sẽ không bền vững.
Số bà mẹ tuân thủ thời gian đủ 24 giờ theo
dõi sức khỏe trẻ sau tiêm chủng tại nhà là 88%.
Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu
thực hiện tại Bắc Ninh năm 2014 (95,69%)[9] và
tại Thành Hóa năm 2016 (93,7%) [8].
Khi trẻ có sốt, số bà mẹ trẻ xử trí cho trẻ bú và
uống nhiều nước chiếm 26,3%,dùng thuốc hạ sốt
chiếm 100% nhưng khi trẻ có sưng nóng đỏ tại
chỗ tiêm thì 100% bà mẹ đã không làm gì để xử
trí cho con. Như vậy có thể do họ chưa quan tâm
hoặc do họ không biết phải làm gì, vì vậy công tác
tư vấn theo dõi và xử trí phản ứng sau tiêm cần
được trú trọng hơn nữa để các bà mẹ có thể xử lý
các phản ứng thông thường tại nhà, đưa trẻ đến
cơ sở y tế khám và điều trị khi cần thiết nhằm
đảm bảo an toàn cho trẻ sau tiêm chủng.
V. KẾT LUẬN
- Về kiến thức: tỷ lệ bà mẹ biết thời gian cần
phải theo dõi trẻ rất thấp: đủ 30 phút tại nơi
tiêm 18,9% và ít nhất 24 giờ tại nhà là 30%.
Phần lớn bà mẹ biết các dấu hiệu phản ứng
thông thường sau tiêm chủng: 98,3% bà mẹ trẻ
biết dấu hiệu sốt nhẹ, các dấu hiệu như sưng
đau tại chỗ, quấy khóc nhẹ 78,3% và các bà mẹ
trẻ đã nghe về phản ứng nặng xảy ra sau khi
tiêm chủng bao gồm sốt rất cao 95%, quấy khóc
kéo dài 60%, co giật 50% và gây tử vong 55%.
Biết các các biểu hiện nặng cần đưa trẻ đến cơ
sở y tế: Sốt cao trên 390C là 90%, quấy khóc
kéo dài 75%, co giật 90%, tím tái khó thở 75%
và bú ít bỏ bú 65%.
- Về thực hành: Tỷ lệ bà mẹ theo dõi trẻ đủ
30 phút tại nơi tiêm chủng và ít nhất 24 giờ tại
nhà thấp (50%). Về xử trí các phản ứng sau
tiêm chủng, chủ yếu các bà mẹ đã xử trí khi trẻ
bị sốt nhưng không xử trí gì khi trẻ có biểu hiện
sưng đỏ tại vị trí tiêm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ministry of health thailand (2011), "Prevent
infectious diseases".
2. S. W. Roush và T. V. Murphy (2007),
"Historical comparisons of morbidity and mortality
for vaccine-preventable diseases in the United
States ", Jama, 298(18)tr.2155-63.
3. Amirhosein Ghazizadeh Hashemi Rahim
Vakili, Gholamreza Khademi và các cộng sự
(2015 ), "Immunization Coverage in WHO Regions
", A Review Article, 3(2-1), tr. 111-118.
4. Joel G. Breman Dean T. Jamison, Anthony R.
Measham và các cộng sự (2006 ), "Disease
Control Priorities in Developing Countries, SECOND
EDITION, ed", The International Bank for Reconstruction
and Development and Oxford University Press
5. Dự án Tiêm chủng mở rộng (2006), "Giám sát
phản ứng sau tiêm chủng".
6. Dự án Tiêm chủng mở rộng (2009), "Báo cáo
đánh giá chương trình tiêm chủng mở rộng VN".
7. Dự án Tiêm chủng mở rộng (2009), "Báo cáo
Kết quả tiêm chủng mở rộng năm 2009".
8. Nguyễn Thành Trung (2017), "Kiến thức và
thực hành theo dõi phản ứng sau tiêm chủng của
bà mẹ có con dưới 1 tuổi và một số yếu tố liên
quan tại hai huyện, thành phố của tỉnh Thanh Hóa
năm 2016.".
9. Nguyễn Thị Thùy Dung (2015), "Thực trạng
phản ứng sau tiêm chủng vắc xin QUINVAXEM và
thực hành chăm sóc trẻ sau tiêm chủng của các bà
mẹ tại Bắc Ninh năm 2014".