KIẾN TRÚC CỔNG LÀNG ƯỚC LỄ

cổng làng ƯỚC LỄ

Hà Tây là một tỉnh có số lượng cổng làng có thể nói là nhiều và đẹp bởi

xuất phát là một nơi trung tâm của văn minh sông Hồng với nhiều làng

nghề và truyền thống hiếu học. Cổng làng ở Hà Tây là những công

trình kiến trúc cổ, có sự đan xen giữa kiến trúc đình, chùa làng với tính

dân gian, truyền thống. Phần lớn cổng làng truyền thống ở Hà Tây

được xây dựng lần cuối ở thời Nguyễn thế kỷ XIX đến 1945. Song

cũng có nhiều cổng được xây dựng từ thế kỷ thứ XVI, XVII, như cổng

làng Mông Phụ ở Đường Lâm, Sơn Tây, cổng làng Chi Quan ở Thạch

Thất, cổng làng Ước Lễ ở Thanh Oai...

Làng Ước Lễ thuộc địa phận huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cách Hà

Nội trên 30km. Làng vốn có hai cổng, một cổng trước, một cổng sau.

Năm 1988, người ta đã làm lại một cổng mới ngay gần cổng trước.

Cổng làng mà tôi tìm hiểu ở đây là cổng trước, nằm ở đầu làng, được

xây từ thời Mạc. Cổng này cũng đã bị sửa chữa ở phần lầu gác trên

đỉnh, chỉ có phần dưới là còn cổ xưa như nó vốn có. Cổng làng Ước Lễ,

xây dựng từ thời Mạc, là một trong những cổng làng vào loại sớm, đẹp

nhất ở Hà Tây còn lại đến ngày nay. Nhìn từ xa, nó cho ta cảm giác về

một công trình kiến trúc vững chắc, đồ sộ như một công trình quân sự.

Cổng nằm ở đầu làng, chiếm một không gian lớn với cây cầu, cổng

vòm, tường gạch có kích thước khá lớn. Cổng hình vòm cuốn, mái

cong vút, hai cột bên và trên hai mặt đều đắp nổi chữ Hán. Thoạt trông

cổng như một gác chuông chùa nhưng lại gây một cảm giác chế ngự

của một công trình quân sự. Có thể nói, cổng làng Ước Lễ là một công

trình kiến trúc đậm chất cổ kính và mang nhiều ý nghĩa đối với không

gian văn hóa làng Việt.

Lịch sử cổng làng Việt ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành

phát triển của làng. Có thể ban đầu chỉ là những cái cổng sơ khai làm

bằng tre, đan bằng dong có nhiều gai nhọn để ngăn cản thú dữ vào làng

phá phách, bắt súc vật. Dần dần, do sự phát triển, các loại đá nhất là đá

ong, cùng với gạch ngói, vôi vữa và các loại vật liệu khác được sử dụng

trong xây dựng ở nông thôn, cổng làng cũng được xây dựng bền vững,

bề thế hơn, mang những giá trị nghệ thuật kiến trúc. Sự hiện diện của

những chiếc cổng làng khiến cho không gian của làng đẹp và sinh

động. Nếu soạn thành một bộ sưu tập thì khó có thể tìm thấy ở Hà Tây

hai chiếc cổng nào hoàn toàn giống nhau mà mỗi cái mỗi vẻ. Điều đặc

biệt hơn, đó là không gian của mỗi cổng làng mang những sắc thái

hoàn toàn riêng biệt, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho bộ mặt làng

quê Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng. Có thể kể ra một số cổng

đẹp, độc đáo, tiêu biểu như: cổng làng Ước Lễ, cổng làng Mông Phụ,

cổng làng Cự Đà, cổng làng Đồng Kỵ, cổng làng Vạn Phúc...

Điều đặc biệt ở Ước Lễ, nếu hầu hết nhà dân ở trong làng có qui mô

nhỏ, gặp phổ biến trong các làng xã cổ truyền ở Việt Nam, thuộc loại

hình kiến trúc dân gian, thì cổng làng Ước Lễ không chỉ hàm chứa

những yếu tố dân gian này mà còn mang đặc điểm của dòng kiến trúc

chính thống bao gồm các thể loại: kiến trúc cung điện, dinh thự, kiến

trúc lăng mộ, thành trì, kiến trúc tôn giáo như chùa, đình làng... thường

có qui mô lớn, có sự tập trung tài năng, trí tuệ của các nghệ nhân, thợ

cả.

Tương tự như chức năng của cổng nhà và cổng thành, cổng làng được

hình thành nhằm cản chống thú dữ và địch họa, bảo vệ an ninh cho một

cộng đồng và cổng làng Ước Lễ hội tụ đủ điều kiện đảm bảo chức năng

này. Nếu kiến trúc của cổng thành xưa thường có sông hoặc đào hào

bao quanh thì cổng làng Ước Lễ cũng có lạch nước phía trước mặt.

Người vào làng sẽ đi qua một cái cầu bắc qua lạch nước rồi mới qua

cổng và vào làng. Ngoài giá trị bảo vệ, lạch nước và chiếc cầu này

đóng một vai trò không nhỏ làm nên vẻ đẹp nên thơ cho cổng làng Ước

Lễ. Giống như những kiến trúc quân sự quốc phòng cổ của Việt Nam

có mặt bằng bố cục và những hình thức tạo hình gồm các hình như:

hình vuông, hình chữ nhật, hình đa giác đều, hình tròn, hình ngôi sao

và những hình đặc biệt khác kết hợp với nhau. Cổng làng Ước Lễ có

dáng chung là hình thang, cao 6m, ngang 12m, được xây bằng gạch chỉ

nung đỏ, chất liệu xây dựng, gia cố, làm mái hoàn toàn bằng gạch và bê

tông, mang đầy sự bề thế, chắc chắn, thể hiện rõ sự đảm bảo về an toàn

như ý nghĩa ngăn chặn kẻ thù ở những cổng thành, và nhờ có những

bàn tay tài hoa của người thợ nên dù được làm với chất liệu hiện đại,

cổng làng vẫn đậm nét xưa, cổ kính. Bên cổng làng, trước đây còn có

con chó bằng đá xanh, nhẵn bóng ngồi trên mặt đất, ngày đêm như

canh chừng kẻ gian vào làng, được xem như một liệu pháp tinh thần

phục vụ cho việc bảo vệ trị an.

Giống như một số cổng làng khác, cổng làng Ước Lễ có bốn mảng kiến

trúc: vòm cổng, mặt cổng, trụ cổng và mái cổng. Những thành phần

kiến trúc này không rời rẽ mà cấu kết với nhau, tạo sự bền vững, hài

hòa, có giá trị thẩm mỹ.

Trước đây, khi nước có giặc, cổng làng, lũy tre trở thành những chiến

lũy để dân làng đánh giặc, giữ làng, chống lại sự tàn phá của quân thù.

Không những thế, cổng làng còn có ý nghĩa bảo vệ, phát huy những giá

trị văn hóa tinh thần, từ bao đời được tiếp nối, trở thành gương mặt của

làng. Và lẽ sống của người làng được ghi tạc ở cổng làng, luôn sáng

ngời những giá trị chân, thiện, mỹ. Những đại tự được ghi tạc đắp nổi ở

trên cổng làng đã nói lên điều đó. Đây chính là thành phần đặc biệt

quan trọng kiến tạo nên mặt cổng.

Trên mặt trước cổng, đắp nổi ba chữ Ước Lễ môn (Cổng làng Ước Lễ).

Ước Lễ không chỉ là tên làng mà còn là triết lý của Nho Giáo được dân

làng tiếp nhận. Ước, Lễ là chữ dùng xuất phát từ lời của Khổng Tử

(Bác học dĩ văn, ước chi dĩ lễ), ý nói muốn học rộng thì phải dựa vào

văn (tức văn hóa); học đã rộng rồi thì phải chế định (Ước) bằng Lễ, ấy

là điều cần thiết của người học rộng. Lấy Ước Lễ đặt tên làng thể hiện

quan niệm trong cuộc sống phải luôn luôn giữ lễ. ở mặt sau cổng làng

Ước Lễ và ở nhiều cổng làng khác có chữ Thiểu cao đại. Ba chữ này là

một điển tích trong Hán thư, nói về ông quan đời Hán tên là Vu Định

Quốc, làm quan trong triều. Khi về quê ông thấy con cháu đang làm

nhà, bèn dặn con cháu, làm cửa phải cao hơn một chút (thiểu cao đại).

Có ý mong cho sau này con cháu làm quan to, thì xe ngựa mới đi vừa.

Dùng điển tích xưa đắp trên cổng nơi dân làng thường qua lại, cũng là

nhắc nhở mọi người phải có chí học hành, tiến thủ để được thành đạt

trong cuộc sống.

Cổng làng Ước Lễ được xây dựng ở đầu làng, mở lối đi lại trên con

đường chính vào làng. Do vậy, thành phần kiến trúc thứ hai, phần rất

quan trọng của cổng là vòm cổng (lối cổng). Tùy theo vị trí, địa thế,

điều kiện của mỗi làng mà vòm cổng có quy mô bề thế khác nhau,

nhưng bắt buộc phải đảm bảo đi lại thuận tiện cho cả làng. Vòm cổng

làng Ước Lễ xây cuốn hình vòm parapol, đây chính là sự phối hợp của

hình vuông và hình tròn theo triết lý âm dương của người Việt. Vòm

cổng được ghép bằng gạch viên và chít bằng vữa tạo thành vòm cong

với đường lượn khéo léo. Trước đây, dưới vòm cổng còn có cửa làm

bằng gỗ lim kiên cố, do tuần đinh đóng mở theo giờ quy định. Vòm

cổng có tỷ lệ khá đẹp, vừa vặn với tỷ lệ của cả cổng, chiều cao 2,2m,

chiều rộng 1,5m. Tỷ lệ này không chỉ hợp với nhu cầu đi lại của người

dân mà có tác dụng cản những xe quá lớn vào làng để giữ cho không

gian của làng được yên tĩnh và sự vững bền của các công trình trong

làng không bị ảnh hưởng.

Xét về tính chất tạo hình, có lẽ trụ cổng và mái mới chính là bộ phận

tạo nên bộ mặt thẩm mỹ, tạo nên sự khác biệt về hình thức giữa các

cổng làng. Nếu trụ phía dưới được xây nằm lẫn vào mảng tường cổng

thì các trụ bên trên lại góp thêm phần làm đẹp dáng cho cổng. Hai bên

trụ cổng dưới còn được trang trí hình cá chép như nhắc đến tích cá vượt

vũ môn nhắc nhở con cháu trong làng luôn phải chăm lo cho việc học

hành. Phía trên vòm và mặt cổng được xây một vọng lâu có mái che

cong vút. Những trụ cổng bên trên vút lên cùng đầu đao của mái cổng

tạo nên sự thanh thoát. Đây cũng là một thành phần không thể thiếu ở

các cổng thành và cả cổng làng mang tính chất quân sự, ta có thể tìm

thấy sự tương đồng này ở một vài kiến trúc xưa hiện còn, ví dụ như ở Ô

Quan Chưởng.

Vọng lâu trước đây có tác dụng như chòi canh gác những kẻ xấu hay

địch xâm nhập làng. Ngày nay, nó chỉ còn tác dụng làm đẹp cho cổng

làng và để trong những ngày hội, làng treo cờ trên đó. Mái của vọng lâu

cổng làng Ước Lễ gồm hai tầng, tám mái, được lợp bằng ngói ống lưu

li. Mái cổng có mang đôi chút đặc điểm của Trung Hoa nhưng bật lên

vẫn mang đặc trưng của Việt Nam với mái thẳng và hếch cong ở góc

mái tạo nên sự thanh thoát của đầu đao, lấy từ cảm hứng mũi thuyền

của nền văn hóa sông nước. Phía trên cùng là bờ nóc có đặt gạch hoa

chanh, đỉnh mái tạo hình đầu rồng nhìn chính diện, trên cùng là hình

mặt trời với những tia lửa. Trang trí cầu kỳ trên mái đã thực sự trở

thành điểm nhấn của nghệ thuật tạo hình cho kiến trúc cổng.

Các kiểu thức kết hợp chạm khắc, trang trí với kiến trúc cổng làng Ước

Lễ đã có sự thay đổi. Thực tế, đây là một vấn đề khó nhận định bởi các

chạm khắc, trang trí trên cổng có số lượng ít. Hầu hết tất cả các phù

điêu, chạm khắc trên cổng đều là sản phẩm của các thế kỷ sau, không

mang dấu ấn, đặc điểm của chạm khắc thời Mạc. ở đây, ngoài ý nghĩa

làm đẹp, chúng là những thành phần thêm vào, làm tăng thêm yếu tố

biểu hiện cũng như ý nghĩa tượng trưng của cổng. Cùng với những họa

tiết trang trí mang đậm ý nghĩa Nho giáo, những thành phần kiến trúc

này càng góp thêm phần làm rõ ý nghĩa của chữ Ước Lễ Môn.

Trước hết, một thành phần trang trí tương đối quan trọng đó là đôi câu

đối chữ Hán hai bên cổng. Về nội dung, đó là phép cộng của nghệ thuật

văn chương với nghệ thuật kiến trúc trong tính chất tổng hợp của nghệ

thuật cổ. Về hình thức, đó là bố cục nghệ thuật có tính quy luật, cân

đối, góp phần tạo nên không khí trang trọng của kiến trúc cổng, đề cao

chữ Lễ.

Thường xuất hiện nhiều ở các cánh cửa, nghi môn... là hình tượng dơi

dưới dạng ngậm chữ phước, gắn với yếu tố cầu phúc. ở cổng làng Ước

Lễ, dơi được thể hiện trong tư thế bám vào cạnh mặt cổng có ghi đại tự,

đầu lộn xuống hướng về câu đối cạnh cổng. Dơi được tạo hình gần với

thực nhưng cánh mảnh và dài hơn, đầu cánh được cuộn tròn lại và phần

nào trông giống như hoa lá cách điệu. Hai con dơi chạm trên cổng này

ít nhiều đã được khái quát hóa, hình thức mảnh mai và được vũ trụ hóa

bằng vân xoắn trên thân để mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng. Như thế,

nó không chỉ mang tư cách trang trí đơn thuần mà còn chứa đựng một ý

nghĩa cao xa hơn: con đường, lối cổng vào làng chính là cánh cửa đến

nơi hạnh phúc.

Hình ảnh cá chép thể hiện trên cổng gần gũi với thực tế, có đường nét

sinh động mà cách giải quyết lại hết sức đơn giản. Khúc đuôi của cá

được uốn nhẹ chút ít, tạo nên thế cong vừa đủ để phá đi cái nặng, tĩnh

của đầu và thân. Từ trên hai trụ cổng, đôi cá lao xuống chầu vào mặt và

vòm cổng, giống như hình ảnh của tranh dân gian Lý ngư vọng nguyệt.

ở nhiều di tích kiến trúc, lân là một linh vật khá phổ biến. Lân có nhiệm

vụ đứng ở cửa đình, đền với tư cách là thú chầu hai bên linh đạo. ở

cổng làng Ước Lễ, lân được chạm khắc cũng với ý nghĩa như vậy. Lân

được chạm tròn và xử lý khéo về hình thức khiến nó hòa nhập hoàn

toàn với mảng chạm đại tự trên mặt cổng, làm cho phần mặt cổng trở

nên sinh động hơn. ở đây, lân được chạm đi đôi với rùa trong hình thức

đắp nổi. Biểu tượng muôn thủa mà rùa thường mang theo là sự bền

vững, tượng trưng cho sự trường tồn và cao quý, thể hiện cho mong

muốn những lời dạy bảo của người xưa dành cho con cháu sẽ được giữ

mãi

Nhiều và phủ dày đặc nhất trên kiến trúc cổng là các đồ án trang trí hoa

thị chạy dọc trên diềm mái vọng lâu và thành lan can phía trên cổng

làm thay đổi cảm giác về những đường thẳng đơn điệu trên kiến trúc

cổng, tạo nên một nhịp điệu lên xuống nhịp nhàng của những cánh hoa.

Sự có mặt của các đồ án hoa văn này đã phần nào làm thay đổi diện

mạo của kiến trúc cổng làng Ước Lễ, làm cho nó duyên dáng hơn, nhẹ

nhàng hơn cái kết cấu kiểu cổng thành vốn bề thế, chắc chắn nhưng

nặng nề.

Cổng làng Ước Lễ hơi thiên về chất hoành tráng và điêu khắc nhưng

trên nguyên tắc không thiên về tính đồ sộ, đối chọi hay lấn át thiên

nhiên. Toàn bộ kiến trúc cổng chú ý đến tính biểu tượng, tính ẩn dụ, sự

hàm súc, chất điêu khắc của giải pháp tổ chức kiến trúc nghệ thuật, làm

cho công trình từ nội dung đến hình thức như chứa đựng chất triết lý,

sức biểu hiện nghệ thuật âm thầm, kín đáo nhưng sâu lắng trí tuệ. Từ tổ

chức không gian đến kết cấu chất liệu đơn giản, khúc chiết, hợp lý, cân

bằng và hài hòa với đặc điểm sinh thái môi trường, đạt trình độ cao của

nguyên tắc xây dựng điển hình. Sau các yếu tố trên cũng còn cần phải

nhắc đến các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, kỹ thuật cũng biến đổi và

thích ứng. Thái độ ứng xử trước hoàn cảnh, bảng thang giá trị của con

người Việt Nam cũng góp phần quan trọng, tạo nên nét riêng của giá trị

truyền thống kiến trúc cổng làng. Với lối nghĩ ấy, mỗi làng sẽ chọn một

hình thức cổng làng riêng để khẳng định bản sắc của mình.

Chiếc cổng làng, nơi bắt đầu của con đường chính đi vào những thôn

xóm ngày xưa với những câu đối đón khách vẫn còn lại ở khá nhiều

nơi. Ngày nay, chiếc cổng ấy có vẻ như không còn hợp với những con

đường bê tông mở rộng, với xe công nông, ô tô tải ra vào phục vụ bao

nhu cầu thường nhật ngày càng lớn của người dân nông thôn. Nhưng

trong một góc tâm thức nào đó của mỗi người, cổng làng vẫn tồn tại

như một biểu tượng thân thương và đặc trưng của làng, của quê hương.

Cổng làng là một trong những biểu tượng văn hóa, bản sắc văn hóa của

làng quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam. Với khía cạnh đó, cổng làng

Ước Lễ cùng với những cổng làng ở Hà Tây nói riêng và Việt Nam nói

chung cũng đã phần nào nói lên sự đa dạng của vẻ đẹp kiến trúc dân

gian, kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Quách Thị Ngọc An

Chú thích: Tỉnh Hà Tây đã được sát nhập vào Hà Nội từ ngày

01/08/2008, nhưng hiện nay những địa danh có liên quan trong bài viết

vẫn chưa được đặt lại tên mới, cho nên trong phạm vi bài nghiên cứu

này tôi vẫn giữ nguyên tên cũ nó vốn có.