
1
Chương 6
CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM
I- Sơ lược về ngoại thương Việt Nam trước năm 1975:
1- Ngoại thương Việt Nam dưới chế độ phong kiến:
Sản xuất hàng hóa giản đơn và một thị trường trong nước chật hẹp, chia cắt là đặc điểm nổi bật của kinh tế Việt Nam thời kỳ này.
Hàng nhiều thế kỷ, tình hình kinh tế trong nước ở trạng thái không có nhiều sản phẩm cần được tiêu thụ. Vào thế kỷ thứ XVII, XVIII và
đầu thế kỷ XIX, các nhà buôn phương Tây đến ta mua hàng, vì hàng không có sẵn nên họ phải đặt tiền cho những người thợ thủ công
Việt Nam sản xuất. Kinh tế nước ta thời gian này là kinh tế tự nhiên, cho nên những thứ mà thương nhân nước ngoài ưa chuộng còn là
những sản vật tự nhiên, lấy ở trên rừng, dưới biển về bán.
Ngoại thương dưới thời phong kiến diễn ra giữa một số nước muốn bán sản phẩm công nghiệp của mình cho Việt Nam và mua
hàng thủ công nghiệp cùng sản vật thiên nhiên.
Việc mua bán hầu như do bọn vua quan độc quyền để kiếm lời cho bản thân. Họ tiến hành ngoại thương một cách tùy tiện, độc
đoán. Những thể lệ mua bán thường không thành văn bản mà làm theo lệnh của vua chúa.
Quan hệ buôn bán của Việt Nam thời phong kiến chủ yếu với Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha....
2
-
Ngo
ại th
ương Vi
ệt Nam d
ư
ới thời Pháp thuộc
:
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam là một ‘’thuộc địa khai thác”, thuộc địa kém phát triển nhất trong các thuộc địa ở
Châu Á.
Xuất khẩu chủ yếu của nước ta thời kỳ này là nông sản và khoáng sản với ba mặt hàng chủ yếu là gạo, cao su và than đá.
Trong 50 năm, từ năm 1890 đến năm 1939, ba nước Đông dương, trong đó chủ yếu là Việt Nam, xuất khẩu 57.788.000 tấn gạo,
trung bình mỗi năm 1,15 triệu tấn 9 chiếm 20% tổng lượng gạo sản xuất) 397 ngàn tấn cao su (gần như toàn bộ lượng sản xuất), 28 triệu
tấn than (trên 65% sản lượng than sản xuất). Hai mặt hàng gạo và cao su chiếm 70 - 80% kim ngạch xuất khẩu. Hàng tiểu thủ công chiếm
tỷ trọng không đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu.

2
Nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng và một số nguyên liệu như xăng dầu, bông, vải. Nhập máy móc thiết bị cũng có, nhưng
chiếm tỷ lệ thấp, từ 1,4% (năm 1915) đến 8,8% (năm cao nhất- 1931) trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về cán cân ngoại thương, trong thời gian 50 năm (1980 -1939), chỉ có 9 năm các nước Đông Dương nhập siêu còn 41 năm xuất
siêu. Đối với một nước thuộc địa, xuất siêu không phải là bằng chứng của sự phồn vinh và tăng trưởng kinh tế như ở các nước độc lập, vì
khối lượng xuất siêu đó phản ảnh mức độ tước đoạt, bóc lột của thực dân Pháp.
Bảng 6.1: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1934 - 1939
Đơn vị tính: Triệu đồng Đông Dương
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất siêu
1934 106 91 15
1935 134 90 44
1936 171 98 73
1937 259 156 103
1938 290 195 95
1939 350 239 111
(Nguồn: Tóm tắt thống kê Đông Dương 1913-1939)
Để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi trong lĩnh vực ngoại thương, Pháp thực hiện ở Đông Dương một hàng rào thuế quan rất chặt chẽ, có
lợi cho chúng.
Ngày 11/11/1892, Pháp ban hành luật về “đồng hóa thuế quan”. Với chế độ”đồng hóa thuế quan”, Việt Nam và Pháp nằm trong
một hàng rào thuế quan chung.
Tháng 10/1940 chính sách “ đồng hóa thuế quan” được nhà cầm quyền Pháp thay bằng chế độ “thuế quan tự trị” và được thi hành
từ 1/1/1941. So với chính sách “đồng hóa thuế quan”, chính sách “thuế quan tự trị” có lợi cho các nước thuộc địa. Hàng rào thuế quan
được nới lỏng, thuế suất tối đa được bãi bỏ, thuế suất tối thiểu được áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ nước ngoài, trừ trường hợp hàng
nhập khẩu từ Nhật Bản được hưởng thuế suất đặc biệt, thấp hơn thuế suất tối thiểu.
3- Ngoại thương Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 đến 1975:
Cuối năm 1950, quan hệ chính thức về kinh tế và thương mại giữa nước ta với nước ngoài về mặt nhà nước được thiết lập.

3
Năm 1952, Chính phủ ta ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và năm 1953, Chính phủ ta ký
với Chính phủ Trung Quốc Nghị định thư về mậu dịch tiểu ngạch biên giới, quy định việc trao đổi hàng hóa giữa nhân dân các tỉnh biên
giới Việt - Trung. Thời kỳ này, Việt Nam xuất sang Trung Quốc nông,lâm, thổ sản: chè, sơn, gỗ, hoa hồi, quế, sa nhân, trâu bò.... Nhập
khẩu từ Trung Quốc máy móc, dụng cụ, sắt thép, hóa chất, vải sợi, hàng tiêu dùng, dược phẩm... Giá trị hàng hóa trao đổi với nước ngoài
năm 1954 so với năm 1952 tăng gấp 4 lần.
Từ năm 1955, chính phủ ta đã ký với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác các hiệp định về viện trợ hàng hóa và kỹ
thuật. Đối với các nước ngoài hệ thống XHCN, Chính phủ ta ký Hiệp định thương mại với Chính phủ Pháp (1955), Ấn Độ (1956),
Indonesia (1957),....; Các tổ chức kinh tế của ta cũng đặt quan hệ buôn bán với các công ty Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Hà Lan,
Anh..., đến năm 1964, Miền Bắc có mối quan hệ thương mại với 40 nước.
Đặc điểm cơ bản của hoạt động ngoại thương thời kỳ này là:
- Xuất khẩu tăng rất chậm. Trong kim ngạch NK, tỷ trọng viện trợ không hoàn lại lớn.
Bảng 6.2: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1958 - 1975
Đơn vị tính: Triệu Rúp
Năm Tổng giá trị xuất nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu
1958 104,5 46,0 57,9
1959 147,1 60,5 86,6
1960 188,0 71,6 116,4
1961 202,4 72,5 129,9
1962 215,1 80,5 134,6
1963 226,4 84,1 142,3
1964 234,5 97,1 137,4
1965 328,3 91,0 237,3
1966 438,7 67,8 370,9
1967 464,1 45,6 418,5
1968 508,3 42,8 465,5
1969 554,4 42,6 512,2
1970 473,4 47,7 425,7
1971 519,9 61,4 458,5
1972 403,2 40,7 362,5
1973 551,2 67,4 484,5

4
1974 905,6 110,7 694,9
1975 914,1 129,5 784,4
(Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm)
- Cơ cấu hàng xuất khẩu phản ánh trình độ phát triển kinh tếï lạc hậu và không ổn định, hàng xuất khẩu chủ yếu là nông sản,
khoáng sản và gỗ...
- Ngoại thương chủ yếu với các nước XHCN (chiếm 85-90% tổng kim ngạch buôn bán với nước ngoài).
- Nhập siêu cực kỳ lớn: nếu cộng cả giai đoạn từ năm 1958 đến 1975 theo số liệu của bảng 6.2 thì tổng giá trị xuất khẩu chỉ là
1,129 tỷ Rúp nhưng giá trị nhập khẩu lên đến 3,693 tỷ Rúp.
II- Ngoại thương Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay:
1- Giai đoạn trước khi đổi mới nền kinh tế, 1976-1985
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, cùng với công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển đất nước, hoạt động ở lĩnh vực
ngoại thương có những sự kiện đáng lưu ý như sau:
Bảng 6.3: Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976-1985
Đơn vị tính: Triệu Rúp - USD
Năm Tổng kim ngạch
XNK Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Trị giá Tỉ lệ%
1976 1226,8 222,7 1004,1 -881,4
22,2%
1977 1540,9 322,5 1218,4 -915,9
28,3%
1978 1630,0 326,8 1303,2 -976,4
25,1%
1979 1846,6 320,5 1526,1 -1205,6
21,0%
1980 1652,8 338,6 1314,2 -975,6
25,8%
1981 1783,4 401,2 1382,2 -981,0
29,0%
1982 1998,8 526,6 1472,2 -945,6
35,8%
1983 2143,2 616,5 1526,7 -910,2
40,4%
1984 2394,6 649,6 1745,0 -1095,4
37,2%
1985 2555,9 698,5 1857,4 -1158,9
37,6%
Tổng số 18733,0 4423,5
14349,5
-9926,0
30,8%
(Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm)
- Năm 1977, nước ta tham gia Ngân hàng Đầu tư Quốc tế và Ngân hàng Hợp tác Quốc Tế.
- Tháng 7/1978 nước ta gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế.

5
- Ngày 18/4/1977, Chính phủ ta ban hành Điều lệ về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Về đặc điểm chung của ngoại thương giai đoạn này là chúng ta tiếp tục nhận được sự hợp tác và hỗ trợ của các nước Xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, Mỹ và các nước phương Tây thực hiện cấm vận kinh tế và phân biệt đối xử trên thị trường quốc tế như ngưng viện trợ
đầu tư, ngừng các khoản tín dụng đã cam kết... đã gây cho ta rất nhiều khó khăn trong phát triển ngoại thương. Ngoài ra, nguyên tắc Nhà
nước độc quyền về ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác được coi là nền tảng để hình thành cơ chế quản lý và tổ chức hoạt
động ngoại thương lúc này đã kềm hãm sự phát triển.
Trong vòng 10 năm, từ năm 1976 đến 1985 chúng ta đã nhập siêu khoảng 10 tỷ Rúp - Đô la trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng
năm chỉ đạt vài trăm triệu Rúp - Đô la. Nếu so sánh với nhập khẩu, tỷ lệ xuất khẩu hàng năm chỉ đạt khoảng từ 21% đến 40% (bảng 6.3).
2- Giai đoạn từ sau khi đổi mới nền kinh tế đến 1995:
Công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI)
họp cuối năm 1986. Nhờ thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, đến năm 1995, nước ta đã
quan hệ buôn bán với hơn 100 nước và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên thế giới; đã ký Hiệp định hợp tác thương mại với EU; bình
thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (12/7/1995); gia nhập ASEAN (28/7/1995). Đó là những điều kiện thuận lợiü để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế, mở rộng buôn bán và hợp tác kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế khu vực.
2.1- Kết quả xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1995:
Để có thể rút ra những nhận xét về hoạt động ngoại thương sau thời kỳ đổi mới, chúng ta sẽ lấy kết quả hoạt động ngoại thương
trong 10 năm từ 1986 đến 1995 để so sánh với giai đoạn 10 năm trước đó như sau:
- Về tốc độ tăng trưởng: Xuất khẩu tăng bình quân 24%/năm trong khi giai đoạn 10 năm trước đó là 13,5%; Nhập khẩu tăng
bình quân 16%/năm so với 7%/năm giai đoạn 10 năm trước đó (tính toán dựa vào số liệu bảng 6.3 và 6.4).
Bảng 6.4: Kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1986-1995
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Tổng kim
ngạch XNK Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Trị giá Tỉ lệ %
1986 2.944,2
789,1
2.155,1
-1.366,0
33,6%
1987 3.309,3
854,2
2.455,1
-1.600,9
34,8%
1988 3.795,1
1.038,4
2.756,7
-1.718,3
37,6%
1989 4.511,8
1.946,0
2.565,8
-619,8
75,8%
1990 5.156,4
2.404,0
2.752,4
-348,4
87,3%
Cộng 86-90 19.716,8
7.031,7
12.685,1
-5.653,4
55,4%
1991 4.425,2
2.087,1
2.338,1
-251,0
89,3%
1992 5.121,4
2.580,7
2.540,7
+40,0
101,5%
1993 6.909,2
2.985,2
3.924,0
-978,8
76,0%
1994 9.880,1
4.054,3
5.825,8
-1.771,5
69,6%