TRƯƠNG DUY BÍCH - Làng, p h ố n g h ê Hà Nội...

30

_______________ _______________________ kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. (Chiếu dời đô, Lý Công Uân; bản dịch của LÀNG, PHÔ NGHÊ Nguyễn Đức Vân. Dẫn theo sách Ltc/i sử Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2004).

HÀ NỘI - Sự ĐỊNH HÌNH VÀ BIẾN ĐỔI

Với vị thế đắc địa, thuận thiên ấy, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội là môi trường tốt cho nghề, làng nghề, phô' nghê' thủ công mỹ nghệ phát triển.

TRƯƠNG DUY BÍCH

Trước hết, phải kể đến sự hình thành các làng nghê' nổi tiếng như vùng Tam Thập Trại ở phía tây thành Thăng Long thời Lý - Trần; như đậu Mơ, húng Láng, đào Nhật Tân, quất, cây cảnh Nghi Tàm, Quảng Bá...

ghề thủ công mỹ nghệ nảy sinh, tồn tại, phát triển là do nhu cầu của cuộc sông xã hội. Trong thực tê cuộc sống đã có rất nhiều nghề, làng nghề, phô nghê sinh ra và phát triển một thời gian rồi tàn lụi, thất truyền; khi nhu cầu cuộc sông xã hội ít cần hoặc không cần đến nữa.

Bôn cạnh đó, cũng không thể không nhắc tới sự hội tụ của nhiêu nghề tinh khéo ở tứ phương về hình thành nên những những phô nghê như: tiện (Nhị. Khê) ở plìô Tô Tịch; vàng bạc (Châu Khê) ở phố Hàng Bạc; rèn (Canh Chợ, Vân Canh, Đa Sĩ...) ở phô'Lò Rèn...

Có một yếu tô' căn bản khác làm cho nghề thủ công phát triển quy tụ thành một vùng nghê ấy là môi trường kinh tê - xã hội (trong đó sự giao thông, giao thương đóng vai trò hết sức quan trọng). Thực tê cũng cho thây nhiêu nghề, nhiêu vùng nghê có lịch sử hoạt động lâu đời, vởi trình độ nghề tinh khéo, giá trị thẩm mĩ cao, nhưng vẫn còm cõi không phát triển lên được (nghề đục tượng ở Hà Cầu, Đồng Minh, Vĩnh Bảo, Hải Phòng; nghê' gôm ở Quế Quyển, Thanh Liêm, Hà Nam...); hoặc phát triển rực rỡ một thời rồi lụi tàn như vùng nghê' phô Hiến, Hưng Yên, làng nghê' Hội An, Đà Nẵng... Đại quan có thê thấy rằng, trong ngót một nghìn năm, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội đã là một vùng nghê' phát triển bển vững và đa dạng (sự bền vững ở đây là sự phát triển liên tục của các làng nghề, phô' nghê' nhưng không phải là không có sự tàn lụi, thất truyền của một sô' nghề, làng nghề; sự đa dạng nói ở dây là sự tồn tại của nhiều loại hình nghề trong các phô nghề, làng nghê'...). Và điểu này đã được ghi nhận trong nhiều tài liệu, tục ngữ, ca dao dân gian.

Đại La - Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội với vị th ê "ở vào nơi tr u n g tâ m trờ i đ ất; được cái thế rồng cuộn hồ’ ngồi; đúng ngôi nam, bắc, đông, tây lại tiện hướng nhìn sông, tựa núi. Địa thê rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khôn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi đây là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bôn phương đất nước, cũng là nơi Nhưng đặc điểm của sự phát triển của các là n g ngh ề, phô' nghê' tro n g n gót n g h ìn năm phong kiến là rất chậm. Đặc tính này có thê cắt nghĩa hằng cơ chế kinh tế - xã hội. Cơ chê kinh tế - xã hội ngót nghìn năm ấy là cơ chế kinh tế đóng kín, sản xuất nhỏ mang tính tự cung, tự cấp. Vai trò của công thương được đánh giá thấp bởi chính sách "trọng nông, ức thương". Công và thương xếp hạng cuối trong bảng tứ dân của xã hội “sĩ - nông -

TCVHDG s ó 1/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổi

31

có một thời kỳ dài hoạt động trong cơ chế thị trường thời thuộc Pháp). Nên kinh tê - xã hội nói chung có những chuyển đổi theo hướng tích cực, người dân từ chỗ thiếu đói đã dần no miếng ăn, ấm cái mặc, khá dần lên. Hà Nội không còn cảnh chen chúc mua đậu, thịt, rau... Theo chiêu hưống phát triển chung, không gian môi trường đô thị Hà Nội cũng thay đổi. Đồng hành với sự mỏ rộng không gian đô thị là sự mất đất của các làng nghề ven đô, ngoại thành.

Và cùng với sự phát triển của nền kinh tê - xã hội là sự phát triển của các nghề thủ công với quy mô mới mà nhiều phô' nghề ở ba sáu phô' phường nhỏ xinh xưa không còn bao chứa nổi. công - thương". Trong môi cảnh xã hội chung ấy thì nghề, làng nghề, phô' nghề thủ công mĩ nghệ của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội có ưu thê để phát triển vượt trội, bền vững hơn các vùng miên khác, thì cũng là sự phát triển trong thê "tĩnh" chậm chạp của đặc tính kinh tê tiêu chủ, tiểu thương. Những tư liệu vê Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội về dân sô, giao thông, giao thương qua các thời kỳ Lý - Trần - Lê - Nguyễn và những thước phim mà người Pháp quay về Hà Nội đầu thê kỉ XX cho thấy quy mô (không gian, dân số, kinh tế...) của kinh đô - thủ đô ta qua các thời kì và đó cũng là những yếu tô góp phần không nhỏ cho sự nhận diện vê nghề thủ công mĩ nghệ của kinh đô - thủ đô ta xưa. * Sự biên đồi của các làn g nghê ven

đô

Sự phát triển chậm rãi, có tính bình ổn (tương đối) hạn chê' hiệu quả kinh tế, nhưng đây lại là yêu tô' thuận cho việc hình thành bản sắc truyền thông.

Nhìn chung, nghề, làng nghề, phô' nghề Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội có cả nghìn năm lịch sử vối nhiêu thế hệ nghệ nhân túc tắc, thư thái làm nghề trong những ngôi làng xinh, phô' nhỏ, ngõ nhỏ. Hình thức, quy mô â'y thích hợp và là sản phẩm của hình thái kinh tê' tiểu thủ công, trong nền kinh tê' tự cung tự cấp.

"Quãng lặng" và "not trầm" của làng nghề, phô' nghề Hà Nội là giai đoạn cơ chê' kinh tê quan liêu bao cấp vối hình thức hợp tác hoá các ngành nghề tiểu thủ công mỹ nghệ. Thành tựu và hạn chê' của giai đoạn này chúng ta đã rõ (xin không đi sâu trong bài viết này).

Những làng nghề đã tồn tại, phát triển, định hình nhiều trăm năm điển hình như làng trồng rau húng (Láng), làng trồng đào (Nhật Tân), trồng quất (Quảng Bá), nuôi cây cảnh (Nghi Tàm). Những làng nghề này được hình thành rồi định hình (yên ổn) hàng mấy trăm năm bên cạnh kinh đô - thủ đô một thị trường có sức tiêu thụ lởn người chơi dùng sành điệu. Nay thủ đô mở rộng không gian đô thị vối tốc độ một ngày bằng bao nhiêu năm? Các làng nghê ven đô ở vào thê không thê cưỡng lại được dưới nhiêu góc độ với nhiều lý do. Đã có những ý kiến nhiệt tâm nêu ra các phương án bảo tồn các làng nghề này như bảo tồn không gian làng nghề truyền thông để giữ nghề, thậm chí chỉ xin giữ lại một khoảng không gian nhất định dê giữ nghề. Nhưng thực tê đã cho thấy là bất khả kháng trưốc xu thê' đô thị hoá (đã mất đi làng hoa Ngọc Hà, làng trồng rau húng Láng, một phẩn làng đào Nhật Tân, v.v...). Chúng tôi nhận thấy, nếu có giữ lại một khoảng không gian nào đó trong các làng Sau giai doạn cơ chê kinh tê' quan liêu, bao cấp là thoi kỳ kinh tế thị trường mới, từ từ được mở ra. (Chúng tôi dùng tạm cụm từ ■‘kinh tê thị trường mới” bởi trước năm 1954, nghề, làng nghê thủ công mĩ nghệ Hà Nội đã

TRƯƠNG DUY BÍCH - Làng, p h ố n g h ề Hà NỘ L.

32

sáu phố nghề. Thực tế không phải thế. Có những phố chỉ là những phố buôn (thuần tuý bán hàng), có những phố là những phố nghề, ở đó, có những gia đình mà gian trưốc ngôi nhà là nơi mở cửa hàng buôn bán trao đổi hàng hoá, gian sau là nơi ở và cũng là xưởng chế tác sản phẩm nghề. Ví dụ như phố Tô Tịch (làm và bán sản phẩm tiện); phố Hàng Bạc (làm và bán sản phẩm vàng, bạc).

Sự hình thành nên các phô' nghề và biến đổi nghề của phố thuận theo quy luật cung cầu của đời sông. Khi cuộc sông không còn cần (hoặc ít cần) đến loại sản phẩm nào đó nữa thì phố nghề có thể chỉ còn tên chứ không còn bán sản phẩm đặc trưng của phố. Chẳng hạn, phố Hàng Buồm xưa là địa chỉ bán buồm cho thuyền bè, lúc giao thông đường thuỷ còn chiếm vị thế độc tôn. Khi giao thông đường bộ phát triển, lập tức nghề làm buồm suy giảm và "phố Hàng Buồm không một cánh buồm".

nghề để bảo lưu nghề như một dấu tích lịch sử, hay bảo lưu toàn bộ không gian làng theo kiểu làng trong phố hoặc chuyển nghề tới một không gian mới thì cũng khó mà giữ được nghề làng vì nhiều lý do. Ví dụ: làng Láng trồng được cây húng ngon có hương vị độc đáo bởi nghiên cứu thổ nhưỡng, khí hậu cho rằng, làng Láng nằm ở vị trí có phong thổ đặc biệt nên cây húng láng cho ra hương vị riêng. Và người dân Láng truyền đời đã đúc rút kinh nghiệm từ khâu thuần dưỡng đất, chọn giống cây, reo, trồng, tưới hái... Nay không gian đô thị vây kín tứ bề, không khí thay đổi, nhiệt độ tăng, ô nhiễm đất và nước đã xảy ra... thực tế là vùng đất còn lại non chục hécta trước cửa chùa Láng vẫn còn được người làng Láng trồng rau húng, nhưng người làm vườn ở đây bảo chất lượng rau không còn như xưa nữa. Hay người làng đào Nhật Tân, sau khi m ất đất ở khu "Dinh đào", đã đem cây ra bãi sông Hồng ngoài đê để trồng, nhưng chất đất ở đó khác, không gian cả gió hơn nên cây hoa cũng khác (cánh mong và kém thắm hơn).

Trên đây, chúng tôi mới nói tới không gian tồn tại của nghề. Còn có nhiều yếu tố khác nảy sinh trong quá trình đô thị hoá. Ví dụ giá đất tăng, có nhiều nghề khác mang lại nguồn lợi nhanh, cao hơn thì các thế hệ trẻ ở các làng nghề mấy ai còn tha thiết vói nghề truyền thống vốn vất vả mà hiệu quả kinh tế không cao. Họ dùng đất làng nghê' để xây nhà nghỉ, làm nhà cấp 4 cho thuê, thu lợi nhuận nhanh và nhiều hơn.

Nêu ra đôi ba ví dụ trên để thấy thời cuộc xoay ra phố lấn làng như một quy luật không thể cưỡng. Bỏi thế nghề, làng nghề có từ nghìn năm cũng phải biến đổi theo.

* S ự b iến đ ô i c ủ a p h ô 'n g h ề

Trong tâm thức của nhiều người, ba mươi sáu phố phường Hà Nội xưa là ba mươi Dẫu cơ chế kinh tế tiểu thủ công, sản xuất buôn bán nhỏ (trải qua nhiều trăm năm trong lịch sử) của nền kinh tế đóng kín. chậm chuyển đổi nhưng nó đã tạo được sự ổn định tương đối để định hình cho Hà Nội những phố nghề đặc trưng trong ba mươi sáu phố phường xưa. Từ khi có sự thông thoáng của cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế - xã hội có nhiều thay đồi đáng kê. Nghê' thủ công mỹ nghệ phát triển đa dạng với quy mô sản xuất buôn bán lớn hơn. Không gian ba mươi sáu phô' phường với ngõ nhỏ, phô' nhỏ, với những ngôi nhà hình ô'ng, mặt trước dùng làm nơi bản hàng, mặt sau là xưỏng chế tác không còn bao chứa nổi. Đó là chưa nói tới những thúc bách của sinh hoạt con người (đã có nhiều thế hệ được sinh ra trong những ngôi nhà hình ống phố cổ). Khách quan cuộc sông xã hội, nghề nghiệp...

TCVHDG SÓ 1/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổl

33

tiện đã định hình ở La Thành, Giảng Võ và dang có xu hướng chuyên đổi...

Tóm lại, sự định hình các làng nghề, phô nghê thủ công mỹ nghệ là xuất phát từ nhu cầu thị trường. Khi nền kinh tê chậm chuyển đổi nó dễ định hình. Khi nên kinh tê vận động nhanh nó cũng chuyên đổi nhanh ở nhiêu phương diện.

Trong thực tê hiện nay:

- Các làng nghê' ven đô dần bị đô thị hoá, sự chuyển đôi mât nghề là xu hướng khó cưỡng.

- Các nghề, phô' nghề nội thành xưa không còn bao chứa nôi việc vừa chê tác vừa bán sản phẩm. đã tất yếu làm thay đổi diện mạo phô' nghề truyền thống. Ví dụ phố Tô Tịch (có lúc còn được gắn biển là ngõ Tô Tịch) hơn 20 năm về trước là phô' làm nghề tiện, bán sản phẩm tiện. Đầu phô' Tô Tịch ở vị trí nhà sô' 1 hiện nay còn có ngôi miêu nhỏ. Có người nói rằng đây là nơi thờ vọng đức tổ nghề của cộng đồng người phô Tô Tịch có gốc gác ở Nhị Khê. Người cần, khách buôn dồ tiện cứ đến đây hỏi gì có nâ'y. Nhưng cỡ chục năm trơ lại đây, phố nghê tiện Tô Tịch trở thành phô buôn bán tạp phẩm, hàng ăn, uống... c ả phô chỉ còn lại ngôi nhà sô' 7 làm nghê tiện, có xưởng máy và nhà sô' 13, 15 bán một sô' sản phẩm nghề tiện. Sự thay dổi căn bản của phô' nghê tiện Tô Tịch có nhiều nguyên nhân:

1. Nghề tiện đã và đang phát triển hơn xưa. Không gian phô' và những ngôi nhà ở phô' Tô Tịch không còn thích hợp với việc làm nghề.

2. Sô' người sông trong các ngôi nhà 0 phô Tô Tịch qua nhiêu thê hệ đã dông lên, họ cần hoặc đã chuyên di nơi khác.

- Xu hướng hình thành phô nghề, và chuyển dổi phô' nghê trong giai doạn hiện nay diễn ra rất nhanh. Phô' nghề ngày nay chủ yêu mang tính trung bày, quảng cáo, giao dịch sản phẩm thoả thuận hợp dồng, lắp ráp, tu chỉnh chi tiết sản phẩm... Nơi sản xuất sản phẩm đã và đang được thực hiện ở các làng nghề và các cơ sở thuê ỏ vùng ngoại thành. Điểu này đã diễn ra với các nghê như: tiện, sơn, gồ, gôm... 3. Không gian vị trí các ngôi nhà ở phô Tô Tịch dược dùng vào các dịch vụ khác sinh lời nhiều hơn nghề tiện, v.v...

Vì những lẽ trên mà một phô' nghề dã định hình nhiều trăm năm dã thay đổi căn bản. Đê bảo tồn những giá trị truyền thông của làng nghề, phô nghề, cần có sự phán loại. Trên cơ sở thực tê, dề ra những phương án bảo tồn thích hợp.

Ví dụ: Những làng nghề, phố nghề không thê bảo lưu nên có việc súu tẩm, nghiên cứu, quay phim, chụp ảnh và giữ lại tên làng, tên phô', để thô hệ sau biết được càng nhiều, càng kỹ, càng tôt.

Nhũng phô nghề mà nghê không đòi hỏi không gian rộng cần dược quy hoạch dê giữ gìn bản sắc vốn có như nghề chạm bạc ở phô Hàng Bạc.

(Xem tiếp tra n g 7)

Một dạng hình thành phô' nghé nhanh và chuyên đôi cũng nhanh là một biêu hiện của nền kinh tê thị trường. Ví dụ ngày xưa (thời thuộc Pháp), phô Khâm Thiên nôi tiêng là phô' hát cô đầu. Cuối những năm 80 đầu thập kỷ 90, Khâm Thiên thành phô' nghề may nối tiếng nhưng không lâu (chừng 4 đến 5 năm) nghê may ỏ phô này vắng dần nhường chỗ cho các dịch vụ buôn bán xe máy, đồ điện lạnh, hàng ăn, uống... Tương tự Khâm Thiên, là phô' nghê mộc - chạm -