TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Lễ hội dân gian với phát triển
du lịch văn hoá ở Việt nam.”
- 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam có tiềm năng du lịch rất phong phú và đa dạng, có
sức hấp dẫn lớn chẳng những đối với khách du lịch trong nước mà còn với
khách du lịch quốc tế và bà con Việt kiều ở xa Tổ quốc.
Chúng ta có đủ điều kiện để đa dạng hóa các loại hình du lịch từ tham
quan, nghỉ mát điều dưỡng, tắm biển, leo núi, thể thao đến nghiên cứu khoa
học... và có khả năng tiếp nhận một số lượng lớn du khách.
Về mặt tự nhiên, Việt Nam có nhiều cảnh đẹp, cảnh thiên nhiên có
những nét hùng vĩ nên thơ của núi rừng như Sapa mờ ảo trong sương, như Đà
Lạt - thành phố thông reo, hay vịnh Hạ Long – di sản thiên nhiên của thế
giới…
Bên cạnh tiềm năng về mặt tự nhiên, Việt Nam còn có một kho tàng văn
hóa - lịch sử phong phú. Đó là những di tích khảo cổ học minh chứng cho nền
văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình... nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử
còn được bảo tồn nguyên hiện trạng hoặc sưu tầm được qua các triều đại lịch
sử nước ta, rất có giá trị về mặt khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá
kiến thức như Đền Hùng, Hoa Lư, chùa Tây Phương, Huế, Thánh Địa Mỹ
Sơn, phố cổ Hội An... Những lễ hội truyền thống như hội Đền Hùng (Vĩnh
Phú), hội Dóng (Hà Nội), hội chùa Dâu ( Bắc Ninh ), hội chùa Keo (Thái
Bình),… những nền văn nghệ dân gian với các nhạc cụ độc đáo (t’rưng,
Krông put...) với các điệu múa đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam...
Ngoài ra, chúng ta cũng có rất nhiều các mặt hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống như mây tre đan, sơn mài, gốm sứ, thêu đan, chạm khắc, các sản
phẩm từ cói v.v... đạt trình độ thẩm mỹ cao, hoàn toàn có thể thỏa mãn nhu
- 2 -
cầu các loại khách du lịch.
Trong vài năm trở lại đây chúng ta thường hay nói tới một loại hình du
lịch mới mà cũ đó là du lịch văn hoá. Trong hệ thống các nguồn tài nguyên
phục vụ cho phát triển du lịch văn hoá có một nguồn tài nguyên hết sức quan
trọng mà dường như từ lâu đã bị mai một, đó chính là các lễ hội dân gian ở
Việt nam.
Với mục tiêu làm rõ vai trò, ý nghĩa của lễ hội dân gian trong việc phát
triển du lịch văn hoá ở Việt nam em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Lễ hội dân
gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam".
Với đề tài trên, trong bài viết này em xin được trình bày những nội dung sau:
Phần I : Lễ hội dân gian, tính chất và đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam.
Phần II : Lễ hội dân gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam.
I-Những nét khái quát về du lịch văn hoá.
II- Vai trò của lễ hội dân gian trong việc phát triển du lịch văn hoá.
III-Một số lễ hội tiêu biểu ở miền bắc Việt nam.
1. Lễ hội Đền Hùng.
2. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
3. Lễ hội chùa Hương.
- 3 -
Phần III : Những điều kiện để thu hút khách đến với các lễ hội.
- 4 -
PHẦN I
LỄ HỘI DÂN GIAN, TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM
I. LỄ HỘI DÂN GIAN.
Trong các dạng tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên
có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổnh hợp
bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hoá nghệ
thuật, linh thiêng và đời thường… là một sinh hoạt có sức hút một số lượng
lớn những hiện tượng của đời sống xã hội. Như vậy lễ hội là mộthình thức
sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao đọng vất vả, hoặc là một
dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc
liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là
những hoạt động có tính chất giải trí. Do đó lễ hội có tính hấp dẫn cao đối với
du khách. Bất cứ lễ hội nào cũng có hai phần chính :
- Phần lễ (hay còn gọi là phần nghi lễ). Tuỳ vào tính chất của lễ hội mà
nội dung của phần lễ sẽ mang ý nghĩa riêng. Có thể phần nghi lễ mở đầu ngày
hội mang tính tưởng niệm lịch sử hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại,
tưởng niệm một vị anh hùng dân tộc. Cũng có thể phần lễ là nghi thức thuộc
về tín ngưỡng, tôn giáo bày tỏ lòng tôn kính đối với các bậc thánh hiền và
thần linh, cầu mong được những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng, chứa đựng những giá
- 5 -
trị văn hoá truyền thống, giá trị thẩm mỹ và triết học sâu sắc của cộng đồng.
Nó mang trọn ý nghĩa hấp dẫn của cả lễ hội đối với du khách. Phần nghi lễ là
phần hạt nhân của cả lễ hội.
- Phần hội, là phần có tổ chức những trò chơi, thi đấu biểu diễn… Mặc
dù cũng hàm chứa những yếu tố văn hoá truyền thống, nhưng phạm vi nội
dung của nó không khuôn cứng mà hết sức linh hoạt, luôn luôn được bổ sung
bởi những yếu tố văn hoá moéi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy nơi nào bảo
tồn và phát triển được những nét truyền thống trong phần hội với những trò
chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó có giá trị hơn. Thông thường phần
hội gắn với tình yêu, giao duyên nam nữ.
Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và hội hoà quyện với nhau,
trong đó trọng tâm là phần hội, nhưng bản thân phần hội đã mang trong mình
ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Hội trọi trâu đồ sơn là một điển hình.
Như vậy, để tìm hiểu văn hoá Việt nam, văn hoá làng xã cũng như văn
hoá lúa nước, người ta có thể tìm hiểu qua lễ hội, hoặc trực tiếp tham gia vào
lễ hội. Từ đó có thể thấy lễ hội là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn rất
- 6 -
quan trọng.
II. TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM.
1. Tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Xét về tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam chúng ta thường thấy
có ba loại lễ hội :
- Các lễ hội mang tính lịch sử như hội Đền Hùng, Hoa lư, Vạn Kiếp…
các lễ hội này thường được tổ chức gắn liền với các sự kiện có ý nghĩa lớn
trong lịch sử hay để tưởng nhớ những người anh hùng, người có công lớn
trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân
dân.
- Các lễ hội mang tính giải trí như hội Lim, hội chọi trâu Đồ Sơn…trong
các lễ hội thường có những trò chơi giải trí mà nội dung và hình thức của các
trò chơi này gắn liền với các hoạt động lao động sản xuất của người dân.
- Các lễ hội mang tính tôn giáo như hội chùa Hương, hội chùa Keo, hội
Phủ Giày… mà phổ biến nhất ở Việt nam có lẽ là lễ hội Phật giáo.
Tuy nhiên việc phân loại trên chỉ mang tính tương đối bởi trên thực tế
các tính chất của lễ hội đan xen hoà trộn vào nhau. Mỗi một lễ hội được tổ
chức đều mang những nét của truyền thống lịch sử, tôn giáo và trong các lễ
hội càng không thể thiếu được các trò chơi.
2. Đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam.
Lễ hội dân gian ở Việt nam được hình thành từ nền nông nghiệp lúa
nước để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinh hoạt của những người nông
dân trồng lúa nước. (Rõ ràng là sẽ khó mà có các lễ hội cầu mưa, cầu nắng,
nếu không có việc trồng lúa nước). Do vậy, khi nói đến những lễ hội dân gian
của vùng, thực chất là nói đến các lễ hội nông nghiệp (lễ hội của người nông
dân). Và đã là lễ hội nông nghiệp thì trước hết, chúng phải chịu sự chi phối
- 7 -
mạnh của "nhịp điệu các mùa sản xuất". Lịch sinh hoạt của các lễ hội dân
gian được xác định bởi nông lịch của mỗi tiểu vùng. Các nông lịch lại được
hình thành trên cơ sở những đặc điểm của điều kiện khí hậu địa lý tự nhiên,
nên các lễ hội dân gian dân gian ở Việt nam được diễn ra theo thời tiết.
Thường chúng được mở tập trung vào hai mùa quan trọng nhất của một năm
sản xuất nông nghiệp là đầu mùa sản xuất (gieo, cấy) và cuối mùa sản xuất
(mùa thu hoạch, gặt hái).
Cũng vì thực chất là các lễ hội nông nghiệp mà các lễ hội dân gian ở
Việt nam không tái hiện cuộc sống nào khác sống nông nghiệp của chính họ.
Chúng (các lễ hội dân gian) đã phản ánh những tâm tư, tình cảm và nguyện
vọng của những người nông dân trồng lúa nước Việt nam. Có thể nói, hầu
như mọi mong ước tình cảm được phản ánh ở các lễ hội dân gian đều xoay
quanh hai chủ đề chính là cầu mưa, cầu nắng để cây lúa có đủ điều kiện phát
triển, nảy hạt, đâm bông. Các lễ hội cầu nước thường được tổ chức vào đầu
mùa sản xuất (cũng đồng thời là đầu năm mới); bởi phải có nước thì mới làm
được ruộng nước cày cấy và hạt lúa mới có thể nảy mầm được. Các lễ hội cầu
nắng thường được tổ chức vào giữa và cuối mùa sản xuất: bởi, khi đã đủ
nước, cây lúa cần có nắng, có ánh sáng để phát triển, có sức nóng để làm chín
những hạt lúa vàng. Và khi lúa đã chín, sau khi vui mừng thu hoạch lúa,
người nông dân Việt nam thường tổ chức các lễ hội để gửi gắm vào trong đó
lòng biết ơn, sự vui mừng trước những kết quả đã đạt được. Thực chất của
việc cầu mưa nắng thuận hòa ở mỗi lễ hội dân gian đều xuất phát từ mong
ước đạt được một kết quả sản xuất tốt đẹp (một vụ lúa bội thu). Mỗi lễ hội là
mỗi nguyện vọng, mỗi khắc khoải của người nông dân trồng lúa đối với từng
giai đoạn phát triển của cây lúa. Cho nên mới nói, các lễ hội dân gian ở Việt
nam được hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước để phục vụ chính cuộc
sống sản xuất, sinh hoạt của những người nông dân trồng lúa nước.
Cuộc sống nông nghiệp được phản ánh rất đậm nét trong các lễ hội dân
- 8 -
gian ở Việt nam. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép lại hiện thực, mà
đó là sự phản ánh hiện thực Việt nam qua cách nhìn của những người nông
dân trồng lúa. Nó không phải là tất cả những gì có sẵn trong tự nhiên, trong
nó chứa đựng những suy nghĩ và mong ước ấy lại xuất phát từ hoàn cảnh tự
nhiên, điều kiện địa lý, môi trường, xã hội của họ. Vì cây lúa là đối tượng
chính của sự sản xuất nông nghiệp Việt nam, nên nó (cây lúa) trở thành trung
tâm của sự phản ánh trong các lễ hội dân gian của vùng (cũng như trong mọi
hình thái văn hóa dân gian khác của vùng). Cây lúa được coi là biểu trưng cho
sự no đủ, hạnh phúc, biểu trưng cho tất cả những đức tính tốt đẹp của con
người. Mọi sự vật, hiện tượng đều được nhận thức trên cơ sở của quy luật
phát triển của cây lúa. Trong suy nghĩ của những người dân Việt nam, người
mẹ, người phụ nữ chính là những người đã tạo ra những giống lúa, sáng tạo ra
nghề trồng lúa (vì nghề trồng lúa được ra đời từ hái lượm, mà hái lượm lại là
công việc của người phụ nữ); Cho nên, ở các lễ hội dân gian của vùng, các tín
ngưỡng về cây lúa như là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc trên đất nước
Việt nam, và sự phản ánh tín ngưỡng ấy qua biểu tượng người phụ nữ là một
đặc thù của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Các lễ hội dân gian ở Việt nam đều được tạo thành bởi một chuỗi các
cảnh diễn liên tiếp, theo một kịch bản quy định. Những cảnh diễn, cũng như
những quy định của kịch bản, lại xuất phát từ chính cuộc sống sinh hoạt và
lao động của những người nông dân trồng lúa, nên chúng có nhiều điểm
chung. Mỗi cảnh diễn được tạo thành bởi sự tập trung và tập hợp của nhiều
loại hình, loại chủng văn hóa, để diễn tả một hoạt động, một sinh hoạt vật chất
nào đó của người nông dân. Đương nhiên, sự diễn tả ấy là nhằm vào một mục
đích nhất định: nói lên một nguyện vọng, một mong ước của cộng đồng; nên
sự tập hợp lộn xộn, mà chúng có những quy tắc, quy định nhất định (nếu
không, cảnh diễn sẽ không có ý nghĩa, không biểu phát được nguyện vọng mà
những người nông dân muốn gửi gắm). Mặt khác, mỗi cảnh diễn lại nhằm
phục vụ cho việc làm rõ mục đích chung của lễ hội, nên chúng cũng phải tuân
- 9 -
thủ theo những quy tắc và quy định của lễ hội (để đạt được mục đích của lễ
hội). Chính những quy tắc và quy định này đã làm cho các hoạt động lễ hội
được "cấu tạo theo cơ chế mô hình" (nghĩa là chúng bao gồm những yếu tố có
tính chất "bộ xương", còn phần "thịt", tức các chi tiết thì dành cho các cá
nhân, các cộng đồng sáng tạo bồi đắp khi thực hiện hoạt động). Điều đáng
chú ý ở đây là những quy tắc, quy định (tức những yếu tố chung) được phát
sinh từ những người nông dân (bởi trong cộng đồng các dân tộc Việt nam,
người nông dân bao giờ cũng chiếm đa số); do đó, mô hình của các lễ hội dân
gian ở Việt nam thường là giống nhau. Với cơ chế mô hình, lễ hội dân gian
vừa đảm bảo tính thống nhất và truyền thống của cộng đồng, vừa có chỗ để
các cá nhân sáng tạo. Điều này khiến các lễ hội trong vùng không cái nào
giống cái nào nhưng vẫn có nét chung.
Cũng phải nói thêm rằng, chính vì được sản sinh và quy tụ để làm rõ
mục đích chung của lễ hội, mà các loại hình văn hóa tập trung và tập hợp
trong cảnh diễn, cũng như chuỗi cảnh diễn trong lễ hội luôn luôn được đặt vào
một hệ thống, trong đó, các loại hình văn hóa gắn bố hữu cơ với nhau (cũng
như cảnh diễn này gắn bó với cảnh diễn kia) đến mức: nếu tách một loại hình
văn hóa nào đó ra khỏi cảnh diễn, hoặc một cảnh diễn ra khỏi lễ hội thì chúng
không còn ý nghĩa như nó vốn có trong cảnh diễn và trong lễ hội nữa. (Đương
nhiên, mục đích của lễ hội cũng không đạt được một cách trọn vẹn nếu thiếu
đi một hay vài loại hình văn hóa hoặc một vài cảnh diễn). Ở đây, lễ hội đã bộc
lộ rõ nét một đặc điểm đặc thù trong phương thức nhận thức và phản ánh của
văn hóa dân gian, đó là: "phương thức tổng thể nguyên hợp" (tức nhận thức
sự vật với tư cách đó là một tổng thể). Vậy mới nói, lễ hội là một loại hình
văn hóa dân gian tiêu biểu.
Khi nói lễ hội dân gian trong vùng thực chất là các lễ hội nông nghiệp
cũng là muốn nói chúng - các lễ hội dân gian - là sản phẩm văn hóa của
những người nông dân (người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người
- 10 -
tiêu dùng). Các hoạt động lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu không phải cho một
cá nhân người nông dân, mà cho cả cộng đồng người nông dân. Nó là sáng
tạo của cả cộng đồng người nông dân. Vì thế mọi tri thức, tư tưởng, tình
cảm... cũng như những hành vi, quy ước, ước lệ... trong lễ hội đều được biểu
tượng hóa bằng những hình ảnh, những dấu hiệu quen thuộc của cộng đồng.
Mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể cảm nhận được chúng. (Không chỉ
có thế, chúng còn được mọi người tiếp nhận một cách tự nguyện bởi chúng
mang vác và diễn đạt những mong ước của chính họ). Ở thời kỳ tiền nông
nghiệp, khi cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên thì các
biểu tượng của các lễ hội trong vùng có nhiều nét giống nhau cả về vật dùng
làm biểu tượng lẫn giá trị mà biểu tượng ấy mang vác, bởi chúng đều được ra
đời trên cơ sở một hay nhiều đặc điểm về những điều kiện tự nhiên độc đáo
của môi trường sinh tồn Việt nam (nóng, ẩm, mưa nhiều, địa hình nhỏ hẹp...);
và được ra đời từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cố kết cộng đồng.
Cũng vì nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng người nông dân mà lễ
hội được lưu truyền chủ yếu qua trí nhớ chứ không phải qua chữ viết (đa số
người nông dân xưa không biết chữ), nên quá trình sản xuất (sáng tạo) ra lễ
hội cũng đồng thời là quá trình nó được phân phối đến từng người và tiếp
nhận (tiêu thụ) nó. Lễ hội được ra đời chính lúc kết thúc các hoạt động lễ hội.
Tóm lại, do được cấu thành bởi sự tham gia của nhiều chủng loại văn
hóa dân gian khác nhau mà lễ hội mang trong nó mọi đặc điểm đặc thù của
văn hóa dân gian. Vì thế, muốn tìm hiểu được văn hóa dân gian Việt nam,
chúng ta không thể không tìm hiểu các lễ hội dân gian của Việt nam, và để
phát triển loại hình du lịch văn hoá ở Việt nam không thể bỏ qua được một
- 11 -
nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đó là các lễ hội dân gian.
- 12 -
PHẦN II
LỄ HỘI DÂN GIAN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ
Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ.
Có thể hiểu du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết qua các chuyến du
lịch đến những vùng đất mới tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh
tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước
đến du lịch hoặc là kết hợp những mục đích khác nữa.
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân
tộc trên thế giới được mở rộng, dẫn tới việc giao lưu văn hoá, tìm kiếm những
kiến thức về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một
nhu cầu cho nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn
là nghỉ ngơi giải trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khoẻ khả năng
lao động,...) mà còn là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri
thức, làm phong phú đời sống tinh thần của con người. Đó chính là nội hàm
của khái niệm du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du
lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất
cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phương thức hấp
dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du
- 13 -
lịch văn hoá thường để dành cho du khách có trình độ cao trong xã hội.
Du lịch văn hoá được xem là tổng thể của du lịch - xem đó là một hiện
tượng văn hoá những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang
tính văn hoá. Những động cơ thu hút đến các điểm du lịch là để nghỉ ngơi và
giải trí.
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể phân chia du lịch
văn hoá ra nhiều loại:
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là
chủ yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tượng
khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chương
trình du lịch dã ngoại đến các làng dân tộc ít người thuộc các tỉnh Hoà Bình,
Sơn La, Lai Châu,... để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá
của các dân tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và thường
nghỉ qua đêm tại các bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất - du
khách thường kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tim fhiểu văn hoá trong
một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú,
bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn
có những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò hoặc có
thể theo trào lưu,... Do vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thường đi đến
nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có
những điểm du lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn,... Đối tượng
khách là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ
yếu là những người trẻ tuổi. Ví dụ như các chương trình leo núi (ở nước ta đã
tổ chức cho khách du lịch leo núi Phanxipăng), các chương trình du lịch dã
ngoại, các chương trình du lịch săn bắn.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác mục
đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề
- 14 -
nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình
này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn,
các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong
phú, có chất lượng cao, qui trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng
thanh toán cao nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể
loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công cụ.
Tuy nhiên, sự phân loại du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là
tương đối. Vì trong một chương trình du lịch thường được kết hợp nhiều hoạt
động khác nhau như: Kết hợp đi du lịch dã ngoại với du lịch theo chuyên đề
văn hoá, hoặc du lịch săn bắn,... trong một chuyến hành trình nhằm tránh gây
cho khách cảm giác nhàm chán.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng vì nó ít chịu sự chi phối
của yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu), nhưng nó phụ thuộc vào đặc
điểm nhân khẩu học như: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn
giáo,... của du khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: so với các loại hình du lịch khác, du lịch văn
hoá mang tính đại chúng. Tuy có chịu ảnh hưởng tính thời vụ nhưng không
phụ thuộc hoàn toàn, ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết khí hậu. (Những
đặc điểm này thể hiện rất rõ ở loại hình du lịch lễ hội) đồng thời mức độ
chênh lệch cung cầu của du lịch văn hoá thường không lớn).
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi du
lịch văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì đối với
họ ít chịu sự ràng buộc của gia đình, thường có trình độ học vấn cao, có địa vị
xã hội,...
+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia vào các chuyến du lịch văn hoá chủ yếu vẫn
là những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách cao tuổi họ
thường có nhiều thời gian rỗi,... thường có kinh nghiệm trong việc đi du lịch,
họ thích tìm hiểu về âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính
- 15 -
dân tộc,... và họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ. Chủ yếu họ mua các
chương trình tham quan du lịch văn hoá. Ngược lại, đối với khách du lịch
thanh niên đây là nhóm có số lượng đông đúc với các đặc trưng của thanh
niên như: ưa khám phá, thích tìm tòi, muốn thử sức mình, thích đi xa, thích sự
tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thường đi thành nhóm lẻ,... do đó họ có
xu hướng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du lịch, họ có khả năng
thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm trong đi du lịch, họ thường quan tâm đến
giá cả nhưng ít quan tâm đến yêu cầu về chất lượng dịch vụ. Khách du lịch
thanh nhiên thường tham gia vào các chuyến du lịch dã ngoại, săn bắn mạo
hiểm, tham quan văn hoá,... Đối với những khách trung niên thường là những
người có địa vị xã hội có khả năng thanh toán cao, có sự tự chủ lớn trong khi
đi du lịch. Họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ,... họ thường kết hợp
giữa đi công tác với đi du lịch.
+ Yếu tố trình độ học vấn: Những người có trình độ học vấn cao là loại
khách được các nhà kinh doanh du lịch quan tâm nhiều vì những nhà học vấn
cao thường thường là những người có địa vị xã hội cao, thu nhập cao, trình độ
văn hoá cao nên có nhu cầu mở rộng sự hiểu biết tìm hiểu thế giới xung
quanh cao hay có thể nói họ có động cơ văn hoá cao trong nhu cầu đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể được coi là khách du lịch thuần tuý vì
khách có thể chỉ đi vì động cơ văn hoá. Tuy nhiên số lượng khách du lịch văn
hoá thuần tuý trong thực tế thường rất ít mà khách du lịch thường kết hợp
giữa loại hình du lịch văn hoá với loại hình du lịch khác trong một chuyến
hành trình.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên tế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá, bởi du lịch văn hoá là một loại hình du
- 16 -
lịch có nhiều ưu điểm : ít có tính mùa vụ, có thể phát triển quanh năm, tạo
nguồn thu ổn định, với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp cho con
người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh…
Việt Nam là một đất nước có tiềm năng phát triển du lịch văn hoá rất
lớn. Với hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông đã để
lại cho chúng ta hàng ngàn các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Trong số đó các lễ hội dân gian là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng
cho phát triển du lịch văn hoá ở Việt Nam.
Lễ hội là một phong tục lớn một nét văn hoá không thể thiếu trong đời
sống của người Việt Nam
Lễ hội thường diễn ra ở các vùng quê nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi
đẹp co những công trình kiến trúc mang dấu ấn của từng thời đại như : Đình,
Chùa, Đền Miếu. Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường được tổ chức vào
mùa xuân, mùa thu, khi mùa màng đã song xuôi nông dân có thời gian nghỉ
ngơi vui chơi thoải mái. Cấu trúc của một lễ hội thường gồm có hai phần là
phần lễ và phần hội.
Phần lễ thường được tổ chức ở đình Chùa nhằm thể hiện lòng thành kính
của con người và để bày tỏ nguyện vọng của con người trước những khó khăn
của cuộc sống với phật thánh.
Trong lễ không thể thiếu phần hội vì hội là để vui chơi thoải mái, không
bị ràng buộc bởi những lê nghi tôn giáo tuổi tác. Sau những tháng ngày làm
ăn lam lũ dân làng chờ đón ngày hội như chờ đón một tin vui. Họ đến với hội
hoàn toàn tự nguyện, ngoài vui chơi giải trí, gặp gỡ bạn bè mọi người đi dự
hội đều cảm thấy như mình được thêm một cái gì đó có thể là điều may. Thứ
quyền lợi vô hình ấy làm cho những người đi hội thêm phần phấn chấn. Chính
vì vậy lễ hội bao giờ cũng có đông người đến dự. Tuy nhiên quy mô của từng
hội có khác nhau. Có hội chỉ diễn ra ở một vài làng nhưng cũng có hội mang
- 17 -
tính toàn quốc như : hội Đền Hùng, hội Chùa Hương, hội Hoa Lư... trong quá
trình diễn ra lễ hội đã làm tái hiện lại phong tục tập quán, tín ngưỡng văn hoá
và những sự kiện lịch sử quan trọng. Lễ hội chính là một pho sử khổng lỗ.
Bên cạnh những lễ hội thuần tuý mang ý nghĩa về lễ ghi nông nghiệp
như lễ hội Chùa Dâu cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi còn có
những lễ hội mang ý nghĩa lịch sử như: Hội Đền Hùng, hội Gióng.
Ngoài những lễ hội trên còn có những lễ hội mang ý nghĩa văn nghệ giải
trí như hội lim hát quan họ hội hát xoan Phú Thọ....
Theo thống kê sơ bộ ở Việt Nam có hàng trăm lễ hội, lễ hội tập trung
nhiều nhất ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi có nền văn minh lúa nước phát hiện
sớm. Như vậy theo cùng với các loại hình du lịch nghỉ Biển, nghỉ núi, dã
ngoại chữa bệnh.... thì loại hình du lịch lễ hội luôn có sức thu hút khách du
lịch trong nước và quốc tế. vì lễ hội không chỉ là sản phẩm văn hoá mà còn là
một tiềm năng du lịch hết sức hấp dẫn. Du lịch càng phát triển thì càng gắn bó
chặt chẽ với loại hình du lịch lễ hội.
Thông qua những chương trình du lịch lễ hội nhằm giới thiệu với du
khách một cách sinh động hơn về đất nước con người Việt Nam trong quá
khứ và hiện tại; giới thiệu những nét đặc trưng những giá trị văn hoá tín
ngưỡng được thể hiện trong lễ hội.
Đến với lễ hội du khách cũng được cộng hưởng niềm vui với cái vui của
lễ hội được hoà mình với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp được chiêm
ngưỡng những công trình kiến trúc cách đây hàng thế kỷ.
Du lịch lễ hội xuất hiện rất sớm ở Ai Cập có từ thời cổ thông qua các
cuộc hành hương đến thánh địa. ở Việt Nam đây là một sinh hoạt tổng hợp,
mang tính du lịch có từ ngàn đời nay du lịch lễ hội phát triển sẽ góp phần
- 18 -
quan trọng trong việc giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Một khi những yếu tố di sản văn hoá được khuyến khích trong du lịch sẽ
là cơ sở để phát triển du lịch bền vững và tạo điều kiện để thu hút khách du
lịch ngày càng đông.
Có thể nói giữ gìn bản sắc văn hoá là sự trường tồn của lễ hội và sẽ là
điều kiện quan trọng để phát triển du lịch bền vững.
III. MỘT SỐ LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM.
1. Lễ hội Đền Hùng.
Khi nói đến các lễ hội có ý nghĩa và giá trị lớn phục vụ phát triển du lịch
ở nước ta, ai cũng nhắc trước tiên đến lễ hội Đền Hùng. Bởi lẽ, trong suy nghĩ
chung lễ hội Đền Hùng có tính linh thiêng đối với mỗi người dân Việt nam.
Nó nhắc chúng ta nhớ về cội nguồn, về tổ tiên chung của cả cộng đồng người
Việt.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười, tháng ba.
Là người Việt nam dù là được ở quê hương hay phiêu bạt nơi đâu, nhưng
cứ mỗi độ xuân sang, ai cũng hướng lòng mình về một vùng đất Tổ – Vùng
đất trung du thơ mộng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Phú Thọ, nơi
cội nguồn của dân tộc, nơi hàng năm con chắu cả nước về dự Giỗ tổ Hùng
Vương.
Trước lúc vào hội, mời bạn hãy đến thăm những di tích lịch sử cổ kính
của một quần thể kiến trúc tuyệt vời trên ngọn núi nghĩa lĩnh này. ngọn núi từ
bao đời nay được con cháu từ khắp mọi miền nhắc đến với một niềm súc
động dào dạt, hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Dưới những tán cây chò xanh cao vút, mát rượi, bước theo các bậc đá
sạch sẽ từ cổng chính đi lên,chẳng mấy chốc lên tới đền Hạ. theo truyền
- 19 -
thuyết, nơi đây Bà Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành trăm người con
trai. Sau đó Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi, Âu Cơ dẫn 49 người lên
ngược, dể lại người con trưởng làm vua, xưng là hv, đóng đô ở Phong Châu,
đặt tên nước là Văn Lang. Từ đó sinh sôi ra các dân tộc Việt nam.
Trước cửa Đền Hạ có một cây thiên tuế chính nơi đây Bác Hồ đã nói
chuyện với cán bộ chiến sĩ đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản
Thủ đô tháng 9/1954. Câu nói nổi tiếng ấy nay đã được khắc thành chữ vàng
để muôn đời con cháu mai sau nhớ mãi : “ các vua Hung đã có công dựng
nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước ”. sau khi rời đền Hạ du khách
tiếp tục lên đền Trung. Tương truyền các Vua Hùng thường đến đây cùng các
Lạc tướng bán việc nước. đây cũng là nơi Lang Liêu, vị hoàng tử nghèo đã
lấy những hạt gạo do chính mình cấy gặt ra làm nên những chiếc bánh chưng
bánh đầy đầy hương vị quê hương dâng lên vua cha nhân ngaỳ tết. Sự tích
bánh chưng bánh dầy, bài học về sự quý trọng công sức và của cải do bàn tay
lao động của con người làm ra, bắt đầu từ đó. Lên cao nữa là đền Thượng, nơi
hàng năm vua Hùng làm lễ tế trời đất, thờ thần lúa. Dứng trên đền Thượng,
phóng tầm mắt ra xa,bạn sẽ thấy nhiều hòn núi lớn nhỏ như bầy voi quỳ
hướng về ngọn Núi Mẹ oai nghiêm nhắc ta nhớ đến câu chuyện về 99 con voi
trung thành.
Bây giờ ta hãy trở về với ngày hội tháng ba.
Mồng mười tháng ba được coi là ngày hội lớn nhất, ngày giỗ Tổ, ngày tụ
hội của con Rồng chắu Tiên.
Cuộc tế lễ chính thức được tiến hành vào sáng mồng mười tháng ba, năm
nào cũng có đại diện cao cấp của nhà người về dự những nghi thức ấy diễn ra
rất long trọng tại đền Thượng với đầy đủ các lề luật của một cuộc lễ lớn. Lễ
vật tại Đền Hùng bao gồm lợn, bò, dê mỗi thứ một con để nguyên và xôi
- 20 -
trắng, xôi mầu, bánh chưng, bánh dầy.
Các thế hệ con Rồng chắu Tiên về hội dồn nhanh bước chân khi nghe
tiếng trống đồng ngân rung trong lòng đất lám xúc dộng sâu xa hàng triệu con
tim.
Dòng người cuồn cuộ ấy theo sau đoàn đại biểu dâng hương,đi đầu là
các vị đại diên cho nhà người, tiếp đến 100 thanh niên nam nữ với y phục dân
tọc tượng trưng cho con Rồng chắu Tiên xếp hàng trước đền Thượng.
Từ khắp các ngả đường, những đám rước nô nức dồn về. đám rước voi
với ý nghĩa muôn loài quy phục các vua Hùng. Rước cỗ chay,bánh chưng,
bánh dầy một mặt để nhắc lại sự tích Lang Liêu, mặt khác để nhớ ơn công
đức các vua Hùng đã dạy dân trồng lúa. Vì thế đám rước này không bao giờ
được thiếu và đó cũng là nét đặc sắc của Đền Hùng. còn rước kiệu từ lâu đã
trở thành cuộc thi của các làng.
Dưới chân núi, bên công quán, những cô gái Mường duyên dáng trong
bộ quần áo dân tộc ngày hội biểu diễn tiết mục Đâm đuống, một nhạc cụ dân
gian của đồng bào Mường. Trên hồ Đa Vao cạnh núi Nghĩa, những cặp
thuyền rồng đua nhau lướt sóng trên mặt nước trong xanh trong tiếng reo hò
cổ vũ của hàng vạn người. cả một vùng rộng lớn quanh chân núi Nghĩa được
sắp đặt xen kẽ những rạp hát chèo, tuồng, những đặc sản của Phú Thọ, những
quấn ăn, hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ khách đến hội. Cứ như vậy hội Đền
Hùng diễn ra trong không khí sôi động của mùa xuân với bao điều ước vọng
về một tương lai tốt đẹp.
Hội Đền Hùng không chỉ thu hút mọi người bởi những sinh hoạt văn hoá
đặc sắc mà còn ở tính linh thiêng của một cuộc hành hương trở về cội nguồn
dân tộc của các thế hệ người Việt nam chúng ta. đến hội, mỗi người đều biểu
hiện một tình yêu thương, lòng ngưỡng mộ về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng
đã ăn sâu vào tâm thức người Việt nam cho dù họ ở bất cứ nơi đâu.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác được một cách hiệu quả lễ hội
- 21 -
Đền Hùng và biến nó thành một sản phẩm hấp dẫn đối với du lịch. Các biện
pháp cơ bản đó là : nâng cao chất lượng tổ chức lễ hội ; đa dạng hoá các loại
hình dịch vụ và vui chơi giải trí đi kèm ; tổ chức tuyên truyền quảng cáo…
Tất cả điều đó đều cần thiết. Tuy nhiên, cho dù có làm tốt đến đâu thì lễ hội
Đền Hùng cũng chỉ thu hút được một số lượng hạn chế các du khách do chính
sự hạn hẹp về thời gian và không gian lễ hội. Do vậy cần tiếp cận lễ hội Đền
Hùng từ một hướng khác toàn diện hơn. lễ hội Đền Hùng cần phaỉi được đặt
chung trong không gian lịch sử thời đại Hùng Vương, cần phải xúc tiến xây
dựng một chương trình du lịch về cội nguồn với đầy đủ các yếu tố nội dung
về lịch sử đâts nước, con người và văn hoá của nước Văn Lang- một giai đoạn
lịch sử đầy huyền thoại của dân tộc.
Như vậy, trong hệ thống các sản phẩm du lịch về cội nguồn, những yếu
tố về lịch sử phải được đặt lên trước. Ngoài việc xây dựng nâng cấp các bảo
tàng, các phòng trưng bầy, cần phối hợp với các nhà khoa học xây dựng một
hệ thống các bảo tàng di chỉ khảo cổ ngoài trời để dânx dắt du khách cùng đi
ngược về chiều sâu lịch sử của vùng đất này.
Lễ hội Đền Hùng chỉ trở thành hấp dẫn nếu được đặt trong một hệ thống
hoàn chỉnh các sản phẩm của nền văn hoá vật chất của thời đại Hùng Vương,
mà để có được diều đó thì đòi hỏi phải đầu tư đúng mức cả về tài chính, trí tuệ
và công sức. Phải có sự phối hợp đa nghành và sự tham gia của cộng đồng.
Chỉ như vậy và nếu làm được như vậy chắc chắn chương trình du lịch về cội
nguồn, về đất Tổ và lễ hội Đền Hùng sẽ trở thành một sản phẩm du lịch đặc
sắc, đầy hấp dẫn và không chỉ bó hẹp trong ba ngày.
2. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
Lễ hội chọi trâu có từ lâu đời, đã khắc sâu vào tâm linh và phong tục tập
quán của dân và làng Vạn Chài bên cửa sông Lạch Tray-Văn úc Đồ Sơn Hải
Phòng. Sau một thời gian vắng bóng, 10 năm trở lại đây lễ hội chọi trâu Đồ
Sơn được khôi phục và tổ chức lớn thành lễ hội quốc gia với sự tham dự của
- 22 -
đông đảo du khách trong nước và quốc tế.
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu.
Sự quyến rũ sẽ tạo ra sự quyến rũ, cũng như nét đẹp bí ẩn vẫn luôn tạo ra
sức hút của những ý muốn khám phá và tìm kiếm. Người ta có thể nói như
vậy với hội chọi trâu Đồ Sơn.
Vùng biển du lịch Đồ Sơn sẽ ra sao nếu như không có lễ hội chọi trâu ?.
Có người bảo : không làm sao cả, vì mọi thứ mà thiên nhiên ưu đãi ở đây vẫn
nguyên vẹn như vốn có. Bãi tắm vào mùa hè vẫn luôn đông khách du lịch còn
bóng dừa vẫn in trên bờ cát mênh mông. Vậy mà cái lý lẽ trên đã bị lung lay
khi mọi người cùng bước chân vào sới chọi dự một cuộc trình diễn độc nhất
vô nhị của các “ông trâu”. một cái gì đó gợi mở về quá khứ. Cái tiếng “côm
cốp”, “luỵch quỵch” của sừng trâu ngoắc vào nhau trong cuộc vờn tả dứ hữu
kia, vẻ long trọng trong nghi thức tổ chức với các đám rước lộng lẫy màu sắc
và âm thanh rõ ràng là một lời khẳng định : vùng biển Đồ Sơn này từ ngàn
năm đã chứa đựng trong lòng chiều sâu văn hoá, nét đẹp của tinh thần thượng
võ.
Được phục hồi và mở rộng về quy mô tổ chức, từ năm 90 đến nay, từ
một hội làng, hội chọi trâu đã trở thành lễ hội vùng. Giữ nguyên nét độc đáo
và cuốn hút, có năm hội đón tới 20.000 người từ khắp nơi trong cả nước đổ về
thăm quan. Chính hội diễn ra vào ngày 9-8 âm lịch, tiền chính hội vào 8-6 âm
lịch. ở các phường có trâu chọi, bao giờ họ cũng có lễ vật cúng khẩn cầu cho
khí thiêng các núi sông, trời đất phù hộ cho các “ ông trâu” thắng cuộc. Bởi
các “ ông trâu” thắng cuộc là điềm lành báo hiệu sự hưng thịnh của địa
phương. Người dân Đồ Sơn gắn bó với hội chọi trâu vẫn luôn nhớ đến các
- 23 -
“phần xăm khẩn đáy” – phần thưởng cho nơi nào có trâu thắng cuộc trong các
hội chọi trâu ngày xưa. khi đó, trên diện tích bao la của ngư trường, người ta
để chỗ nào đẹp nhất, lại có nhiều tôm cá nhất dành cho làng có trâu thắng
cuộc được quai đáy, quai xăm. tôm cá nhiều, việc bán mua, lợi nhuận cũng
tăng lên và kinh tế của làng nhờ đó mà thêm khấm khá. Phần thưởng cho trâu
thắng cuộc ngày nay không phải là “phần xăm khẩn đáy” nữa, thay vào đó là
thưởng trực tiếp bằng hiện vật hoặc tiền. Và theo phong tục địa phương,
những miếng thịt trâu( kể cả trâu thắng hay thua) đều được chia cho mọi nhà
thưởng thức để mọi người cùng gặp may mắn.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn thu hút khách bởi vẫn giữ được những nét cơ
bản của truyền thống ở cả hai phần lễ và hội. Phần lễ với các nghi thức không
chỉ diễn ra trong thế giới tâm linh tại các đình làng ở các phường có trâu chọi
mà còn sinh đồng tưng bừng trên sớ. Nhưng vất vả và công phu nhất vẫn là ở
khâu nuôi và tuyển chọn trâu. Từ ngày phục hồi và mở rộng hội chọi trâu, đã
có một số nhà doanh nghiệp chịu chơi cũng muốn có trâu tham dự, nhưng
không ai thay thế được các “thổ công” ở Đồ Sơn vốn đầy kinh nghiệm trong
công việc này. các “ông trâu” không chỉ bảo đảm tiêu chuẩn của một “người
hùng ra trận “ mà còn phải có vẻ đẹp đĩnh đạc, chải chuốt với bộ áo da lông
đn mượt.
Bây giờ đến xem trâu chọi được ngồi ở sới chọi- sân vận động có mái
che, du khách cảm thấy hứng thú hơn. đó cũng là sự cố gắng của thị xã Đồ
Sơn trong việc gìn giữ một nét đẹp một lễ hội độc đáo nơi miền biển Hải
Phòng. Tuy nhiên nghi thức cuối cùng( giết trâu) của lễ hội chọi trâu Đồ Sơn
có mang một chút tính hoang dại có thể ảnh hưởng tới tâm lý du khách và tác
động tiêu cực đến sức hấp dẫn của lễ hội này đối với du khách.
Trước hết có thể nói rằng, việc giết súc vật để tế thần là một nghi thức
mang tính tín ngưỡng dân gian truyền thống. nếu bỏ đi sẽ làm thay đổi hẳn
tính chất của lễ hội này. đành rằng truyền thống cũng có những hủ tục cần
- 24 -
phải bỏ. Song xét từ mọi góc độ thì nghi thức này không thể bị coi là một hủ
tục. Mặt khác trong khi giới thiệu văn hoá truyền thống của mình với du
khách một trong những yêu cầu quan trọng là phải đảm bảo tính chính xác
của nội dung giới thiệu. Thực ra, ai cũng biết trên thế giới cũng có những lễ
hội mà ở đó các con vật bị giết chết. Nếu so sánh có thể thấy tính man rợ
trong hội đấu bò tót của Tây Ban Nha còn đáng sợ hơn gấp nhiều lần so với
chọi trâu Đồ Sơn. tuy nhiên đó chính là truyền thống, là tính xác thực lịch sử
và chính điều đó đã làm nên sự hấp dẫn.
3. Hội chùa Hương
Hương Sơn là một cảnh đẹp thiên nhiên nổi tiếng vào bậc nhất của nước
ta. Ở đây cảnh đẹp thiên nhiên lại được bàn tay con người tô điểm thêm từ lâu
đời bằng những công trình văn hóa, nghệ thuật tuyệt vời. Ngày xuân trẩy hội
chùa Hương là đi vào một cuộc du ngoạn đầy hứng thú.
Dãy núi Hương Sơn không đẹp ở chiều cao mà đẹp ở chiều dài, chiều
rộng, ở cái thế quần tụ, ở bố cục nhịp nhàng. Nhịp nhàng giữa núi với núi, lại
nhịp nhàng giữa núi với nước. Những dòng suối Hương Sơn - đặc biệt là suối
Yến - không đẹp ở sự mênh mông, mà đẹp ở sự buông thả hiền hòa giữa hai
chiền núi. Suối ở đây là bạn đường của núi.
Đường suối không xa lắm nhưng trông như không có chỗ tận cùng. Có
khúc thẳng, có khúc quanh, có cái trông thấy trước, có cái đột ngột hiện ra
trước mắt. Những lớp xanh xa cứ như chứa một bí ẩn gì mà suối này sẽ đưa ta
tới.
Thắng cảnh Hương Sơn nay thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh
Hà Tây. Hàng năm, từ rằm tháng giêng đến nửa đầu tháng ba (âm lịch) mà
đỉnh cao là trung tuần tháng hai, hàng chục vạn người từ mọi miền đất nước,
Việt kiều và khách ngoại quốc đổ về trẩy hội.
Hành trình và thắng cảnh Hương Sơn trong mùa hội ngày nay có nhiều
- 25 -
phương tiện thuận lợi. Xe ô tô chở khách từ Hà Nội, từ Hà Nam đến bến Đục
chạy một ngày nhiều chuyến. Từ Phủ Lý (Hà Nam ) có thuyền (đò dọc) đi
ngược dòng sông Đáy cũng đến bến Đục. Từ Bến Đục, khách có thể đi bộ
theo con đường đá tới bến đò Yến Vĩ chỉ vài trăm mét. Hàng trăm chiếc
thuyền nan, thuyền bồng và cả thuyền gắn máy đã vui vẻ chờ sẵn tại bến đò
Suối để đưa khách trẩy hội đến với Hương Sơn.
Những chiếc thuyền thoi (hình con thoi và cũng nhanh nhẹn đi về như
con thoi) của các cô gái làng Yến Vĩ, cứ đến ngày xuân lại chở khách mười
phương vào một cõi rất thực mà rất mơ. Trong trạng thái vui say ấy, ta gặp
vô số những con đò nối tiếp nhau, đò vào gặp đò ra, trên đò đầy người, và
cũng đầy những màu sắc khăn áo, đầy những tiếng cười nói của mọi người,
tiếng niệm Phật của các cụ bà, tiếng chào nhau "A di đà Phật". Ta đồng hành
với những vật lúa xanh viền hai mép suối, với những con le le, với những con
cốc thỉnh thoảng bay vụt từ mặt nước lên, với đàn chim sáo ríu rít trên chòm
hoa gạo đỏ rực, với những đốm trắng dê núi nhảy nhót cheo leo... Các cô lái
đò vừa bơi thuyền vừa trò chuyện với khách, vừa chỉ dẫn cho mọi người biết
đâu là núi Đụn, núi Ông Sư, núi Bà Vãi, núi Mâm Xôi, núi Gà, núi Rồng, núi
Trống, núi Chiêng, đâu là động Tuyết Quỳnh, hang Sơn Thủy hữu tình và giải
thích sao có núi Giải Oan, hòn Rẹp Rọ, chùa Cửa Võng, v.v...Cách đò Suối
chừng 600 mét là chùa Trình (Ngũ Nhạc) khách vào Hương Tích như trình
diện khi tới cảnh Phật và lúc ra về cũng vào chùa này như để từ giã cảnh
Hương Sơn.
Đi tiếp một thôi đò ta đến bến Trò (bến đò chùa ngoài). Chùa ngoài được
gọi là Thiên Trù (bếp nhà Trời) được xây dựng cách đây 3 thế kỷ, nằm lọt
giữa một thung lũng nhỏ, chung quanh có 3 quả núi cao màu xanh thẫm, trong
trí tưởng tượng của người xưa là 3 chân bếp của nhà Trời.
Sau khi nghỉ ngơi, ăn uống ở Thiên Trù, những dòng người chen chúc
nhau trên con đường đá men theo sườn núi vào chùa Trong (động Hương
- 26 -
Tích). Đường lên động tuy gập ghềnh thật, nhưng giả sử có thể đổi cái gập
ghềnh ấy thành một con đường bằng dẫn thẳng tới cửa động thì có lẽ cũng ít
người thích đổi. Vì cái đẹp của núi và của động cũng một phần ở chính sự gập
ghềnh mấy lối uốn thang này. Các cụ già cầm chiếc gậy trúc trong tay, tuổi
trẻ lại thích chống bằng cây mía (lúc cần có thể bẻ mía ra ăn cho đỡ cơn khát),
bước những bước thanh thản trên những bậc đá, lòng khách trẩy hội bâng
khuâng như hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên.
Trên đường vào chùa Trong có lối rẽ lên chùa Tiên. Chùa này thực chất
là một hang đá rộng rãi, nhưng cửa ra vào lại là một khe nứt giữa một quả núi
đá chỉ vừa người lách qua. Trong chùa có những pho tượng bằng đá và nhũ
đá, khi gõ vào kêu như tiếng khánh, tiếng chuông. Đặc biệt có pho tượng đá,
khi đặt ngọn đèn phía sau tượng, thì cả pho tượng trong suốt, như một khối
hồng ngọc. Đi tiếp lên, chúng ta gặp chùa Giải Oan. Mang tên chùa Giải Oan
vì chùa có một giếng nhỏ do mạch ngầm từ trong suối chảy ra thành dòng
suối nhỏ, nước mát lạnh và trong vắt. Khách thập phương lưu truyền nhau
uống nước giếng Giải Oan tâm hồn sẽ thanh thản, nỗi oan nghiệt sẽ tiêu tan.
Sở dĩ nước giếng thiêng như thế, vì theo huyền thoại xưa kia Đức Phật đã tắm
ở đây để tẩy sạch bụi trần. Từ chùa Giải Oan, ta thăm tiếp am Phật Tích, động
Tuyết Quỳnh (quen gọi là Tuyết Kinh), qua núi Trấn Song - có đền Cửa
Võng, rồi thẳng tới chùa Trong - Động Hương Tích.
"Đệ nhất động" là danh hiệu cao quý mà người thời xưa đã tặng cho
động - chùa Hương Tích. Từ cửa động vào phía trong, ta được ngắm nhìn
nhiều nhũ đã như những công trình điêu khắc của thiên nhiên. Nhũ đã ở đây
có khối to, khối nhỏ, có cái đẹp ở toàn khối, có cái đẹp ở dáng dấp tinh vi, có
cái rủ từ trên trần xuống, có cái mọc từ dưới đất lên. Tất cả đều tùy theo hình
thù mà được đặt những cái tên rất nôm na trần thế.
Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên tạo ấy là những công trình
điêu khắc nhân tạo. Giá trị nhất về nghệ thuận điêu khắc, không những trong
- 27 -
động Hương Tích, mà kể cả trong toàn bộ hệ thống chùa chiền ở Hương Sơn
là pho tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn. Muốn
thăm hết cảnh Hương Sơn, khách trẩy hội còn phải leo lên chùa Hinh Bồng
(trên đỉnh núi bên phải chùa Thiên Trù) và động chùa Long Vân - Khánh
khỏe chân có thể đi tiếp - một tuyến khách - tuyến suối Tuyết. Suối Tuyết đưa
khách đến chùa Bảo Đài. Từ Bảo Đài đi bộ đến động chùa Tuyết Sơn. Cửa
chùa trông ra cánh đồng lúa chiêm xanh mượt, lại bám sát những dải núi, hòn
đậm, hòn nhạt, tạo nên màu sắc hòa hợp của bức tranh hòa hợp khổng lồ.
Buổi tối, trung tâm hội là Thiên Trù, người ở mọi ngả chùa dồn về gặp
gỡ, ăn uống và tìm nơi nghỉ đêm. Hàng trăm, gian nhà có đủ giường, chiếu do
bà con địa phương dựng lên trong dịp hội để phục vụ khách thập phương.
Khách sạn du lịch (gần Thiên Trà) với những tiện nghi thích hợp sẵn sàng
phục vụ. Nhiều tốp thanh niên, học sinh, gia đình... lại thích mang lều cắm
trại ở đây để thức với thiên nhiên, với bầu trời cảnh Phật nên thơ này.
Hội Chùa Hương gắn với việc thờ phụng công chúa Diệu Thiện (đã trở
thành Phật Bà Quan Âm) là lễ hội Phật giáo kéo dài nhất ở nước ta (khoảng
hai tháng, từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba) thu hút một số lượng du
khách rất lớn. Tuy nhiên trong những mùa lễ hội gần đây đặc biệt là mùa lễ
hội năm 2001 đã xuất hiện rất nhiều những hiện tượng tiêu cực trong việc
quản lý và tổ chức lễ hội. Rất nhiều ngôi chùa giả đã được xây dựng nhằm thu
tiền của du khách một cách bất hợp pháp, các hiện tượng bắt chẹt khách hành
hương, buôn thần bán thánh…đã khiến rất nhiều du khách bất bình. Trong
thời gian tới chính quyền địa phương cần phải phối hợp với các cơ quan ban
nghành có liên quan có những biên pháp để giải quyết các vấn đề bức súc đó
- 28 -
để cho lễ hội chùa Hương sẽ ngày càng thu hút dược nhiều khách du lịch hơn.
PHẦN III
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THU HÚT KHÁCH ĐẾN
VỚI CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN
Lễ hội là những sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của
cộng đồng. Thông qua lễ hội, có thể hiểu được giá trị tinh thần và những triết
lý sâu sắc của nền văn hoá của một quốc gia. Vì lẽ đó, lễ hội, nhất là lễ hội
truyền thống đang được nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đã đang coi
là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng phục vụ phát triển du lịch và
một sản phẩm của loại hình du lịch văn hoá trong chiến lược phát triển du lịch
của mình.
Thực tế những năm gần đây cho thấy lễ hội Việt Nam nhất là lễ hội dân
gian truyền thống đã và đang có sức thu hút rất lớn. Các lễ hội nổi tiếng của
ba miền đất nước như: Chùa Hương, Phủ Giầy, Hòn Chén, Tháp Bà, Núi
Bà....hàng năm đã thu hút hàng triệu khách hành hương.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là cần phải khai thác lễ hội như thế nào để vừa
phục vụ được phát triển du lịch, vừa bảo tồn được những giá trị chuẩn xác của
lễ hội dân gian truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết ta cần phải xem xét các xu hướng mới của lễ hội.
Lễ hội hiện nay không bó hẹp trong phạm vi một địa phương nói chung
mà toả sang các vùng lân cận trở thành lh của một vùng thậm chí có tính chất
toàn quốc.
Số lượng người đi trẩy hội ngày càng đông, người nơi khác đông hơn
- 29 -
người sở tại, thành phần trẩy hội cũng khác trước, ngày xưa người đi trẩy hội
chủ yếu là bà con nông dân thì nay cán bộ, thanh thiếu niên, học sinh sinh
viên, việt kiều tham dự lễ hội rất đông.
Không gian và thời gian của các lễ hội cũng rộng hơn và dài hơn. bên
cạnh những hoạt động mang tính truyền thống có sự tham gia của lực lượng
văn nghệ chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp và có sự hỗ trợ của các
phương tiện biểu diễn đẹp và phong phú hơn.
Các nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh đang trở thành nhu cầu lớn hơn,
ngoài nhu cầu tâm linh ra con người còn có nhu cầu tìm hiểu cảnh sắc, nnghi
thức trình tự của tế, rước, nhu cầu ăn uống và mua hàng lưu niệm cũng tăng
lên so với trước.
Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá đặc sắc của dân tộc. đối với con người,
lễ hội là sự tổng hợp uyển chuyển của cái linh thiêng và trần thế (lễ và hội).
đây là một không gian mà trong tâm thức của nhiều người vừa rất thực rất
đời và rất linh thiêng. Lễ hội tạo ra sự đồng cảm, đây là dịp để mỗi người
tưởng nhớ đến ccông đức của các vị anh hùng dân tộc, những người có công
với đất nước, và cũng là dịp để người dân thể hiện sự tự do tín ngưỡng và
chiêm ngưỡng các nghi thức thể hiện nét truyền thống vh đẹp của mỗi vùng
trong đất nước. Là dịp để vui chơi giải trí và ở đó con người tìm thấy cho
mình một không gian một khoảng thời gian ít nhieèu có tính thăng hoa và
khác với cuộc sống đời thường.
Đối với du khách, lễ hội là một chỉnh thể thống nhất đa dạng, du khách
có thể được xem cách tổ chức các lễ hội các vai diễn, trình tự rước tế, cách
trang phục và được hiểu biết về cội nguồn lịch sử của nó. đến với các lễ hội
cũng là đến với các danh lam thắng cảnh, các di tích, được thưởng thức nhiều
giá trị văn hoá tổng hợp bởi vì hầu hết các lễ hội đều diễn ra ở các điểm đó.
- 30 -
Vì vậy các lễ hội có khả năng thu hút khách du lịch rất lớn.
Nói đến các điều kiện để thu hút khách du lịch đến với các lễ hội thì
ngoài những điều kiện để phát triển du lịch và du lịch văn hoá nói chung, đối
với loại hình du lịch lễ hội chúng ta cần phải thấy rằng :
Không thể quan niệm đơn giản rằng cứ có lễ hội rồi là chỉ cần tổ chức
đưa khách đến nữa là xong, hoặc cũng không thể tuỳ tiện nghĩ rằng phải lập
kế hoạch đưa lễ hội vào các chương trình du lịch bằng cách tái diễn lại lễ hội
phục vụ du khách.
Dù muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận rằng du lịch là một
phạm trù độc lập với lễ hội. Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ
thuật truyền thống phản ánh lại chính cuộc sống vật chất và tâm linh của một
cộng đồng. Những giá trị về mặt văn hoá của lễ hội chỉ được xác định trong
một không gian lịch sử nhất định, đối với một cộng đồng nhất định, nếu đưa
ra khỏi không gian và phạm vi cộng đồng đó, lễ hội sẽ mất đi những giá trị
vốn có của nó. Điều này hại hơn là nó sẽ mất đi dần giá trị đối với ngay bản
thân cộng đồng.
Lễ hội không thể “đóng gói để bán” hàng ngày cho du khách, thực ra đối
với du khách, lần đầu có thể thấy mới lạ và hấp dẫn, nhưng nếu làm như vậy
một cách đều đặn thường xuyên thì về lâu dài du khách cũng khôngcòn thấy
hấp dẫn, hứng thú nữa. Cứ hình dung rằng, hễ du khách đến Việt Nam thì lại
được xem lễ hội chọi trâu, bất cứ thời gian nào. không khác gì đi xem một vở
diễn. Như vậy tính hấp dẫn sẽ bị làm thông dụng hoá đi, cho dù vở diễn có
đặc sắc đến đâu.
Ở đây, chúng ta không lầm lẫn giữa việc giới thiệu các sản phẩm đặc sắc
của nền văn hoá với những nghi thức của một lễ hội. Nếu như hát quan họ
(mặc dù có hội chính), hay hát ca trù có thể tổ chức để giới thiệu cho du
khách bất cứ lúc nào, giống như một thứ hàng hoá (có thể là hàng hoá đặc
- 31 -
biệt), thì ngược lại lễ hội là một dạng hoạt động văn hoá đặc thù không thể
làm được như vậy. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã không phải vì du lịch mà khôi
phục phát triển và thực tế cũng chưa nhờ du lịch mà tồn tại.
Như vậy, để khai thác lễ hội phục vụ cho phát triển du lịch cần chú ý
không được phá vỡ không gian lịch sử của nó.
Điều quan trọng thứ hai, khi khai thác lễ hội phục vụ du lịch là không
được can thiệp vào hình thức cũng như nội dung của lễ hôị.
Lễ hội với những giá trị của nó tự thân đã có sức thu hút du khách thâp
phương. Du lịch không nên can thiệp quá nhiều vào bản thân lễ hội, không
nên sửa đổi, cải biên, hoặc bổ xung những yếu tố mới vào lễ hội. Chỉ nên lợi
dụng thời điểm tổ chức lễ hội để tuyên truyền quảng bá nó như một sự kiện,
làm xúc tác để thu hút thêm du khách đến. Nhờ đó, du lịch có thể bán các dịch
vụ của ngành như lưu trú, hàng lưu niệm, các dịch vụ vận chuyển....
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đã và đang tổ chức thực hiện việc
khôi phục lại một số lễ hội tiêu biểu nhằm thu hút khách du lịch trong nước và
- 32 -
quồc tế đến với các lễ hội nhiều hơn nữa.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam du lịch văn hoá ngày càng
phát triển. Đây là thể loại du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định,
đồng thời nó là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của toàn
nghành du lịch. Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của Việt Nam là phải
làm sao khai thác tốt loại hình du lịch văn hoá. Hoạt động du lịch càng phát
triển thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc. Vai trò và ý
nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết sức quan trọng, nó
góp phần thúc đẩy cho du lịch vươn lên tạo đà cho du lịch ngày một phát
triển, đem lại hiệu quả to lớn cho nền kinh tế.
Để phát triển du lịch văn hoá thì cần phải có tài nguyên văn hoá, đây là
yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hoá với những đặc điểm kỳ diệu, thú vị, đa
dạng, độc đáo sẽ ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch đến thăm quan
nhằm thoả mãn trí tò mò cũng như phần nào đaps ứng được lòng mong muốn
hiểu biết sâu rộng về cái hay, cái đẹp của mỗi vùng mỗi địa phương.
Trong những nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển du lịch văn hoá
thì các lễ hội dân gian ngày càng được các du khách quan tâm và nuốn tìm
hiểu. Khai thác tổ chức tốt các lễ hội dân gian cũng là một trong những biện
- 33 -
pháp để giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và phát triển du lịch bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
********
1- Tạp chí du lịch Việt Nam các số năm 2000, 2001.
2- Bài giảng kinh tế du lịch (ĐHKTQD).
3- Bài giảng văn hoá du lịch (ĐHKTQD).
4- Sách văn hoá Việt Nam – tổng hợp năm 1989-1995 (ban văn hoá nghệ
thuật Trung Ương).
5- Việt Nam di tích – thắng cảnh 1991
6- Sách cẩm nang hướng dẫn du lịch ( NXB văn hoá thông tin-2000).
7- Hỏi và đáp về văn hoá Việt Nam (NXB văn hoá dân tộc – tạp chí văn hoá
nghệ thuật).
- 34 -
8- Hội hè Việt Nam (NXB văn hoá dân tộc).
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
PHẦN I: LỄ HỘI DÂN GIAN, TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM ................................... 5
I. LỄ HỘI DÂN GIAN. ............................................................................................ 5
II. TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM. .... 7
1. Tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam. ................................................ 7
2. Đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam. ....................................................... 7
PHẦN II: LỄ HỘI DÂN GIAN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM ......................................................... 13
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ. ................................ 13
II. VAI TRÒ CỦA CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM. ............................................................... 16
III. MỘT SỐ LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM. ......................... 19
1. Lễ hội Đền Hùng. ........................................................................................... 19
2. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. ................................................................................ 22
3. Hội chùa Hương ............................................................................................. 25
PHẦN III: NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THU HÚT KHÁCH ĐẾN
VỚI CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN ................................................. 29
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 33
- 35 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 34
- 36 -