Lớp Giáp cổ
(Palaeostraca) hay Miệng
đốt (Merostomata)
Có 2 bộ là bộ Giáp lớn và bộ Đuôi kiếm.
1. Bộ Giáp lớn (Gigantostraca)
Hiện biết có khoảng 200 loài hoá thạch. Đây là
chân khớp có kích thước lớn, cơ thể dài tới 2m,
thoạt nhìn giống với bò cạp khổng lồ. Cơ thể có
sơ đồ chung của có kìm: Phần đầu ngực có mắt
đơn và mắt kép ở phía lưng, có 6 đôi phần phụ
ở phía bụng (1 đôi kìm và 5 đôi chân nghiền có
tấm gốc dùng để nghiền mồi).
Sáu đốt bụng trước có phần phụ là nắp sinh dục
trên đốt thứ 8 và các đôi chân mang ở các đốt
tiếp theo (thường thiếu đôi chân trên đốt thứ 9).
Lối sống ca giáp lớn ở vùng biển nông, bơi
chậm hay bò dưới đáy, một số sang nước ngọt
hay chuyển lên trên cn. Thức ăn của chúng
là các động vật không ơng sng như
giáp xác, thân mềm, trùng ba thùy sống gần
đó (hình 9.6B).
2. Bộ Đuôi kiếm (Xiphosura)
Xuất hiện ở đầu đại Cổ sinh, hiện nay chỉ còn 5
loài. Ở Việt Nam thường gặp 2 loài sam và so,
được coi là hoá thạch sống.
Đặc điểm cấu tạo: Cơ thể đuôi kiếm có phần
đầu ngực và bụng (ứng với bụng trước) tập
trung thành 2 khối khớp động với nhau và tận
cùng là gai đuôi (ứng với bụng sau) cũng khớp
động với bụng. Trên giáp đầu ngực có mắt đơn
và mắt kép, trên giáp bụng còn dấu vết của cơ
bên trong. Đầu ngực mang 6 đôi phần phụ là đôi
kìm ngắn và 5 đôi chân dài, tận cùng của chân
là kìm (tr đốt cuối). Mỗi chân đều có tấm
nghiền ở gốc. Chân vừa cơ quan chuyn vận
vừa là cơ quan bắt và nghiền mồi. Chân cuối là
điểm tựa khi Đuôi kiếm đào đất, hang hốc để đ
trứng. Bụng có 6 đôi phần phụ là nắp sinh dục
hình tấm trên đốt thứ 8, che lỗ sinh dục ở gốc và
5 đôi chân mang. Chân mang là phần phụ 2
nhánh, dẹp thành tấm, có mang sách xếp dưới
tấm ngoài... Chân mang va có chức năng bơi
(đuôi kiếm bơi ngửa) vừa có chức năng hô hấp.
Gai đuôi khoẻ, đầu ngọn gai tựa vào cát khi con
vật di chuyn. Nội quan của đuôi kiếm còn gi
nhiều đặc điểm của tổ tiên: cơ quan bài tiết có 4
đôi tuyến háng (một dạng biến đổi của hậu đơn
thận, hệ thần kinh bậc thang kép (hình 9.8).
Đuôi kiếm sống ở vùng nước biển nông, độ sâu
phổ biến là 4 10m, đôi khi chúng phân bố sâu
vào vùng cửa sông. Thức ăn của chúng là trai,
ốc, giun đốt, động vật không xương sống khác
sống ở đáy và tảo. Hiện nay còn lại 5 loài
Xiphosura polyphemus phổ biến ở vùng biển
bắc và Trung M, Tachypleus gigas ở vịnh Thái
Lan, T. tridentatus phân bkhá rộng, T.
hoeveni ở quần đảo Molucca. Ở vùng biển nước
ta thường gp loài Carcimoscorpius
rodunticauda Tachypleus tridentatus (h
Xiphosuridae). o tháng 7 - 8 sam lên bãi cát
để sinh sản. Sam đực bám vào sam cái, sam cái
đào hố đẻ trứng, sam đực tưới tinh dịch thụ tinh.
Trứng lớn 1,5 – 3,3mm, giàu noãn hoàng, được
cát giữ độ ẩm và nhiệt độ. Sau khoảng 6 tuần
thì trứng nthành u trùng giống trưng thành
nhưng thiếu gai đuôi. Sau nhiều lần lột xác hình
thành sam trưởng thành.
Đuôi kiếm được dùng làm phânn ở một s
vùng biển châu Mỹ. Ở Đông Nam Á một số loài
được dùng làm thức ăn. Gần đây máu của loài
sam Tachypleus gigas đưc dùng để chế một
loại thuốc th có g tr thương mại cao
được gọi LAL (limulus amoebocyte lysate)
dùng để kiểm tra nội độc tố do vi khuẩn gram
âm sống trong ruột tiết vào máu (thuốc này