Lớp Nhện biển

(Pantopoda)

Lớp này còn có tên gọi là lớp Nhện chân trứng

(Pycnogonida). Kích thước cơ thể thay đổi. Có

loài lớn tới 30cm sống ở đáy bùn của vùng Bắc

cực, trong khi đó nhiều loài có kích thước nhỏ

cỡ vài mm. Cơ thể chia làm 3 phần là đầu, ngực

và bụng.

Đầu kéo dài về phía trước thành vòi, có lỗ

miệng ở tận cùng, phần phụ đầu gồm có đôi

kìm, đôi chân xúc giác và đôi chân mang trứng,

có 2 đôi mắt trên nhú mắt. Ngực thường 4 đốt

(có thể tới 5 – 6 đốt), mỗi đốt có một đôi chân.

Bụng thường tiêu giảm, tuy nhiên nhện biển hoá

thạch có phần bụng có 7 đốt. Một số loài đầu và

ngực dính với nhau tạo thành phần đầu

ngực. Thân bé nên một số phần của nội

quan nằm trong các đốt gốc chân (các nhánh

của ruột giữa, một phần của tuyến sinh dục...)

Thức ăn của nhện biển là các loài thuỷ tức,

động vật hình rêu, hải qùy, sứa và thân lỗ.

Phân cắt trứng có sai khác nhau: Đối với nhện

biển trứng bé, ít noãn hoàng thì phân cắt hoàn

toàn, đều, tương tự như phân cắt trứng của

động vật giáp xác. Hình thành ấu trùng

protonymphon có 3 đôi phần phụ và có một số

cơ quan tạm thời như tuyến tơ và tuyến độc ở

đốt gốc của kìm, sống ký sinh ngoài. Sau đó lột

xác sinh trưởng và biến đổi thành con trưởng

thành. Đối với nhện biển trứng lớn giàu noãn

hoàng, thường phân cắt bề mặt, ấu trùng phát

triển trên cơ thể mẹ, bám vào bao trứng hay

chân mang trứng nhờ vào tuyến tơ.

Hiện biết khoảng 500 loài, phần lớn sống dưới

triều. Có khoảng 40 loài sống ở độ sâu 2.000m,

có kích thước lớn hơn, chân dài hơn nên

thường bị nước cuốn xa đáy. Nhện biển xuất

hiện từ Cổ sinh, có nhiều đặc điểm của hình

nhện và một số đặc điểm của giáp xác như

hình dạng của ấu trùng và sự biến thái.

Tuy nhiên chúng cũng có những đặc điểm

riêng như có vòi, đốt ngực và bụng không cố

định nên khá xa lạ với giáp xác và có kìm. Nhiều

người cho rằng nhện biển là một phân ngành

khác của ngành chân khớp.

Hương Thảo (theo giáo trình ĐVKXS)