
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng và hạnh phúc là một trong những chiến
lược quan trọng của chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta giai đoạn hiện
nay. Trong bối cảnh xã hội đang có nhiều biến đổi, cùng với quá trình hiện đại hóa
và hội nhập, nhiều vấn đề đang đặt ra về việc thực hiện các quy định pháp luật hôn
nhân và gia đình, nhất là ở các địa phương vùng miền núi và dân tộc thiểu số.
Thực hiện Chính sách Pháp luật về Hôn nhân và gia đình là một trong những
yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo các yêu cầu tuân thủ luật pháp về hôn nhân và
gia đình trong đời sống xã hội. Với đặc thù của một quốc gia có nhiều thành phần
tộc người, điều kiện kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương còn gặp khó khăn thì việc
thực hiện chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nhiều địa phương gặp
nhiều trở ngại, nhất là ở các huyện miền núi và vùng dân tộc thiểu số.
Huyện Ba Tơ thuộc 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP ngày 27
/12/ 2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo của cả nước và thuộc 6 huyện nghèo ở huyện miền núi của tỉnh Quảng
Ngãi theo quyết định 135/QĐ-UBND ngày 13/02/2017 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi phê duyệt kế hoạch thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo
bền vững tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016 – 2020. Trong những năm gần đây, việc triển
khai và thực hiện các chính sách, pháp luật trên địa bàn huyện đã đạt được nhiều thành
tựu đáng ghi nhân. Nhiều bộ luật và các quy định về chính sách đã được triển khai thực
hiện, mang lại những hiệu quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Với sự quan tâm của Nhà nước và các Bộ, Ngành, việc thực hiện chính sách pháp
luật trong cả nước nói chung đã có những bước đổi mới, đạt được nhiều kết quả đáng khích
lệ trong việc mở rộng quy mô tuyên truyền, tăng cơ hội tiếp cận pháp luật cho mọi người
dân. Đối với huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, việc thực hiện chính sách pháp luật có chuyển
biến đáng kể qua những đợt khảo sát, qua các cuộc ra quân tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật tại các xã trên địa bàn huyện. Nhờ những hoạt động tuyên truyền đó đã có những
chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng nhận thức trong nhân dân, việc tuân thủ luật pháp thể

1
hiện cụ thể là: Số vụ nhân dân vi phạm pháp luật, năm sau thấp hơn năm trước, tình trạng
nhân dân khiếu kiện vượt cấp không có, các vụ trộm cắp tài sản, tài nạn giao thông hằng
năm đều giảm đáng kể, vụ việc vợ chồng ly hôn ngày càng ít, không có vụ bạo lực gia đình
trong các năm gần đây.
Tuy nhiên, do đặc thù thực tế của địa phương với điều kiện kinh tế - xã hội còn
nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, việc thực hiện pháp luật còn bộc lộ nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng với yêu cầu của cấp lãnh đạo địa phương trong tình hình mới hiện
nay. Chất lượng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở địa phương nhìn chung
chưa cao, nội dung, hình thức tuyên truyền chưa đa dạng và phong phú. Theo báo cáo
của các cơ quan Tư pháp huyện Ba Tơ qua các năm gần đây thì chất lượng tuyên truyền
có nhiều khâu còn yếu kém cả về số lượng người nghe và chất lượng nhân dân tiếp thu
còn hạn chế, có lúc có nơi người tham gia nghe việc tuyên truyền luật pháp chưa đúng
đối tượng và thành phần theo yêu cầu, chủ yếu thường đến nghe là người già và trẻ em.
Có rất nhiều nguyên nhân đến vấn đề này, song có một nguyên nhân cơ bản đó là công
tác thực hiện chính sách phổ biến tuyên truyền pháp luật còn nhiều bất cập, đơn điệu
từ Cán bộ báo cáo viên, thiếu đồng bộ trong sự quan tâm của lãnh đạo cấp ủy Đảng,
Mặt trận, các hội Đoàn thể ở các cơ sở xã, thị trấn và không có hỗ trợ về mặt vật chất
cho người ngồi nghe phổ biến tuyên truyền pháp luật, chưa linh hoạt về thời gian rỗi
thích hợp trong nhân dân dẫn đến chất lượng và hiệu quả tuyên truyền tiếp thu pháp
luật chưa cao.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên là cần thiết phải có những giải
pháp thực hiện chính sách pháp luật mang tính lâu dài và phù hợp với hoàn cảnh kinh
tế - văn hóa - xã hội của địa phương và theo hướng phát triển chung của huyện Ba
Tơ và tỉnh Quảng Ngãi.
Xuất phát từ cơ sở yêu cầu thực tiễn đó tại địa phương nên em chọn đề tài luận
văn: “Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình tại huyện Ba Tơ, tỉnh
Quảng Ngãi”, với hy vọng góp phần giải quyết những bất cập, hạn chế, yếu kém trong
thực hiện chính sách pháp luật Luật Hôn nhân và gia đình và một số chính sách pháp
luật khác… để từ đó nâng cao chất lượng thực hiện có hiệu quả trong chất lượng dân

2
số và tâm vóc người dân ở địa phương trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo
ngày càng được nâng cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay vẫn luôn luôn
được các ngành, các cấp, địa phương quan tâm và chú trọng trong thời gian qua đã có
rất nhiều bài viết trên các sách báo, tạp chí, bài luận văn, đề tài nghiên cứu, công trình
khoa học nghiên cứu về vấn đề thực hiện chính sách pháp luật hôn nhân và gia đình,
có thể chia các công trình nghiên cứu thành ba nhóm sau:
Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu như: Trương Kim Oanh: "Hòa giải trong tố tụng dân sự", Luận văn
thạc sỹ Luật học “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận
án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005. Với
đề tài này, tác giả đã nghiên cứu các quy định của pháp luật HN&GĐ về chế độ tài
sản của vợ chồng. Trong đó có các nội dung chính sau: Lý luận chung về chế độ tài
sản của vợ chồng; khái quát chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử; chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000;
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ
năm 2000. “Chế định cấp dưỡng trong Luật HN&GĐ – Vấn đề lý luận và thực tiễn”,
luận án tiến sỹ Luật học của Ngô Thị Hường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006.
Đề tài này, tác giả đã nghiên cứu tổng quát các quy định của pháp Luật HN&GĐ
liên quan đến chế định cấp dưỡng. Trong đó, tác giả cũng đưa ra những ý kiến nhằm
hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ về cấp dưỡng. “Xác định cha, mẹ, con
theo Luật HN&GĐ Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận án tiến sĩ Luật học
của Nguyễn Thị Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận án này tác giả phân
tích những cơ sở lý luận và thực tiễn trong xác định cha, mẹ, con. “Xác định tài sản
của vợ chồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Hồng Hải, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
Nhóm giáo trình, sách: Trong nhóm này phải kể đến một số giáo trình như:
Tập bài giảng Luật HN&GĐ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Giáo

3
trình Luật HN&GĐ, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007; Giáo trình Luật HN&GĐ, của Đại học Huế, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2003. Về sách, có thể kể tới một số sách chuyên sâu như: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000, của hai tác giả là Nguyễn Văn Cừ và Ngô
Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Bùi Văn Thuấn (2002), “Phụ nữ
và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng và chung”, Nhà
xuất bản Phụ nữ; Quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập quốc tế, của hai tác giả Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Nxb Tư
pháp, 2006; Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật HN&GĐ Việt Nam, của
Tiến sĩ Nguyên Văn Cừ, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008; Bình luận khoa học Luật
HN&GĐ, của tác giả Nguyễn Ngọc Diện, tập 1 và tập 2, Nxb Trẻ, 2002.
Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc
nhóm này được đề cập trên một số tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án
nhân dân (TAND), Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp. Trong đó có thể kể đến bài viết của Tiến sĩ Đặng Quang Phương
(1999), "Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
các bản án", Tạp chí TAND số 7, 8; Th.S Nguyễn Văn Cừ (2000), “Quyền sở hữu
của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000”, Tạp chí Luật học số 4; Trần Thị Quốc
Khánh (2004), “Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc đến hòa giải ở sơ sở ngày
nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11; Tiến sĩ Nguyễn Văn Cừ - Trường Đại học
Luật Hà Nội: “Một số suy nghĩ về nguyên tắc xác định cha, mẹ và con trong gia thú
theo pháp luật Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Luật học, số 5/1999; Bài viết của Tiến
sĩ Lê Thu Hà – Học viện tư pháp: “Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, cho con”,
đăng trên Tạp chí Nghề Luật, số 6/2006; Bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Phương Lan
– Trường Đại học Luật Hà Nội: “Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp
luật Việt Nam” Tạp chí Luật học, số 3/2004;..Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng
trên các báo điện tử như: thongtinthuvienphapluat.wordpress.com;vnexpress.net;
vietnamnet.vn…

4
Nhóm xây dựng chính sách có liên quan như đến hôn nhân và gia đìnhbao
gồm các nghiên cứu về văn bản, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật thực hiện chính sách hôn nhân gia đình. Nhằm thực hiện Nghị định
126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân
và gia đình; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng Đề án “Hoàn thiện thể
chế trong lĩnh vực văn hóa, gia đình của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch đã được phê
duyệt tại Quyết định số 553/QĐ-BVHTTDL ngày 24/02/2016’’.
Mục đích của Đề án nhằm đánh giá tổng thể hệ thống pháp luật về văn hóa,
gia đình, từ đó kiến nghị, đề xuất nội dung hoàn thiện các quy định của pháp luật
trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thiết chế văn hóa phù hợp với bối cảnh kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, từng bước thu hẹp khoảng
cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các
giai tầng xã hội, phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng
môi trường văn hóa, thúc đẩy phát triển văn học nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu của
thời đại.
Xây dựng Đề án bám sát chỉ đạo tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/06/2014
của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ‘‘về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước’’[ 3, tr.1]; xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, nội dung của Đề án đảm bảo
định hướng của Đảng, Nhà nước và nhu cầu thực tế, đảm bảo tính khả thi. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo góp ý, xây dựng đề án, tổ
chức Ban chỉ đạo thực hiện đề án do lãnh đạo Bộ VHTTDL làm Trưởng ban; thành
viên là các đơn vị: Vụ Pháp chế, Cục Di sản văn hóa, Cục Điện ảnh, Cục Hợp tác
quốc tế, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Cục Nghệ thuật biểu diễn, Cục Văn
hóa cơ sở, Cục Bản quyền tác giả, Vụ Kế hoạch, Tài chính, Vụ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường, Vụ Thư viện, Vụ Gia đình và Vụ Pháp chế.
Ngày 29/3/2018, Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VHTTDL) đã tổ chức Hội thảo Góp
ý Dự thảo Nghị định quy định về “Gia đình văn hóa”, “Khu dân cư văn hóa”.