BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRƢƠNG THỊ MỸ HẬU
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN
(KHẢO SÁT TRÊN BÁO TUỔI TRẺ VÀ BÁO NHÂN DÂN)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2025
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRƢƠNG THỊ MỸ HẬU
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN
(KHẢO SÁT TRÊN BÁO TUỔI TRẺ VÀ BÁO NHÂN DÂN) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Lê Thị Lan Anh 2. TS. Nguyễn Thị Hƣơng Lan
HÀ NỘI – 2025
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu thống kê là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết
luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Trƣơng Thị Mỹ Hậu
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hoàn thành luận
án này là một chặng đường đầy thử thách nhưng cũng vô cùng ý nghĩa. Và tôi hiểu
rằng mình không thể đi đến đích nếu không có sự giúp đỡ, động viên từ những người thân yêu, thầy cô và bạn bè.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Thị Lan Anh và
TS. Nguyễn Thị Hương Lan – những người đã tận tình chỉ dẫn, truyền đạt kiến thức
quý báu và không quản ngại thời gian để hỗ trợ tôi hoàn thiện luận án này. Sự chỉ bảo, tin tưởng và động viên của hai cô đã giúp tôi có thêm động lực, định hướng rõ ràng
hơn trong quá trình nghiên cứu và phát triển khả năng nghiên cứu độc lập.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, những người đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm
và tạo nền tảng học thuật vững chắc cho tôi. Những bài giảng và góp ý của quý thầy cô không chỉ giúp tôi hoàn thành nghiên cứu mà còn là hành trang quý giá trên con đường
sự nghiệp sau này. Tôi xin cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Quy Nhơn, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình của tôi – những người luôn
yêu thương, ủng hộ, động viên, chia sẻ khó khăn với tôi trong quá trình học tập và
thực hiện luận án.
Trân trọng!
Hà Nội, tháng 9 năm 2025
Tác giả luận án
Trƣơng Thị Mỹ Hậu
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
0.1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1 0.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 2
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
0.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 7
0.5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ................................................................... 7 0.6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ................................................................... 7
0.7. Cấu trúc của luận án ................................................................................................. 8
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN ..... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 9 1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ đánh giá theo quan điểm
của Ngôn ngữ học chức năng hệ thống ................................................................... 9
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí .............. 20
1.2. Cơ sở lí luận ........................................................................................................... 29
1.2.1. Ngôn ngữ học chức năng hệ thống và ngôn ngữ đánh giá ......................... 29
1.2.2. Lí thuyết ngôn ngữ đánh giá ....................................................................... 31
1.2.3. Lí thuyết về diễn ngôn bình luận báo chí ................................................... 47
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................ 53
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN BÁO CHÍ .......................................................... 55
2.1. Kết quả khảo sát chung về Thái độ ..................................................................... 55
2.2. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................................... 56
2.2.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc
trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................... 56
2.2.2. Sự thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ........................................................................................................... 61
2.3. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................................... 72 2.3.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................... 72 2.3.2. Sự thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .... 78
2.4. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................................... 90
iv
2.4.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thẩm giá
trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................... 90
2.4.2. Sự thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
và Nhân dân ........................................................................................................... 94
2.5. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thang độ các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ........................................................ 99
2.5.1. Kết quả khảo sát Thang độ trong các diễn ngôn bình luận
có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ................................................... 99 2.5.2. Sự thể hiện Thang độ trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ............................................................................ 101
2.6. Đặc trƣng ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo chí ......................................................................................................... 112
Tiểu kết chƣơng 2.............................................................................................. 122
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ GIỌNG ĐIỆU TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN BÁO CHÍ ........................................................ 123
3.1. Kết quả khảo sát chung về Giọng điệu.............................................................. 123
3.2. Tiểu hệ thống Thu hẹp không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ................................................................. 127
3.2.1. Giọng điệu Từ chối trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
và Nhân dân ......................................................................................................... 127
3.2.2. Giọng điệu Tuyên bố trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
và Nhân dân ........................................................................................................ 137
3.3. Tiểu hệ thống Mở rộng không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ................................................................. 148
3.3.1. Giọng điệu Trao đổi trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
và Nhân dân ......................................................................................................... 148
3.3.2. Giọng điệu Quy gán trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ......................................................................................................... 152
3.4. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thang độ các diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................................. 157 3.4.1. Kết quả khảo sát Thang độ trong các diễn ngôn bình luận đa thanh
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ............................................................................ 157 3.4.2. Sự thể hiện Thang độ nhấn mạnh trong các diễn ngôn bình luận
đa thanh trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ............................................................. 161
3.4.3. Sự thể hiện Thang độ giảm nhẹ trong các diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ............................................................. 165
v
3.5. Đặc trƣng ngôn ngữ đánh giá thể hiện Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận báo chí........................................................................................................ 167
Tiểu kết chƣơng 3.............................................................................................. 173
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 174 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................... 178
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 179
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NNĐG: Ngôn ngữ đánh giá
SFL: Systemic Functional Linguistics (Ngôn ngữ học chức năng hệ thống)
ESP: the English for Specific Purposes (tiếng Anh theo mục đích chuyên biệt)
BHXH: bảo hiểm xã hội
THCS: Trung học cơ sở
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
Sở GD-ĐT TP.HCM: Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh
CS ĐS NLĐ: Chăm sóc đời sống người lao động trong dịch Covid-19
CC CD: Người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid-19
PT DL: Phát triển du lịch thời Covid-19
GD: Giáo dục thời Covid-19
XD: Vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid-19
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
NXB: Nhà xuất bản
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 0.1. Thống kê chủ đề/ nội dung trong các diễn ngôn bình luận trên báo
Nhân dân và Tuổi trẻ (từ tháng 12/2021-6/2022) ........................................ 5 Bảng 0.2. Số lượng các diễn ngôn bình luận được sử dụng làm nguồn ngữ liệu ........ 6
Bảng 1.1. Tóm tắt ba hướng nghiên cứu ngôn ngữ đánh giá ..................................... 12
Bảng 1.2. Cảm xúc tiềm ẩn ........................................................................................ 33
Bảng 1.3. Hệ thống Cảm xúc ...................................................................................... 34 Bảng 1.4. Ví dụ nguồn từ vựng hiện thực hóa Phán xét ........................................... 35
Bảng 1.5. Ví dụ nguồn từ vựng hiện thực hóa Thẩm giá ........................................... 36
Bảng 1.6. Khả năng tăng dần của ý nghĩa Thái độ .................................................... 41
Bảng 1.7. Khả năng phân cấp của các giá trị trong Giọng điệu ................................. 42 Bảng 2.1. Kết quả khảo sát Thái độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ ..... 55
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát Thái độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân ........ 55
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ ......................................................................... 60
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn
bình luận trên báo Nhân dân ...................................................................... 61
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Phán xét trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ ......................................................................... 77
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Phán xét trong diễn ngôn
bình luận trên báo Nhân dân ...................................................................... 77
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ ......................................................................... 93
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn
bình luận trên báo Nhân dân ...................................................................... 93
Bảng 2.9. Phân tích ví dụ về kết cấu câu thể hiện Giá trị ở báo Tuổi trẻ .................. 94
Bảng 2.10. Phân tích ví dụ về kết cấu câu thể hiện Giá trị ở báo Nhân dân ............... 97 Bảng 2.11. Kết quả thống kê Thang độ trong các diễn ngôn chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................100
Bảng 2.12. Kết quả khảo sát chủ thể đánh giá trong diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................113
Bảng 3.1. Tần suất của các giọng điệu trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................125
Bảng 3.2. Phân tích Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận “Mở cửa trường học
an toàn” trên báo Nhân dân .....................................................................171
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Hình 1.1. Tóm tắt hướng nghiên cứu “lập trường” (Stance) [phỏng theo 2] ............. 10
Hình 1.2. Tóm tắt hướng nghiên cứu “Đánh giá” (Evaluation) [phỏng theo 3] ........ 11
Hình 1.3. Tóm tắt hướng nghiên cứu “Đánh giá” (Appraisal) [phỏng theo 4] .......... 12 Hình 1.4. Các tầng ngôn ngữ và siêu chức năng của ngôn ngữ [4;309] .................... 30
Hình 1.5. Hệ thống Thái độ (phỏng theo [4]) ............................................................ 32
Hình 1.6. Ranh giới của Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá [4;45] .............................. 37
Hình 1.7. Hệ thống Giọng điệu [4;134] ..................................................................... 38 Hình 1.8. Hệ thống Thang độ [4;154] ........................................................................ 42
Hình 1.9. Các yếu tố trong quá trình giao tiếp của R. Jakobson ............................... 51
Hình 1.10. Quá trình giao tiếp trong hoạt động báo chí .............................................. 52
Hình 2.1. Tỉ lệ xuất hiện của các giá trị trong hệ thống Thái độ ............................... 56
Hình 2.2. Tỉ lệ phân cực trong hệ thống Thái độ ....................................................... 56 Hình 2.3. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ ... 57
Hình 2.4. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân ..... 59
Hình 2.5. Tỉ lệ các phương tiện ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc
trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ......................... 61 Hình 2.6. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc ....................................................................... 71
Hình 2.7. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại Cảm xúc .................................................. 71
Hình 2.8. Tỉ lệ phân cực của Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ ... 73
Hình 2.9. Tỉ lệ phân cực của Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân ....... 75
Hình 2.10. Tỉ lệ các phương tiện ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ................................................................... 78
Hình 2.11. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại Phán xét .................................................. 89
Hình 2.12. Tỉ lệ phân cực của Phán xét ....................................................................... 89
Hình 2.13. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ ..... 90
Hình 2.14. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân .... 92
Hình 2.15. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại Thẩm giá ................................................. 98
Hình 2.16. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá ...................................................................... 98 Hình 2.17. Tỉ lệ tiểu nhóm trong hệ thống Thang độ ................................................100 Hình 2.18. Tỉ lệ phân cấp của tiểu hệ thống Lực trong các diễn ngôn chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................100
Hình 3.1. Tỉ lệ giọng điệu đơn thanh và đa thanh trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân .................................................................123
Hình 3.2. Tỉ lệ giọng điệu Thu hẹp và Mở rộng không gian hội thoại
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ................125
Hình 3.3. Tỉ lệ của các giọng điệu trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ .....126
ix
Hình 3.4. Tỉ lệ của các giọng điệu trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân ..126
Hình 3.5. Tỉ lệ sử dụng Thang độ trong các diễn ngôn đa thanh trên báo Tuổi trẻ .....160
Hình 3.6. Tỉ lệ sử dụng Thang độ trong các diễn ngôn đa thanh trên báo Nhân dân ......160
Hình 3.7. Mức độ nhấn mạnh và giảm nhẹ trong diễn ngôn bình luận đa thanh
của báo Tuổi trẻ và Nhân dân ..................................................................161
1
MỞ ĐẦU
0.1. Lí do chọn đề tài
0.1.1. Ngôn ngữ học chức năng hệ thống (Systemic functional linguistics - SFL)
là một hướng tiếp cận ngôn ngữ được phát triển đầu tiên bởi Halliday. Hướng tiếp cận
này ngày càng phổ biến trên toàn thế giới bởi tính khả dụng của nó. Những đặc điểm
nổi bật của SFL khiến nó trở nên hữu ích bao gồm: (1) hệ thống chức năng ba chiều và
ngữ cảnh xã hội: SFL quan tâm ngôn ngữ ở cả ba siêu chức năng (kinh nghiệm, liên nhân, văn bản) và tập trung vào ngữ cảnh xã hội. Đặc điểm này giúp SFL được ứng
dụng trong các nghiên cứu về: giảng dạy ngôn ngữ, phân tích diễn ngôn, truyền thông
và quảng cáo; (2) tính liên ngành: SFL tích hợp với xã hội học, giáo dục, tâm lí, truyền
thông…, áp dụng hiệu quả trong nghiên cứu văn bản chuyên ngành, truyền thông chính trị và dịch thuật; (3) khả năng phân tích các dạng thức ngôn ngữ đa phương tiện: SFL mở rộng phạm vi nghiên cứu sang phân tích ngôn ngữ trong các dạng thức truyền
thông đa phương tiện như video, hình ảnh và âm thanh … Do đó, có thể nói, SFL có
tính ứng dụng rộng rãi cho nhiều lĩnh vực trong xã hội.
0.1.2. Lí thuyết đánh giá (Appraisal Theory) là một lí thuyết phát triển dựa trên
mô hình lí luận của SFL. Lí thuyết này là một cách tiếp cận nhằm mô tả phương thức
ngôn ngữ sử dụng cảm xúc để thương lượng các quan hệ liên nhân. Bộ khung đánh giá
của lí thuyết này là một mô hình chức năng có ý nghĩa liên nhân ở cấp độ ngữ nghĩa
diễn ngôn. Điểm mạnh của nó là khả năng khám phá cách ngôn ngữ thể hiện thái độ,
xây dựng mối quan hệ và ảnh hưởng đến người nghe/ đọc, từ đó cung cấp một cách
tiếp cận sâu sắc và toàn diện để hiểu ngôn ngữ trong bối cảnh thực tiễn. Lí thuyết đánh
giá được sử dụng rộng rãi để phân tích diễn ngôn trong các lĩnh vực khác nhau, từ
chính trị, truyền thông đến giáo dục và văn học. Ngoài ra, lí thuyết này còn rất hữu ích
trong việc thiết kế chương trình giảng dạy ngôn ngữ. Hơn nữa, trong bối cảnh truyền
thông số như hiện nay, lí thuyết đánh giá có thể áp dụng để phân tích các loại hình phức
tạp hơn, bao gồm văn bản, hình ảnh và âm thanh. Chẳng hạn, phân tích cách quảng cáo xây dựng thái độ và cảm xúc để thuyết phục người tiêu dùng, tìm hiểu cách các nội dung
đa phương tiện sử dụng ngôn ngữ để thu hút và ảnh hưởng. Như vậy, lí thuyết đánh giá cung cấp một công cụ phân tích với tính khả dụng cao trong nhiều lĩnh vực để khám phá các vấn đề xã hội và văn hóa thông qua ngôn ngữ.
0.1.3. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, báo chí có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Báo chí là một trong những kênh giúp chúng ta tiếp cận các thông tin trong nước và quốc tế nhanh chóng, tiện lợi về mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế… Đồng thời, báo chí còn giúp chúng ta bày tỏ chính kiến; bộc lộ các quan điểm một cách công khai và chính thức; thể hiện
2
thái độ chính trị đối với các vấn đề thời sự trong và ngoài nước đang diễn ra từng giờ từng phút; cập nhật kịp thời những biến đổi của môi trường, thời tiết, xã hội… Trong sự phát triển đa dạng của báo chí, bình luận là một trong những thể loại quan trọng. Ở xã hội hiện đại ngày nay, với sự bùng nổ thông tin và sự phát triển nhanh chóng của các loại phương tiện truyền thông, đôi khi người đọc có thể hoang mang, bối rối trước các thông tin trái chiều, các ý kiến khác nhau của truyền thông, thì thể loại bình luận có thể định hướng giúp người đọc, tác động đến nhận thức và thay đổi hành vi, tư tưởng của họ về một số vấn đề nào đó. Nếu như các thể loại: tin tức, phóng sự, bút kí… chủ yếu là nêu sự kiện, phản ánh thông tin từ thực tế hiện trường của vụ việc thì bình luận lại thể hiện thái độ rõ ràng trong nội dung thông tin, giúp người viết bày tỏ chính kiến, quan điểm tư tưởng chính trị đối với những vấn đề thời sự. Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thể loại bình luận trên báo chí theo lí thuyết đánh giá, tuy nhiên các công trình ấy mới chỉ là những bài viết về một vấn đề riêng lẻ nào đó trên báo chí chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện về thể loại bình luận trên báo chí theo đường hướng của lí thuyết đánh giá.
Xuất phát từ các lí do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: Đặc điểm ngôn ngữ đánh giá trong thể loại bình luận (khảo sát trên báo Tuổi trẻ và báo Nhân dân). 0.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 0.2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là: làm rõ đặc điểm ngôn ngữ đánh giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân ở 03 phạm trù: Thái độ, Giọng điệu và Thang độ; chỉ ra những tương đồng và dị biệt (nếu có) trong việc lựa chọn ngôn ngữ đánh giá để thể hiện chức năng liên nhân trong các diễn ngôn bình luận ở 02 tờ báo này. Trên cơ sở đó, tìm được một số đặc trưng riêng của ngôn ngữ đánh giá (NNĐG) trong diễn ngôn bình luận báo chí. 0.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nêu trên của luận án được thực hiện qua các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài: lí thuyết về ngôn ngữ đánh giá, lí thuyết
về thể loại và thể loại bình luận báo chí.
- Khảo sát, thu thập ngữ liệu về ngôn ngữ đánh giá trên các báo Tuổi trẻ và
Nhân dân.
- Khảo sát và miêu tả các phạm trù Thái độ, Giọng điệu và Thang độ trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân cùng các nguồn lực ngôn ngữ thể hiện các phạm trù ngữ nghĩa đó.
- So sánh ngôn ngữ đánh giá thể hiện phạm trù Thái độ, Giọng điệu và Thang
độ trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân.
- Chỉ ra đặc trưng của NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí.
3
0.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
0.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là NNĐG trong diễn ngôn bình luận. Các diễn ngôn bình luận này được thu thập trên báo in (cụ thể, trên 02 báo: Tuổi trẻ và Nhân
dân). Lí do chúng tôi lựa chọn báo in Tuổi trẻ và Nhân dân để khảo sát và so sánh là:
(1) Báo Tuổi trẻ và Nhân dân đều có hai phiên bản: bản in và bản điện tử. Tuy
nhiên, chúng tôi lựa chọn khảo sát ngữ liệu trên báo in vì: bản điện tử tuy dễ dàng tìm
kiếm nhưng lại dễ bị mất hoặc bị thay đổi, hơn nữa cũng có nhiều lỗi về diễn đạt và chính tả hơn báo in; còn báo in thì có thể lưu trữ lâu dài, hình thức của một bài báo
chuẩn, hạn chế những lỗi về diễn đạt và chính tả, nguồn ngữ liệu chuẩn.
(2) Báo Tuổi trẻ và Nhân dân là hai loại báo được đọc nhiều, diện phủ sóng
rộng. Hơn nữa, hai báo này cũng có khác biệt về đối tượng độc giả. Độc giả của báo Nhân dân thường là những người quan tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa cùng các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Việt Nam. Còn báo Tuổi trẻ có lượng độc giả rất đa dạng, bao gồm các nhóm đối
tượng khác nhau trong xã hội, nhưng chủ yếu là nhóm độc giả trung niên và trẻ tuổi,
năng động, quan tâm đến các vấn đề thời sự, giáo dục, văn hóa và giải trí. Ngoài ra,
xét theo một mức độ nào đó, báo Tuổi trẻ là một diễn đàn tương đối mở hơn so với
báo Nhân dân, không chỉ nhà báo mà các lực lượng độc giả cũng có thể trao đổi, từ đó
tạo ra một môi trường có nhiều quan điểm hơn.
(3) Mặc dù tất cả các tờ báo đều nằm trong định hướng chung của Đảng và
Chính phủ (nêu gương tốt để xã hội noi theo, phản ánh mặt trái của xã hội, thông tin
các vấn đề thời sự đến bạn đọc) nhưng mỗi tờ báo lại có tôn chỉ, mục đích riêng. Báo
Nhân dân là cơ quan ngôn luận đại diện cho tiếng nói của Đảng Cộng sản Việt Nam,
còn báo Tuổi trẻ là cơ quan ngôn luận đại diện cho tiếng nói của Đoàn Thanh niên
TP.HCM. Hai báo đại diện cho hai phong cách truyền thông khác biệt: một bên mang
tính định hướng chính thống (Nhân dân), một bên thiên về phản biện xã hội (Tuổi trẻ),
tạo điều kiện lí tưởng để nghiên cứu sự đa dạng của NNĐG trong truyền thông.
Lựa chọn hai tờ báo này để khảo sát, chúng tôi mong muốn tìm ra những điểm
tương đồng và khác biệt (nếu có) trong việc lựa chọn ngôn ngữ đánh giá để thể hiện chức năng liên nhân và phương thức giao tiếp với độc giả của hai báo.
0.3.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
- Phạm vi lí thuyết nghiên cứu: lí thuyết đánh giá của Martin & White (2005) và lí
thuyết về thể loại bình luận báo chí được chúng tôi sử dụng làm cơ sở lí luận của luận án.
NNĐG đề cập đến 03 phạm trù: Thái độ, Giọng điệu và Thang độ. Trong đó, Thái độ và Giọng điệu là hai phạm trù cơ bản nhất giúp người tiếp nhận thấy rõ quan điểm của người đánh giá. Riêng Thang độ không trực tiếp đánh giá và bày tỏ quan điểm nhưng có
4
tác dụng nhấn mạnh hay giảm nhẹ những đánh giá, quan điểm đó của người viết. Vì thế,
trong luận án này, chúng tôi xem xét 02 phạm trù Thái độ và Giọng điệu một cách độc lập
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Còn Thang độ sẽ được xem xét lồng ghép với Thái độ và Giọng điệu.
Phạm trù Thái độ được biểu hiện ở cả hai bình diện hiển ngôn và hàm ngôn. Mặc
dù nghiên cứu NNĐG hàm ngôn có giá trị trong việc phân tích sâu về chiến lược diễn
ngôn, ý đồ truyền tải của tác giả, hoặc khám phá các yếu tố ngữ nghĩa tiềm ẩn và tác động
tâm lí lên độc giả, nhưng luận án chỉ nghiên cứu các nguồn lực biểu hiện Thái độ ở bình diện hiển ngôn, không tìm hiểu các nguồn lực hàm ngôn. Lí do:
(1) Nghiên cứu NNĐG hiển ngôn trong các diễn ngôn bình luận trên báo là để đảm
bảo tính rõ ràng. NNĐG hiển ngôn thể hiện ý kiến, thái độ, sự đánh giá một cách trực tiếp
và rõ ràng. Điều này giúp cả người đọc lẫn người nghiên cứu dễ dàng nhận diện và phân tích dữ liệu mà không cần dựa quá nhiều vào suy luận hoặc ngữ cảnh. Ngược lại, NNĐG hàm ngôn thường tiềm ẩn ý nghĩa trong các tầng ngữ nghĩa sâu hơn, hơn nữa còn có thể
được hiểu khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh, văn hóa và người đọc. Đặc điểm này có thể
làm cho kết quả nghiên cứu trở nên không nhất quán hoặc khó chứng minh.
(2) Việc tập trung vào NNĐG hiển ngôn giúp nâng cao mức độ khách quan của
nghiên cứu, bởi các đánh giá ở bình diện này được bộc lộ trực tiếp qua phương tiện
ngôn ngữ, dễ nhận diện và kiểm chứng. Trong khi đó, phân tích NNĐG hàm ngôn
thường đòi hỏi nhiều hơn sự suy luận từ phía người nghiên cứu, dẫn đến khả năng xuất
hiện các cách hiểu đa dạng. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn bình diện hiển ngôn
nhằm đảm bảo độ tin cậy và tính nhất quán cho kết quả nghiên cứu, chứ không phủ
nhận tính hợp lí hay giá trị khoa học của hướng tiếp cận hàm ngôn.
(3) Lựa chọn nghiên cứu NNĐG hiển ngôn vì tính dễ hệ thống và mã hóa.
Trong nghiên cứu, ngôn ngữ hiển ngôn dễ dàng được hệ thống hóa thành các tiêu chí,
danh mục. Điều này giúp việc phân tích dữ liệu trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt trong các
nghiên cứu định lượng. Ngôn ngữ hàm ngôn đòi hỏi phải giải mã ý nghĩa ẩn, khiến
việc hệ thống hóa trở nên phức tạp và dễ sai sót.
Với những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu các nguồn lực thể hiện
Thái độ ở bình diện hiển ngôn. Các nguồn lực thể hiện Thái độ ở bình diện hàm ngôn sẽ là hướng nghiên cứu trong tương lai của chúng tôi.
- Phạm vi ngữ liệu nghiên cứu: luận án của chúng tôi sử dụng nguồn ngữ liệu từ các diễn ngôn bình luận trên hai báo Nhân dân và Tuổi trẻ (từ tháng 12/2021 đến tháng 6/2022). Trong đó:
+ Các diễn ngôn trên báo Nhân dân được khảo sát từ hai chuyên mục: Cùng suy
ngẫm, Diễn đàn chủ nhật.
5
+ Các diễn ngôn trên báo Tuổi trẻ được khảo sát từ hai chuyên mục: Thời sự và
suy nghĩ, Cà phê chủ nhật.
Chúng tôi thu thập 380 diễn ngôn bình luận trên hai báo, trong đó Nhân dân là 192 diễn ngôn, Tuổi trẻ là 188 diễn ngôn. Sở dĩ có sự khác biệt về số lượng diễn ngôn
bình luận ở hai báo là vì trong một vài số báo (cả báo Nhân dân và Tuổi trẻ) vào
những ngày/ dịp đặc biệt, họ không đăng tải các chuyên mục mà chúng tôi khảo sát,
dành thời lượng đó cho các chuyên mục khác (chẳng hạn: xã luận, phóng sự…) nên
mới có sự chênh lệch đó. Trong tổng số 380 diễn ngôn bình luận trên hai báo, luận án ghi nhận được 39 chủ đề/ nội dung sau:
Bảng 0.1. Thống kê chủ đề/ nội dung trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân và Tuổi trẻ (từ tháng 12/2021-6/2022)
Chủ đề báo
Báo Nhân dân Báo Tuổi trẻ
STT 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 33. 34. 35. 36. 37. 38. 39.
Người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 Chăm sóc đời sống người lao động trong dịch Covid-19 Phát triển du lịch thời Covid-19 Giáo dục thời Covid-19 Vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid-19 Các chính sách về sự phát triển doanh nghiệp Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghệ sĩ với văn hóa Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa Thể thao Chuyện ngày Tết Những vấn đề về thời tiết và bảo vệ môi trường Chuyển đổi số Tài sản trí tuệ Các chính sách phát triển kinh tế Các vấn đề về tham nhũng, sai phạm của cán bộ Các chính sách phát triển đô thị Các vấn đề về giao thông Tệ nạn xã hội An toàn lao động/trường học Gương người tốt, việc tốt Thủ tục hành chính Những sai phạm trong y tế Văn hóa giao tiếp thời hiện đại Hiệp định SPS Vấn đề sử dụng mạng xã hội Văn hóa đọc Vấn đề về quảng cáo trên truyền thông Các vấn đề về nghiên cứu khoa học Phương pháp nâng cao chất lượng báo chí Văn học Vấn đề biển đảo Những mảnh ghép của chiến tranh Các vấn đề về thuế Quan hệ ngoại giao Việc sử dụng tiền mặt trong thời đại hiện nay Bảo hiểm Giá vàng Vấn đề về tự chủ của trường học TỔNG
12 8 21 8 8 18 14 8 7 7 7 7 6 6 6 6 6 5 4 4 4 3 3 2 2 2 2 2 1 1 1 1 0 0 0 0 0 0 0 192
14 8 9 13 8 0 5 3 1 5 8 2 3 2 11 15 9 12 3 8 6 4 10 0 0 2 5 0 4 1 0 0 4 5 2 3 1 1 1 188
(Đơn vị tính: bài)
6
Đối chiếu số lượng các diễn ngôn bình luận của hai báo theo chủ đề trong bảng
0.1, có thể thấy 05 chủ đề có số lượng nhiều và tương đồng nhau ở hai báo, đó là:
người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid-19, chăm sóc đời sống người lao động trong dịch Covid-19, phát triển du lịch thời Covid-19, giáo dục thời Covid-19,
vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid-19. Các chủ đề còn lại, số lượng không nhiều và
không tương đồng nhau ở hai báo. Cả 05 chủ đề này đều xoay quanh cuộc chiến chống
dịch Covid-19 trên tất cả các mặt trận (y tế, giáo dục, xã hội, kinh tế, chính trị). Ngoài
lí do về số lượng tương đồng, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu diễn ngôn bình luận trong 05 chủ đề này vì chúng là những diễn ngôn có chứa nhiều cảm xúc, đánh giá của con
người. Đây thời điểm mà dịch Covid-19 đang hoành hành, cả thế giới nói chung, Việt
Nam nói riêng đang “oằn mình” chống dịch và nỗ lực tiến tới giai đoạn “bình thường
mới”. Dịch Covid-19 được xem là một đại dịch chưa từng có, gây ra khủng hoảng toàn cầu về sức khỏe, kinh tế, xã hội và tâm lí con người. Sự xuất hiện đột ngột của dịch Covid-19 khiến con người rơi vào nhiều trạng thái cảm xúc phức tạp: lo lắng về sức
khỏe, tài chính và tương lai; bất an vì mất kiểm soát cuộc sống; cô đơn do giãn cách xã
hội và thiếu tương tác; cảm giác mất mát khi mất người thân, công việc; tức giận trước
những bất công trong phòng chống dịch; áp lực vì học tập, làm việc trực tuyến; đồng
thời cũng xuất hiện cảm giác hi vọng vào sự hồi phục và lòng biết ơn đối với lực lượng
tuyến đầu đã nỗ lực chống dịch… Có thể thấy, đây là giai đoạn mà con người bộc lộ
cảm xúc phong phú, đa dạng và phức tạp, cả tích cực lẫn tiêu cực. Mà nhiệm vụ của
NNĐG là nghiên cứu những cảm xúc đó của con người, do đó, chúng tôi lựa chọn đi
sâu khảo sát, phân tích 05 nhóm chủ đề này.
Số lượng diễn ngôn trong 05 nhóm chủ đề ở báo Tuổi trẻ và Nhân dân không
ngang bằng nhau. Tuy nhiên, chúng tôi lựa chọn số lượng diễn ngôn để nghiên cứu ở
báo Tuổi trẻ (45 diễn ngôn) và Nhân dân (45 diễn ngôn) là bằng nhau, vì: việc chọn số
lượng tương đồng ở hai đối tượng cần so sánh, đối chiếu là cần thiết để đảm bảo tính
công bằng (sự cân bằng về dữ liệu phân tích), logic, khoa học trong quá trình phân
tích, hạn chế sai lệch trong kết luận (nếu số lượng diễn ngôn không đồng đều, các kết luận đưa ra có thể bị lệch do nhóm có số lượng lớn hơn sẽ tạo ra nhiều dữ liệu hơn,
khiến trọng số của nhóm này áp đảo). Khối ngữ liệu sau khi được thu thập đầy đủ, đánh mã theo số thứ tự T1 - T45 (báo Tuổi trẻ) và N1 - N45 (báo Nhân dân).
Bảng 0.2. Số lƣợng các diễn ngôn bình luận đƣợc sử dụng làm nguồn ngữ liệu
Chủ đề báo Báo Nhân dân Báo Tuổi trẻ
STT 1 2 3 4 5 Người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 Chăm sóc đời sống người lao động trong dịch Covid-19 Phát triển du lịch thời Covid-19 Giáo dục thời Covid-19 Vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid-19 TỔNG 12 8 9 8 8 45 12 8 9 8 8 45 (Đơn vị tính: bài)
7
0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nêu trên, luận án sử dụng các phương
pháp và thủ pháp sau:
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: luận án vận dụng phương pháp này để xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh văn hóa, ngữ cảnh xã hội nhằm làm sáng tỏ, lí giải thái độ của chủ thể cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa ngữ cảnh và văn bản, thấy được sự tác động của ngữ cảnh đối với NNĐG.
- Phương pháp miêu tả: phương pháp này được sử dụng để miêu tả, phân tích định tính các đặc điểm NNĐG trong thể loại bình luận nhằm thực hiện chức năng phán xét, đánh giá, tác động… từ đó rút ra nét đặc trưng của NNĐG trong diễn ngôn bình luận, thấy được phương thức giao tiếp với độc giả của hai báo.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: luận án sử dụng thủ pháp thống kê, phân loại để phân tích định lượng, cho ra kết quả về tỉ lệ khảo sát các phương thức và phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để biểu hiện các phạm trù trong bộ khung đánh giá. Thủ pháp này làm tăng thêm sức thuyết phục, độ tin cậy của vấn đề nghiên cứu.
- Thủ pháp so sánh: chúng tôi sử dụng thủ pháp này để so sánh, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt (nếu có) trong việc sử dụng NNĐG để thể hiện chức năng liên nhân của hai tờ báo Tuổi trẻ và Nhân dân.
0.5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở phác họa bức tranh tổng quan về tình hình nghiên cứu NNĐG, diễn ngôn bình luận báo chí theo hướng ngữ pháp chức năng hệ thống trong nước và trên thế giới, hệ thống hóa cơ sở lí luận của lí thuyết NNĐG, thể loại bình luận báo chí, khảo sát các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và báo Nhân dân, luận án đã làm sáng tỏ đặc điểm NNĐG thể hiện các phạm trù Thái độ, Giọng điệu và Thang độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo chí. 0.6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án 0.6.1. Ý nghĩa lí luận
Kết quả phân tích đặc điểm của NNĐG trên khối ngữ liệu của hai báo Nhân dân và Tuổi trẻ theo mô hình khung đánh giá đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lí thuyết về NNĐG theo đường hướng của SFL. 0.6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học trong quá trình viết báo cáo nghiên cứu, đặc biệt là những nghiên cứu vận dụng lí thuyết NNĐG trong thể loại báo chí.
Kết quả luận án có thể giúp ích cho việc tạo lập các diễn ngôn bình luận trên báo chí của lực lượng làm báo, đặc biệt là nâng cao kĩ năng viết bài bình luận. Đồng thời, nó cũng hỗ trợ người đọc trong việc tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và nhận diện đúng thái độ, quan điểm của người viết.
8
0.7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận án gồm 03 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Trong chương này, chúng tôi thực hiện hai nội dung chính:
Thứ nhất, tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu về lí thuyết NNĐG, tình
hình vận dụng lí thuyết NNĐG trong và ngoài nước, các công trình nghiên cứu về thể
loại và thể loại báo chí, các công trình nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí theo lí thuyết NNĐG. Từ đó, chúng tôi kế thừa những kết quả mà các nhà nghiên cứu đã
đạt được, đồng thời tìm ra địa hạt vẫn còn bỏ ngỏ cho nghiên cứu của mình.
Thứ hai, xây dựng cơ sở lí luận cho luận án. Chúng tôi khái quát về nghĩa liên
nhân trong SFL, mối quan hệ giữa ngữ cảnh và văn bản, hệ thống hóa các phạm trù về Thái độ, Giọng điệu và Thang độ, tìm hiểu một số nét về nguồn lực thể hiện NNĐG trong tiếng Việt, xây dựng lí thuyết về thể loại và diễn ngôn bình luận trong báo chí.
Chƣơng 2: Đặc điểm ngôn ngữ đánh giá Thái độ trong thể loại bình luận báo chí Trong chương 2, chúng tôi tiến hành khảo sát và thống kê các phương tiện ngôn
ngữ thể hiện phạm trù Thái độ, Thang độ của Thái độ xuất hiện trong ngữ liệu. Sau đó
phân tích các nguồn lực thể hiện các giá trị Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá trong hai
nhóm ngữ liệu. Từ những kết quả thống kê và phân tích trên, chúng tôi đối chiếu nhằm
tìm ra những tương đồng và dị biệt trong cách sử dụng NNĐG để thể hiện Thái độ
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Từ những đặc trưng
chung của NNĐG thể hiện Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo chí, chúng tôi tiến
hành phân tích chi tiết một diễn ngôn bình luận trong khối ngữ liệu để thấy được sự
thể hiện của các đặc trưng đó.
Chƣơng 3: Đặc điểm ngôn ngữ đánh giá Giọng điệu trong thể loại bình luận
báo chí
Ở chương 3, bước đầu chúng tôi khảo sát và thống kê các phương thức và
phương tiện thể hiện phạm trù Giọng điệu, Thang độ của Giọng điệu xuất hiện trong hai khối ngữ liệu. Từ kết quả đó, chúng tôi phân tích phương thức giao tiếp của tác giả
với người đọc thực tế hoặc tiềm năng được thể hiện qua các diễn ngôn đa thanh. Chúng tôi, cũng từ các đặc trưng chung của NNĐG thể hiện Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận báo chí, tiến hành phân tích chi tiết một diễn ngôn bình luận trong khối ngữ liệu để thấy được sự thể hiện của những đặc trưng đó.
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Diễn ngôn bình luận của một tờ báo không chỉ đưa thông tin đến độc giả mà
còn là nơi để người viết có thể nêu quan điểm của mình về sự vụ. Vì vậy, việc phân
tích, tìm hiểu thái độ và cách thức nhà báo tương tác với độc giả ở thể loại này thông
qua các nguồn lực từ vựng - ngữ pháp là hết sức cần thiết cho các nhà nghiên cứu cũng
như các học giả chuyên ngành báo chí. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi
nhận thấy mặc dù có không ít công trình nghiên cứu về diễn ngôn bình luận trên báo
chí nhưng nghiên cứu về diễn ngôn bình luận trên báo chí dưới ánh sáng của lí thuyết
đánh giá thì chưa có nhiều và chưa tạo thành được một hệ thống hoàn chỉnh. Vì thế,
phần tổng quan vấn đề nghiên cứu dưới đây chủ yếu điểm lại những công trình đã
công bố nổi bật về lí thuyết đánh giá, về các công trình vận dụng lí thuyết đánh giá ở
nước ngoài và Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thể loại và diễn ngôn bình luận
báo chí, đặc biệt là nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí theo lí thuyết đánh giá.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ đánh giá theo quan điểm của
Ngôn ngữ học chức năng hệ thống
1.1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về ngôn ngữ đánh giá
✤ Các cách tiếp cận khác nhau về ngôn ngữ đánh giá
Người đặt nền móng cho NNĐG là M.A.K Halliday với công trình ―Dẫn luận
ngữ pháp chức năng‖ (An introduction to functional grammar, 2004) [1]. Ngữ pháp
chức năng hệ thống của M.A.K Halliday quan tâm đến việc nghiên cứu ngôn ngữ
trong sử dụng với các siêu chức năng (metafunctional) cơ bản: kinh nghiệm (giải thích
mô hình kinh nghiệm); liên nhân (thực hiện các mối quan hệ xã hội); văn bản (diễn đạt
cách tổ chức thông điệp).
Trong siêu chức năng liên nhân, Halliday đã chú ý tới vấn đề NNĐG. Những
nghiên cứu về ngữ pháp chức năng hệ thống chính là cơ sở để hình thành các hướng
nghiên cứu về NNĐG. Hiện nay, trên thế giới có ba hướng nghiên cứu nổi bật về
NNĐG và mỗi hướng gắn liền với một thuật ngữ đại diện: “Lập trường” (Stance),
“Đánh giá” (Evaluation), “Đánh giá” (Appraisal).
Nghiên cứu về “Lập trường” (Stance) được Biber và cộng sự (1999) đề xuất là
một hướng tiếp cận ngôn ngữ dựa trên khối ngữ liệu, theo đó, ngôn ngữ được phân
tích từ hình thức đến chức năng. Theo Biber và cộng sự, “Lập trường” là “các biểu đạt
từ vựng và ngữ pháp về thái độ, cảm xúc, phán xét và cam kết của tác giả/ người nói
liên quan đến các nội dung mệnh đề của thông điệp” [2;1]. Hệ thống “Lập trường”
10
gồm ba phạm trù: Nhận thức (Epistemic), Thái độ (Attitudinal) và Phong cách nói
năng (Style of speaking). Theo các tác giả, lập trường Nhận thức đề cập đến quan điểm
của người nói/ viết về tính xác thực của thông tin trong mệnh đề (bao gồm: chắc chắn/
nghi ngờ, thực tế, chính xác, hoặc hạn chế; về nguồn hoặc quan điểm cung cấp kiến
thức, thông tin). Lập trường Thái độ thể hiện cảm xúc và quan điểm cá nhân đối với
nội dung được đề cập, gồm hai nhóm: thái độ và cảm giác. Lập trường Phong cách nói
năng phản ánh cách người nói đánh giá quá trình giao tiếp của chính mình, chẳng hạn
như việc diễn đạt “một cách trung thực” hay “một cách ngắn gọn” [2;972-975]. Các
phạm trù này được thể hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm yếu tố
cận ngôn, từ vựng và đặc biệt là các cấu trúc ngữ pháp. Hướng nghiên cứu “Lập
trường” của Biber và các đồng sự (1999) được tóm tắt trong hình 1.1 bên dưới.
Nhận thức
Thái độ
Phân loại
Phong cách
Cận ngôn
Lập trƣờng
Hiện thực hóa
Từ vựng
(Stance)
Ngữ pháp
Hình thức đến chức năng
Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu khối ngữ liệu
Hình 1.1. Tóm tắt hướng nghiên cứu “lập trường” (Stance) [phỏng theo 2]
Đại diện hướng nghiên cứu thứ hai về NNĐG là Thompson và Hunston [3] với
thuật ngữ “Đánh giá” (Evaluation). Hai tác giả cho rằng “Đánh giá” là một thuật ngữ
bao trùm rộng rãi để diễn đạt thái độ hoặc lập trường, quan điểm hoặc cảm xúc của
người nói/ viết đối với các thực thể hoặc các mệnh đề mà người đó nói tới. Ngược lại
với hướng nghiên cứu “Lập trường”, hướng nghiên cứu này tiếp cận ngôn ngữ từ chức
năng đến hình thức, khung nghiên cứu dựa trên tham số (parameter-based) với cách
tiếp cận kết hợp. Thompson và Hunston đã xem xét NNĐG theo ba tầng: tầng vĩ mô
(nghiên cứu các chức năng của đánh giá trong giao tiếp, chẳng hạn: bộc lộ ý kiến, duy
trì quan hệ và tổ chức diễn ngôn); tầng trung gian (nghiên cứu về các dấu hiệu ngôn
ngữ đánh giá); tầng vi mô (nghiên cứu về các tham số biểu hiện khuynh hướng của các
dấu hiệu đó). Các dấu hiệu NNĐG bao gồm sự so sánh, tính chủ quan và giá trị xã hội.
Hai tác giả này cũng đã đề xuất bốn tham số của biểu hiện các khuynh hướng về giá trị
(tốt/ xấu), trạng thái (chắc chắn/ không chắc chắn), sự thích đáng (quan trọng/ không
quan trọng) và sự mong đợi (mong đợi/ không mong đợi). Những tham số này nhằm
đến các chiều đánh giá khác nhau, trong đó phạm trù tốt/ xấu, hay tích cực/ tiêu cực
11
(đánh giá về giá trị) là cơ bản nhất mà các tham số còn lại đều có thể xếp vào [3; 22-
25]. Hướng nghiên cứu “Đánh giá” của Thompson và Hunston (2000) được tóm tắt
trong hình 1.2 bên dưới.
Bộc lộ ý kiến
Duy trì quan hệ
Vĩ mô
Tổ chức diễn ngôn So sánh
Dấu hiệu
Trung gian
Chủ quan
Phân loại
NNĐG
Giá trị xã hội
Giá trị
Tham số
Vi mô
Trạng thái
Đánh giá (Evaluation)
đánh giá
Sự mong đợi
Tầm quan trọng
Tường minh
Hiện thực hóa
Hàm ẩn
Chức năng đến hình thức
Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu dựa trên tham số
Hình 1.2. Tóm tắt hướng nghiên cứu “Đánh giá” (Evaluation) [phỏng theo 3]
Một số yếu tố trong mô hình này tương đồng với khung đánh giá của Martin và
White, tuy nhiên vẫn có những khác biệt.
Hướng nghiên cứu thứ ba của NNĐG là “Đánh giá” (Appraisal) mà trọng tâm
là khung đánh giá (Appraisal framework) do Martin và White (2005) [4] phát triển.
Hướng nghiên cứu này dựa trên nền tảng của SFL của Halliday ở cấp độ ngữ nghĩa
diễn ngôn. NNĐG tập trung phát triển và mở rộng siêu chức năng liên nhân, nghĩa là
tìm hiểu mối quan hệ giữa các cá nhân bằng cách nghiên cứu sâu vào 3 phạm trù thể
hiện lập trường của người nói và người viết [4;1]. Theo Martin và White, thuyết đánh
giá (Appraisal) “là một trong ba nguồn ngữ nghĩa diễn ngôn biện giải nghĩa liên nhân”
cùng với sự bao hàm (involvement) và thương lượng (negotiation) [4; 34-35]. Thuyết NNĐG được phân thành 3 hệ thống: Thái độ (Attitude), Thang độ (Graduation) và
Giọng điệu (Engagement). Mỗi hệ thống này lại được các tác giả phân thành những tiểu hệ thống. Các tiểu hệ thống này sẽ được chúng tôi bàn luận trong các phần sau. Hướng nghiên cứu NNĐG của Martin và White (2005) được tóm tắt trong hình 1.3 dưới đây.
12
Thái độ
Thang độ
Phân loại
Giọng điệu cách
Hiển ngôn
Đánh giá
Hiện thực hóa
(Appraisal)
Hàm ngôn
Kết hợp hình thức và chức năng
Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu theo phân tích diễn ngôn
Hình 1.3. Tóm tắt hướng nghiên cứu “Đánh giá” (Appraisal) [phỏng theo 4]
Giữa ba hướng nghiên cứu này vừa có những điểm tương đồng vừa có những
điểm khác biệt. Những điểm tương đồng và khác biệt ấy được trình bày cụ thể trong bảng tóm tắt 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. Tóm tắt ba hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ đánh giá
Đại diện Phân loại Quan điểm trọng tâm
Hƣớng nghiên cứu Lập trường (Stance)
Biber và các đồng sự (1999)
Phƣơng pháp tiếp cận - Tiếp cận từ hình thức đến chức năng. - Tiếp cận dựa trên khối ngữ liệu. Ba phạm trù: + Nhận thức + Thái độ + Phong cách nói năng
Đánh giá (Evaluation)
Thompson và Hunston (2000)
- Tiếp cận từ chức năng đến hình thức. - Khung nghiên cứu dựa trên tham số.
cứu Nghiên lập trường biểu đạt thái độ, cảm giác, phán xét và cam kết NNĐG biểu thái độ đạt lập hoặc trường, quan điểm, cảm xúc
cận
giá Đánh (Appraisal)
theo - Tiếp hướng phân tích diễn ngôn.
J.R. Martin & P.R.R.White (2005) NNĐG dùng thương để lượng cảm xúc, phán xét và thẩm giá
- Ba tầng NNĐG: + Tầng vĩ mô: nghiên cứu các chức năng của đánh giá trong giao tiếp + Tầng trung gian: nghiên cứu về các dấu hiệu ngôn ngữ đánh giá + Tầng vi mô: nghiên cứu về các tham số biểu hiện khuynh hướng của các dấu hiệu đó. - Bốn tham số: giá trị, trạng thái, sự thích đáng và sự mong đợi Ba hệ thống: + Thái độ (cảm xúc, phán xét và thẩm giá) + Thang độ (lực và tiêu điểm) + Giọng điệu (đơn thanh, đa thanh).
[Theo 2,3,4] Ba hướng nghiên cứu trên đều tập trung vào vấn đề đánh giá lập trường, thái độ
của người nói đối với các đối tượng được đề cập đến trong ngữ liệu. Tuy nhiên, giữa
13
ba hướng nghiên cứu này vẫn có những điểm khác biệt nhất định. Ngoài sự khác biệt
về thuật ngữ khoa học, cách phân loại hệ thống và phương tiện thể hiện các phạm trù
đánh giá, thì điểm khác biệt lớn nhất giữa chúng chính là phương pháp tiếp cận NNĐG. Nếu như Biber và các đồng sự tiếp cận dựa trên khối ngữ liệu với hướng đi từ
hình thức đến chức năng thì Thompson và Hunston lại lựa chọn cách nghiên cứu
ngược lại, là tiếp cận dựa trên tham số với hướng đi từ chức năng đến hình thức. Sau
này, Martin và White đã có cái nhìn tổng thể hơn, các ông nghiên cứu theo cách tiếp
cận riêng, kết hợp cả hình thức và chức năng, với hướng phân tích diễn ngôn.
Chúng tôi lựa chọn triển khai luận án của mình dựa trên phương pháp tiếp cận
theo hướng phân tích diễn ngôn, cụ thể là lựa chọn bộ khung đánh giá của Martin &
White làm khung lí thuyết để phân tích toàn bộ ngữ liệu nghiên cứu. Lí do: cách tiếp
cận của hai tác giả này dung hòa giữa hình thức ngữ pháp và chức năng diễn ngôn, giúp người nghiên cứu không chỉ nhận diện cụ thể các biểu hiện ngôn ngữ trong ngữ cảnh mà còn hiểu được mục đích giao tiếp và chiến lược diễn ngôn của người sử dụng
ngôn ngữ. Khác với các hướng tiếp cận đơn chiều của Biber, Thompson và Hunston,
Martin và White cung cấp một mô hình phân tích linh hoạt, có thể áp dụng cho nhiều
thể loại văn bản như báo chí, tiểu thuyết, bài phát biểu chính trị, quảng cáo, đồng thời
phù hợp với cả ngôn ngữ viết và nói. Nhờ đó, lí thuyết này tạo điều kiện cho việc so
sánh, đối chiếu các hiện tượng đánh giá trong những bối cảnh khác nhau, từ đó rút ra
những kết luận sâu sắc về tư duy, văn hóa và ý thức hệ xã hội. Chính tính hệ thống,
toàn diện và ứng dụng cao này khiến lí thuyết của Martin và White trở thành cơ sở lí
luận vững chắc cho nghiên cứu của chúng tôi.
✤ Các nghiên cứu về NNĐG áp dụng khung đánh giá của Martin & White
Khung đánh giá của Martin & White được sử dụng làm cơ sở lí thuyết để phân
tích NNĐG trong nhiều nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực với các nguồn ngữ liệu khác
nhau nhằm phục vụ các mục đích nghiên cứu khác nhau.
- Ứng dụng NNĐG trong lĩnh vực chính trị: ngữ liệu được sử dụng để nghiên
cứu là những bài phát biểu của các nguyên thủ quốc gia, hoặc các bài hùng biện, xã luận của những người diễn thuyết. Chung Lợi Lợi (2005) [5] nhấn mạnh vai trò của
việc lựa chọn từ vựng trong việc thể hiện thông tin và quan điểm của diễn giả. Tác giả đã phân tích các văn bản diễn thuyết chính trị qua hệ thống Giọng điệu và Thái độ trong khung lí thuyết đánh giá, từ đó làm rõ lập trường và thái độ của người phát biểu. Ngu An Ký và Tâu Văn Quân (2009) [6] đã ứng dụng lí thuyết NNĐG vào phân tích ngôn ngữ hùng biện, cho thấy cách người nói thể hiện thái độ, cảm xúc, mục đích và chủ đề hướng tới; đồng thời, thông qua các dấu hiệu NNĐG trong hùng biện, các tác giả bước đầu nêu ra những đặc trưng về ba hệ thống Thái độ, Thang độ và Giọng điệu trong ngôn từ hùng biện. Tiếp cận từ góc độ chiến lược diễn ngôn và lựa chọn ngôn từ
14
của các chính trị gia, Jalilifar & Savaedi (2012) [7] đã chỉ ra sự khác biệt giữa bài phát
biểu của người chiến thắng và kẻ thất bại trong các cuộc bầu cử tổng thống Mĩ và Iran.
Kết quả cho thấy, ở cả hai quốc gia, những người giành chiến thắng đều sử dụng hiệu quả ngôn ngữ chỉ Cảm xúc (Affect) và Phán xét (Judgment). Còn Mazlum & Afshin
(2016) [8] kết luận rằng bài phát biểu của các tổng thống có tần suất sử dụng dấu hiệu
chỉ cảm xúc cao, được thể hiện qua động từ, tính từ, trạng từ và danh từ hóa. Ngoài các
kết luận riêng trên, cả hai nghiên cứu đều đi đến kết luận chung là các chính trị gia đều
sử dụng NNĐG tích cực để khẳng định năng lực của chính phủ, quốc gia hoặc đồng minh, dùng NNĐG tiêu cực khi nói về những hạn chế, sai sót của đối thủ.
- Ứng dụng NNĐG trong lĩnh vực giáo dục: trong lĩnh vực giáo dục, lí thuyết
ngôn ngữ đánh giá đã được ứng dụng rộng rãi để phân tích cách giáo viên, học sinh sử
dụng ngôn ngữ, cũng như cách thức trình bày nội dung trong tài liệu giảng dạy và bài
luận. Motta-Roth (2005) [9] đã phân tích bài giảng trong các lĩnh vực khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên và nhân văn, chỉ ra rằng giáo viên sử dụng ngôn ngữ đánh giá để
định hướng nhận thức của sinh viên và xây dựng lập trường học thuật. Trong khi đó,
Lee (2015) [10] nghiên cứu các bài giảng tiếng Anh như một ngoại ngữ, nhấn mạnh
vai trò của Giọng điệu trong việc thu hút sự chú ý của học sinh và khuyến khích tương
tác. Còn Hood (2010) [11] thì phân tích cách học sinh sử dụng hệ thống Thái độ và
Giọng điệu để xây dựng lập luận, trong khi Hyland & Tse (2004) [12] chỉ ra rằng
những sinh viên có kĩ năng viết tốt thường vận dụng linh hoạt các nguồn lực ngôn ngữ
đánh giá nhằm thuyết phục người đọc. Ngoài ra, nghiên cứu cũng mở rộng sang phân
tích sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy để xem xét cách chúng diễn đạt nội dung và
tác động đến người học. Coffin (2006) [13] đã nghiên cứu sách giáo khoa lịch sử, chỉ
ra cách sử dụng ngôn ngữ đánh giá để định hướng quan điểm của học sinh về các sự
kiện lịch sử. Trong lĩnh vực ứng dụng lí thuyết đánh giá vào dạy học ngoại ngữ, đặc
biệt là dạy học tiếng Anh, có nhiều công trình nổi bật. Chẳng hạn, Quan Kính Anh
(2007) [14] đã tìm hiểu việc vận dụng liên kết và phân tích đánh giá trong dạy học
tiếng Anh. Qua kết quả phân tích, tác giả khẳng định việc phân tích nguồn tài nguyên
đánh giá có thể giúp người đọc lí giải chính xác văn bản qua sự liên kết của tầng ngữ
nghĩa, đồng thời tăng cường năng lực lí giải văn bản của người đọc. Liêu Truyền
Phong (2011) [15] đã nghiên cứu ứng dụng lí thuyết đánh giá vào thực tiễn dạy môn
viết cho sinh viên ngành tiếng Anh. Còn Dư Vỹ Quỳnh (2012) [16] thì nghiên cứu ứng
dụng ý nghĩa Thái độ trong dạy học môn nghe tiếng Anh tại bậc đại học. Tác giả đã
chứng minh rằng ý nghĩa Thái độ giúp sinh viên lí giải chính xác nguồn tài liệu nghe,
đồng thời tác giả đề xuất một phương pháp dạy học mới trong dạy nghe ngoại ngữ. Hu
& Choo (2015) [17] quan tâm đến NNĐG trong hoạt động dạy học ở một khía cạnh
15
khác. Các tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến NNĐG (chủ yếu ở phạm trù
Thái độ) trong các phản hồi của giáo viên, bao gồm chuyên ngành giảng dạy và năm
kinh nghiệm. Từ đó, nghiên cứu đã đưa ra đề xuất là các chương trình giảng dạy cho
giáo viên cần chú ý phát triển khả năng thể hiện NNĐG trong phản hồi của giáo viên
bởi chúng khác nhau theo năm kinh nghiệm và đặc thù chuyên môn. Các nghiên cứu
trên đều được thực hiện hết sức công phu, tuy nhiên, đối tượng khảo sát của các
nghiên cứu chỉ là một nhóm nhỏ giáo viên hoặc sinh viên tại quốc gia của tác giả hoặc
nơi tác giả làm việc, do đó có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của các kết quả nghiên
cứu. NNĐG trong lĩnh vực giáo dục vẫn luôn là một mảnh đất màu mỡ cho các nghiên
cứu tiếp theo.
- Ứng dụng NNĐG trong lĩnh vực dịch thuật: trong nghiên cứu dịch thuật, lí
thuyết NNĐG đã được ứng dụng rộng rãi, chủ yếu tập trung vào ba hướng chính: dịch
thuật văn bản chính trị và báo chí, dịch thuật văn học và sắc thái cảm xúc, dịch thuật
tài liệu giáo dục và học thuật. Trong lĩnh vực dịch văn bản chính trị và báo chí, nhiều
nghiên cứu đã phân tích cách dịch giả xử lí thái độ và lập trường của tác giả gốc.
Munday (2012) [18] nghiên cứu các bài phát biểu chính trị và báo chí song ngữ, chỉ ra
rằng dịch giả thường điều chỉnh Giọng điệu để phù hợp với bối cảnh văn hóa và chính
trị của ngôn ngữ đích. Tương tự, Zhang & Pan (2020) [19] phân tích các bài diễn văn
của lãnh đạo Trung Quốc khi được dịch sang tiếng Anh, cho thấy sự thay đổi trong
việc sử dụng Thái độ và Thang độ nhằm phù hợp với đối tượng mục tiêu. Trong lĩnh
vực dịch thuật văn học, lí thuyết NNĐG giúp làm rõ cách dịch giả chuyển ngữ các yếu
tố tình cảm và sắc thái thẩm mĩ. Munday (2018) [20] nghiên cứu cách dịch giả truyền
tải sắc thái cảm xúc trong tiểu thuyết và nhận thấy rằng Thang độ thường bị thay đổi
do sự khác biệt văn hóa giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Liu & Yu (2021) [21]
phân tích các bản dịch tiếng Anh của tiểu thuyết Trung Quốc và chỉ ra rằng việc dịch
Giọng điệu có thể ảnh hưởng đến cách độc giả tiếp nhận nhân vật và sự kiện trong tác
phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tập trung vào lĩnh vực dịch tài liệu giáo dục và học
thuật, đặc biệt là cách dịch giả duy trì lập trường và tính khách quan của văn bản gốc.
Xu & Wang (2017) [22] phân tích các bài báo khoa học và sách giáo khoa được dịch
sang tiếng Anh, nhận thấy sự điều chỉnh trong việc sử dụng Thái độ và Giọng điệu để
làm cho văn bản phù hợp hơn với phong cách học thuật quốc tế. Biel (2018) [23]
nghiên cứu bản dịch tài liệu pháp lí và học thuật, chỉ ra rằng dịch giả thường giảm mức
độ chủ quan bằng cách điều chỉnh Thang độ trong văn bản đích. Những nghiên cứu
này cho thấy tầm quan trọng của lí thuyết NNĐG trong dịch thuật, giúp làm rõ cách thức
diễn đạt quan điểm, thái độ và lập trường của tác giả trong các ngữ cảnh khác nhau.
16
Các nghiên cứu chứng minh rằng khung đánh giá của Martin & White có thể
được áp dụng trên nhiều ngôn ngữ khác nhau ngoài tiếng Anh như: tiếng Hàn Quốc
[24], [25]; tiếng Trung Quốc [26, 27]; tiếng Ý (Pounds, 2010) [28], tiếng Thụy điển
(Folkeryd, 2006) [29], tiếng Nhật (Sano, 2011 [30]; Thomson, 2008 [31]), tiếng Thái
(Knox & Patpong, 2008 [32]) và tiếng Việt (Tran, 2011 [33]; Tran & Thomson, 2008
[34]; Duc Duy Vo, 2011 [35]; Thu Ngo, 2013 [36])… Cụ thể, công trình nghiên cứu
của Thu Ngo (2013) [36] phân tích trên tư liệu hội thoại giữa một nhóm sinh viên Việt
Nam về các chủ đề phổ biến liên quan đến kinh nghiệm sống và học tập tại Úc cùng
quan điểm của họ về các vị trí công việc ở Việt Nam. Nghiên cứu này xem xét sự khác
biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt trong việc triển khai các nguồn lực đánh giá, tập
trung vào hai phạm trù Thái độ và Thang độ. Số liệu từ luận án cho thấy có một
khoảng cách khá lớn về khả năng sử dụng NNĐG bằng tiếng Anh so với tiếng Việt
trong giao tiếp của các sinh viên tham gia nghiên cứu. Việc triển khai Thái độ và
Thang độ trong các cuộc thảo luận bằng tiếng Anh được đánh dấu bằng việc sử dụng
hạn chế phương tiện từ vựng (các từ ngữ không có nghĩa bóng và các biểu thức từ
vựng) và ngữ pháp. Điều đáng chú ý về việc triển khai Thái độ và Thang độ trong thảo
luận tiếng Anh là cách diễn đạt tiếng Anh không chuẩn và không hiệu quả do các vấn
đề ngữ pháp và lựa chọn từ ngữ khác nhau. Ngược lại, việc triển khai Thái độ và
Thang độ trong các cuộc thảo luận bằng tiếng Việt rất đa dạng, với các nguồn lực đặc
thù trong tiếng Việt là: tiểu từ tình thái, đại từ nhân xưng, từ láy và từ ghép. Ngoài việc
cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự khác biệt trong việc triển khai Thái độ và Thang độ
bằng hai ngôn ngữ, kết quả nghiên cứu cũng góp phần vào việc cải tiến lí thuyết của
khung đánh giá bằng tiếng Anh với các loại Thái độ được mở rộng một cách chi tiết
hơn và cung cấp cơ sở cho việc điều chỉnh khung đánh giá hiện tại để phù hợp với
những tính năng đặc biệt của các ngôn ngữ khác Tiếng Anh, cụ thể là tiếng Việt. Hoặc
trong “Vietnamese person reference system as an appraisal resource” (tạm dịch: Hệ
thống từ xưng hô tiếng Việt như một nguồn lực đánh giá), Thu Ngo và Len Unsworth
(2011) [37] đã một lần nữa khẳng định có thể áp dụng NNĐG để nghiên cứu tiếng
Việt. Các tác giả đã nghiên cứu các nguồn lực đánh giá trong hệ thống quy chiếu
người của tiếng Việt. Tiếng Việt có một hệ thống quy chiếu người rất phức tạp. Nó
bao gồm ba phân lớp ngữ pháp là (1) danh từ chung (quan hệ họ hàng), (2) tên người,
và (3) đại từ nhân xưng. Việc lựa chọn từ xưng hô để xưng hô với người khác thể hiện
quan niệm về quyền lực, sự đoàn kết và hình thức của người nói/ viết, qua đó thể hiện
lập trường đánh giá của người nói/ viết. Các tác giả cho rằng đây là một phương tiện
ngôn ngữ dùng để hiện thực hóa phạm trù Thái độ, không dùng để hiện thực hóa
Thang độ và Giọng điệu. Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu của Duc Duy Vo
17
(2011) [35] vừa áp dụng lí thuyết thể loại vừa áp dụng lí thuyết NNĐG để nghiên cứu
so sánh thể loại tin cứng (hard news) về kinh doanh bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Duc
Duy Vo đã chỉ ra được cấu trúc quỹ đạo của bản tin cứng, các phạm trù Thái độ,
Thang độ và Giọng điệu, ý tưởng được sử dụng trong các bản tin tiếng Anh và tiếng
Việt rồi so sánh chúng với nhau. Từ đó đưa ra những đề xuất cho lĩnh vực dạy học
ngoại ngữ, báo chí ở Việt Nam.
1.1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước về ngôn ngữ đánh giá
Cho đến nay, nghiên cứu NNĐG theo cách tiếp cận của SFL, cụ thể là áp dụng bộ
khung đánh giá của Martin và White (2005) dường như còn khá mới mẻ ở Việt Nam.
Khung đánh giá của Martin & White được sử dụng làm cơ sở lí thuyết để phân tích
NNĐG trong một số loại diễn ngôn sau:
- Diễn ngôn thuộc lĩnh vực báo chí, truyền thông: báo chí và truyền thông giữ vai trò
then chốt trong sự phát triển của xã hội, do đó lĩnh vực này ngày càng nhận được sự quan
tâm nghiên cứu rộng rãi. Tuy nhiên, trong số đó, những nghiên cứu tiếp cận báo chí và
truyền thông dưới góc nhìn của lí thuyết NNĐG vẫn còn khiêm tốn. Luận án của Nguyễn
Hồng Sao (2010) [38] được coi là nghiên cứu tiên phong trong nước về việc ứng dụng
lí thuyết NNĐG. Nghiên cứu đã sử dụng bộ công cụ đánh giá để đo lường siêu chức
năng liên nhân trong ngôn ngữ tin quốc tế và phóng sự trên báo tiếng Việt và tiếng
Anh. Tác giả đã nghiên cứu ngôn ngữ của các bài báo trên ba phạm trù: Thái độ (Attitude), Thang độ (Graduation) và Thỏa hiệp (Engagement) (thuật ngữ của tác giả).
Nghiên cứu chỉ ra những điểm tương đồng và dị biệt về mặt cấu trúc và ngôn ngữ của
hai thể loại tin quốc tế và phóng sự trên báo tiếng Việt và tiếng Anh. Báo tiếng Việt và
tiếng Anh tương đồng với nhau về mặt cấu trúc thể loại, nhưng khác biệt về cách sử
dụng ngôn ngữ. Trần Thị Thanh Hương (2018) [39] cũng vận dụng lí thuyết hành
động ngôn từ (Searle, 1975), luận điểm về lực ngôn trung (Holmes, 1984) và NNĐG
để xác định tham số tích cực – tiêu cực, thang độ, chủ đề đánh giá và quyền lực giao
tiếp đánh giá của giám khảo trên truyền hình thực tế. Đơn vị phân tích chủ yếu của
luận án là biểu thức đánh giá. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu đánh giá ở khía cạnh thái độ tích cực – tiêu cực, phương thức biểu hiện tường minh – hàm ẩn chứ không đi
vào nghiên cứu tiểu hệ thống Thái độ, Thang độ và Giọng điệu. Ngoài ra, còn có một số bài báo riêng lẻ cũng sử dụng lí thuyết khung đánh giá để nghiên cứu, gồm: Nguyễn Thị Thu Hiền (2017) [40], Nguyễn Thị Thu Hiền và Tống Mỹ Linh (2020) [41], Lê Hữu Lộc và Nguyễn Quang Ngoạn (2019) [42], Lê Hữu Lộc (2020) [43], Nguyen Quang Ngoan and Le Huu Loc (2020) [44], Võ Nguyễn Thùy Trang (2017) [45], 2020 [46]), Trương Lê Bích Trang và Võ Nguyễn Thùy Trang (2020) [47], Nguyen Thi Kim Ngan, Nguyen Thi Huong Lan (2020) [48]… Các bài viết này đều tiến hành đối chiếu một phạm trù Thái độ/ Thang độ/ Giọng điệu, hoặc chỉ đối chiếu một tiểu hệ thống
18
trong các phạm trù đó (chủ yếu là trong phạm trù Thái độ) của bộ khung đánh giá với
nguồn ngữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt (ngữ liệu: các diễn ngôn bình luận trên báo chí
hoặc lời đánh giá của giám khảo trong một số chương trình thực tế), từ đó đưa ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hai nguồn ngữ liệu. Các nghiên cứu này là tài
liệu tham khảo hữu ích cho luận án của chúng tôi.
- Diễn ngôn thuộc lĩnh vực giáo dục: hiện nay, trong lĩnh vực giáo dục, có 3 luận án
vận dụng lí thuyết NNĐG để nghiên cứu. Trần Thị Hồng Vân (2011) [33] đã sử dụng bộ
công cụ đánh giá để khám phá thái độ của xã hội với vấn đề chất lượng giáo dục sau
Đại học ở Việt Nam với nguồn dữ liệu được thu thập từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp.
Nghiên cứu này thể hiện tiềm năng áp dụng thành công bộ công cụ đánh giá bằng
tiếng Anh để nghiên cứu NNĐG trong tiếng Việt. Năm 2018, Nguyễn Thị Hương Lan
[49] đã sử dụng bộ khung đánh giá của Martin và White để thực hiện nghiên cứu so
sánh sự thể hiện NNĐG trong sách tiếng Anh tiểu học ở Singapore và sách tiếng Việt
tiểu học ở Việt Nam (lớp 3-4-5). Từ những kết quả so sánh đó, tác giả có những đề
xuất thiết thực cho công cuộc đổi mới sách giáo khoa trong giai đoạn hiện nay. Ngoài
ra, nghiên cứu còn đưa ra một số điều chỉnh trên khung đánh giá gốc của Martin &
White để phù hợp hơn với tiếng Việt, như: thứ nhất, đối với biện pháp Gợi mở
(Provoke), trong tiếng Việt bổ sung hình thức ngôn ngữ mỉa mai, cường điệu hóa và
chửi thề; thứ hai, đối với biện pháp Ra hiệu (Flag), trong tiếng Việt bổ sung hình thức
sử dụng từ xưng hô và phân loại từ hàm ý đánh giá; thứ ba, về phạm trù Thang độ,
trong tiếng Việt bổ sung biện pháp sử dụng từ láy, từ ghép để tăng/ giảm cường độ và
sử dụng từ cổ để thể hiện ý nghĩa về thời gian. Nguyễn Thị Mỹ Lệ (2023) [50] cũng
vận dụng bộ khung đánh giá để tìm hiểu cách sử dụng NNĐG trong bộ sách giáo khoa
tiếng Anh ở cấp trung học cơ sở tại Việt Nam. Tác giả nghiên cứu các nguồn lực ngôn
ngữ và cách thức thể hiện phạm trù Thái độ và Thang độ trong nguồn ngữ liệu. Ngoài
ra, tác giả còn vận dụng lí thuyết thể loại để xem xét NNĐG trong các sách giáo khoa
tiếng Anh đó. Kết quả của nghiên cứu này có thể ứng dụng trong nghiên cứu, giảng
dạy ngôn ngữ học ứng dụng, nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh trong trường
phổ thông và trong dịch thuật.
- Diễn ngôn thuộc lĩnh vực khoa học: việc ứng dụng lí thuyết NNĐG trong lĩnh vực khoa học hiện vẫn còn khá hạn chế, trong phạm vi khảo sát, chúng tôi chỉ ghi nhận được hai công trình tiêu biểu của Nguyễn Bích Hồng. Năm 2021, Nguyễn Bích Hồng [51] đã công bố một bài viết về đặc điểm NNĐG trong kết luận bài báo khoa học thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ học, góp phần vào việc giảng dạy viết học thuật tại Việt Nam. Luận án của Nguyễn Bích Hồng (2023) [52] đã vận dụng lí thuyết NNĐG của Martin & White, lí thuyết thể loại của Swales để nghiên cứu bài tạp chí khoa học chuyên ngành
19
Ngôn ngữ học trong tiếng Anh và tiếng Việt. Nghiên cứu so sánh bài tạp chí khoa học
trong tiếng Anh và tiếng Việt ở hai bình diện: cấu trúc và ngôn ngữ. Từ kết quả phân
tích định tính và định lượng, nghiên cứu đi đến kết luận là cấu trúc thể loại của bài báo khoa học trong tiếng Anh và tiếng Việt khá giống nhau. Tuy nhiên các bài báo tiếng
Anh chú trọng nhiều đến quy trình phân tích xử lí dữ liệu, thảo luận và kết quả đạt
được, còn các bài báo tiếng Việt tập trung trình bày tầm quan trọng của đề tài nghiên
cứu, kết quả nghiên cứu và kết luận. Về NNĐG, tác giả đã thống kê và hiện thực hóa
các nguồn tài nguyên ngôn ngữ thể hiện NNĐG trong bài báo khoa học tiếng Anh và tiếng Việt, từ đó đưa ra nhận xét: tác giả tiếng Anh và tiếng Việt đều thể hiện Thái độ
và Giọng điệu của mình trong bài báo, nhưng sự phân bố của chúng không giống nhau
trong cấu trúc bài báo, còn ở phạm trù Thang độ, người viết tiếng Anh sử dụng nhiều
đánh giá Thang độ hơn người Việt.
- Diễn ngôn thuộc lĩnh vực khác: trong nghiên cứu về “Sự lựa chọn ngôn ngữ đánh giá tình cảm trong một số truyện ngắn Việt Nam‖, Trần Văn Phước [53] đã áp
dụng NNĐG của Martin & White (2005) để thu thập và mô tả cách nhân vật trong
truyện ngắn tiếng Việt sử dụng ngôn ngữ đánh giá tình cảm (affect). Nghiên cứu tập
trung phân tích các biểu hiện cảm xúc theo bốn phương diện: Hạnh phúc, Hài lòng, An
tâm và Mong muốn, được thể hiện dưới hình thức tích cực hoặc tiêu cực, trực tiếp
hoặc gián tiếp, thông qua các phương tiện ngôn ngữ như câu, cụm từ, lớp từ vựng hoặc
từ chức năng xuất hiện trong văn bản. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất
một số hướng tiếp cận hữu ích nhằm hỗ trợ sinh viên và người sáng tác tương lai trong
việc lựa chọn cách biểu đạt thái độ và quan điểm trong các văn bản mang tính đánh
giá. Gần đây, Nguyễn Thị Phương [54] cũng đã vận dụng lý thuyết NNĐG trong đề tài
―Ngôn ngữ đánh giá ngoại hình trong tiếng Việt‖. Kết quả nghiên cứu không chỉ làm
rõ những đặc điểm của ngôn ngữ đánh giá ngoại hình dưới góc nhìn của NNĐG, mà
còn chỉ ra các nguồn lực ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện Thái độ và Thang độ
trong lĩnh vực này.
- Tổng quan về lí thuyết đánh giá và những vấn đề liên nhân có một số bài báo của các tác giả: Nguyễn Thị Hương Lan (2016) [55], Nguyễn Thị Thu Hiền (2016)
[56]. Nguyễn Thị Hương Lan (2016) [55] tổng lược các công trình nghiên cứu về NNĐG và đã khái quát hóa hệ thống lí thuyết về NNĐG, cụ thể là phạm trù Thang độ và Thái độ, đồng thời chỉ ra đường hướng nghiên cứu cho các công trình tiếp theo về mặt thể loại dưới góc nhìn của NNĐG. Còn Nguyễn Thị Thu Hiền (2016) [56] thì tổng quan các đường hướng tiếp cận nét nghĩa liên nhân của diễn ngôn. Tác giả chỉ ra có
hai đường hướng tiếp cận nghĩa liên nhân của diễn ngôn đó là thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống và thuyết đánh giá. Theo tác giả, nghĩa liên nhân được thể hiện trong thuyết ngữ pháp chức năng hệ thống thông qua hai hệ thống: Thức và Tình Thái. Còn
20
ở thuyết đánh giá, nghĩa liên nhân được thể hiện ở cả ba phạm trù: Thái độ (Attitude),
Phân tầng (Graduation) và Tham thoại (Engagement) (thuật ngữ của tác giả). Ngoài
ra, nghĩa liên nhân còn được phân tích theo thuyết tình thái đa thức. Đây là những cơ sở lí thuyết bổ ích cho nghiên cứu của chúng tôi.
Bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu NNĐG trên thế giới và ở Việt
Nam cho thấy NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí chưa được khai thác một cách
triệt để và có hệ thống. Vì thế, đây là một vùng đất trống để chúng tôi lựa chọn nghiên
cứu. Các nghiên cứu trước đó về NNĐG trong các lĩnh vực khác và trong thể loại báo chí là một nguồn tham khảo bổ ích cho chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí 1.1.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về diễn ngôn bình luận báo chí
a. Tổng quan tình hình nghiên cứu về diễn ngôn báo chí Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ của thông tin như hiện nay, diễn ngôn truyền thông nói chung và diễn ngôn báo chí nói riêng đã và đang có sức hút
mạnh mẽ đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ học đã tiếp cận diễn
ngôn báo chí dưới nhiều góc độ, nhiều hướng lí thuyết khác nhau để thực hiện những
mục đích khác nhau.
Lí thuyết ngôn ngữ báo chí: nghiên cứu diễn ngôn báo chí có tính chuyên sâu
theo lí thuyết ngôn ngữ báo chí không thể không nhắc đến các công trình nổi tiếng
như: “Language in the News: Discourse and Ideology in the Press” (Fowler, R., 1991)
[57], “The language of Newspapers” (Reah, 1998) [58], “Telling media tales: the news
story as rhetoric” (White, 1998) [59], “News talk: investigating the language of
journalism” (Colleen Cotter, 2010) [60], “Reporting in a multimedia world: An
introduction to core journalism skills” (Barbara Alysen, Gail Sedorkin, Mandy
Oakham, Roger Patching, 2003) [61] … Các công trình này cung cấp cái nhìn tổng
quan về các đối tượng liên quan đến nhà báo, như: tin tức, khán giả, cơ quan giám sát
và nguồn tin tức, vấn đề pháp lí và đạo đức nghề nghiệp… Họ giải thích các kiến thức
cơ bản về cấu trúc tin tức, các yêu cầu của tin tức và phương tiện truyền thông… đồng thời hướng dẫn cách thu thập và viết tin tức, chụp ảnh tin tức, cách làm việc với các
phương tiện truyền thông nghe, nhìn khác. Chẳng hạn, trong “News talk: investigating the language of journalism” (tạm dịch: Tọa đàm: tìm hiểu ngôn ngữ báo chí), Colleen Cotter (2010) [60] đã đưa ra ba nội dung chính: thứ nhất, tìm hiểu về tin tức và ngôn ngữ tin tức dưới góc nhìn của người hành nghề (người viết báo/ phóng viên), đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến ngôn ngữ và diễn ngôn truyền thông, đặc điểm và xu hướng
của ngôn ngữ truyền thông, từ đó hướng dẫn phóng viên cách đưa tin và hướng dẫn các biên tập viên cách biên tập bài báo; thứ hai: xác định giá trị, phân loại tin tức và nguyên tắc lựa chọn tin tức để in; thứ ba: bàn luận về vấn đề xây dựng câu chuyện tin
21
tức. Những công trình này đã cung cấp cái nhìn tổng quan về nghề báo, ngôn ngữ báo và
đem lại những đóng góp to lớn cho việc nghiên cứu diễn ngôn báo chí.
Lí thuyết ngữ pháp hình thức (truyền thống): các nghiên cứu theo hướng này chủ yếu tập trung vào vấn đề sử dụng ngữ âm, từ vựng và cấu trúc câu trên các bài
báo. Chẳng hạn, Edward Fenech (1978) [62] trong cuốn sách “Contemponary
journalistic Maltese: An analytical and comparative study” (tạm dịch: Tiếng Maltese
trong báo chí đương đại: Một nghiên cứu phân tích và so sánh) đã phân tích ngôn ngữ
Maltese đang được sử dụng trên các tờ báo thời đó, nhằm giúp ích cho những ai quan tâm đến tiếng Maltese nói chung và ngôn ngữ báo chí nói riêng. Bài viết này nghiên
cứu các kí hiệu (kí hiệu dùng cho nguyên âm và phụ âm), các từ loại và thuật ngữ
được sử dụng trên báo chí ở Malta. Ngoài ra, công trình còn tập trung nghiên cứu theo
hướng đa phương thức, tức là kết hợp nghiên cứu các bình diện khác của báo chí, như: nhiếp ảnh, pháp luật… Hoặc với công trình “The Use of Journalistic Language in The Headlines of The Waspada Daily Newspaper” (2023) (Tạm dịch: Việc sử dụng ngôn
ngữ báo chí trong các tiêu đề của tờ nhật báo Waspada) [63], nhóm tác giả Siti
Nurhaliza, Ahmad Thamrin Sikumbang, Suheri Harahap đã phân tích về cách đặt tiêu
đề báo, từ ngữ được sử dụng để đặt tiêu đề báo Nhật báo Waspada (trong tương quan
so sánh với tờ nhật báo Alert) theo phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với
phương pháp phân tích mô tả. Kết quả, các tác giả đã chỉ ra vai trò, đặc điểm của ngôn
ngữ báo trong cách đặt tiêu đề của tờ nhật báo Waspada; chỉ ra một số lỗi mà tờ báo
ấy mắc phải trong việc sử dụng ngôn ngữ báo chí (chẳng hạn: thừa từ, dùng từ chưa
chuẩn xác…) có thể khiến độc giả hiểu nhầm.
Lí thuyết phân tích diễn ngôn: các công trình tiêu biểu cho hướng nghiên cứu
này là: “The language of News Media” (Bell, 1991) [64], “Language and the media”
(Allan Bell, 1995 a) [65], “The discourse structure of news stories” (Bell, 1998) [66],
Some Register Characteristics of Journalistic Language: Are They Universals?” (Elda
Weizman, 1984) [67], “Some Register Characteristics of Journalistic Language
Written in English by Native Speakers and Arabs: A Comparative Study” (Badriah K. Al-Gublan, 2008) [68], “Media discourse” (Kenneth C.C.Kong, 2009) [69],
“Journalism Studies: theory and practice – Language and Journalism” (biên tập: John E.Richardson, 2010) [70], “The language of Media Supporting peace Journalism” (Agus Hari Wibowo, 2018) [71], … Cụ thể, Kenneth C.C.Kong (2009) [69] xem xét cách phân tích diễn ngôn có thể đưa ra những hiểu biết sâu sắc về lí do tại sao tin tức lại được viết như vậy. Nghiên cứu của C.C.Kong thảo luận về thể loại tin tức: báo cáo
giao dịch tài sản. Thể loại này mang đặc điểm của cả bản tin và quảng cáo. Việc pha trộn này thành công hơn so với quảng cáo. Quan điểm quảng cáo của nó có thể dễ dàng được nhận ra nhờ nhãn hiệu “quảng cáo” đầy đủ và sự tập trung một chiều của nó
22
vào sản phẩm/ dịch vụ. John E.Richardson (2010) [70] đã tập hợp nhiều bài nghiên
cứu về ngôn ngữ và báo chí, liên quan đến đề tài của chúng tôi thì gồm có 2 bài viết
tiêu biểu: (1) “Media(ted) Discourse and Society: Rethinking the framework of Critical Discourse Analysis” (Anabela Carvalho) (tạm dịch: Diễn ngôn và xã hội của
phương tiện truyền thông: xem xét lại theo khung phân tích diễn ngôn phê phán). Bài
viết đã chỉ ra 3 khía cạnh quan trọng mà phân tích diễn ngôn báo chí chưa làm được:
trục thời gian trong phân tích diễn ngôn, chiến lược diễn ngôn của các tác nhân xã hội,
các hiệu ứng bổ sung và siêu văn bản của diễn ngôn qua trung gian. Kết quả, nghiên cứu đã cung cấp một cơ sở lí luận và phương pháp luận vào việc tích hợp các vấn đề
này trong phân tích diễn ngôn bằng cách đề xuất một khuôn khổ kết hợp nhiều chiều
kích văn bản với chiều kích ngữ cảnh. (2) ““Objectivity” and “Hard News” Reporting
Across Cultures: Comparing the news report in English, French, Japanese and Indonesian journalism” (Elizabeth A.Thomson, Peter R.R.White, and Philip Kitley) (tạm dịch: Báo cáo ―Khách quan‖ và ―Tin cứng‖ giữa các nền văn hóa: So sánh tin
tức bằng báo chí Anh, Pháp, Nhật Bản và Indonesia). Bài viết đã so sánh ngôn ngữ
đưa “Tin cứng” giữa các ngôn ngữ và nền văn hóa. Bài viết còn đề xuất một khuôn
khổ để nghiên cứu các khái niệm này về mặt ngôn ngữ và xuyên ngôn ngữ, tức là bằng
cách tham khảo các đặc điểm có thể quan sát được một cách có hệ thống của ngôn ngữ
và các cấu trúc tổ chức văn bản được sử dụng trong việc đưa tin tức thời sự. Còn các
công trình của Bell (1991,1998) chúng tôi sẽ trình bày rõ ở phần tiếp theo.
Tất cả những bài viết này mặc dù chưa đề cập trực tiếp đến thể loại diễn ngôn
bình luận trên báo chí nhưng vẫn là những tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu
hiện tại của chúng tôi.
b. Tổng quan tình hình nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí
Nghiên cứu diễn ngôn bình luận báo chí là hướng nghiên cứu diễn ngôn báo chí
theo thể loại. Hiện nay, trên thế giới đang có ba trường phái nghiên cứu về thể loại
(Genre), đó là: phong trào tu từ mới (New Rhetoric school), trường phái SFL (the SFL
school) và trường phái ESP (the English for Specific Purposes (ESP) school).
Phong trào tu từ mới (New Rhetoric school) xuất phát từ các trường đại học
Bắc Mĩ. Một trong những nhân vật hàng đầu của trường phái này chính là Carolyn Miller. Tác giả Miller định nghĩa thể loại là: “một phạm trù diễn ngôn thông thường dựa trên sự điển hình hóa ở quy mô lớn của hành động tu từ; với tư cách là hành động, nó đòi hỏi ý nghĩa từ tình huống và từ bối cảnh xã hội nơi tình huống đó nảy sinh” [72;163]. Một tác giả nổi bật trong trường phái này – Coe (2002) [73] – đã khẳng định
điểm quan trọng trong định hướng nghiên cứu thể loại này chính là mối quan hệ giữa kiểu văn bản và tình huống tu từ. Còn Hyon (1996) [74] thì chỉ ra rằng hầu hết các nghiên cứu về thể loại ở trường này đều liên quan đến việc giảng dạy ngôn ngữ thứ
23
nhất, đồng thời ông cũng nói thêm rằng vì đối tượng nghiên cứu của trường này chính
là hành động tu từ trong bối cảnh xã hội của nó, nên phương pháp nghiên cứu có xu
hướng mang tính dân tộc, văn hóa hơn là ngôn ngữ học. Như vậy, có thể thấy, các tác giả của trường phái Phong trào tu từ mới đều thống nhất hướng tiếp cận đối tượng
nghiên cứu dựa trên lí thuyết về ngữ cảnh.
Trường phái SFL thường được gọi là trường phái Sydney. Nó dựa trên lí thuyết
SFL và được phát triển bởi một nhóm các nhà ngôn ngữ học tại Đại học Sydney, trong
đó J.Martin là nhân vật chủ chốt. J.Martin (1984) định nghĩa thể loại là “một hoạt động có mục đích, có mục tiêu và được dàn dựng trong đó các diễn giả tham gia với tư cách
là thành viên của nền văn hóa đó” [75; 25]. Có thể hiểu đơn giản rằng, thể loại, theo
định nghĩa của Martin, là một hoạt động văn hóa xã hội bao gồm các giai đoạn mà
người nói/ viết phải trải qua để đạt được mục tiêu của họ. Sau này, Martin & White [4;32-33] cũng giải thích, thể loại mang tính xã hội bởi chúng ta tham gia vào thể loại cùng với những người khác, có mục đích bởi chúng ta dùng thể loại để hoàn thành
nhiệm vụ, và được phân chia theo các giai đoạn để đạt được mục đích xã hội đó. Phân
tích thể loại theo trường phái Sydney là phân tích các giai đoạn của quá trình hình
thành văn bản ở cấp độ vĩ mô (văn bản) và cấp độ vi mô (ngữ pháp từ vựng). Cách tiếp
cận thể loại theo SFL được ứng dụng sâu rộng vào việc phát triển ngôn ngữ hoặc dạy
đọc/ viết ở các trường tiểu học và cho người lớn nhập cư.
Trường phái thể loại cuối cùng chính là trường phái ESP. Hai tác giả nổi bật
của trường này là John Swales và Vijay Bhatia. Theo Swales [76;58], “Một thể loại
bao gồm một nhóm các sự kiện giao tiếp, các thành viên của nhóm chia sẻ một số mục
đích giao tiếp”. Định nghĩa của Swales về thể loại nhấn mạnh vào một cộng đồng diễn
ngôn chia sẻ các mục đích giao tiếp, những mục đích định hình nội dung và phong
cách của thể loại. Trường phái Sydney coi thể loại là một quá trình xã hội bao gồm
“các giai đoạn” (stages), còn trường phái ESP có phương pháp tiếp cận là coi các thể
loại được cấu trúc theo sơ đồ với “các bước đi” (moves). Đối với phương pháp tiếp
cận, cả hai trường đều tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ, cụ thể là họ dựa trên lí thuyết SFL. Về mặt ứng dụng sư phạm, động lực để khám phá thể loại ở hai trường phái này là
mục tiêu của việc giảng dạy ngôn ngữ và thiết kế tài liệu cho những người không phải là người bản ngữ. Tuy nhiên vẫn có sự khác biệt giữa hai trường này. Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Sydney tập trung vào các thể loại ở trường tiểu học như: kể lại (recounts), tường thuật (narratives), giải thích (exposition)… Còn trường phái ESP thì tập trung nghiên cứu các thể loại học thuật và chuyên nghiệp, chẳng hạn: tài liệu
nghiên cứu (research papers), thư kinh doanh (business letters), quảng cáo (advertisements), …
24
Luận án đề cập đến diễn ngôn bình luận trên các báo in như một thể loại chuyên
nghiệp. Tuy nhiên, luận án không lựa chọn tiếp cận thể loại theo trường phái ESP vì
ESP chủ yếu tập trung vào các thể loại học thuật, chuyên nghiệp trong môi trường chuyên biệt, với cấu trúc tương đối ổn định và dựa trên mô hình “các bước đi”
(moves). Còn bình luận báo chí là một thể loại truyền thông đại chúng, mang tính linh
hoạt, gắn với bối cảnh xã hội và mục tiêu tác động đến người đọc. Trong khi đó,
trường phái Sydney – đặc biệt qua hướng phát triển thể loại truyền thông của Iedema,
Feez và White (xem Iedema và cộng sự, 1994) [77] – coi thể loại là quá trình xã hội gồm các giai đoạn, phù hợp hơn để phân tích các thực hành diễn ngôn trong truyền
thông. Do đó, nghiên cứu này áp dụng lí thuyết thể loại của trường phái Sydney kết
hợp với lí thuyết thể loại truyền thông để phân tích bình luận báo chí như một thể loại
chuyên nghiệp trong lĩnh vực truyền thông.
Các thể loại báo chí được các nhà ngôn ngữ học quan tâm, tập trung nghiên cứu
là: tin tức, xã luận và bình luận.
Thể loại tin tức: có rất nhiều công trình nghiên cứu về thể loại này. Có thể kể
đến một số công trình nổi bật như: “News as Discourse” (Van Dijk, 1988) [78], “The
language of News Media” (Bell, 1991) [64], “The discourse structure of news stories”
(Bell, 1998) [66], “Telling media tales: the news story as rhetoric” (White, 1998) [79],
“Style, Structure and Ideology in English and Vietnamese Business Hard News
Reporting – A Comparative Study” (Duc Duy Vo, 2011) [35], “News discourse and
digital currents: A corpus-based Genre Analysis of news tickers” (Antonio Fruttaldo,
2017) [80]. Cụ thể, Van Dijk (1988) [78] nghiên cứu cấu trúc của diễn ngôn tin theo
hướng tiếp cận tri nhận. Tác giả chỉ ra rằng, trong diễn ngôn tin, các cấu trúc vĩ mô
(macrostructures) được tiết lộ trong các tiêu đề và dẫn đề. Lược đồ tin (News
schemata) dựa trên một cấu trúc kể chuyện gồm tóm tắt (tiêu đề và dẫn đề), sự kiện
chính, bối cảnh, kết quả (đánh giá và dự đoán) và bình luận. Còn Bell (1991,1998)
[64], [66] dựa trên mô hình tường thuật cổ điển của Labor (1972), ông đã đề xuất một
khuôn khổ phân tích cấu trúc tin tức, trong đó một bản tin thời sự gồm 3 thành phần chính: thông tin (attribution), tóm tắt (abstract) và câu chuyện (story). Thông tin
(Attribution) bao gồm các thông tin như tên của hãng tin, tên nhà báo; tóm tắt (abstract) bao gồm: tiêu đề và lời dẫn; câu chuyện (story) là phần phức tạp nhất, có thể được chia thành các tình tiết (episodes) và sự kiện (events). White (1998) [79] cũng nghiên cứu về cấu trúc bản tin theo quỹ đạo (orbital structure). Cấu trúc ấy bao gồm hạt nhân (tiêu đề và dẫn đề) và các vệ tinh độc lập trong phần nội dung, liên kết với
tiêu đề/ dẫn đề theo các mục đích khác nhau: tạo dựng, ngữ cảnh hóa, giải thích và đánh giá. Cả ba tác giả mặc dù sử dụng những thuật ngữ và cách giải thích khác nhau,
25
nhưng nhìn chung họ đều thống nhất về cấu trúc của bản tin: tiêu đề - dẫn đề - nội
dung và một số yếu tố khác.
Thể loại xã luận: công trình “The structure of newspaper editorials” (Bolivar, 1994) (tạm dịch: Cấu trúc của bài xã luận trên báo) [81] nghiên cứu về cấu trúc các
bài xã luận báo chí bằng cách sử dụng một đơn vị gọi là bộ ba (triad). Bolivar cho rằng
chức năng của bộ ba là đàm phán việc truyền tải thông tin và đánh giá trong diễn ngôn
viết. Hệ thống bộ ba của Bolivar tuân theo trình tự SDR (tình huống – phát triển –
khuyến nghị) (S-Situation; D-Development; R-Recommendation), và bộ ba này có thể tạo nên một đơn cấp cao hơn là sự tiến triển (Mv-Movement). Còn công trình “From
Genre to Sentence: the Leading Article and its Linguistic Realization” (2000) (tạm
dịch: Từ thể loại đến câu: lời dẫn bài báo và hiện thức hóa ngôn ngữ của nó) [82] của
Vestergaard thì nghiên cứu về các đặc điểm của bài xã luận. Theo Vestergaard, một bài xã luận bao gồm ba đặc điểm chính: thứ nhất, giả định về kiến thức nền của độc giả về sự kiện thực tế; thứ hai, phản ánh mối quan tâm chính đến hậu quả hiện tại hơn
là quá khứ; thứ ba, mức độ phổ biến của các đánh giá hiển ngôn. Cấu trúc bên trong
của bộ ba này được mô tả theo ba lượt cơ bản là lời dẫn (L-Lead), tiếp lời (F-Follow)
và đánh giá (V-Valuate). Theo tác giả, cấu trúc của một bài xã luận gồm bốn phần: mô
tả vấn đề, các giải pháp đề xuất, lập luận về giải pháp, và đánh giá giải pháp. Ngoài ra,
còn có thể kể đến nghiên cứu “Language Change in English Newspaper Editorials”
(2002) (tạm dịch: Thay đổi ngôn ngữ trong các bài xã luận báo tiếng Anh) [83] của
Westin. Công trình này nghiên cứu sự thay đổi ngôn ngữ của thể loại xã luận trong thế
kỉ 20. Nghiên cứu được thực hiện trên khối ngữ liệu là 864 bài xã luận, được lấy từ tờ
Daily Telegraph, The Guardian và The Times. Kết quả, Westin tìm thấy một điểm mới
trong cách viết các bài xã luận: các bài xã luận ít sử dụng các động từ thì quá khứ
nhưng sử dụng các câu ngắn nhiều hơn, giảm sử dụng các mệnh đề phụ. Tác dụng: giúp
ngôn ngữ báo chí trở nên gần gũi với độc giả hơn.
Thể loại bình luận: với công trình “Newspaper commentaries on terrorism in
China and Australia: a constrastive genre study” (2006) (tạm dịch: Bình luận trên báo về chủ nghĩa khủng bố ở Trung Quốc và Australia: một nghiên cứu về thể loại đối
chiếu) [84], W. Wang đã nghiên cứu diễn ngôn bình luận báo chí có cùng một chủ đề theo hướng đối chiếu thể loại. Richardson với công trình “Analysing newspapers: An approach from critical discourse analysis” (2007) (tạm dịch: Phân tích báo chí: Cách tiếp cận từ phân tích diễn ngôn phê phán) [85] đã giới thiệu một hướng tiếp cận hiện đại về ngôn ngữ báo chí và việc áp dụng phương pháp phân tích diễn ngôn để phân
tích một thể loại báo chí cụ thể.
Những nghiên cứu này là tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu mà chúng
tôi đang thực hiện.
26
1.1.2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước về diễn ngôn bình luận báo chí
Ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ 21, báo chí trở thành đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều nhà nghiên cứu. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về báo chí và ngôn ngữ báo chí nói chung. Các công trình này đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan
về ngôn ngữ báo và nghề làm báo. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu nổi bật của
các tác giả như: Nguyễn Đức Dân, Trần Quang, Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành Lợi,
Phạm Minh Sơn, Vũ Quang Hào, Dương Xuân Sơn, Hà Minh Đức, Tạ Ngọc Tấn,
Philippe Gaillard… “Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Hà Minh Đức, 1997) [86] và “Cơ sở lý luận báo chí – đặc tính chung và phong cách” (Hà Minh Đức,
2000) [87] đã giới thiệu về đặc trưng của báo chí Việt Nam. Tạ Ngọc Tấn trong “Từ lí
luận đến thực tiễn báo chí” (1999) [88] giới thiệu những kiến thức cơ bản về các
phương tiện truyền thông. Trong “Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản” (2007) [89], Nguyễn Đức Dân đã nêu lên vai trò, đặc điểm báo chí (thời sự, trung thực và hấp dẫn), đặc điểm ngôn ngữ báo chí nói chung (chính xác, hấp dẫn; là ngôn ngữ sự kiện;
câu sử dụng nhiều động từ hơn tính từ) và phong cách ngôn ngữ của báo chí. Đồng
thời, ông còn tìm hiểu về ngôn ngữ bài tin và thông tin chìm trong báo chí. Cũng
nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí nhưng Vũ Quang Hào (2007) [90] lại tiếp cận từ một
góc độ khác. Tác giả nghiên cứu về: ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí và các vấn đề
lệch chuẩn mực; ngôn ngữ báo chí ở các phong cách: chính luận, khoa học, hành
chính; vấn đề tên riêng, thuật ngữ khoa học, chữ tắt, số liệu trên báo chí; ngôn ngữ của
tít báo và các lỗi thường mắc khi đặt tít báo; ngôn ngữ phát thanh; ngôn ngữ tin quốc
tế đối nội, ngôn ngữ quảng cáo và một số nội dung liên quan đến thuật ngữ báo chí.
Dương Xuân Sơn (2014) [91] thì tìm hiểu về các đặc trưng, đặc điểm của thông tin báo
chí (03 đặc trưng: báo chí là loại hình hoạt động thông tin đại chúng, là loại hình hoạt
động chính trị - xã hội và là loại hình kinh tế dịch vụ. 08 đặc điểm: thông tin thời sự;
tính công khai; tính mục đích của thông tin báo chí; tính định kì; tính phong phú, đa
dạng, nhiều chiều; tính dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo; tính tương tác và tính đa phương
tiện) và phân loại các loại hình truyền thông (báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử và các loại hình báo chí truyền thông khác (báo chí công dân, sách và xuất bản sách,
quảng cáo, ảnh báo chí)). Các công trình “Về diện mạo báo chí Việt Nam” (Phan Quang, 2001) [92] và “Nghề văn nghiệp báo” (Phan Quang, 2005) [93], “Nghề làm báo” (Philippe Gaillard, 2003) [94] đã phác họa những nét đặc thù của diện mạo báo chí Việt Nam và hướng dẫn nghiệp vụ làm báo, đặc biệt các tác giả đã nêu kinh nghiệm viết thể loại phóng sự và phóng sự điều tra. Công trình “Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông” (Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường và Trần Quang, 2011) [95] đã trình bày khái quát về những vấn đề chung của báo chí, chức năng, nguyên tắc của báo chí và những vấn đề có tính phương pháp luận làm cơ sở cho việc tìm hiểu, nghiên cứu
27
các vấn đề cụ thể trong lĩnh vực báo chí truyền thông. Đặc biệt, với nghiên cứu “Các
thể loại báo chí chính luận” (2007) [96], Trần Quang đã nêu lên các quan niệm khác
nhau về thể loại, và trình bày đặc điểm của từng thể loại trong báo chí chính luận: bài phản ánh, bình luận, xã luận, tiểu luận, điều tra, phê bình, điểm báo, thư trên báo. Các
nghiên cứu trên đây đã giúp chúng tôi có cái nhìn rõ nét hơn về thể loại báo chí mà
nghiên cứu này đang hướng đến.
Ở Việt Nam, ngôn ngữ báo chí được nghiên cứu từ nhiều góc độ, như nghiên
cứu chung về đặc điểm báo chí và ngôn ngữ báo chí, nghiên cứu cấu trúc của một bài báo, nghiên cứu về tác dụng và ảnh hưởng của báo chí đến bạn đọc, nghiên cứu báo
chí dưới góc nhìn của diễn ngôn, của thể loại… Nghiên cứu các diễn ngôn trên báo chí
dưới góc nhìn của thể loại chỉ mới được quan tâm trong những năm gần đây, gồm:
Thể loại tin và phóng sự: Nguyễn Hồng Sao là người tiên phong trong việc sử dụng lí thuyết NNĐG để tìm hiểu thể loại tin quốc tế và thể loại phóng sự trên báo tiếng Việt và báo tiếng Anh với nghiên cứu “So sánh ngôn ngữ báo chí tiếng Việt và
tiếng Anh qua một số thể loại” (2010) [38]. Tác giả đã chỉ ra sự khác biệt về cấu trúc
thể loại và nguồn lực thể hiện ngôn ngữ lượng giá trong hai thể loại đó trên báo tiếng
Việt và tiếng Anh. Nguyễn Thị Thanh Hương trong luận án “Đối chiếu ngôn ngữ
phóng sự trên báo in tiếng Anh và tiếng Việt” (2003) [97] đã vận dụng lí thuyết của
SFL để đối chiếu thể loại phóng sự trên báo in tiếng Anh và tiếng Việt qua các siêu
chức năng: chức năng tư tưởng qua thông tin trong cú, chức năng liên nhân qua thái độ
người viết, chức năng văn bản qua sự liên kết và phân phối các thông tin chính trong
bài phóng sự.
Thể loại phỏng vấn và xã luận: Lê Thị Nhã [98] với nghiên cứu “Thể loại
phỏng vấn trên báo in việt nam hiện nay (khảo sát báo Lao Động, Thanh Niên, Hà Nội
mới và Tuổi Trẻ TPHCM từ tháng 1/2006 đến tháng 6/2008)” (2010) đã tìm hiểu về
cấu trúc một bài phỏng vấn, cách đặt câu hỏi phóng vấn như thế nào. Nghiên cứu này
đã giúp người đọc hiểu những nét cơ bản về thể loại phỏng vấn, đồng thời còn hướng
dẫn những người mới bắt đầu hành nghề báo cách đặt câu hỏi phóng vấn như thế nào cho hấp dẫn, đúng trọng tâm. Nguyễn Thị Hồng Nga trong luận án “Phân tích diễn
ngôn xã luận (trên ngữ liệu báo Nhân dân giai đoạn 1964-1975)” (2018) [99] đã giới thiệu một số khái niệm quan trọng liên quan đến phân tích diễn ngôn xã luận, các đặc trưng điển hình của thể loại diễn ngôn này. Đặc biệt, nghiên cứu này tập trung tìm hiểu các phương thức thể hiện chức năng tư tưởng, chức năng liên nhân và chức năng văn bản trong diễn ngôn xã luận báo Nhân Dân. Tác giả đã khám phá được các yếu tố ngôn
ngữ, các chiến lược lịch sự, hệ thống lập luận của các bài xã luận tác động làm thay đổi nhận thức, thúc đẩy phát triển xã hội theo định hướng chung của Đảng trong giai đoạn lịch sử 1964-1975.
28
Thể loại bình luận: bình luận là thể loại được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ
và báo chí quan tâm, bởi nó có thể bộc lộ trực tiếp thái độ của người viết báo, quan
điểm của toàn soạn báo đối với một vấn đề nào đó của xã hội. “Ngôn ngữ bình luận trong báo in tiếng Việt hiện nay” (Huỳnh Thị Chuyên, 2014) [100] là công trình
nghiên cứu phân tích diễn ngôn phê phán đầu tiên trên thể loại văn bản báo chí. Đây là
cách phân tích diễn ngôn theo hướng giải thích chức năng ngữ nghĩa gắn với hình thức
biểu hiện trong diễn ngôn, để tìm ra cơ chế quy định sự sắp xếp, bố trí các đơn vị ngôn
ngữ trong văn bản. Nghiên cứu trình bày cơ sở lí luận về ngữ pháp chức năng hệ thống, về phân tích diễn ngôn và phân tích diễn ngôn phê phán (CDA), về diễn ngôn
báo chí và đặc điểm ngôn ngữ báo chí bình luận. Nghiên cứu tiến hành khảo sát và
phân tích các phương tiện (danh ngữ hóa, quá trình chuyển tác, các quan hệ từ, yếu tố
tình thái), phương thức (chu cảnh, lập luận, biểu thức quy chiếu, cấu trúc Đề - Thuyết, cấu trúc văn bản) của ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện các chức năng tư tưởng kinh nghiệm, chức năng liên nhân và chức năng văn bản của văn bản bình luận. Kết quả:
dựa trên kiến thức và sự phân tích về thực tiễn xã hội, trật tự xã hội và quan hệ quyền
– thế, nghiên cứu này đã phân tích tỉ mỉ sự hiện thực hoá quyền lực của diễn ngôn văn
bản bình luận trên báo chí. ―Phân tích ngôn ngữ bình luận về xã hội trên báo chí tiếng
Anh và tiếng Việt nhìn từ lý thuyết thẩm định‖ (Võ Nguyễn Thùy Trang, Trương Lê
Bích Trang, Dương Quang Trung, 2020) [101] so sánh sự giống và khác biệt của các
bài bình luận về xã hội trên báo tiếng Anh và tiếng Việt ở phạm trù Thái độ (xét ở hai
tiểu hệ thống: Phán xét (Judgment) và Đánh giá (Appreciation)) và phạm trù Thang
độ. Phạm vi nghiên cứu của công trình này là tập trung vào các giá trị thái độ hiển
ngôn. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long (2023) “Đặc
điểm ngôn ngữ thể loại diễn ngôn bình luận kinh tế - xã hội trên báo Mỹ (có đối chiếu
với các bản dịch trên báo tiếng Việt)” [102] đã khái quát các quan niệm về thể loại
bình luận báo chí, đưa ra cấu trúc của bài bình luận trên báo Mỹ và đặc điểm các yếu
tố bình luận trong diễn ngôn bình luận kinh tế - xã hội của báo Mỹ. Từ đó, so sánh với
các bài bình luận trên báo tiếng Việt được dịch từ báo Mỹ. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long được thực hiện dựa trên lí thuyết lập luận và lí thuyết phân tích thể loại
diễn ngôn báo chí từ góc nhìn SFL.
Một số thể loại báo chí khác: Ngoài các thể loại cơ bản nói trên, các nhà ngôn ngữ còn nghiên cứu báo chí ở một số thể loại khác, chẳng hạn: “Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí” (Nguyễn Thị Mai Phương, 2009) [103], “Một vài nhận xét về ngôn ngữ quảng cáo bằng tiếng Việt trên báo chí cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX” (Đinh Văn Đức, Vũ Đức Nghiệu, Dương Hồng Nhung, 2007) [104].
Nghiên cứu báo chí theo thể loại không phải là một hướng đi mới nhưng nghiên cứu báo chí theo thể loại dưới góc nhìn của lí thuyết NNĐG thì hiện nay vẫn còn là
29
một khoảng không chưa được lấp đầy. Do đó, nghiên cứu này của chúng tôi tiếp thu
thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước, sử dụng những thành quả ấy làm cơ
sở lí luận để thực hiện nghiên cứu của mình nhằm góp phần lấp đầy khoảng không ấy.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Ngôn ngữ học chức năng hệ thống và ngôn ngữ đánh giá
SFL được phát triển trên cơ sở ngữ pháp chức năng, là khuynh hướng nghiên
cứu ngôn ngữ chú trọng vào chức năng giao tiếp. Sự khác biệt cơ bản giữa ngữ pháp
chức năng và SFL nằm ở phạm vi nghiên cứu: ngữ pháp chức năng chủ yếu giới hạn ở cấp độ câu, trong khi SFL mở rộng phạm vi phân tích đến cấp độ diễn ngôn. Hơn nữa,
SFL không chỉ quan tâm đến ngôn ngữ mà còn quan tâm đến các phương thức khác
như hình ảnh, âm thanh… Khác với ngữ pháp chức năng diễn ngôn của Dik, tập trung
nghiên cứu ngôn ngữ trên 3 bình diện (kết học, nghĩa học, dụng học), SFL đặt trọng tâm vào bình diện nghĩa. Theo Halliday, nghĩa được tổ chức theo ba siêu chức năng (metafunctional) cơ bản: siêu chức năng kinh nghiệm (ideational metafunction); siêu
chức năng liên nhân (interpersonal metafunction); siêu chức năng văn bản (textual
metafunction). Trong các chức năng này, nghĩa liên nhân đóng vai trò quan trọng trong
việc thể hiện mối quan hệ giữa các tham thể trong giao tiếp, thể hiện lập trường của người
nói/ viết, cũng như mức độ tương tác giữa các bên. Trong “An Introduction to
Functional Grammar”, Halliday cho rằng siêu chức năng liên nhân liên quan đến việc
thiết lập quan hệ xã hội và biểu đạt thái độ. Halliday khẳng định rằng nghĩa liên nhân
tập trung vào việc xây dựng và duy trì quan hệ xã hội thông qua ngôn ngữ. Nghĩa liên
nhân cho phép người nói/ viết bộc lộ thái độ, quan điểm và cảm xúc khi giao tiếp [1;
68]. Đến năm 2014, Halliday & Matthiessen [105] bổ sung rằng nghĩa liên nhân không
chỉ biểu đạt thái độ mà còn giúp xác lập và thương lượng vai trò xã hội giữa các bên
tham gia giao tiếp [105; 30]. Trong khi đó, Thompson (2014) [106; 46-47] nhấn mạnh
rằng nghĩa liên nhân không chỉ giúp người nói đảm nhận vai trò mà còn thể hiện sự
đánh giá, phán đoán và điều chỉnh mối quan hệ với người khác thông qua ngôn ngữ.
Như vậy, nghĩa liên nhân không chỉ đóng vai trò trong việc truyền tải nội dung mà còn có chức năng quan trọng trong việc xây dựng và duy trì quan hệ xã hội, giúp người nói
điều chỉnh mức độ tương tác cũng như thái độ của mình trong giao tiếp.
Nghĩa liên nhân được thể hiện qua hai thành phần chính, gồm: (1) Thức (Mood): cách tổ chức câu để thể hiện vai trò của người nói (ví dụ: câu trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh); (2) Tình thái (Modality): mức độ chắc chắn, khả năng, nghĩa vụ trong lời nói (ví dụ: must, can, might trong tiếng Anh). Ngoài các yếu tố trên, nghĩa
liên nhân còn được thể hiện qua các yếu tố khác, như: đại từ nhân xưng (Personal pronouns) (sử dụng “tôi”, “chúng ta” hay “bạn” thể hiện mức độ thân mật hoặc xa
30
cách giữa người nói và người nghe) và cấp độ lịch sự (Politeness) (sử dụng các yếu tố
như kính ngữ (dạ, vâng, thưa…), từ ngữ giảm nhẹ giúp điều chỉnh quan hệ xã hội).
Nghĩa liên nhân trong SFL có mối quan hệ chặt chẽ với lí thuyết đánh giá, một nhánh mở rộng do Martin & White (2005) phát triển nhằm nghiên cứu cách thức con
người thể hiện thái độ, lập trường và sự đánh giá trong giao tiếp. Nếu nghĩa liên nhân
tập trung vào cách người nói sử dụng ngôn ngữ để thể hiện thái độ, vai trò xã hội và
mức độ tương tác, thì lí thuyết NNĐG giúp phân tích sâu hơn cách diễn đạt thái độ,
quan điểm và mức độ nhấn mạnh trong lời nói.
Bộ công cụ đánh giá được phát triển bởi Martin và các cộng sự dựa trên khung
lí thuyết SFL (Martin & White, 2005 [4]; Martin & Rose, 2008 [107]). Coffin &
O‟Halloran (2006) cho rằng bộ công cụ này cho ta một cách thức nghiên cứu toàn diện
và có hệ thống để phát hiện “các mô hình NNĐG xuất hiện trong một văn bản nhất định, một nhóm các văn bản, hay trong diễn ngôn cơ quan công sở” [108;82]. Theo Martin & White (2005) [4], khung đánh giá được xem như một cách tiếp cận tìm hiểu
những cách ngôn ngữ được sử dụng để đánh giá, áp dụng lập trường, xây dựng văn
bản, và thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân, đồng thời khung lí thuyết đánh giá còn
quan tâm đến chức năng xã hội của nguồn tài nguyên ngôn ngữ này. Vì thế, có thể
khẳng định lí thuyết đánh giá cung cấp một bộ công cụ để khám phá NNĐG trong văn
bản bằng cách phân tích nguồn tài nguyên mang chức năng liên nhân, hơn nữa nó còn
cho thấy những tác động về mặt xã hội xuyên suốt trong toàn văn bản. NNĐG nằm ở
tầng ngữ nghĩa diễn ngôn trong hình 1.4:
Hình 1.4. Các tầng ngôn ngữ và siêu chức năng của ngôn ngữ [4;309] Hình 1.4 giải thích mối quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ cảnh qua các tầng (strata) khác nhau, từ khái quát đến cụ thể. Ngữ cảnh là tầng cao nhất, trong đó, ngữ cảnh văn hóa thể hiện các giá trị, niềm tin, quy ước xã hội… chi phối việc sử dụng
ngôn ngữ trong từng nền văn hóa; ngữ cảnh tình huống được mô tả bằng ba biến tố của ngữ vực là Trường, Không khí và Cách thức. Theo trường phái này, ngôn ngữ được coi là một hệ thống tầng bậc, gồm: tầng ngữ nghĩa diễn ngôn, tầng ngữ pháp – từ
31
vựng, và tầng ngữ âm/ chữ viết. Tầng ngữ nghĩa diễn ngôn được hiện thực hóa thông
qua tầng ngữ pháp – từ vựng, còn tầng ngữ pháp – từ vựng thì được hiện thực hóa
bằng tầng ngữ âm/ chữ viết. NNĐG ở vị trí tầng ngữ nghĩa diễn ngôn. Các tầng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các tầng ngữ nghĩa và ngữ pháp mã hóa ngữ cảnh xã
hội và văn hóa, ngược lại, thông tin từ tầng ngữ cảnh sẽ được hiện thực hóa dần xuống
qua từng tầng để trở thành ngôn ngữ cụ thể mà người nghe/ đọc tiếp nhận. Ngữ cảnh có
tác động lớn đến việc giải mã văn bản. Ngữ cảnh tình huống được mô tả thông qua Ngữ
vực (Register).
Ngữ vực Theo Halliday, ngữ vực là một cấu hình nghĩa có tính chất tiềm năng của văn
bản, gắn liền với đặc điểm tình huống, được đặc trưng bởi 3 phương diện: Trường
(field), Không khí (tenor) và Cách thức (mode).
Trường (field) của diễn ngôn phản ánh chức năng xã hội của ngôn ngữ trong một sự kiện giao tiếp cụ thể. Nó thể hiện bối cảnh tổng quát, trong đó văn bản được sử
dụng nhằm phục vụ một mục đích nhất định của người nói/ viết. Trường bao gồm đề
tài – chủ đề (subject – matter) và đóng vai trò quan trọng trong việc định hình giọng
điệu xã hội của văn bản thông qua nội dung được đề cập.
Không khí (tenor) của diễn ngôn phản ánh mối quan hệ giữa những người tham
gia giao tiếp, từ đó xác định loại hình giọng điệu phù hợp với vai trò của từng đối
tượng.
Cách thức (mode) của diễn ngôn là cách tổ chức và sử dụng ngôn ngữ phù hợp
với bối cảnh giao tiếp, chịu sự chi phối của điều kiện tạo lập văn bản.
Trong SFL, Trường, Không khí và Cách thức của diễn ngôn là một khung khái
niệm để thể hiện ngôn cảnh xã hội như là một môi trường tín hiệu học trong đó người
ta trao đổi ý nghĩa. Những yếu tố này giữ vai trò chi phối quan trọng đối với việc lựa
chọn và triển khai các nguồn lực ngôn ngữ đánh giá.
1.2.2. Lí thuyết ngôn ngữ đánh giá
Martin & White (2005) phân loại khung đánh giá thành 3 hệ thống: Thái độ (Attitude) – thể hiện cảm xúc, sự đánh giá tích cực hoặc tiêu cực; Giọng điệu
(Engagement) – chỉ mức độ cam kết hoặc mở rộng đối thoại với người khác; và Thang độ (Graduation) – điều chỉnh mức độ mạnh/ yếu của một phát ngôn [4;35]. 1.2.2.1. Hệ thống Thái độ
Hệ thống Thái độ bao gồm ba bình diện là cảm xúc (emotion), đạo đức (ethics) và thẩm mĩ (aesthetics) [4;42]. Cảm xúc được xem là bình diện trung tâm cả các bình
diện ngữ nghĩa này vì nó là nguồn diễn đạt tâm sinh lí đồng hành với con người từ lúc chào đời, Martin gọi là Cảm xúc (affect). Còn đạo đức (ethics) và thẩm mĩ (aesthetics) sau này được gọi bằng các thuật ngữ là Phán xét (judgement) và Thẩm giá
32
(appreciation). Thái độ có thể là tích cực hay tiêu cực, được thể thiện một cách hiển
ngôn hoặc hàm ngôn.
Cảm xúc liên quan đến việc thể hiện những trạng thái tình cảm tích cực hoặc tiêu cực mà con người trải qua. Đó có thể là niềm vui hay nỗi buồn, sự tự tin hay lo âu,
hứng thú hay chán nản trước những sự kiện đang diễn ra hoặc những thực thể xung
quanh. Phán xét phản ánh thái độ của chúng ta đối với hành vi của con người, thể hiện
qua sự ngưỡng mộ hay chỉ trích, khen ngợi hay lên án. Còn Thẩm giá liên quan đến
việc đánh giá giá trị thẩm mĩ hoặc các hiện tượng tự nhiên, thông qua những nhận định về sự quan trọng, đáng mong muốn, hài hòa, tinh tế hay đổi mới…Hệ thống Thái độ
được mô hình hóa trong hình 1.5 dưới đây:
Mong muốn/ Không mong muốn
Hạnh phúc/ Không hạnh phúc
Cảm xúc
An toàn/ Không an toàn
Hài lòng/ Không hài lòng
Phân loại
Thông thường
Khả năng
Thuộc tính cá nhân
Kiên trì
Phán xét
Chân thật
Quy ước xã hội
Đạo đức
Ộ Đ
I
Tác động
Phản ứng
Á H T
Chất lượng
Cân bằng
Tổng hợp
Thẩm giá
Phức tạp
Giá trị
Tích cực
Phân cực
Tiêu cực
Hình 1.5. Hệ thống Thái độ (phỏng theo [4])
33
(a). Cảm xúc (affect) Khi chúng ta giao tiếp, chúng ta thường quan tâm đến việc mình cảm thấy như
thế nào, cảm xúc của mình ra sao. Chủ thể có thể có các phản ứng cảm xúc như vui, buồn, thích, không thích, sợ… đối với các đối tượng hoặc sự kiện đang diễn ra. Martin
và White (2005) đã đưa những cảm xúc này vào nhóm Cảm xúc và phân loại chúng
dựa trên các yếu tố là các hệ thống đối lập như sau [4;46-52]:
(i) Cảm xúc mang tính tích cực (positive) hoặc tiêu cực (negative): thể hiện cảm
xúc vui (tích cực: đội trưởng vui vẻ) hay cảm xúc buồn (tiêu cực: đội trưởng buồn). Tuy nhiên, ranh giới giữa tích cực và tiêu cực không phải lúc nào cũng rõ ràng đối với
tất cả các thuật ngữ liên quan đến cảm xúc. Do đó, để phân loại cảm xúc tích cực và
tiêu cực thì chúng ta cần phải dựa vào ngữ cảnh.
(ii) Cảm xúc được hiện thực hoá thông qua sự đột biến của hành vi (surge of behaviour) (Đội trưởng khóc) hay liên quan đến trạng thái cảm xúc (emotive state) hoặc quá trình tinh thần (mental process) đang diễn ra (Đội trưởng cảm thấy buồn /
Đội trưởng không thích rời đi). Về mặt ngữ pháp, sự khác biệt này được xây dựng
như sự đối lập giữa các quá trình hành vi so với tinh thần hoặc quan hệ.
(iii) Cảm xúc được hiện thực hóa thông qua phản ứng với tác thể khác (A
reaction to a trigger) (Đội trưởng không thích rời đi) hoặc tâm trạng ẩn chứa bên
trong (Đội trưởng buồn). Về mặt ngữ pháp, có sự đối lập giữa các quá trình tinh thần.
(iv) Cảm xúc được phân loại theo thang độ: thấp (Đội trưởng không thích rời
đi) – trung bình (Đội trưởng ghét việc rời đi) – cao (Đội trưởng chán ghét việc rời đi).
(v) Cảm xúc được phân loại dựa theo dấu hiệu trạng thái cảm xúc tiềm ẩn
(irrealis: cảm xúc tiềm ẩn) và cảm xúc ngay trước những hành động đang diễn ra
(realis: cảm xúc trực tiếp). Ví dụ:
* Tiềm ẩn: “The captain feared leaving.” (Đội trưởng sợ rời đi.)
* Cảm xúc trực tiếp: “The captain disliked leaving”. (Đội trưởng không thích
rời đi)
Cảm xúc tiềm ẩn luôn hàm ý một tác nhân gây ra cảm xúc, được thể hiện thông
qua sự mong muốn/ không mong muốn (inclination/ disclination) trong bảng 1.2:
Bảng 1.2. Cảm xúc tiềm ẩn [4;48]
Mong muốn/ không mong muốn Hành vi Từ vựng hiện thực hóa
Run rẩy Cảnh giác
Sợ hãi Rùng mình Đáng sợ
Thu mình lại Khủng bố
Bỏ lỡ Đề nghị
Khát khao Mong mỏi Yêu cầu
Khao khát Nhu cầu
34
(vi) Cảm xúc được phân thành ba nhóm cảm xúc chính: Hạnh phúc/ không
hạnh phúc (un/happiness), An toàn/ không an toàn (in/security), Hài lòng/ không hài
lòng (dis/satisfaction).
+ Hạnh phúc/ không hạnh phúc: bao hàm những cảm xúc liên quan đến
“chuyện của trái tim” – buồn, ghét, hạnh phúc và yêu thương. Ví dụ:
“The captain felt sad/happy.” (Thuyền trưởng cảm thấy buồn/vui.)
+ An toàn/ không an toàn: bao hàm những cảm xúc liên quan đến “vấn đề an
sinh xã hội” – lo lắng, sợ hãi, tự tin và tin tưởng. Ví dụ:
“The captain felt anxious/confident.” (Thuyền trưởng cảm thấy lo lắng/tự tin.)
+ Hài lòng/ không hài lòng: bao hàm những cảm xúc liên quan đến “vấn đề theo
đuổi mục tiêu” – buồn chán, không hài lòng, tò mò và kính trọng. Ví dụ:
“The captain felt fed up/absorbed.” (Thuyền trưởng cảm thấy chán/thích nghi.) Dựa vào các cách phân loại trên đây của Martin & White cùng kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước (Thu Ngo (2013) và Nguyễn Thị Hương Lan (2018)),
chúng tôi lựa chọn phân tích Cảm xúc trên hai bình diện: tính phân cực của cảm xúc
(tích cực - tiêu cực) và bốn nhóm cảm xúc đối lập: Mong muốn/ Không mong muốn,
Hạnh phúc/ Không hạnh phúc, An toàn/ Không an toàn và Hài lòng/ Không hài lòng.
Cách phân loại này được cụ thể hóa trong bảng 1.3:
Bảng 1.3. Hệ thống Cảm xúc [49;25]
Cảm xúc Tích cực Tiêu cực
Mong muốn Nhớ, ao ước, ham muốn Lờ đi, bỏ mặc, từ chối
Hạnh phúc Vui, sung sướng, yêu mến Buồn, đau khổ, ác cảm, khóc
An toàn Tự tin, thoải mái Bồn chồn, không yên, nghi ngờ, không chắc
Hài lòng Quan tâm, bận rộn, khen, vừa lòng Ngáp, chán, mắng, tức giận
Cảm xúc có thể là những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực, và chúng có khi được
hiện thực hóa một cách trực tiếp thông qua các từ vựng miêu tả trạng thái (buồn, vui)
hoặc có khi được thể hiện một cách gián tiếp thông qua các từ vựng miêu tả hành động
(ngáp, khóc).
(b). Phán xét (Judgement) Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường thể hiện thái độ của mình đối với hành vi của mọi người, chẳng hạn: khen ngợi, thán phục, chỉ trích hay phản đối hành động của họ. Martin & White gọi những thái độ này là Phán xét. Phán xét được chia thành 2 nhóm: thuộc tính cá nhân (social esteem) và quy ước xã hội (social sanction) [4;52]
- Thuộc tính cá nhân (social esteem): quan tâm đến việc đánh giá những thuộc tính về mặt đạo đức, khả năng… của con người, liên quan đến vấn đề văn hóa, được thể hiện thông qua trò chuyện, buôn chuyện và trong những câu chuyện hài hước. Thuộc tính cá nhân được chia thành ba tiểu nhóm: Thông thường (Normality), Khả năng (Capacity) và Kiên trì (Tenacity).
35
+ Thông thường: Ai đó đặc biệt, khác lạ như thế nào?
Ví dụ: Anh ta sống rất khác biệt với mọi người ở khu này.
+ Khả năng: Họ có khả năng/ năng lực gì? Ví dụ: Ông ấy là một nhà khoa học thiên tài về lĩnh vực vật lí.
+ Kiên trì: Họ có kiên trì/ quyết tâm làm gì đó không?
Ví dụ: Cô ấy chưa bao giờ từ bỏ việc học ngoại ngữ.
- Quy ước xã hội: đánh giá về các hành vi tích cực hay tiêu cực của con người
bằng các văn bản đã được hệ thống hóa, dưới dạng các sắc lệnh, nghị định, quy tắc, quy định, luật về cách hành xử mà nhà thờ và Nhà nước phản đối. Quy ước xã hội
được chia thành hai tiểu nhóm: Chân thật (veracity) và Đạo đức (propriety).
+ Chân thật: Họ có trung thực không?
Ví dụ: Cô ấy nói với tôi về vấn đề này với thái độ chân thành. + Đạo đức: Họ cư xử có đúng mực không? Ví dụ: Cô ta là kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo.
Tương tự như Cảm xúc, tiểu hệ thống Phán xét cũng được phân cực là tích cực
– tiêu cực và được thể hiện một cách hiển ngôn hoặc hàm ngôn. Martin & White đã
đưa ra bảng ví dụ về nguồn từ vựng hiện thực hóa Phán xét trong bảng 1.4 sau:
Bảng 1.4. Ví dụ nguồn từ vựng hiện thực hóa Phán xét [4; 53]
Phán xét
Tích cực May mắn, bình thường, tự nhiên, quen thuộc, ổn định, dễ đoán, … Thông thường
Khả năng
Thuộc tính cá nhân
Kiên trì Khỏe khoắn, vừa vặn, dí dỏm, trưởng thành, hài hước, thông minh, năng khiếu, nhạy bén, chuyên gia, sắc sảo, dũng cảm, thận trọng, … Kiên quyết, kiên trì, nỗ lực, không từ bỏ, trung thành, linh hoạt, dễ thích nghi, …
Chân thật
Quy ước xã hội Đạo đức
Tiêu cực Xui xẻo, bất thường, khác biệt, kì quặc, lập dị, thất thường, không thể đoán trước... Nhẹ, yếu ớt, rên rỉ, non nớt, trẻ con, buồn tẻ, chậm chạp, ngu muội, bấn loạn, ngây thơ, bất tài, không thành công, … Thiếu kiên nhẫn, liều lĩnh, hấp tấp, không trung thành, thay đổi, bướng bỉnh, cố chấp, mất tập trung, chán nản, cố ý, … Gian dối, dối trá, lừa đảo, quanh co, giả tạo, … Xấu, vô đạo đức, tham nhũng, bất công, bất nhân, vô cảm, đê tiện, độc ác, hão huyền, hợm hĩnh, kiêu căng, ích kỉ, tham lam, hám lợi, …
Trung thực, đáng tin cậy, bộc trực, thẳng thắn, thật thà, chân thành, … Tốt, có đạo đức, tuân thủ pháp luật, công bằng, quan tâm, khiêm tốn, lịch sự, tôn trọng, cung kính, vị tha, hào phóng, bác ái, … (c). Thẩm giá (Appreciation) Theo Martin & White (2005), Thẩm giá liên quan đến việc chúng ta thể hiện ý kiến và sự đánh giá của mình về giá trị của các sự vật, bao gồm cả hiện tượng tự nhiên, sản phẩm và quá trình. Thẩm giá có thể chia thành 3 nhóm: Phản ứng (reaction), Tổng hợp (composition) và Giá trị (valuation). [4; 56]
36
- Phản ứng: liên quan đến tác động của sự vật, hiện tượng đối với cảm xúc của chủ thể đánh giá. Phản ứng rất dễ bị nhầm lẫn với nhóm Cảm xúc đã được đề cập ở trên. Martin & White (2005) đã phân biệt hai nhóm này một cách rõ ràng. Cảm xúc liên quan đến những cảm xúc chủ quan của người đánh giá, nhấn mạnh vào nhân vật và cảm xúc của họ (ví dụ: Tôi buồn/ khóc), còn Phản ứng liên quan đến hiện tượng sản sinh ra cảm xúc đó (ví dụ: Đó là một màn trình diễn đầy nước mắt) [4;58]
Phản ứng: chỉ tác động của vật lên chủ thể đánh giá, được phân loại thành hai
yếu tố: tác động (impact) và chất lượng (quality).
+ Tác động: Nó có thu hút tôi không? Ví dụ: Câu chuyện rất hấp dẫn. + Chất lượng: Tôi có thích nó không? Ví dụ: Chúng tôi vui mừng chào đón
đồng nghiệp mới.
- Tổng hợp: có liên quan đến nhận thức về hình thức, kết cấu của các hiện tượng là cân bằng (balance) hay phức tạp (complexity). Ví dụ: Dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp.
- Giá trị: liên quan đến nhận thức về giá trị của đối tượng đang được xem xét (theo quan điểm cá nhân): “điều đó có giá trị không?”. Ví dụ: Đối với tôi, những cái chén vỡ này có giá trị rất lớn về mặt tinh thần.
Tiểu hệ thống Thẩm giá cũng được xem xét ở hai khía cạnh là tích cực và tiêu cực. Martin & White (2005) đã đưa ra ví dụ minh họa về nguồn từ vựng hiện thực hóa tiểu hệ thống này ở bảng 1.5.
Thẩm giá
Tích cực Thu hút, hấp dẫn, thú vị, cảm động, sống động, kịch tính, gay cấn, đáng chú ý, …
Phản ứng
Được, tốt, yêu kiều, xinh đẹp, lộng lẫy, mê hoặc, hoan nghênh, chào đón, … Cân đối, hài hòa, thống nhất, đối xứng, nhất quán, logic, khuôn mẫu, tròn trịa, …
Tổng hợp
Tác động Chất lượng Cân bằng Phức tạp
Giá trị
Bảng 1.5. Ví dụ nguồn từ vựng hiện thực hóa Thẩm giá [4; 56] Tiêu cực Buồn tẻ, nhàm chán, tẻ nhạt, khô khan, không hấp dẫn, có thể đoán trước, đơn điệu, không đáng chú ý, Xấu, khó chịu, đơn giản, kì cục, phản cảm, nổi loạn, … Không cân đối, bất hòa, không đều, thiếu sót, mâu thuẫn, lộn xộn, vô định hình, méo mó, … Phức tạp, xa hoa, bí hiểm, không rõ ràng, đơn giản, sơ sài, … Nông cạn, tầm thường, hời hợt, tục tĩu, quá hạn, phổ biến, bình thường, đại trà, giả tạo, không có thật, phù phiếm, vô giá trị, kém chất lượng, không hiệu quả, vô ích, …
Giản dị, trong sáng, tao nhã, sáng suốt, chính xác, phong phú, chi tiết, … Thấm thía, sâu xa, sâu sắc, đổi mới, độc đáo, sáng tạo, kịp thời, mang tính bước ngoặt, đặc biệt, độc nhất, thực sự, quý giá, vô giá, đáng giá, có giá trị, phù hợp, hữu ích, hiệu quả…
Ranh giới giữa các giá trị trong hệ thống Thái độ Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá đều là nguồn lực thể hiện Thái độ. Theo Martin & White [4;58-60], để phân biệt ba giá trị này thì chúng ta cần dựa vào khung ngữ pháp chức năng hệ thống, đồng thời cần xem xét nguồn gốc và mục đích của đánh giá.
37
- Ai đó + cảm thấy + cảm xúc.
- Một điều gì làm cho ai đó cảm thấy + cảm xúc + định đề.
Tôi cảm thấy hạnh phúc vì các bạn đã vượt qua vòng thi này. Kết quả mà các em đạt được trong cuộc thi này khiến tôi cảm thấy vô cùng hài lòng.
Cảm xúc: Ví dụ:
Phán xét:
- Ai đó làm như vậy thì + Phán xét.
- Đối với ai đó, làm như vậy thì + Phán xét.
- Ai đó + Phán xét khi làm như vậy.
Ví dụ:
Anh ta làm như vậy thì thật là quá đáng.
Đối với anh ta, làm như vậy thì thật quá đáng.
Anh ta thật quá đáng khi làm như vậy.
- Ai đó coi / xem / thấy cái gì + đánh giá sự vật hiện tượng
Thẩm giá:
Ví dụ: Tôi thấy bức tranh này rất đáng giá.
Ranh giới của ba tiểu hệ thống Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá được minh họa
rõ trong hình 1.6 bên dưới:
Đạo đức (nguyên tắc và nhận định) Cảm xúc được thể chế hóa như những đề xuất
Phán xét
Cảm xúc
Thẩm giá
Cảm xúc được thể chế hóa như những định đề Giá trị (tiêu chí và đánh giá)
Hình 1.6. Ranh giới của Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá [4;45]
1.2.2.2. Hệ thống Giọng điệu
Theo Martin & White (2005), hệ thống Giọng điệu (Engagement) quan tâm đến các phương tiện ngôn ngữ mà người nói/ viết sử dụng để thể hiện lập trường đối với các hệ giá trị được đề cập trong văn bản và đối với những người mà họ đang hướng đến. [4;92]. Martin & White (2005) đã phác họa hệ thống Giọng điệu như một nguồn lực thể hiện mối liên nhân giữa người nói/ viết và các đối tượng người nghe/ đọc có thực hay giả định, tiềm năng của họ. Có hai tiểu hệ thống trong Giọng điệu: đơn thanh (Monoglossia) và đa thanh (Heteroglossia).
Đơn thanh (Monoglossia): là giọng điệu đơn lẻ, khi người nói hoặc người viết
không thừa nhận hoặc tương tác với các quan điểm khác, thay vào đó chỉ khẳng định một
quan điểm duy nhất và coi đó là sự thật tuyệt đối. Cách trình bày này được xem là “không
38
có đối thoại” vì không có sự tham gia hay tham chiếu đến các quan điểm khác. [4; 99]. Có
thể hiểu, các phát ngôn là đơn thanh khi nó không đề cập đến các quan điểm khác, là
những phán đoán mang tính trung lập, khách quan, hoặc nêu lên tính thực tế.
Ví dụ:
Đến ngày 14/12, đã có hơn 133,7 triệu liều vắc-xin được tiêm cho người dân, tỷ
lệ người từ 18 tuổi đã tiêm mũi 1 đạt 96,7% và tiêm đủ hai mũi đạt 79,1%. [N9]
Ví dụ này chỉ nêu lên hiện thực chỉ số tiêm vắc-xin tại Việt Nam chứ không đề
cập đến quan điểm nào khác. Do đó, chúng thuộc phát ngôn đơn thanh.
Đa thanh (Heteroglossia) có thể được hiểu là đa giọng điệu, chúng công nhận các
lựa chọn thay thế đối thoại [4; 99]. Trong đa thanh, người nói/ viết không chỉ đưa ra quan
điểm của mình, mà còn công nhận sự tồn tại của các quan điểm khác và đề cập đến chúng.
Điều này tạo ra một không gian cho các tiếng nói đối lập và quan điểm khác, người nói/
viết có thể đồng ý, bác bỏ, hoặc tương tác với các quan điểm đó.
Ví dụ:
Dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, dự báo khó có thể kết thúc sớm. [N12]
―Có thể‖ trong ví dụ trên cho phép độc giả liên tưởng đến các kết quả khác của
dự đoán. Đây là phát ngôn đa thanh.
Hệ thống Giọng điệu chỉ tập trung vào phân loại các phát ngôn đa thanh này.
Nguồn đa thanh được phân thành hai tiểu hệ thống dựa trên tính Thu hẹp hội thoại
(dialogic contraction) hay Mở rộng hội thoại (dialogic expansion) trong chức năng liên
chủ quan của chúng [4;103]. Có thể tóm tắt hệ thống Giọng điệu trong hình 1.7 sau:
Phủ định (Deny) Đơn thanh (Monoglossia)
Phản lại (Counter) Từ chối (Disclaim) Thu hẹp (Contract) Tán thành (Concur)
I
U Ệ I Đ G N Ọ G
) T N E M E G A G N E (
Xác nhận (Endorse) Tuyên bố (Proclaim)
Phát biểu (Pronounce)
Đa thanh (Heteroglossia) Trao đổi (Entertain)
Mở rộng (Expand) Thừa nhận (Acknowledge)
Quy gán (Attribute) Xa cách (Distance)
Hình 1.7. Hệ thống Giọng điệu [4; 134]
39
(a). Thu hẹp hội thoại Thu hẹp hội thoại được hiểu là người viết sử dụng các từ ngữ có khả năng hạn
chế hoặc đóng lại không gian cho các lựa chọn thay thế đối thoại. Phương thức để thu hẹp hội thoại gồm hai giọng điệu: Từ chối (disclaim) và Tuyên bố (proclaim) [4; 117].
- Từ chối: là một số phương án đối thoại bị bác bỏ hoặc bị thay thế trực tiếp,
hoặc không được áp dụng [4;117]. Từ chối được phân thành hai loại: Phủ định (deny/
negation) và Phản lại (counter).
+ Phủ định: được coi là một phương thức thu hẹp hội thoại vì từ góc độ đối thoại, Phủ định là một nguồn để đưa ra ý kiến thay thế khác vào cuộc đối thoại, từ đó
thừa nhận nó hoặc bác bỏ nó [4;118]. Phủ định thường được thể hiện qua các phụ từ
phủ định: không, không phải, chưa, chẳng…
Ví dụ: Tôi có thể đảm bảo rằng đây không phải là trường hợp duy nhất. + Phản lại: loại phủ định phụ thứ hai, trong đó người nói/ viết đưa ra một lập luận hoặc quan điểm thay thế cho một quan điểm khác mà người nghe/ đọc có thể kì
vọng. Đây là cách để phản bác hoặc làm rõ rằng quan điểm đang được trình bày là sự
thay thế cần thiết cho một ý tưởng hoặc luận điểm khác. Phản lại thường hoạt động
cùng với các đề xuất phủ định, với mệnh đề phủ nhận trái ngược/ mâu thuẫn trực tiếp
với kì vọng được cho là nảy sinh từ một mệnh đề trước hoặc ngay sau nó [4; 120].
Phản lại được thể hiện thông qua các liên từ: mặc dù, tuy nhiên, trong khi; các kết cấu:
chưa … nhưng…; các trợ từ: thậm chí, chỉ, vẫn… [4; 121]
Ví dụ: Tuy nhiên, theo ghi nhận của Bộ Y tế những ngày gần đây, tiến độ tiêm
của cả nước có xu hướng giảm nhiều, tỷ lệ sử dụng vắc-xin trong tổng số vắc-xin được
phân bổ của nhiều địa phương còn thấp trong khi tỷ lệ bao phủ vắc-xin cho đối tượng
từ 18 tuổi trở lên chưa cao (dưới 85%). [N9]
- Tuyên bố: có thể hiểu là cách thể hiện phán đoán chính xác thông qua một số
phép nội suy, nhấn mạnh hoặc can thiệp của tác giả, từ đó loại trừ các lựa chọn thay
thế đối thoại khác và thu hẹp không gian đối thoại [4; 117]. Tuyên bố được phân thành
ba tiểu loại: Tán thành (Concur), Phát biểu (Pronounce), và Xác nhận (Endorse).
+ Tán thành: liên quan đến việc tuyên bố công khai rằng người nói/ viết đồng
tình hoặc có cùng kiến thức với người đọc giả định của văn bản [4; 122]. Mối quan hệ đồng tình này được chuyển tải thông qua các cách diễn đạt như: tất nhiên, một cách tự nhiên, không có gì đáng ngạc nhiên, thừa nhận, chắc chắn hoặc những câu hỏi tu từ hoặc “dẫn dắt” để đưa người đọc đến những câu trả lời được xem là “không thể tránh được” [4; 123].
Ví dụ: Tất nhiên, chúng tôi hiểu những lo lắng, sợ hãi mà người dân phải trải
qua trong thời gian này.
40
Ví dụ: Chẳng phải việc đảm bảo tính khách quan trong phân tích dữ liệu là
nguyên tắc cơ bản của mọi nghiên cứu khoa học sao?
Câu hỏi trên không nhằm tìm kiếm câu trả lời mà khẳng định một giá trị đã được chia sẻ rộng rãi (ở đây là “tính khách quan”). Câu hỏi này giúp người viết tỏ rõ lập trường, đồng thời lôi kéo người đọc vào một quan điểm được ngầm hiểu là “rõ ràng, đúng đắn”, từ đó tạo hiệu ứng tán thành theo hướng giá trị phổ quát và khó bác bỏ.
+ Xác nhận: theo thuật ngữ “chứng thực” (endorsement), Martin và White (2005) đề cập đến những cấu trúc mà theo đó các phán đoán có nguồn gốc từ các nguồn bên ngoài văn bản được tác giả hiểu là chính xác, hợp lệ, không thể phủ nhận hoặc có thể đảm bảo tối đa. Sự hiểu biết này được thể hiện một cách gián tiếp bằng cách sử dụng các quy trình bằng lời nói (hoặc các quy trình tương đương trên danh nghĩa của chúng) mô tả các hành vi kí hiệu học nhất định, cung cấp cơ sở để người nói/ viết giả định trước khả năng đảm bảo này. Các động từ được sử dụng bao gồm: cho thấy, biểu hiện, chứng minh, minh họa, tìm thấy, chỉ ra… [4; 126].
Ví dụ: Số liệu thống kê của Bộ Công thương cho thấy, việc liên tục chi sử dụng và ngừng trích lập hoặc trích lập quỹ ở mức thấp (100-300 đồng/lít xăng, dầu) khiến quỹ bị âm, nhiều doanh nghiệp bị âm quỹ với mức lớn. [N45]
Xác nhận có chức năng loại trừ bất kì lựa chọn thay thế nào khác khỏi cuộc đàm thoại đang diễn ra thông qua phán quyết của người nói/ viết đối với phán đoán đã được đảm bảo. Vì lí do này, Martin và white đã chỉ ra rằng, Xác nhận có tính thu hẹp hội thoại, và nhờ tính thu hẹp này, chúng đưa người đọc vào vị trí giá trị mà văn bản đang tập trung đến.
+ Phát biểu bao gồm những cách diễn đạt liên quan đến sự nhấn mạnh, can thiệp hoặc nội suy của tác giả. Ví dụ: Tôi cho rằng …, Sự thật của vấn đề là …, Chúng tôi chỉ có thể kết luận rằng …, Bạn phải đồng ý rằng …, các bổ ngữ của mệnh đề như: thực sự, thật ra… và trong bài phát biểu, nhấn mạnh được đặt một cách thích hợp [4;127].
Ví dụ: Nhưng chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng chúng ta đã vượt qua những tháng
ngày căng thẳng nhất của COVID-19, có sức mạnh rất lớn từ gia đình. [T20]
(b). Mở rộng hội thoại Mở rộng hội thoại có thể hiểu là giọng văn tách biệt khỏi phán đoán trong văn bản. Nó có hiệu quả là để lại khoảng không cho các lựa chọn thay thế. Điều này được coi là mở không gian đối thoại cho các phán đoán thay thế. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại gồm 2 phương thức thể hiện: Trao đổi (Entertain) và Quy gán (Attribution).
- Trao đổi: là cách diễn đạt mà qua đó tác giả thể hiện rằng quan điểm của mình chỉ là một trong nhiều quan điểm có thể có, từ đó mở ra không gian cho các khả năng hoặc ý kiến khác [4; 105]. Nghĩa là, khi sử dụng giọng điệu Trao đổi, người nói/ viết không khẳng định chắc chắn rằng quan điểm của mình là đúng, mà mở ra khả năng cho người nghe/ đọc có thể không đồng ý hoặc có quan điểm khác. Theo Martin và White,
41
Trao đổi được thể hiện qua các diễn đạt: có lẽ, có thể, có vẻ như, dường như, có thể là, nghi ngờ là, nghĩ là, tin rằng, được thuyết phục rằng, không chắc là…
Ví dụ: Trong thực tế, đây có lẽ là sự non nớt, vô trách nhiệm và đáng hổ thẹn
nhất mà cô ấy từng làm.
- Quy gán: là những hình thức tách rời phán đoán khỏi giọng nói của tác giả trong văn bản bằng cách gán cho nó những nguồn bên ngoài văn bản [4; 110]. Quy gán được phân loại thành 2 tiểu loại: Thừa nhận (acknowledge) và Xa cách (distance).
+ Thừa nhận: là những vị trí không có dấu hiệu thể hiện rõ ràng, công khai ý kiến của tác giả. Nó thường được thể hiện qua các động từ tường thuật (reporting verbs) như: nói (rằng), báo cáo, tường thuật, thông báo, tin (rằng), lập luận (rằng)…
Ví dụ: Các nhà nghiên cứu cũng báo cáo rằng ô nhiễm môi trường là một trong
những nguyên nhân gây ra sự biến đổi khí hậu.
+ Xa cách (distance): là sự diễn đạt thể hiện một một khoảng cách rõ ràng giữa
ý kiến tác giả với nội dung mệnh đề được nêu ra sau đó.
Ví dụ: … những người phụ nữ thổ dân có liên quan đến vụ việc yêu cầu [Nhừa nhận] một nữ bộ trưởng xem xét lại những tín ngưỡng tôn giáo mà họ cho là [Khoảng cách] cố hữu trong cuộc chiến phán đổi việc xây một cây cầu tới hòn đảo gần Goolwa phía nam Australia. [4; 113] 1.2.2.3. Hệ thống Thang độ
Thang độ là đặc tính quan trọng dùng để chỉ độ cao (up-scaling)/ thấp (down- scaling), còn gọi là tính phân cấp của các ý nghĩa biểu thái [4; 135]. Hai hệ thống Thái độ và Giọng điệu đều có đặc điểm chung là khả năng phân cấp độ (gradibility). Ở hệ thống Thái độ, thuộc tính chung của các giá trị Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá là chúng phân cấp mức độ tích cực lớn hơn hay tiêu cực lớn hơn. Còn ở hệ thống Giọng điệu, thuộc tính này của các tiểu hệ thống thể hiện ở mức độ tham gia của người nói/ viết vào phát ngôn được nêu ra. Do đó, Martin & White (2005) nhấn mạnh rằng, xét theo phương diện này, Thang độ là “trung tâm của hệ thống thẩm định” [4; 136]. Sự phân cấp của hệ thống Thái độ và Giọng điệu được minh họa trong bảng 1.6 và 1.7.
Bảng 1.6. Khả năng tăng dần của ý nghĩa Thái độ [4;136]
Mức độ thấp Mức độ cao
Phán xét Người chơi có năng
Người chơi khá tốt Người chơi rất tốt
Cầu thủ xuất sắc Người chơi vô cùng tốt
lực Có khả năng Chơi tốt
Hài lòng Hơi khó chịu Cảm xúc Vui mừng Bực mình Hạnh phúc Rất tức giận Ngất ngây Vô cùng tức giận
Thẩm giá Hơi lộn xộn Hấp dẫn Khá lộn xộn Đẹp Rất lộn xộn Rất đẹp Hết sức lộn xộn Tinh tế
42
Bảng 1.7. Khả năng phân cấp của các giá trị trong Giọng điệu [4; 136]
Thấp Cao
Trao đổi
Tôi nghi ngờ cô ấy đã phản bội chúng tôi. Có thể cô ấy đã phản bội chúng tôi. Cô ấy có thể vừa mới phản bội chúng tôi. Tôi tin rằng cô ấy đã phản bội chúng tôi. Có lẽ cô ấy đã phản bội chúng tôi. Cô ấy có thể đã phản bội chúng tôi. Tôi tin chắc cô ấy đã phản bội chúng tôi. Chắc chắn cô ấy đã phản bội chúng tôi. Cô ấy rất có thể đã phản bội chúng tôi.
Quy gán Cô ấy gợi ý rằng tôi đã lừa dối. Cô ấy nói rằng tôi đã lừa dối. Cô ấy khăng khăng rằng tôi đã lừa dối.
Phát biểu
Tôi muốn nói anh ấy là người đàn ông của công việc. Tôi cho rằng anh ấy là người đàn ông của công việc. Tôi nhấn mạnh rằng anh ấy là người đàn ông của công việc.
Tán thành Tất nhiên anh ấy thành thạo về kĩ thuật (nhưng …)
Phải thừa nhận rằng anh ấy thành thạo về kĩ thuật (nhưng anh ấy không chơi theo cảm xúc).
Từ chối Tôi không làm tổn thương anh ấy. Tôi không bao giờ làm tổn thương anh ấy.
Thang độ được chia làm hai tiểu hệ thống: Tiêu điểm (Focus) và Lực (Force)
Hệ thống Thang độ được tóm tắt trong hình 1.8 dưới đây:
Tiêu điểm (Focus)
Sắc nét (Sharpen) ) Mờ nhạt (Soften)
Phân loại
Cường độ (intensity)
Lực (Force)
Lượng hóa (Amount)
Thang độ (Graduation)
Cao (up-scale)
Mức độ
Thấp (down-scale)
Hình 1.8. Hệ thống Thang độ [4; 154]
(a). Tiêu điểm: Tiêu điểm được sử dụng để điều chỉnh ranh giới phân loại của một đối tượng hoặc khái niệm, nghĩa là làm cho nó rõ ràng hơn hoặc mờ đi. Martin & White (2005) phân Tiêu điểm thành hai loại là: Sắc nét (Sharpen) và Mờ nhạt (Soften) [4;138-139].
- Sắc nét: nhấn mạnh tính phân biệt của một danh mục, làm cho một đặc điểm
trở nên rõ ràng hơn. Ví dụ:
43
+ ―Đây là vàng nguyên chất.‖ (“nguyên chất”: nhấn mạnh mức độ thuần khiết)
+ ―Đây chính là một kiệt tác nghệ thuật.‖ (“chính là” nhấn mạnh tính xác thực
của đánh giá)
- Mờ nhạt: giảm tính xác định của danh mục, làm cho ranh giới trở nên linh
hoạt hơn. Ví dụ:
+ ―Đây là một loại vàng nào đó.‖ (“nào đó”: làm mờ ranh giới)
+ ―Anh ấy có chút tài năng.‖ (―có chút‖: giảm bớt độ chính xác)
(b). Lực: bao gồm các đánh giá về mức độ Cường độ (intensity) và Lượng hóa
(amount) [4; 140]
- Cường độ: được dùng để điều chỉnh mức độ mạnh hay yếu của một đánh giá. Các
đánh giá về Cường độ được thực hiện dựa trên thuộc tính (qualities) và quá trình
(processes). Thuộc tính là các tính chất, đặc điểm có thể phân cấp thang độ, còn quá trình là
các hành động, trạng thái có thể được gia tăng/ giảm nhẹ về mức độ, tần suất... Chúng được
gia tăng hoặc giảm nhẹ bằng các phó từ (rất, hơi, cực kì, …) hay các diễn đạt khác như: hầu
như không, một phần, một ít… (ví dụ: hơi ngớ ngẩn, cực kì ngớ ngẩn, dừng lại khá đột
ngột, dừng lại rất đột ngột; Sự việc này đã hơi cản trở chúng tôi; Sự việc này đã rất cản trở
chúng tôi).
- Lượng hóa: đánh giá lượng hóa áp dụng cho các thực thể, chứ không phải cho
thuộc tính và quá trình. Lượng hóa dùng để đo không chính xác về số lượng (ví dụ:
một vài, nhiều), về hình dáng hay khối lượng của các thực thể theo các đặc điểm như:
kích thước, trọng lượng, sự phân bổ hoặc khoảng cách của chúng (ví dụ: nhỏ, lớn,
mỏng dày, nặng, nhẹ, gần, xa)
Ngữ nghĩa của tiểu hệ thống này rất phức tạp do thực thể được định lượng có
thể cụ thể (ví dụ: cá mập lớn, nhiều cá mập, cá mập ở gần) hoặc trừu tượng (ví dụ:
một vấn đề lớn, nhiều vấn đề; một vài lo lắng, một chút sợ hãi; một thành công lớn,
nhiều lần phản bội của cô ấy). Thông thường những thực thể trừu tượng này sẽ chuyển
tải những ý nghĩa Thái độ [4;150]. Ví dụ:
(Cảm xúc)
: Tôi lo lắng nhiều về hiệu suất của bạn.
Một cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập trong tôi.
Tôi có một chút lo lắng nhỏ liên quan đến cô ấy.
(Phán xét)
: Chính phủ này tham nhũng rất nhiều.
Một điểm yếu nhỏ về đạo đức của anh ấy là hướng tới…
Anh ấy có tài chơi ghi-ta tuyệt vời.
(Thẩm giá)
: Thung lũng sông Nile rất đẹp.
Có một chút vấn đề với bài luận của bạn.
Có một vài vấn đề với bài luận của bạn.
44
1.2.2.4. Các thành tố trong cấu trúc nội tại của phát ngôn đánh giá
Phát ngôn mang tính đánh giá là đơn vị ngôn ngữ phản ánh lập trường, thái độ
và hệ giá trị mà người phát ngôn gán cho con người, sự vật, hành động hoặc hiện
tượng trong diễn ngôn. Trong khuôn khổ lí thuyết đánh giá, cấu trúc của một phát
ngôn đánh giá không chỉ là sự hiện diện của từ ngữ mang sắc thái định giá, mà là một
tổ chức liên kết của nhiều thành tố đảm nhiệm các vai trò chức năng khác nhau trong
việc tạo lập và truyền đạt nghĩa đánh giá. Một phát ngôn đánh giá thường bao gồm các
thành tố sau: chủ thể đánh giá, đối tượng được/ bị đánh giá, nguồn lực ngôn ngữ thể
hiện đánh giá, loại đánh giá, cường độ đánh giá, nguồn đánh giá.
(a). Chủ thể đánh giá
Trong lí thuyết đánh giá, chủ thể đánh giá được phân thành hai loại: tác giả
(Authorial) và phi tác giả (Non-Authorial). Chủ thể đánh giá là tác giả (Authorial) khi
người nói/ viết trực tiếp bộc lộ cảm xúc/ đánh giá của mình, thường thông qua việc sử
dụng ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi, ta). Theo White (2015b) [dẫn theo 44; 32], trong
những trường hợp này, người phát ngôn không chỉ trình bày thông tin mà còn nhấn
mạnh sự hiện diện chủ quan của bản thân trong quá trình giao tiếp, thể hiện rõ lập
trường và thái độ cá nhân đối với vấn đề đang được thảo luận. Ngược lại, phi tác giả
(Non-Authorial) đề cập đến việc người nói/ viết thể hiện cảm xúc/ đánh giá của những
cá nhân hoặc nhóm người khác, thông qua việc sử dụng ngôi thứ hai hoặc thứ ba. Điều
này cho phép tác giả mô tả hoặc ghi nhận cảm xúc/ đánh giá của người khác mà không
trực tiếp can dự vào các đánh giá cảm xúc đó. Ví dụ:
- Chúng tôi rất vui khi thấy sự tiến bộ của sinh viên. (chủ thể là tác giả: chúng tôi)
- Người dân tỏ ra lo lắng trước tình hình dịch bệnh. (chủ thể là phi tác giả:
người dân)
Việc phân biệt giữa hai loại chủ thể đánh giá này không chỉ giúp người đọc
nhận diện mức độ tham gia của tác giả trong văn bản mà còn làm rõ chiến lược ngôn
ngữ mà tác giả sử dụng để xây dựng lập trường, thể hiện sự khách quan hay chủ quan,
cũng như tạo ra các mối liên kết xã hội hay duy trì khoảng cách với người đọc. Tuy
nhiên, chủ thể đánh giá không phải lúc nào cũng hiện diện trong phát ngôn đánh giá.
Ví dụ: Việc trì hoãn tiêm vắc-xin cho trẻ em là một sai lầm nghiêm trọng. (chủ
thể đánh giá không trực tiếp xuất hiện (ẩn chủ thể) trong phát ngôn nhưng có thể ngầm
hiểu đây là lập trường của họ.)
(b). Đối tượng được/ bị đánh giá
Đối tượng được/ bị đánh giá là cá nhân, sự kiện, hiện tượng hoặc hành vi được
định giá. Mỗi phát ngôn đánh giá luôn nhắm đến một thực thể cụ thể, dù có thể được
nêu trực tiếp hoặc hàm ẩn trong ngữ cảnh.
45
Ví dụ: Tinh thần vượt khó của học sinh nghèo thật đáng quý. (đối tượng được
đánh giá: tinh thần vượt khó của học sinh nghèo)
(c). Nguồn lực ngôn ngữ thể hiện đánh giá trong tiếng Việt Nguồn lực là thuật ngữ dùng để chỉ các yếu tố, phương tiện hoặc điều kiện cần
thiết để thực hiện một hoạt động, đạt được một mục tiêu hoặc duy trì một hệ thống nào
đó. Nguồn lực có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào lĩnh vực
nghiên cứu và ứng dụng. Trong ngôn ngữ học, nguồn lực được hiểu là tập hợp các
phương tiện giúp con người tạo lập và truyền tải ý nghĩa trong giao tiếp. Ngôn ngữ
được cấu trúc thành nhiều tầng bậc, bao gồm:
(1) Ngữ âm: liên quan đến âm thanh và cách phát âm;
(2) Từ vựng: bao gồm các từ ngữ và ý nghĩa của chúng;
(3) Ngữ pháp: quy tắc cấu tạo từ và câu;
(4) Diễn ngôn: cách tổ chức và sử dụng ngôn ngữ trong các ngữ cảnh giao tiếp
cụ thể.
Mỗi tầng bậc này cung cấp các nguồn lực tương ứng:
(1) Nguồn lực ngữ âm: bao gồm các phương tiện như âm vị, âm tiết và ngữ điệu;
(2) Nguồn lực từ vựng: được thể hiện bằng các phương tiện là từ (theo cách
hiểu cấu tạo từ và từ loại) và cụm từ cố định;
(3) Nguồn lực ngữ pháp: gồm các phương tiện ngôn ngữ là tổ hợp từ tự do
(được hiểu là sự kết hợp của các từ theo kiểu đẳng lập và chính phụ) và kiểu câu.
(4) Nguồn lực tu từ: là tập hợp các phương tiện và biện pháp tu từ giúp người
nói/ viết thể hiện ý nghĩa một cách sinh động, thuyết phục và giàu sức biểu cảm.
Như vậy, có thể hiểu nguồn lực ngôn ngữ là tập hợp các yếu tố cho phép người
sử dụng ngôn ngữ thể hiện ý nghĩa, thái độ và quan điểm của mình trong giao tiếp.
Những nguồn lực này được hiện thực hóa thông qua các phương tiện ngôn ngữ cụ thể.
Theo Martin & White (2005), trong lí thuyết NNĐG, nguồn lực ngôn ngữ được
hiểu là: ―Hệ thống các phương tiện ngôn ngữ cho phép người nói/ viết thể hiện thái
độ, đánh giá và mức độ cam kết của họ đối với nội dung phát ngôn.‖ [4;37]. Theo định
nghĩa của Martin & White (2005), có thể hiểu nguồn lực ngôn ngữ không chỉ giúp con
người truyền đạt thông tin mà còn thể hiện thái độ, quan điểm, mức độ cam kết đối với
phát ngôn của mình. Mỗi ngôn ngữ đều có nguồn lực đánh giá riêng. Martin và White
đã nghiên cứu về các nguồn lực đánh giá trong tiếng Anh. Tuy nhiên, do sự khác biệt
về loại hình ngôn ngữ, nguồn lực đánh giá trong tiếng Việt không hoàn toàn tương
đồng với tiếng Anh. Qua khảo sát nguồn ngữ liệu, chúng tôi ghi nhận được việc thể
hiện Thái độ, Giọng điệu và Thang độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
46
và Nhân dân được thực hiện thông qua hai nguồn lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp
và nguồn lực tu từ.
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp bao gồm: từ, tổ hợp từ tự do và các kiểu câu. Từ được khảo sát theo các phương diện: cấu tạo từ, từ loại và cụm từ cố định. Tổ hợp từ tự do được luận án dùng để chỉ kết hợp tự do (không cố định) của các từ theo quan hệ đẳng lập và chính phụ. Luận án không sử dụng thuật ngữ cụm danh từ,
cụm động từ, cụm tính từ hay ngữ danh từ, ngữ động từ, ngữ tính từ vì lâu nay các thuật ngữ này được dùng để chỉ các tổ hợp từ theo quan hệ chính phụ, trong đó danh từ, động
từ, tính từ đảm nhận vai trò thành tố chính. Trong khi đó, qua khảo sát ngữ liệu, chúng
tôi nhận thấy các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để hiện thực hóa Thái độ, Thang
độ và Giọng điệu trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân bao gồm cả các tổ hợp từ được kết hợp theo quan hệ chính phụ (chẳng hạn: chấp nhận hi sinh,
chẳng mấy vui vẻ,…) và các tổ hợp từ được kết hợp theo quan hệ đẳng lập (ví dụ: hoang
mang, lo lắng; cần phải, buộc phải…). Do đó, nếu chỉ sử dụng các thuật ngữ cụm danh
từ, cụm động từ, cụm tính từ hoặc ngữ danh từ, ngữ động từ, ngữ tính từ thì không bao
quát được toàn bộ đặc điểm ngữ pháp của các phương tiện ngôn ngữ đó. Do vậy, chúng
tôi lựa chọn sử dụng thuật ngữ tổ hợp từ để chỉ tổ hợp danh từ, tổ hợp động từ và tổ hợp
tính từ theo quan hệ chính phụ hay đẳng lập.
Thuật ngữ tổ hợp từ trong luận án được sử dụng với nghĩa mở rộng, nhằm bao
quát cả các tổ hợp từ tự do có quan hệ chính phụ và đẳng lập. Việc lựa chọn thuật ngữ
này xuất phát từ nhu cầu phân tích ngữ liệu trong khung lí thuyết đánh giá.
Các kiểu câu trong ngữ liệu được phân loại theo mục đích nói.
- Nguồn lực tu từ gồm: các biện pháp so sánh, lặp và liệt kê.
Các nguồn lực này được hiện thực hóa bằng các phương tiện ngôn ngữ cụ thể.
Ví dụ:
- Những lời nói tốt đẹp ấy, tôi mới được nghe lần đầu từ miệng một người tù
khổ sai. (tổ hợp danh từ dùng để đánh giá tích cực về lời nói)
- Làm sao một người có thể nhẫn tâm đến vậy? (câu hỏi thể hiện sự đánh giá
tiêu cực về đạo đức)
- Anh ấy giỏi, rất giỏi, cực kỳ giỏi, giỏi đến mức không ai sánh kịp! (lặp để thể
hiện thang độ tăng dần)
- Cô ấy thông minh hơn tất cả những người tôi từng gặp. (So sánh để nhấn
mạnh mức độ vượt trội)
Trong thực tế sử dụng, ranh giới giữa từ và tổ hợp từ tự do không hoàn toàn rõ ràng. Chẳng hạn, “niềm vui‖, ―nỗi buồn‖ có thể được xem là tổ hợp từ theo một số quan điểm, nhưng cũng có ý kiến cho rằng chúng là từ. Để xác định, chúng tôi dựa trên tiêu chí xác định từ của Đỗ Hữu Châu [110] và Nguyễn Thiện Giáp [111].
47
Đỗ Hữu Châu [110;16] và Nguyễn Thiện Giáp [111;67-68] đều cho rằng một
đơn vị được xác định là từ nếu: (1) có cấu trúc ổn định (không thể tách rời các thành
phần mà vẫn giữ nguyên nghĩa); (2) có ý nghĩa cố định khi sử dụng; (3) có khả năng hoạt động như một đơn vị độc lập trong câu. Dựa vào các tiêu chí này, có thể coi
―niềm vui‖, ―nỗi buồn‖, ―sự cần thiết‖, … là từ vì chúng thỏa mãn các điều điện: cố
định về hình thức (không thể tách rời ―niềm‖ và ―vui‖ mà vẫn giữ nghĩa giống nhau,
không ai nói “niềm rất vui” hay “nỗi hơi buồn”), không thể đảo trật tự (―vui niềm‖ hay
“buồn nỗi‖ không có nghĩa), hoạt động như một danh từ trọn vẹn trong câu (ví dụ: niềm vui của em rất lớn). Vì vậy, trong luận án, chúng tôi xếp ―niềm vui‖, ―nỗi
buồn‖, ―sự cần thiết‖, … vào nhóm từ, cụ thể là thuộc từ loại danh từ.
(d). Loại đánh giá, cường độ đánh giá và nguồn đánh giá
Loại đánh giá thuộc hệ thống Thái độ, cường độ đánh giá thuộc hệ thống Thang
độ, nguồn đánh giá thuộc hệ thống Giọng điệu.
Ví dụ:
- Tôi (chủ thể đánh giá, nguồn đánh giá: trực tiếp) thật sự (cường độ đánh giá:
mạnh) ngưỡng mộ (loại đánh giá: cảm xúc; nguồn lực ngôn ngữ: động từ) sự kiên
cường của các chiến sĩ nơi tuyến đầu (đối tượng được đánh giá).
- Thầy hiệu trưởng đã có một quyết định dũng cảm khi cho phép học sinh tổ
chức diễn đàn tự do ngôn luận trong trường. (chủ thể đánh giá: ẩn; đối tượng được
đánh giá: quyết định của thầy hiệu trưởng khi cho phép học sinh tổ chức diễn đàn tự
do ngôn luận trong trường; nguồn lực ngôn ngữ: dũng cảm; loại đánh giá: phán xét;
cường độ đánh giá: không rõ rệt vì không có phương tiện ngôn ngữ đánh dấu; nguồn đánh giá: không có dẫn nguồn, phát ngôn mang tính trực tiếp từ người nói).
1.2.3. Lí thuyết về diễn ngôn bình luận báo chí 1.2.3.1. Thể loại và thể loại bình luận
Trong phần tổng quan, chúng tôi đã sơ lược về thể loại. Hiện nay, trên thế giới
đang có ba trường phái nghiên cứu về thể loại (Genre), đó là: phong trào tu từ mới
(New Rhetoric school), trường phái SFL (the SFL school) và trường phái ESP (the English for Specific Purposes (ESP) school). Luận án tìm hiểu về thể loại của trường
phái Syney.
Martin và Rose (2008) [107] định nghĩa thể loại là một giai đoạn lặp lại (staged, goal-oriented social process) được thiết kế để đạt được một mục đích giao tiếp cụ thể trong các bối cảnh xã hội cụ thể. Họ nhấn mạnh rằng thể loại là một thực tiễn xã hội được xây dựng thông qua nhiều giai đoạn có tổ chức để hoàn thành mục tiêu giao tiếp,
và những giai đoạn này được định hình bởi các quy tắc văn hóa và bối cảnh xã hội. Đến 2012, Martin và Rose trong ―Genres and Texts: living in the real world‖ (2012)
[112] lại định nghĩa thể loại (genre) như một loại hình văn bản (text type) được đặc
48
trưng bởi một mô hình tổ chức đặc thù nhằm đáp ứng một mục đích giao tiếp cụ thể
trong các bối cảnh xã hội khác nhau. Theo họ, thể loại không chỉ được xem xét từ góc
độ hình thức ngôn ngữ mà còn liên quan đến chức năng và mục đích giao tiếp. Như vậy, có thể thấy, thể loại bao gồm các đặc điểm chính sau:
+ Có tính giai đoạn: thể loại bao gồm các bước hoặc giai đoạn cụ thể cần thiết để
đạt được mục đích giao tiếp. Ví dụ, trong thể loại tường thuật (narrative), các giai đoạn có
thể bao gồm phần giới thiệu (orientation), biến cố (complication), và kết thúc (resolution).
+ Hướng đến mục tiêu: thể loại tồn tại nhằm phục vụ các mục đích giao tiếp cụ
thể, chẳng hạn như kể chuyện, thuyết phục, miêu tả, hoặc giải thích.
+ Quá trình xã hội: thể loại không chỉ là một cấu trúc văn bản mà còn là một
quá trình xã hội phản ánh các giá trị, mục tiêu, và thực hành của cộng đồng văn hóa cụ
thể. Thể loại được hình thành và duy trì thông qua sự tương tác xã hội.
+ Gắn liền với bối cảnh văn hóa: thể loại phản ánh và đóng góp vào việc duy trì
các mô hình ý nghĩa của nền văn hóa mà nó thuộc về.
Martin và Rose (2008) phân loại thể loại dựa trên mối quan hệ giữa các loại văn
bản và cách chúng đáp ứng các mục đích giao tiếp xã hội. Dưới đây là các tiêu chí
chính mà Martin và Rose sử dụng để xác định các thể loại:
+ Phân loại dựa trên chức năng xã hội: thể loại được xác định theo mục đích
giao tiếp mà chúng phục vụ trong cộng đồng xã hội. Một số nhóm chính bao gồm:
Thể loại kể chuyện (Stories): nhằm kể lại sự kiện hoặc trải nghiệm theo thời gian,
thường có yếu tố giải trí hoặc giáo dục. Ví dụ: truyện dân gian, hồi kí, tiểu thuyết…
Thể loại báo cáo (Reports): cung cấp thông tin về các đối tượng, sự kiện hoặc
hiện tượng một cách có hệ thống. Ví dụ: báo cáo khoa học, báo cáo điều tra…
Thể loại giải thích (Explanations): giải thích cách thức hoặc lí do vì sao một
hiện tượng xảy ra. Ví dụ: văn bản hướng dẫn, bài giảng…
Thể loại thảo luận (Discussions): trình bày các quan điểm đối lập và thường
kết luận với một lập trường cụ thể.
Thể loại lập luận (Arguments): đưa ra ý kiến hoặc luận điểm và thuyết phục
người đọc hay chứng minh quan điểm.
+ Phân loại theo cấu trúc: Martin và Rose nhấn mạnh rằng các thể loại có cấu
trúc điển hình, phản ánh mục đích giao tiếp:
Cấu trúc tuần tự (Sequential structure): thể loại kể chuyện thường tổ chức nội
dung theo dòng thời gian hoặc trình tự sự kiện.
Cấu trúc logic (Logical structure): thể loại giải thích và lập luận thường dựa
trên sự phát triển logic, bao gồm các mệnh đề, nguyên nhân và kết quả.
Cấu trúc so sánh (Comparative structure): thể loại thảo luận thường đối chiếu
các ý kiến hoặc lựa chọn khác nhau.
49
+ Phân loại theo ngữ cảnh văn hóa:
Thể loại chính thức (Formal genres): các văn bản như báo cáo khoa học hoặc
văn bản học thuật, thường có yêu cầu ngôn ngữ và cấu trúc nghiêm ngặt.
Thể loại không chính thức (Informal genres): bao gồm các loại văn bản như thư cá nhân, tin nhắn, hoặc bài đăng trên mạng xã hội, thường mang tính cá nhân và linh hoạt hơn.
+ Phân loại theo tính liên kết (Cohesion and Lexicogrammar): Mức độ chuyên môn hóa ngôn ngữ: thể loại chuyên môn như báo cáo khoa
học thường sử dụng thuật ngữ kĩ thuật.
Tính đánh giá: các thể loại như bài bình luận hoặc lập luận thường chứa các
yếu tố ngôn ngữ mang tính đánh giá, thể hiện quan điểm cá nhân hoặc ý kiến.
+ Quan hệ giữa các thể loại (Genre Relations): một khía cạnh nổi bật trong lí
thuyết của Martin và Rose là sự tương tác giữa các thể loại:
Thể loại phụ thuộc (Embedded genres): một thể loại có thể được nhúng vào thể loại khác. Ví dụ, một bài báo khoa học có thể chứa một phần kể chuyện (giải thích quá trình thực hiện thí nghiệm).
Thể loại kết hợp (Genre blending): hai hoặc nhiều thể loại được kết hợp để phục vụ một mục đích giao tiếp cụ thể. Ví dụ: một bài diễn văn có thể kết hợp giữa lập luận và kể chuyện.
Trong Martin và Rose (2008), thể loại bình luận (commentary) không được đề cập
rõ ràng như một thể loại độc lập, mà xuất hiện rải rác trong nhiều thể loại khác nhau.
Dựa trên lí thuyết về thể loại này, các nhà nghiên cứu như Iedema, Feez và White (1994) [77] đã mở rộng khuôn khổ và phát triển trường phái về thể loại truyền thông (Media genres). Luận án sử dụng nghiên cứu về thể loại bình luận trên báo chí theo lí thuyết về thể loại truyền thông của Iedema và các cộng sự.
Thể loại truyền thông là một thuật ngữ khoa học dùng để chỉ các thể loại thực hiện nhiệm vụ thông tin. Iedema và cộng sự (1994) [77] phân chia truyền thông thành các nhóm thể loại chính dựa trên mục đích giao tiếp và chức năng xã hội. Dưới đây là các nhóm thể loại truyền thông chính mà họ thảo luận:
(1) Thể loại kể chuyện (Narrative): mục đích là truyền tải và giải trí thông qua việc kể các câu chuyện hoặc trình bày sự kiện theo cấu trúc câu chuyện. Đặc điểm là cốt truyện có mở đầu, phát triển, cao trào và kết thúc; có thể dựa trên những câu chuyện có thật hoặc hư cấu. Thể loại này gồm phim truyện, phim tài liệu kể chuyện, tin tức theo dạng kể chuyện, tiểu thuyết…
(2) Thể loại thông tin (Informative): mục đích là truyền đạt thông tin chính xác, khách quan về một sự kiện, vấn đề, hoặc chủ đề. Đặc điểm: trình bày sự kiện một cách rõ ràng, khách quan, thường sử dụng dữ liệu, số liệu, và bằng chứng. Thể loại này gồm tin tức báo chí, báo cáo thời sự, bản tin thời tiết, hướng dẫn sử dụng.
50
(3) Thể loại bình luận (Comment): mục đích đánh giá, phân tích, hoặc lập luận về một vấn đề hoặc sự kiện để thuyết phục công chúng về một quan điểm. Đặc điểm: thường có tính chủ quan, thể hiện quan điểm của tác giả hoặc tổ chức truyền thông, có cấu trúc luận điểm – lập luận – kết thúc. Thể loại này gồm các bài xã luận, bài phân tích chuyên sâu, bài viết quan điểm (opinion piece), chương trình bình luận truyền hình.
(4) Thể loại thuyết phục (Persuasive): mục đích thuyết phục người đọc/ người nghe thực hiện một hành động cụ thể hoặc thay đổi quan điểm. Đặc điểm: sử dụng các văn bản đa phương thức, cảm xúc hoặc lí trí để tác động đến khán giả. Thể loại này gồm quảng cáo, thông điệp vận động chính trị, thông điệp xã hội (PSA)…
(5) Thể loại giải trí (Entertainment): mục đích mang lại niềm vui, thư giãn hoặc kích thích sự quan tâm của công chúng. Thể loại này gồm chương trình truyền hình thực tế, phim hài, video âm nhạc, trò chơi điện tử.
(6) Thể loại hỗn hợp (Hybrid): sử dụng kết hợp đặc điểm của nhiều thể loại để đạt được nhiều mục tiêu giao tiếp cùng lúc. Thể loại này gồm Talk show, chương trình tin tức giải trí (infotainment), phim tài liệu sáng tạo (docudrama).
Theo Iedema và cộng sự (1994) [77], các thể loại truyền thông không chỉ là các khuôn mẫu văn bản mà còn là các thực tiễn xã hội, được định hình bởi mục đích giao tiếp, bối cảnh xã hội, và nhu cầu của khán giả. Những thể loại này có thể được áp dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, từ báo chí, giáo dục, đến giải trí và quảng cáo. Như vậy, các diễn ngôn bình luận trên báo chí (commentary) thuộc thể loại bình luận.
Thể loại bình luận là một trong các dạng văn bản truyền thông có đặc điểm riêng biệt, có thể hiểu là những bài viết hoặc phát biểu mà người viết/ người nói đưa ra những quan điểm, nhận xét, phân tích hoặc giải thích về một sự kiện, vấn đề hoặc hiện tượng. Thể loại bình luận không chỉ đơn thuần là việc đưa ra thông tin, mà còn có yếu tố đánh giá và phân tích sâu sắc.
Theo Iedema và các cộng sự (1994) [77], thể loại bình luận gồm một số đặc
điểm nổi bật sau:
- Mục đích và chức năng: mục đích chính của thể loại bình luận là đưa ra quan điểm cá nhân hoặc nhóm đối với một vấn đề cụ thể. Những bài bình luận thường mang tính chủ quan và có tính chất phân tích hoặc đánh giá. Thể loại này giúp người đọc, người xem không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn hiểu và suy nghĩ về thông tin một cách sâu sắc hơn, đồng thời khuyến khích tư duy phản biện.
- Tính chủ quan và đánh giá: bình luận có tính chủ quan, tức là người viết thể hiện quan điểm cá nhân hoặc nhóm về một sự kiện hoặc vấn đề nào đó. Trong khi các thể loại khác (như tin tức hoặc báo cáo) cố gắng giữ sự khách quan, thì thể loại bình luận thường bộc lộ quan điểm và cảm xúc của tác giả một cách rõ ràng. Người viết có thể sử dụng các phương pháp so sánh, tương phản, phê phán hoặc đề xuất giải pháp để làm nổi bật quan điểm của mình.
51
- Tính thuyết phục: đây là một đặc điểm quan trọng của thể loại bình luận.
Người viết cần đưa ra lập luận để thuyết phục độc giả về tính hợp lí và tính chính xác
của quan điểm mà mình đưa ra. Các bình luận thường sử dụng các dữ liệu, bằng chứng, hoặc ví dụ thực tế để hỗ trợ cho lập luận của mình.
- Cấu trúc của bài bình luận: gồm 3 phần: Mở đầu – bàn luận – Kết luận
+ Mở đầu: đưa ra vấn đề hoặc sự kiện mà tác giả muốn bình luận.
+ Bàn luận: là phần phân tích hoặc đánh giá về vấn đề đó. Đây là phần quan
trọng vì nó là nơi tác giả trình bày quan điểm và lí lẽ của mình.
+ Kết luận: thường là phần đề xuất giải pháp, hành động cần thiết liên quan đến
vấn đề đã nêu. Các bình luận cũng có thể kết thúc bằng cách mở ra câu hỏi để độc giả
tự suy nghĩ thêm.
- Giọng điệu và phong cách: thể loại bình luận thường sử dụng nhiều giọng điệu
và phong cách khác nhau để làm bài viết trở nên hấp dẫn và dễ tiếp cận.
- Ảnh hưởng đến người đọc: các bài bình luận có thể tạo ra sự thay đổi trong
cách suy nghĩ hoặc định hình lại quan điểm của người đọc về một vấn đề nhất định.
Nhờ vào khả năng phân tích sâu sắc và khả năng gây ảnh hưởng, bình luận thường có
sức mạnh trong việc thay đổi hoặc thúc đẩy dư luận. Người viết có thể sử dụng các kĩ
thuật thuyết phục như sự nhấn mạnh, ẩn dụ, hoặc các câu hỏi có tính chất dẫn dắt để
khuyến khích người đọc suy nghĩ theo hướng mà tác giả mong muốn.
Như vậy, thể loại bình luận được mô tả là một thể loại truyền thông chủ yếu
nhằm mục đích đưa ra quan điểm cá nhân về các sự kiện, vấn đề hay hiện tượng cụ
thể. Đặc điểm của thể loại bình luận bao gồm tính chủ quan, phân tích và đánh giá,
thuyết phục độc giả thông qua lập luận và chứng cứ, cũng như khả năng gây ảnh
hưởng đến nhận thức và hành vi của người đọc. Những bài bình luận có thể được viết
dưới nhiều hình thức khác nhau và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tư duy
phản biện và nhận thức của người tiêu dùng truyền thông.
1.2.3.2. Diễn ngôn bình luận báo chí
✤ Diễn ngôn báo chí
Báo chí là một hoạt động giao tiếp có sử dụng phương tiện ngôn ngữ. Jakobson
đã đưa ra mô hình giao tiếp với sáu yếu tố như hình 1.9.
NGỮ CẢNH NGƯỜI PHÁT THÔNG ĐIỆP NGƯỜI NHẬN .................................................................................... TIẾP XÚC MÃ Hình 1.9. Các yếu tố trong quá trình giao tiếp của R. Jakobson
(Dẫn theo [113;30])
52
Người phát mã hóa thông tin và truyền đến người nhận, người nhận dựa vào
ngữ cảnh, đường kênh tiếp xúc mà giải mã thông điệp.
Diễn ngôn báo chí là sản phẩm của quá trình giao tiếp báo chí. Dương Văn Quảng [114;47] cho rằng quá trình giao tiếp khép kín của báo chí gồm bốn yếu tố,
trong đó diễn ngôn báo chí là yếu tố quan trọng không thể thiếu.
Thế giới bên ngoài (sự kiện)
Hình ảnh của thế giới bên ngoài
Thông tin
Kiến tạo
Nhà báo
Người nhận tin
Hành ngôn (diễn ngôn)
Thuyết phục
Phản hồi
Hình 1.10. Quá trình giao tiếp trong hoạt động báo chí (Dẫn theo [113; 46])
Nhà báo quan sát, phân tích các sự kiện trong thế giới thực, sau đó tái hiện
chúng trên báo chí thông qua ngôn ngữ và các phương tiện truyền tải khác. Vì vậy, diễn ngôn báo chí không đơn thuần là sự sao chép nguyên bản thực tế, mà là bức tranh
thế giới được khắc họa qua lăng kính chủ quan của người viết. Trong đó, quan điểm và
cách đánh giá của nhà báo – dù tường minh hay hàm ẩn – đều được truyền tải đến độc
giả. Do đó, nhà báo cần có năng lực kiến tạo ngôn ngữ sao cho vừa đảm bảo tính chính
xác của thông tin, vừa thể hiện quan điểm cá nhân một cách tinh tế, đồng thời thuyết
phục người đọc hiểu đúng ý định của mình. Quá trình tiếp nhận thông tin của độc giả
không chỉ dừng lại ở việc tiếp thu mà còn có thể dẫn đến những phản hồi đa dạng, tạo
nên sự tương tác trong diễn ngôn báo chí.
✤ Diễn ngôn bình luận báo chí
Thể loại không tồn tại như một khái niệm trừu tượng mà luôn được biểu hiện
thông qua các diễn ngôn cụ thể. Có thể nói, diễn ngôn là đối tượng phản ánh rõ nét đặc
điểm, chức năng và mục đích giao tiếp của thể loại. Trong nghiên cứu này, các diễn
ngôn được chúng tôi phân tích đều thuộc thể loại bình luận báo chí. Vì vậy, chúng tôi
sử dụng thuật ngữ “diễn ngôn bình luận báo chí” để nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết và tương tác chặt chẽ giữa hình thức ngôn ngữ và bản chất đặc trưng của thể loại này.
Dựa vào đặc điểm thể loại bình luận báo chí đã nêu, chúng tôi nhận thấy diễn
ngôn bình luận báo chí bao gồm một số đặc điểm sau:
- Mục đích của diễn ngôn báo chí: + Phản ánh và đánh giá: xem xét các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội từ
một góc nhìn cụ thể.
53
+ Định hướng thái độ: tác động đến quan điểm và cảm xúc của người đọc,
thường qua việc khuyến nghị, chỉ trích hoặc kêu gọi hành động.
+ Kích thích suy ngẫm: đặt ra câu hỏi hoặc vấn đề để người đọc suy nghĩ sâu hơn. - Diễn ngôn bình luận báo chí thường có cấu trúc thể loại rõ ràng, với các giai
đoạn cụ thể:
+ Mở đầu: Giới thiệu vấn đề cần thảo luận hoặc sự kiện đang gây chú ý.
+ Bàn luận: phân tích vấn đề từ nhiều góc độ, thường kèm theo lập luận và
bằng chứng. Phần này có thể chia thành: khía cạnh tích cực và khía cạnh tiêu cực.
+ Kết luận: đề xuất hướng giải quyết, khuyến khích hành động hoặc định hướng
thái độ tích cực.
- Ngôn ngữ trong bình luận báo chí thường thực hiện các chức năng sau:
+ Chức năng diễn tả (Ideational Function): trình bày thông tin, sự kiện, và các
khía cạnh liên quan đến vấn đề được bình luận.
+ Chức năng liên nhân (Interpersonal Function): thể hiện thái độ, quan điểm, và
mối quan hệ giữa người viết và độc giả, thường thông qua việc sử dụng các từ ngữ
mang tính đánh giá (appraisal).
+ Chức năng kết cấu (Textual Function): tổ chức và liên kết các ý tưởng một
cách logic, giúp văn bản dễ hiểu và mạch lạc.
- Đặc điểm định hướng xã hội: diễn ngôn bình luận báo chí là một công cụ xã
hội, trong đó người viết cố gắng tương tác với độc giả, định hướng dư luận hoặc thúc
đẩy hành động.
- Ngoài ra, diễn ngôn bình luận báo chí luôn gắn chặt với bối cảnh văn hóa – xã
hội nơi nó được tạo ra. Nó không chỉ cung cấp thông tin mà còn phản ánh hệ giá trị,
quan điểm, và chuẩn mực đạo đức của cộng đồng.
Như vậy, diễn ngôn bình luận báo chí không chỉ là một loại văn bản truyền tải
thông tin, mà còn là một công cụ ngôn ngữ phức tạp, phản ánh các cấu trúc xã hội, ý
thức hệ và các chiến lược giao tiếp hiệu quả. Phân tích diễn ngôn theo cách này giúp
làm sáng tỏ vai trò của ngôn ngữ trong việc thuyết phục và định hướng dư luận.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến ngôn ngữ đánh giá và diễn ngôn bình luận báo chí, đồng thời xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
Trước hết, tổng quan tình hình nghiên cứu về NNĐG cho thấy lĩnh vực này đã được quan tâm rộng rãi trên thế giới với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, khung đánh giá của Martin & White (2005) trong SFL đã trở thành công cụ lí thuyết quan trọng
54
để phân tích cách thức người nói/ viết thể hiện quan điểm, cảm xúc và sự đánh giá trong
diễn ngôn. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về NNĐG vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào
việc ứng dụng khung đánh giá để phân tích một số thể loại văn bản nhất định, nhưng chưa có nhiều công trình chuyên sâu về ngôn ngữ đánh giá trong diễn ngôn bình luận báo chí.
Về diễn ngôn bình luận báo chí, các nghiên cứu quốc tế đã tiếp cận từ nhiều hướng
lí thuyết, chủ yếu tập trung vào đặc điểm ngôn ngữ, cấu trúc lập luận và chiến lược thể
hiện quan điểm. Tại Việt Nam, nghiên cứu về diễn ngôn bình luận báo chí cũng đã có
những bước tiến nhất định, nhưng phần lớn mới dừng lại ở việc mô tả đặc điểm ngôn ngữ hoặc tiếp cận từ góc nhìn phong cách học, chưa có nhiều nghiên cứu kết hợp lí thuyết
NNĐG để phân tích diễn ngôn bình luận báo chí một cách hệ thống.
Trong chương này, chúng tôi trình bày những các vấn đề lí luận có liên quan nhằm
làm rõ bản chất của lí thuyết đánh giá trong khuôn khổ SFL. Chúng tôi đã làm rõ nghĩa liên nhân trong SFL, nhấn mạnh mối quan hệ giữa người nói/ viết và người nghe/ đọc trong giao tiếp, phân tích mối quan hệ giữa ngữ cảnh và văn bản. Những vấn đề cơ bản
của NNĐG cũng được trình bày, bao gồm ba hệ thống chính: Thái độ, Giọng điệu và
Thang độ. Về bản chất, Thái độ phản ánh cách người nói/ viết biểu hiện các giá trị đánh
giá đối với con người, sự vật, hiện tượng, thông qua ba tiểu hệ thống: Cảm xúc, Phán
đoán và Thẩm giá. Đây là cơ sở thể hiện quan điểm, cảm xúc, lập trường trong diễn ngôn.
Giọng điệu tập trung vào việc thể hiện mức độ cam kết và vị thế của người nói/ viết đối
với phát ngôn. Giọng điệu không chỉ góp phần xác lập quan hệ liên nhân mà còn mở hoặc
đóng không gian đối thoại, từ đó định hình sự tham gia của người nghe/ đọc vào tiến trình
kiến tạo nghĩa. Thang độ thể hiện mức độ mạnh – nhẹ, cao – thấp của các giá trị đánh giá,
từ đó điều chỉnh cường độ, phạm vi và sắc thái của thái độ. Hệ thống này giúp người nói/
viết làm mờ, làm rõ hay tăng giảm tác động của thái độ trong văn bản, thể hiện tính linh
hoạt và chiến lược của diễn ngôn đánh giá. Bên cạnh đó, chúng tôi xác định các thành tố
trong cấu trúc nội tại của phát ngôn đánh giá và trình bày lí thuyết về diễn ngôn bình
luận báo chí, bao gồm khái niệm thể loại, đặc điểm diễn ngôn bình luận báo chí và vai trò
của nó trong hệ thống truyền thông.
Những vấn đề lí luận này sẽ là cơ sở quan trọng để triển khai các phân tích
trong các chương tiếp theo của luận án.
55
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ THÁI ĐỘ
TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN BÁO CHÍ
Trong chương này, chúng tôi trình bày kết quả phân tích định lượng về ngôn
ngữ đánh giá thể hiện Thái độ, Thang độ của Thái độ trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân từ ngữ liệu đã thu thập. Từ đó phân tích định tính nguồn
lực thể hiện Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá trong các bài bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Dựa vào kết quả phân tích định tính và định lượng đó, chúng tôi tiến
hành đối chiếu sự tương đồng và khác biệt của báo Tuổi trẻ và Nhân dân trong cách
thể hiện Thái độ. Trên cơ sở ấy, chúng tôi đưa ra kết luận về đặc trưng của hệ thống
Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo chí.
2.1. Kết quả khảo sát chung về Thái độ
Thái độ gồm 3 tiểu hệ thống: Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá. Khảo sát 90 diễn
ngôn bình luận (45 diễn ngôn trên báo Nhân dân, 45 diễn ngôn trên báo Tuổi trẻ) trong
05 chủ đề: chăm sóc đời sống người lao động trong dịch Covid-19, người và việc
trong cuộc chiến chống dịch Covid-19, phát triển du lịch thời Covid-19, giáo dục thời
Covid-19, vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid-19, chúng tôi thu được kết quả khái quát
về tương quan tỉ lệ xuất hiện của các tiểu hệ thống Thái độ và tính phân cực của các
đánh giá. Kết quả này được thể hiện trong bảng 2.1, bảng 2.2. và hình 2.1, hình 2.2.
Bảng 2.1. Kết quả khảo sát Thái độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tích cực (+) Tiêu cực (-) Tổng
Phân cực Thái độ Tần suất Tần suất Tần suất Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ
Cảm xúc 143 18,52% 26,3% 346 44,82% 203
Phán xét 84 10,88% 16,45% 211 27,33% 127
Thẩm giá 90 11,66% 16,19% 215 27,85% 125
Tổng 317 41,06% 58,94% 772 100% 455
(Đơn vị tính tần suất: lần)
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát Thái độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Tích cực (+) Tiêu cực (-) Tổng
Phân cực Thái độ Tần suất Tần suất Tỉ lệ Tần suất Tỉ lệ Tỉ lệ
Cảm xúc 144 21,21% 17,23% 261 38,44% 117
Phán xét 106 15,61% 18,7% 233 34,31% 127
Thẩm giá 77 11,34% 15,91% 185 27,25% 108
Tổng 327 48,16% 51,84% 679 100% 352
(Đơn vị tính tần suất: lần)
56
Báo Tuổi trẻ
Báo Nhân dân
27,25%
27,85%
38,44%
44,82%
Cảm xúc Cảm xúc
27,33%
34,31%
Phán xét Phán xét
Thẩm giá Thẩm giá
Hình 2.1. Tỉ lệ xuất hiện của các giá trị trong hệ thống Thái độ
Tích cực
Tiêu cực
58,94%
48,16%
51,84%
6
41,06%
4
2
0
Báo Nhân dân
Báo Tuổi trẻ
Hình 2.2. Tỉ lệ phân cực trong hệ thống Thái độ
Bảng 2.1 và hình 2.1. cho thấy, trong cả hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và báo
Nhân dân, Cảm xúc xuất hiện nhiều hơn so với hai tiểu hệ thống còn lại trong hệ thống
Thái độ. Tuy nhiên, Cảm xúc ở báo Tuổi trẻ chiếm tỉ lệ cao hơn so với báo Nhân dân. Thẩm giá ở báo Tuổi trẻ cũng chiếm tỉ lệ cao hơn so với báo Nhân dân. Ngược lại, Phán
xét ở báo Nhân dân chiếm tỉ lệ cao hơn so với báo Tuổi trẻ.
Bảng 2.2. và hình 2.2. thể hiện nét tương đồng của hai khối ngữ liệu về tỉ lệ
phân cực trong hệ thống Thái độ: đánh giá tiêu cực nhiều hơn đánh giá tích cực. Tuy
nhiên, khoảng cách giữa hai cực ở báo Tuổi trẻ lại lớn hơn so với báo Nhân dân.
Những tương đồng và khác biệt này sẽ được chúng tôi phân tích chi tiết trong
các phần tiếp theo.
2.2. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo
Tuổi trẻ và Nhân dân
2.2.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân 2.2.1.1. Tần suất thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Tần suất thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ Kết quả khái quát về tiểu hệ thống Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trong
45 diễn ngôn trên báo Tuổi trẻ được thể hiện trong hình 2.3 dưới đây. Còn kết quả
khảo sát chi tiết từng chủ đề được trình bày cụ thể trong phụ lục 2.1.
57
15
10
5
0
Hài lòng
Mong muốn Hạnh phúc An toàn
Tiêu cực
Tích cực2
Hình 2.3. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng P2.1.1 (trong Phụ lục 2.1) và hình 2.3, có thể
thấy Mong muốn là tiểu loại cảm xúc có tần suất xuất hiện cao nhất (131 lần), tiếp đến
là tiểu loại Hạnh phúc (97 lần), An toàn xếp vị thứ ba (70 lần) và Hài lòng (48 lần) có
tần suất xuất hiện thấp nhất. Trong đó, chỉ có tiểu loại cảm xúc Mong muốn có đánh
giá tích cực cao hơn đánh giá tiêu cực 3,68 lần. Còn các tiểu loại cảm xúc khác đều có
các đánh giá tiêu cực nhiều hơn đánh giá tích cực: Hạnh phúc có cảm xúc tiêu cực cao
hơn cảm xúc tích cực 2,13 lần; đặc biệt, An toàn và Hài lòng có cảm xúc tiêu cực áp
đảo tích cực, An toàn có cảm xúc tiêu cực cao gấp 16,5 lần so với cảm xúc tích cực,
còn Hài lòng thì cảm xúc tiêu cực gấp 8,6 lần cảm xúc tích cực. Nguyên nhân của sự
chênh lệch và khác biệt này xuất phát từ bối cảnh xã hội lúc ấy. Tất cả các diễn ngôn
bình luận này trên báo Tuổi trẻ đều ra đời trong hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng”, cả thế
giới nói chung, nước ta nói riêng đang đối mặt với đại dịch Covid-19, tính mạng con
người bị đe dọa, kinh tế bị kéo lùi, giáo dục bị ngưng trệ… Các bài bình luận trên báo
Tuổi trẻ tập trung nêu thực trạng về đời sống bấp bênh của người lao động trong dịch
Covid-19; những lo lắng, sợ hãi của con người khi đối mặt với dịch bệnh; những âu lo
khi nền kinh tế giậm chân tại chỗ; những áp lực mà giáo viên, học sinh, phụ huynh
phải trải qua khi chuyển sang học trực tuyến; những bất bình đối với một số thành
phần lợi dụng tình hình dịch bệnh rối ren để “đục nước béo cò”… Từ đó nêu lên mong
muốn là Nhà nước nhanh chóng thực thi chính sách hỗ trợ người lao động, khắc phục
những hạn chế để người dân được ổn định cuộc sống. Do đó, Cảm xúc trong các bài
bình luận ở báo Tuổi trẻ phần lớn là cảm xúc đau khổ, lo lắng, sợ hãi của người lao
động khi đối diện với những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra. Sau đây, chúng tôi xin
dẫn một số ví dụ về Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ:
(1) Nếu gói này được thông qua và thực thi hiệu quả, hàng triệu lao động sẽ
cảm thấy ấm lòng bởi khó khăn của họ đã được thấu hiểu, hỗ trợ. [T2]
Chủ thể cảm xúc trong (1) là phi tác giả: hàng triệu lao động. Tiểu loại Cảm
xúc của (1) thuộc nhóm Hạnh phúc (+). Những người lao động sẽ cảm thấy hạnh phúc
nếu gói hỗ trợ người lao động trong dịch Covid-19 của Chính phủ được thông qua và
thực thi hiệu quả, vì họ cảm nhận được là Chính phủ đã thấu hiểu những khó khăn mà
58
họ phải chịu đựng do ảnh hưởng của đại dịch. Cảm xúc Hạnh phúc (+) được thể hiện
qua từ ―ấm lòng‖.
(2) Mong muốn của những người làm chính sách khi thiết kế một tấm lưới
BHXH là đảm bảo đời sống của người lao động sau khi về hưu. [T4]
Chủ thể cảm xúc của (2) là phi tác giả: ―những người làm chính sách‖. Tiểu loại
Cảm xúc được thể hiện trong (2) là Mong muốn (+). Mục đích của những người làm chính
sách khi thiết kế mạng lưới BHXH là đảm bảo đời sống của người lao động sau khi họ về
hưu. Cảm xúc Mong muốn (+) được hiện thực hóa bằng động từ ―mong muốn‖.
(3) Không thể kéo dài tình trạng sau một ngày làm việc nhọc nhằn, công nhân
trở về căn phòng trọ chật hẹp, bức bí ngày này qua tháng nọ. [T6]
Ví dụ (3) thuộc tiểu loại cảm xúc Hạnh phúc (-) và Hài lòng (-). Cảm xúc không
hạnh phúc của công nhân được thể hiện qua các từ ngữ ―nhọc nhằn‖, ―chật hẹp, bức bí‖.
Những từ này không chỉ miêu tả sự mệt mỏi thể chất và tinh thần mà còn phản ánh một
không gian sống ngột ngạt, thiếu thốn, đầy bức bối và không thoải mái. Cảm xúc không
hạnh phúc này gợi lên một bức tranh u ám về đời sống của công nhân, tạo nên một cảm
giác thiếu hi vọng và sự kìm kẹp trong từng ngày sống của họ. Chứng kiến cảnh đó, tác
giả cảm thấy không hài lòng. Sự bất lực trước tình trạng tồi tệ ấy được bộc lộ qua từ
―không thể‖. Diễn đạt này cho thấy sự bất mãn của người viết khi công nhân trong khu
công nghiệp phải sống trong điều kiện không đáp ứng được những nhu cầu cơ bản về
không gian sống và làm việc.
(4) Thông tin giá xăng dầu được điều chỉnh tăng ở tất cả các mặt hàng, trong đó giá
xăng tăng lần thứ 5 liên tiếp, xăng RON95 vượt mốc 30.000 đồng/lít từ 15h ngày 23-5 lần
nữa khiến người nghèo, người lao động hoang mang, lo lắng. [T7]
Chủ thể cảm xúc trong (4) là phi tác giả: ―người nghèo, người lao động‖. Xăng
dầu là mặt hàng thiết yếu, tác động mạnh đến đời sống của người dân. Đặc biệt, trong
tình cảnh cuộc sống bấp bênh vì đại dịch Covid-19, xăng tăng đã khiến cho người lao
động cảm thấy “hoang mang, lo lắng‖, sợ hãi. Đây là cảm xúc An toàn (-).
Tần suất thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Khảo sát 45 diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân, chúng tôi nhận thấy tiểu hệ
thống Cảm xúc được thể hiện qua bốn nhóm cảm xúc: Mong muốn, Hạnh phúc, An
toàn và Hài lòng. Kết quả khảo sát khái quát của tiểu hệ thống Cảm xúc được thể hiện
trong hình 2.4 bên dưới. Còn kết quả chi tiết được trình bày cụ thể trong bảng P2.1.2
trong phụ lục 2.1.
59
20
15
10
5
0
Hài lòng
Mong muốn Hạnh phúc An toàn
Tiêu cực
Tích cực2
Hình 2.4. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Kết quả thống kê ở bảng P2.1.2 (trong phụ lục 2.1) và hình 2.4. cho thấy, trong tổng số 261 lần thể hiện Cảm xúc, Mong muốn là tiểu loại cảm xúc được thể hiện nhiều nhất với tần suất là 154 lần, trong đó Mong muốn (+) xuất hiện 130 lần, gấp 5,42 lần cảm xúc Mong muốn (-). Tuy nhiên, những cảm xúc Mong muốn (+) này không hoàn toàn xuất phát từ cảm xúc cá nhân, mà chúng xuất phát từ nhu cầu khách quan (bởi vì hầu hết cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân không phải là những cảm xúc khát khao, mong ngóng, chờ đợi, mà là những đề nghị, những giải pháp khắc phục vấn đề còn tồn đọng của vụ việc được đưa ra dựa trên thực tiễn, được thể hiện qua động từ tình thái “cần”). Các tác giả ở báo Nhân dân thường thể hiện mong muốn thông qua sự trao đổi, đề nghị hoặc đưa ra một số giải pháp để khắc phục vấn đề, và hình ảnh của chủ thể đánh giá là người viết thường bị/ được ẩn đi. Điều này cho thấy các tác giả báo Nhân dân thường hướng đến việc đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề nhiều hơn là bộc lộ tâm trạng của bản thân và đối tượng. Tiếp theo, cảm xúc Hạnh phúc xếp vị trí thứ hai với 41 lần. Cảm xúc An toàn và Hài lòng có số lần xuất hiện xấp xỉ nhau. Điểm chung giữa ba tiểu loại cảm xúc này là chúng đều xuất hiện cảm xúc tiêu cực nhiều hơn cảm xúc tích cực. Đặc biệt, An toàn chỉ xuất hiện ở cảm xúc tiêu cực, không xuất hiện ở cảm xúc tích cực. Những điều này có thể lí giải dựa vào bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đây là thời điểm mà dịch bệnh Covid-19 đang lan rộng. Dịch bệnh đã tác động xấu đến mọi mặt của đất nước: từ y tế, giáo dục đến kinh tế, du lịch… Người dân cảm thấy sợ hãi, lo lắng cho tính mạng của bản thân và gia đình trong thời điểm dịch dã hoành hành mà chưa có thuốc chữa, chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn cản chúng; tâm lí bất bình khi có một số kẻ lợi dụng tình hình dịch bệnh để trục lợi cho bản thân… Đó là lí do khiến cảm xúc tiêu cực xuất hiện nhiều hơn tích cực ở các tiểu loại cảm xúc này. Sau đây, chúng tôi xin dẫn một số ví dụ về Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân:
(5) Ðây là nội dung rất cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc lựa chọn khám bệnh, chữa bệnh phù hợp điều kiện thực tế. [N8]
Chủ thể cảm xúc trong (5) là người viết nhưng được ẩn đi. Cách viết ẩn chủ thể này giúp tăng tính khách quan và sức thuyết phục trong việc đưa ra đề nghị đối với các
60
bên liên quan. Động từ tình thái cần vừa thể hiện cảm xúc Mong muốn (+) vừa thể hiện sự trao đổi của tác giả với các đối tượng có liên quan đến việc giải quyết khó khăn trong khám chữa bệnh cho người dân.
(6) Các đại biểu Quốc hội băn khoăn, trăn trở nhiều vấn đề đang ảnh hưởng công
tác chăm sóc sức khỏe người dân trong cuộc sống hằng ngày. [N8]
Ví dụ (6) có chủ thể cảm xúc là phi tác giả: Các đại biểu Quốc hội. Các từ ―băn khoăn, trăn trở‖ được sử dụng để thể hiện cảm xúc lo lắng, An toàn (-) của các đại biểu Quốc hội trước tình trạng chăm sóc sức khỏe hiện nay cho người dân.
(7) Thông tin nêu trên không chỉ khiến công nhân, lao động đang ở thuê trọ
phấn khởi mà nhiều doanh nghiệp còn có thêm động lực nhận thêm đơn hàng. [N6]
“Công nhân, lao động” là chủ thể cảm xúc trong (7). Dịch bệnh hoành hành trong suốt 2 năm khiến nhiều doanh nghiệp phải dừng sản xuất. Điều này ảnh hưởng lớn đến thu nhập của công nhân, lao động. Do đó, khi có thông tin được trở lại làm việc bình thường và được tăng giờ làm thêm, họ hết sức vui mừng. Động từ ―phấn khởi‖ đã thể hiện rõ nét cảm xúc Hạnh phúc (+) ấy.
(8) Với những biến chuyển tích cực đang diễn ra, tổn thương của thị trường lao
động việc làm đã phần nào lắng dịu. [N7]
Trước kết quả khả quan của việc kiểm soát dịch bệnh và sự hồi phục dần dần của thị trường lao động, người viết (chủ thể cảm xúc được ẩn đi) đã bày tỏ sự hài lòng của mình. Cảm xúc Hài lòng (+) này được thể hiện qua từ “tích cực‖. 2.2.1.2. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Tiểu hệ thống Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện qua nguồn lực từ vựng - ngữ pháp, gồm: danh từ, động từ, tính từ, phó từ, các tổ hợp từ và kiểu câu. Khảo sát 90 diễn ngôn bình luận (45 diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và 45 diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân), chúng tôi thu được kết quả về nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân như sau:
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tổng
Nguồn lực
Mong muốn Tần Số suất lượng
Hạnh phúc Tần Số suất lượng
An toàn Số lượng
Tần suất
Hài lòng Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
6
11
21
8
15
1
1
33
48
18
28
120
44
23
60
17
24
96
248
36
Từ vựng - Ngữ pháp
Danh từ/ tổ hợp danh từ Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ Phó từ Quán ngữ Kiểu câu
1 2 2 2
2 6 2 2
43 0 0 0
4 0 0 1
5 0 0 5
11 0 0 1
11 0 0 2
43 2 2 4
61 6 2 9
27 0 0 0
(Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
61
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn
Tổng
Nguồn lực
bình luận trên báo Nhân dân An toàn Số lượng
Mong muốn Hạnh phúc Tần suất
Số lượng
Số lượng
Tần suất
Tần suất
Hài lòng Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
3
4
11
17
5
9
3
3
22
33
19
145
8
15
24
17
22
57
199
8
Từ vựng - Ngữ pháp
1
2
20
6
6
5
9
17
37
3
Danh từ/ tổ hợp danh từ Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ
(Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
Các kết quả cụ thể về nguồn lực thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân được chúng tôi trình bày khái quát trong hình 2.5 dưới đây:
25 20 15 10 5 0
Phó từ Quán ngữ Kiểu câu
Danh từ/ tổ hợp danh từ
Động từ/ tổ hợp động từ
Tính từ/ tổ hợp tính từ
Tuổi trẻ Nhân dân
Hình 2.5. Tỉ lệ các phương tiện ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc trong diễn
ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng 2.5, bảng 2.6 và hình 2.5, có thể thấy, nguồn
lực thể hiện Cảm xúc ở báo Tuổi trẻ có tỉ lệ cao hơn ở báo Nhân dân. Ở cả hai báo,
động từ/ tổ hợp động từ là phương tiện ngôn ngữ được sử dụng nhiều hơn các nhóm
phương tiện khác trong việc thể hiện Cảm xúc. Quán ngữ và phó từ có số lượng ít nhất.
Những phương tiện này được phân tích chi tiết trong các phần tiếp theo.
2.2.2. Sự thể hiện Cảm xúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân 2.2.2.1. Cảm xúc Mong muốn trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Mong muốn là những cảm xúc liên quan đến ước nguyện, dự định tiềm ẩn hoặc
đã xảy ra trong thực tế. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, Mong muốn là loại cảm xúc có tần số xuất hiện cao nhất ở cả hai báo. Ở bảo Tuổi trẻ, Mong muốn xuất hiện 131 lần, còn ở báo Nhân dân là 154 lần. Cảm xúc này được hiện thực hóa qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp.
Báo Tuổi trẻ Trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ, cảm xúc Mong muốn được hiện thực hóa bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp với các phương tiện: danh từ/ tổ hợp danh từ, động từ/ tổ hợp động từ/ tổ hợp động từ, tính từ/ tổ hợp tính từ, phó từ, cụm từ
cố định (cụ thể là quán ngữ) và kiểu câu hỏi.
62
- Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện cảm xúc Mong muốn (+)
gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: nguyện vọng (xuất hiện 3 lần), hy vọng, uớc mơ (2 lần),
những kỳ vọng (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: cần (31 lần), phải (13 lần), mong muốn (15 lần), cần phải (6 lần), mong (8 lần), muốn (7 lần), chờ đợi, kỳ vọng (3 lần),
ước ao, mong mỏi, mong chờ, trông đợi (các từ này xuất hiện 2 lần), nôn nóng, khát
khao, nên, đòi hỏi (các từ này chỉ xuất hiện 1 lần); phó từ: hãy (2).
- Cảm xúc Mong muốn (-) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ được
biểu hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: cái khó (xuất hiện 3 lần), rào cản (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: không thể (xuất hiện 3 lần),
không thể mong, đành phải (xuất hiện 2 lần), chưa như mong đợi, không muốn, chưa
như mong muốn, buộc phải, không mua được, muốn nhưng chẳng được, phân trần,
ngụp lặn (xuất hiện 1 lần); tính từ: gập ghềnh (1 lần); phó từ: đừng (4 lần); quán ngữ: thôi thì, chẳng đặng đừng (xuất hiện 1 lần); câu hỏi (2 lần).
Xét một số ví dụ tiêu biểu:
(9) Nhiều người hỏi rằng khi nào các cửa hàng, quán ăn, trung tâm thương
mại, du khách, các chuyến bay... lại nhộn nhịp để có nhiều việc làm? Khi nào nền kinh
tế, tài chính của mỗi gia đình, cá nhân trở lại như trước khi có COVID-19? Nếu vài
tháng trước, khó có câu trả lời. Nay chúng ta có quyền biến những kỳ vọng của mình
thành hiện thực, không chỉ bằng mà phải hơn trước. [T9]
Trong ví dụ (9), chủ thể cảm xúc là “chúng ta”, tức cộng đồng người dân sau
đại dịch. Việc sử dụng “chúng ta” không chỉ thể hiện sự chia sẻ cảm xúc giữa tác giả
và người dân, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết cộng đồng, tạo niềm
tin, lan tỏa tinh thần tích cực và củng cố chức năng định hướng của báo chí. Cảm xúc
Mong muốn được thể hiện rõ qua tổ hợp danh từ “những kỳ vọng”. Việc sử dụng
“những kỳ vọng” vừa biểu đạt ước mong tích cực vừa khơi gợi niềm tin, sự chủ động
và tinh thần vượt khó của tập thể.
(10) Chúng ta vẫn thường kỳ vọng và đòi hỏi ở người thầy thuốc phải đáp ứng
rất nhiều tiêu chuẩn, từ giàu lòng nhân ái đến việc phải bắt trúng - đúng bệnh và đặc biệt phải lấy người bệnh làm trung tâm, xem việc cứu người bệnh làm mục đích hành
đạo... [T3]
Chủ thể cảm xúc trong ví dụ (10) là “chúng ta” đại diện cho cộng đồng xã hội, bao gồm cả người viết và người đọc. Đây là chủ thể tập thể, tạo nên tiếng nói chung mang tính cộng đồng, từ đó gia tăng sức nặng cho mong muốn được thể hiện. Cảm xúc Mong muốn trong (10) được biểu đạt thông qua hai động từ ―kỳ vọng‖ và ―đòi hỏi‖,
thể hiện những yêu cầu chính đáng, tích cực nhưng cũng đầy trách nhiệm của cộng đồng đối với người thầy thuốc. Việc sử dụng phương tiện động từ mạnh như vậy góp
63
phần nâng cao giá trị nghề y, đồng thời thể hiện chuẩn mực xã hội trong đánh giá đạo
đức và năng lực của người hành nghề.
(11) Được ở nhà thuê tươm tất. Đó là nguyện vọng của nhiều người lao động
tại cuộc tiếp xúc với HĐND TP.HCM về vấn đề nhà ở cuối tuần qua. [T6]
Trong ví dụ (11), chủ thể cảm xúc là người lao động (thuộc kiểu phi tác giả).
Những công nhân lao động tại các khu công nghiệp phải ở trọ trong những căn phòng chật
hẹp, tồi tàn, không đảm bảo về an toàn. Do đó, họ có mong muốn được ở nhà thuê tươm
tất. Cảm xúc Mong muốn (+) này của họ được thể hiện bằng danh từ “nguyện vọng”.
(12) Nhiều gia đình mong muốn sẽ dành một mùa hè bên nhau trọn vẹn, nhưng
mùa hè năm nay sẽ không phải là những ngày sau cánh cửa như mùa hè của năm 2021
– mà là ở nơi có biển xanh nắng ấm, ở nơi có những cung đường ngát xanh mùi lá
thơm… [T20]
Nhiều gia đình là chủ thể cảm xúc (phi tác giả) trong (12). Trong 2 năm dịch
Covid-19 diễn ra, hầu như người dân chỉ quanh quẩn tại nhà, học tại nhà, làm việc tại
nhà, nên họ có cảm giác bức bí, cần được đi đâu đó để giải tỏa. Do đó, họ mong muốn
được có kì nghỉ hè hạnh phúc bên gia đình sau dịch Covid-19. Đó là mong muốn chính
đáng, thuộc cảm xúc tích cực. Cảm xúc Mong muốn (+) được thể hiện bằng động từ
“mong muốn”.
(13) Thị trường xăng dầu thế giới đang trong giai đoạn nhạy cảm, giá nhăm
nhe tăng, nguồn cung không ổn định. Vì vậy, đừng để thị trường xăng dầu trong nước
thêm "nóng", ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng, bởi đằng sau đó chính là an ninh
năng lượng quốc gia. [T38]
Chủ thể cảm xúc trong (13) là người viết (chủ thể tác giả, đã được ẩn đi). Cách
viết ẩn chủ thể này tạo nên tính khách quan khi người viết đưa ra các đề nghị, giải
pháp đối với các vấn đề cần giải quyết, đồng thời tăng sức thuyết phục đối với độc giả.
Trong (13), người viết bộc lộ cảm xúc không mong muốn của mình về tình hình ngày
càng căng thẳng của thị trường xăng dầu. Cảm xúc tiêu cực này được thể hiện qua phó
từ “đừng”.
Báo Nhân dân
Cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân cũng
được hiện thực hóa bằng các phương tiện: danh từ/ tổ hợp danh từ, động từ/ tổ hợp
động từ, tính từ/ tổ hợp tính từ và phó từ. Cảm xúc Mong muốn được thể hiện qua 23
phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng, xuất hiện 146 lần.
- Các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng
để thể hiện cảm xúc Mong muốn thuộc bình diện tích cực bao gồm: danh từ: nhu cầu,
64
(2 lần); động từ/ tổ hợp động từ: cần (xuất hiện 108 lần), phải (8 lần), muốn, mong
muốn, yêu cầu (mỗi từ xuất hiện 3 lần), kỳ vọng (2 lần), mong mỏi (1 lần).
- Bình diện đánh giá tiêu cực của cảm xúc Mong muốn được hiện thực hóa bằng
các yếu tố sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: những vướng mắc, tâm lý cực đoan (mỗi từ
xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: phải (7 lần), buộc, bị, lỡ hẹn, không muốn,
giảm mong muốn, chưa như mong muốn, buộc phải, không như mong đợi, gặp phải, bị
bỏ quên (các từ/ tổ hợp từ này đều chỉ xuất hiện 1 lần); tính từ: khó (2).
Trong số các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để hiện thực hóa Mong
muốn, động từ cần và phải có tần suất cao nhất. Hai động từ này vừa là thể hiện mong
muốn khách quan của chủ thể cảm xúc (chủ thể cảm xúc là người viết và thường được
ẩn đi), vừa là đưa ra đề nghị/ giải pháp để giải quyết những hạn chế, tồn đọng của vấn
đề. Do đó, có thể thấy, các tác giả ở báo Nhân dân ít thể hiện cảm xúc chủ quan của
mình, các mong muốn cũng thường xuất hiện từ lí trí, yêu cầu khách quan của thực tế.
Xét các ví dụ sau:
(14) Để kiểm soát tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm ở mức
khoảng 4% theo mục tiêu Quốc hội đề ra, các ngành liên quan cần tiếp tục nỗ lực tháo
gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, bảo đảm nguồn cung dồi dào và từng bước
nâng cao thu nhập cho nhân dân và người lao động. [N39]
(15) Tuy nhiên, trước thực trạng buôn lậu, gian lận thương mại mặt hàng xăng
dầu vẫn diễn biến phức tạp, các cơ quan quản lý nhà nước phải có kế hoạch đấu tranh
quyết liệt nhằm ngăn chặn vấn nạn này. [N43]
Chủ thể cảm xúc trong hai ví dụ (14 và 15) là người viết nhưng đã được ẩn đi.
Việc ẩn người viết (không dùng “tôi”, “chúng tôi”, “chúng ta”) giúp phát ngôn tránh
mang tính cá nhân, tạo cảm giác khách quan, phổ quát và dễ thuyết phục hơn, như thể
đó là sự thật hiển nhiên chứ không phải quan điểm riêng của người viết. Động từ
“cần” và “phải‖ trong (14, 15) được người viết sử dụng để đưa ra đề nghị với các độc
giả giả định, với các bên liên quan để họ có thể tham khảo và thực hiện. Đồng thời,
đây cũng là mong muốn khách quan của người viết đối với các đối tượng được nhắc
đến trong diễn ngôn (các ngành liên quan, các cơ quan quản lý nhà nước).
(16) Theo khảo sát mới nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về đời
sống công nhân lao động năm 2021, 21% số người lao động phải ăn nhiều mì tôm
hơn, 48% giảm lượng thịt hàng ngày, 22% chuyển mua sắm mỗi ngày sang thực phẩm
do người thân cung cấp, 15% gộp bữa ăn giảm chi phí, 60% tiết kiệm các khoản chi
tiêu, 11% phải vay mượn để chi tiêu, 0,3% phải vay lãi suất cao, tín dụng đen hoặc
báo bảo hiểm xã hội. [N5]
65
“Phải‖ ở ví dụ (17) không dùng để đưa ra đề nghị mà thể hiện sự không mong
muốn của người lao động. Chất lượng cuộc sống giảm là điều không ai mong muốn,
do đó, “phải‖ dùng để thể hiện cảm xúc tiêu cực này. 2.2.2.2. Cảm xúc Hạnh phúc trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Hạnh phúc là những cảm xúc liên quan đến “chuyện của trái tim” như buồn,
vui, ngưỡng mộ, biết ơn, đau khổ, … Trong khối ngữ liệu, Hạnh phúc là cảm xúc có
tần suất đứng thứ 2 trong tiểu hệ thống Cảm xúc ở cả hai báo. Cảm xúc này được phân
thành hai cực: tích cực (hạnh phúc) - tiêu cực (không hạnh phúc) và được thể hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, gồm các phương tiện: danh từ/ tổ hợp danh từ,
động từ/ tổ hợp động từ, tính từ/ tổ hợp tính từ.
Báo Tuổi trẻ Trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ, cảm xúc Hạnh phúc được thể
hiện qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp với các phương tiện sau:
- Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để hiện thực hóa cảm xúc Hạnh phúc
(+) gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: tin vui, niềm vui tinh thần, tin mừng, niềm vui, nỗi
vui mừng, những trải nghiệm khó quên, cuộc sống mới, sự phấn khởi, nụ cười hào
sảng, niềm hân hoan, mắt cay cay, tiếng nói (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); động
từ/ tổ hợp động từ: mừng (4 lần), vui, xúc động (xuất hiện 2 lần), phấn khởi, thích thú,
vỡ òa, hồi hộp, mừng rỡ, mất mát, tổn thương, vui mừng, vui sướng, được giải quyết,
cười (mỗi từ/ tổ hợp từ chỉ xuất hiện 1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: ấm lòng, háo hức,
nhộn nhịp, cũng may, thân quen, lạ lẫm, bùi ngùi, lạc quan (mỗi từ/ tổ hợp từ chỉ xuất
hiện 1 lần).
- Bình diện tiêu cực của cảm xúc Hạnh phúc (-) được thể hiện qua: danh từ/ tổ
hợp danh từ: khó khăn, nỗi khốn khó, gánh nặng (mỗi từ/ tổ hợp từ này xuất hiện 2
lần), nạn nhân xấu số, cảnh bi thảm, trầm cảm (xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động
từ: hậm hực, than, buồn (2 lần), tự "chòi đạp", ky cóp, đánh đổi, gồng gánh, bị tổn
thương, bị thương, gồng mình, tuyệt vọng, chẳng mấy vui vẻ, chấp nhận hy sinh, chịu
đựng, đè nặng, nghẹt thở, hành hạ, phải chịu, oằn mình, gánh chịu (những từ/ tổ hợp từ này xuất hiện 1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: khó khăn (12 lần), thiệt thòi (4 lần), vất
vả (3 lần), cơ cực, nhọc nhằn, chật hẹp, bức bí, chật vật, nặng nề, không thể không nhức nhối, bi đát, đau đớn, đau lòng, đau xót, rối bời, gian khó, cay đắng, giận dữ, bạc đầu (mỗi từ/ tổ hợp từ chỉ xuất hiện 1 lần).
Xét một số ví dụ sau: (17) Câu chuyện phạm pháp xảy ra với những cá nhân liên quan đến các chuyến
bay giải cứu công dân là điều rất đáng buồn, nhưng không vì vậy mà phủ nhận được chủ trương, sự tập trung, ưu tiên mà Nhà nước đã nỗ lực dành cho con dân người Việt trên khắp thế giới trong những ngày đại dịch hoành hành. [T19]
66
Trước những lùm xùm xung quanh chuyến bay giải cứu công dân, người viết (chủ thể cảm xúc là tác giả đã được ẩn đi) cảm thấy buồn, không hạnh phúc. Cách viết ẩn chủ thể này khiến người đọc có cảm giác rằng cảm xúc buồn trước câu chuyện chuyến bay giải cứu không chỉ là cảm xúc của riêng người viết mà còn là cảm xúc của nhiều đối tượng khác. Điều này dễ khiến người đọc đồng cảm. Có thể nói, đây cũng là một chiến lược thu hút độc giả của người viết bình luận. Cảm xúc tiêu cực này được người viết thể hiện qua động từ “buồn”.
(18) Giám đốc một doanh nghiệp du lịch mừng rỡ khoe năm nay công ty ông
vừa thưởng lương tháng 13 cho nhân viên, các tour Tết đang dần dần chốt sổ. [T23]
Giám đốc (chủ thể cảm xúc) hạnh phúc vì tài chính công ty ổn định và đã có thể chi trả tháng lương 13 cho nhân viên sau hai năm dịch bệnh. Cảm xúc Hạnh phúc (+) này được nhận diện qua động từ “mừng rỡ”.
(19) Từ sự phấn khởi của du lịch dịp lễ giỗ Tổ, nhìn ra một làn sóng du lịch sẽ bùng nổ tiếp theo trong dịp 30-4 và 1-5 và các kỳ nghỉ dài ngày khác trong năm, ngành du lịch Việt Nam cần phải làm gì trong thời gian tới? [T28]
Sau hai năm đóng băng vì dịch bệnh, tình hình kinh tế của các doanh nghiệp du lịch vô cùng ảm đạm. Năm 2022, khi nước ta bắt đầu “bình thường mới”, du lịch cũng có những khởi sắc nhất định. Tình hình này khiến chủ thể cảm xúc (người viết, đã ẩn) hạnh phúc. Danh từ “sự phấn khởi” thể hiện cảm xúc hạnh phúc ấy.
Báo Nhân dân Cảm xúc Hạnh phúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được thể
hiện qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp.
- Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện cảm xúc Hạnh phúc (+) thuộc bình diện tích cực gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: niềm vui và biết ơn, niềm lạc quan (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); động từ: phấn khởi, vui, tin tưởng (xuất hiện 1 lần).
- Cảm xúc Hạnh phúc (-) thuộc bình diện tiêu cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được biểu hiện bằng: danh từ/ tổ hợp danh từ: áp lực (7 lần), tổn thương, tổn thất, thiệt hại nặng nề, ác mộng, những khó khăn, thách thức, tâm trạng căng thẳng (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: rạn nứt, thiệt thòi, ảnh hưởng tiêu cực, phải chịu áp lực vô cùng nặng nề, chịu ảnh hưởng nặng nề (mỗi từ/ tổ hợp từ này chỉ xuất hiện 1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: khó khăn (17 lần), xa xót (2 lần), không may (1 lần).
Ví dụ: (20) Thông tin nêu trên không chỉ khiến công nhân, lao động đang ở thuê trọ
phấn khởi mà nhiều doanh nghiệp còn có thêm động lực nhận thêm đơn hàng. [N10]
67
Động từ “phấn khởi‖ thể hiện cảm xúc vui mừng, hạnh phúc của công nhân, lao
động (chủ thể cảm xúc) trước thông tin Quốc hội đã thông qua gói hỗ trợ cho công
nhân, lao động.
(21) Mina Bùi bảo, chạm mắt vào đâu chị cũng thấy xa xót như thể chính mình
đang bị thương. [N29]
Mina Bùi (chủ thể cảm xúc) cảm thấy đau lòng, không hạnh phúc trước sự tàn
phá của dịch bệnh đối với ngành du lịch nói chung, cơ sở kinh doanh du lịch của cô
nói riêng. Cảm xúc không hạnh phúc được thể hiện qua tính từ “xa xót‖.
(22) Tuy nhiên chứng kiến việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, cũng như khả
năng phục hồi nền kinh tế đáng ngưỡng mộ của Việt Nam, ngay khi đất nước mở cửa
trở lại, Mina Bùi quyết định khăn gói quay về quê hương với tràn đầy niềm lạc quan,
tin tưởng. [N29]
Tổ hợp danh từ “niềm lạc quan, tin tưởng‖ bộc lộ cảm xúc hạnh phúc của Mina Bùi (chủ thể cảm xúc) trước sự phục hồi đáng kinh ngạc của ngành du lịch Việt Nam
sau đại dịch Covid-19.
2.2.2.3. Cảm xúc An toàn trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
An toàn là những cảm xúc an tâm hay lo lắng liên quan đến vấn đề “an sinh xã
hội”. Chủ thể cảm xúc có thể lạc quan, vững tâm về tương lai bản thân, hay lo âu, sợ
hãi trước những khó khăn mà mình phải đối mặt. Theo kết quả khảo sát, cảm xúc An
toàn xếp vị thứ 3 trong tiểu hệ thống Cảm xúc ở cả hai báo. Điều đáng chú ý, ở cả hai
báo, cảm xúc An toàn thuộc bình diện tiêu cực có tỉ lệ rất cao so với bình diệu tích cực.
Cụ thể, ở báo Tuổi trẻ, trong số 70 lần xuất hiện thì cảm xúc An toàn tích cực chỉ xuất
hiện 4 lần, còn ở báo Nhân dân, con số này là 0/35 lần.
Báo Tuổi trẻ Cảm xúc An toàn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ được hiện
thực hóa bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, với các phương tiện ngôn ngữ sau:
- Trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ, cảm xúc An toàn (+) chỉ xuất
hiện 4 lần qua các phương tiện ngôn ngữ sau: động từ/ tổ hợp động từ: tự tin (1 lần),
cất được gánh nặng (1 lần); tính từ: vững tâm (1 lần).
(23) Các doanh nghiệp du lịch TP đang trong những ngày bận rộn và cả hồi
hộp của mùa kinh doanh Tết nhưng họ vẫn tràn đầy tự tin. [T23]
Động từ tự tin diễn tả cảm xúc An toàn (+) của các doanh nghiệp du lịch (chủ
thể cảm xúc). Họ có lòng tin về một tương lai tươi sáng của ngành du lịch sau dịch
Covid-19.
(24) Có thuốc để mọi người vững tâm trở lại "bình thường mới", nhưng đừng
thêm áp lực lên hệ thống y tế. [T10]
68
Mọi người (chủ thể cảm xúc) cảm thấy an tâm khi có thuốc chữa trị dịch bệnh.
Tính từ “vững tâm” đã thể hiện cảm xúc an toàn đó của người dân.
- Các phương tiện ngôn ngữ được dùng để thể hiện cảm xúc An toàn (-) trong
các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: nỗi lo (xuất
hiện 5 lần), nguy cơ (4 lần), sự e ngại, mảng tối, những lo toan, nỗi bất an và nguy cơ,
thảm họa, sự lo lắng (những từ/ tổ hợp từ này chỉ xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp
động từ: lo lắng (11 lần), băn khoăn (6 lần), e ngại/ lo ngại, lo âu, âu lo (5 lần), hoang
mang (4 lần), sợ (3 lần), bị đe dọa (2 lần), đáng lo, báo động, cảnh báo, cám cảnh,
không… ngủ được, đắn đo, không thể tĩnh tâm, giật mình, trấn an, e (rằng) (mỗi từ/ tổ
hợp từ xuất hiện 1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: rủi ro (2 lần), bất an, canh cánh nỗi lo
(1 lần), kiểu câu.
Ví dụ:
(25) Theo Hiệp hội Khách sạn Việt Nam, nhiều địa phương chỉ có 50 - 60% số
cơ sở lưu trú hoạt động trở lại, còn phần lớn trong tình trạng khủng hoảng nhân lực
trầm trọng, thiếu vốn để duy trì dịch vụ… Đấy là nỗi lo thật sự. [T27]
Chủ thể cảm xúc trong ví dụ (25) là người viết nhưng đã được ẩn đi. Trước tình
trạng khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt (nhân lực, vốn…) của các cơ sở lưu trú sau
dịch Covid-19, chủ thể cảm thấy lo lắng cho tương lai của ngành du lịch. Sự lo lắng ấy
được biểu hiện rõ nét qua danh từ “nỗi lo”.
(26) Thông tin giá xăng dầu được điều chỉnh tăng ở tất cả các mặt hàng, trong đó
giá xăng tăng lần thứ 5 liên tiếp, xăng RON95 vượt mốc 30.000 đồng/lít từ 15h ngày 23-5
lần nữa khiến người nghèo, người lao động hoang mang, lo lắng. [T7]
Xăng dầu là mặt hàng tác động trực tiếp đến túi tiền của người dân. Do đó, tình
hình xăng dầu liên tiếp tăng giá khiến người dân, đặc biệt là người lao động nghèo
(chủ thể cảm xúc) vô cùng lo lắng. Họ lo rằng bữa cơm gia đình sẽ ngày càng đạm
bạc, đời sống ngày càng thiếu trước hụt sau. Tổ hợp động từ “hoang mang, lo lắng” đã
diễn tả cảm xúc không an toàn của người lao động.
Báo Nhân dân Trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân, cảm xúc An toàn (-) xuất hiện 36 lượt, được thể hiện qua 23 phương tiện ngôn ngữ, bao gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: nguy cơ (5 lần), nơi nương tựa, mối lo lắng, tâm lý bấn loạn, hốt hoảng (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: lo ngại (4 lần), băn khoăn, lo lắng (3 lần), cảnh báo, sợ (2 lần), e ngại, trăn trở, bị trầm cảm, hoang mang, sợ hãi, hoảng loạn, cáu gắt, e dè, phấp phỏng lo âu, mất phương hướng (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: đáng lo, cô đơn, yếu thế, khó chịu, tự ti, chưa yên tâm (1 lần). Ví dụ:
69
(27) Chính sách đã có, tuy nhiên khi triển khai, đã nảy sinh những vướng mắc
khiến nhiều chuyên gia lao động, công đoàn e ngại độ phủ của chính sách có thể
không đến được với tất cả công nhân, lao động. [N6]
Động từ “e ngại‖ thể hiện cảm xúc lo lắng của chuyên gia lao động, công đoàn
(chủ thể cảm xúc). Họ lo lắng các chính sách hỗ trợ người lao động sau dịch Covid-19
sẽ không đến được với tất cả công nhân, lao động.
(28) Chính tâm lý bấn loạn, hốt hoảng này của một bộ phận người dân đã góp
phần khiến thị trường thuốc và các thiết bị y tế mùa dịch càng trở nên bát nháo, hỗn loạn; tác động tiêu cực đến tâm lý, sinh hoạt của cả cộng đồng. [N17]
Đứng trước đại dịch có khả năng tàn phá ghê gớm như dịch Covid-19, nhiều
người không khỏi lo lắng, sợ hãi. Tổ hợp danh từ “tâm lý bấn loạn, hốt hoảng” đã bộc
lộ cảm giác không an toàn, sợ hãi của một bộ phận người dân.
(29) Các đại biểu Quốc hội băn khoăn, trăn trở nhiều vấn đề đang ảnh hưởng
công tác chăm sóc sức khỏe người dân trong cuộc sống hằng ngày. [N8]
Cảm xúc không an toàn liên quan đến đến sự lo lắng, bất an hoặc thiếu chắc
chắn. Trong (29), cảm xúc không an toàn được thể hiện rõ qua trạng thái tâm lí của các
đại biểu (chủ thể cảm xúc phi tác giả). Hai từ ―băn khoăn‖ và ―trăn trở‖ đều diễn tả
trạng thái cảm xúc không an toàn, nhưng mỗi từ mang sắc thái và mức độ biểu đạt
khác nhau. ―Băn khoăn‖ thể hiện trạng thái phân vân, do dự, suy nghĩ chưa có lời giải
về một vấn đề cụ thể. ―Trăn trở‖ mang sắc thái mạnh hơn ―băn khoăn‖, diễn tả sự lo
lắng dai dẳng, suy nghĩ sâu sắc và không ngừng về một vấn đề. Sự kết hợp của ―băn
khoăn‖ và ―trăn trở‖ trong câu nhấn mạnh trạng thái lo âu từ mức độ do dự (băn
khoăn) đến mức độ sâu sắc, day dứt (trăn trở). Điều này cho thấy các đại biểu Quốc
hội không chỉ có những lo lắng thông thường mà còn thực sự suy nghĩ nghiêm túc, thể
hiện sự trách nhiệm và tâm huyết với công tác chăm sóc sức khỏe người dân.
2.2.2.4. Cảm xúc Hài lòng trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Hài lòng là những cảm xúc liên quan đến thành công hay thất bại khi theo đuổi
mục tiêu, thỏa mãn hay thất vọng khi kì vọng về điều gì đó. Ở cả hai báo, cảm xúc Hài lòng có tần suất thấp nhất, và đều có tỉ lệ tiêu cực cao hơn tích cực. Cảm xúc Hài lòng
trong các diễn ngôn trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp.
Báo Tuổi trẻ Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để hiện thực hóa cảm xúc Hài lòng (+) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ gồm các động từ/ tổ hợp động từ: ưa
thích, tạm hài lòng (1 lần). Còn cảm xúc Hài lòng (-) được thể hiện qua: danh từ/ tổ hợp danh từ: tâm lý chấp nhận (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: không thể chấp nhận (12 lần), phải/ đành chấp nhận (4 lần), trách (2 lần), chưa thể làm hài lòng, phẫn nộ,
70
vùng vằng, phiền lòng, (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: bèo bọt, tạm bợ, bất bình, phiền
toái, bức bí, nhọc nhằn, bức xúc, tiêu cực, khó, thật đáng tiếc, không hài lòng (1 lần);
câu hỏi (1 lần).
(30) Vậy khi lãi cao trên 1.000 đồng mỗi lít sao không thấy cây xăng chia sẻ với
khách hàng? (A sao lại không B?) [T40]
Cấu trúc hỏi (A sao lại không B?) trong ví dụ (30) thể hiện thái độ không hài
lòng của tác giả hoặc của đối tượng trong bài viết.
(31) Chúng ta có thể tạm hài lòng với những giải pháp hạ nhiệt đà tăng giá cả như hỗ trợ tiền thuê nhà cho một số đối tượng người lao động, giảm thuế VAT, hỗ trợ lãi suất một số đối tượng… [T42]
Chúng ta là chủ thể cảm xúc, gồm tác giả (người viết) và phi tác giả (độc giả). Sử dụng đại từ nhân xưng “chúng ta” sẽ giúp kéo gần khoảng cách giữa người viết và độc giả, đồng thời có thể khiến độc giả cảm nhận rằng ý kiến, cảm xúc của người viết cũng chính là ý kiến, cảm xúc của mình. Đây có thể được coi là một trong những chiến lược thu hút, định hướng cảm xúc và thuyết phục độc giả của người viết bình luận. Trong ví dụ (31), người viết thể hiện thái độ Hài lòng của mình đối với giải pháp hạ nhiệt đà tăng giá tại thời điểm đó. Tuy nhiên, sự hài lòng này chỉ ở mức độ thấp, “tạm hài lòng” đã thể hiện được sự miễn cưỡng chấp thuận này của chủ thể cảm xúc.
(32) Lại có chuyện một khách sạn ở Vũng Tàu phải lên mạng đính chính rằng họ chỉ cho phép trang web A đăng thông tin bán phòng cho mình nhưng trang B lại lấy đăng bán phòng nghỉ, thu tiền của du khách gây ra phiền toái. [T22]
Một khách sạn ở Vũng Tàu (chủ thể cảm xúc) cảm thấy không hài lòng đối với việc lấy cắp thông tin nhằm trục lợi bất chính của trang web B. Tính từ “phiền toái” bộc lộ cảm xúc không hài lòng này.
Báo Nhân dân Cảm xúc Hài lòng (+) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được thể hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: sự cải thiện, năng lượng tích cực, dấu hiệu tích cực (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: khởi sắc, được, trở lại (1 lần); tính từ: tích cực (2 lần), thuận lợi (1 lần). Còn bình diện tiêu cực của cảm xúc Hài lòng (-) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được nhận diện nhờ các phương tiện ngôn ngữ sau: động từ/ tổ hợp động từ: bức xúc (6 lần), sách nhiễu, ép, bị ảnh hưởng, bị sụt giảm thu nhập, mất nhiều thời gian, công sức, giảm mức độ hài lòng, khó chấp nhận, chịu, dậy sóng, gồng mình, tác động tiêu cực, phàn nàn (mỗi từ/ tổ hợp từ chỉ xuất hiện 1 lần); tính từ: tiêu cực (3 lần), thấp (2 lần), bất cập (1 lần).
Xét một số ví dụ sau: (33) Mặc dù diễn biến của đại dịch Covid-19 vẫn rất phức tạp, khó đoán định
nhưng năng lượng tích cực đã và đang trở lại với đời sống kinh tế-xã hội. [N18]
Các từ/ tổ hợp từ như ―năng lượng tích cực‖, ―trở lại‖ trong (33) mang ý nghĩa lạc quan, tạo cảm giác vui mừng, an tâm trước những chuyển biến tích cực của xã hội.
71
Hơn nữa, cách diễn đạt này không chỉ bày tỏ cảm xúc cá nhân mà còn mang tính khích
lệ cộng đồng, định hướng suy nghĩ theo chiều hướng tích cực.
(34) Trước đó, tại Lễ hội đờn ca tài tử quốc gia lần thứ 3 diễn ra ở thành phố Cần Thơ từ ngày 7 đến 11/4, anh Lê Quốc Khánh, thành viên đoàn nghệ thuật đến từ Hà Nội
tham gia biểu diễn tại lễ hội đã bức xúc về việc lái tàu du lịch sách nhiễu, ép phải mua vé
tham quan vườn trái cây Bà Hiệp ở huyện Phong Ðiền. [N26]
Phát ngôn (34) thể hiện rõ tâm trạng tức giận, không thoải mái của anh Lê Quốc
Khánh (chủ thể cảm xúc phi tác giả) đối với việc bị lái tàu du lịch sách nhiễu. Cảm xúc này được bộc lộ qua từ ngữ mang sắc thái tiêu cực như ―bức xúc‖, ―sách nhiễu‖,
―ép‖. Ngữ cảnh xảy ra trong một sự kiện văn hóa lớn – Lễ hội đờn ca tài tử quốc gia –
nơi đáng lẽ người tham gia được trải nghiệm không gian nghệ thuật trọn vẹn, nhưng
lại gặp phải tình huống gây phiền toái. Điều này khiến anh Lê Quốc Khánh không chỉ không hài lòng mà còn phẫn nộ, bởi hành động của lái tàu du lịch bị xem là cưỡng ép và không công bằng. Như vậy, phát ngôn (34) không chỉ phản ánh tâm lí cá nhân mà
còn gián tiếp phê phán một thực trạng tiêu cực, cho thấy sự bức xúc trước những hành
vi làm ảnh hưởng đến trải nghiệm của khách tham gia lễ hội.
(35) Dự báo trong năm 2022, đại dịch Covid-19 tiếp tục tác động tiêu cực đến
hơn năm triệu lao động. [N7]
Chủ thể cảm xúc (người viết, ẩn) thể hiện cảm xúc không hài lòng thông qua cách
diễn đạt mang tính dự báo, nhấn mạnh tác động tiêu cực và mức độ ảnh hưởng rộng lớn
của đại dịch. Tổ hợp động từ ―tác động tiêu cực‖ nhấn mạnh ảnh hưởng xấu mà đại dịch
gây ra, khiến người đọc liên tưởng đến những khó khăn, bất ổn.
Nhận xét Tỉ lệ xuất hiện và phân cực của tiểu hệ thống Cảm xúc trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện trong hình 2.6 và hình 2.7 dưới đây.
20
15
10
5
35 30 25 20 15 10 5 0
0
Nhân dân
Tuổi trẻ
Hài lòng
Mong muốn Hạnh phúc An toàn
Tuổi trẻ Nhân dân
Tiêu cực
Tích cực
Hình 2.6. Tỉ lệ phân cực của Cảm xúc
Hình 2.7. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại Cảm xúc
Dựa vào kết quả khảo sát ở, bảng 2.4, hình 2.5, hình 2.6, hình 2.7 và phân tích 90 diễn ngôn bình luận về 5 vấn đề trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi nhận thấy
giữa hai báo có một số điểm tương đồng và dị biệt trong việc thể hiện Cảm xúc.
72
Điểm tương đồng - Trong hệ thống Thái độ thuộc hai khối ngữ liệu này, Cảm xúc là tiểu hệ thống
có tỉ lệ cao nhất. Cảm xúc được thể hiện thông qua 4 tiểu nhóm: Mong muốn, Hạnh phúc, An toàn và Hài lòng. Trong đó, Mong muốn là tiểu nhóm có tần suất xuất hiện
nhiều nhất so với các tiểu nhóm còn lại. Tiếp đến là Hạnh phúc, An toàn và cuối cùng
là Hài lòng.
- Trong Cảm xúc, ở cả báo Tuổi trẻ và Nhân dân, Mong muốn là tiểu nhóm có tỉ
lệ cảm xúc tích cực cao hơn tiêu cực. Còn các tiểu nhóm còn lại đều có tỉ lệ cảm xúc tiêu cực cao hơn cảm xúc tích cực rất nhiều. Sự khác biệt này xuất phát từ bối cảnh xã
hội mà chủ thể cảm xúc sinh sống. Điều này cho thấy sự tác động của ngữ cảnh đối
với việc thể hiện thái độ của chủ thể cảm xúc.
- Về nguồn lực hiện thực hóa Cảm xúc, cả hai báo đều sử dụng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp để thể hiện các tiểu loại cảm xúc. Qua khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy ở hai báo có sự tương đồng về cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
để hiện thực hóa Cảm xúc.
Điểm khác biệt Mặc dù có nhiều điểm tương đồng như trên, nhưng giữa hai báo cũng có những
điểm khác biệt khi thể hiện Cảm xúc trong các diễn ngôn bình luận.
- Tỉ lệ xuất hiện tiểu hệ thống Cảm xúc ở báo Tuổi trẻ cao hơn so với báo Nhân
dân. Điều đó cho thấy, các tác giả ở báo Tuổi trẻ thể hiện cảm xúc trong bài bình luận
nhiều hơn các tác giả báo Nhân dân.
- Mặc dù cảm xúc Mong muốn ở hai báo đều chiếm tỉ lệ cao nhất trong tiểu hệ
thống Cảm xúc, thậm chí Mong muốn ở báo Nhân dân còn có tỉ lệ xuất hiện cao hơn
báo Tuổi trẻ, tuy nhiên, Mong muốn ở báo Nhân dân không phải là những cảm xúc chủ
quan, mà đó là những mong muốn xuất phát dựa trên thực tế khách quan, là những đề
xuất của người viết đối với các đối tượng liên quan để góp phần giải quyết những khó
khăn đang tồn tại. Còn ở báo Tuổi trẻ, những mong muốn ấy phần lớn xuất phát từ
cảm xúc cá nhân của chủ thể đánh giá. Do đó, có thể nói rằng, các tác giả báo Nhân dân ít thể hiện cảm xúc chủ quan trong bài viết hơn các tác giả báo Tuổi trẻ.
- Báo Tuổi trẻ có phương tiện ngôn ngữ hiện thực hóa Cảm xúc đa dạng hơn báo Nhân dân. Số lượng và tần suất của nguồn lực ở báo Tuổi trẻ (số lượng:178 từ/ tổ hợp từ, tần suất: 372 lần) cũng cao hơn báo Nhân dân (số lượng: 96 từ/ tổ hợp từ, tần suất: 269 lần).
2.3. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân 2.3.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
73
2.3.1.1. Tần suất thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và
Nhân dân
Tần suất thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ Tiểu hệ thống Phán xét thể hiện ở hai nhóm: thuộc tính cá nhân và chuẩn mực
xã hội. Khảo sát khối ngữ liệu ở báo Tuổi trẻ, chúng tôi thu được kết quả khái quát về
tiểu hệ thống Phán xét như hình 2.8 dưới đây, còn kết quả chi tiết được trình bày cụ
thể ở phụ lục 2.2.
8
6
4
2
0
Thông thường
Khả năng
Kiên trì Chân thật
Đạo đức
Tiêu cực
Tích cực
Hình 2.8. Tỉ lệ phân cực của Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Quan sát bảng P2.2.1 (Phụ lục 2.2) và hình 2.8, có thể thấy trong số các tiểu loại Phán xét, Khả năng có tần suất cao nhất (75 lần), tiếp đó là Kiên trì với 62 lần, Đạo đức xếp vị trí thứ 3 với 42 lần, Thông thường xuất hiện 25 lần, ít nhất là phán xét Chân thật với 7 lần xuất hiện. Hầu hết các tiểu loại Phán xét đều có đánh giá tiêu cực cao hơn tích cực, đặc biệt là tiểu nhóm Đạo đức chỉ xuất hiện ở phán xét tiêu cực, không xuất hiện ở phán xét tích cực. Riêng tiểu nhóm Kiên trì thì ngược lại, Kiên trì có phán xét tích cực (42 lần) cao hơn phán xét tiêu cực (20 lần). Trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ về các vấn đề xoay quanh dịch bệnh Covid-19 (kinh tế, chính trị, y tế, giáo dục), các tác giả có đề cập đến một số người, tổ chức đã “đục nước béo cò”, lợi dụng dịch bệnh để trục lợi cho cá nhân mình. Điều đáng trách hơn cả là họ trục lợi cho bản thân trên mạng sống, lòng tin của những người dân nghèo khó, khổ đau. Vì thế, các tác giả đánh giá tiêu cực về Đạo đức của những đối tượng này. Đồng thời, các tác giả báo Tuổi trẻ đánh giá cao sự nỗ lực của nước ta trong việc phòng, chống dịch bệnh, nỗ lực ổn định đời sống người lao động sau dịch Covid-19, góp phần tạo sự tin tưởng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, do đó Kiên trì xuất hiện ở bình diện tích cực nhiều hơn tiêu cực là vậy. Như thế, nguyên nhân cho những khác biệt và chênh lệch tỉ lệ giữa các tiểu nhóm Phán xét xuất phát từ bối cảnh xã hội và tôn chỉ của tờ báo. Sau đây, chúng tôi xin dẫn một số ví dụ về Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ.
(36) Covid-19 còn đó, phía trước vẫn gập ghềnh nhưng chúng ta đã mạnh mẽ hơn vì thế "trở lại phải hơn trước" để thu nhập, cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương và quốc gia tốt hơn, hạnh phúc hơn trước. [T9]
74
Trong (36), chủ thể đánh giá là ―chúng ta‖ – một đại từ chỉ nhóm mang tính tập thể, bao gồm cá nhân, gia đình, địa phương và quốc gia (gồm các tác giả và phi tác giả). Cách dùng này không chỉ thể hiện sự gắn kết cộng đồng mà còn mang tính động viên, kêu gọi tinh thần đoàn kết sau đại dịch. Người viết nhận định rằng mọi người (bao gồm cả chính tác giả) đã trở nên mạnh mẽ hơn sau khi đối mặt với dịch bệnh. Tính từ ―mạnh mẽ‖ thể hiện sự đánh giá Khả năng (+), khẳng định rằng chúng ta có đủ năng lực để vượt qua khó khăn và thích nghi với tình hình mới. Chính sự mạnh mẽ này là nền tảng để tác giả đặt ra yêu cầu “trở lại phải hơn trước”, nghĩa là không chỉ quay lại trạng thái bình thường mà còn hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn, với thu nhập, cuộc sống và hạnh phúc đều được cải thiện.
(37) Họ đã lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ. [T13]
Chủ thể phán xét trong (37) là người viết (đã ẩn), đối tượng được phán xét là ―họ‖ (là các lực lượng tuyến đầu chống dịch như bác sĩ, y tá, tình nguyện viên hoặc những người đã cống hiến không màng nguy hiểm). Việc sử dụng đại từ ―họ‖ mang tính khái quát, không chỉ nhắc đến từng cá nhân cụ thể mà còn đề cao tinh thần chung của một tập thể. Tác giả mô tả họ đã “lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh‖, cho thấy mức độ nguy hiểm và sự hi sinh mà họ phải đối mặt. Các nguy cơ được liệt kê: “có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời” càng làm nổi bật mức độ rủi ro mà họ phải chấp nhận. Tuy nhiên, họ vẫn kiên trì, không bỏ cuộc. Sự kiên trì của ―họ‖ được người viết miêu tả qua động từ ―lăn xả‖ và cấu trúc phủ định “không ai từ chối‖, ―không ai bỏ ngũ‖, ―không ai run sợ‖. Sự đánh giá này không chỉ tôn vinh lòng dũng cảm mà còn truyền cảm hứng, khẳng định sức mạnh của ý chí con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
(38) Như vậy là có sự cấu kết giữa một số cán bộ biến chất trong bộ máy và
doanh nghiệp bên ngoài để trục lợi. [T11]
Trong (38), chủ thể phán xét là người viết (đã ẩn), đối tượng bị phán xét là “một số cán bộ biến chất trong bộ máy và doanh nghiệp bên ngoài‖. Cách diễn đạt này nhấn mạnh rằng không phải tất cả cán bộ, mà chỉ một nhóm người “biến chất”, tức là đã mất đi phẩm chất đạo đức cần có. Người viết phê phán hành vi sai trái về mặt đạo đức của những người này. Sự đánh giá tiêu cực về Đạo đức được thực hiện bằng các từ: “sự cấu kết‖, ―biến chất‖ và ―trục lợi‖. ―Sự cấu kết‖ gợi lên hình ảnh của sự thông đồng, sự hợp tác không trong sáng giữa các cá nhân với mục đích xấu. ―Biến chất‖ ám chỉ việc suy đồi phẩm chất đạo đức của những cán bộ này, không còn giữ được sự chính trực, liêm chính cần có trong công việc của mình. ―Trục lợi‖ là hành động lợi dụng quyền lực và chức vụ để thu lợi cá nhân, vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội. Tất cả những từ ngữ trên đều thể hiện sự phê phán mạnh mẽ đối với hành vi tham
75
nhũng và sự suy thoái đạo đức trong bộ máy công quyền, nhằm phản ánh tác hại tiêu cực của những hành động này đối với xã hội.
Tần suất thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân Khảo sát khối ngữ liệu ở báo Nhân dân, chúng tôi thu được kết quả về tiểu hệ thống Phán xét như hình 2.9, còn kết quả khảo sát chi tiết được trình bày cụ thể ở bảng P2.2.2 trong phụ lục 2.2.
10 8 6 4 2 0
Kiên trì
Đạo đức
Thông thường
Khả năng
Chân thật
Tiêu cực
Tích cực
Hình 2.9. Tỉ lệ phân cực của Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Từ kết quả khảo sát ở bảng P2.2.2 (phụ lục 2.2) và hình 2.9, có thể thấy phán xét tiêu cực chiếm ưu thế so với phán xét tích cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân Dân. Trong Phán xét, nhóm đánh giá về Khả năng xuất hiện nhiều nhất (94 lần), tiếp theo là Đạo đức (60 lần), Kiên trì (55 lần), Chân thật (16 lần) và thấp nhất là Thông thường (8 lần). Phần lớn các tiểu nhóm đều nghiêng về chiều hướng tiêu cực. Tuy nhiên, ở nhóm Khả năng, số lượng đánh giá tích cực (46 lần) gần tương đương với tiêu cực (48 lần), cho thấy sự cân đối trong cách nhìn nhận. Các tác giả không chỉ phê phán những hạn chế về hành vi và năng lực của đối tượng mà còn ghi nhận những điểm mạnh, thành tựu nổi bật, thể hiện một thái độ tương đối khách quan. Trái lại, nhóm Đạo đức gần như chỉ xuất hiện trong các đánh giá tiêu cực (59 lần), chỉ có duy nhất một trường hợp tích cực. Ngược lại, nhóm Kiên trì lại cho thấy xu hướng đánh giá tích cực trội hơn. Có thể lí giải điều này dựa vào bối cảnh xã hội và tôn chỉ của tờ báo. Cả nước ta đang gồng mình chống dịch và nỗ lực khắc phục hậu quả của dịch bệnh. Các chủ thể Phán xét ở báo Nhân dân đánh giá cao năng lực vượt khó của con người cùng những hành động của Chính phủ, Bộ Giáo dục, Bộ Y tế và các ngành liên quan trong việc chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Nhưng họ cũng ra sức phê phán những hành vi phá hoại, ngăn cản sự trở lại của nền kinh tế đất nước, chỉ trích những kẻ lợi dụng lòng người hoang mang để trục lợi cho bản thân. Điều này xuất phát từ mục đích của báo Nhân dân là nêu gương và phản ánh mặt trái của xã hội: nêu cao tinh thần kiên trì vượt khó của con người và tinh thần tương thân tương ái, phê phán những kẻ sâu dân mọt nước, những “con sâu làm rầu nồi canh”.
Sau đây, chúng tôi xin dẫn một số ví dụ về Phán xét trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Nhân dân.
76
(39) So với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam vốn được xem là mạnh về chất lượng điểm đến, nhưng yếu về tính chuyên nghiệp, thái độ phục vụ khách du lịch. [N25]
Đối tượng được/ bị đánh giá trong (39) là Việt Nam. Tác giả (chủ thể đánh giá, đã ẩn) đưa ra sự đánh giá Khả năng (+) và Khả năng (-) của Việt Nam trong ngành du lịch. ―Mạnh về chất lượng điểm đến‖ là sự đánh giá Khả năng (+) của Việt Nam, thể hiện tiềm năng và thế mạnh của đất nước trong việc cung cấp các điểm du lịch hấp dẫn và chất lượng. Từ ―mạnh‖ ở đây nhấn mạnh năng lực và sự nổi bật của Việt Nam trong việc tạo ra những trải nghiệm du lịch đáng giá cho khách tham quan. Ngược lại, ―yếu về tính chuyên nghiệp, thái độ phục vụ khách du lịch‖ là sự đánh giá Khả năng (-), chỉ ra điểm yếu của Việt Nam trong ngành du lịch. Từ ―yếu‖ phản ánh rằng quốc gia này chưa đạt được trình độ chuyên nghiệp và sự chú trọng cần thiết trong việc phục vụ khách hàng. Điều này thể hiện một sự thiếu hụt trong năng lực hoặc sự chưa hoàn thiện trong hệ thống phục vụ, nó có thể làm ảnh hưởng đến ấn tượng và trải nghiệm của du khách. Trong (39), người viết kết hợp sự đánh giá hai mặt để chỉ ra điểm mạnh có thể phát huy và điểm yếu cần cải thiện, từ đó giúp định hướng phát triển cho ngành du lịch Việt Nam.
(40) Với sự vào cuộc mạnh mẽ, chủ động, tích cực của chính quyền các địa phương, ngành du lịch và sự đồng hành của các doanh nghiệp, sự chung tay góp sức của các bộ, ngành liên quan, chắc chắn năm mới 2022 các cơ hội mới sẽ mở ra để ngành du lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và lấy lại đà tăng trưởng. [N21]
Trong (40) chủ thể đánh giá là tác giả, đã được ẩn đi; đối tượng được đánh giá là chính quyền các địa phương, ngành du lịch, các doanh nghiệp và các bộ, ngành liên quan. Tác giả đánh giá cao sự kiên trì và sự chung sức của các bộ, ngành, doanh nghiệp và chính quyền trong việc phục hồi ngành du lịch Việt Nam. Những từ ngữ ―mạnh mẽ‖, ―chủ động‖, ―tích cực‖ đã thể hiện sự quyết tâm và tinh thần đoàn kết trong hành động, cho thấy sự không bỏ cuộc mà tiếp tục đối mặt với khó khăn.
(41) Gần đây nhất là vụ việc hai khách du lịch nữ người Nga bị lái xe ta-xi chiếm đoạt điện thoại chứa nhiều thông tin cá nhân quan trọng khi thuê dịch vụ di chuyển ở phố cổ Hà Nội. [N27]
Trong ví dụ (41), tác giả (chủ thể đã ẩn) sử dụng ngôn ngữ để thể hiện sự đánh giá Đạo đức (-) đối với hành vi của lái xe ta-xi. Từ ―chiếm đoạt‖ mang tính phê phán mạnh mẽ, cho thấy hành động này không chỉ sai về mặt pháp lí mà còn vi phạm các chuẩn mực đạo đức cơ bản. Việc chiếm đoạt điện thoại của khách du lịch không chỉ là một hành động lừa đảo mà còn là sự xâm phạm quyền lợi cá nhân của người khác. Tác giả còn nhấn mạnh ―thông tin cá nhân quan trọng‖ trong điện thoại, làm tăng tính nghiêm trọng của hành vi này, vì nó không chỉ ảnh hưởng đến tài sản mà còn xâm
77
phạm quyền riêng tư của nạn nhân. Qua đó, tác giả lên án hành vi thiếu đạo đức và vô trách nhiệm, phản ánh sự thiếu tôn trọng đối với người khác. 2.3.1.2. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Khảo sát 90 diễn ngôn bình luận, chúng tôi ghi nhận nguồn lực được sử dụng để thể hiện Phán xét trong các diễn ngôn bình luận trên hai báo là từ vựng – ngữ pháp, gồm các phương tiện ngôn ngữ cụ thể: từ, cụm từ cố định, tổ hợp từ tự do (được hiểu là sự kết hợp của các từ theo kiểu đẳng lập và chính phụ), kiểu câu. Kết quả khảo sát về các nguồn lực thể hiện Phán xét trong bảng 2.5 và 2.6 bên dưới.
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Thuộc tính cá nhân
Chuẩn mực xã hội
Tổng
Khả năng
Kiên trì
Chân thật
Đạo đức
Nguồn lực
Thông thường Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
11
12
6
6
13
16
35
40
5
6
0
0
Danh từ/ tổ hợp danh từ
27
40
20
36
16
24
69
107
4
4
2
3
12
15
13
22
14
19
3
3
34
61
2
2
Từ vựng - ngữ pháp
0
0
1
1
0
0
2
3
0
0
1
2
2
3
1
1
0
0
2
2
6
Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ Cụm từ cố định Kiểu câu
1
1
7 (Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Phán xét trong diễn ngôn
bình luận trên báo Nhân dân
Thuộc tính cá nhân
Chuẩn mực xã hội
Tổng
Khả năng
Kiên trì
Chân thật
Đạo đức
Nguồn lực
Thông thường Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
16
16
10
12
7
9
39
45
2
3
4
5
160
2
2
61
62
23
32
34
57
127
7
7
Từ vựng - ngữ pháp
3
3
25
32
9
17
4
4
44
59
3
3
0
0
0
0
0
0
0
0
2
2
2
2
Danh từ/ tổ hợp danh từ Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ Cụm từ cố định
(Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
Kết quả khảo sát ở bảng 2.9 và 2.10 được thể hiện cụ thể trong hình 2.8 sau đây:
78
20
15
10
5
0
Kiểu câu
Tính từ/ Tổ hợp tính từ
Cụm từ cố định
Danh từ/ Tổ hợp danh từ
Động từ/ Tổ hợp động từ
Tuổi trẻ Nhân dân
Hình 2.10. Tỉ lệ các phương tiện ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Dựa trên kết quả khảo sát từ bảng 2.5, bảng 2.6 và hình 2.10, có thể nhận thấy báo Tuổi trẻ thể hiện Phán xét với sự đa dạng phương tiện ngôn ngữ hơn so với báo
Nhân dân. Trong khi báo Tuổi trẻ sử dụng cả kiểu câu để thể hiện các tiểu hệ thống
Phán xét, thì báo Nhân dân chỉ tập trung vào các phương tiện từ và tổ hợp từ. Tuy
nhiên, số lượng các phương tiện ngôn ngữ dùng để hiện thực hóa Phán xét trong các
diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân lại phong phú hơn so với báo Tuổi trẻ.
Khả năng, Kiên trì và Đạo đức có tần suất cao hơn các tiểu loại Phán xét khác
nên chúng tôi chỉ đi sâu phân tích 03 tiểu loại này. Còn tiểu loại Thông thường và
Chân thật sẽ được trình bày cụ thể trong Phụ lục 2.
2.3.2. Sự thể hiện Phán xét trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân 2.3.2.1. Phán xét Khả năng trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Phán xét về Khả năng là những đánh giá của chủ thể phán xét (có thể là tác giả
hoặc phi tác giả) về năng lực của đối tượng được/ bị phán xét. Các phán xét về Khả
năng trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thực hiện bằng
nguồn lực từ vựng – ngữ pháp. Báo Tuổi trẻ - Theo khảo sát của chúng tôi, các phương tiện ngôn ngữ được dùng để hiện thực hóa tiểu nhóm Khả năng ở bình diện tích cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ bao gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: công lao lớn nhất, dấu hiệu hồi phục
mạnh, hiệu quả hơn, tâm thế thích ứng, sự sáng tạo mới mẻ, cách xử lý hay, cách ứng xử phù hợp, sự hồi sinh (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: được kiểm soát (xuất hiện 5 lần), hồi sinh (4 lần), vượt qua (3 lần), chống chịu tốt hơn (2 lần), có thể kiểm soát được (2 lần), các tổ hợp từ còn lại chỉ xuất hiện 1 lần: đâu phải kiệt quệ, phất lên, ăn nên làm ra do biết biến "nguy" thành "cơ", diễn biến tích
cực trong kiểm soát dịch bệnh, khắc phục được; tính từ/ tổ hợp tính từ: giỏi, mạnh mẽ, nhanh chóng thích ứng, linh hoạt khôi phục (1 lần), kiểu câu (1 lần).
79
- Nhóm Khả năng thuộc bình diện tiêu cực được hiện thực hóa bằng các
phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: ngoài khả năng (xuất hiện 2 lần),
lỗ hổng (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: không hiểu, chưa thực hiện được (2 lần), không được phát hiện và xử trí kịp thời, quên, không dễ thực hiện, không thể đáp ứng
tiêu chí, lắc đầu, nhầm to, không thể mua được vé, chểnh mảng, chưa được chuẩn bị
đầy đủ, sẵn sàng, không đảm bảo, lỡ mua, lọt, chưa công bố được, lỗ (1 lần); tính từ/
tổ hợp tính từ: cứng nhắc (xuất hiện 4 lần), khó, chưa đủ mạnh, lúng túng, chưa rõ
ràng, khó hiểu (2 lần), thiếu hụt, không rõ ràng, chưa đầy đủ và đạt chuẩn, không đủ năng lực (xuất hiện 1 lần), kiểu câu (2 lần).
Xét một số ví dụ sau:
(42) Họ đã lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể
nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ. [T13]
Cấu trúc phủ định không ai… được lặp lại 3 lần không chỉ khẳng định ý chí bền
bỉ của từng cá nhân mà còn làm nổi bật tinh thần trách nhiệm, sự đoàn kết của cả tập
thể đội ngũ nhân viên y tế (đối tượng được phán xét) trong cuộc chiến chống dịch,
đồng thời bộc lộ sự ngưỡng mộ, biết ơn của chủ thể đánh giá (tác giả, ẩn) đối với công
lao của họ.
(43) Chúng tôi mang câu chuyện trên kể với một số cán bộ quản lý trường phổ
thông trên địa bàn TP.HCM, không ngờ có người đã thốt lên: "Sao trường đó giỏi
quá, giữ chân được nhân viên y tế tới 20 năm. Chứ ở trường tôi, chỉ 2-3 năm là họ
nghỉ việc vì có lời mời làm việc ở các phòng khám tư với mức lương cao hơn gấp 3
lần". [T1]
Trong ví dụ (43), chủ thể đánh giá là phi tác giả: một số cán bộ quản lý trường
phổ thông trên địa bàn TP.HCM, còn đối tượng được phán xét là trường trong câu
chuyện, cụ thể là các cán bộ quản lí của trường đó. Chủ thể đã bày tỏ sự tán thưởng
đối với năng lực của đối tượng trong việc giữ chân nhân viên y tế suốt 20 năm.
Phương tiện ngôn ngữ thể hiện sự khen ngợi rõ nhất là tính từ ―giỏi‖, dùng để đánh giá năng lực của cán bộ quản lí trong trường. Ngoài ra, cấu trúc cảm thán ―Sao… quá‖
cũng góp phần thể hiện sự ngạc nhiên và khâm phục của người nói. Cách diễn đạt này không chỉ thể hiện sự đánh giá tích cực về Khả năng mà còn ngầm so sánh với thực trạng chung ở các trường khác, nơi nhân viên y tế thường nghỉ việc sau 2-3 năm.
(44) Nhưng theo Bộ Công thương, nhiều cây xăng hết hàng là do lỡ mua của các thương nhân quy mô nhỏ, trong khi các doanh nghiệp đầu mối lớn (chiếm trên
90% thị phần) vẫn kiên trì bán xăng dầu cho người tiêu dùng. [T38]
Trong (44), chủ thể đánh giá (phi tác giả) là Bộ Công Thương, còn đối tượng được phán xét gồm hai nhóm: các cây xăng hết hàng và các doanh nghiệp đầu mối lớn.
80
Bộ Công Thương đưa ra đánh giá tiêu cực về khả năng quản lí nguồn cung của các cây
xăng khi cho rằng họ ―lỡ mua‖ xăng từ các thương nhân quy mô nhỏ. Việc sử dụng tổ
hợp từ ―lỡ mua‖ thể hiện đây là một quyết định thiếu khôn ngoan hoặc bất cẩn, thể hiện năng lực hạn chế trong việc lựa chọn nguồn cung phù hợp. Ngược lại, các doanh
nghiệp đầu mối lớn lại được đánh giá tích cực khi ―vẫn kiên trì bán xăng dầu cho
người tiêu dùng‖, cho thấy sự ổn định và đáng tin cậy trong việc đảm bảo nguồn hàng.
Báo Nhân dân Trong khối ngữ liệu trên báo Nhân dân, chúng tôi ghi nhận được tiểu nhóm Khả
năng xuất hiện 93 lượt qua sự thể hiện của 84 từ/ tổ hợp từ.
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp dùng để thể hiện sự phán xét Khả năng (+)
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được hiện thực hóa qua các phương
tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: sự hồi sinh, tay nghề chuyên môn cao, tay nghề cao, dấu hiệu hồi phục tích cực, khả quan, những nước hàng đầu thế giới, tốp đầu thế giới, mức độ hiểu biết cũng khác, cái nhìn lạc quan, chất lượng cao (mỗi từ/ tổ
hợp từ xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: đã kìm được, phát hiện (xuất hiện 2
lần), các từ/ tổ hợp từ còn lại chỉ xuất hiện 1 lần, gồm: vượt qua, làm kinh tế giỏi; có
những hoạt động tích cực, đóng góp cho xã hội, cộng đồng; bứt tốc, thành công, điều
chỉnh kịp thời; hỗ trợ, chăm sóc kịp thời; triển khai kịp thời, phù hợp, hiệu quả; thích
ứng với từng giai đoạn, về đích sớm hơn, được phát hiện, điều tra, được kiểm soát, đạt
được những kết quả khả quan, đạt nhiều kết quả tích cực; phát hiện, xử lý nghiêm;
kiểm soát tốt tình hình, ban hành kịp thời, có kinh nghiệm làm việc lâu năm, cứu được,
điều tra, xác minh và giải quyết rất nhanh, bảo đảm được quyền lợi và sự an tâm, hài
lòng của du khách, bám sát tình hình, có các giải pháp kịp thời, đã tránh được bão
giá, triệt phá; tính từ/ tổ hợp tính từ: tốt ( xuất hiện 2 lần), linh động, đủ cung cấp, lạc
quan, nhanh chóng, kịp thời và trách nhiệm, thông thạo; đầy đủ công cụ, bộ máy; kịp
thời (1 lần).
- Các phương tiện ngôn ngữ được dùng để thể hiện sự phán xét Khả năng (-)
gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ (xuất hiện 1 lần): tiến độ chậm, việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh, không đủ năng lực; tư duy làm ăn kiểu ngắn hạn, ăn xổi; sai sót,
sự thiếu hụt; động từ/ tổ hợp động từ (xuất hiện 1 lần): bỏ sót, mất nhiều thời gian, bị phá sản hoặc rơi vào tình thế rất khó khăn; chưa hiểu hết, hiểu rõ; ứng xử chưa tốt, phụ thuộc, rơi vào trạng thái bị động, lúng túng, chưa xử lí kịp thời, hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ, hiểu biết chưa sát sao về dịch bệnh; tin, làm theo các bài thuốc chữa covid không có căn cứ khoa học lưu truyền trên mạng; chưa cập nhật đầy đủ dữ
liệu tiêm chủng, nộp bài muộn, không nộp đủ bài, không nắm vững, thua lỗ, không có lãi, không được khắc phục, mất kiểm soát, chưa mang lại hiệu quả cao, hoạt động chồng chéo, cản trở lẫn nhau, chưa thật sự phát huy hiệu quả và đáp ứng kỳ vọng; tính
81
từ/ tổ hợp tính từ: các từ xuất hiện 3 lần gồm: yếu, lúng túng, chậm, các từ/ tổ hợp từ
còn lại xuất hiện 1 lần: bất cập, thiếu chủ động, chưa cao, tê liệt, chuyên nghiệp, xộc
xệch, không dễ, chưa thông thạo, chưa hợp lý, không đúng quy định, không đúng hướng dẫn, kém hiệu quả.
Ví dụ:
(45) Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang đứng tốp đầu thế giới về tiêm
vaccine phòng Covid-19 với hơn 170 triệu liều đã được tiêm, phần lớn người dân đã
tiêm 2 đến 3 mũi vaccine, mức độ hiểu biết về Covid-19 cũng khác nhiều so với Tết 2021; ... [N14]
Chủ thể đánh giá trong (45) không được nêu rõ, nhưng có thể hiểu là tác giả.
Đối tượng được đánh giá là Việt Nam và người dân Việt Nam, cụ thể là khả năng tiêm
vaccine và mức độ hiểu biết về Covid-19. Tổ hợp từ ―Việt Nam hiện nay đang đứng tốp đầu thế giới về tiêm vaccine phòng Covid-19‖ thể hiện một đánh giá tích cực về năng lực của quốc gia trong việc tổ chức và triển khai chiến dịch tiêm chủng. Đánh giá
tích cực này được thể hiện qua tổ hợp danh từ ―tốp đầu thế giới‖. Việc sử dụng tổ hợp
từ ―tốp đầu thế giới‖ nhấn mạnh thành tựu và vai trò dẫn đầu của Việt Nam trong
công tác phòng dịch. Ngoài ra, cụm ―mức độ hiểu biết về Covid-19 cũng khác nhiều so
với Tết 2021‖ cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức và hiểu biết của người dân, đồng
nghĩa với một sự đánh giá tích cực về khả năng tiếp nhận thông tin và thích nghi với
tình hình dịch bệnh. Như vậy, phát ngôn (45) thể hiện một đánh giá tích cực về Khả
năng của Việt Nam và người dân trong công tác phòng chống dịch Covid-19, đặc biệt
là trong việc tiêm chủng và nâng cao nhận thức.
(46) Nhiều chuyên gia cho rằng, việc các địa phương quy định cách ly người về
quê ăn Tết như hiện nay không còn phù hợp, cần phải thay đổi. Đây không phải là biện
pháp chống dịch mà là hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ. [N14]
Chủ thể đánh giá là phi tác giả: ―nhiều chuyên gia‖, những người có chuyên
môn trong lĩnh vực y tế hoặc chính sách phòng chống dịch. Đối tượng bị đánh giá là
các địa phương áp dụng quy định cách ly người về quê ăn Tết, cụ thể là các cơ quan có trách nhiệm ra quyết định này. Các chuyên gia thể hiện một đánh giá tiêu cực về năng
lực nhận thức và thích ứng của các địa phương trong việc đưa ra chính sách phòng dịch. Việc dùng tổ hợp tính từ ―không còn phù hợp‖ thể hiện rằng các địa phương không kịp thời cập nhật tình hình thực tế và tiếp tục áp dụng những biện pháp lỗi thời. Đồng thời, các chuyên gia còn thể hiện sự phán xét về khả năng nhận thức và hiểu biết của các địa phương qua tổ hợp động từ ―hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ‖. Việc nhấn mạnh rằng
đây không phải là biện pháp chống dịch mà là hiểu biết chưa đầy đủ cho thấy sự phê phán mạnh mẽ về trình độ chuyên môn và khả năng thích ứng của các địa phương, đồng thời gián tiếp kêu gọi sự thay đổi trong chính sách.
82
(47) Mới đây, Bộ Tài chính có văn bản đề nghị các bộ, ngành, địa phương, hiệp
hội ngành hàng và các doanh nghiệp lớn triển khai quản lý, điều hành giá sau Tết
Nguyên đán…Động thái này của Bộ Tài chính được đánh giá là kịp thời, khi nhóm hàng hóa nguyên, nhiên liệu đầu vào của nền kinh tế như xăng dầu, khí hóa lỏng,…
trên thị trường thế giới tiếp tục tăng mạnh. [N39]
Trong (47), đối tượng được đánh giá là Bộ Tài chính, cụ thể là đánh giá về khả
năng quản lí, điều hành giá cả sau Tết Nguyên đán. Người viết (chủ thể ẩn) tán dương
năng lực của Bộ Tài chính trong việc nắm bắt tình hình và có phản ứng phù hợp. Tính từ ―kịp thời‖ nhấn mạnh khả năng hành động nhanh chóng, đúng thời điểm, thể hiện
sự chủ động trong điều hành của Bộ Tài chính.
2.3.2.2. Phán xét Kiên trì trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Phán xét Kiên trì là những đánh giá của chủ thể phán xét đối với đối tượng được/ bị phán xét về lòng quyết tâm, sự kiên trì, kiên định trong hành động của họ. Phán xét Kiên trì tích cực là sự tán thưởng của chủ thể đối với sự miệt mài, bền bỉ,
không bỏ cuộc của đối tượng, còn phán xét Kiên trì tiêu cực là sự phê phán đối với
những hành vi lùi bước, nản chí, dao động của đối tượng.
Báo Tuổi trẻ - Các diễn ngôn bình luận có chứa phán xét Kiên trì ở bình diện tích cực trên
báo Tuổi trẻ được nhận diện qua các phương tiện ngôn ngữ sau: tổ hợp danh từ: sức
sống mãnh liệt, tinh thần vượt khó, sự nhẫn nại chờ đợi (mỗi tổ hợp danh từ này chỉ
xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: nỗ lực (xuất hiện 9 lần), cố gắng, liên tục,
kiên định (3 lần), hy sinh quên mình, vào cuộc quyết liệt (2 lần), tự xoay xở, bám trụ;
tập trung toàn bộ tinh thần và sức lực, vật chất và đội ngũ; lăn xả, thêm tin, tiếp tục,
trụ lại, dồn lực, vượt khó, tổ chức công phu, kiên trì, nai lưng ra chống dịch (mỗi từ/
tổ hợp từ này xuất hiện 1 lần); tính từ: bền bỉ, mạnh dạn (2 lần), ráo riết, tích cực, thận
trọng, bình tĩnh, cặm cụi, kiên định (1 lần).
- Tiểu nhóm Kiên trì ở bình diện tiêu cực trong các diễn ngôn bình luận trên
báo Tuổi trẻ được hiện thực hóa bằng các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ: cảnh lúng túng; sự lúng túng, bối rối
(mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); động từ: phó mặc, khoán trắng (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: lúng túng (3 lần), không mặn mà (2 lần), bất chấp, nản lòng, bối rối, rối ren (1 lần); cụm từ cố định: trống đánh xuôi, kèn thổi ngược (1 lần).
Xét một số ví dụ sau: (48) Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành phố nai lưng ra
chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, vì phải đối phó với những tình huống bất định, chưa từng có tiền lệ. [T32]
83
Chủ thể đánh giá không được nêu rõ nhưng có thể hiểu là người viết bình luận
(chủ thể là tác giả). Đối tượng được/ bị phán xét là thành phố và những người tham gia
chống dịch, cụ thể là các cơ quan, tổ chức và người dân trong công cuộc chống dịch Covid-19. Trong (48), người viết đánh giá tích cực về sự kiên trì của những người
tham gia chống dịch qua các từ ngữ ―nai lưng ra chống dịch‖ và ―nỗ lực, bình tĩnh‖.
“Nai lưng ra chống dịch‖ nhấn mạnh sự gian khổ và vất vả trong quá trình chống dịch,
làm nổi bật sự kiên trì của người dân và các lực lượng chức năng. Còn ―nỗ lực‖ cho
thấy sự cống hiến, kiên trì không ngừng nghỉ, trong khi ―bình tĩnh‖ nhấn mạnh khả năng duy trì sự kiên định dù đối mặt với những thử thách khó khăn. Bên cạnh đó,
người viết cũng đánh giá về sự lúng túng, bối rối của các cơ quan chức năng trong việc
triển khai các biện pháp chống dịch. Sự phán xét tiêu cực này được thể hiện qua thành
ngữ “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. ―Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược‖ có tác dụng làm tăng cảm giác bối rối, đồng thời cũng thể hiện mức độ đối kháng của tình huống mà các cơ quan chức năng phải đối mặt, từ đó làm giảm nhẹ độ kiên trì trong
thực tế.
(49) Câu chuyện phạm pháp xảy ra với những cá nhân liên quan đến các chuyến
bay giải cứu công dân là điều rất đáng buồn, nhưng không vì vậy mà phủ nhận được chủ
trương, sự tập trung, ưu tiên mà Nhà nước đã nỗ lực dành cho con dân người Việt trên
khắp thế giới trong những ngày đại dịch hoành hành. [T19]
Mặc dù có những câu chuyện không vui xung quanh chuyến bay giải cứu,
nhưng đó chỉ là vấn đề của một số cá nhân biến chất. Sự nỗ lực cứu giúp, hỗ trợ của
Nhà nước dành cho những người Việt sống ở nước ngoài là điều đáng ghi nhận. Chủ
thể (người viết, ẩn) đề cao sự kiên trì của Nhà nước (đối tượng) trong vấn đề này.
Động từ ―nỗ lực‖ đã thể hiện thái độ đánh giá cao đó. Động từ ―nỗ lực‖ thể hiện sự
kiên trì không ngừng nghỉ của Nhà nước trong việc thực hiện chủ trương và bảo vệ
công dân, làm tăng sức mạnh cho đánh giá tích cực về kiên trì.
(50) Theo lời kể của thầy hiệu trưởng, cô nhân viên y tế học đường này đã bền
bỉ làm việc 20 năm nay tại ngôi trường THCS do thầy quản lý. [T1]
Thầy hiệu trưởng (chủ thể phi tác giả) tán thưởng sự kiên trì, gắn bó với nghề
của cô nhân viên y tế học đường (đối tượng) bằng tính từ “bền bỉ‖. ―Bền bỉ‖ nhấn mạnh khả năng duy trì công việc một cách liên tục và kiên trì suốt một khoảng thời gian dài, cho thấy sự cống hiến và bền bỉ của cô trong công tác y tế tại trường.
Báo Nhân dân - Kiên trì (+) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được hiện thực
hóa bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp qua các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: sự nỗ lực (xuất hiện 3 lần); sự chung sức, đồng lòng; những đóng góp vô cùng lớn, thậm chí cả tính mạng; ngày đêm chiến đấu, 100% sức lực suốt nhiều tháng
84
liên tiếp, sự đồng hành, sự chung tay góp sức, sự phục hồi mạnh mẽ, sự kiên định
(xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: nỗ lực (9 lần), duy trì (2 lần), thực hiện
nghiêm, cố gắng, tiếp tục đóng góp kinh nghiệm, tích cực tìm kiếm, khẩn trương nghiên cứu, làm việc bất kể ngày đêm, bám sát, kiên trì, hoạt động với công suất cao,
tiếp tục sôi động, đẩy mạnh, chạy đua, quyết tâm cao, hồi phục mạnh mẽ, tăng tốc,
tiếp tục, phục hồi mạnh mẽ (xuất hiện 1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: chủ động (4 lần),
tích cực (3 lần), quyết liệt (2 lần), căng sức, mạnh mẽ (1 lần).
- Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện phán xét Kiên trì (-) ở bình diện tiêu cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân gồm: tổ hợp động
từ: coi thường dịch bệnh, không thực hiện nghiêm, không tiếp tục, bị giải thể hay
ngừng hoạt động (xuất hiện 1 lần); tính từ: chủ quan, lúng túng (2 lần), kiệt quệ, bất
cập (1 lần).
Ví dụ: (51) Kinh nghiệm và sự kiên định trong chủ trương ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát của Quốc hội, Chính phủ thời gian qua cũng giúp củng cố niềm tin của
doanh nghiệp và người dân vào môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. [N39]
Danh từ ―sự kiên định‖ được dùng để bộc lộ thái độ đánh giá tích cực của
người viết (chủ thể tác giả, ẩn) đối với sự kiên trì của Quốc hội, Chính phủ (đối tượng
được phán xét) trong việc duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
―Sự kiên định‖ thể hiện sự kiên trì không thay đổi và cam kết lâu dài trong việc theo
đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô, điều này làm nổi bật mức độ kiên trì và sự ổn định
mà Chính phủ muốn tạo ra.
(52) Kết quả đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của tất cả các ngành, địa phương
sau hơn ba tháng kiên trì thực hiện "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả
dịch Covid-19" theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ. [N13]
Chủ thể đánh giá trong (52) là người viết (không được thể hiện trực tiếp), còn
đối tượng được đánh giá là các ngành, địa phương. Trong phát ngôn này, người viết sử dụng danh từ ―sự nỗ lực‖ và động từ ―kiên trì‖ để thể hiện thái độ khen ngợi của
mình đối với các ngành, địa phương trong việc kiên trì phòng chống dịch bệnh theo
Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ. ―Sự nỗ lực‖ cho thấy không chỉ có sự kiên trì mà còn có sự cố gắng không ngừng, vượt qua các thử thách lớn trong công tác phòng chống dịch. Động từ ―kiên trì‖ cho thấy một sự bền bỉ trong việc duy trì và thực hiện chính sách trong suốt thời gian dài. Qua phát ngôn (52), có thể thấy người viết khẳng định rằng sự kiên trì của các cơ quan nhà nước và địa phương đã góp phần tạo ra hiệu quả trong công tác phòng chống dịch Covid-19.
(53) Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết liệt chỉ đạo, ban hành văn bản yêu cầu cơ sở giáo dục từng bước khắc phục bệnh thành tích; giảm các cuộc thi cho
85
giáo viên và học sinh; phát động cuộc vận động ―Nói không với tiêu cực trong thi cử
và bệnh thành tích trong giáo dục‖... nhưng trên thực tế, ―bệnh thành tích‖ vẫn tồn
tại, có nơi có lúc còn nặng hơn. [N36]
Tương tự (51) và (52), chủ thể đánh giá trong (53) cũng được ẩn đi nhưng có
thể nhận ra đó là người viết bình luận. Người viết sử dụng cách viết ẩn chủ thể để tăng
tính khách quan cho các đánh giá, phán xét trong phát ngôn. Đối tượng được phán xét
là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Người viết đã sử dụng tính từ “quyết liệt” để khen ngợi sự
kiên trì và quyết tâm của Bộ trong việc triển khai các biện pháp để khắc phục bệnh
thành tích trong giáo dục. Tính từ ―quyết liệt‖ nhấn mạnh mức độ kiên trì cao, không
chùn bước trước những khó khăn trong việc thực hiện cải cách giáo dục.
2.3.2.3. Phán xét Đạo đức trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Phán xét về Đạo đức là xem xét một người có hành động đúng đắn theo chuẩn
mực đạo đức của xã hội hay không. Những phán xét này không chỉ phản ánh suy nghĩ
cá nhân mà còn góp phần duy trì và định hướng các giá trị đạo đức trong xã hội.
Báo Tuổi trẻ
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, trong 45 diễn ngôn bình luận về 05 vấn đề trên
báo Tuổi trẻ, tiểu nhóm Đạo đức không được ghi nhận ở bình diện đánh giá tích cực.
Tiểu nhóm Đạo đức ở bình diện tiêu cực được hiện thực hóa bằng nguồn lực từ
vựng – ngữ pháp, gồm các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: sự bất
công (xuất hiện 3 lần), nạn ―chặt chém‖ (2 lần), hành vi vi phạm pháp luật, hành vi vi
phạm đạo đức, sự cấu kết, sự trục lợi, hành vi phạm tội, những kẻ lợi dụng cơ hội, sự
vụ khuất tất, vết ố, cơ hội trục lợi, vụ gian lận, tội phạm (1 lần); động từ/ tổ hợp động
từ: lợi dụng (5 lần), trục lợi (4 lần), buôn lậu (2), bị lên án (2), vi phạm các quy định,
biến chất, bị lộ sáng, tha hóa, tìm cách móc túi, chèn ép, chặt chém, làm lộ bí mật, bán
xăng lậu, hoành hành, trừng trị (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: thiếu trách nhiệm, lậu,
giả, vô can (1 lần); kiểu câu (2 lần). Xét một số ví dụ dưới đây.
(54) Nếu tất cả các doanh nghiệp đều tuân thủ đúng quy định, dễ gì thiếu xăng
dầu? (nếu A dễ gì B?) [T40]
Phát ngôn (54) là một câu hỏi tu từ, phản ánh tình trạng các doanh nghiệp chưa
tuân thủ đúng quy định của pháp luật về việc buôn bán xăng dầu, thuộc nhóm Đạo đức
(-). Chủ thể phán xét trong (54) là tác giả nhưng đã được ẩn đi, còn đối tượng được phán
xét thì xuất hiện tường minh (tất cả các doanh nghiệp). Phải chăng đây là dụng ý của tác
giả bài viết, muốn nhấn mạnh trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc phân phối
xăng dầu theo đúng quy định của pháp luật.
(55) Chúng ta càng trân trọng công lao của các lực lượng tuyến đầu, sự đóng góp
và nghĩa cử của nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cho công tác phòng chống đại dịch
86
COVID-19 bao nhiêu, chúng ta càng mong muốn sớm trừng trị tội phạm và xử lý sai
phạm của những kẻ lợi dụng cơ hội "đục nước béo cò" bấy nhiêu. [T11]
Chủ thể đánh giá trong (55) là ―chúng ta‖ (bao gồm cả người viết và độc giả).
Việc sử dụng ―chúng ta‖ trong ví dụ trên là một chiến lược ngôn ngữ hiệu quả, giúp
tác giả kết nối với độc giả và tăng tính thuyết phục của thông điệp. Khi tác giả sử dụng
―chúng ta‖, không chỉ đơn thuần là để chỉ một nhóm người cụ thể, mà là để kết nối
bản thân với độc giả, tạo ra một cảm giác cộng đồng. Điều này có tác dụng làm cho
độc giả cảm thấy rằng họ không chỉ là người tiếp nhận thông tin mà còn là một phần
của quá trình đánh giá và hành động. Đối tượng được phán xét là các cá nhân, tổ chức
lợi dụng đại dịch để trục lợi, hành động sai trái trong bối cảnh khó khăn. Chủ thể đánh
giá tiêu cực về mặt đạo đức đối với những hành động lợi dụng đại dịch của các cá
nhân và tổ chức này. Sự phán xét tiêu cực về mặt đạo đức này được thể hiện bằng các
từ ngữ: ―trừng trị, xử lý sai phạm, tội phạm‖. Động từ ―trừng trị‖ và tổ hợp động từ
―xử lý sai phạm‖ mang định hướng đạo đức mạnh mẽ, yêu cầu công lí và sự công
bằng. Việc sử dụng danh từ ―tội phạm‖ càng làm rõ mức độ nghiêm trọng và không
thể chấp nhận của hành vi lợi dụng hoàn cảnh khó khăn để trục lợi.
(56) Một số vựa hải sản còn lợi dụng đẩy giá bán ghẹ lên đến 700.000 đồng/kg,
trong khi ngày thường, loại ghẹ tầm trung này giá chỉ một nửa. [T22]
Trong (56), tác giả (chủ thể đánh giá đã ẩn đi) thể hiện sự đánh giá tiêu cực về
đạo đức đối với hành vi của các vựa hải sản (đối tượng bị đánh giá). Phương tiện ngôn
ngữ được sử dụng để bộc lộ nhận xét tiêu cực này là động từ ―lợi dụng‖. ―Lợi dụng‖
mang sắc thái phê phán, chỉ trích các vựa hải sản đã tranh thủ tình hình một cách thiếu
chính đáng để trục lợi từ khách hàng. Việc sử dụng từ này cho thấy người viết không
đồng tình đối với hành vi trên, đồng thời xem đó là biểu hiện của sự thiếu đạo đức
trong kinh doanh.
(57) Cuối cùng, cơ quan quản lý cũng không thể vô can khi quy định về dự trữ
xăng dầu bắt buộc đối với hệ thống phân phối phải tối thiểu bằng 20 ngày. [T40]
Tác giả (chủ thể đánh giá, đã ẩn) trong (57) không chỉ phản ánh một sự kiện mà
còn thể hiện sự đánh giá tiêu cực về đạo đức đối với hành động của cơ quan quản lý
(đối tượng bị đánh giá). Người viết ẩn mình đi nhằm nhấn mạnh trách nhiệm của các
cơ quan quản lý trong việc phân phối xăng dầu theo đúng quy định của pháp luật. Tổ
hợp từ “không thể vô can” phản ánh sự không chấp nhận đối với hành vi lẩn tránh
trách nhiệm hoặc không đứng ra chịu trách nhiệm của các cơ quan quản lý khi có vấn
đề xảy ra.
87
Báo Nhân dân
- Sự phán xét Đạo đức (+) trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân chỉ
xuất hiện 1 lần, được biểu hiện bằng tính từ: chân chính (1).
- Sự phán xét Đạo đức (-) trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
được biểu hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ: các hành
vi vi phạm/ sai phạm (xuất hiện 3 lần), hướng dẫn viên trái phép (2 lần), y đức, việc
lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh, du lịch "chui", hành vi tổ chức tour trái
phép (1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: sai phạm (5 lần), lợi dụng, trục lợi, buôn bán
xăng dầu giả, vận chuyển trái phép (xuất hiện 4 lần), nhập lậu, đầu cơ (3 lần), ép
buộc, hét giá, buôn lậu (2 lần), không bảo đảm yêu cầu giãn cách, lén lút, bất chấp
dịch bệnh, tham nhũng, lợi dụng dịch bệnh để trục lợi, găm hàng hoặc lợi dụng; tung
tin giả, tin sai sự thật; sử dụng hướng dẫn viên trái phép, làm sai lệch, xâm hại, bị ép
buộc, sách nhiễu, đe dọa, chặt chém, chiếm đoạt, chộp giật, làm liều, làm ẩu, trá hình,
bị truy tố về tội buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, vi phạm pháp luật (1 lần);
tính từ/ tổ hợp tính từ: bất hợp lý, bất chính, vô tội vạ (xuất hiện 1 lần).
Ví dụ:
(58) Ngay sau đó, đoàn kiểm tra đã lập biên bản đối với hành vi tổ chức tour
trái phép của ông Khánh, tiến hành xử lý theo quy định pháp luật. [N23]
Chủ thể đánh giá trong (58) là phi tác giả: đoàn kiểm tra - một lực lượng có
trách nhiệm thực thi pháp luật. Đối tượng được phán xét là hành vi tổ chức tour trái
phép của ông Khánh. Tổ hợp động từ ―hành vi tổ chức tour trái phép‖ đã khẳng định
hành vi của ông Khánh là sai trái, không chỉ ở góc độ pháp lí mà còn vi phạm chuẩn
mực đạo đức trong hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh dịch Covid-19 còn chưa được
kiểm soát hoàn toàn, hành vi tổ chức tour trái phép có thể gây nguy hiểm cho du khách,
ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng hoặc gây mất trật tự trong hoạt động du lịch,
do đó hành vi này không chỉ bị xem là vi phạm pháp luật mà còn bị đánh giá là thiếu
đạo đức.
(59) Được biết để tránh tình trạng đầu cơ nhằm trục lợi, hầu hết các cơ sở bán
thuốc trên địa bàn Hà Nội đều phải ký cam kết không găm hàng thổi giá, dưới sự giám
sát của cơ quan quản lý thị trường. Tuy nhiên, vì lợi nhuận, vẫn có số ít người bán tự ý
nâng bán giá cao hơn so với mức giá niêm yết để trục lợi. [N16]
Trong (59), chủ thể phán xét là tác giả nhưng đã được ẩn đi, còn đối tượng
chính bị phán xét là số ít người bán thuốc tự ý nâng giá cao hơn so với mức giá niêm
yết. Ví dụ (59) thể hiện một phán xét đạo đức mạnh mẽ đối với hành vi đầu cơ, nâng
giá thuốc. Hành vi đầu cơ bị lên án không chỉ vì vi phạm pháp luật mà còn trái với
chuẩn mực đạo đức xã hội, đặc biệt trong bối cảnh thuốc men là mặt hàng thiết yếu,
88
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Người viết sử dụng động từ ―trục lợi‖
nhằm thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ về khía cạnh đạo đức. Trong ngữ cảnh này,
―trục lợi‖ chỉ hành vi lợi dụng nhu cầu thuốc cao của người dân để tăng giá bất hợp lí,
không vì lí do khách quan như chi phí đầu vào, mà xuất phát từ lòng tham và mục đích
tư lợi.
(60) Du lịch “chui” còn cản trở sự hoạt động của các công ty du lịch chân
chính, gây thất thu ngân sách nhà nước và làm xấu bộ mặt, chất lượng chung của
toàn ngành du lịch, nhất là trong điều kiện phòng, chống dịch Covid-19. [N23]
Chủ thể đánh giá trong (60) không được đề cập trực tiếp nhưng có thể hiểu là
người viết bình luận. Cách diễn đạt ẩn chủ thể này giúp người viết thể hiện một lập
trường chính thống và khách quan, đồng thời phản ánh quan điểm của cơ quan quản lí
du lịch và các doanh nghiệp hợp pháp. Ví dụ (60) có hai đối tượng được/ bị phán xét,
một nhóm bị phán xét tiêu cực (các công ty du lịch ―chui‖) và một nhóm được phán
xét tích cực (các công ty du lịch chân chính). Sự đối lập giữa hai nhóm đối tượng này
được thể hiện rõ qua cách dùng từ và lập luận, giúp nhấn mạnh sự khác biệt về đạo
đức giữa những doanh nghiệp tuân thủ quy định và những đơn vị vi phạm. Các công ty
du lịch ―chui‖ bị đánh giá tiêu cực vì vi phạm quy định, gây tác động xấu đến ngành
du lịch, kinh tế và xã hội. Du lịch ―chui‖ trong giai đoạn này không chỉ gây rủi ro cho
du khách mà còn đe dọa nỗ lực kiểm soát dịch bệnh của toàn xã hội, làm cho hành vi
này trở nên nghiêm trọng hơn về mặt đạo đức. Cách sử dụng từ ngữ như du lịch
―chui‖, “cản trở‖, ―gây thất thu‖, ―làm xấu‖ giúp nhấn mạnh sự sai trái của hành vi,
từ đó kêu gọi sự lên án và phản đối từ phía công chúng và cơ quan quản lí. Đối lập với
các công ty du lịch “chui”, các công ty chân chính được đánh giá tích cực vì đóng góp
cho nền kinh tế, hoạt động minh bạch và giữ vững uy tín của ngành du lịch. Tính từ
―chân chính‖ nhấn mạnh rằng những công ty này không gian lận, không vi phạm pháp
luật, hoạt động có đạo đức. Sự đối lập này không chỉ giúp nhận định tăng tính thuyết
phục mà còn định hướng quan điểm của người đọc, khuyến khích sự ủng hộ dành cho
các doanh nghiệp làm ăn chân chính và phản đối các hoạt động du lịch trái phép.
Nhận xét
Tỉ lệ xuất hiện và phân cực của tiểu hệ thống Phán xét trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện trong hình 2.11 và hình 2.12 dưới đây.
89
10 8 6 4 2 0
Kiên trì
Khả năng
Chân thật
Đạo đức
Thông thường
Tuổi trẻ Nhân dân
Hình 2.11. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại Phán xét
25
20
15
10
5
0
Tuổi trẻ Nhân dân
Tiêu cực
Tích cực
Hình 2.12. Tỉ lệ phân cực của Phán xét
Dựa vào các phân tích trên đây cùng kết quả khảo sát ở hình 2.11 và hình 2.12,
chúng tôi nhận thấy giữa báo Tuổi trẻ và Nhân dân có một số điểm tương đồng và
khác biệt trong việc thể hiện tiểu hệ thống Phán xét.
Điểm tương đồng - Cả hai báo đều có tỉ lệ phán xét tiêu cực cao hơn phán xét tích cực.
- Trong tiểu hệ thống Phán xét, các tiểu nhóm Khả năng, Kiên trì và Đạo đức
có tỉ lệ xuất hiện cao hơn các tiểu nhóm còn lại ở cả hai báo.
- Ngoài ra, ở hai báo, phần lớn các tiểu nhóm Phán xét đều có tỉ lệ phán xét tiêu
cực cao hơn tích cực. Trong đó, Khả năng có tỉ lệ phán xét tiêu cực và tích cực xấp xỉ
nhau, còn Đạo đức thì phán xét tiêu cực có tỉ lệ xuất hiện áp đảo so với phán xét tích
cực. Riêng Kiên trì có tỉ lệ đánh giá tích cực cao hơn tiêu cực.
- Các phương tiện ngôn ngữ trong các nguồn lực được sử dụng để thể hiện
Phán xét của hai báo có sự tương đồng về cách diễn đạt.
Tất cả những điều này cho thấy sự tác động của ngữ cảnh và tôn chỉ của tờ báo đối với sự thể hiện quan điểm, thái độ, chiến lược thuyết phục của người viết. Mục đích của báo chí là nêu gương và phơi bày những mặt tối, những mặt còn tồn đọng trong mỗi vấn đề. Người viết tập trung làm rõ những mặt trái, những hạn chế của vấn đề; đồng thời cũng vẫn tán thưởng năng lực của Nhà nước, các doanh nghiệp lớn, các bộ, ngành liên quan trong việc nỗ lực duy trì sự bình ổn thị trường, chăm lo đời sống
90
vật chất và tinh thần cho người dân. Từ đó định hướng nhận thức, thái độ của độc giả
đối với vấn đề.
Điểm khác biệt Ở tiểu hệ thống Phán xét, chúng tôi không nhận thấy có nhiều điểm khác biệt
trong ngôn ngữ đánh giá giữa báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Chỉ có tỉ lệ Phán xét ở báo
Nhân dân cao hơn báo Tuổi trẻ.
2.4. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
2.4.1. Tần suất và nguồn lực ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân 2.4.1.1. Tần suất thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và
Nhân dân
Tần suất thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ Thẩm giá bao gồm các tiểu loại: Phản ứng, Tổng hợp và Giá trị. Khảo sát 45
diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ, chúng tôi thu được kết quả khái quát của tiểu hệ
thống Thẩm giá trong hình 2.13 bên dưới, còn kết quả chi tiết được trình bày trong
bảng P2.3.1 ở phụ lục 2 (mục 2.3).
10
0
Giá trị Phản ứng Tổng hợp
Tích cực Tiêu cực
Hình 2.13. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ Trong tiểu hệ thống Thẩm giá, Giá trị là tiểu nhóm có tần suất xuất hiện cao
nhất (110 lần), tiếp đó là Tổng hợp (59 lần) và cuối cùng là Phản ứng (46 lần). Trong
đó, Giá trị và Phản ứng đều có tỉ lệ đánh giá tích cực cao hơn đánh giá tiêu cực, còn
Tổng hợp thì tỉ lệ đánh giá tiêu cực (57 lần) lại chiếm áp đảo so với đánh giá tích cực
(2 lần). Đối tượng mà báo Tuổi trẻ đánh giá ở bình diện Tổng hợp là mức độ và tính
chất của dịch Covid-19. Dịch Covid-19 có mức độ lớn, tính chất phức tạp (đại dịch,
diễn biến khó lường, diễn biến phức tạp, phức tạp…), gây ra nhiều thiệt hại cho con
người. Do đó, Tổng hợp có tỉ lệ phán xét tiêu cực cao hơn là vậy. Sau đây, chúng tôi sẽ
trình bày một số ví dụ về Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ.
(61) Người xem vỡ òa, háo hức không chỉ bởi đây là sự kiện trình diễn khinh
khí cầu lớn nhất từ trước đến nay tại TP, mà đã từ rất lâu rồi họ mới được tham gia
một sự kiện cộng đồng rực rỡ đến như vậy. [T23]
91
Chủ thể đánh giá là người xem – những người trực tiếp trải nghiệm sự kiện,
thuộc chủ thể đánh giá phi tác giả. Đối tượng được đánh giá là sự kiện cộng đồng trình
diễn khinh khí cầu – được đánh giá dựa trên sự tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của
khán giả. Tính từ ―rực rỡ‖ được dùng để thể hiện Phản ứng của người xem đối với sự
kiện trình diễn khinh khí cầu. Tính từ ―rực rỡ‖ trong ngữ cảnh này không chỉ đơn
thuần mô tả vẻ đẹp bên ngoài của sự kiện mà còn đóng vai trò tạo hiệu ứng cảm xúc
mạnh mẽ đối với người đọc, phản ánh cảm giác phấn khích, mãn nhãn của khán giả
khi được trải nghiệm một lễ hội đầy màu sắc và quy mô lớn, giúp nhấn mạnh sự hoành
tráng và sức hút của lễ hội khinh khí cầu.
(62) Phục hồi làm ăn, phát triển kinh tế sau đại dịch không phải là dựa vào lý
do hàng hóa khan hiếm để chèn ép đối tác, lấy giá cao với khách hàng để bù lại những
tháng ngày ngưng trệ. [T22]
Tác giả đánh giá dịch Covid-19 là một đợt dịch lớn, phức tạp và nguy hiểm.
Đánh giá Tổng hợp (-) này được hiện thực hóa bằng ―đại dịch‖. Từ “đại” có vai trò
quan trọng trong cách định hình mức độ và quy mô của dịch Covid-19. Nó không chỉ
đơn thuần mô tả một bệnh dịch mà còn nhấn mạnh tính chất toàn cầu, mức độ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Khi sử dụng ―đại dịch‖, tác
giả nhấn mạnh rằng nền kinh tế đã trải qua một giai đoạn tổn thất lớn, kéo dài. Điều
này làm cho lập luận trở nên thuyết phục hơn: việc phục hồi kinh tế sau một cuộc
khủng hoảng lớn cần có đạo đức, chứ không phải là cơ hội để trục lợi.
(63) Đối với du lịch quốc tế, visa là chính sách có giá trị và công cụ cạnh
tranh thu hút du lịch quốc tế quan trọng bậc nhất. [T24]
Trong (63), chủ thể thẩm giá là người viết (đã ẩn), còn đối tượng được thẩm giá
là chính sách visa trong lĩnh vực du lịch quốc tế. Nhận định của tác giả về visa là thuộc
nhóm Giá trị (+), được hiện thực hóa bằng các từ ngữ ―có giá trị‖, ―công cụ cạnh
tranh‖ và ―quan trọng bậc nhất‖. Sử dụng tổ hợp động từ ―có giá trị‖, người viết
nhấn mạnh rằng visa không chỉ có tác dụng quản lí xuất nhập cảnh mà còn mang lại
lợi ích lớn cho nền kinh tế du lịch. Tổ hợp danh từ ―công cụ cạnh tranh‖ thể hiện giá
trị của visa trong mối quan hệ so sánh với các chính sách khác, khẳng định rằng việc
cải thiện chính sách visa có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia trong lĩnh
vực du lịch. ―Quan trọng bậc nhất‖ mang tính tuyệt đối hóa, xác định visa là một yếu
tố hàng đầu trong việc thu hút du khách quốc tế. Tất cả các phương tiện ngôn ngữ này
giúp người viết thể hiện sự đánh giá cao của mình về giá trị của visa.
92
Tần suất thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Khảo sát các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân, chúng tôi thu được kết
quả của tiểu hệ thống Thẩm giá như sau (kết quả khảo sát chi tiết được trình bày trong
bảng P2.3.2 ở phụ lục 2.3):
10
0
Giá trị Phản ứng Tổng hợp
Tích cực Tiêu cực
Hình 2.14. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Tương tự như tiểu hệ thống Thẩm giá ở báo Tuổi trẻ, tiểu hệ thống Thẩm giá của báo Nhân dân cũng có tỉ lệ đánh giá tiêu cực cao hơn tích cực. Tiểu nhóm Giá trị có tần suất xuất hiện cao nhất (108 lần), tiếp theo là Tổng hợp (55 lần), Phản ứng có tần suất thấp nhất (22 lần). Giá trị và Phản ứng đều có tỉ lệ đánh giá tích cực cao hơn tiêu cực. Còn Tổng hợp thì ngược lại, đánh giá tiêu cực cao gấp 54 lần so với đánh giá tích cực. Đối tượng của thẩm giá Tổng hợp là dịch bệnh Covid-19. Dịch Covid-19 có mức độ lan rộng, nhanh chóng, tính chất phức tạp và gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực về mọi mặt nên bị đánh giá ở khía cạnh tiêu cực. Dưới đây là một số ví dụ minh họa cho Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân:
(64) Ðiều này đã kích thích các đối tượng dùng nhiều thủ đoạn để buôn lậu
xăng dầu từ nước ngoài vào trong nước hòng trục lợi. [N43]
Lợi nhuận từ việc buôn lậu xăng dầu từ nước ngoài vào trong nước quá hấp dẫn. Điều này đã “kích thích‖ lòng tham của các đối tượng buôn lậu (đối tượng bị thẩm giá), khiến chúng liều lĩnh, bất chấp thủ đoạn để nhập lậu xăng dầu. Ví dụ (64) thể hiện phản ứng tích cực của các đối tượng buôn lậu đối với việc buôn lậu xăng dầu. (65) Với diễn biến khó lường của giá dầu thế giới hiện nay, các cơ quan quản lý cần xem xét, nghiên cứu xóa bỏ Quỹ Bình ổn giá xăng dầu để tăng tính chủ động, linh hoạt trong điều chỉnh giá, để giá xăng dầu trong nước vận hành theo giá thế giới. [N45]
Trong ví dụ (65), chủ thể đánh giá là tác giả nhưng được ẩn đi, thể hiện kiểu đánh giá phi cá nhân. Đối tượng bị thẩm giá là giá dầu thế giới, được đánh giá theo tiêu chí Tổng hợp, cụ thể là về cấu trúc biến động và mức độ ổn định. Phán xét tiêu cực trong (65) được hiện thực hóa qua tổ hợp động từ ―diễn biến khó lường‖, trong đó ―diễn biến‖ nhấn mạnh quá trình thay đổi liên tục, còn ―khó lường‖ chỉ sự bất định, thiếu ổn định và khó dự đoán. Cách định danh này phản ánh quan điểm tiêu cực của
93
người viết về tính bất quy tắc của giá dầu, qua đó ngầm nêu bật những khó khăn trong việc kiểm soát và điều tiết giá xăng dầu trong nước.
(66) Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia. [N41]
Trong ví dụ (66), chủ thể thẩm giá (người viết, ẩn) đánh giá xăng dầu (đối tượng được thẩm giá) là mặt hàng quan trọng đối với đất nước. Sự đề cao giá trị của xăng dầu được hiện thực hóa bằng các tổ hợp từ ―mặt hàng chiến lược‖ và ―có vai trò quan trọng‖. Cách định danh ―mặt hàng chiến lược‖ nhấn mạnh vị thế then chốt của xăng dầu đối với ổn định kinh tế, phát triển bền vững và an ninh quốc gia. Tổ hợp từ ―có vai trò quan trọng‖ giúp củng cố giá trị vĩ mô của xăng dầu trong hệ thống kinh tế và chính trị, giúp nâng cao nhận thức về mức độ ảnh hưởng của xăng dầu. Việc sử dụng các từ ngữ trên mang tính khẳng định tầm quan trọng về giá trị thiết yếu và làm nổi bật sức ảnh hưởng rộng của xăng dầu đối với quốc gia. 2.4.1.2. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Khảo sát các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi thu
được kết quả khái quát về các nguồn lực hiện thực hóa tiểu hệ thống Thẩm giá như sau:
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Thẩm giá
trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ Giá trị
Tổng hợp
Phản ứng
Tổng
Nguồn lực
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
6
33
20
23
34
63
7
8
12
7
36
43
53
72
22
5
Từ vựng - Ngữ pháp
Danh từ/ tổ hợp danh từ Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ Cụm từ cố định Kiểu câu
12 1 1
18 3 0
17 1 4
30 1 17
40 3 5
62 5 18
14 1 1
11 1 0
(Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát nguồn lực thể hiện Thẩm giá
trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân Giá trị
Tổng hợp
Phản ứng
Tổng
Nguồn lực
Tần suất
Số lượng
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
Số lượng
Tần suất
6
15
24
30
32
52
7
2
8
17
22
33
35
62
12
5
1
17
10
30
19
48
1
8
Từ vựng- Ngữ pháp
Danh từ/ tổ hợp danh từ Động từ/ tổ hợp động từ Tính từ/ tổ hợp tính từ Kiểu câu
0
0
5
27
5
27
0
0
(Đơn vị tính: số lượng: từ/ tổ hợp từ/ câu; tần suất: lần)
Dựa trên kết quả khảo sát từ bảng 2.7 và bảng 2.8, có thể thấy rằng tiểu hệ thống Thẩm giá trong các diễn ngôn bình luận của cả hai tờ báo được thể hiện qua
94
nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, với các phương tiện cụ thể: kiểu câu, danh từ, động từ, tính từ và các tổ hợp từ. Trong đó, ở cả hai báo, động từ và tổ hợp động từ có tần suất xuất hiện cao nhất. Đối với báo Tuổi trẻ, cụm từ cố định có số lượng và tần suất thấp nhất, chỉ xuất hiện 5 lần với 3 cách diễn đạt khác nhau. Trong khi đó, ở các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào sử dụng cụm từ cố định để thể hiện sự Thẩm giá hiển ngôn. 2.4.2. Sự thể hiện Thẩm giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Kết quả nghiên cứu chung đã được chúng tôi trình bày ở mục 2.4.1.1 và 2.4.1.2. Dựa trên kết quả khảo sát ấy, có thể thấy nhóm Giá trị có số lượng và tần suất cao hơn so với các nhóm còn lại. Do đó, trong phần này, chúng tôi tập trung phân tích nguồn lực hiện thực hóa nhóm Giá trị, còn các nhóm khác sẽ được trình bày trong phần phụ lục 2.
Thẩm giá về Giá trị là việc đánh giá một sự vật, sự kiện hay hiện tượng dựa trên ý nghĩa hoặc đóng góp của nó cho xã hội, văn hóa hoặc tri thức. Nó không chỉ dừng ở cảm xúc cá nhân mà còn phản ánh giá trị khách quan mà một đối tượng có thể mang lại.
Báo Tuổi trẻ - Các kết cấu câu được sử dụng để thể hiện Giá trị trong các diễn ngôn bình luận về 05 vấn đề trên báo Tuổi trẻ gồm: A (x) khiến B y (xuất hiện 8 lần), A x gây B y (7 lần), A góp phần y (1 lần), Không có gì quý bằng B (1 lần). Trong đó, A là đối tượng tác động (đối tượng thẩm giá), B là đối tượng chịu tác động, x là hành vi/ đặc điểm của A, y là kết quả tác động do A gây ra. Xét các ví dụ sau:
(67) Còn với những doanh nghiệp đầu mối nhỏ không mặn mà cung ứng thời điểm này, tuy chiếm thị phần ít nhưng cũng gây tác động tiêu cực đến thị trường. [T40]
(68) Diễn biến đó, cùng với giá xăng dầu thế giới tăng nhanh, nhưng giá trong
nước lại chậm điều chỉnh đã khiến thị trường xăng dầu thêm "nóng". [T38]
(69) Và rồi sự "bùng nổ F0" đã khiến nhà trường, phụ huynh và học sinh bị
chia rẽ. [T35]
Bảng 2.9. Phân tích ví dụ về kết cấu câu thể hiện Giá trị ở báo Tuổi trẻ
Yếu tố Ví dụ Kết cấu Loại Thẩm giá x B y
(67) thị trường A x gây B y Giá trị (-) không mặn mà cung ứng gây tác động tiêu cực
trường (68) nhanh điều thêm “nóng” Giá trị (-) trong thị xăng dầu A khiến (x) B y tăng chậm chỉnh A Những doanh nghiệp đầu mối nhỏ Giá xăng dầu thế giới Giá nước
(69) Bị chia rẽ Giá trị (-) Sự “bùng nổ F0” A khiến (x) B y Nhà trường, phụ huynh và học sinh
- Những thẩm giá về Giá trị ở bình diện tích cực trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ được thể hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ cụ thể sau: danh từ/ tổ
95
hợp danh từ: phần thưởng, điều quan trọng (xuất hiện 2 lần), một nghề đặc biệt, cứu
cánh, thông điệp quan trọng, vũ khí cần thiết, vũ khí chống trả virus, những chỉ số
đáng chú ý nhất, những bài học lớn lao, kết quả đáng ghi nhận, cơ hội vàng, dấu tích
lịch sử, chiến lược, trung tâm của mọi tranh luận (xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp
động từ: được (xuất hiện 4 lần), có ích (2 lần), ghi nhận (2 lần), mang ý nghĩa rất lớn,
tạo ra giá trị, đóng góp chính, có tất cả, mang tính chuyên môn sâu sắc, không thể cân
đong bằng tiền bạc, đem lại, thêm nhiều ý nghĩa, làm mới các sản phẩm du lịch, đem
đến những hy vọng mới, có giá trị, mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, cứu sống, đóng vai
trò quan trọng, trở thành điểm nhấn, mang tính đúng đắn, có vai trò cầm cân nảy
mực, để lại nhiều bài học, làm được việc (các từ/ tổ hợp từ trên chỉ xuất hiện 1 lần);
tính từ: quan trọng (9 lần), cần thiết (3 lần), hợp lý (2 lần), xứng đáng, hiệu quả, hữu
ích, tốt, thiết yếu (1 lần).
- Những phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện các thẩm giá về Giá
trị ở bình diện tiêu cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ gồm: danh từ/
tổ hợp danh từ: rào cản (xuất hiện 2 lần), giải pháp phòng chống dịch cực đoan, tác
nhân làm ảnh hưởng; yếu tố "giả", yếu tố hình thức, yếu tố lãng phí (các từ/ tổ hợp từ
này xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: bị sứt mẻ, đảo lộn (2 lần), cản trở, bị
xáo trộn, bị đình trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng, bị khai tử, "làm rầu", đẩy thương
nhân vào thế càng bán càng âm vốn, chẳng làm được gì, bị méo mó, bị đảo lộn, bị đe
dọa, không ảnh hưởng lớn (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: không hiệu quả (2 lần), ít có
ý nghĩa thực tiễn, không quan trọng, không đủ chuẩn, khó khăn, không có ích, không
hợp lý, phập phù, quá hình thức, vô nghĩa (các từ/ tổ hợp từ còn lại này xuất hiện 1
lần); cụm từ cố định: lợi bất cập hại (1 lần).
Xét một số ví dụ sau:
(70) Trước mắt là hệ thống lưu trú phải sẵn sàng hoạt động, tận tình phục vụ,
không thể lấy lý do vì COVID-19 nên phòng ốc xuống cấp, thiếu nhân viên phục vụ vì
khách sạn chưa kịp tuyển mới. Càng không thể mong du khách thông cảm vì chất
lượng dịch vụ chưa như ý. Du lịch vận hành trở lại, khách đến mà gặp phải tình huống
này thì tiếng dữ đồn xa, lợi bất cập hại. [T27]
Trong (70), người viết đóng vai trò là chủ thể thẩm giá nhưng không xuất hiện
trực tiếp, qua đó tạo ấn tượng về tính khách quan và tăng sức thuyết phục cho lập luận.
Đối tượng thẩm giá là hệ thống lưu trú và chất lượng dịch vụ du lịch. Người viết nhấn
mạnh rằng nếu hệ thống lưu trú không đảm bảo chất lượng dịch vụ, sẽ ảnh hưởng xấu
đến uy tín du lịch, làm suy giảm giá trị của ngành. Sự đánh giá tiêu cực về Giá trị
được thể hiện rõ nét qua thành ngữ ―lợi bất cập hại‖. ―Lợi bất cập hại‖ có nghĩa là
96
cái hại vượt xa cái lợi, cảnh báo rằng nếu khách sạn, cơ sở lưu trú không đảm bảo chất
lượng, hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều so với lợi ích của việc mở cửa trở lại. Nó
củng cố lập luận rằng sự phục hồi du lịch không thể chỉ đơn thuần là mở cửa đón
khách, mà còn phải đi kèm với chất lượng dịch vụ tương xứng. Nếu không kịp thời cải
thiện, ngành có nguy cơ mất khách do những hệ lụy từ đại dịch.
(71) Suy cho cùng phòng chống dịch là một công việc mang tính chuyên môn
sâu sắc. [T12]
Chủ thể đánh giá trong (71) là người viết nhưng được ẩn đi. Đối tượng thẩm giá
là công tác phòng chống dịch, một hoạt động xã hội cụ thể, được đánh giá thông qua tổ
hợp động từ “mang tính chuyên môn sâu sắc”. Cách diễn đạt này không chỉ khẳng định
tính bài bản của công tác phòng dịch, mà còn nhấn mạnh sự cần thiết của kiến thức
chuyên sâu, sự phối hợp đa ngành và sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Qua đó, giá trị của hoạt động
phòng chống dịch được nâng lên thành một chuẩn mực xã hội, góp phần thay đổi nhận
thức chung của cộng đồng, từ xem nhẹ sang trân trọng và đề cao.
Báo Nhân dân
- Các kết cấu câu được sử dụng để thể hiện sự đánh giá Giá trị tích cực gồm: A
giúp B y (xuất hiện 6 lần), A góp phần y (xuất hiện 4 lần); các kết cấu câu được sử
dụng để thể hiện sự đánh giá Giá trị tiêu cực gồm: A x gây y (8 lần), A x khiến (cho) B
y (7 lần), A làm B y (hoặc y B) (2 lần). Trong đó, A là đối tượng tác động (đối tượng
thẩm giá), B là đối tượng chịu tác động, x là hành vi/ đặc điểm của A, y là kết quả tác
động do A gây ra. Ví dụ:
(72) Việc tăng giờ làm thêm giúp công nhân lao động nâng cao thu nhập, giảm
áp lực kinh tế, có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn. Phía doanh nghiệp cho rằng,
vào thời điểm hiện tại khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt lao động do ảnh
hưởng của đại dịch Covid-19, tăng thời giờ làm thêm là phù hợp, giúp doanh nghiệp
phục hồi sản xuất, kinh doanh. [N4]
(73) Luật Khám bệnh, chữa bệnh hiện hành đã góp phần nâng cao chất lượng
cung cấp dịch vụ, khả năng tiếp cận với dịch vụ và chuẩn hóa chất lượng của hoạt
động khám bệnh, chữa bệnh, góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt
Nam cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới. [N8]
(74) Cách làm của các địa phương ―mỗi nơi một phách‖ này thể hiện sự hiểu
biết chưa sát sao về dịch bệnh (khả năng) và thành quả chống dịch, dựng lên rào cản
đối với người dân có nhu cầu chính đáng về quê đón Tết, và khiến cho việc phục hồi
du lịch vẫn rất khó khăn. [N14]
97
Bảng 2.10. Phân tích ví dụ về kết cấu câu thể hiện Giá trị ở báo Nhân dân
Yếu tố Ví dụ Kết cấu A x B y Loại Thẩm giá
Công lao
(72) A giúp B y Việc tăng giờ làm thêm Giá trị (+)
- Nâng cao thu nhập, giảm áp lực kinh tế, có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn - Phục hồi sản xuất, kinh doanh - nhân động - Doanh nghiệp
(73) A góp phần y Giá trị (+) Luật Khám bệnh, chữa bệnh hiện hành
- Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, khả năng tiếp cận với dịch vụ và chuẩn hóa chất lượng của hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; - Làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam.
(74) Khó khăn A x khiến (cho) B y Giá trị (-) Việc phục hồi du lịch Cách làm của các địa phương “mỗi nơi một phách”
- Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để bộc lộ sự thẩm giá Giá trị tích
cực trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân gồm: danh từ/ tổ hợp danh từ:
yếu tố quyết định (xuất hiện 4 lần), giải pháp hết sức cần thiết, căn cứ quan trọng, việc
cần thiết (2 lần), nhiệm vụ cấp bách, cách tốt, trụ cột chính, mắt xích quan trọng, trọng tâm, động lực quan trọng, cơ sở quan trọng, thời cơ vàng, trọng điểm, giải pháp
hữu hiệu, điều kiện đầu tiên, cú huých thúc đẩy, mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp, mũi
nhọn trụ cột, mặt hàng chiến lược, điều kiện lý tưởng (1 lần); tổ hợp động từ: đóng vai
trò quan trọng, được đánh giá… (2 lần), tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội,
đáng lưu tâm, mở ra cơ hội, đóng vai trò quyết định, có tác dụng, có vai trò quan
trọng, có ý nghĩa hết sức cấp thiết (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: quan trọng (xuất hiện
11 lần), cần thiết (8 lần), phù hợp (3 lần), thích hợp, chính đáng và cấp thiết, không
thể thiếu (1 lần).
- Các diễn ngôn trên báo Nhân dân chứa đánh giá về Giá trị thuộc bình diện
tiêu cực được thể hiện qua các phương tiện ngôn ngữ sau: danh từ/ tổ hợp danh từ:
những thách thức, sự tác động tiêu cực, rào cản, thiếu tính chuyên nghiệp (mỗi danh
từ/ tổ hợp danh từ này chỉ xuất hiện 1 lần); động từ/ tổ hợp động từ: ảnh hưởng (7 lần), tạo/ gây áp lực (4 lần), dẫn đến sự sụt giảm, bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa bảo đảm, cách ly ―cực đoan‖, cản trở, chưa được đặt xứng tầm, gây sức ép, tác động xấu, gây ảnh hưởng, chịu tác động tiêu cực (1 lần); tính từ/ tổ hợp tính từ: không phù hợp (2 lần), không rõ nguồn gốc xuất xứ, nhạy cảm, thiếu thỏa đáng (1 lần).
Ví dụ:
(75) Nguyên tắc "5K+vaccine+thuốc điều trị+công nghệ+đề cao ý thức của nhân dân và các biện pháp khác", với ba trụ cột chính về xét nghiệm, cách ly và điều
98
trị cần được duy trì trên diện rộng để vùng xanh ngày càng được mở rộng, giúp cuộc
sống của người dân trở lại trạng thái bình thường mới. [N13]
Trong (75), chủ thể thẩm giá là người viết (đã được ẩn đi), còn đối tượng thẩm giá gồm xét nghiệm, cách ly và điều trị. Người viết đánh giá nhóm xét nghiệm, cách ly
và điều trị là những yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống phòng dịch. Sự đánh giá cao
về giá trị của các đối tượng thẩm giá được thể hiện qua tổ hợp danh từ ―trụ cột chính‖.
―Trụ cột‖ gợi hình ảnh những yếu tố không thể thiếu, mang lại sự vững chắc và ổn
định. ―Chính‖ bổ sung thêm ý nghĩa ưu tiên hàng đầu, làm nổi bật mức độ quan trọng của ba yếu tố này.
(76) Các chuyên gia nhận định, dịch Covid-19 đã đẩy ―ngành công nghiệp không
khói‖ vào cuộc khủng hoảng lớn chưa từng có, nhưng cũng mở ra cơ hội bứt phá mới bởi
sau đại dịch, du lịch các nước đều ở vạch xuất phát như nhau. [N27]
Đại dịch Covid-19 (đối tượng được/ bị thẩm giá) gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho ngành du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, các chuyên gia
(chủ thể thẩm giá, thuộc phi tác giả) nhận định đại dịch này cũng có mặt tích cực, đó là
làm cho du lịch ở các nước đều trở về vạch xuất phát. Du lịch Việt Nam nếu biết nắm
bắt và tận dụng tốt thời cơ này thì sẽ có cơ hội sánh ngang với du lịch ở các nước phát
triển. Sự nhận định tích cực này được hiện thực hóa qua tổ hợp động từ ―mở ra cơ
hội‖. Cách dùng động từ ―mở ra cơ hội‖ gợi ý rằng cơ hội đang xuất hiện một cách tự
nhiên, tạo cảm giác về một bước ngoặt lớn mà ngành du lịch có thể tận dụng. Khi đặt
trong mối tương quan với “khủng hoảng lớn chưa từng có”, tổ hợp từ này giúp làm dịu
đi tác động tiêu cực, từ đó tạo thế cân bằng trong đánh giá.
Nhận xét Tỉ lệ xuất hiện và phân cực của tiểu hệ thống Thẩm giá trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện trong hình 2.15 và hình 2.16 dưới đây.
12 10 8 6 4 2 0
25 20 15 10 5 0
Giá trị
Phản ứng
Tổng hợp
Tuổi trẻ Nhân dân
Tuổi trẻ Nhân dân
Tiêu cực
Tích cực
Hình 2.15. Tỉ lệ xuất hiện của các tiểu loại
Hình 2.16. Tỉ lệ phân cực của Thẩm giá
Thẩm giá
Dựa vào các phân tích trên đây cùng kết quả khảo sát ở các bảng 2.7, 2.8 và các hình 2.15, 2.16, chúng tôi nhận thấy giữa báo Tuổi trẻ và Nhân dân có một số điểm
tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện tiểu hệ thống Thẩm giá.
99
Điểm tương đồng: trong tiểu hệ thống Thẩm giá ở hai báo, tiểu nhóm Giá trị có tần suất cao nhất, sau đó là Tổng hợp và cuối cùng là Phản ứng. Trong đó, Giá trị và Phản ứng có tỉ lệ đánh giá tích cực cao hơn tiêu cực. Điều này cho thấy, bên cạnh việc đánh giá những mặt chưa tốt, những hạn chế của vấn đề, các tác giả ở hai báo đều đánh giá cao giá trị, hiệu quả của các biện pháp phòng, chống dịch, những giải pháp phát triển kinh tế đất nước trong thời kì “bình thường mới”. Còn Tổng hợp lại chủ yếu chỉ xuất hiện ở đánh giá tiêu cực, rất ít đánh giá tích cực. Đối tượng đánh giá của nhóm Tổng hợp ở hai báo đều là dịch Covid-19.
Điểm khác biệt: chúng tôi không ghi nhận được nhiều điểm khác biệt về phương thức thể hiện sự thẩm giá về Giá trị trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Chúng tôi chỉ nhận thấy tỉ lệ Thẩm giá ở báo Tuổi trẻ cao hơn báo Nhân dân. Ngoài ra, về các phương tiện ngôn ngữ hiện thực hóa Giá trị, các tác giả của báo Tuổi trẻ sử dụng từ ngữ phong phú hơn các giả báo Nhân dân. 2.5. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thang độ các diễn ngôn bình luận có chứa Thái
độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Hệ thống Thái độ và Giọng điệu có chung đặc điểm là khả năng phân cấp độ
(gradibility). Khả năng phân cấp này chính là thuộc tính của hệ thống Thang độ. Trong
chương này, chúng tôi tập trung tìm hiểu Thang độ trong các diễn ngôn có chứa đánh
giá thuộc hệ thống Thái độ. Việc nghiên cứu Thang độ của Thái độ theo hai tham số
Lực và Tiêu điểm nhằm làm rõ cách người viết điều chỉnh mức độ và phạm vi của các
phát ngôn đánh giá trong diễn ngôn. Thay vì chỉ đơn thuần xét mức độ nhấn mạnh hay
giảm nhẹ, việc phân tích theo Lực giúp nhận diện sự gia tăng hoặc giảm nhẹ về cường
độ cảm xúc hoặc lập trường đánh giá, trong khi Tiêu điểm cho thấy mức độ điển hình
hay ngoại biên của đối tượng trong một phạm trù đánh giá nhất định. Hai tham số này
phản ánh mức độ can dự của người viết, cho thấy họ định vị bản thân như thế nào
trong mối quan hệ với người đọc và đối tượng được đánh giá. Đồng thời, đây cũng là
cách tiếp cận phù hợp với khung Đánh giá của Martin & White (2005), nơi Thang độ
đóng vai trò trung tâm trong việc thể hiện sắc thái ý nghĩa. Nghiên cứu Thang độ theo
Lực và Tiêu điểm không chỉ góp phần lí giải chiến lược lập nghĩa của người viết mà
còn làm sáng tỏ phương thức tương tác và tác động đến cảm xúc, quan điểm của người đọc trong các diễn ngôn bình luận báo chí.
2.5.1. Kết quả khảo sát Thang độ trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Thang độ giúp thể hiện rõ nét thêm đánh giá của người nói/ viết bằng cách tăng mạnh hay giảm nhẹ những đặc trưng của đối tượng được/ bị đánh giá. Thang độ được
chia thành hai tiểu hệ thống Lực và Tiêu điểm.
Khảo sát dựa trên các phát ngôn bình luận có chứa Thái độ, chúng tôi thu được
kết quả khái quát về hệ thống Thang độ trên hai báo Tuổi trẻ và Nhân dân như sau:
100
Bảng 2.11. Kết quả thống kê Thang độ trong các diễn ngôn chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Lực Tiêu điểm Cường độ Báo Sắc nét Tổng Mờ nhạt Phạm vi Quá trình
Tuổi trẻ Nhân dân Số lượng 80 90 Lượng hóa Khối lượng 71 64 31 35 174 112 Phẩm chất 82 89 7 1 449 393 4 2 (Đơn vị tính: lần)
Kết quả thống kê về các tiểu nhóm trong hệ thống Thang độ được chúng tôi
trình bày cụ thể trong hình 2.17 bên dưới.
50
0
Tuổi trẻ Nhân dân
Lực
Tiêu điểm
Hình 2.17. Tỉ lệ tiểu nhóm trong hệ thống Thang độ
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng 2.12 và hình 2.17, có thể thấy báo Tuổi trẻ và
Nhân dân đều xuất hiện đủ tất cả các tiểu nhóm thuộc hệ thống Thang độ. Xét về tần
suất, kết quả khảo sát ở bảng 2.12. cũng cho thấy, ở cả hai báo, Lực được sử dụng nhiều hơn Tiêu điểm rất nhiều lần. Ở báo Tuổi trẻ, Lực được sử dụng 438 lần, còn Tiêu
điểm chỉ xuất hiện 11 lần; ở báo Nhân dân, Lực (390 lần) cao gấp 130 lần Tiêu điểm (3
lần). Điểm khác biệt là các tác giả báo Tuổi trẻ sử dụng nhiều đánh giá Thang độ hơn
các tác giả ở báo Nhân dân. Điều này cho thấy các tác giả báo Tuổi trẻ thể hiện cảm
xúc, đánh giá của mình nhiều và mạnh hơn các tác giả ở báo Nhân dân.
Các tiểu loại trong tiểu hệ thống Lực có sự phân cấp (tăng/ giảm) trong các
đánh giá. Khảo sát các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân, chúng tôi ghi nhận được kết quả về tỉ lệ phân cấp của các giá trị trong tiểu hệ
thống Lực như sau:
Nhân dân
Tuổi trẻ
0
30
40
10 20 Giảm cấp Nâng cấp
Hình 2.18. Tỉ lệ phân cấp của tiểu hệ thống Lực trong các diễn ngôn chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
101
Đánh giá thang độ Lực trong các diễn ngôn chứa thái độ ở hai báo đều chú
trọng đến nâng cấp, ít sử dụng cách đánh giá hạ cấp. Những đánh giá phân cấp này sẽ
được chúng tôi phân tích trong phần sự thể hiện Thang độ.
2.5.2. Sự thể hiện Thang độ trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Quan sát bảng thống kê 2.12, có thể thấy, Tiêu điểm có tần suất rất thấp so với
Lực. Vì dung lượng có hạn nên trong luận án này, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu các
đánh giá Thang độ thuộc nhóm Lực. Sự thể hiện tiểu hệ thống Tiêu điểm trong Thang
độ được trình bày cụ thể trong phụ lục 3.
Lực trong hệ thống Thang độ bao gồm hai tiểu nhóm: Lượng hóa và Cường độ.
Lượng hóa là sự tăng giảm các đánh giá về Số lượng, Khối lượng và Phạm vi. Trong các
bài bình luận thể hiện Thái độ trên báo Tuổi trẻ, thang độ Số lượng xuất hiện với tần
suất cao nhất (80 lần), tiếp theo là thang độ Khối lượng (71 lần), và thấp nhất là thang độ
Phạm vi (31 lần). Tương tự, trên báo Nhân dân, thang độ Số lượng xuất hiện 90 lần,
thang độ Khối lượng là 64 lần, và thang độ Phạm vi xuất hiện ít nhất với 35 lần. Cường
độ là sự tăng giảm các đánh giá về Thuộc tính và Quá trình. Trên cả hai tờ báo, thang
độ của Quá trình xuất hiện với tần suất cao hơn so với Thuộc tính. Cụ thể, trên báo
Tuổi trẻ, các đánh giá về Quá trình xuất hiện 174 lần, trong khi trên báo Nhân dân,
con số này là 112 lần. Ngược lại, thang độ của Thuộc tính xuất hiện ít hơn, với 82 lần
trên báo Tuổi trẻ và 89 lần trên báo Nhân dân.
2.5.2.1. Sự thể hiện thang độ của Lượng hóa trong các diễn ngôn bình luận có chứa
Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Dựa vào kết quả nghiên cứu chung đã được trình bày ở trên, có thể thấy, Số
lượng trong nhóm Lượng hóa có tần suất cao hơn các tiểu loại khác. Do đó, trong phần
này, chúng tôi tập trung trình bày sự thể hiện của thang độ Số lượng, còn sự thể hiện của
thang độ của Khối lượng và Phạm vi sẽ được đề cập chi tiết trong phụ lục 3.
Thang độ của Số lượng, bằng cách sử dụng từ chỉ số lượng để làm nổi bật lập
luận, có chức năng giúp tăng cường hoặc giảm nhẹ đánh giá và giúp tăng sức thuyết
phục cho đánh giá. Có thể nói, thang độ của Số lượng là một công cụ quan trọng trong
việc điều chỉnh mức độ của thông tin, giúp diễn đạt ý nghĩa một cách linh hoạt. Nó
không chỉ tác động đến cách người nghe/ đọc tiếp nhận thông tin mà còn thể hiện lập
trường của người nói/ viết.
Báo Tuổi trẻ
Những đánh giá về Số lượng (trong các diễn ngôn đánh giá thuộc nhóm Thái
độ) xuất hiện 80 lần, trong đó đánh giá tăng cấp Số lượng chiếm áp đảo với 58 lần,
đánh giá giảm cấp chỉ xuất hiện 22 lần. Số lượng được hiện thực hóa bằng 02 nguồn
102
lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp (các từ, tổ hợp từ, kiểu câu) và nguồn lực tu từ
(biện pháp lặp, liệt kê).
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp + Trong các bài bình luận chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ, sự đánh giá nâng cấp
về Số lượng được thể hiện qua các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng –
ngữ pháp sau: càng lớn, gấp 3-4 lần, leo thang, mọi, mười, muôn vàn, nhiều, ồ ạt,
phần lớn, đắt, tăng cao, quá, tăng không mệt mỏi, tất cả, ti tỉ, toàn bộ, vô vàn, hàng
loạt, vô số, hàng trăm, bùng nổ, tăng vọt, tăng mạnh, lan rộng, phát sinh, chồng chất,
vượt trội, vô cùng, cả, chưa có dấu hiệu dừng lại.
+ Các phương tiện ngôn ngữ dùng để thể hiện đánh giá giảm cấp về Số lượng
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ gồm: chỉ, chỉ có, chỉ là, bèo bọt, không
một chút, bất kỳ, ít, một số nhỏ, một phần, hạn chế.
Xét một số ví dụ sau:
(77) ―Vậy mà lương của cô tính theo ngạch, bậc chỉ có 5.971.000 đồng, bao
gồm cả phụ cấp. Với bối cảnh dịch bệnh như hiện tại, công việc cũng như trách nhiệm
của nhân viên y tế học đường rất áp lực và căng thẳng‖. [T1]
Trong ví dụ (77), Thang độ được sử dụng để nhấn mạnh sự bất hợp lí giữa mức
lương và áp lực công việc của nhân viên y tế học đường. Tổ hợp từ “chỉ có 5.971.000
đồng” với ―chỉ có‖ mang sắc thái giảm nhẹ, nhấn mạnh mức lương thấp hơn mong
đợi. Đồng thời, từ ―cả‖ trong cụm “bao gồm cả phụ cấp” càng làm rõ sự ít ỏi của
khoản tiền này. Ngược lại, từ ―rất‖ trong “rất áp lực và căng thẳng” lại có tác dụng
tăng cấp thang độ của đánh giá Quá trình, làm nổi bật mức độ nặng nề của công việc.
Có thể thấy, phát ngôn (77) sử dụng thang độ theo hướng khuếch đại để nhấn mạnh sự
bất công trong mức lương của nhân viên y tế học đường so với áp lực công việc, nhằm
thu hút sự quan tâm và tạo hiệu ứng thuyết phục đối với người đọc.
(78) Theo Hiệp hội Khách sạn Việt Nam, nhiều địa phương chỉ có 50 - 60% số
cơ sở lưu trú hoạt động trở lại, còn phần lớn trong tình trạng khủng hoảng nhân lực
trầm trọng, thiếu vốn để duy trì dịch vụ… Đấy là nỗi lo thật sự. [T27]
Ở ví dụ (78), thang độ trong đánh giá về Số lượng được sử dụng để nhấn mạnh
mức độ nghiêm trọng của tình trạng khủng hoảng trong ngành khách sạn. Từ ngữ ―chỉ
có‖ trong “chỉ có 50 - 60% số cơ sở lưu trú hoạt động trở lại” thể hiện sự giảm nhẹ,
nhấn mạnh tỉ lệ phục hồi còn thấp so với kì vọng. Còn trong “phần lớn trong tình trạng
khủng hoảng nhân lực trầm trọng, thiếu vốn để duy trì dịch vụ” thì “phần lớn‖ được
dùng để mở rộng mức độ ảnh hưởng, nhấn mạnh rằng vấn đề này không phải ảnh hưởng
đến một số ít mà là hiện tượng phổ biến. Sự đối lập trong việc sử dụng thang độ (―chỉ
có‖ – giảm cấp, ―phần lớn‖ – nâng cấp) đã góp phần làm nổi bật mức độ nghiêm trọng
103
của cuộc khủng hoảng trong ngành khách sạn, giúp người đọc cảm nhận rõ ràng mức độ
đáng lo ngại của tình hình.
(79) Giáo viên vất vả gấp 3 - 4 lần, lịch dạy học xáo trộn, công việc phát sinh.
[T33]
Trong (79), thang độ thể hiện sự gia tăng về Số lượng nhằm nhấn mạnh mức độ vất vả của giáo viên. Cụ thể, các phương tiện ngôn ngữ thể hiện Số lượng được nâng cấp gồm ―gấp 3-4 lần‖, ―phát sinh‖. Tổ hợp từ “vất vả gấp 3 - 4 lần” là cách khuếch đại định lượng rất rõ ràng. Diễn đạt ―3 - 4 lần‖ không chỉ cho thấy giáo viên làm việc nhiều hơn bình thường mà còn cụ thể hóa mức độ gia tăng, giúp người đọc hình dung rõ hơn về sự quá tải. So sánh bằng con số làm tăng tính thuyết phục của vấn đề, nhấn mạnh rằng sự vất vả này không phải cảm tính mà có thể đo lường được. Không chỉ đề cập đến số lượng công việc tăng lên, mà còn nhấn mạnh sự thay đổi về cấu trúc công việc (“lịch dạy học xáo trộn”) và sự xuất hiện của những nhiệm vụ mới (“công việc phát sinh”). Điều này làm nổi bật sự gia tăng không chỉ về khối lượng công việc mà còn về tính chất phức tạp, khiến giáo viên phải liên tục thích nghi. Những cách diễn đạt này giúp làm rõ tình trạng quá tải của giáo viên, tạo hiệu ứng nhấn mạnh và thu hút sự đồng cảm từ người đọc.
(80) Đo đếm số ca lây nhiễm có thể vẫn có ích cho việc nghiên cứu và hoạch
định chiến lược, nhưng quả thực ít có ý nghĩa thực tiễn. [T14]
―Ít‖ là tính từ được sử dụng để đánh giá giảm cấp về Số lượng, có tác dụng
giảm nhẹ cho thẩm giá về Giá trị của việc đo đếm số ca lây nhiễm.
- Nguồn lực tu từ: các biện pháp thuộc nguồn lực tu từ được sử dụng để thể
hiện thang độ về đánh giá Số lượng gồm: biện pháp lặp, liệt kê, so sánh.
Xét một số ví dụ sau:
(81) Lịch sử đất nước này mãi mãi không quên ơn họ. Họ đã lăn xả vào nơi mà
lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang
di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run
sợ. Họ để lại sau lưng gia đình, cha mẹ, con cái và cả tình yêu đôi lứa nhiều tháng
trời không một chút toan tính, so đo. [T13]
Thang độ trong ví dụ (81) được thể hiện qua việc mở rộng số lượng bằng biện pháp lặp và liệt kê. Trong cụm “có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời”, việc lặp lại ―có thể‖ liên tiếp ba lần giúp khuếch đại số lượng nguy cơ mà họ phải đối mặt, từ nhẹ (“nhiễm bệnh”) đến nghiêm trọng (“chết”) và cả hậu quả lâu dài (“mang di chứng khôn lường suốt đời”). Sự lặp lại này không chỉ làm tăng cường độ của nguy hiểm mà còn mở rộng phạm vi hậu quả, nhấn mạnh mức độ hi
sinh lớn lao của họ. Còn trong cụm “không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ”, lặp “không ai” liên tiếp ba lần nhấn mạnh sự đồng lòng, kiên cường và tinh thần bất khuất của tất cả những người được nhắc đến. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng
104
biện pháp liệt kê để nhấn mạnh hơn nữa sự hi sinh, mất mát của những lực lượng
tuyến đầu chống dịch. Việc liệt kê các đối tượng như ―gia đình‖, ―cha mẹ‖, ―con
cái‖, ―tình yêu đôi lứa‖ mở rộng phạm vi hi sinh, nhấn mạnh họ đã từ bỏ rất nhiều điều thiêng liêng trong cuộc sống cá nhân. Cách viết này không chỉ làm tăng số lượng
yếu tố bị mất mát mà còn giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về sự hi sinh này. Như
vậy, biện pháp lặp và liệt kê trong ví dụ trên được sử dụng để gia tăng số lượng yếu tố
nguy hiểm, mở rộng phạm vi hi sinh và nhấn mạnh tinh thần bất khuất, làm nổi bật
mức độ to lớn của sự cống hiến, khiến người đọc cảm nhận rõ hơn về sự hi sinh của lực lượng tuyến đầu chống dịch.
(82) Rồi còn phải trở thành người học cùng con, chơi với con khi mà con trẻ có tới
9 tháng không được đến trường, không được đi chơi hè và thậm chí là có nhiều ngày dài
không được bước ra khỏi cửa! Toàn là những thực tế chúng ta chưa từng một lần tập
dượt để đối diện, thậm chí cũng chưa từng hình dung. [T20]
Người viết sử dụng biện pháp lặp, liệt kê trong (82) để thể hiện sự gia tăng Số
lượng, nhằm nhấn mạnh mức độ ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch đối với cuộc sống
của trẻ em và gia đình. Diễn đạt “không được đến trường, không được đi chơi hè và
thậm chí là có nhiều ngày dài không được bước ra khỏi cửa” sử dụng biện pháp lặp
―không được‖ ba lần liên tiếp nhấn mạnh mức độ gia tăng của sự thiếu hụt và mất
mát. Việc liệt kê theo trình tự tăng tiến (“không được đến trường” → “không được đi
chơi hè” → “không được bước ra khỏi cửa”) cho thấy mức độ giam cầm ngày càng
nghiêm trọng, từ giới hạn giáo dục, giải trí đến cả quyền tự do di chuyển cơ bản nhất.
Còn trong cụm “chúng ta chưa từng một lần tập dượt để đối diện, thậm chí cũng chưa
từng hình dung”, ―chưa từng‖ được lặp hai lần liên tiếp, nhấn mạnh rằng đây là một
thực tế hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ. Cách sắp xếp tăng cấp từ “chưa từng tập
dượt để đối diện” (chưa từng chuẩn bị) đến “chưa từng hình dung” (thậm chí chưa
nghĩ đến) cho thấy mức độ bất ngờ và bối rối khi phải đối mặt với tình huống này.
Biện pháp lặp, liệt kê được sử dụng để khuếch đại số lượng khó khăn, nhấn mạnh sự
tác động sâu rộng của đại dịch, sự thiếu chuẩn bị và mất mát giúp người đọc cảm nhận
rõ hơn về mức độ thay đổi lớn lao trong cuộc sống của trẻ em và gia đình.
(83) Không có gì quý bằng sức khỏe! [T30]
Phát ngôn (83) sử dụng cấu trúc so sánh nhất kết hợp với phủ định tuyệt đối để
nhấn mạnh tầm quan trọng của sức khỏe.
Báo Nhân dân
Thang độ Số lượng xuất hiện trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ
trên báo Nhân dân là 90 lần. Trong đó, Số lượng nâng cấp chiếm áp đảo với 74 lần,
còn giảm cấp chỉ xuất hiện có 16 lần. Tương tự như báo Tuổi trẻ, đánh giá thang độ Số
105
lượng trong các diễn ngôn bình luận thể hiện Thái độ trên báo Nhân dân cũng được
hiện thực hóa bằng 02 nguồn lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp và nguồn lực tu từ.
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp: Các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng
để thể hiện đánh giá Thang độ qua việc nâng/ giảm cấp Số lượng gồm: chỉ, chưa từng
có, có tới, đến, hàng loạt, hơn, mọi, một số, ngày càng nhiều, phần lớn, toàn bộ, chạm
đáy, gần, giảm, không ít, nhiều, rất nhiều, rất thấp, suốt nhiều tháng liên tiếp.
Xét một số ví dụ sau:
(84) Khi đợt dịch thứ tư bùng phát, lực lượng y tế cả nước đã làm việc với hơn
100% sức lực suốt nhiều tháng liên tiếp. [N10]
Để nhấn mạnh mức độ làm việc quá tải của lực lượng y tế, người viết đã sử dụng đánh giá thang độ về Số lượng qua các tổ hợp từ ―hơn 100%‖ và ―suốt nhiều
tháng liên tiếp‖. Cách diễn đạt ―hơn 100% sức lực‖ mang tính cường điệu nhằm nhấn
mạnh rằng lực lượng y tế đã làm việc vượt quá giới hạn thông thường, không chỉ sử
dụng toàn bộ sức lực mà còn dốc hết khả năng, thậm chí hơn cả mức tối đa. Điều này
giúp người đọc cảm nhận rõ sự kiệt quệ và nỗ lực phi thường của đội ngũ y tế trong
đại dịch. Tổ hợp từ ―suốt nhiều tháng‖ nhấn mạnh khoảng thời gian làm việc kéo dài,
không phải chỉ trong vài ngày hay vài tuần mà diễn ra trong nhiều tháng. Từ ―liên
tiếp‖ càng làm rõ tính liên tục, không có thời gian nghỉ ngơi, khiến mức độ quá tải trở
nên rõ ràng hơn. Cách viết đánh giá có sử dụng thang độ này giúp người viết nhấn
mạnh đánh giá tích cực về sự kiên trì của lực lượng y tế, đồng thời thể hiện thái độ đồng cảm đối với sự quá tải mà lực lượng y tế phải đối mặt trong đợt dịch thứ tư.
(85) Chính phủ đã cố gắng huy động mọi nguồn lực từ ngân sách nhà nước và
xã hội hóa để chi cho phòng, chống dịch Covid-19, bảo vệ sức khỏe nhân dân… [N1]
Trong (85), từ ―mọi‖ trong “mọi nguồn lực” mang ý nghĩa bao quát, nhấn
mạnh rằng không chỉ một phần, mà tất cả các nguồn lực có thể huy động đều được sử
dụng. Điều này giúp tạo cảm giác Chính phủ đã tận dụng tối đa tất cả các khả năng
hiện có. Bằng cách sử dụng thang độ về Số lượng, người viết đã tăng cấp đánh giá tích cực về sự kiên trì của Chính phủ trong công tác phòng, chống dịch Covid-19.
(86) Tuy nhiên, ngành du lịch cũng đối mặt với không ít khó khăn khi mở cửa trở lại. Dịch Covid-19 khiến hàng loạt doanh nghiệp du lịch bị giải thể hay ngừng hoạt động, nhất là các doanh nghiệp trong khối lữ hành và lưu trú. [N25]
Thang độ trong (86) được thể hiện qua việc gia tăng Số lượng, nhằm nhấn mạnh mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 đối với ngành du lịch. Tổ hợp từ ―không ít‖ là một dạng thang độ nhằm gia tăng Số lượng, giúp nhấn mạnh rằng ngành du lịch đang đối mặt với nhiều khó khăn. Tổ hợp từ ―hàng loạt‖ trong “hàng loạt doanh nghiệp du lịch” nhấn mạnh số lượng lớn các doanh nghiệp bị ảnh hưởng,
106
thay vì chỉ một vài trường hợp riêng lẻ. Điều này giúp người đọc hình dung rõ hơn về
tác động sâu rộng của đại dịch đối với toàn ngành du lịch. Việc sử dụng các tổ hợp từ
thể hiện thang độ này góp phần nhấn mạnh sự đánh giá về Cảm xúc không hạnh phúc của ngành du lịch trong thời điểm lúc bấy giờ.
- Nguồn lực tu từ được sử dụng để hiện thực hóa Thang độ trong tiểu loại Số
lượng là biện pháp liệt kê. Ví dụ:
(87) Theo khảo sát mới nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về đời
sống công nhân lao động năm 2021, 21% số người lao động phải ăn nhiều mì tôm hơn, 48% giảm lượng thịt hàng ngày, 22% chuyển mua sắm mỗi ngày sang thực phẩm
do người thân cung cấp, 15% gộp bữa ăn giảm chi phí, 60% tiết kiệm các khoản chi
tiêu, 11% phải vay mượn để chi tiêu, 0,3% phải vay lãi suất cao, tín dụng đen hoặc
báo bảo hiểm xã hội. [N5]
Trong ví dụ (87), Thang độ được thể hiện thông qua gia tăng số lượng và phạm vi ảnh hưởng, nhằm nhấn mạnh mức độ khó khăn của người lao động trong đời sống
năm 2021. Các con số thống kê cụ thể (21%, 48%, 22%, 15%, 60%, 11%, 0,3%) cho
thấy mức độ ảnh hưởng đến một tỉ lệ lớn người lao động. Bên cạnh đó, người viết còn
liệt kê nhiều thay đổi trong thói quen tiêu dùng của người lao động về ăn uống, mua
sắm, tiết kiệm, đi vay. Việc liệt kê nhiều hình thức thắt chặt chi tiêu khác nhau nhấn
mạnh rằng không chỉ một mà rất nhiều khía cạnh trong đời sống của người lao động bị
ảnh hưởng. Ngoài ra, người viết còn sử dụng kiểu câu có chứa từ so sánh để nâng cấp
cường độ và số lượng trong thang độ, làm nổi bật sự khó khăn gia tăng của người lao
động, đặc biệt là trong việc đảm bảo bữa ăn hằng ngày. Trong cụm “21% số người lao
động phải ăn nhiều mì tôm hơn”, từ “hơn” ở đây thể hiện rằng trước đây họ vẫn có thể
ăn các bữa ăn đầy đủ, có nhiều lựa chọn thực phẩm hơn, nhưng hiện tại phải ăn mì tôm
với tần suất cao hơn do điều kiện tài chính khó khăn. Cách nói này khuếch đại mức độ
giảm sút trong chất lượng bữa ăn, làm nổi bật sự thiếu thốn. Còn trong “48% giảm
lượng thịt hàng ngày”, sự so sánh được thể hiện qua từ ―giảm‖. Từ so sánh này làm
tăng mức độ tác động tiêu cực của khó khăn kinh tế đối với chế độ dinh dưỡng của người lao động. Có thể thấy, người viết sử dụng cách nâng cấp thang độ trong đánh giá
để nhấn mạnh những khó khăn, vất vả mà người dân phải trải qua trong thời kì dịch Covid-19. 2.5.2.2. Sự thể hiện thang độ của Cường độ trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Dựa vào kết quả quả nghiên cứu chung đã được trình bày trong mục 2.5.1. ở trên, có
thể thấy, Quá trình trong nhóm Cường độ có tần suất cao hơn Thuộc tính. Do đó, trong phần này, chúng tôi tập trung trình bày nguồn lực hiện thực hóa thang độ của Quá trình, còn sự thể hiện của thang độ của Thuộc tính sẽ được đề cập chi tiết trong phụ lục 3.
107
Báo Tuổi trẻ Đánh giá về thang độ Quá trình trong các diễn ngôn bình luận chứa Thái độ
trên báo Tuổi trẻ xuất hiện 174 lần, được hiện thực hóa bằng 02 nguồn lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp và nguồn lực tu từ.
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp:
+ Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng để thể hiện sự đánh giá nâng
cấp về Quá trình trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ gồm
các phương tiện ngôn ngữ sau: ấn tượng, bạc đầu, băn khoăn, lo lắng, bất bình, phẫn nộ, bất chấp, lo lắng, bi đát, bi thảm, bức xúc, căng thẳng, mạnh, rối ren, cay đắng, cơ
cực, đau đớn, đau xót, đảo lộn, công phu, đầy âu lo, đè nặng, đè oằn, đời đời bất diệt,
gập ghềnh, gian khó, khó khăn, hoang mang, khát khao, chật vật, khó quên, lăn xả,
mạnh mẽ, mong chờ, mong mỏi, một cách sáng tạo, mừng rỡ, nặng nề, nặng trĩu, nghẹt thở, nghiêm trọng, nhanh chóng, nhiều, chồng chất, nhọc nhằn, chật hẹp, bức bí, cừng nhắc, quen thuộc, quyết liệt, ráo riết, thích thú, mới mẻ, tăng chóng mặt, thấm
đẫm, thảm họa, trông đợi, trung tâm, ưa thích, vắt kiệt, vất vả, vui mừng ra mặt, vùng
vằng, rất, đáng, quá, khôn tả, luôn, mãi mãi, thật, không chỉ … mà còn, vừa phải…
vừa phải, càng … càng, dù … nhưng...
- Đánh giá giảm cấp về Quá trình được thể hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ
thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, bao gồm: khá, có thể, đôi khi, tạm, không mặn
mà, chưa một cách đầy đủ, không lớn, yếu đi, giảm sút, thưa dần, không đáng kể, ít
nhiều, phần nào, hơi, chỉ còn.
Xét một số ví dụ sau:
(88) Chúng ta có thể tạm hài lòng với những giải pháp hạ nhiệt đà tăng giá cả
như hỗ trợ tiền thuê nhà cho một số đối tượng người lao động, giảm thuế VAT, hỗ trợ
lãi suất một số đối tượng… [T42]
Thang độ trong (88) có tác dụng giảm cấp đánh giá mức độ hài lòng. Tổ hợp từ
“có thể tạm hài lòng” thể hiện một sự đánh giá giảm cấp về mức độ thỏa mãn của chủ
thể đánh giá (chúng ta). Nếu nói “Chúng ta hài lòng”, phát ngôn mang sắc thái tích cực, thể hiện sự thỏa mãn cao. Tuy nhiên, từ ―có thể‖ làm giảm mức độ khẳng định,
gợi ý rằng sự hài lòng này chưa chắc chắn. Từ ―tạm‖ tiếp tục hạ thấp mức độ hài lòng, cho thấy rằng sự thỏa mãn này chỉ mang tính chất nhất thời, không bền vững. Như vậy, “có thể tạm hài lòng‖ không phải là một sự công nhận tuyệt đối, mà chỉ là một sự hài lòng tạm thời, chưa trọn vẹn.
(89) Dù ai cũng mong con được đến trường nhưng khi ngày đến trường trước
mặt, băn khoăn, lo lắng vẫn ùa đến. [T30]
Tổ hợp từ ―băn khoăn, lo lắng vẫn ùa đến‖ trong (91) thể hiện sự gia tăng cảm
xúc khi ngày trở lại trường đến gần. ―Băn khoăn‖ mang sắc thái nhẹ hơn, thể hiện sự
108
suy nghĩ, đắn đo. ―Lo lắng‖ có cường độ mạnh hơn, diễn tả tâm trạng bất an rõ rệt
hơn. Đặc biệt, tổ hợp từ ―vẫn ùa đến‖ nhấn mạnh tính bất ngờ và cường độ cảm xúc,
như thể nỗi lo không thể kiểm soát và xuất hiện dồn dập. Có thể thấy sự gia tăng cảm
xúc: băn khoăn → lo lắng → cảm xúc ùa đến mạnh mẽ. Như vậy, trong (91), các từ
láy ―băn khoăn‖, ―lo lắng‖ và tổ hợp động từ ―ùa đến‖ không chỉ phản ánh trạng thái
cảm xúc bất an của các bậc phụ huynh khi đưa con em đến trường trong bối cảnh dịch
bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, mà còn góp phần thể hiện rõ mức độ tăng cường của
quá trình cảm xúc.
(90) Giá thép, ximăng trong nửa đầu tháng đã 3 lần tăng, nhà thầu xây dựng
càng làm càng lỗ. [T42]
Kết cấu càng…càng được dùng để hiện thực hóa đánh giá tăng cấp về Quá
trình buôn bán của các nhà thầu xây dựng. Kết cấu ―càng … càng‖ diễn tả mối quan
hệ tỉ lệ thuận giữa việc tiếp tục thi công và mức độ thua lỗ. Thay vì chỉ nói “nhà thầu
bị lỗ”, việc dùng ―càng làm càng lỗ‖ nhấn mạnh rằng tình trạng lỗ ngày càng gia tăng
theo thời gian, không có dấu hiệu dừng lại. Đây là một cách gia tăng mức độ tiêu cực,
nhấn mạnh rằng tình trạng lỗ không dừng lại ở một mức cố định mà ngày càng nghiêm
trọng hơn. Đánh giá tăng cấp Quá trình này có tác dụng nhấn mạnh phán xét về Khả
năng của nhà thầu xây dựng.
(91) Hãy làm gì đó cho họ, không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là
tình cảm, đạo lý, là lời tri ân thiết thực của chúng ta dành cho đội ngũ này. [T13]
Thang độ trong (91) được thể hiện qua sự mở rộng phạm vi và gia tăng cường
độ nhằm nhấn mạnh tính cấp thiết và ý nghĩa sâu sắc của hành động tri ân. Sự nâng
cấp thang độ Quá trình được thực hiện qua kết cấu “không chỉ…mà còn” nhằm tăng
cấp cho cảm xúc Mong muốn (nguyện vọng) của chủ thể cảm xúc (chúng ta). Kết cấu
―không chỉ... mà còn...‖ thể hiện sự mở rộng theo quá trình tăng tiến về lí do cần hành
động. Bắt đầu từ “nguyện vọng của nhân dân” (đây chỉ là mong muốn xuất phát từ một
nhóm người), tiếp theo, nâng cấp thành “tình cảm, đạo lí” (mở rộng từ mong muốn
đơn thuần lên đến phạm trù đạo đức, thể hiện nghĩa vụ cao hơn), cuối cùng, đẩy lên
mức cao nhất “lời tri ân thiết thực” (không chỉ là cảm xúc hay đạo lý mà cần có hành
động cụ thể, thực tế). Nếu chỉ dừng ở “tình cảm, đạo lí”, phát ngôn có thể chỉ mang ý
nghĩa tinh thần, nhưng khi thêm “lời tri ân thiết thực”, phát ngôn nhấn mạnh rằng quá
trình tri ân cần được cụ thể hóa bằng hành động chứ không chỉ là suy nghĩ hay lời nói.
Có thể nói, sử dụng kết cấu ―không chỉ … mà còn…‖ giúp nhấn mạnh tính cấp thiết
của việc không chỉ dừng ở lời nói mà phải hành động, khiến đề nghị trở nên thuyết
phục hơn và mang tính thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
109
- Nguồn lực tu từ: các biện pháp tu từ thuộc nguồn lực tu từ được dùng để hiện
thực hóa Thang độ của tiểu loại Quá trình trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái
độ trên báo Tuổi trẻ gồm: biện pháp lặp, liệt kê. Ví dụ:
(92) Trong tình hình "nước sôi lửa bỏng" của đất nước những tháng ngày
chống dịch, lòng tham của kẻ điều hành doanh nghiệp đáng bị lên án một thì sự trục
lợi của những kẻ khoác áo công bộc phải bị lên án mười. [T11]
Thang độ trong (92) được thể hiện qua biện pháp lặp nhằm gia tăng mức độ
phán xét về Đạo đức (-). ―Lên án‖ được lặp lại nhằm nhấn mạnh sự phê phán mạnh
mẽ đối với hai nhóm đối tượng: kẻ điều hành doanh nghiệp tham lam (mức độ “một”),
những kẻ trục lợi trong bộ máy nhà nước (mức độ “mười”). Cách lặp này giúp làm nổi
bật sự khác biệt về mức độ trách nhiệm và mức độ đáng bị lên án của hai nhóm người.
Cách diễn đạt: “đáng bị lên án một” → “phải bị lên án mười” thể hiện mức độ lên án
không chỉ tăng lên, mà còn được cường điệu gấp 10 lần, cho thấy mức độ phẫn nộ cực
độ của chủ thể đánh giá đối với hành vi trục lợi của những người làm trong bộ máy
nhà nước. Cấu trúc “một” và “mười” không chỉ lặp về mặt từ ngữ mà còn lặp về logic,
tạo ra một thang đo cảm xúc rất rõ ràng, khiến người đọc cảm nhận rõ sự bất công và
mức độ nghiêm trọng của hành vi này. Nhờ cách diễn đạt đó, phát ngôn không chỉ thể
hiện thái độ phê phán mạnh mẽ mà còn hướng sự chú ý của người đọc vào mức độ bất
công và đáng lên án của sự việc.
(93) Ví như trân quý với những giáo viên đã trở lại với nghề, trân quý những
phụ huynh vẫn tin tưởng trường, trân quý một ngày bình thường khi cánh cổng trường
được mở ra để đón trẻ… [T36]
Biện pháp lặp (trân quý) được dùng để đánh giá tăng cấp cho các Phản ứng tích
cực của mọi người đối với những điều bình thường sau dịch Covid-19. ―Trân quý‖
được lặp lại ba lần, đứng trước ba đối tượng khác nhau: giáo viên đã trở lại với nghề
⟶ nhấn mạnh sự biết ơn đối với những người đã kiên trì gắn bó với sự nghiệp giáo
dục dù có nhiều khó khăn; phụ huynh vẫn tin tưởng trường ⟶ nhấn mạnh sự ghi nhận
đối với lòng tin của phụ huynh trong bối cảnh giáo dục gặp nhiều thử thách; một ngày
bình thường khi cánh cổng trường mở ra đón trẻ ⟶ nhấn mạnh giá trị của những điều
tưởng chừng nhỏ bé nhưng rất đáng quý sau khoảng thời gian khó khăn. Sự lặp lại liên
tiếp của ―trân quý‖ giúp gia tăng mức độ nhấn mạnh, tạo nên một thang độ cảm xúc
tăng tiến của chủ thể.
Báo Nhân dân
Đánh giá thang độ Quá trình trong các diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ
trên báo Nhân dân có tần suất 112 lần. Quá trình được hiện thực hóa qua 02 nguồn
lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp và nguồn lực tu từ.
110
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp:
Các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng
để thể hiện thang độ trong tiểu loại Quá trình gồm: bấn loạn, hốt hoảng, bát nháo, hỗn loạn, bất thường, bùng nổ, bứt tốc, chậm, cơ bản, đặc biệt, gánh nặng, hoàn toàn,
không ngừng nghỉ, không nhỏ, kịp thời, lớn, mạnh, mạnh mẽ, nặng nề, nghiêm trọng,
quyết liệt, sâu sắc, tràn đầy, tuyệt vời, vô tội vạ, vội vã, hối hả, khẩn trương, càng,
đáng, hết sức, khá, luôn, một chút, phần nào, quá, rất, thái quá, không chỉ…mà còn,
vừa phải…vừa phải, càng…càng…
Ví dụ:
(94) Thực tế nêu trên cho thấy, dịch bệnh tại Hà Nội đang diễn biến hết sức
phức tạp và khó lường. [N11]
Người viết nhận định dịch bệnh diễn biến phức tạp. ―Hết sức‖ đã góp phần nhấn mạnh nhận định này. ―Hết sức‖ là một phó từ chỉ mức độ cao nhất, có tác dụng cường điệu hóa mức độ phức tạp và khó lường của dịch bệnh. Nó giúp tăng cường
mức độ cảnh báo, đồng thời gây ấn tượng mạnh, tác động đến cảm xúc của người đọc,
khiến người đọc cảm nhận được mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh.
(95) Việc học trực tuyến kéo dài đã tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe thể chất và tâm sinh lý của học sinh, nhất là với lứa tuổi thanh
thiếu niên. [N34]
Trong (95), các từ ―mạnh mẽ‖ và ―nghiêm trọng‖ là phương tiện thể hiện
thang độ trong đánh giá, tăng cấp thêm cho nhận định về Giá trị tiêu cực của việc học
trực tuyến trong thời gian dài. ―Mạnh mẽ‖ nhấn mạnh cường độ tác động ở mức cao,
cho thấy ảnh hưởng của việc học trực tuyến không hề nhỏ mà mang tính sâu rộng và
đáng kể. ―Nghiêm trọng‖ diễn tả mức độ ảnh hưởng ở ngưỡng tiêu cực cao, cho thấy
tác động tiêu cực của việc học trực tuyến kéo dài không thể xem nhẹ. Cả hai từ này
đều có tác dụng tăng cấp, làm nổi bật mức độ ảnh hưởng mà học sinh phải chịu đựng,
đồng thời, tạo cảm giác khẩn cấp, tác động đến nhận thức và cảm xúc, khiến người đọc
quan tâm hơn đến vấn đề này, thuyết phục người đọc về mức độ ảnh hưởng, từ đó có thể thúc đẩy hành động hoặc tìm kiếm giải pháp phù hợp.
(96) Thực tế, ngoài áp lực về thời gian lên lớp trực tuyến, giáo viên vừa phải thiết kế bài giảng khác với bình thường sao cho ngắn gọn, dễ hiểu, vừa phải quay video, hướng dẫn học sinh làm bài, kết nối với phụ huynh, thậm chí là hướng dẫn cả thao tác sử dụng máy tính… [N30]
Trong thời điểm nước ta mới chuyển sang hình thức dạy học trực tuyến, giáo
viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc giảng dạy. Kết cấu ―vừa phải…vừa phải‖ thể
hiện rằng giáo viên không chỉ làm một nhiệm vụ mà còn phải đảm nhận nhiều công
việc cùng lúc. Kết cấu này giúp tạo ra cảm giác chồng chất áp lực, bởi mỗi vế câu đều
111
thêm vào một trách nhiệm mới mà giáo viên phải gánh vác. Như vậy, kết cấu ―vừa
phải…vừa phải‖ được dùng để hiện thực hóa đánh giá Quá trình nâng cấp, có tác
dụng nhấn mạnh mức độ áp lực và sự gia tăng khối lượng công việc của giáo viên, từ
đó làm nổi bật cảm giác căng thẳng, quá tải và những cảm xúc không mong muốn mà
họ phải trải qua.
- Nguồn lực tu từ dùng để thể hiện thang độ trong tiểu loại Quá trình ở các diễn
ngôn bình luận chứa Thái độ trên báo Nhân dân được cụ thể qua các biện pháp lặp, liệt
kê. Ví dụ:
(97) Với sự vào cuộc mạnh mẽ, chủ động, tích cực của chính quyền các địa
phương, ngành du lịch và sự đồng hành của các doanh nghiệp, sự chung tay góp sức của
các bộ, ngành liên quan, chắc chắn năm mới 2022 các cơ hội mới sẽ mở ra để ngành du
lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và lấy lại đà tăng trưởng. [N21]
Trong (97), chủ thể đánh giá (người viết, ẩn) đề cao sự kiên trì, nỗ lực của
chính quyền và các bên liên quan trong việc phục hồi lại ngành du lịch. Đánh giá tích
cực về Kiên trì này còn được nhấn mạnh, tăng cấp hơn nữa nhờ đánh giá Thang độ
nâng cấp Quá trình. Sự đánh giá nâng cấp Quá trình trong ví dụ này được hiện thực
hóa bằng biện pháp liệt kê: “mạnh mẽ, chủ động, tích cực‖. Các từ này có tác dụng
nhấn mạnh mức độ quyết liệt và hiệu quả trong sự tham gia của chính quyền địa
phương và các bên liên quan.
(98) Hai năm qua, đất nước ta đã vượt qua chặng đường phòng, chống đại dịch
Covid-19 với khó khăn chồng chất khó khăn… [N1]
Trong ví dụ (98), chủ thể (người viết) vừa tán thưởng Khả năng, sự Kiên trì của
nước ta khi ―vượt qua‖ được đại dịch, vừa thể hiện cảm xúc không Hạnh phúc (khó
khăn) khi phải gánh chịu những tổn thương do đại dịch gây ra. Những Thái độ này
được nhấn mạnh hơn nữa thông qua đánh giá thang độ nâng cấp Quá trình. Sự nâng
cấp Quá trình được hiện thực hóa bằng biện pháp lặp: “khó khăn chồng chất khó
khăn‖. Sử dụng biện pháp lặp để nhấn mạnh mức độ gian nan của quá trình chống
dịch, không chỉ đơn thuần là khó khăn mà còn ngày càng chồng chất, đan xen, tạo cảm
giác nặng nề hơn, từ đó gợi lên sự kiên cường, nỗ lực bền bỉ của đất nước khi phải
vượt qua những thử thách liên tục.
* Nhận xét
Sự thể hiện Thang độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân có một số điểm tương đồng và khác biệt sau:
- Điểm tương đồng: theo khảo sát của chúng tôi, trong khối ngữ liệu ở hai báo
đều xuất hiện tất cả các nhóm trong hệ thống Thang độ. Trong đó, Lực có tần suất và
112
số lượng chiếm áp đảo so với Tiêu điểm; đánh giá nâng cấp có tần suất cao hơn rất
nhiều so với đánh giá giảm cấp. Hệ thống Thang độ ở hai báo đều được hiện thực hóa
qua 02 nguồn lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp (các từ, tổ hợp từ và kết cấu câu) và
nguồn lực tu từ (biện pháp lặp, liệt kê và so sánh). Trong đó, nguồn lực từ vựng – ngữ
pháp được sử dụng nhiều hơn nguồn lực tu từ
- Điểm khác biệt: chúng tôi không ghi nhận được nhiều điểm khác biệt trong
việc hiện thực hóa Thang độ ở hai báo, chỉ xuất hiện một điểm khác biệt: báo Tuổi trẻ
có số lượng các phương tiện hiện thực hóa Thang độ nhiều hơn báo Nhân dân.
2.6. Đặc trƣng ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo chí
Như đã phân tích ở các phần trên, mặc dù đặc điểm NNĐG trong báo Tuổi Trẻ
và Nhân Dân có những khác biệt nhất định, song về cơ bản vẫn tồn tại một số điểm
tương đồng. Cả hai tờ báo đều thể hiện rõ các đặc trưng của NNĐG trong diễn ngôn
bình luận báo chí.
Để thấy rõ đặc trưng của NNĐG thể hiện Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo
chí, chúng tôi tiến hành so sánh kết quả nghiên cứu về NNĐG trong thể loại bình luận
báo chí và trong thể loại khoa học (dựa trên kết quả nghiên cứu của Nguyễn Bích
Hồng: “Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ đánh giá trong tiếng Anh và tiếng Việt trên cứ
liệu bài tạp chí chuyên ngành Ngôn ngữ học” [52]). Chúng tôi so sánh hai thể loại báo
chí và khoa học trên các phương diện sau: mục đích, tính khách quan – chủ quan, sự
tác động của bối cảnh xã hội, chủ thể đánh giá, các tiểu hệ thống Thái độ, nguồn lực
ngôn ngữ thể hiện Thái độ.
(1) Mục đích của thể loại
Mục đích của diễn ngôn bình luận báo chí là tác động đến dư luận, định hướng
cách nhìn nhận của công chúng về một vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa… Tác
giả có thể bày tỏ quan điểm (của mình hoặc tờ báo) rõ ràng về một sự kiện, vấn đề xã
hội nhằm tạo ảnh hưởng, kêu gọi hành động hoặc dẫn dắt người đọc theo một hướng
nhận thức nhất định. Trong khi đó, diễn ngôn khoa học chủ yếu tập trung vào việc
trình bày thông tin và giải thích hiện tượng trên cơ sở thực nghiệm, hạn chế sự can
thiệp của cảm xúc cá nhân.
(2) Tính khách quan – chủ quan
Trong diễn ngôn bình luận báo chí, mặc dù cố gắng giữ tính khách quan nhưng
tính chủ quan vẫn thể hiện khá rõ rệt, vì tác giả có thể sử dụng lập trường cá nhân hoặc
đại diện cho quan điểm của cơ quan truyền thông. Đánh giá chủ quan này có thể bị ảnh
hưởng bởi lập trường chính trị, xã hội. Do đó, cùng một sự kiện, tùy vào quan điểm
của từng tờ báo mà cách đánh giá có thể khác nhau. Ngược lại, diễn ngôn khoa học đề
113
cao tính khách quan, không để ý kiến cá nhân chi phối mà dựa trên dữ liệu nghiên cứu
để đưa ra kết luận.
(3) Sự tác động của bối cảnh xã hội Diễn ngôn bình luận báo chí chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh chính trị,
kinh tế và văn hóa xã hội. Những sự kiện nóng, xu hướng dư luận và quan điểm của cơ
quan báo chí có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cách đánh giá của bài viết. Do đó, trong
nhiều trường hợp, báo chí có thể có những góc nhìn khác nhau về cùng một vấn đề, tùy thuộc vào mục đích và đối tượng độc giả mà họ hướng đến. Trái lại, diễn ngôn
khoa học ít chịu sự chi phối của các yếu tố xã hội, dù vẫn có những tác động nhất định
từ xu hướng nghiên cứu đương thời.
(4) Chủ thể đánh giá
Chủ thể đánh giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân Khảo sát hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi nhận thấy chủ thể đánh giá có thể là tác giả (người viết) hoặc phi tác giả (các đối tượng khác trong bài viết, không phải tác giả). Tỉ lệ của các nhóm chủ thể đánh giá ở báo Tuổi trẻ và Nhân dân được trình bày trong bảng 2.12 dưới đây.
Bảng 2.12. Kết quả khảo sát chủ thể đánh giá trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Tuổi trẻ Nhân dân Chủ thể
153 193 185 26 Tác giả Phi tác giả 141 120 175 40 150 35 204 29 513 259
Cảm xúc Phán xét Thẩm giá Tổng Cảm xúc Phán xét Thẩm giá Tổng 495 184 (Đơn vị tính: lần) Ở cả hai báo, chủ thể đánh giá là tác giả xuất hiện nhiều hơn chủ thể phi tác giả. Kết quả này lần nữa khẳng định bình luận chính là thể loại phù hợp nhất để thể hiện quan điểm, thái độ, chính kiến của người viết báo, của tờ báo.
Ngoài ra, qua các phân tích ví dụ trong 3 tiểu hệ thống Thái độ ở báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi nhận ra khi chủ thể đánh giá là tác giả thì trong diễn ngôn đánh giá, hình ảnh chủ thể bị ẩn đi, chỉ có đối tượng được/ bị đánh giá và nội dung đánh giá xuất hiện. Điều đó giúp người viết kéo gần khoảng cách của họ với đối tượng trong bài viết, với độc giả; giúp quan điểm của họ mang tính khách quan cao hơn. Hơn nữa, cách ẩn chủ thể này cũng giúp người viết thể hiện quan điểm, thái độ của mình một cách an toàn. Đây được coi là một chiến lược trong bình luận.
(99) Việc cho phép các thương nhân không đủ năng lực tham gia thị trường đã
―làm rầu‖ thị trường xăng dầu. [T38]
(100) Vì lợi nhuận, một số cửa hàng đã bất chấp các quy định, vin đủ lí do để găm
hàng, đầu cơ, tích trữ, tạo khan hiếm nhằm kiếm lợi bất chính. [N43]
114
Ví dụ (99) và (100) thể hiện thái độ phán xét tiêu cực của chủ thể đánh giá (ẩn)
về khả năng của một số thương nhân tham gia kinh doanh xăng dầu nhưng không đủ
năng lực (99) và đạo đức của một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu (100).
Mặc dù chủ thể đánh giá ở hai báo đều là tác giả chiếm tỉ lệ cao hơn, nhưng
cách thể hiện hình ảnh chủ thể tác giả ở hai báo lại không tương đồng với nhau. Trong
khối ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát, ở báo Nhân dân, trong các diễn ngôn đánh giá mà
chủ thể là tác giả (495 lần) thì hình ảnh chủ thể tác giả chỉ xuất hiện 7 lần (chúng ta,
đất nước ta, chúng tôi), ở các đánh giá còn lại thì hình ảnh chủ thể là tác giả bị ẩn đi; ở báo Tuổi trẻ, hình ảnh chủ thể là tác giả xuất hiện 55 lần/ 513 lần (tôi, chúng tôi,
chúng ta), các đánh giá còn lại thì hình ảnh chủ thể bị ẩn đi. Điều này lần nữa khẳng
định các tác giả báo Tuổi trẻ thể hiện quan điểm và tính chủ quan của mình trong bài
viết nhiều hơn các tác giả báo Nhân dân.
Từ kết quả phân tích trên, chúng tôi rút ra một số kết luận về chủ thể đánh giá
trong diễn ngôn bình luận báo chí:
+ Trong bình luận báo chí, chủ thể đánh giá gồm hai loại: tác giả (người viết
bình luận) và phi tác giả (các đối tượng được nhắc đến trong bài bình luận).
+ Chủ thể đánh giá trong báo chí thường bày tỏ thái độ một cách trực tiếp.
Người viết có thể dùng từ ngữ mạnh, cảm xúc hoặc sử dụng biện pháp tu từ để làm rõ
quan điểm.
+ Chủ thể đánh giá có thể xuất hiện trực tiếp (tôi, chúng tôi…) hoặc ẩn đi để tạo
cảm giác khách quan hơn, mặc dù bài viết vẫn mang quan điểm định hướng.
Trong khi đó, diễn ngôn khoa học hạn chế sự xuất hiện của chủ thể đánh giá,
chủ yếu sử dụng cách diễn đạt khách quan, mang tính tập thể và dựa trên bằng chứng.
(5) Các tiểu hệ thống Thái độ
Hệ thống Thái độ gồm 3 tiểu hệ thống Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá. Chúng
đều xuất hiện trong hai loại diễn ngôn. Tuy nhiên, giữa diễn ngôn bình luận báo chí và
diễn ngôn khoa học có sự khác biệt lớn về mức độ sử dụng, phạm vi và cách thể hiện
hệ thống Thái độ.
Trong diễn ngôn bình luận báo chí, Cảm xúc có tần suất cao nhất, tiếp đó là Phán xét và Thẩm giá có tần suất tương đương nhau. Còn trong diễn ngôn khoa học, Thẩm giá được sử dụng nhiều nhất, sau đó là Phán xét và cuối cùng là Cảm xúc. Sự khác biệt này bắt nguồn từ đặc trưng thể loại của từng diễn ngôn.
- Tiểu hệ thống Cảm xúc: diễn ngôn bình luận báo chí có thể sử dụng nhiều các
từ ngữ mang sắc thái cảm xúc mạnh để tác động đến người đọc. Người viết bình luận
có thể bày tỏ sự hài lòng, thất vọng, phẫn nộ, vui mừng hoặc những trạng thái tình cảm
khác để thu hút sự quan tâm của dư luận.
115
- Tiểu hệ thống Phán xét: bình luận báo chí thường phán xét về nhân vật, tổ
chức hoặc chính sách dựa trên chuẩn mực đạo đức hoặc hiệu quả thực tiễn. Mục đích
của việc phán xét là để giúp người đọc nhìn rõ thực trạng từ đó định hướng dư luận.
- Tiểu hệ thống Thẩm giá: bình luận báo chí đánh giá theo góc nhìn chủ quan.
Người viết có thể sử dụng các từ ngữ mang tính thẩm mĩ để khen ngợi hoặc chỉ trích
một sự kiện, bài phát biểu, giá trị của một chính sách...
Trong khi đó, diễn ngôn khoa học sử dụng chủ yếu hệ thống Thẩm giá với các
tiêu chí khách quan như tính hiệu quả, độ chính xác, khả năng ứng dụng, hạn chế tối
đa cảm xúc cá nhân và sự phán xét đối với cá nhân khác.
(6) Phương tiện ngôn ngữ thể hiện Thái độ
- Sử dụng từ ngữ mang sắc thái đánh giá: diễn ngôn bình luận báo chí sử dụng
từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, có thể mang tính cường điệu để thu hút sự chú ý của
độc giả. Người viết bình luận thường sử dụng danh từ, tính từ, động từ mạnh (ráo riết,
băn khoăn, lo lắng…) để thể hiện thái độ rõ ràng. Các từ mang sắc thái tích cực hoặc
tiêu cực thường được dùng để nhấn mạnh quan điểm.
- Cấu trúc câu thể hiện đánh giá: người viết diễn ngôn bình luận báo chí thường
sử dụng câu khẳng định trực tiếp, câu hỏi tu từ để thể hiện đánh giá.
- Biện pháp tu từ thể hiện đánh giá: diễn ngôn bình luận báo chí sử dụng nhiều
biện pháp tu từ như so sánh, lặp, liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ trong việc truyền tải ý nghĩa
tăng/ giảm cường độ Thái độ.
Ngược lại, diễn ngôn khoa học sử dụng từ ngữ trung lập, tránh biểu cảm cá
nhân, thường viết dưới dạng câu bị động để giữ tính khách quan.
Như vậy, có thể thấy NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí được sử dụng
để thể hiện quan điểm của nhà báo/ tờ báo, tác động đến dư luận, định hướng và thuyết
phục dư luận.
Chúng tôi đã tiến hành phân tích một diễn ngôn bình luận để làm rõ đặc trưng
của diễn ngôn bình luận báo chí.
Sử dụng lí thuyết ngôn ngữ đánh giá và lí thuyết thể loại theo trường phái
Sydney, chúng tôi tiến hành phân tích bài bình luận “Cùng gỡ “nút thắt” đưa trẻ đến
trường” trên báo Tuổi trẻ, ngày 14/2/2022 như sau:
Tuổi trẻ, 14/2/2022
CÙNG GỠ “NÚT THẮT” ĐƢA TRẺ ĐẾN TRƢỜNG
“Nút thắt lớn nhất của ngành giáo dục, và có lẽ cũng là của nhiều gia đình, chính thức được gỡ
từ hôm nay (14-2) khi hàng triệu học sinh mầm non, tiểu học, lớp 6 của TP.HCM và nhiều địa phương
trong cả nước trở lại trường sau nhiều tháng liền học ở nhà vì dịch COVID-19 (1). Tuy nhiên, nút thắt
lớn nhất được gỡ lại mở ra nhiều nút thắt khác... (2)
116
"Đi học liệu có an toàn không? Lỡ trong lớp có F0 thì sao? Người lớn đi làm, tham gia các
hoạt động cộng đồng được vì đã tiêm vắc xin, còn trẻ em đã được tiêm đâu mà "bình thường mới"?
Lâu nay học ở nhà thoải mái quen rồi, giờ tới trường với khuôn phép, kỷ luật liệu trẻ có chịu được
không?" (3)... Hàng loạt câu hỏi được đặt ra (4). Mỗi câu hỏi là một nút thắt (5).
Đó là chưa kể băn khoăn, dự cảm đầy âu lo của nhiều người: Liệu cổng trường có được mở lại
bền vững không, hay mở xong rồi đóng lại vì tình hình dịch COVID-19 vẫn chưa biết sẽ như thế nào? (6)
Băn khoăn, lo lắng, thận trọng là đúng (7)! Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành
phố nai lưng ra chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, "trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược", vì phải đối phó với những tình huống bất định, chưa từng có tiền lệ (8).
Trong một góc độ nào đó, cũng có thể ví đợt học sinh trở lại trường lần này giống như "làn
sóng thứ 4" mà phần nổi là nỗi lo về an toàn trường học, còn tảng băng chìm là vô vàn vấn đề từ việc
tổ chức dạy và học, chất lượng chuyên môn đến công tác nhân sự, nhất là việc thiếu hụt giáo viên, bảo
mẫu mầm non, tiểu học... (9)
Có những nỗi lo thuộc về tâm lý bình thường của con người, nhưng cũng có những nỗi lo xuất
phát từ những bất định, dự cảm về những điều chưa xảy ra và cũng không biết sẽ xảy ra theo chiều
hướng nào, như thế nào. (10)
Cố tổng thống Mỹ Abraham Lincoln có câu nói nổi tiếng: "Cách tốt nhất để dự báo tương lai
là hãy tạo ra nó" (11). Chúng ta có thể chưa biết điều gì sẽ xảy ra khi học sinh trở lại trường nhưng
chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát được thái độ, cách hành xử với những gì sẽ xảy ra. (12)
Thái độ, cách hành xử đó là sự bình tĩnh, sự chấp nhận, sự hợp tác với nhà trường, với ngành
y tế để cùng đưa trẻ trở lại trường an toàn (13). Có thể sẽ có những học sinh là F0 nhưng thay vì đưa
nhà trường, thầy cô "lên sóng" trên mạng xã hội, cha mẹ sẽ điềm tĩnh cùng với nhà trường "xử lý
khủng hoảng". (14)
"Thay vì ngồi nguyền rủa bóng tối thì hãy cùng thắp lên một que diêm" là như vậy (15). Que
diêm đó là niềm tin của phụ huynh, của xã hội vào ngành giáo dục; là sự chung tay của toàn xã hội,
không để ngành giáo dục đơn độc trong cuộc chiến chống lại các nút thắt khi trẻ trở lại trường. (16)
Que diêm đó cũng chính là mong mỏi của ngành giáo dục, mà người đứng đầu, Bộ trưởng
Nguyễn Kim Sơn, đã gửi gắm trong thông điệp đầu năm mới ông đưa lên trang cá nhân của
mình: "Với ngành giáo dục, quãng thời gian đóng cửa trường học dài đằng đẵng vừa qua như một mùa
đông u ám. Xuân đã sang, có một thứ cần khai mở, dứt khoát cần khai mở, đó là cổng trường học, để
thầy cô đón học sinh tới trường học trực tiếp. Mong mọi điều tốt lành sẽ tới trong xuân này, mong
xuân bình an, xuân tốt lành. Tất cả mọi người cùng chung tay cho một sự khai mở vô cùng cần thiết
này của mùa xuân".” (17)
Nhật Huy
(1) Phân tích theo lí thuyết thể loại theo trƣờng phái Sydney
- Bối cảnh văn hóa: diễn ngôn phản ánh một vấn đề xã hội lớn trong bối cảnh
hậu đại dịch Covid-19, khi học sinh trên cả nước, đặc biệt tại TP.HCM, quay trở lại
trường sau thời gian dài học trực tuyến. Bối cảnh văn hóa ở đây bao gồm:
+ Những lo ngại của phụ huynh, giáo viên và xã hội: an toàn cho trẻ, tính bền
vững của việc mở lại trường học, và những hệ lụy tâm lí, giáo dục.
117
+ Sự kì vọng và trách nhiệm chung: diễn ngôn nhấn mạnh tinh thần hợp tác
giữa phụ huynh, nhà trường, ngành y tế và toàn xã hội để vượt qua khó khăn.
- Cấu trúc thể loại:
+ Mở đầu: câu (1)-(2) giới thiệu “nút thắt lớn nhất” được gỡ bỏ – học sinh quay
lại trường – nhưng đồng thời mở ra những lo lắng và thách thức mới. Đây là cách thu
hút sự chú ý của người đọc, đồng thời đặt vấn đề.
+ Bàn luận: câu (3)-(10) liệt kê những lo ngại của phụ huynh, giáo viên và xã
hội: lo ngại về an toàn sức khỏe của học sinh (F0 trong lớp học); tâm lí của trẻ và phụ
huynh sau thời gian dài học trực tuyến; các vấn đề tổ chức dạy học, nhân sự và chất
lượng giáo dục.
+ Kết luận: câu (11)-(17) đề xuất giải pháp và thái độ cần thiết.
Diễn ngôn kết thúc bằng lời kêu gọi hành động: sự hợp tác của phụ huynh với nhà
trường; niềm tin vào ngành giáo dục và trách nhiệm chung của xã hội; trích dẫn thông
điệp đầu năm của Bộ trưởng Giáo dục như một lời nhấn mạnh mang tính khích lệ.
- Mục đích: bài bình luận có mục đích định hướng dư luận về việc học sinh trở
lại trường sau đại dịch, nhấn mạnh sự cần thiết của việc mở cửa trường học, đồng thời
kêu gọi sự hợp tác giữa phụ huynh, giáo viên và toàn xã hội. Diễn ngôn cũng nhằm
củng cố niềm tin, khuyến khích tinh thần trách nhiệm và đoàn kết để đảm bảo quá
trình này diễn ra an toàn, hiệu quả.
- Tính chủ quan và đánh giá trong diễn ngôn bình luận:
+ Tính chủ quan trong diễn ngôn được thể hiện qua các yếu tố sau: (1) Quan
điểm cá nhân và định hướng dư luận: bài viết không chỉ trình bày sự kiện mà còn thể
hiện quan điểm của tác giả về việc học sinh trở lại trường là cần thiết và nên được ủng
hộ; (2) Cách dùng từ nhấn mạnh cảm xúc: các tổ hợp từ như ―băn khoăn, lo lắng, thận
trọng là đúng‖, ―một sự khai mở vô cùng cần thiết‖… thể hiện rõ cảm xúc và quan
điểm cá nhân của tác giả; (3) So sánh và ẩn dụ mang tính định hướng: việc so sánh
“đợt học sinh trở lại trường giống như làn sóng thứ 4” nhằm nhấn mạnh tính quan
trọng và khó khăn của vấn đề.
+ Sự đánh giá trong diễn ngôn được thể hiện rõ qua các phạm trù Thái độ và
Thang độ.
(2) Phân tích đánh giá Thái độ trong diễn ngôn theo lí thuyết ngôn ngữ đánh giá Trong diễn ngôn bình luận trên, tiểu hệ thống Cảm xúc được thể hiện qua các phát ngôn (3, 4, 5, 6, 7, 9, 10, 17), Phán xét được thể hiện trong các phát ngôn (7, 8,
12). Thẩm giá chỉ xuất hiện một lần trong phát ngôn (8). Trong các phần trước, chúng tôi đã phân tích tách rời từng tiểu hệ thống Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá để làm rõ sự thể hiện của từng loại. Tuy nhiên, ở phần này, thay vì phân tích riêng rẽ từng tiểu hệ
118
thống, chúng tôi sẽ phân tích kết hợp chúng. Lí do: trong hệ thống Thái độ, các tiểu hệ
thống Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá không tồn tại độc lập mà thường xuyên tương
tác với nhau, tạo ra một lập trường và chiến lược ngôn ngữ phức tạp. Việc phân tích kết hợp mang lại cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về cách tác giả thể hiện thái độ
và lập trường trong giao tiếp, đồng thời giúp làm nổi bật mục đích thuyết phục và
tương tác với người đọc.
"Đi học liệu có an toàn không? Lỡ trong lớp có F0 thì sao? Người lớn đi làm, tham gia các hoạt động cộng đồng được vì đã tiêm vắc xin, còn trẻ em đã được tiêm đâu mà "bình thường mới"? Lâu nay học ở nhà thoải mái quen rồi, giờ tới trường với khuôn phép, kỷ luật liệu trẻ có chịu được không?" (3)... Hàng loạt câu hỏi được đặt ra (4). Mỗi câu hỏi là một nút thắt (5).
Trong đoạn văn (3, 4, 5), cảm xúc chính là bất an. Cảm xúc này được thể hiện
chủ yếu qua góc nhìn của phụ huynh (chủ thể cảm xúc), những người mang nỗi lo lắng sâu sắc về sức khỏe và sự thích nghi của con em khi trở lại trường. Cảm xúc này được
thể hiện qua một loạt câu hỏi dồn dập: ―Đi học liệu có an toàn không? Lỡ trong lớp có
F0 thì sao?‖, phương tiện ngôn ngữ được sử dụng là các từ ―liệu, lỡ‖ có tác dụng
nhấn mạnh sự hoài nghi, lo lắng. Thang độ của cảm xúc cũng được đẩy cao hơn khi
xuất hiện sự so sánh giữa trẻ em và người lớn: ―Người lớn đi làm, tham gia các hoạt
động cộng đồng được vì đã tiêm vắc xin, còn trẻ em đã được tiêm đâu mà ‗bình
thường mới‘?‖. Điều này không chỉ thể hiện nỗi sợ về nguy cơ dịch bệnh mà còn làm nổi bật cảm giác thiếu công bằng, khiến sự bất an càng trở nên rõ nét hơn. Bên cạnh
đó, cảm xúc lo lắng về khả năng thích nghi của trẻ cũng được nhấn mạnh qua câu hỏi:
―Lâu nay học ở nhà thoải mái quen rồi, giờ tới trường với khuôn phép, kỷ luật liệu trẻ
có chịu được không?‖. Ở đây, tác giả sử dụng phép đối lập giữa trạng thái ―thoải mái‖
và ―khuôn phép, kỷ luật‖ để làm tăng mức độ lo lắng của phụ huynh, khi họ sợ rằng
con mình sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh thói quen. Dù học sinh là đối tượng
chính chịu tác động, nhưng cảm xúc của các em không trực tiếp xuất hiện, mà được
phản ánh gián tiếp qua mối bận tâm của phụ huynh. Nhà trường và giáo viên cũng hiện
diện trong bối cảnh này, khi sự lo lắng của phụ huynh vô hình đặt áp lực lên họ trong
việc đảm bảo môi trường học đường an toàn và phù hợp. Sự dồn nén cảm xúc qua
từng câu hỏi, kết hợp với cách diễn đạt mang tính khẳng định ở câu cuối ―Mỗi câu hỏi là một nút thắt‖, cách sử dụng số từ “mỗi – một‖ đã cực đại hóa sự lo lắng, biến từng băn khoăn cá nhân thành vấn đề chung của toàn xã hội. Việc sử dụng hàng loạt câu hỏi mang tính dồn dập, phép đối lập và so sánh trong đoạn văn không chỉ làm nổi bật sự bất an, mà còn đẩy thang độ cảm xúc lên mức cao nhất, từ lo lắng nhẹ đến hoài nghi sâu sắc. Điều này giúp bài viết tạo sự đồng cảm với người đọc, làm nổi bật tính cấp thiết của vấn đề và chuẩn bị tâm lí để dẫn dắt sang phần kêu gọi tinh thần hợp tác, bình tĩnh của xã hội trong việc tháo gỡ những “nút thắt” này.
119
Đó là chưa kể băn khoăn, dự cảm đầy âu lo của nhiều người: Liệu cổng trường có được mở lại bền vững không, hay mở xong rồi đóng lại vì tình hình dịch COVID-19 vẫn chưa biết sẽ như thế nào? (6) Diễn ngôn (6) này tiếp tục khai thác cảm xúc lo lắng và bất an của xã hội về tính bền vững của việc mở cửa trường học. Chủ thể cảm xúc là nhiều người - bao gồm
phụ huynh, giáo viên và cả cộng đồng. Phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc được
sử dụng một cách hiệu quả qua các từ ngữ mang sắc thái tiêu cực như ―băn khoăn, dự
cảm đầy âu lo‖. Chúng giúp khắc họa rõ nét sự hoang mang, khiến nỗi lo cá nhân lan
rộng thành mối quan tâm chung của toàn xã hội. Cảm xúc không an toàn còn được thể hiện qua câu hỏi tu từ: ―Liệu cổng trường có được mở lại bền vững không, hay mở
xong rồi đóng lại?‖. Câu hỏi này không chỉ bộc lộ sự hoài nghi mà còn gián tiếp nhấn
mạnh mức độ lo lắng ngày càng gia tăng, khi nguy cơ đóng cửa trường học vẫn luôn
hiện hữu. Cảm xúc bất an trước tương lai tiếp tục được đẩy lên cao trào với tổ hợp từ ―tình hình dịch COVID-19 vẫn chưa biết sẽ như thế nào‖. Ở đây, tác giả sử dụng cấu
trúc phủ định (―chưa biết‖) để nhấn mạnh sự mơ hồ, bấp bênh, tạo cảm giác mất kiểm
soát, khi ngay cả những người có trách nhiệm cũng không thể đưa ra một dự báo chắc
chắn. Thang độ cảm xúc trong đoạn văn này được nâng dần qua từng cấp độ: từ ―băn khoăn‖ - một sự lo lắng nhẹ, đến ―dự cảm đầy âu lo‖ - trạng thái bất an sâu sắc hơn,
và cuối cùng là ―chưa biết sẽ như thế nào‖ - thể hiện cảm giác hoàn toàn mất phương
hướng. Sự gia tăng về mức độ lo lắng này tạo ra hiệu ứng tâm lí mạnh mẽ, khiến người
đọc không chỉ nhận thức được nỗi bất an hiện hữu mà còn cảm thấy đồng cảm với
những lo lắng của phụ huynh, giáo viên và toàn xã hội.
Băn khoăn, lo lắng, thận trọng là đúng (7)! Chủ thể cảm xúc trong (7) không được nêu cụ thể, nhưng có thể hiểu là phụ
huynh, giáo viên và toàn thể cộng đồng - những người trực tiếp quan tâm đến sự an
toàn của trẻ. Loại cảm xúc trong câu này thuộc nhóm cảm xúc an toàn (-), thể hiện sự
bất an và thận trọng trước những nguy cơ tiềm ẩn. Phương tiện ngôn ngữ được sử
dụng là ―băn khoăn, lo lắng, thận trọng‖. Cách viết liệt kê các từ này giúp tăng dần
cấp độ cảm xúc từ sự do dự (băn khoăn), đến sự bất an rõ rệt (lo lắng), và cuối cùng là thái độ phòng bị, cẩn trọng (thận trọng). Thang độ cảm xúc trong câu được đẩy lên
theo cấp độ từ nhẹ đến mạnh, phản ánh mức độ căng thẳng của vấn đề và mức độ phản ứng của xã hội. Như vậy, chỉ với một câu ngắn gọn, tác giả vừa xác nhận tính chính đáng của nỗi lo, vừa gửi đi một thông điệp rõ ràng: sự thận trọng là điều cần thiết trong bối cảnh đầy bất định này.
Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành phố nai lưng ra chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", vì phải đối phó với những tình huống bất định, chưa từng có tiền lệ (8).
Chủ thể phán xét trong (8) là người viết nhưng đã được ẩn đi, đối tượng được phán xét là cộng đồng, đặc biệt là người dân và chính quyền thành phố. Đoạn văn trên
120
thể hiện phán xét về sự Kiên trì của người dân trong cuộc chiến chống dịch. Phương
tiện ngôn ngữ thể hiện đánh giá Kiên trì (+) là ―tâm thế nỗ lực, bình tĩnh, nai lưng‖,
còn đánh giá Kiên trì (-) là ―bối rối, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược‖. “Tâm thế nỗ lực, bình tĩnh, nai lưng‖ nhấn mạnh tinh thần kiên trì của cộng đồng, dù khó khăn vẫn
cố gắng thích ứng và duy trì sự kiểm soát. Tuy nhiên, ―bối rối‖ cũng xuất hiện, thể
hiện qua hình ảnh ẩn dụ ―trống đánh xuôi, kèn thổi ngược‖, cho thấy sự lúng túng,
thiếu đồng bộ trong cách ứng phó với tình huống mới. Thang độ kiên trì trong đoạn
này không cố định mà biến đổi linh hoạt. Ban đầu, sự nỗ lực và bình tĩnh thể hiện kiên trì ở mức cao, nhưng khi đối diện với các tình huống bất định, sự bối rối xuất hiện,
phản ánh thách thức của việc duy trì sự kiên trì trong môi trường đầy biến động, qua
đó làm nổi bật tính phức tạp của quá trình chống dịch và thích nghi của xã hội. Trong
phát ngôn (8) còn có sự thẩm giá Tổng hợp, đánh giá sự bất ổn định của tình hình xã hội lúc bấy giờ. Sự bất ổn này được thể hiện bằng tổ hợp từ ―những tình huống bất định, chưa từng có tiền lệ‖. Sự thẩm giá về tình hình bất ổn, không chắc chắn này giúp
nhấn mạnh thách thức chưa từng gặp phải, làm tăng giá trị của sự kiên trì.
Trong một góc độ nào đó, cũng có thể ví đợt học sinh trở lại trường lần này giống như "làn sóng thứ 4" mà phần nổi là nỗi lo về an toàn trường học, còn tảng băng chìm là vô vàn vấn đề từ việc tổ chức dạy và học, chất lượng chuyên môn đến công tác nhân sự, nhất là việc thiếu hụt giáo viên, bảo mẫu mầm non, tiểu học... (9)
Có những nỗi lo thuộc về tâm lý bình thường của con người, nhưng cũng có những nỗi lo xuất phát từ những bất định, dự cảm về những điều chưa xảy ra và cũng không biết sẽ xảy ra theo chiều
hướng nào, như thế nào. (10)
(9) và (10) thể hiện thái độ lo lắng và bất an của phụ huynh, giáo viên, cán bộ giáo dục và toàn xã hội (chủ thể ẩn) trước việc học sinh trở lại trường. Cảm xúc trong
đoạn này được phát triển theo thang độ từ lo lắng cụ thể đến bất an trước điều chưa
biết, thông qua danh từ ―nỗi lo‖. Trong câu (9), nỗi lo lắng được chia thành hai mức
độ: lo ngại trước mắt (―nỗi lo về an toàn trường học‖) và lo lắng dài hạn về những vấn
đề chuyên môn, nhân sự (―thiếu hụt giáo viên, bảo mẫu‖). Phát ngôn (10) tiếp tục làm
rõ trạng thái bất an, nhấn mạnh rằng có những nỗi lo xuất phát từ sự bất định, tức là từ những điều chưa xảy ra nhưng không ai có thể đoán trước. Thang độ cảm xúc được nâng
cao khi chuyển từ nỗi lo hiển hiện (―nỗi lo về an toàn trường học‖) sang những vấn đề chưa rõ ràng nhưng đầy nguy cơ (―vô vàn vấn đề‖, ―bất định, dự cảm‖). Nhờ cách diễn đạt giàu hình ảnh, đoạn văn không chỉ khắc họa sự lo âu mà còn cảnh báo những khó khăn chưa lường trước, từ đó thúc đẩy sự thận trọng và chuẩn bị kĩ lưỡng hơn.
Chúng ta có thể chưa biết điều gì sẽ xảy ra khi học sinh trở lại trường nhưng chúng ta hoàn
toàn có thể kiểm soát được thái độ, cách hành xử với những gì sẽ xảy ra. (12)
Trong (12), chủ thể và đối tượng đánh giá là ―chúng ta‖ – bao gồm người viết và độc giả. Đại từ “chúng ta” đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sự gắn kết và kêu gọi trách nhiệm tập thể. Khi người viết sử dụng đại từ này, họ không chỉ đơn thuần
121
trình bày quan điểm cá nhân mà còn lôi kéo người đọc vào cuộc thảo luận, khiến họ
cảm thấy mình là một phần của vấn đề và giải pháp, từ đó, định hướng thái độ và thúc
đẩy hành động từ phía độc giả. Chủ thể đánh giá cao năng lực của mình trong việc kiểm soát dịch bệnh. ―Hoàn toàn có thể‖ là phương tiện ngôn ngữ nhấn mạnh mức độ
chắc chắn, khẳng định rằng dù tương lai còn bất định, con người vẫn có đủ năng lực và
quyền chủ động để điều chỉnh thái độ, hành vi. Về Thang độ, ―hoàn toàn có thể‖ thể
hiện mức độ khả năng cao nhất, không chỉ ngụ ý rằng hành động này là khả thi mà còn
nhấn mạnh tính chủ động, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Cách diễn đạt này giúp củng cố niềm tin rằng dù chưa biết điều gì sẽ xảy ra, việc giữ vững thái độ đúng đắn là điều
chắc chắn nằm trong tầm kiểm soát, tạo tâm thế vững vàng cho người đọc.
Que diêm đó cũng chính là mong mỏi của ngành giáo dục, mà người đứng đầu, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, đã gửi gắm trong thông điệp đầu năm mới ông đưa lên trang cá nhân của mình: "Với ngành giáo dục, quãng thời gian đóng cửa trường học dài đằng đẵng vừa qua như một mùa đông u ám. Xuân đã sang, có một thứ cần khai mở, dứt khoát cần khai mở, đó là cổng trường học, để thầy cô đón học sinh tới trường học trực tiếp. Mong mọi điều tốt lành sẽ tới trong xuân này, mong xuân bình an, xuân tốt lành. Tất cả mọi người cùng chung tay cho một sự khai mở vô cùng cần thiết này của mùa xuân". (17)
Đoạn văn (17) thể hiện cảm xúc Mong muốn của ngành giáo dục, đặc biệt là Bộ
trưởng Nguyễn Kim Sơn (chủ thể cảm xúc thuộc phi tác giả), đối với việc mở cửa
trường học sau thời gian dài gián đoạn vì dịch bệnh. Cảm xúc mong muốn được thể
hiện rõ nét qua việc lặp lại các từ ―mong‖, ―mong mỏi‖, với các cấp độ tăng dần để
nhấn mạnh khát khao của ngành giáo dục về việc mở cửa trường học. Thang độ của
cảm xúc mong muốn trong đoạn văn này có sự gia tăng dần: ―mong mỏi‖ → cấp độ cao nhất, thể hiện sự khao khát mạnh mẽ, đã tích tụ lâu dài; ―Mong mọi điều tốt lành‖
→ cấp độ hi vọng, thể hiện sự chờ đợi những điều tích cực; ―Mong xuân bình an, xuân
tốt lành‖ → cấp độ kì vọng rộng hơn, không chỉ mong trường học mở cửa mà còn
mong xã hội ổn định, an toàn hơn. Việc sử dụng từ lặp ―mong‖ nhiều lần không chỉ
làm nổi bật cảm xúc mà còn tạo hiệu ứng nhấn mạnh, giúp người đọc cảm nhận được
sự khẩn thiết và chân thành trong mong muốn của ngành giáo dục.
Có thể nói, hệ thống Thái độ trong bình luận báo chí đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo sự kết nối với độc giả, dẫn dắt dư luận và tăng tính thuyết phục. Bằng cách khơi gợi những cảm xúc quen thuộc như lo lắng, bất an hay hi vọng, bài viết có thể chạm đến tâm lí người đọc, khiến họ đồng cảm với vấn đề được nêu ra. Bên cạnh đó, cảm xúc giúp định hướng thái độ của công chúng, dẫn dắt họ từ tâm lí hoài nghi, lo âu đến sự bình tĩnh, hợp tác và niềm tin vào giải pháp. Quan trọng hơn, hệ thống Thái độ giúp bài bình luận không chỉ mang tính lập luận mà còn có sức lay động, thúc đẩy người đọc suy nghĩ và hành động theo hướng tích cực. Nhờ vậy, bài viết không chỉ phản ánh vấn đề mà còn kêu gọi sự chung tay của xã hội để tìm ra giải pháp.
122
Tiểu kết chƣơng 2
Trong chương 2, chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc điểm NNĐG Thái độ trong
thể loại bình luận báo chí, với phạm vi khảo sát trên hai tờ báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Dựa trên kết quả khảo sát và phân tích, chương này đã làm rõ những đặc trưng của hệ
thống Thái độ, bao gồm Cảm xúc, Phán xét và Thẩm giá, cũng như cách thức hiện
thực hóa Thái độ, Thang độ trong diễn ngôn bình luận báo chí.
Kết quả khảo sát chung về Thái độ cho thấy cả hai tờ báo đều sử dụng ba tiểu
hệ thống Thái độ với đầy đủ các tiểu loại đánh giá tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, tỉ lệ đánh giá tiêu cực cao hơn tích cực, phản ánh đặc trưng của thể loại bình luận, khi báo
chí có xu hướng tập trung vào những vấn đề còn tồn tại nhằm định hướng dư luận.
Về ngôn ngữ đánh giá thể hiện Cảm xúc, kết quả thống kê chỉ ra rằng Cảm xúc là
tiểu hệ thống có tần suất cao nhất trong cả hai báo. Trong đó, nhóm Mong muốn xuất hiện với tần suất lớn nhất, tiếp theo là Hạnh phúc, An toàn và Hài lòng. Tuy nhiên, cách biểu đạt cảm xúc Mong muốn có sự khác biệt giữa hai tờ báo: Tuổi trẻ thể hiện cảm xúc
Mong muốn theo hướng chủ quan, mang tính cá nhân, trong khi Nhân dân thiên về tính
khách quan, thể hiện dưới dạng đề xuất giải pháp. Các nguồn lực ngôn ngữ hiện thực
hóa Cảm xúc cũng có sự khác biệt về mức độ đa dạng trong từng tờ báo.
Về ngôn ngữ đánh giá thể hiện Phán xét, kết quả khảo sát cho thấy nhóm Khả
năng và Kiên trì có tần suất xuất hiện cao nhất, trong khi Thông thường và Chân thật ít
được sử dụng. Điều này phản ánh xu hướng đánh giá của báo chí, khi tác giả tập trung
nhiều hơn vào năng lực và sự nỗ lực của đối tượng, thay vì các khía cạnh đạo đức.
Về ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thẩm giá, kết quả khảo sát cho thấy Thẩm giá
có tần suất sử dụng thấp hơn so với Cảm xúc và Phán xét. Các nguồn lực ngôn ngữ
hiện thực hóa Thẩm giá ở hai báo có nhiều điểm tương đồng, tập trung vào việc đưa ra
những đánh giá về giá trị, tầm quan trọng của sự kiện, vấn đề.
Về ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thang độ, khảo sát cho thấy mức độ nhấn mạnh
Thái độ trong bình luận báo chí không có nhiều sự khác biệt giữa hai báo. Báo Tuổi trẻ
sử dụng Thang độ với cường độ mạnh hơn, phong phú hơn báo Nhân dân.
Ngoài ra, mặc dù chủ thể đánh giá ở cả hai báo chủ yếu là tác giả, nhưng báo
Tuổi trẻ có xu hướng thể hiện rõ quan điểm cá nhân và tính chủ quan hơn so với báo Nhân dân. Cách thể hiện chủ thể đánh giá trực tiếp hay gián tiếp cũng là một trong những chiến lược thuyết phục độc giả.
Bên cạnh đó, thử nghiệm phân tích ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thái độ trong diễn ngôn bình luận báo chí đã góp phần làm rõ hơn các đặc trưng của hệ thống Thái
độ trong thực tế sử dụng.
123
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ GIỌNG ĐIỆU
TRONG THỂ LOẠI BÌNH LUẬN BÁO CHÍ
Trong chương này, chúng tôi tập trung trình bày kết quả phân tích về ngôn ngữ
đánh giá thể hiện Giọng điệu và Thang độ của Giọng điệu trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân từ ngữ liệu đã thu thập. Các dữ liệu định lượng
được dùng cho việc diễn giải về tần suất sử dụng và phân tích định tính các nguồn lực ngôn ngữ thể hiện các tiểu hệ thống Giọng điệu: Thu hẹp không gian hội thoại và Mở
rộng không gian hội thoại. Đồng thời, chúng còn được dùng để so sánh mức độ tham
gia và cách thức thể hiện quan điểm, cách thức tương tác với độc giả của các tác giả ở
báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Bên cạnh đó, chúng tôi còn phân tích thử nghiệm hệ thống Giọng điệu trong một diễn ngôn bình luận cụ thể để thấy được đặc trưng của hệ thống Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận báo chí.
3.1. Kết quả khảo sát chung về Giọng điệu
Giọng điệu bao gồm hai tiểu hệ thống: đa thanh và đơn thanh. Khảo sát 90 diễn
ngôn bình luận (45 diễn ngôn trên báo Nhân dân, 45 diễn ngôn trên báo Tuổi trẻ) trong
05 chủ đề, chúng tôi thu được kết quả khái quát về tương quan tỉ lệ xuất hiện của hệ
thống Giọng điệu trên hai báo như sau (kết quả khảo sát chi tiết được trình bày ở bảng
P4.1 trong phụ lục 4):
Nhân dân
Tuổi trẻ
0
2
4
6
Đa thanh
Đơn thanh
Hình 3.1. Tỉ lệ giọng điệu đơn thanh và đa thanh trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Từ kết quả khảo sát ở bảng P4.1 và hình 3.1, có thể thấy tất cả các bài bình luận
ở cả 5 chủ đề trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân có điểm giống nhau là: chúng đều chứa
các phát ngôn đơn thanh và đa thanh; điểm khác nhau giữa hai tờ báo này là: trong 45
diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ, phát ngôn đa thanh chiếm tỉ lệ cao hơn phát
ngôn đơn thanh, ngược lại, trong 45 diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân, phát ngôn
đơn thanh chiếm tỉ lệ cao hơn phát ngôn đa thanh. Kết quả này cho thấy, báo Tuổi trẻ
124
là một diễn đàn tương đối mở, là một môi trường có nhiều quan điểm hơn so với báo
Nhân dân, nó không chỉ là nơi thông tin đến độc giả mà còn là nơi để người viết và độc
giả trao đổi suy nghĩ, tình cảm của mình về các vấn đề thời sự nóng bỏng trong nước và
trên thế giới.
Theo Martin và White, phạm trù Giọng điệu tập trung nghiên cứu các phát ngôn
đa thanh. Vì thế, trong phần tiếp theo của luận án, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích và so
sánh hai tiểu hệ thống Thu hẹp và Mở rộng không gian đối thoại trong các diễn ngôn
bình luận đa thanh ở hai báo Nhân dân và Tuổi trẻ.
Qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, trong một phát ngôn đa thanh,
người viết bình luận có thể sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau. Ví dụ:
(101) Rõ ràng, bên nào cũng muốn quyền lợi của mình đạt tối đa, nhưng chúng
ta phải hài hòa lợi ích của các bên, vì sự phát triển chung. [T5]
Ví dụ (101) bao gồm hai giọng điệu: Xác nhận và Phản lại. Xác nhận được hiện
thực hóa bằng từ “rõ ràng‖. Người viết cho rằng cả doanh nghiệp và người lao động
đều muốn quyền lợi của mình đạt tối đa là điều hiển nhiên. Doanh nghiệp thì không
muốn tăng lương cho công nhân, còn công nhân thì muốn doanh nghiệp tăng lương để
đảm bảo và nâng cao chất lượng đời sống gia đình mình. Nhưng nếu mỗi bên đều
quyết giữ quyền lợi của mình thì trước sau gì cũng sẽ dẫn đến xung đột. Quan hệ từ
“nhưng‖ được sử dụng để thể hiện giọng điệu Phản lại.
(102) Tuy nhiên, các chuyên gia công đoàn cho rằng, tăng ca không phải là
yếu tố chính để tăng năng suất lao động [N4]
Trong (102) có hai giọng điệu: Phản lại (tuy nhiên) thuộc nhóm Thu hẹp không
gian hội thoại và Thừa nhận (Các chuyên gia công đoàn cho rằng) thuộc nhóm Mở
rộng không gian hội thoại.
(103) Khó tránh khỏi F0 trong trường học nhưng việc tổ chức dạy học khi có
em đến trường, em ở nhà chưa thể làm hài lòng phụ huynh. [T34]
Ở phát ngôn (103), ―nhưng‖ được dùng để thể hiện giọng điệu Phản lại, còn
―chưa thể‖ dùng để bộc lộ giọng điệu Phủ định. Cả hai giọng điệu này đều thuộc
nhóm Thu hẹp không gian hội thoại.
Vì mỗi phát ngôn có thể chứa nhiều giọng điệu, do đó, tần suất phát ngôn đa
thanh trong bảng P4.1 sẽ không trùng khớp với tần suất các nguồn lực Thu hẹp và Mở
rộng hội thoại trong các bảng tiếp theo. Khảo sát hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và
Nhân dân, chúng tôi thu được kết quả khái quát về hệ thống Giọng điệu trong hình 3.2
bên dưới (kết quả chi tiết được trình bày ở bảng P4.2 trong phụ lục 4).
125
50
0
Tuổi trẻ Nhân dân
Thu hẹp Mở rộng
Hình 3.2. Tỉ lệ giọng điệu Thu hẹp và Mở rộng không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Quan sát kết quả khảo sát ở hình 3.2, có thể thấy, Giọng điệu trong các bài bình
luận ở hai báo đều chứa tính Thu hẹp và Mở rộng hội thoại. Tuy nhiên, trong các bài bình luận trên báo Nhân dân, các tác giả sử dụng giọng điệu Mở rộng hội thoại nhiều hơn
giọng điệu Thu hẹp hội thoại. Ngược lại, trong các bài bình luận trên báo Tuổi trẻ, Thu
hẹp hội thoại được sử dụng nhiều hơn Mở rộng hội thoại. Điều này cho thấy các tác giả ở
báo Tuổi trẻ chủ động tham gia và thể hiện quan điểm trực tiếp vào bài bình luận nhiều
hơn các tác giả ở báo Nhân dân. Để có được nhận định này, chúng tôi đã tiến hành so
sánh chi tiết về tần suất của các tiểu hệ thống thuộc giọng điệu Thu hẹp và Mở rộng không gian hội thoại trong các vấn đề bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Kết quả so sánh
này được thể hiện rõ trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tần suất của các giọng điệu trong các diễn ngôn bình luận trên báo
Tuổi trẻ và Nhân dân
Tuổi trẻ Nhân dân Giọng điệu Tổng Tần suất Tổng
Phủ định Từ chối 352 (54,4%) 176 (38,43%) Phản lại
Tán thành Thu hẹp
Tuyên bố Phát biểu 63 (9,74%) 51 (11,13%)
Xác nhận Tần suất (Tỉ lệ) 156 (24,11%) 196 (30,29%) 25 (3,86%) 32 (4,95%) 6 (0,93%) 69 (15,07%) 107 (23,36%) 11 (2,4%) 20 (4,366%) 20 (4,366%) Tổng Thu hẹp 415 (64,14%)
Trao đổi 181 (27,98%) 175 (38,21%) Mở rộng Thừa nhận Quy gán 51 (7,88%) 56 (12,23%) Xa cách Tổng Mở rộng
Tổng 181 (27,98%) 51 (7,88%) 0 232 (35,86%) 647 (100%) 227 (49,56%) 175 (38,21%) 56 (12,23%) 0 231 (50,44%) 458 (100%)
(Đơn vị tính: lần)
126
Kết quả khảo sát ở bảng 3.1 được chúng tôi trình bày rõ nét trong hình 3.3 và
3.4 dưới đây.
Phủ định
Báo Tuổi trẻ
Phản lại
Tán thành
20
Phát biểu
15
Xác nhận
10
Trao đổi
5
Thừa nhận
0
Hình 3.3. Tỉ lệ của các giọng điệu trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Báo Nhân dân
Phủ định
Phản lại
20
Tán thành
15
Phát phiểu
10
Xác nhận
5
Trao đổi
0
Thừa nhận
Hình 3.4. Tỉ lệ của các giọng điệu trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng 3.1, hình 3.3 và hình 3.4, có thể thấy, hệ thống
Giọng điệu trong các bài bình luận trên báo Tuổi trẻ có tỉ lệ Thu hẹp cao hơn Mở rộng
không gian hội thoại. Trong đó, giọng điệu Phản lại có tần suất cao nhất (196 lần),
Trao đổi xuất hiện ở vị thứ hai (181 lần), xếp vị thứ ba là giọng điệu Từ chối (156 lần).
Tiếp theo là Phát biểu (32 lần), Tán thành (25 lần) và cuối cùng là Xác nhận (6 lần).
Ngược lại, hệ thống Giọng điệu trong các bài bình luận trên báo Nhân dân có tỉ lệ Mở
rộng cao hơn Thu hẹp hội thoại. Xét tần suất của từng giá trị trong hệ thống Giọng
điệu thì Trao đổi chiếm tần suất cao nhất (175 lần), xếp vị thứ hai là Phản lại (107
lần), tiếp theo là Phủ định (69 lần) và Thừa nhận (56 lần). Cuối cùng là các giọng điệu Xác nhận (20 lần), Phát biểu (20 lần) và Tán thành (11 lần). Trong cả hai khối ngữ
liệu, chúng tôi không ghi nhận được sự xuất hiện của giọng điệu Xa cách.
Như vậy, ở cả hai tờ báo, Trao đổi và Phản lại đều chiếm tỉ lệ cao hơn các giọng điệu khác. Tiếp đến là Phủ định. Điều này có thể giải thích được dựa vào đặc điểm và chức năng của thể loại bình luận báo chí. Bình luận là thể loại được sử dụng để bàn luận về những vấn đề nổi cộm của xã hội, do đó, ngoài việc đưa các thông tin thời sự của vấn đề đến với độc giả, tác giả còn đưa ra những mặt tồn tại của vấn đề. Những mặt tồn tại này được thể hiện thông qua Phủ định và Phản lại. Sau khi nêu lên những hạn chế của vấn đề, tác giả tiếp tục đưa ra ý kiến/ giải pháp khắc phục hạn chế
127
đó để trao đổi với độc giả giả định và độc giả tiềm năng. Các đề xuất này của tác giả
được thể hiện bằng giọng điệu Trao đổi. Các tác giả viết bình luận đều ý thức được
rằng ý kiến của mình cũng chỉ là một kênh để độc giả và các cơ quan chức năng tham khảo chứ không phải là duy nhất. Ngoài ra, dựa vào kết quả khảo sát ở bảng 3.1,
chúng ta thấy rằng các tác giả ở báo Nhân dân sử dụng giọng điệu Thừa nhận trong
các diễn ngôn bình luận nhiều hơn các tác giả ở báo Tuổi trẻ, ngược lại, sử dụng giọng
điệu Tán thành và Phát biểu thì ít hơn báo Tuổi trẻ. Thừa nhận là tác giả viện dẫn
những ý kiến từ các nguồn bên ngoài vào diễn ngôn chứ không phải ý kiến của tác giả. Các tác giả của báo Nhân dân đưa ra nhiều quan điểm của các nguồn ngoài diễn ngôn,
qua đó có thể tránh xa trách nhiệm đối với các phán xét/ nhận định trong diễn ngôn,
đồng thời để cho người đọc biết thêm những luồng ý kiến khác và tự mình đưa ra nhận
định đối với vấn đề được bàn luận. Tán thành và Phát biểu là người viết trực tiếp xác nhận/ đưa ra quan điểm cá nhân của mình, nghĩa là tác giả phải chịu trách nhiệm trước những thông tin/ ý kiến/ quan điểm trong phát ngôn. Do đó, có thể kết luận rằng các
tác giả ở báo Tuổi trẻ chủ động thể hiện quan điểm cá nhân của mình nhiều hơn các
tác giả ở báo Nhân dân.
Hệ thống Giọng điệu trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân được hiện thực hóa bằng hai nguồn lực: nguồn lực từ vựng – ngữ pháp (gồm các
từ ngữ, các tổ hợp từ, các kiểu câu) và nguồn lực tu từ (biện pháp so sánh).
3.2. Tiểu hệ thống Thu hẹp không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Thu hẹp không gian hội thoại được hiểu là người viết sử dụng các từ ngữ có khả
năng hạn chế hoặc đóng lại không gian cho các lựa chọn thay thế đối thoại. Phương thức
để Thu hẹp hội thoại gồm hai giọng điệu: Từ chối (Disclaim) và Tuyên bố (Proclaim).
3.2.1. Giọng điệu Từ chối trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Theo mô hình khung đánh giá, tác giả có thể thể hiện sự từ chối của mình đối
với một quan điểm/ vấn đề nào đó bằng cách nói phủ định hoặc phản lại.
3.2.1.1. Phủ định Theo quan điểm hội thoại, Phủ định là một nguồn để giới thiệu một quan điểm
khác vào hội thoại, và vì vậy, nó thừa nhận hoặc bác bỏ quan điểm đó [4; 118]. Bảng 3.1 cho thấy, giọng điệu Phủ định được sử dụng với tần suất cao, xếp vị trí thứ 3 trong hệ thống Giọng điệu, xếp vị trí thứ 2 trong tiểu hệ thống Thu hẹp hội thoại ở cả báo Tuổi trẻ và báo Nhân dân. Giọng điệu Phủ định chủ yếu xuất hiện ở phần bàn luận, nêu lên thực trạng của vấn đề. Ví dụ:
(104) Lương hưu đủ sống là mục tiêu không dễ thực hiện, thậm chí phải mất
nhiều năm với rất nhiều nỗ lực. [T4]
128
Lương hưu đủ sống cho người cao tuổi là mục tiêu của những người làm công
tác bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, theo người viết, mục tiêu này khó có thể thực hiện
được. Người viết thể hiện quan điểm phủ định của mình bằng cách sử dụng từ ngữ “không dễ”. Ngoài ra, chính “không dễ” cũng giúp giảm nhẹ mức độ phủ định trong ví
dụ (104). Nếu thay “không dễ” bằng khó hoặc không…được thì mức độ phủ định sẽ
cao hơn, thậm chí là bác bỏ mục tiêu lương hưu đủ sống cho người cao tuổi.
(105) Chính vì vậy, mức lương tối thiểu hiện nay không còn phù hợp thực tiễn,
chưa thể là cơ sở đặt ra cho các bên thương lượng xác lập tiền lương trên thị trường. [N5] Trong hai năm dịch bệnh Covid-19 hoành hành, nước ta đã hoãn việc tăng
lương tối thiểu theo lộ trình. Đến thời điểm bấy giờ (năm 2022), qua khảo sát thị
trường, người viết thể hiện quan điểm không đồng tình của mình đối với mức lương
tối thiểu hiện tại. Người viết thể hiện sự phản đối của mình bằng các từ ngữ “không còn” và “chưa thể”.
Nguồn lực thể hiện Phủ định Báo Tuổi trẻ Khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ có 156 phát ngôn có giọng điệu đánh giá Phủ
định, trong đó, các phương tiện ngôn ngữ thể hiện giọng điệu Phủ định xuất hiện 170
lần, thể hiện qua các phương tiện ngôn ngữ khác nhau thuộc hai nguồn lực: nguồn lực
từ vựng - ngữ pháp và nguồn lực tu từ.
- Nguồn lực từ vựng – ngữ pháp gồm các từ ngữ sau: từ “không” và các kết
hợp của nó (xuất hiện 90 lần): không dễ, không chỉ, không được, không có, không thể,
không phải, không còn, không ở đâu, không thể không, không thể ngờ, không hẳn là,
không hiếm, không hề, không khỏi, không phải là, không đủ, không sai, không thấy; từ
“chưa” và các kết hợp của nó (xuất hiện 46 lần): chưa thể, chưa từng, chưa từng có,
chưa có, chưa bao giờ, chưa thấy, chưa kịp, chưa được, chưa biết, chưa thực sự, chưa
chắc; và một số từ ngữ khác, như: chẳng làm được gì (3 lần), thiếu, đâu phải, mất
(mỗi từ xuất hiện 2 lần), chẳng ai có thể, chẳng biết, bất chấp, thiếu thốn, quên mất,
nghịch lý, khó (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần); các kết cấu như không chỉ…mà (còn) (xuất hiện 17 lần), không phải…mà là (kết cấu này chỉ xuất hiện 1 lần). Ví dụ:
(106) Virus không lây theo khung thời gian, nên lệnh cấm bán hàng sau 21h ở Hà Nội là quyết định khó hiểu. Virus cũng không lây theo địa giới hành chính, nên quy định phân vùng xanh - đỏ cũng đã lạc hậu. Virus cũng không lây theo vị trí xã hội, nên chính sách thời hạn cách ly theo chức vụ, ngành nghề là rất nực cười. [T26]
Người viết phủ định quan điểm virus lây lan theo các con đường: thời gian,
không gian, vị trí xã hội, để từ đó phủ định một số biện pháp phòng, chống dịch mà theo người viết là chưa hiệu quả, chưa phù hợp. Sự bác bỏ này được hiện thực hóa qua từ “không”. Ví dụ (106) gồm 3 phát ngôn, các phát ngôn này có sự lặp lại về cấu trúc,
129
“không” cũng được lặp lại, nên có tác dụng nhấn mạnh thêm cho quan điểm phủ định
của người viết.
(107) Chẳng cần nói đâu xa, ngay ở giữa TP.HCM, một gia đình đi tìm người giúp
việc và đặt ra mức lương 6 - 7 triệu đồng/tháng, chưa chắc người ta đã chịu làm. [T5]
Người viết cho rằng đối với người dân sinh sống tại TP.HCM, thu nhập 6-7 triệu đồng/ tháng là chưa cao. Để thể hiện quan điểm phủ định đó, người viết sử dụng cách nói “chưa chắc”. Tuy nhiên, mức độ phủ định này lại bị giảm nhẹ đi chính bằng “chưa chắc‖. Người viết phủ định nhưng không hoàn toàn chắc chắn về điều này, vẫn có thể có những khả năng khác xảy ra.
(108) Những câu hỏi trên cần được sớm phản hồi cụ thể, không thể chung chung là ―cân nhắc, rà soát, đề xuất‖ bởi cử tri và ngay đại biểu Quốc hội khi thảo luận ở tổ hay hội trường đều mong muốn dùng thuế để kìm giá xăng dầu. [T44]
Động từ “không thể” trong diễn ngôn mang giọng điệu phủ định dứt khoát, phê phán mạnh mẽ. Nó không chỉ bác bỏ cách phản hồi chung chung mà còn thể hiện thái độ của người viết là không chấp nhận sự mơ hồ, thiếu cụ thể trong giải quyết vấn đề. Người viết sử dụng giọng điệu Phủ định trong (108) để nhấn mạnh rằng những câu trả lời kiểu “cân nhắc, rà soát, đề xuất” là chưa đủ.
(109) Tác động của sự thay đổi đó được thể hiện ra không chỉ diện mạo đô thị
mà tác động đến số phận từng con người, mỗi hộ gia đình. [T8]
Một số địa phương muốn nhanh chóng tiến từ huyện/ thị xã lên thành phố nhưng lại chỉ chú trọng đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Người viết chưa hoàn toàn đồng tình với quan điểm đó, cho rằng việc thay đổi từ cấp huyện lên cấp thành phố còn gây ra nhiều thay đổi đối với số phận của người dân. Sự chưa đồng tình này được hiện thực hóa bằng kết cấu “không chỉ…mà”.
(110) Có thể nói, việc phát hiện "khối ung nhọt" mang tên Việt Á với hành vi làm giá, ăn chia trong đấu thầu, phân phối bộ kit xét nghiệm COVID đã khiến dư luận hết sức bất bình, phẫn nộ. Đó không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật đáng lên án mà còn là hành vi vi phạm đạo đức tệ hại, trong bối cảnh cả hệ thống chính trị và toàn dân chung tay, góp sức, góp của với quyết tâm sớm đẩy lùi dịch bệnh, phục hồi kinh tế, đưa cuộc sống trở lại bình thường. [T11]
Trong ví dụ (110) người viết phủ định, phê phán những hành vi sai trái của công ty Việt Á bằng cách sử dụng kết cấu “không chỉ là … mà còn là…”. Kết cấu phủ định này có tác dụng nhấn mạnh và tăng chiều sâu trong cách đánh giá. Nó không chỉ khẳng định hành vi sai phạm ở mức độ pháp lí (vi phạm pháp luật đáng lên án) mà còn nhấn mạnh sự suy đồi về đạo đức (vi phạm đạo đức tệ hại). Cách diễn đạt này vừa tăng tính thuyết phục, vừa khơi gợi sự phẫn nộ của dư luận, làm nổi bật mức độ nghiêm trọng của vụ việc.
130
(111) Vùng xanh đó tuyệt nhiên không phải là một địa phương hoàn toàn
không có COVID-19, mà là nơi phần lớn người dân được tiêm đủ vắc xin, có cuộc
sống bình thường, với dịch vụ lưu trú, ăn uống, giải trí, chăm sóc con người phù hợp và hệ thống y tế đủ linh hoạt để xử lý các tình huống xảy ra. [T21]
Kết cấu phủ định “không phải là... mà là” trong (111) có tác dụng bác bỏ quan
niệm sai và khẳng định cách hiểu đúng. Phần “không phải là một địa phương hoàn
toàn không có COVID-19” phủ định suy nghĩ rằng “vùng xanh” là nơi không có dịch
bệnh. Trong khi đó, phần ―mà là nơi phần lớn người dân được tiêm đủ vắc xin, có cuộc sống bình thường...‖ nhấn mạnh bản chất thực sự của vùng xanh: không phải
không có dịch, mà là nơi có khả năng thích ứng an toàn. Kết cấu này giúp định nghĩa
chính xác khái niệm, tránh hiểu lầm và tăng tính thuyết phục khi diễn giải vấn đề.
- Nguồn lực tu từ được dùng để thể hiện giọng điệu Phủ định trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ là các biện pháp so sánh, gồm các phương tiện ngôn ngữ sau: sao bằng (so sánh hơn), không có gì bằng (so sánh nhất). Mỗi kiểu so sánh
chỉ xuất hiện 1 lần. Xét các ví dụ sau:
(112) Rồi đâu phải trường nào cũng có điều kiện để dạy "2 trong 1", đành phải
tải bài giảng lên web của nhà trường cho học sinh tự học ở nhà. Cách làm này sao
bằng học trực tiếp, trực tuyến, thiệt cho học sinh học ở nhà. [T34]
Trong giai đoạn giãn cách vì dịch Covid-19, nhiều trường học không có điều
kiện triển khai dạy học trực tuyến đầy đủ, buộc phải tải bài giảng lên web để học sinh
tự học. Tuy nhiên, cách làm này bị so sánh là “sao bằng” với học trực tiếp hoặc trực
tuyến. So sánh này không trực tiếp bác bỏ cách dạy học gián tiếp qua bài giảng trên
web, nhưng nhấn mạnh rằng phương pháp này kém hiệu quả hơn so với học trực tiếp
hoặc trực tuyến, đồng thời nhấn mạnh sự bất cập và thiệt thòi của học sinh khi thiếu
tương tác với giáo viên và bạn bè. Giọng điệu phủ định qua biện pháp so sánh không
bằng này không chỉ phản ánh khó khăn thực tế mà còn thể hiện nỗi trăn trở của người
viết về chất lượng giáo dục trong bối cảnh dịch bệnh, khi không phải trường nào cũng
có đủ điều kiện đảm bảo dạy học hiệu quả.
(113) Không có gì quý bằng sức khỏe! [T30]
Phát ngôn “Không có gì quý bằng sức khỏe!” sử dụng cấu trúc so sánh nhất kết hợp với phủ định tuyệt đối để nhấn mạnh tầm quan trọng của sức khỏe. Nó phủ định toàn bộ khả năng tồn tại một giá trị nào cao hơn, khẳng định sức khỏe là điều quý giá nhất. Đặt trong bối cảnh dịch Covid-19, câu này càng mang ý nghĩa sâu sắc, nhắc nhở con người đề cao việc bảo vệ sức khỏe hơn bất kì điều gì khác, khi dịch bệnh đe dọa
đến tính mạng và chất lượng sống. Người viết sử dụng giọng điệu Phủ định trong (113) ngoài việc bác bỏ các ý kiến khác, còn có mục đích nhấn mạnh, khuyên nhủ, răn dạy, nhắc nhở con người đặt sức khỏe lên hàng đầu. Cách thể hiện giọng điệu Phủ
131
định bằng biện pháp so sánh (so sánh nhất) ở (113) không chỉ mang tính nhấn mạnh
mà còn có sức thuyết phục cao đối với độc giả.
Báo Nhân dân Khối ngữ liệu trên báo Nhân dân có 69 phát ngôn chứa giọng điệu đánh giá Phủ định, trong đó, các phương tiện ngôn ngữ thể hiện giọng điệu Phủ định xuất hiện 80 lần. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện giọng điệu Phủ định trên báo Nhân dân thuộc nguồn lực từ vựng - ngữ pháp.
Giọng điệu đánh giá Phủ định trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân được thể hiện qua các phương tiện ngôn ngữ sau: “không” và các kết hợp của “không” xuất hiện nhiều nhất: không còn, không thể, không có, không hề, không rõ, không đúng, không được, không tránh khỏi, không phải (xuất hiện 44 lần); “chưa” và các kết hợp của nó xuất hiện phổ biến thứ hai: chưa thể, chưa thực sự, chưa từng có, chưa có, chưa có tiền lệ, chưa được (xuất hiện 20 lần); xuất hiện ít hơn là các từ: thiếu (4 lần), mất, yếu (2 lần); kết cấu: không chỉ…mà (còn) (xuất hiện 7 lần), không phải…mà là (1 lần). Xét một số ví dụ sau:
(114) Một ngôi nhà đẹp đến mấy mà cửa chỉ mở hé thì không thể đón nhiều
khách đến chơi. [N28]
Ví dụ (114) được viết trong bối cảnh du lịch bắt đầu hoạt động trở lại sau hai năm đóng băng vì dịch Covid-19. Người viết phản đối việc muốn đón nhiều khách nhưng các chính sách về mở cửa du lịch lại không thông thoáng. Sự phản đối này được thể hiện qua động từ “không thể”.
(115) Tuy nhiên, chính sách thị thực (visa) vẫn bị coi là rào cản khiến du lịch
Việt Nam chưa thể thu hút mạnh mẽ khách quốc tế. [N28]
Chính sách thị thực (visa) của nước ta chưa được thuận lợi như các nước trong khu vực. Điều này bị coi là rào cản đối với khách du lịch quốc tế. Sự không đồng tình của người viết đối với chính sách visa dành cho khách du lịch được bộc lộ qua từ “chưa thể”.
(116) Cùng với đó, nhân lực y tế trường học còn thiếu và yếu ở nhiều địa phương dẫn đến phải huy động hầu hết cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm công tác phòng, chống dịch. [N33]
Diễn ngôn (116) được viết trong bối cảnh Việt Nam đưa trẻ trở lại trường vào thời điểm dịch Covid-19 chưa hoàn toàn được kiểm soát. Trong diễn ngôn (116), người viết thể hiện sự phủ định gián tiếp bằng cách nhấn mạnh bất cập trong y tế học đường. Tổ hợp tính từ ―thiếu và yếu‖ phủ định tính đầy đủ và chất lượng của đội ngũ nhân viên y tế học đường trong công tác phòng, chống dịch. Việc ―huy động hầu hết cán bộ, giáo viên kiêm nhiệm‖ phản ánh sự lúng túng, thiếu nhân sự chuyên trách, khiến công tác kiểm soát dịch trong trường học bị động. Giọng điệu Phủ định trong (116) có tác dụng không chỉ phê phán sự chuẩn bị chưa đầy đủ mà còn nhấn mạnh sự cần thiết của việc đầu tư vào y tế học đường để đảm bảo an toàn cho học sinh.
132
(117) Điểm kinh doanh du lịch đóng cửa, không chỉ khiến nhà đầu tư mất
nguồn thu, lỗ vốn, mà còn khiến nhiều người dân trong thôn mất đi cơ hội việc làm,
không có thu nhập. [N29]
Trong (117), người viết sử dụng kết cấu phủ định “không chỉ... mà còn” để
nhấn mạnh và làm rõ phạm vi tác động tiêu cực của việc đóng cửa điểm kinh doanh du
lịch trong thời điểm dịch Covid-19 bùng nổ. Vế đầu “không chỉ khiến nhà đầu tư mất
nguồn thu, lỗ vốn” phủ định quan điểm rằng thiệt hại chỉ dừng lại ở nhà đầu tư, còn vế
sau “mà còn khiến nhiều người dân trong thôn mất đi cơ hội việc làm, không có thu nhập” tiếp tục nhấn mạnh hậu quả nặng nề hơn, lan rộng đến cả cộng đồng. Cách diễn
đạt này vừa phủ định sự giới hạn của tác động vừa nhấn mạnh sự leo thang của tổn
thất, từ cá nhân đến tập thể, từ kinh tế đến đời sống. Nhờ đó, giọng điệu phủ định trở
nên sắc nét, tạo hiệu ứng bi quan, thể hiện rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
(118) Hy hữu còn có chuyện gần 30 gia đình có người về ăn Tết ở Thanh Hóa đã bị chính quyền xã đóng cửa và giữ chìa khóa, xảy ra mấy ngày trước…. Nhiều
chuyên gia cho rằng, việc các địa phương quy định cách ly người về quê ăn Tết như
hiện nay không còn phù hợp, cần phải thay đổi. Đây không phải là biện pháp chống
dịch mà là hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ. [N14]
Trong ví dụ (118), người viết sử dụng kết cấu phủ định đối lập “không phải...
mà là” để bác bỏ một quan điểm sai lệch và thay thế bằng một nhận định chính xác
hơn. Cụ thể, vế “đây không phải là biện pháp chống dịch” phủ định tính đúng đắn của
hành động cách ly người về quê ăn Tết, qua đó loại bỏ khả năng xem đây là một giải
pháp hợp lí. Vế tiếp theo, “mà là hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ” không chỉ bác
bỏ cách hiểu sai lầm mà còn nhấn mạnh nguyên nhân cốt lõi của vấn đề – sự hạn chế
trong nhận thức về phòng chống dịch. Giọng điệu Phủ định ở đây mang tính phản biện
mạnh mẽ, nhằm phê phán một chính sách bất hợp lí, đồng thời định hướng lại cách
hiểu đúng đắn về công tác phòng dịch.
Như vậy, có thể thấy, giọng điệu Phủ định trong các diễn ngôn bình luận trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân không chỉ có tác dụng bác bỏ, phủ định một quan điểm, ý kiến nào đó, mà còn có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định một quan điểm khác thay thế.
Việc phủ định hay nhấn mạnh quan điểm là tùy thuộc vào mục đích bình luận và chiến lược thuyết phục độc giả của người viết bình luận.
Ở cả hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, Phủ định có tần suất đứng thứ 3 trong hệ thống Giọng điệu, sau Phản lại và Trao đổi. Ngoài ra, chủ thể trong các phát ngôn đánh giá Phủ định ở cả hai báo đều là người viết nhưng bị ẩn đi.
Tuy nhiên, báo Tuổi trẻ sử dụng đánh giá Phủ định nhiều gấp 2,3 lần báo Nhân dân. Hơn nữa, các tác giả báo Tuổi trẻ sử dụng nhiều nguồn lực ngôn ngữ đánh giá để thể hiện giọng điệu Phủ định hơn các tác giả của báo Nhân dân.
133
3.2.1.2. Phản lại
Phản lại là cách thể hiện sự nhượng bộ hay mong muốn ngược lại với kì vọng
[4; 103]. Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy giọng điệu đánh giá Phản lại có tần suất cao hơn
nhiều so với các giọng điệu đánh giá khác trong hệ thống Giọng điệu. Ở báo Tuổi trẻ,
Phản lại có tần suất cao nhất (196 lần). Còn ở báo Nhân dân, Phản lại có tần suất cao
thứ hai (107 lần) trong hệ thống Giọng điệu.
Trong hai khối ngữ liệu này, Phản lại và Phủ định có tần suất cao hơn các đánh
giá khác trong hệ thống Giọng điệu vì bị chi phối bởi đặc trưng của thể loại bình luận
và mục đích của báo chí. Bình luận có chức năng bàn luận các vấn đề về mọi mặt
trong đời sống, còn mục đích của báo chí ngoài việc thông tin đến độc giả thì còn có
mục đích nêu gương và phê phán những cái xấu trong xã hội. Kết hợp cả hai yếu tố,
người viết ngoài mục đích thông tin sự thật đến độc giả còn đưa ra những bàn luận
khác nhau về các khía cạnh của vấn đề, phơi bày những hạn chế, tồn đọng, sai trái
trong xã hội, đưa ra quan điểm cá nhân, từ đó định hướng nhận thức, suy nghĩ của
người đọc. Để thể hiện những hạn chế, tồn đọng và quan điểm của bản thân về nó,
người viết sử dụng giọng điệu đánh giá Phản lại và Phủ định. Do đó, hai giọng điệu
đánh giá Phản lại và Phủ định có tần suất cao hơn các giọng điệu đánh giá khác trong
hệ thống là vậy. Ví dụ:
(119) Đa phần chủ nhà mong muốn có nơi ở tốt hơn cho người thuê nhưng xem
ra tuân thủ tiêu chí lại cản trở họ khi cải tạo, nâng cấp. [T6]
Người viết đưa ra hai phán đoán trái chiều về vấn đề nhà ở thuê cho người lao
động. Chủ nhà trọ mong muốn có thể cải tạo nhà/ phòng thuê tươm tất hơn cho người
lao động. Tuy nhiên, nếu tuân thủ theo các tiêu chí mà Nhà nước đặt ra thì chủ nhà trọ
lại không làm được vì nếu làm theo tiêu chí thì giá nhà/ phòng thuê sẽ đắt, công nhân
thì không đủ khả năng tài chính để chi trả, họ chỉ muốn thuê được chỗ ở với giá rẻ.
Khi dùng cách nói Phản lại (qua từ “nhưng”), người nói đã thể hiện quan điểm của
mình, bày tỏ thái độ chưa thật ủng hộ các tiêu chí về cải tạo nhà ở cho công nhân lao
động. Cách đánh giá này cũng là một biểu hiện của Từ chối.
(120) Mặc dù chưa thể trở về trạng thái như trước đại dịch nhưng ít nhất, tình
hình thiếu việc làm đã không còn là mối lo lắng như hệ quả của những làn sóng di cư
ngược diễn ra liên tục trong nửa cuối năm 2021 với tỷ lệ thiếu việc làm ở thành thị cao
hơn khu vực nông thôn. [N7]
Trong ví dụ (120), người viết cũng đưa ra hai phán đoán trái chiều kết cấu “mặc
dù…nhưng”. Người viết nhận định tình hình việc làm đã có sự thay đổi, chưa hồi phục
nhưng cũng đã cải thiện. Sử dụng cách nói Phản lại, người viết tỏ thái độ miễn cưỡng
chấp nhận thực tế dù nó chưa được như mong muốn.
134
Nguồn lực thể hiện Phản lại Nguồn lực ngôn ngữ đánh giá được sử dụng để thể hiện giọng điệu Phản lại
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân gồm: nguồn lực từ vựng - ngữ pháp.
Báo Tuổi trẻ Trong toàn hệ thống Giọng điệu trên báo Tuổi trẻ, có 156 phát ngôn đánh giá Phản
lại, được thể hiện qua các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng - ngữ pháp.
Các phương tiện ngôn ngữ sau được dùng để thể hiện giọng điệu Phản lại: “nhưng” và các kết hợp của “nhưng” xuất hiện phổ biến nhất: nhưng chỉ có thế, thế
nhưng, nhưng thực chất, nhưng thực tế, nhưng dù sao (xuất hiện 129 lần); tiếp đến là
các quan hệ từ: thậm chí (19 lần), trong khi (11 lần), tuy nhiên (9 lần), trong khi đó (7
lần), dù (3 lần), tuy vậy, song, trong thực tế (mỗi từ xuất hiện 2 lần), mà, mà thực chất (1 lần); các cặp từ nối hô ứng, gồm: (cho/ mặc) dù…nhưng (kết cấu này xuất hiện 11 lần), tuy…nhưng (2 lần), cho dù…thì (2 lần), cho dù…vẫn cần (1 lần). Xét một số ví
dụ sau:
(121) Trong thực tế, nơi ăn chốn ở của công nhân suốt hàng chục năm qua ít
được quan tâm, trong khi họ chính là người tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, tạo ra
hàng hóa xuất khẩu và đóng góp chính cho sự tăng trưởng của nhiều địa phương. [T2]
(122) Tuy vậy, có tiêu chí không có nghĩa là sẽ có phòng trọ đạt chất lượng mà
tùy vào vốn liếng của chủ nhà trọ và đặc biệt là khả năng chi trả của người thuê. [T6]
(123) Người lãnh đạo thành phố không nhất thiết phải là kiến trúc sư hay nhà
đô thị học, nhưng người lãnh đạo cần phải là một chính khách có một tầm nhìn xa và
rộng. [T8]
Các ví dụ (121), (122) và (123) đều có chủ thể đánh giá là người viết (ẩn). Các
chủ thể đánh giá đều đưa ra hai phán đoán trái chiều, thể hiện sự chưa hài lòng đối với
các vấn đề được đưa ra. Trong (121), người viết đề cao giá trị của công nhân đối với
sự tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp, địa phương nhưng chưa hài lòng với chính
sách quan tâm, chăm sóc điều kiện sống của họ. Sự phản ứng này của người viết được
thể hiện qua: “trong thực tế, trong khi”. Ở (122), người viết bày tỏ thái độ miễn cưỡng
chấp nhận các tiêu chí về cải thiện nhà/ phòng thuê cho người lao động, thể hiện qua
“tuy vậy” – một dấu hiệu chuyển từ kì vọng sang thực tế. Việc đạt được chất lượng
phòng trọ không chỉ phụ thuộc vào tiêu chí trên giấy tờ, mà còn tùy thuộc vào điều
kiện thực tế như vốn liếng của chủ trọ và khả năng chi trả của người thuê. Chính “tuy
vậy” đã làm nổi bật sự lệch pha giữa mong muốn chính sách và hoàn cảnh thực tiễn,
cho thấy việc hiện thực hóa các tiêu chí là điều không dễ dàng. Qua đó, người viết bày
tỏ thái độ hoài nghi và thận trọng đối với khả năng cải thiện điều kiện sống cho người
lao động. Còn trong (123), người viết bày tỏ thái độ chưa hoàn toàn đồng ý về tiêu chí
135
lựa chọn người lãnh đạo (ở vế 1: Người lãnh đạo thành phố không nhất thiết phải là
kiến trúc sư hay nhà đô thị học), đồng thời đưa ra quan điểm cá nhân về tiêu chí chọn
người lãnh đạo (ở vế 2: người lãnh đạo cần phải là một chính khách có một tầm nhìn
xa và rộng). Quan điểm của người viết được thể hiện qua sự kết hợp giữa “không nhất
thiết phải là … nhưng … phải là…‖.
(124) Giá nhà ở xã hội, dù được nhiều ưu đãi nhưng cũng lên đến 1 - 1,6 tỉ
đồng/căn, ngoài tầm tay của hàng vạn người lao động với thu nhập 5 - 10 triệu
đồng/tháng. [T6]
Giọng điệu Phản lại thể hiện sự đối lập giữa kì vọng và thực tế, thường nhằm
bộc lộ thái độ phản biện hoặc bất bình trước một vấn đề. Trong ví dụ (124), kết cấu
―dù... nhưng‖ tạo ra giọng điệu Phản lại bằng cách đối lập giữa kì vọng và thực tế. Từ
―dù‖ gợi lên mong đợi rằng các ưu đãi sẽ giúp giá nhà phù hợp với người thu nhập
thấp, tuy nhiên, từ ―nhưng‖ lại phá vỡ kì vọng này, nhấn mạnh sự bất hợp lí khi giá
vẫn quá cao. Người viết sử dụng kết cấu phản lại này nhằm bày tỏ ý kiến chưa đồng
tình của mình đối với vấn đề được đưa ra.
Báo Nhân dân Trong các phát ngôn đa thanh trên báo Nhân dân, giọng điệu đánh giá Phản lại
xuất hiện trong 107 phát ngôn. Các phương tiện ngôn ngữ hiện thực hóa Phản lại xuất
hiện 115 lần, thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp
Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện giọng điệu Phản lại trong
các diễn ngôn đa thanh trên báo Nhân dân gồm: tuy nhiên (xuất hiện 42 lần), nhưng/
thế nhưng (xuất hiện 30 lần), thậm chí (9 lần), song (6 lần), trong khi (3 lần), trong khi
đó, (mặc) dù, thực tế (xuất hiện 2 lần), trên thực tế, không chỉ, thì lại, cho dù, thực ra
(xuất hiện 1 lần); các kết cấu: (mặc) dù…nhưng (xuất hiện 9 lần), tuy…nhưng (2 lần),
tuy…vẫn, mặc dù …tuy nhiên, trong khi…thì (mỗi kết cấu chỉ xuất hiện 1 lần). Ví dụ:
(125) Tuy nhiên, cùng với những tín hiệu vui, ngay trong giai đoạn khởi động
lại, cũng xuất hiện một vài vụ việc tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và hình
ảnh du lịch Việt Nam. [N27]
Sau hai năm đóng băng vì dịch Covid-19, ngành du lịch lúc bấy giờ bắt đầu hồi
sinh, đã có những tín hiệu khả quan. Bên cạnh đó, vẫn còn một số cá nhân, tổ chức lợi
dụng tình hình chưa ổn định này để làm du lịch chui, chặt chém khách hàng, khiến
hình ảnh du lịch Việt Nam trở nên xấu đi. Người viết đã phơi bày một thực trạng đáng
buồn bên cạnh những tín hiệu vui của du lịch trong những ngày mới trở lại, bày tỏ thái
độ chưa hài lòng. Người viết sử dụng “tuy nhiên” để thể hiện cái nhìn trái ngược đó
của mình về tình hình du lịch lúc ấy.
136
(126) Với nguồn cung vắc-xin khá nhiều như hiện nay, thậm chí sang năm 2022
(dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, Việt Nam không hề thiếu vắc-
xin, thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành tiêm mũi bổ sung. [N9]
Nếu ở (125), người viết sử dụng giọng điệu Phản lại để thể hiện thái độ tiêu
cực thì trong (126), Phản lại lại được sử dụng để thể hiện sự tán thưởng của người viết
đối với khả năng của Việt Nam trong việc tìm kiếm nguồn cung vắc-xin. Thái độ này
của người viết được thể hiện qua từ “thậm chí‖. Trong (126), “thậm chí” được lặp lại
hai lần, góp phần nhấn mạnh giọng điệu đánh giá Phản lại trong phát ngôn.
(127) Chỉ trong một tuần trở lại đây các lực lượng chức năng của thành phố đã
xử phạt 96 vụ vi phạm các quy định phòng, chống dịch bệnh, với số tiền hơn 207 triệu
đồng. Ðây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, bởi các hành vi vi phạm diễn ra ở
nhiều nơi song chưa bị phát hiện và xử lý kịp thời. [N11]
Hành vi vi phạm các biện pháp phòng, chống dịch diễn ra khắp nơi, gây nguy hại cho xã hội. Ai cũng mong muốn những hành vi này bị xử lí sớm, nhưng trên thực
tế, những hành vi ấy lại chưa bị phát hiện và xử lí kịp thời. “Song” diễn tả sự trái
ngược của thực tế với kì vọng đó.
(128) Mặc dù diễn biến của đại dịch Covid-19 vẫn rất phức tạp, khó đoán định
nhưng năng lượng tích cực đã và đang trở lại với đời sống kinh tế-xã hội. [N18]
Trong (128), người viết đưa ra hai phán đoán trái ngược nhau. Phán đoán thứ
nhất là đánh giá tiêu cực về tình hình diễn biến của dịch bệnh, tạo ra suy nghĩ rằng tình
hình xã hội sẽ tiếp tục trì trệ, còn phán đoán thứ hai là đánh giá tích cực về khả năng
hồi phục của xã hội trong dịch bệnh, tạo ra một kết quả tích cực, đi ngược với suy
đoán ấy. Kết cấu “mặc dù…nhưng” không chỉ nối hai đánh giá đối lập mà còn làm nổi
bật hiệu ứng bất ngờ, nhấn mạnh sức sống nội tại của xã hội dù trong bối cảnh dịch
bệnh chưa ổn định.
Ngoài ra, qua kết quả khảo sát khối ngữ liệu ở báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng
tôi ghi nhận được: trong một phát ngôn, Phản lại thường được kết hợp với Phủ định để
nhấn mạnh thêm những hạn chế, hậu quả của những vấn đề chưa được giải quyết. Kết
quả này hoàn toàn phù hợp với nhận xét của Martin & White [4;120] rằng Phản lại
thường xuyên kết hợp với Phủ định, trong đó phán đoán Phủ định trực tiếp tương
phản/ trái ngược với kì vọng xuất hiện ở phán đoán ngay trước đó. Nhận định của
Martin & White đưa ra trên dữ liệu tiếng Anh nhưng khi khảo sát và phân tích trên dữ
liệu tiếng Việt thì cũng cho kết quả tương đồng. Điều này lần nữa khẳng định lí thuyết
về NNĐG có thể vận dụng trong tiếng Việt. Ví dụ:
(129) Nhận thức được điều trên, Bộ Y tế đã có công văn đề nghị các tỉnh thành
chấn chỉnh việc cách ly người về quê ăn Tết "mỗi nơi một phách" gây khó khăn cho
137
người dân. Tuy nhiên đến nay, phần lớn các địa phương vẫn chưa có động thái điều
chỉnh các quy định của mình. [T12]
Sự kết hợp giữa giọng điệu Phản lại (―tuy nhiên‖) và Phủ định (―chưa‖) trong
diễn ngôn (129) nhấn mạnh sự đối lập giữa kì vọng và thực tế. Bộ Y tế đã ban hành
công văn nhằm chấn chỉnh bất cập, gợi lên mong đợi về sự điều chỉnh. Tuy nhiên, từ
―tuy nhiên‖ báo hiệu một thực tế trái ngược, còn ―chưa‖ cho thấy sự trì hoãn của các
địa phương trong việc thực thi chỉ đạo. Sự kết hợp này tạo sắc thái đánh giá tiêu cực
về tính kém hiệu quả trong thực thi chỉ đạo.
(130) Bên cạnh đó, du khách đến từ những thị trường xa thường có nhu cầu đi
du lịch từ 18-21 ngày, nhưng phần lớn các quốc gia mới đang được hưởng chế độ
miễn thị thực 15 ngày, dẫn đến không thu hút được khách có khả năng lưu trú dài
ngày với mức chi tiêu cao. [N28]
Trong ví dụ (130), từ ―nhưng‖ thể hiện giọng điệu Phản lại khi đặt hai vế câu
vào thế đối lập: một bên là nhu cầu thực tế của du khách (đi du lịch từ 18-21 ngày),
bên kia là quy định miễn thị thực (chỉ 15 ngày). Điều này phá vỡ kì vọng rằng chính
sách thị thực sẽ tạo thuận lợi cho du khách quốc tế. Bên cạnh đó, từ ―không‖ trong
―không thu hút được khách‖ thể hiện sự phủ định mang tính tiêu cực. Nó nhấn mạnh
rằng chính sách hiện tại không chỉ chưa đủ hấp dẫn mà còn khiến Việt Nam mất đi
nhóm du khách có khả năng lưu trú dài ngày và chi tiêu cao. Sự kết hợp này không chỉ
phản ánh một thực tế trái ngược với kì vọng mà còn ngầm chỉ ra sự thiếu hợp lí trong
chính sách, từ đó gợi ý về nhu cầu cải thiện để nâng cao sức hút du lịch.
Như vậy, ―tuy nhiên … chưa‖ trong ví dụ (129) và “nhưng … không‖ trong
(130) được kết hợp với nhau để làm rõ thực trạng của vấn đề hoặc quan điểm phản lại
của người viết.
Có thể nói, sự kết hợp giữa giọng điệu Phản lại và Phủ định sẽ góp phần nhấn
mạnh thêm quan điểm, thái độ của người viết đối với vấn đề được nhắc đến.
3.2.2. Giọng điệu Tuyên bố trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và
Nhân dân
Tuyên bố là một tiểu loại trong nhóm Thu hẹp không gian hội thoại. Tiểu loại này gồm 03 giọng điệu đánh giá: Tán thành, Phát biểu và Xác nhận. Trong nhóm Thu hẹp hội thoại, ở cả hai báo, Tuyên bố có tần suất sử dụng ít hơn so với Từ chối. Kết quả này cho thấy, trong thể loại bình luận trên báo chí, người viết thường tập trung vào chức năng nêu thông tin, phản ánh thực trạng và hậu quả của thực trạng đó, ít tuyên bố
quan điểm cá nhân của mình trong bài bình luận. Điều đó giúp người viết tạo được sự khách quan trong bài viết, tăng sức thuyết phục đối với độc giả đồng thời tránh xa trách nhiệm đối với những vấn đề tế nhị, những phiền phức không mong muốn.
138
3.2.2.1. Tán thành
Tán thành là cách người viết thể hiện sự đồng tình của mình bằng cách nhấn
mạnh một vấn đề, một thực trạng nào đó như điều hiển nhiên, tất yếu, chính xác theo
quan điểm của người viết mà không cần tuyên bố hay chứng minh một cách rõ ràng.
Cách nói này thể hiện sự chủ quan của người viết.
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng 3.1, có thể thấy, ở báo Tuổi trẻ, Tán thành có
tần suất đứng thứ 4 trong nhóm Thu hẹp không gian hội thoại, đứng thứ 2 trong tiểu
loại Tuyên bố; còn ở báo Nhân dân, Tán thành là giọng điệu có tần suất sử dụng thấp
nhất trong trong tiểu loại Tuyên bố và cả trong nhóm Thu hẹp không gian hội thoại.
Kết quả so sánh này lần nữa khẳng định các tác giả báo Nhân dân ít thể hiện sự chủ
quan của mình trong bài viết hơn các tác giả báo Tuổi trẻ.
Ví dụ:
(131) Trên thực tế, số ca nhiễm virus trong nước đang ở mức độ rất cao, trong
khi tỉ lệ người nhập cảnh dương tính lại thấp. Điều này hiển nhiên cho thấy nguy cơ
họ bị lây nhiễm từ nguồn trong nước lớn hơn là ở chiều ngược lại. [T26]
Trong (131), giọng điệu Tán thành được thể hiện rõ qua từ ―hiển nhiên. ―Hiển
nhiên‖ mang tính độc quyền lập luận, khẳng định kết luận (nguy cơ họ bị lây nhiễm từ
nguồn trong nước lớn hơn là ở chiều ngược lại) là tất yếu, không mở ra không gian
cho ý kiến phản biện. Nó nhấn mạnh tính hợp lí và xác thực của lập luận, khiến người
đọc dễ dàng đồng thuận. Ngoài ra, ―hiển nhiên‖ còn có tác dụng tăng cường độ chắc
chắn, làm cho lập luận trở nên mạnh mẽ hơn, giảm thiểu khả năng nghi ngờ hay tranh
luận. Nhờ đó, tác giả không chỉ củng cố quan điểm của mình mà còn dẫn dắt người
đọc đến sự đồng tình, tạo nên giọng điệu khẳng định và thuyết phục.
(132) Rõ ràng dịch bệnh dù phức tạp, nguy hiểm đến đâu cũng không đáng sợ
bằng người dân mất niềm tin. [N17]
Trong ví dụ (132), người viết không sử dụng cách nói hiển ngôn như “tôi đồng
ý rằng”, “tôi tán thành” nhưng người đọc cũng có thể hiểu người viết đang hàm ẩn sự
tán đồng của mình với các nhận định trong phát ngôn thông qua từ ―rõ ràng‖. Từ ―rõ
ràng‖ khẳng định quan điểm như một chân lí hiển nhiên, không để lại không gian cho
tranh luận hay ý kiến trái chiều. Hơn nữa, việc đặt dịch bệnh và niềm tin của người
dân trong mối quan hệ so sánh gián tiếp cho thấy sự đánh giá mạnh mẽ về mức độ
nghiêm trọng của vấn đề mất niềm tin. Điều này khiến lập luận trở nên giàu cảm xúc,
định hướng người đọc đồng tình với quan điểm rằng mất niềm tin còn nguy hiểm hơn
dịch bệnh. Như vậy, nhờ cách sử dụng ―rõ ràng‖, tác giả không chỉ khẳng định quan
điểm của mình mà còn định hướng người đọc đến sự đồng thuận, tạo ra giọng điệu tán
thành, dứt khoát và thuyết phục.
139
Có thể thấy, giọng điệu Tán thành ngoài việc thể hiện quan điểm cá nhân của
người viết, còn có tác dụng tăng sức thuyết phục và định hướng người đọc đến sự
đồng tình, không để lại không gian cho bất kì ý kiến phản biện nào.
Nguồn lực thể hiện Tán thành
Giọng điệu Tán thành, trong khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, được
thể hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp.
Báo Tuổi trẻ
Tán thành xuất hiện 25 lần trong toàn khối ngữ liệu diễn ngôn bình luận trên
báo Tuổi trẻ với 15 phương tiện ngôn ngữ khác nhau, gồm: tất nhiên (xuất hiện 4 lần),
rõ ràng, không thể phủ nhận (3 lần), hiển nhiên, đúng rồi, bàn cãi gì nữa, chắc chắn
(mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 2 lần), nên nhớ rằng, cần thiết, dĩ nhiên, hợp lí, phải nhìn
nhận, là đúng, ghi nhận (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 1 lần). Xét một số ví dụ sau:
(133) Tất nhiên, giảm thuế, thậm chí đưa thuế tiêu thụ đặc biệt xăng về 0% sẽ
tạo ra giá xăng trong nước rẻ hơn, sẽ có buôn lậu, xăng dầu từ nội địa chảy ngược
qua biên giới. [T43]
Lập luận trong (133) là một cách lập luận độc quyền, khẳng định hệ quả của
việc giảm thuế là tất yếu, không mở ra không gian cho ý kiến trái chiều. Đồng thời, sự
liên kết nhân – quả giữa giảm thuế và buôn lậu đã nhấn mạnh thêm tính hiển nhiên của
vấn đề. Sự tán thành này được thể hiện qua từ “tất nhiên”. “Tất nhiên” có tác dụng
giúp cho lập luận trong diễn ngôn trở nên chắc chắn hơn, có tính thuyết phục cao hơn
và giúp định hướng người đọc đến sự đồng thuận.
(134) Rõ ràng khi tuyệt đại đa số người dân đã được tiêm chủng đầy đủ khác với
khi chưa ai hoặc chỉ rất ít người được tiêm chủng; khi thuốc và phương tiện chữa trị đã
có khác với khi thuốc và phương tiện chữa trị chưa có; khi năng lực chữa trị của ngành
y tế đã được tăng cường khác với khi chưa được tăng cường. Chúng ta cần thấy được sự
khác biệt này để tự tin mở cửa các hoạt động kinh tế - xã hội. [T15]
Người viết sử dụng từ ―rõ ràng‖ để tán thành quan điểm sẽ có sự khác biệt
trước và sau khi tiêm chủng, có thuốc chữa trị dịch bệnh. ―Rõ ràng‖ đồng thời cho
thấy mức độ tham gia cao của người viết vào phát ngôn, nhấn mạnh niềm tin mạnh mẽ
vào khả năng kiểm soát tình hình dịch bệnh.
(135) Còn về mốc thời gian, bàn cãi gì nữa khi đã 2 năm rồi chưa tăng, phải
tăng ngay và mốc 1-7 năm nay là hợp lý. [T5]
Tổ hợp từ ―bàn cãi gì nữa‖ khẳng định rằng việc tăng lương vào thời điểm bấy giờ là tất yếu. Đồng thời, từ ―hợp lý‖ được đặt sau một loạt lập luận mang tính thúc giục (―bàn cãi gì nữa‖, ―phải tăng ngay‖) giúp nhấn mạnh mức độ chắc chắn, củng cố lập trường và hướng người đọc đến sự đồng thuận. Như vậy, việc sử dụng tổ hợp từ
140
―bàn cãi gì nữa‖ và từ ―hợp lý‖ cho thấy tác giả hoàn toàn đồng tình với quyết định
này và xem đó là phương án đúng đắn nhất.
Báo Nhân dân Trong khối ngữ liệu về hệ thống Giọng điệu trên báo Nhân dân, giọng điệu
đánh giá Tán thành chỉ xuất hiện 11 lần với 7 phương tiện ngôn ngữ, gồm: cần thiết,
không thể phủ nhận, rõ ràng, chắc chắn (mỗi từ/ tổ hợp từ xuất hiện 2 lần), các từ còn
lại chỉ xuất hiện 1 lần: việc cần thiết, tất nhiên, cấp thiết.
(136) Một khi tinh thần không thoải mái chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng đến chất
lượng giờ dạy. [N30]
(137) Vì vậy, việc mở cửa, đưa học sinh, sinh viên đến trường là cần thiết. [N31]
Ví dụ (136), (137) đều là các phát ngôn thể hiện sự đồng tình của người viết.
Trong (136), người viết thừa nhận rằng khi tinh thần giáo viên không thoải mái thì giờ dạy sẽ không đạt chất lượng cao; còn ở (137), người viết hoàn toàn đồng ý với đề xuất nên mở cửa trường học cho học sinh, sinh viên đến trường. Những sự đồng tình này
được thể hiện bằng các từ ―chắc chắn‖, ―cần thiết‖.
Các tác giả báo Tuổi trẻ sử dụng giọng điệu Tán thành nhiều hơn các tác giả ở
báo Nhân dân. Nhưng nhìn chung, cả hai khối ngữ liệu đều ít sử dụng Tán thành để
nêu ra tuyên bố của người viết. Ngoài ra, nguồn lực để hiện thực hóa Tán thành ở hai
báo có sự tương đồng nhau về diễn đạt. Tuy nhiên, báo Tuổi trẻ có phương tiện ngôn
ngữ diễn đạt Tán thành phong phú hơn báo Nhân dân.
3.2.2.2. Phát biểu
Phát biểu là các biểu đạt thể hiện sự nhấn mạnh của tác giả hay những nội suy,
can thiệp công khai của tác giả vào nội dung được trình bày sẵn trong văn bản [4;108].
Ví dụ:
(138) Tôi nhận thấy ông Nên đã nắm bắt được chìa khóa của tiến trình phát
triển mang tính bền vững. [T8]
Theo hệ thống Giọng điệu trong khung lí thuyết đánh giá của Martin và White,
phát ngôn (138) thuộc giọng điệu Phát biểu. Trước hết, phát ngôn này không phải là một tuyên bố mang tính tuyệt đối mà nó phản ánh quan điểm của người nói. Kết cấu
―tôi nhận thấy‖ thể hiện ý kiến cá nhân, cho thấy phát ngôn này không phải một chân lí hiển nhiên mà là một nhận định mang tính chủ quan. Đồng thời, phát ngôn (138) thu hẹp không gian hội thoại bởi nó không mở ra không gian cho sự tranh luận mà củng cố niềm tin vào nhận định được đưa ra. Trong (138) người viết đã nhấn mạnh sự thành công của ông Nên, thể hiện sự ủng hộ rõ ràng của mình đối với ông ấy.
(139) Nếu thử đặt mình vào vị thế của người làm thuê, nhất là công nhân trong các nhà xưởng, bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy cuộc sống của họ quá khó khăn bởi
141
lương thấp, vật giá leo thang trong khi dịch bệnh hơn hai năm qua càng đẩy miếng
cơm manh áo của họ thêm cơ cực. [T5]
Phát biểu là giọng điệu thể hiện lập trường, quan điểm của người nói một cách
rõ ràng, trực tiếp và dứt khoát. Ví dụ (139) thể hiện rõ giọng điệu Phát biểu, vì người
viết bày tỏ một quan điểm dứt khoát, không mang tính chất dò hỏi hay mời gọi thảo
luận. Người viết sử dụng ―bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy‖ để nhấn mạnh tính hiển
nhiên, không cần bàn cãi của vấn đề. Không có sự cân nhắc nhiều chiều hay đặt câu
hỏi mở, mà thay vào đó là một lập luận chặt chẽ, sử dụng các yếu tố cụ thể như lương
thấp, vật giá leo thang, ảnh hưởng của dịch bệnh để củng cố nhận định rằng người lao
động đang gặp khó khăn nghiêm trọng.
(140) Có thể thấy, trên tinh thần của nghị quyết, việc huy động làm thêm giờ
vẫn phải dựa trên thỏa thuận với người lao động, người lao động không có nhu cầu
hoặc sức khỏe không bảo đảm có thể không làm thêm giờ. [N4]
Mặc dù phát ngôn (140) không mang tính tuyên bố mạnh mẽ như phát ngôn
(138) và (139) nhưng nó vẫn thể hiện rõ giọng điệu Phát biểu vì nó bày tỏ một nhận
định rõ ràng, mang tính khẳng định và không mở ra không gian đối thoại hay tranh luận.
Người viết sử dụng tổ hợp động từ ―có thể thấy‖, ngụ ý rằng điều được đề cập là hiển
nhiên, dễ nhận biết, qua đó hướng người đọc đến một kết luận cụ thể. Nội dung trình
bày một quan điểm rõ ràng về nguyên tắc huy động làm thêm giờ, khẳng định rằng điều
này phải dựa trên thỏa thuận với người lao động, đồng thời nhấn mạnh quyền từ chối
của họ nếu không có nhu cầu hoặc không bảo đảm sức khỏe. Cách diễn đạt mang tính
xác quyết, không chứa yếu tố suy đoán, mà chỉ tập trung vào việc trình bày thông tin
theo một lập trường nhất định. Điều này cho thấy giọng điệu Phát biểu trong (140) có
tính định hướng cao, thiên về tuyên bố một thực tế hơn là mời gọi tranh luận.
Như vậy, cả 3 ví dụ đều thể hiện cách nhìn nhận, quan điểm của người viết
thông qua thực tế được trình bày trong văn bản bình luận. Những phát biểu này được
nhận diện qua các phương tiện ngôn ngữ: “tôi nhận thấy‖ (138), “ai cũng dễ dàng
nhận thấy‖ (139), “có thể thấy‖ (140).
Qua kết quả khảo sát ở bảng 3.1, có thể thấy các tác giả của báo Tuổi trẻ sử
dụng giọng điệu đánh giá Phát biểu nhiều hơn các tác giả ở báo Nhân dân. Điều này
cho thấy các tác giả báo Tuổi trẻ có sự can thiệp chủ quan vào phát ngôn bình luận
nhiều hơn các tác giả báo Nhân dân.
Nguồn lực thể hiện Phát biểu
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy giọng điệu Phát biểu trong các diễn ngôn bình
luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được thể hiện qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp.
142
Báo Tuổi trẻ Giọng điệu đánh giá Phát biểu xuất hiện 32 lần trong toàn bộ khối ngữ liệu trên
báo Tuổi trẻ, được diễn đạt qua 21 phương tiện ngôn ngữ khác nhau thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, gồm: cho thấy (xuất hiện 5 lần), có thể nói (5 lần), có thể thấy,
thực tế, thật ra (mỗi từ/ tổ hợp từ này xuất hiện 2 lần), các từ/ tổ hợp từ/ kết cấu xuất
hiện 1 lần gồm: nói một cách sòng phẳng, ai cũng biết, ai cũng dễ dàng nhận thấy,
thực chất, có thể hiểu, nói cho cùng, tôi nhận thấy, chúng ta sẽ thấy rất rõ, thực sự,
chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng, điều này cũng dễ hiểu, tôi vẫn tin rằng, theo tôi, như một thực tế rõ ràng, sòng phẳng ra, mọi người đều hiểu rằng.
Ví dụ:
(141) Đó là lời phát biểu của Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên tại
buổi làm việc với Ban thường vụ Huyện ủy Hóc Môn sáng 8-6, cũng có thể hiểu đó là thông điệp quan trọng của lãnh đạo thành phố gửi đến lãnh đạo các huyện đang nôn nóng bỏ qua giai đoạn quá độ lên quận để tiến thẳng lên thành phố trực thuộc
TP.HCM. [T8]
Ví dụ (141) thể hiện một quan điểm rõ ràng, khẳng định chắc chắn về ý nghĩa
của lời phát biểu của Bí thư Thành ủy TP.HCM (thành phố Hồ Chí Minh) Nguyễn Văn
Nên. Diễn ngôn (141) không mang tính chất nghi vấn hay mời gọi tranh luận mà trực tiếp diễn giải và nhấn mạnh một thông điệp quan trọng từ lãnh đạo thành phố. Tổ hợp động từ ―có thể hiểu‖ mang sắc thái định hướng tư duy người đọc, cho thấy tác giả
đang diễn giải lại ý nghĩa lời phát biểu Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên tại
buổi làm việc với Ban thường vụ Huyện ủy Hóc Môn theo một góc nhìn cụ thể. Đặc
biệt, cụm ―gửi đến lãnh đạo các huyện đang nôn nóng‖ thể hiện sự đánh giá về tình
hình thực tế, trong đó nhấn mạnh sự vội vã của một số huyện muốn bỏ qua giai đoạn
quá độ để tiến thẳng lên thành phố trực thuộc TP.HCM. Điều này không chỉ trình bày
thông tin mà còn ngầm thể hiện một lập trường nhất định. Nhìn chung, toàn bộ câu có
tính khẳng định mạnh mẽ, mang sắc thái định hướng, không mở ra đối thoại hay thảo
luận đa chiều, thể hiện rõ quan điểm cá nhân của người viết.
(142) Nhìn những khách sạn trống vắng hiện nay, khi chúng ta đã "bình thường
mới" lâu rồi, tôi vẫn tin rằng nếu thật sự chúng ta mong muốn tạo động lực kích cầu du lịch quốc tế thì việc phải làm bây giờ là xây dựng chính sách công bằng cho du khách từ nước ngoài, tương tự như các điều kiện áp dụng cho du khách nội địa. [T26] Ví dụ (142) thể hiện rõ lập trường cá nhân và sự khẳng định chắc chắn của người viết đối với vấn đề cách thức kích cầu du lịch quốc tế thông qua ―tôi vẫn tin
rằng‖. Đại từ ―tôi‖ nhấn mạnh quan điểm cá nhân, trong khi phó từ ―vẫn‖ cho thấy niềm tin này đã được hình thành từ trước và tiếp tục duy trì đến hiện tại, bất chấp những thay đổi trong bối cảnh. Chính sự tiếp diễn ấy gợi ra một thái độ kiên định và
143
nhất quán của người viết. Kết cấu ―tôi vẫn tin rằng‖ cũng thể hiện rõ mức độ tham gia
sâu sắc của người viết trong phát ngôn.
(143) Từ sự phấn khởi của du lịch dịp lễ giỗ Tổ, nhìn ra một làn sóng du lịch sẽ bùng nổ tiếp theo trong dịp 30-4 và 1-5 và các kỳ nghỉ dài ngày khác trong năm,
ngành du lịch Việt Nam cần phải làm gì trong thời gian tới? Theo tôi, ngành du lịch
cần xác định đây là "cơ hội vàng" để xây dựng lại thương hiệu du lịch Việt Nam
chuyên nghiệp hơn. [T28]
Cụm ―Theo tôi‖ trong (143) đóng vai trò nhấn mạnh rằng đây là quan điểm cá nhân của người viết nhưng được đưa ra với sự tự tin và xác quyết. Chủ thể đánh giá
được thể hiện trực tiếp bằng đại từ “tôi” đã góp phần nhấn mạnh thêm mức độ tham
gia của người viết vào phát ngôn.
Báo Nhân dân Trong khối ngữ liệu về hệ thống Giọng điệu trên báo Nhân dân, giọng điệu Phát biểu xuất hiện 20 lần, được thể hiện qua 5 phương tiện ngôn ngữ khác nhau,
gồm: cho thấy (xuất hiện 11 lần), có thể thấy (3 lần), có thể nói (3 lần), trên thực tế (2
lần), chúng tôi nhận thấy (1 lần). Ví dụ:
(144) Có thể nói, người lao động cũng đã hết sức chia sẻ, thắt lưng buộc bụng
cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. [N5]
Thông qua quan sát thực tế đời sống của người lao động và doanh nghiệp trong
thời kì dịch Covid-19 diễn ra, người viết đã đưa ra quan điểm của mình về sự đồng hành
và chia sẻ khó khăn của người lao động đối với doanh nghiệp. Người viết, trong (144),
đã thể hiện quan điểm rõ ràng và chắc chắn về tinh thần cảm thông, cùng gánh vác của
người lao động trong giai đoạn khó khăn. Phát biểu này được thể hiện bằng tổ hợp động
từ “có thể nói‖. Với giọng điệu Phát biểu, người viết không đưa ra khả năng phản biện
hay góc nhìn đa chiều mà trực tiếp khẳng định một thực tế, tạo nên giọng điệu dứt
khoát, chắc chắn, có tính thuyết phục cao.
(145) Những ―mảnh ghép‖ cuối cùng là hàng không, du lịch, giáo dục và các
hoạt động vui chơi, giải trí cũng đang được khôi phục, cho thấy sự trở lại rõ nét của cuộc sống bình thường mới. [N18]
Dựa trên tình hình thực tế của các hoạt động giáo dục, du lịch, hàng không…,
người viết đã đưa ra phát biểu về sự trở lại của cuộc sống bình thường mới. Giọng điệu
Phát biểu được hiện thực hóa bằng ―cho thấy‖. Trước hết, ―cho thấy‖ là một tổ hợp
từ mang tính kết luận, nhấn mạnh sự rõ ràng và tất yếu của vấn đề được đề cập. Nó
không mang sắc thái suy đoán, nghi vấn hay mở ra nhiều khả năng khác mà trực tiếp
khẳng định một thực tế: ―sự trở lại rõ nét của cuộc sống bình thường mới‖. Điều này
khiến phát ngôn mang tính định hướng cao, dẫn dắt người đọc đến một nhận định cụ
thể mà không tạo không gian cho tranh luận. Ngoài ra, ―cho thấy‖ có tác dụng củng cố
144
lập luận, làm cho quá trình phục hồi của hàng không, du lịch, giáo dục và giải trí
không chỉ là những sự kiện riêng lẻ mà là bằng chứng rõ ràng của sự trở lại mạnh mẽ
của đời sống bình thường mới. Sự chắc chắn này giúp (145) có tính tuyên bố, ít (hoặc
không) mang sắc thái cá nhân mà nhấn mạnh một thực tế hiển nhiên.
(146) Thực tế cho thấy, suốt một thời gian dài học sinh không được giao tiếp,
gặp gỡ bạn bè, thiếu tương tác với thầy giáo, cô giáo, nhiều em đã thay đổi tâm lý,
bộc lộ các dấu hiệu mệt mỏi, buồn chán, mất ngủ, nghiện game, gặp phải các vấn đề
về mắt... [N34]
Người viết dựa trên biểu hiện thực tế của các em học sinh trong thời kì nghỉ học
hoặc học trực tuyến vì dịch Covid-19, đưa ra nhận định rằng việc thiếu tương tác trực
tiếp giữa người với người đã gây nên những thay đổi tiêu cực về thể chất và tinh thần
đối với các em. Chủ thể đánh giá trong (146) là người viết nhưng bị ẩn đi, tuy nhiên
người đọc vẫn có thể nhận ra nhận định này là của người viết thông qua cách diễn đạt
“thực tế cho thấy”.
3.2.2.3. Xác nhận
Một trong những cách tuyên bố quan điểm của người viết là thông qua việc
người viết thừa nhận một phán đoán ngoài văn bản là chính xác, có giá trị, không thể
phủ nhận. Cách này là giọng điệu đánh giá Xác nhận. Trong khối liệu diễn ngôn bình
luận trên báo chí, Xác nhận được người viết thừa nhận là đúng dựa trên các căn cứ, kết
quả đã được chứng minh trước đó, khác với Tán thành là thừa nhận một cách chủ
quan, không dựa trên căn cứ nào. Xét một số ví dụ sau:
(147) Số liệu thống kê của Bộ Công thương cho thấy, việc liên tục chi sử dụng
và ngừng trích lập hoặc trích lập quỹ ở mức thấp (100-300 đồng/lít xăng, dầu) khiến
quỹ bị âm, nhiều doanh nghiệp bị âm quỹ với mức lớn. [N45]
(148) Khảo sát của Sở Xây dựng TP.HCM cuối năm 2021 cho thấy với hơn
551.000 phòng trọ (hơn 1,41 triệu người ở), có đến hàng ngàn phòng trọ không đủ
chuẩn về diện tích, kể cả nước sạch, điện đóm. [T6]
Trong (147) và (148), các tác giả đều sử dụng kết cấu “Y cho thấy” để xác nhận
những nội dung phía sau trong phát ngôn là đúng. Y là những cơ sở để chứng minh
cho những điều người viết nêu lên là chính xác. Trong (147), Y là số liệu thống kê của
Bộ Công thương; trong (148), Y là kết quả khảo sát của Sở Xây dựng TP.HCM cuối
năm 2021.
Qua khảo sát hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi chỉ ghi
nhận được 6 trường hợp trên báo Tuổi trẻ sử dụng giọng điệu đánh giá Xác nhận, còn
trên báo Nhân dân có 20 trường hợp.
145
Nguồn lực thể hiện Xác nhận Giọng điệu Xác nhận trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân được thể hiện qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp. Các phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng để hiện thực hóa giọng điệu Xác
nhận được chúng tôi trình bày dưới dây.
Báo Tuổi trẻ Giọng điệu đánh giá Xác nhận, trong khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ, chỉ xuất
hiện 6 lần với 5 phương tiện ngôn ngữ khác nhau, gồm: phải thừa nhận thực tế (2), số liệu thống kê cho thấy (1), khảo sát … cho thấy (1), các thông số khác … cũng cho
thấy (1), theo nghiên cứu… (1). Ví dụ:
(149) Cụ thể số liệu thống kê cho thấy nếu như cả năm 2020 tại TP.HCM chỉ
có 597 người nghỉ việc thì đến năm 2021 con số này tăng gần gấp đôi khi có hơn 1.000 người. [T3]
Ví dụ (149) là một phát ngôn thuộc giọng điệu Xác nhận, vì người viết không
mở ra không gian cho các ý kiến khác, mà khẳng định thông tin một cách chắc chắn
dựa trên số liệu thống kê. Giọng điệu Xác nhận trong (150) được thể hiện qua diễn đạt
―số liệu thông kê cho thấy‖. Việc trích dẫn số liệu cụ thể như ―597 người nghỉ việc‖
và ―hơn 1.000 người‖ góp phần củng cố độ tin cậy, trong khi ―số liệu thông kê cho
thấy‖ nhấn mạnh tính xác thực của thông tin mà không mở ra khả năng diễn giải khác.
Ngoài ra, phát ngôn (149) không chứa các yếu tố đánh giá cá nhân hay giả định, mà
tập trung vào việc trình bày dữ kiện một cách khách quan. Điều này giúp củng cố độ
tin cậy của nội dung nhưng cũng làm hạn chế tính đối thoại, bởi nó không thừa nhận
khả năng có quan điểm khác.
(150) Nhưng phải thừa nhận thực tế trong số nhân viên y tế xin nghỉ việc có
không ít người đã tìm được ―bến đỗ‖ mới tốt hơn về cả điều kiện vật chất lẫn môi
trường làm việc để phát triển kỹ năng nghề nghiệp. [T3]
Ví dụ (150) là một phát ngôn mang tính xác nhận, khẳng định chắc chắn, không
để ngỏ không gian cho sự tranh luận hay quan điểm khác. Tổ hợp từ ―phải thừa nhận thực tế‖ nhấn mạnh rằng điều được nêu ra là một sự thật hiển nhiên, không thể phủ
nhận. Chính giọng điệu Xác nhận này giúp tăng tính thuyết phục của phát ngôn, nhưng cũng hạn chế tính đối thoại vì không thừa nhận khả năng có quan điểm trái chiều.
(151) Các thông số khác xung quanh dịch COVID-19 trong tháng qua cũng cho thấy dù tổng số ca mắc cao gần gấp 7 lần so với tháng trước, số khỏi bệnh cũng cao hơn gần 7 lần, số tử vong và chuyển nặng đều giảm. [T18]
Kết cấu ―các thông số khác … cũng cho thấy‖ trong (151) được người viết dùng để thể hiện giọng điệu Xác nhận. Nó có tác dụng nhấn mạnh rằng các thông số thống kê đã tự chứng minh thực tế, không cần đến suy đoán hay ý kiến chủ quan. Việc
146
sử dụng số liệu cụ thể như ―tổng số ca mắc cao gần gấp 7 lần‖ và ―số khỏi bệnh cũng
cao hơn gần 7 lần‖ giúp củng cố tính khách quan, trong khi sự tương quan giữa các
chỉ số làm tăng sức thuyết phục của thông tin. Cách diễn đạt này không để ngỏ khả năng có yếu tố tác động khác, khiến lập luận trở nên chắc chắn, không tạo không gian
cho tranh luận.
Báo Nhân dân Trong khối ngữ liệu trên báo Nhân dân, giọng điệu đánh giá Xác nhận xuất hiện
20 lần, thể hiện qua 15 phương tiện ngôn ngữ sau: theo thống kê của Y (xuất hiện 3 lần), theo khảo sát của Y , số liệu của Y cho thấy, nghiên cứu của Y cho thấy (xuất hiện
2 lần), theo số liệu của Y, những con số đó cho thấy, dựa trên khảo sát ... nghiên cứu
chỉ ra rằng, bản đồ cấp độ dịch Covid-19… công bố cho thấy, kết quả đó cho thấy,
cập nhật đánh giá cấp độ dịch Covid-19 cho thấy, thống kê của Y cho thấy, cập nhật mới nhất về cấp độ dịch Covid-19 trong cả nước cũng cho thấy, qua báo cáo theo dõi và giám sát công tác tiêm chủng cho thấy, theo báo cáo của Y, trên thực tế (xuất hiện
1 lần). Trong đó, Y là các chủ thể đưa ra những kết quả nghiên cứu, những số liệu
thống kê mà người viết dựa vào đó để xác nhận. Ví dụ:
(152) Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), trong hơn 2 năm qua đã có khoảng 90% doanh nghiệp buộc cho người lao động
thôi việc do hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả. [N3]
Thông tin trong (152) được dẫn từ một tổ chức có uy tín, nhưng không có sự
hoài nghi hay đặt vấn đề về độ chính xác của nó. Người viết ngầm xác nhận rằng khảo
sát này là đáng tin cậy, không mở ra không gian cho bất kì ý kiến nào. Sự xác nhận
này được thể hiện qua cụm ―Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI)‖. Đây là một cách trích dẫn có tính xác thực cao, khiến thông
tin trở nên gần như không thể bị bác bỏ. Hơn nữa, con số ―khoảng 90%‖ dù mang tính
ước lượng nhưng vẫn tạo cảm giác chắc chắn, khiến người đọc khó phản biện về tính
chính xác của dữ liệu.
(153) Dựa trên khảo sát với 2.000 nhân viên y tế các cấp, triển khai từ tháng 9 đến tháng 11/2021, nghiên cứu chỉ ra rằng: Khoảng 60% số nhân viên y tế phải
đảm nhận khối lượng công việc, thời gian làm việc tăng đáng kể trong thời gian diễn ra đại dịch Covid-19. [N10]
Phát ngôn (153) có tính chất thu hẹp không gian đối thoại vì nó củng cố lập
trường nhất định và ít mở ra cơ hội cho các quan điểm khác. Phát ngôn mở đầu bằng
―dựa trên khảo sát với 2.000 nhân viên y tế các cấp‖, cho thấy dữ liệu đến từ một
nghiên cứu thực tế. Việc nhắc đến số lượng mẫu khảo sát cụ thể (2.000 nhân viên y tế)
làm tăng tính thuyết phục, khiến người đọc ít có cơ hội nghi ngờ độ tin cậy của thông
tin. Cụm ―nghiên cứu chỉ ra rằng‖ mang sắc thái kết luận rút ra từ nghiên cứu, tạo cảm
147
giác thông tin này là khách quan và không cần tranh luận, không để ngỏ khả năng diễn
giải khác. Ngoài ra, số liệu ―khoảng 60%‖, tuy có sự ước lượng nhưng vẫn tạo cảm giác
chắc chắn, thu hẹp không gian đối thoại và giảm khả năng tranh luận về mức độ ảnh
hưởng của đại dịch. Như vậy, (153) là phát ngôn thuộc giọng điệu Xác nhận trong hệ
thống Giọng điệu theo lí thuyết NNĐG. Phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện
giọng điệu Xác nhận trong (153) là ―dựa trên khảo sát với 2.000 nhân viên y tế các cấp,
triển khai từ tháng 9 đến tháng 11/2021, nghiên cứu chỉ ra rằng‖.
(154) Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, số mắc tăng cao nhất trong ba tuần
đầu của tháng 3 rồi sau đó giảm mạnh; trung bình trong 7 ngày qua cả nước chỉ còn
3.237 ca nhiễm mới và hai ca tử vong mỗi ngày, trong đó, ngày 3/5 cả nước chỉ ghi
nhận 2.709 ca mắc mới và không có tử vong; ngày 8/5 có 2.269 ca mắc mới và 1 ca
tử vong. [N19]
Thông tin trong (154) được trích dẫn từ một nguồn chính thống là ―thống kê
của Bộ Y tế‖, thể hiện rằng dữ liệu này có tính khách quan và đáng tin cậy. Cách dẫn
nguồn này không mở ra khả năng nghi ngờ hay phản biện về độ chính xác của số liệu
mà thay vào đó củng cố cho lập trường của người viết. Người viết Xác nhận những tin
tức được đưa ra trong (154) là chính xác. Sự xác nhận này được thể hiện qua ―thống
kê của Bộ Y tế cho thấy‖.
Các ví dụ (149), (150), (151) trên báo Tuổi trẻ và các ví dụ (152), (153), (154)
trên báo Nhân dân đều là những xác nhận của người viết được rút ra từ những ý kiến,
nghiên cứu, khảo sát trước đó. Các ví dụ này đều có chủ thể là người viết nhưng đã
được ẩn đi. Cách sử dụng giọng điệu Xác nhận nhưng ẩn chủ thể này giúp các nhận
định/ tuyên bố của người viết khách quan hơn và có sức thuyết phục cao hơn.
Đối chiếu hai khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, chúng tôi nhận ra cả
hai báo có sự tương đồng với nhau về phong cách sử dụng Xác nhận: đều ẩn chủ thể
đánh giá, người viết đưa ra quan điểm của mình dựa trên những kết quả khảo sát,
nghiên cứu đã được chứng minh.
Nhận xét
Qua kết quả khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương
đồng về nguồn lực thể hiện các giọng điệu trong tiểu hệ thống Thu hẹp không gian hội
thoại giữa báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Chỉ có một số điểm khác biệt nhỏ đó là:
Thứ nhất, về phương tiện ngôn ngữ để thể hiện các giọng điệu Thu hẹp không gian
hội thoại, báo Tuổi trẻ sử dụng phương tiện ngôn ngữ phong phú hơn báo Nhân dân.
Thứ hai, về chủ thể đánh giá, cả hai báo đều có chủ thể phát biểu là người viết
nhưng báo Tuổi trẻ thường thể hiện chủ thể đánh giá một cách hiển ngôn, thông qua
các đại từ nhân xưng và phiếm chỉ (ai, tôi, chúng ta), còn báo Nhân dân thì chủ thể
148
đánh giá hầu như bị ẩn đi, chỉ có 1 lần chủ thể được thể hiện trực tiếp (chúng tôi nhận
thấy). Chủ thể đánh giá hiển ngôn có thể tham gia vào việc nhấn mạnh quan điểm của
tác giả trong văn bản.
Tất cả những khác biệt này cho thấy mức độ tham gia và thể hiện quan điểm chủ
quan trong bài viết của các tác giả ở báo Tuổi trẻ cao hơn các tác giả ở báo Nhân dân. 3.3. Tiểu hệ thống mở rộng không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Mở rộng không gian hội thoại có thể hiểu là giọng văn tách biệt khỏi phán đoán trong văn bản. Nó có hiệu quả là để lại khoảng không cho các lựa chọn thay thế. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại (dialogic expansion) gồm 2 phương thức thể hiện: Trao đổi (Entertain) và Quy gán (Attribution). 3.3.1. Giọng điệu Trao đổi trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân Giọng điệu Trao đổi là một trong những phương thức để tác giả tương tác với
độc giả của văn bản. Khi sử dụng Trao đổi, tác giả chỉ rõ rằng quan điểm của mình chỉ
là một trong những khả năng có thể xảy ra. Ở một chừng mực nhất định, nó đã mở
rộng không gian đối thoại cho những ý kiến, khả năng khác. Xét một số ví dụ sau:
(155) Trong tình hình hiện nay, công tác phòng chống dịch có lẽ đã bước sang
một giai đoạn mới. [T15]
(156) Đời sống, thu nhập gặp nhiều khó khăn có thể là một trong những nguyên
nhân gây rạn nứt quan hệ lao động tại doanh nghiệp. [N5]
Trong hai ví dụ (155) và (156), chủ thể đánh giá là người viết (đã ẩn). Trong
(155), người viết cho rằng công tác phòng chống dịch đã có sự thay đổi và bước sang
giai đoạn mới; ở (156), người viết cho rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
xung đột tại doanh nghiệp là do đời sống, thu nhập của công nhân thấp, một thời gian dài doanh nghiệp lại chưa tăng lương. Tuy nhiên, người viết không hoàn toàn khẳng
định những nhận định, quan điểm của mình trong các phát ngôn trên là chính xác và duy
nhất. Người viết luôn chào đón các ý kiến khác nhau liên quan đến các vấn đề đó, do đó
mở rộng không gian hội thoại. Điều này được thể hiện bằng các từ “có lẽ‖, ―có thể”.
Quan sát kết quả khảo sát ở bảng 3.1, ở báo Tuổi trẻ, Trao đổi có tần suất cao
thứ hai trong hệ thống Giọng điệu, chỉ sau Phản lại, xuất hiện 181(/647) lượt; ở báo Nhân dân, Trao đổi xuất hiện 175 (/458) lượt, có tần suất cao nhất trong hệ thống Giọng điệu. Điều này cho thấy các tác giả ở hai báo đều chú trọng đến việc tương tác với độc giả, mở rộng không gian hội thoại để độc giả có thể trao đổi, đưa ra ý kiến của họ về các phán đoán trong văn bản.
Nguồn lực thể hiện Trao đổi Giọng điệu Trao đổi trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân được thể hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp (gồm các từ, tổ hợp từ).
149
Báo Tuổi trẻ - Giọng điệu đánh giá Trao đổi trên báo Tuổi trẻ được hiện thực hóa bằng 30
phương tiện ngôn ngữ khác nhau, gồm: cần (48 lần), có thể (32 lần), phải (31 lần), có lẽ (12 lần), đừng (10 lần), liệu (9 lần), cần phải (9 lần), nên (8 lần), hãy (2 lần), không
nên (2 lần), dường như (3 lần), có chăng, không nhất thiết phải là, chưa chắc, lẽ nào,
để có thể…thì phải, không hay, làm sao, không hiểu vì sao, sao có thể, giả sử, e rằng,
không lẽ, lẽ ra, xem như, thôi thì (xuất hiện 1 lần).
Xét một số ví dụ sau: (157) Tuy nhiên, cũng cần đặt ra trách nhiệm lớn cho các nhà máy lọc hóa dầu
trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. [T39]
Trong (157), người viết đưa ra đề nghị để xử lí tình trạng khan hiếm xăng dầu
lúc bấy giờ. Đề nghị của người viết được thể hiện bằng từ “cần”. ―Cần‖ thể hiện một dạng mở rộng giọng điệu theo hướng gợi ý, tức là thừa nhận khả năng tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau (chẳng hạn: tăng cường nhập khẩu, sử dụng quỹ bình ổn giá
hay can thiệp từ phía Nhà nước, …), nhưng vẫn đề xuất một lập trường nhất định (lựa
chọn nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp trong nước như một hướng đi quan trọng).
(158) Nhận thức được điều trên, Bộ Y tế đã có công văn đề nghị các tỉnh thành
chấn chỉnh việc cách ly người về quê ăn Tết ―mỗi nơi một phách‖ gây khó khăn cho
người dân. Tuy nhiên đến nay, phần lớn các địa phương vẫn chưa có động thái điều
chỉnh các quy định của mình… Đó là chưa nói tới rủi ro các quy định có thể được
điều chỉnh, nhưng tính hợp lý vẫn chưa chắc đã đạt được. [T12]
Người viết đưa ra phán đoán về việc các địa phương sẽ điều chỉnh quy định
cách ly người về quê ăn Tết, nhưng hiệu quả của chúng thì có thể chưa làm hài lòng
người dân. Người viết dùng “có thể” và “chưa chắc” để thể hiện phán đoán của mình
chỉ là một trong những nhận định, đôi khi không chính xác, để lại khoảng không gian
cho những phán đoán khác. Cách dùng “có thể‖, “chưa chắc” cũng góp phần giảm nhẹ
mức độ khẳng định của phát ngôn và mức độ tham gia của người viết trong phán đoán.
(159) Nút thắt lớn nhất của ngành giáo dục, và có lẽ cũng là của nhiều gia
đình, chính thức được gỡ từ hôm nay (14-2) khi hàng triệu học sinh mầm non, tiểu
học, lớp 6 của TP.HCM và nhiều địa phương trong cả nước trở lại trường sau nhiều
tháng liền học ở nhà vì dịch COVID-19. [T32]
Trong ví dụ (159), người viết không khẳng định tuyệt đối rằng nút thắt của cả
nước (ngành giáo dục, nhiều gia đình) là việc trẻ em chưa được đến trường trong thời
gian dài vì dịch bệnh. Phán đoán mang tính giả định này được người viết thể hiện qua
từ ―có lẽ‖. ―Có lẽ‖ thể hiện sự thừa nhận rằng có thể tồn tại các cách nhìn nhận khác
150
nhau về vấn đề này. Cách diễn đạt này mở không gian cho người đọc có thể suy xét và
cân nhắc các yếu tố khác có thể cũng quan trọng.
(160) Với con số CPI trong quý 1 chỉ tăng 1,92%, dường như giá cả tăng chưa
được cơ quan thống kê ghi nhận trong quý 1-2022. [T42]
Người viết không hoàn toàn khẳng định mà chỉ đưa ra cách nhìn nhận chủ quan
của bản thân về vấn đề cơ quan thống kê chưa ghi nhận việc giá cả đã tăng. Người viết
vừa thể hiện rằng phán đoán của mình có thể chưa hoàn toàn chính xác, vẫn còn mơ
hồ, vừa sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khác từ độc giả. Sự tương tác này của người
viết với độc giả trong (160) được thực hiện qua từ “dường như”. Từ này cho phép tồn
tại các quan điểm khác về số liệu CPI, chẳng hạn như: 1/ CPI có thể phản ánh đúng
thực tế, nhưng mức tăng thấp là do yếu tố khách quan; 2/ Có thể có độ trễ trong việc
cập nhật số liệu; 3/ Phương pháp thống kê có thể chưa đầy đủ hoặc có cách đo lường
khác. Như vậy, nhờ từ ―dường như‖, người viết không áp đặt một quan điểm tuyệt đối
mà tạo điều kiện cho các cách hiểu khác nhau.
Báo Nhân dân
Giọng điệu đánh giá Trao đổi trên báo Nhân dân xuất hiện 176 lần, được thực
hiện qua 14 phương tiện ngôn ngữ khác nhau thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp,
gồm: cần (130 lần), phải (17 lần), có thể (12 lần), nên (5 lần), phải có (2 lần), không
nên (2 lần), các từ/ tổ hợp từ còn lại chỉ xuất hiện 1 lần, như: lẽ ra, không thể, thiết
nghĩ, xin hãy, cần phải, chỉ cần…sẽ, để. Xét một số ví dụ sau:
(161) Do đó, cần đưa ra các chính sách nhằm đánh giá, tìm hiểu nhu cầu của người lao động sắp bước vào độ tuổi của người cao tuổi, đẩy mạnh công tác thông tin
thị trường lao động với người cao tuổi; xây dựng các sàn giao dịch việc làm; thành
lập trung tâm giới thiệu việc làm dành riêng cho nhóm đối tượng này, hỗ trợ cho
doanh nghiệp tiếp nhận người cao tuổi vào làm việc… [N2]
Người viết trong (161) đã đề xuất ý kiến về việc tận dụng nguồn lực lao động
người cao tuổi. Đề xuất này của người viết chỉ là một trong những giải pháp để các đối
tượng liên quan xem xét, được thể hiện qua động từ tình thái ―cần‖.
(162) Nếu mỗi cá nhân không tự nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, chủ động bình tĩnh, sáng suốt ứng phó với dịch bệnh thì có thể gây ra nhiều hệ lụy khó lường đến mọi mặt của đời sống. [N17]
Trong (162), người viết đưa ra phán đoán của mình và cho người đọc thấy phán đoán đó cũng chỉ là ý kiến cá nhân, không hoàn toàn chính xác, có thể chấp nhận những phán đoán khác. Sự mở rộng hội thoại này được thực hiện thông qua từ “có thể”.
(163) Thiết nghĩ, cơ quan quản lý du lịch, chính quyền các tỉnh, thành phố, địa phương cần tổ chức kiểm tra các hoạt động du lịch, điểm du lịch tự phát, không đủ điều kiện, không đăng ký hoạt động kinh doanh để chấn chỉnh kịp thời. [N26]
151
“Thiết nghĩ” thể hiện quan điểm chủ quan của người viết đối với việc xử lí
những bất cập trong hoạt động dịch vụ du lịch.
Qua khảo sát và phân tích ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy báo Tuổi trẻ và Nhân
dân có sự tương đồng trong việc thể hiện giọng điệu Trao đổi. Tuy nhiên, báo Tuổi trẻ
có phương tiện ngôn ngữ để hiện thực hóa giọng điệu Trao đổi phong phú hơn báo
Nhân dân.
Ngoài ra, khi khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy một điểm khác biệt nữa
trong việc thể hiện quan điểm/ ý kiến Trao đổi của các tác giả trong các bài bình luận
trên hai báo Nhân dân và Tuổi trẻ. Ở các bài bình luận trên báo Nhân dân, khi đưa ra
giải pháp để khắc phục những khó khăn hay vấn đề còn tồn đọng của thực tế, người
viết đều sử dụng cấu trúc ẩn chủ thể. Nghĩa là, người viết không xuất hiện trong phát
ngôn chứa quan điểm trao đổi mà trong phát ngôn chỉ có ý kiến của người viết hoặc
đối tượng mà người viết hướng đến khi trao đổi. Còn ở các bài bình luận trên báo Tuổi
trẻ, người viết đôi khi có thể hiện quan điểm Trao đổi của mình với độc giả một cách
trực tiếp, rõ ràng. Ví dụ:
(164) Nhà nước và các bộ, ngành chức năng cũng cần nghiên cứu, điều chỉnh
theo hướng giảm các loại thuế phí liên quan tới xăng dầu, đặc biệt là nhanh chóng đề
xuất Chính phủ, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn giảm thuế bảo
vệ môi trường với mức tối ưu nhất (giảm hơn 50-70% so với mức thu hiện tại) nhằm
hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn sau đại dịch Covid-19 và ổn định
giá cả hàng hóa trên thị trường. [N41]
(165) Không lẽ chúng ta đánh đổi giữa giảm thuế có lợi cho 100 triệu dân, cho
nền kinh tế với một nhúm buôn lậu đường bộ, không phải tuồn bằng tàu hay sà lan
bằng đường biển ngược ra quốc tế? [T44]
(166) Chúng ta cần thấy được sự khác biệt này để tự tin mở cửa các hoạt động
kinh tế - xã hội. [T15]
Ví dụ (164) trên báo Nhân dân chỉ chứa đối tượng và ý kiến của người viết,
không có hình ảnh của người viết. Phát ngôn hoàn chỉnh sẽ là: Tôi nghĩ Nhà nước và
các bộ, ngành chức năng cũng cần nghiên cứu, điều chỉnh theo hướng giảm các loại
thuế phí liên quan tới xăng dầu,… Còn trong ví dụ (165) và (166), hình ảnh người viết
xuất hiện trực tiếp trong ý kiến trao đổi qua đại từ ―chúng ta‖.
Khi đưa ra các phán đoán để trao đổi với độc giả, người viết đều ẩn mình đi (ẩn
chủ thể), chỉ có ý kiến của người viết xuất hiện trong phán đoán, do đó tạo sự khách
quan trong các phán đoán, nhận định nhằm tăng thêm sức thuyết phục cho các bình
luận. Như vậy, có thể khẳng định rằng các tác giả thuộc báo Nhân dân thể hiện tính
khách quan trong bài bình luận cao hơn các tác giả thuộc báo Tuổi trẻ.
152
3.3.2. Giọng điệu Quy gán trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân Quy gán (Attribute) là tên gọi của một phương thức mở rộng hội thoại. Quy gán
là cách truyền đạt một phán đoán, một quan điểm hay một nhận định nào đó ngoài văn bản vào trong văn bản. Nghĩa là, người viết tách một phán đoán ra khỏi giọng điệu của
mình trong văn bản bằng cách quy nó vào một nguồn bên ngoài văn bản. Những phán
đoán đó chỉ là một khả năng có thể, người đọc sẽ tự mình lĩnh hội quan điểm ấy tùy
theo cách nhìn nhận, hiểu biết của họ. Quy gán thường được hiện thực hóa bằng các
câu gián tiếp. Quy gán được phân thành hai loại: Thừa nhận (Acknowledge) và Xa cách (Distance).
Xa cách được nhận diện thông qua những phương tiện ngữ nghĩa được vận
dụng, có một khoảng cách rõ rệt giữa giọng điệu của người viết và phán đoán được
quy gán. Trong khối ngữ liệu chúng tôi khảo sát, Xa cách không được sử dụng.
Thừa nhận Thừa nhận là một loại trong tiểu loại Quy gán. Thừa nhận là sự truyền đạt một
phán đoán, một nhận định hay một quan điểm khác ngoài văn bản, tác giả không xác
nhận là đúng hay sai. Độc giả sẽ tự mình lĩnh hội quan điểm ấy tùy theo cách nhìn
nhận, hiểu biết của họ. Ví dụ:
(167) Một giám đốc bệnh viện nói rằng làn sóng nhân viên y tế nghỉ việc là
điều tất yếu khi mà cơ chế, chính sách đảm bảo tối thiểu nhu cầu cuộc sống và phát
triển nghề nghiệp còn gặp quá nhiều rào cản. [T3]
Trong ví dụ (167), giọng điệu Thừa nhận được thể hiện rõ qua cách dẫn lời gián
tiếp: “một giám đốc bệnh viện nói rằng‖. Cách diễn đạt này cho thấy đây là quan điểm
của một cá nhân thay vì một sự thật hiển nhiên. Điều này mở ra không gian đối thoại,
cho phép người khác có thể đồng tình hoặc phản đối. Ngoài ra, cách sử dụng cấu trúc
nguyên nhân – kết quả (―khi mà...‖) cũng góp phần mở rộng khả năng lí giải vấn đề,
không áp đặt mà hướng đến sự thảo luận. Như vậy, giọng điệu trong câu mang tính chất
mở rộng không gian hội thoại vì nó không khẳng định tuyệt đối, mà để ngỏ khả năng
tranh luận về nguyên nhân của hiện tượng nghỉ việc trong ngành y tế.
(168) Phía doanh nghiệp cho rằng, vào thời điểm hiện tại khi rất nhiều doanh
nghiệp đang thiếu hụt lao động do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng thời giờ làm thêm là phù hợp, giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh. [N4]
Giọng điệu Thừa nhận trong (168) được thể hiện rõ qua cách thức trình bày quan điểm. Cách nói gián tiếp ―Phía doanh nghiệp cho rằng‖ là một dấu hiệu tường minh và quan trọng của giọng điệu Thừa nhận, vì nó cho thấy quan điểm này xuất phát
từ một nhóm đối tượng cụ thể (doanh nghiệp) chứ không phải là một chân lí hiển nhiên hay một kết luận mang tính tuyệt đối. Việc sử dụng ―cho rằng‖ cũng góp phần làm giảm mức độ khẳng định, mở ra khả năng có những quan điểm khác biệt hoặc
153
phản biện từ các bên liên quan như người lao động hoặc cơ quan quản lí. Bên cạnh đó,
phát ngôn còn chứa yếu tố giải thích mang tính điều kiện và hoàn cảnh cụ thể (―vào
thời điểm hiện tại khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt lao động do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19‖). Điều này cho thấy quan điểm được đặt trong một bối cảnh
nhất định, không áp đặt tính đúng sai tuyệt đối mà tạo ra không gian để người khác cân
nhắc dựa trên tình huống thực tế. Có thể thấy, người viết chỉ đưa ý kiến bên ngoài
(doanh nghiệp) vào bài bình luận của mình nhưng không khẳng định đúng sai, mà để
lại không gian cho người đọc tự mình cân nhắc, suy ngẫm.
Như vậy, ví dụ (167), (168) là những nhận định, quan điểm của các chuyên gia
bên ngoài văn bản, người viết chỉ là người dẫn vào chứ không can thiệp. Người viết
chỉ khuyến khích người đọc tự đánh giá về thông tin này. Với cách cung cấp nguồn
trích dẫn “X nói rằng…, X cho rằng…” (trong (167), X là giám đốc bệnh viện, trong (168) thì X là doanh nghiệp), người viết báo muốn độc giả tin rằng thông tin kèm theo không phải là sự thực mà chỉ là phát ngôn của một vài nhân vật, và hàm ý đây chỉ là
cách đánh giá từ một nguồn, độc giả có quyền thể hiện sự đánh giá của mình về sự vụ.
Nguồn lực thể hiện Thừa nhận Giọng điệu Thừa nhận trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân
dân được thể hiện qua nguồn lực ngữ pháp với kiểu câu gián tiếp.
Báo Tuổi trẻ Trong khối ngữ liệu trên báo Tuổi trẻ, giọng điệu đánh giá Thừa nhận xuất hiện
51 lần, được diễn đạt bằng kiểu câu gián tiếp, cụ thể: theo X (xuất hiện 8 lần); X cho biết
(xuất hiện 6 lần); X nói rằng (4 lần); X thừa nhận (3 lần); có 3 diễn đạt gián tiếp xuất
hiện 2 lần, đó là: X khẳng định, X kể, X cho rằng; các diễn đạt gián tiếp còn lại chỉ xuất
hiện 1 lần trong khối ngữ liệu, gồm: X tâm sự, theo lời kể của X, X phân tích, theo lời X,
X bộc bạch rằng, theo tính toán của X, báo cáo của X cho hay, X nhấn mạnh, X nhận
định, X thông tin, theo thông tin trên một số tờ báo, ai đó nói đầy ước ao rằng, X bình
luận rằng, thông tin mới nhất cho hay, X khoe, X chia sẻ, X băn khoăn, X phát biểu
rằng, X trải lòng như thế, X cảnh báo, X đề xuất, X phân trần, ý kiến của X. Trong các diễn đạt gián tiếp đó, X là một chủ thể bên ngoài văn bản. Ví dụ:
(169) ―Và để giữ người, các trường phổ thông bèn giao thêm nhiệm vụ quản lý bữa ăn bán trú, duyệt thực đơn bán trú, làm bảo mẫu… cho nhân viên y tế để họ có thêm thu nhập. Bởi lương của nhân viên y tế học đường hiện nay được tính theo ngạch bậc nhân viên trong đơn vị hành chính, hệ số rất thấp. Nhiều trường phổ thông ở TP.HCM không tuyển được nhân viên y tế học đường, nhiều trường đành phải để giáo
viên kiêm nhiệm công tác này‖ - một cán bộ Sở GD-ĐT TP.HCM thừa nhận. [T1]
Giọng điệu Thừa nhận trong (169) được thể hiện rõ qua cách thức trình bày vấn đề, cho phép mở rộng hội thoại thay vì khẳng định tuyệt đối một lập trường. Cách dẫn
154
lời gián tiếp ―một cán bộ Sở GD-ĐT TP.HCM thừa nhận‖ cho thấy đây là quan điểm
của một cá nhân hoặc cơ quan cụ thể chứ không phải một chân lí tuyệt đối, từ đó mở
ra không gian đối thoại. Việc sử dụng động từ ―thừa nhận‖ còn hàm ý rằng thực trạng này đang được công nhận nhưng vẫn có thể tiếp tục thảo luận từ nhiều góc nhìn khác
nhau. Qua cách dẫn ý kiến từ các nguồn bên ngoài, người viết cung cấp thêm thông tin
và các cách nhìn khác nhau từ nhiều khía cạnh của vấn đề cho độc giả.
(170) Theo Bộ Y tế, hiện nay 63 tỉnh thành đã triển khai đánh giá và công bố
cấp độ dịch, như vậy là đủ. [T16]
Trong ví dụ (170), giọng điệu Thừa nhận được thể hiện qua cách dẫn nguồn và
diễn đạt mang tính công nhận một thực tế đang tồn tại. Tổ hợp từ ―theo Bộ Y tế‖ là
một dấu hiệu rõ ràng của giọng điệu Thừa nhận. Tổ hợp từ này cho thấy đây là quan
điểm của một cơ quan cụ thể, chứ không phải khẳng định tuyệt đối của người nói. Việc sử dụng cách dẫn nguồn này tạo không gian cho các bên khác có thể đưa ra ý kiến phản biện hoặc đánh giá lại vấn đề. Ngoài ra, việc trình bày thực trạng ―hiện nay
63 tỉnh thành đã triển khai đánh giá và công bố cấp độ dịch‖ thể hiện sự công nhận
một hiện tượng đang diễn ra, không kèm theo sự nghi ngờ hay phản bác. Bên cạnh đó,
tổ hợp từ ―như vậy là đủ‖ mang tính tổng kết và đánh giá, cho thấy sự thừa nhận rằng
việc triển khai này đã đáp ứng yêu cầu, nhưng vẫn để ngỏ khả năng tiếp tục thảo luận
nếu có ý kiến khác. Như vậy, giọng điệu Thừa nhận trong câu này có tác dụng vừa
công nhận quan điểm của Bộ Y tế vừa trình bày một thực trạng khách quan, đồng thời
mở ra không gian đối thoại về mức độ đầy đủ của việc đánh giá cấp độ dịch.
(171) Phát biểu tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 TP.HCM
hôm 4-4, bà Lê Thiện Quỳnh Như - phó chánh văn phòng Sở Y tế TP.HCM - khẳng
định hằng năm các cơ sở y tế công lập ở TP.HCM đều xảy ra tình trạng nhân viên y tế
xin nghỉ việc với rất nhiều lý do như đi làm xa, môi trường làm việc không phù hợp, đặc
biệt có nguyên nhân đến từ thu nhập chưa như mong đợi. [T3]
Cách dẫn gián tiếp ―bà Lê Thiện Quỳnh Như - phó chánh văn phòng Sở Y tế
TP.HCM - khẳng định‖ cho thấy đây là phát ngôn từ một cá nhân có thẩm quyền trong lĩnh vực y tế, không phải quan điểm của người viết. Người viết chỉ dẫn ý kiến của đối
tượng chứ không can thiệp vào ý kiến đó, mở ra không gian cho người đọc tự mình lĩnh hội, phản hồi. Việc sử dụng động từ ―khẳng định‖ thể hiện sự thừa nhận một thực tế đang diễn ra, đó là tình trạng nhân viên y tế nghỉ việc hằng năm. Tuy nhiên, thay vì đưa ra một kết luận mang tính đóng, câu nói vẫn để ngỏ khả năng tiếp tục thảo luận bằng cách nêu ra nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến hiện tượng này, như: đi làm
xa, môi trường làm việc không phù hợp, thu nhập chưa như mong đợi. Như vậy, giọng điệu Thừa nhận trong (171) được thể hiện qua cách diễn đạt công nhận một thực trạng nhưng vẫn mở ra không gian thảo luận về vấn đề này.
155
Trong các ví dụ (169), (170) và (171), người viết chỉ đưa vào trong văn bản
những nhận định của các nguồn bên ngoài văn bản, không đưa ra quan điểm cá nhân
của mình. Các nguồn ý kiến này được đưa vào văn bản thông qua các diễn đạt “X thừa
nhận‖ (169), “Theo X‖ (170), “X khẳng định‖ (171). Cách mở rộng hội thoại bằng
Thừa nhận có thể giúp độc giả có thêm nhiều nguồn để tham khảo thông tin. Bên cạnh
đó, bằng giọng điệu Thừa nhận, người viết tự tách mình ra khỏi phát ngôn, không can
thiệp vào những nhận định đó, độc giả tiếp nhận và tự mình lĩnh hội các nhận định,
phán đoán đó.
Báo Nhân dân Khảo sát hệ thống Giọng điệu trong khối ngữ liệu trên báo Nhân dân, chúng tôi
ghi nhận được 56 phát ngôn sử dụng giọng điệu đánh giá Thừa nhận. Thừa nhận trên
báo Nhân dân được hiện thực hóa bằng các diễn đạt gián tiếp sau: X cho rằng (xuất hiện
8 lần); X cho biết (7 lần), theo X (7 lần); X nhận định (3 lần); các diễn đạt gián tiếp xuất
hiện 2 lần gồm: X băn khoăn, theo phản ánh của X, X nhấn mạnh, X khẳng định; các
diễn đạt còn lại chỉ xuất hiện 1 lần: ý kiến của X, X cảnh báo rằng, được biết, được dự
báo, theo ghi nhận của X, X ghi nhận, X có cái nhìn, X công bố, X giải thích, X dự báo,
X đánh giá, theo phản ánh, X lo ngại, theo phân tích của X, xin được nhắc lại lời của X,
theo dự thảo quy chế, phần lớn ý kiến cho rằng, theo báo cáo của X, theo đánh giá của
X, theo dự báo, theo lý giải của X, theo nhận định của X, theo thống kê của X. Trong các
diễn đạt gián tiếp đó, X là chủ thể bên ngoài văn bản.
Xét một số ví dụ sau:
(172) Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương tổ chức ngày 5/1, Bộ trưởng
Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, biến thể Omicron có tốc độ lây nhiễm cao gấp bảy
lần trong nhóm chưa tiêm chủng và gấp ba lần với nhóm đã tiêm chủng đầy đủ... nguy
cơ tăng nhanh số mắc, gây quá tải hệ thống y tế là khá cao. [N12]
Trong ví dụ (172), người viết không đưa ra quan điểm của mình mà viện dẫn ý
kiến từ nguồn bên ngoài, cụ thể là ý kiến của Bộ trưởng Y tế. Cách diễn đạt gián tiếp
―Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết‖ là dấu hiệu rõ ràng của giọng điệu
Thừa nhận. Cách diễn đạt này cho thấy đây là phát ngôn của một cá nhân có thẩm
quyền trong lĩnh vực y tế, đồng thời thể hiện sự công nhận một thực tế dựa trên thông
tin từ Bộ Y tế. Việc dẫn nguồn này giúp tăng tính xác thực cho phát biểu, nhưng đồng
thời cũng mở ra khả năng đối thoại, khi các bên liên quan có thể phản hồi hoặc bổ
sung thông tin.
(173) Nhiều chuyên gia cho rằng, việc các địa phương quy định cách ly người
về quê ăn Tết như hiện nay không còn phù hợp, cần phải thay đổi. [N14]
156
Phương tiện ngôn ngữ thể hiện giọng điệu Thừa nhận trong ví dụ (173) là diễn
đạt gián tiếp ―nhiều chuyên gia cho rằng‖. Cấu trúc này giúp người đọc nhận ra đây là
một quan điểm được đưa ra từ giới chuyên môn, giúp tăng tính thuyết phục nhưng
không khẳng định tuyệt đối tính đúng đắn của nhận định. Nó thể hiện sự thừa nhận về
một luồng ý kiến đang tồn tại trong xã hội, đồng thời mở ra không gian cho các ý kiến
khác có thể bổ sung hoặc phản biện.
(174) Theo các chuyên gia kinh tế, để vực dậy nền kinh tế sau đại dịch không
thể chỉ trông vào một vài động lực tăng trưởng mà phải có chính sách tổng thể. [N18]
Cụm ―theo các chuyên gia kinh tế‖ cho thấy tác giả không trực tiếp khẳng định
quan điểm mà tách mình ra khỏi phát ngôn bằng cách quy chiếu ý kiến về một nhóm
chuyên gia. Cách diễn đạt gián tiếp này thể hiện sự thừa nhận rằng đây là một góc nhìn
đáng chú ý, nhưng không mang tính tuyệt đối, mở ra khả năng tranh luận hoặc bổ sung
từ các góc nhìn khác. Như vậy, giọng điệu Thừa nhận trong (174) được thể hiện qua
cách dẫn nguồn ý kiến chuyên gia, cho thấy sự công nhận một quan điểm nhưng đồng
thời mở ra không gian thảo luận.
Thông qua các cách diễn đạt như “X cho biết” (172), “X cho rằng” (173) và
“Theo X” (174), người viết đã khéo léo tách mình ra khỏi những nhận định được đưa
ra trong phát ngôn. Những quan điểm này không xuất phát từ chính người viết mà đến
từ các nguồn bên ngoài, giúp họ tránh hoàn toàn trách nhiệm đối với nội dung phát
ngôn. Đây không chỉ là một chiến lược quen thuộc trong báo chí nhằm duy trì tính
khách quan, mà còn là một cách thức tương tác gián tiếp với độc giả tiềm năng và giả
định của bài báo.
Nhận xét
Qua kết quả khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương
đồng về nguồn lực thể hiện các giọng điệu trong tiểu hệ thống Mở rộng không gian hội
thoại giữa báo Tuổi trẻ và Nhân dân. Chỉ có một số điểm khác biệt nhỏ đó là:
Báo Nhân dân có tỉ lệ giọng điệu Trao đổi cao hơn báo Tuổi trẻ. Ngoài ra, Trao
đổi trên báo Nhân dân tập trung về việc đưa ra những ý kiến, giải pháp nhằm giải
quyết những vướng mắc, hạn chế của vấn đề. Còn Trao đổi trên báo Tuổi trẻ thì tập
trung đến việc thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả về vấn đề nhiều hơn là trao đổi
giải pháp để giải quyết vấn đề. Những điều này lần nữa cho thấy tính khách quan ở
báo Nhân dân cao hơn báo Tuổi trẻ.
Khảo sát hai khối ngữ liệu trên báo Nhân dân và Tuổi trẻ, chúng tôi ghi nhận
được rằng phương thức hiện thực hóa giọng điệu đánh giá Thừa nhận ở hai báo tương
đồng với nhau. Tuy nhiên, báo Nhân dân có tần suất sử dụng giọng điệu đánh giá
157
Thừa nhận cao hơn báo Tuổi trẻ. Điều này cho thấy các tác giả ở báo Tuổi trẻ chủ
động tham gia vào văn bản bình luận hơn các tác giả ở báo Nhân dân.
3.4. Ngôn ngữ đánh giá thể hiện Thang độ các diễn ngôn bình luận đa thanh trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Luận án lựa chọn phân tích Thang độ của Giọng điệu theo tác dụng nhấn mạnh/
giảm nhẹ, chứ không phân tích theo các tiểu loại Lực và Tiêu điểm, lí do:
Trong khuôn khổ lí thuyết NNĐG của Martin & White (2005), phạm trù Thái
độ thường được phân tích theo hai tham số Thang độ là Lực (force) và Tiêu điểm
(focus), nhằm làm rõ mức độ đậm nhạt của nội dung đánh giá. Tuy nhiên, với phạm
trù Giọng điệu, việc áp dụng cùng hệ quy chiếu này là chưa thực sự phù hợp. Bản chất
chức năng của Giọng điệu là định vị lập trường của người viết đối với các phát ngôn
được nêu ra trong diễn ngôn, qua đó thể hiện mức độ can dự vào diễn ngôn hơn là mức
độ đánh giá nội dung. Do đó, việc phân tích Giọng điệu theo tác dụng tương tác – cụ
thể là mức độ nhấn mạnh hay giảm nhẹ – phản ánh rõ hơn vai trò của người viết trong
việc định hình quan hệ liên chủ thể (inter-subjective alignment). Ngoài ra, các phương
tiện ngôn ngữ thể hiện các giọng điệu ( “rõ ràng”, “có thể”, “dường như”, “chắc chắn”,
“chưa thực sự”, …) đã bao hàm yếu tố thang độ về mức độ bày tỏ lập trường, thể hiện
rõ chiến lược tương tác hơn là sự gia tăng hay giảm nhẹ một thái độ cụ thể. Hơn nữa,
nếu tiếp tục dùng Lực và Tiêu điểm cho Giọng điệu, sẽ dễ dẫn đến sự chồng lấn chức
năng với phạm trù Thái độ, làm mờ đi ranh giới giữa hai hệ thống. Do vậy, lựa chọn
phân tích Thang độ của Giọng điệu theo tác dụng nhấn mạnh hay giảm nhẹ không chỉ
hợp lí về mặt chức năng ngữ nghĩa mà còn cho phép làm rõ mức độ tham gia của
người viết vào phát ngôn, đặc biệt phù hợp trong phân tích các diễn ngôn bình luận.
3.4.1. Kết quả khảo sát Thang độ trong các diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo
Tuổi trẻ và Nhân dân
Trong chương này, chúng tôi không khảo sát và phân tích Thang độ trong toàn
khối ngữ liệu mà chỉ tập trung tìm hiểu Thang độ được dùng để phân cấp Giọng điệu,
nghĩa là chỉ khảo sát Thang độ trong các diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo Tuổi
trẻ và Nhân dân.
Trong các bài bình luận báo chí, tác giả không chỉ trình bày quan điểm cá nhân mà còn phải dung hòa, đối chiếu nhiều ý kiến khác nhau trong cùng một diễn ngôn. Để làm điều đó một cách hiệu quả, Thang độ đóng vai trò quan trọng như một công cụ ngôn ngữ giúp kiểm soát và điều chỉnh lập luận. Không chỉ giúp tăng cường hoặc giảm nhẹ mức độ chắc chắn của phát ngôn, Thang độ còn mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi ý nghĩa của các luận điểm, tạo ra sự linh hoạt trong cách diễn đạt. Đồng thời, nó còn phản ánh mức độ tham gia của tác giả vào bài viết, góp phần định hình giọng điệu và
158
tác động đến cách độc giả tiếp nhận thông tin. Cụ thể, vai trò của Thang độ trong các
diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo chí gồm:
- Điều chỉnh mức độ chắc chắn trong lập luận: trong diễn ngôn đa thanh, tác giả có thể sử dụng Thang độ để tăng cường hoặc giảm nhẹ mức độ khẳng định đối với một
quan điểm. Ví dụ:
(175) Nhiều người chắc chắn rằng quyết định này sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng! (Tăng cường – thể hiện sự quyết đoán)
(176) Một số ý kiến cho rằng quyết định này có thể gây ra một số ảnh hưởng
nhất định. (Giảm nhẹ – giữ sự trung lập)
Khi tăng cường, tác giả thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hơn với quan điểm của
mình hoặc của người khác, khiến lập luận trở nên sắc bén, thuyết phục hơn. Còn khi
giảm nhẹ, tác giả tạo ra sự linh hoạt, giữ khoảng cách với quan điểm được đưa ra, tạo không gian cho nhiều tiếng nói khác.
- Làm nổi bật hoặc làm mờ ranh giới của các quan điểm: Thang độ trong diễn
ngôn bình luận đa thanh giúp tác giả xác định rõ mức độ rành mạch hay mơ hồ của
một ý kiến nào đó. Ví dụ:
(177) Đây thực sự là một bước đột phá trong chính sách môi trường! (Làm rõ
ranh giới – thể hiện lập trường mạnh mẽ)
(178) Dường như đây có thể được xem là một cải tiến trong chính sách môi
trường. (Làm mờ ranh giới – thể hiện sự dè dặt)
Khi làm rõ, tác giả giúp độc giả nhận diện chính xác lập trường hoặc ý nghĩa của một quan điểm. Còn khi làm mờ, tác giả duy trì sự linh hoạt, tránh bị ràng buộc vào một lập trường tuyệt đối, tạo điều kiện cho các quan điểm khác cùng tồn tại.
- Điều chỉnh thái độ đối với các quan điểm đối lập: trong diễn ngôn bình luận đa thanh, tác giả thường nhắc đến các quan điểm trái chiều. Thang độ giúp kiểm soát mức độ đối lập hoặc hòa giải giữa các ý kiến. Khi tăng cường, tác giả nhấn mạnh sự đối lập giữa các quan điểm, làm rõ sự xung đột hoặc tranh luận trong diễn ngôn. Khi giảm nhẹ, tác giả thể hiện thái độ cân bằng hơn, giúp giữ không gian trung lập hoặc dẫn dắt độc giả đến sự thỏa hiệp. Ví dụ:
(179) Một số chuyên gia hoàn toàn bác bỏ ý tưởng này, cho rằng nó phi thực tế.
(Tăng cường sự đối lập)
(180) Có những ý kiến bày tỏ lo ngại về ý tưởng này, dù vẫn thừa nhận một số
điểm tích cực. (Giảm nhẹ sự đối lập)
- Tạo giọng điệu, ảnh hưởng đến độc giả và kiểm soát mức độ tham gia của tác giả vào diễn ngôn: Thang độ giúp tác giả điều chỉnh giọng điệu của bài bình luận, từ khách quan trung lập đến sắc sảo, mang tính kêu gọi, đồng thời thể hiện mức độ tham gia của tác giả vào diễn ngôn. Ví dụ:
159
(181) Rõ ràng, không ai có thể phủ nhận rằng chính sách này có tác động mạnh
mẽ đến nền kinh tế! (Giọng điệu mạnh mẽ, tác giả tham gia tích cực, thể hiện lập
trường rõ ràng, khuyến khích độc giả đồng tình)
(182) Một số người có thể sẽ đồng ý với quan điểm này, nhưng cũng có những ý
kiến trái chiều. (Giọng điệu trung lập, tác giả giữ khoảng cách, để ngỏ vấn đề)
Khi sử dụng giọng điệu mạnh, tác giả trực tiếp tham gia vào diễn ngôn với lập
trường rõ ràng. Điều này giúp bài bình luận có tính thuyết phục cao. Khi sử dụng
giọng điệu nhẹ nhàng, tác giả giữ khoảng cách với vấn đề giúp bài bình luận mang tính
trung lập hơn, tạo không gian cho độc giả tự đánh giá.
Tuy nhiên, không phải tất cả các phát ngôn đa thanh đều có chứa Thang độ.
Phát ngôn đa thanh có thể sử dụng Thang độ để nhấn mạnh hoặc giảm nhẹ một ý kiến,
tạo ra sự khác biệt giữa các quan điểm trong cùng một phát ngôn. Bên cạnh đó cũng có
nhiều phát ngôn đa thanh không sử dụng Thang độ mà chỉ đơn thuần thể hiện sự đa
giọng điệu bằng cách trích dẫn, phản bác, hoặc lồng ghép các quan điểm khác nhau mà
không cần điều chỉnh mức độ ý nghĩa. Ví dụ:
(183) Nhiều chuyên gia khẳng định rằng biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc
độ đáng báo động, thậm chí nhanh hơn so với dự đoán trước đây.
(184) Một số nhà kinh tế cho rằng chính sách này có thể giúp cải thiện nền kinh
tế phần nào, nhưng vẫn tồn tại những rủi ro đáng kể.
Ví dụ (183) và (184) có Thang độ. Tổ hợp từ ―với tốc độ đáng báo động‖ và
―thậm chí nhanh hơn‖ trong (183) làm tăng mức độ nghiêm trọng của vấn đề, nhấn
mạnh ý kiến của chuyên gia. Còn trong (184) tổ hợp từ ―có thể giúp cải thiện phần
nào‖ làm giảm mức độ chắc chắn, trong khi ―những rủi ro đáng kể‖ lại làm tăng
cường sự lo ngại về chính sách này.
(185) Nhiều chuyên gia khẳng định rằng biến đổi khí hậu đang diễn ra.
(186) Một số nhà kinh tế cho rằng chính sách này có tác động đến nền kinh tế,
nhưng vẫn tồn tại rủi ro.
Hai phát ngôn (185) và (186) không có Thang độ. Các phát ngôn chỉ trình bày
thông tin một cách trung lập, không nhấn mạnh hay giảm nhẹ mức độ của vấn đề.
Trong chương này, chúng tôi không phân loại Thang độ theo hai hệ thống Lực
và Tiêu điểm giống như sự phân cấp nghĩa chỉ thái độ, mà phân loại theo sự phân cấp
nhấn mạnh hay giảm nhẹ Giọng điệu. Ví dụ:
(187) Chỗ ở thuê tươm tất, vừa túi tiền, có lẽ là lựa chọn của nhiều người lao
động. [T6]
Trong ví dụ (187), ―có lẽ‖ được dùng để giảm nhẹ mức độ khẳng định trong
phát ngôn. Nó để lại một khoảng trống để người đọc có thể đưa suy nghĩ, ý kiến khác
160
của mình vào. Nếu không dùng ―có lẽ‖, phát ngôn sẽ mang tính khẳng định cao, là ý
kiến duy nhất cho trường hợp về lựa chọn chỗ thuê của công nhân.
(188) Với sự vào cuộc mạnh mẽ, chủ động, tích cực của chính quyền các địa
phương, ngành du lịch và sự đồng hành của các doanh nghiệp, sự chung tay góp sức của
các bộ, ngành liên quan, chắc chắn năm mới 2022 các cơ hội mới sẽ mở ra để ngành du
lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và lấy lại đà tăng trưởng. [N21]
―Chắc chắn‖ trong ví dụ (188) được dùng để nhấn mạnh, tán thành cao ý kiến
trong phát ngôn. Sự nhấn mạnh của thang độ cho người đọc thấy mức độ tham gia của
người viết trong ví dụ là trực tiếp, mạnh mẽ.
Kết quả khảo sát Thang độ của Giọng điệu được chúng tôi thể hiện trong hình
3.4 và 3.5 dưới đây:
BÁO NHÂN DÂN
BÁO TUỔI TRẺ
Không Thang độ 44%
Không Thang độ 32%
Có Thang độ 56%
Có Thang độ 68%
Hình 3.5. Tỉ lệ sử dụng Thang độ trong các
Hình 3.6 Tỉ lệ sử dụng Thang độ trong các
diễn ngôn đa thanh trên báo Tuổi trẻ
diễn ngôn đa thanh trên báo Nhân dân
Quan sát kết quả ở hình 3.5 và hình 3.6, có thể thấy báo Tuổi Trẻ có xu hướng
sử dụng Thang độ nhiều hơn, chiếm 68%, trong khi con số này ở báo Nhân Dân là
56%. Điều này cho thấy người viết bình luận ở báo Tuổi Trẻ thường xuyên điều chỉnh
mức độ nhấn mạnh hoặc giảm nhẹ lập luận trong các bài bình luận, tạo nên phong cách
diễn đạt linh hoạt, giàu sắc thái hơn báo Nhân dân. Ngược lại, báo Nhân Dân có tỉ lệ
phát ngôn không sử dụng Thang độ cao hơn (44% so với 32% của Tuổi Trẻ), phản ánh
xu hướng ngôn ngữ trung lập, ít nhấn mạnh hoặc làm mềm ý nghĩa phát ngôn. Như
vậy, có thể nhận thấy báo Tuổi Trẻ thiên về cách diễn đạt giàu cảm xúc và nhấn mạnh
lập trường hơn so với báo Nhân Dân. Đồng thời, kết quả này cũng cho thấy các tác giả
báo Tuổi trẻ có mức độ tham gia vào bài viết sâu hơn, thể hiện quan điểm một cách
trực tiếp hơn các tác giả báo Nhân dân.
Trong các diễn ngôn đa thanh có sử dụng Thang độ, chúng tôi tiếp tục khảo sát
vai trò của Thang độ trong bình luận báo chí, cụ thể trong việc nhấn mạnh hoặc giảm
nhẹ lập luận. Kết quả thu được như sau:
161
8
6
4
2
0
Nhân dân
Tuổi trẻ
Nhấn mạnh
Giảm nhẹ
Hình 3.7. Mức độ nhấn mạnh và giảm nhẹ trong diễn ngôn bình luận đa thanh của
báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Quan sát hình 3.7, có thể thấy cả hai tờ báo Tuổi Trẻ và Nhân Dân đều sử dụng
Thang độ nhấn mạnh nhiều hơn giảm nhẹ, phản ánh xu hướng làm rõ và tăng cường
lập luận trong bình luận báo chí. Tuy nhiên, báo Tuổi Trẻ có tần suất nhấn mạnh vượt
trội so với giảm nhẹ, phản ánh phong cách lập luận mạnh mẽ, trực diện và nhấn mạnh
quan điểm nhằm thu hút độc giả. Ngược lại, báo Nhân Dân có sự cân bằng hơn giữa
hai hình thức, cho thấy cách diễn đạt thận trọng, kết hợp giữa khẳng định lập trường và
điều chỉnh mức độ lập luận. Sự khác biệt về tần suất sử dụng Thang độ giữa hai tờ báo
phần nào phản ánh đặc trưng phong cách diễn ngôn của mỗi tờ báo, trong đó Tuổi Trẻ
thiên về lập luận mạnh mẽ, trực tiếp, còn Nhân Dân mang tính ổn định và định hướng
nhiều hơn.
3.4.2. Sự thể hiện Thang độ nhấn mạnh trong các diễn ngôn bình luận đa thanh
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân Báo Tuổi trẻ Trong các diễn ngôn bình luận đa thanh trên báo Tuổi trẻ, Thang độ nhấn mạnh
được thể hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp với các phương tiện ngôn ngữ sau:
thiếu thốn, bất chấp, không có gì bằng, rõ ràng, cần thiết, chắc chắn, chúng ta sẽ thấy
rất rõ, chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng, như một thực tế rõ ràng, ―không chỉ … mà còn‖, thực sự, không ở đâu, …, kiểu câu, biện pháp so sánh.
Xét một số ví dụ sau: (189) Rõ ràng, muốn nâng cấp nhà trọ cho người lao động, chính quyền phải đầu tư nhiều hơn, tham gia sâu hơn với nhiều chính sách hỗ trợ để các thành phần kinh tế phát triển thị trường nhà cho thuê. [T6]
Phát ngôn (189) thể hiện giọng điệu Tán thành mạnh mẽ thông qua nhiều cấp
độ nhấn mạnh, nhằm củng cố lập luận về vai trò của chính quyền trong việc nâng cấp nhà trọ cho người lao động. Trước hết, tính từ ―rõ ràng‖ là một dấu hiệu của sự tán
thành, đóng vai trò khẳng định chắc chắn quan điểm, khiến vấn đề trở thành một thực
162
tế hiển nhiên, không thể phủ nhận. Việc sử dụng từ ―phải‖ trong “chính quyền phải
đầu tư nhiều hơn, tham gia sâu hơn” không chỉ mang tính đề xuất mà còn hàm ý một
yêu cầu bắt buộc, thể hiện quan điểm rõ ràng của người viết rằng đây không phải là một lựa chọn mà là trách nhiệm của chính quyền. Bên cạnh đó, việc dùng kiểu câu có các từ
ngữ so sánh hơn như ―nhiều hơn‖, ―sâu hơn‖ cũng cho thấy sự tham gia của người viết
qua cách nhấn mạnh mức độ cần thiết của hành động, thay vì chỉ đơn thuần nêu vấn đề.
Không chỉ tập trung vào vai trò của chính quyền, phát ngôn còn mở rộng phạm vi tán
thành khi đề cập đến “các thành phần kinh tế”, thể hiện quan điểm rằng sự phát triển thị trường nhà cho thuê cần có sự phối hợp từ nhiều phía. Nhờ sự kết hợp giữa khẳng định
chắc chắn, gia tăng mức độ cam kết và mở rộng phạm vi trách nhiệm, lập luận trong
(189) trở nên thuyết phục, nhấn mạnh tính cấp thiết của vấn đề và tạo sự đồng thuận cao
với lập luận được đưa ra. Đồng thời, việc sử dụng thang độ nhấn mạnh cho thấy sự tham gia sâu của người viết trong việc định hướng quan điểm cho người đọc
(190) Cuộc sống sau đại dịch bộn bề khó khăn, nếu chúng ta vẫn giữ được nếp
gia đình, chắn chắn cuộc sống thêm nhiều ý nghĩa không chỉ cho mỗi người mà cả
người thân và xã hội. [T20]
Thang độ nhấn mạnh trong giọng điệu Tán thành ở (190) được sử dụng để củng
cố lập luận, đồng thời phản ánh sự tham gia tích cực của người viết. Từ ―chắc chắn‖
thể hiện mức độ tán thành cao, nhấn mạnh niềm tin tuyệt đối của người viết rằng giữ
gìn nếp gia đình sẽ mang lại giá trị tích cực. Đây là một sự khẳng định mang tính chủ
quan nhưng có sức thuyết phục vì không để ngỏ bất kì khả năng phản biện nào. Bên
cạnh đó, việc lựa chọn đại từ ―chúng ta‖ cho thấy người viết không chỉ đơn thuần
trình bày ý kiến mà còn trực tiếp đưa mình vào trong phát ngôn, tạo sự kết nối với
người đọc. Cách diễn đạt này khiến người viết trở thành một phần của tập thể, giúp
thông điệp có tính kêu gọi cao hơn, thúc đẩy tinh thần chung thay vì chỉ đưa ra một
nhận định cá nhân. Đồng thời, phạm vi tác động của vấn đề cũng được mở rộng theo
cấp độ tăng dần, từ cá nhân (―mỗi người‖), đến gia đình (―người thân‖), và cuối cùng
là xã hội (―xã hội‖). Điều đó không chỉ giúp nhấn mạnh tầm quan trọng của nếp gia đình mà còn định hướng tư duy của người đọc theo một cách nhìn toàn diện hơn. Như
vậy, thông qua việc sử dụng thang độ nhấn mạnh, người viết không chỉ bày tỏ quan điểm cá nhân mà còn tích cực tham gia vào phát ngôn, kêu gọi sự đồng thuận từ người đọc, giúp thông điệp trở nên sâu sắc và giàu sức thuyết phục. (191) Không có gì quý bằng sức khỏe! [T30] Phát ngôn (191) thể hiện rõ giọng điệu phát biểu với mức độ nhấn mạnh cao và
sự tham gia trực tiếp của người viết. Trước hết, kết cấu phủ định tuyệt đối ―Không có gì…‖ giúp khẳng định sức khỏe là điều quan trọng nhất, vượt trên mọi giá trị khác, không để lại khoảng trống cho sự nghi ngờ hay tranh luận. Đồng thời, cách diễn đạt so
163
sánh tuyệt đối ―quý bằng‖ càng nhấn mạnh mức độ quan trọng tối đa của sức khỏe,
biến phát ngôn thành một chân lí phổ quát. Bên cạnh đó, sự tham gia của người viết
thể hiện qua cách khẳng định mạnh mẽ, không đưa ra lập luận theo hướng trung tính mà trực tiếp nhấn mạnh một quan điểm cá nhân có tính định hướng. Có thể thấy, giọng
điệu Phát biểu kết hợp với thang độ nhấn mạnh tuyệt đối giúp phát ngôn không chỉ thể
hiện nhận thức của người viết mà còn có tác động đến người đọc, giúp củng cố giá trị
của sức khỏe như một chân lí hiển nhiên trong đời sống.
Báo Nhân dân Thang độ nhấn mạnh trong các diễn ngôn đa thanh trên báo Nhân dân được thể
hiện bằng nhiều phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, chẳng
hạn: không chỉ…mà (còn), cần thiết, việc cần thiết, chắc chắn, cấp thiết, rõ ràng,
không hề, không thể không, chưa từng có, tất nhiên, thậm chí, … Ví dụ: (192) Với nguồn cung vắc-xin khá nhiều như hiện nay, thậm chí sang năm 2022 (dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, Việt Nam không hề thiếu vắc-
xin, thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành tiêm mũi bổ sung. [N9]
Thang độ nhấn mạnh trong (192) được thể hiện qua hai yếu tố quan trọng: phủ
định mạnh mẽ (―không hề‖) và phản lại kì vọng (―thậm chí‖). Những yếu tố này cho
thấy mức độ tham gia sâu sắc của người viết vào phát ngôn. Việc sử dụng cấu trúc phủ
định tuyệt đối ―không hề‖ giúp phủ định hoàn toàn khả năng thiếu hụt, mang tính dứt
khoát hơn so với các dạng phủ định đơn giản như “không thiếu” hay “không còn
thiếu”. Người viết không để chỗ cho sự nghi ngờ hay tranh luận, mà khẳng định tuyệt
đối quan điểm của mình. Tiếp theo, từ ―thậm chí‖ xuất hiện hai lần, là một dấu hiệu
quan trọng cho thấy sự nhấn mạnh ngày càng tăng. Lần thứ nhất: ―Thậm chí sang năm
2022 (dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước‖ → nhấn mạnh rằng nguồn
cung không chỉ dồi dào trong hiện tại mà còn được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa
trong tương lai. Lần thứ hai: ―Thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành
tiêm mũi bổ sung‖ → nhấn mạnh rằng nguồn cung không chỉ đủ dùng mà còn dư dả,
có thể đáp ứng được nhu cầu mở rộng tiêm chủng. Việc sử dụng ―thậm chí‖ trong cả hai trường hợp giúp lập luận trở nên sắc bén hơn, mang tính thuyết phục cao hơn. Có
thể thấy, trong (192), người viết không chỉ đưa ra thông tin mà còn tham gia tích cực vào phát ngôn bằng cách khẳng định mạnh mẽ một thực tế (“không hề thiếu vắc-xin”) và đẩy lập luận đi xa hơn (“thậm chí có thể dư dả”). (193) Bởi du lịch không chỉ đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động mà còn góp phần khẳng định thương hiệu
quốc gia, thúc đẩy hòa bình, giao lưu văn hóa, xác lập vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. [N29]
164
Kết cấu ―không chỉ … mà còn‖ trong (193) đóng vai trò nhấn mạnh giọng điệu
phủ định và thể hiện sự tham gia tích cực của người viết vào lập luận. Kết cấu ―không
chỉ … mà còn‖ giúp mở rộng phạm vi ý nghĩa của câu, bác bỏ quan niệm rằng du lịch chỉ có vai trò kinh tế, đồng thời khẳng định rằng tác động của du lịch vượt xa hơn thế.
Tổ hợp từ ―không chỉ đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế‖ phủ định một
cách gián tiếp ý nghĩ rằng du lịch chỉ đơn thuần mang lại lợi ích tài chính. Tổ hợp từ
―mà còn góp phần khẳng định thương hiệu quốc gia, thúc đẩy hòa bình, giao lưu văn
hóa, xác lập vị thế Việt Nam trên trường quốc tế‖ làm rõ những tác động sâu rộng hơn của du lịch đến nhiều lĩnh vực khác như ngoại giao, văn hóa và chính trị. Sử dụng kết
cấu ―không chỉ … mà còn‖, người viết không chỉ tập trung vào khía cạnh kinh tế, mà
mở rộng luận điểm sang các yếu tố văn hóa, chính trị và ngoại giao, làm cho phát ngôn
trở nên có chiều sâu và có tính định hướng cao hơn.
(194) Ấy là khi du khách nước ngoài phản ánh phải chi hàng triệu đồng cho một chuyến xích lô tham quan phố cổ; thậm chí bị trả lại bằng tiền âm phủ bởi lái xe
ta-xi; hay phải trải qua hành trình chẳng khác gì ác mộng trên chiếc tàu ―rác‖ với
chuột bọ, bánh mì mốc, thiết bị vệ sinh hư hỏng… Tất nhiên, đây chỉ là những vụ việc
gây ra bởi một bộ phận rất nhỏ những người làm dịch vụ du lịch. [N27]
Trong ví dụ (194), hai từ ―thậm chí‖ và ―tất nhiên‖ đóng vai trò quan trọng
trong việc nhấn mạnh giọng điệu Phản lại và Tán thành, đồng thời thể hiện mức độ
tham gia mạnh mẽ của người viết vào lập luận. Từ ―thậm chí‖ không chỉ làm nổi bật
mức độ nghiêm trọng của vấn đề mà còn đẩy sự bất cập lên một cấp độ cao hơn, khiến
người đọc cảm nhận rõ ràng sự phi lí trong cách đối xử với du khách. Nếu việc “chi
hàng triệu đồng cho một chuyến xích lô” đã là vấn đề, thì hành vi “bị trả lại bằng tiền
âm phủ” còn vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, tạo nên một cú sốc trong
nhận thức của người đọc. Sự xuất hiện của ―thậm chí‖ làm tăng sức nặng cho lập luận,
phản ánh một thực tế đối lập hoàn toàn với mong đợi về một ngành du lịch văn minh
và hiếu khách. Ngược lại, từ ―tất nhiên‖ giúp cân bằng giọng điệu, tránh tạo ra cái
nhìn phiến diện về ngành du lịch. Khi khẳng định “đây chỉ là những vụ việc gây ra bởi một bộ phận rất nhỏ”, người viết không phủ nhận thực trạng tiêu cực nhưng cũng
không để nó che lấp những mặt tích cực khác. Cách dùng ―tất nhiên‖ mang tính định hướng, giúp người đọc hiểu rằng những hành vi tiêu cực này không đại diện cho toàn bộ ngành du lịch, từ đó tạo ra một lập luận công bằng hơn. Sự kết hợp giữa ―thậm chí‖ và ―tất nhiên‖ cho thấy mức độ tham gia cao của người viết, không chỉ đơn thuần trình bày thực trạng mà còn chủ động định hướng suy nghĩ của người đọc.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng thang độ nhấn mạnh không chỉ làm
cho các phát ngôn đa thanh trở nên sắc sảo hơn mà còn thu hẹp không gian đối thoại,
định hướng cách tiếp nhận của người đọc. Đồng thời, nó còn thể hiện mức độ tham gia
165
sâu sắc của người viết vào lập luận, cho thấy họ không chỉ truyền tải thông tin mà còn
chủ động dẫn dắt lập luận, tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ.
3.4.3. Sự thể hiện Thang độ giảm nhẹ trong các diễn ngôn bình luận đa thanh trên
báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Báo Tuổi trẻ
Thang độ giảm nhẹ trong các phát ngôn đa thanh trên báo Tuổi trẻ được thể
hiện bằng nguồn lực từ vựng – ngữ pháp với các phương tiện ngôn ngữ sau: không hẳn
là, chưa thực sự, chưa dừng lại, chưa kể, chỉ có thế, có thể thấy, có thể hiểu, có thể
nói, chưa chắc, có lẽ, có thể, dường như, e rằng, không nhất thiết phải là, sao có thể,
thiếu, sao bằng, không dễ, chưa thể, ... Xét một số ví dụ sau:
(195) Có lẽ con số này chưa dừng lại, chưa kể nếu biến thể Omicron xâm
nhập, số mắc gia tăng nhanh hơn gây áp lực lên hệ thống y tế. [T9]
Trong phát ngôn (195), thang độ giảm nhẹ được thể hiện qua các từ ngữ như
―có lẽ‖, ―chưa dừng lại‖, ―chưa kể‖. ―Có lẽ‖ là một phương tiện giảm nhẹ trực tiếp,
giúp người viết tránh đưa ra một khẳng định chắc chắn, làm giảm mức độ xác tín, mở
ra khả năng khác thay vì tuyệt đối hóa vấn đề. ―Chưa dừng lại‖ thể hiện một dự đoán
ở mức trung tính nhưng vẫn giữ tính mở, không xác nhận rõ ràng rằng số ca mắc sẽ
tiếp tục tăng. ―Chưa kể‖ là một cách bổ sung thông tin mà không nhấn mạnh tuyệt
đối, giúp người viết mở rộng lập luận mà vẫn duy trì giọng điệu thận trọng. Có thể
thấy, việc sử dụng thang độ giảm nhẹ có tác dụng giữ sự thận trọng, tạo ra tính linh
hoạt trong lập luận và mở rộng không gian đối thoại. Đồng thời, nó cũng làm cho mức
độ tham gia của người viết trở nên mờ nhạt hơn, giúp họ giữ khoảng cách với lập luận
thay vì thể hiện một quan điểm mạnh mẽ. Nhờ đó, phát ngôn duy trì được tính khách
quan, phù hợp với bối cảnh cần sự cân nhắc và suy xét đa chiều.
(196) Đó là chưa nói tới rủi ro các quy định có thể được điều chỉnh, nhưng tính
hợp lý vẫn chưa chắc đã đạt được. [T12]
Phát ngôn (196) sử dụng thang độ giảm nhẹ qua ―có thể‖ và ―chưa chắc‖, giúp giảm bớt tính khẳng định tuyệt đối, tạo ra sự linh hoạt trong lập luận. “Có thể được
(197) Vậy rồi thời gian cứ trôi, nhưng dường như con người đã được trải
điều chỉnh‖ cho thấy khả năng thay đổi của các quy định, nhưng không chắc chắn rằng điều đó sẽ xảy ra, giúp mở ra không gian cho nhiều kịch bản khác nhau. Trong khi đó, ―chưa chắc đã đạt được‖ làm giảm mức độ khẳng định về tính hợp lí của các quy định sau khi thay đổi, thay vì tuyên bố chắc chắn rằng chúng sẽ bất hợp lí. Cách diễn đạt này giúp người viết tham gia vào lập luận nhưng ở mức cân nhắc, thận trọng, không áp đặt mà tạo điều kiện cho sự thảo luận đa chiều, khiến phát ngôn dễ tiếp nhận hơn. nghiệm và học thêm những bài học lớn lao. [T20]
166
Giọng điệu Trao đổi trong (197) thể hiện thang độ giảm nhẹ qua từ ―dường
như‖. Từ ―dường như‖ giúp giảm bớt tính khẳng định tuyệt đối về việc con người đã
thực sự học được những bài học lớn lao. Thay vì khẳng định chắc chắn, người viết để mở khả năng rằng điều này có thể đúng với một số người nhưng không hoàn toàn đúng
với tất cả. Điều đó cho thấy mức độ tham gia của người viết trong lập luận ở mức
trung bình, khi vừa bày tỏ quan điểm vừa giữ sự thận trọng, tránh áp đặt kết luận tuyệt
đối. Sử dụng thang độ giảm nhẹ trong giọng điệu Trao đổi giúp câu văn trở nên mềm
mại, linh hoạt hơn, tạo không gian cho sự suy ngẫm và thảo luận.
Báo Nhân dân Trong các phát ngôn đa thanh trên báo Nhân dân, thang độ giảm nhẹ xuất hiện
qua một số phương tiện ngôn ngữ thuộc nguồn lực từ vựng – ngữ pháp, như: chưa
thực sự, có thể thấy, có thể nói, có thể, chỉ có thể, chưa thể, … Ví dụ: (198) Sự phục hồi của thị trường lao động việc làm chưa thật sự bền vững, tổn thất về việc làm và thu nhập của người lao động sẽ khiến chi tiêu thắt chặt lại, dẫn đến
sự sụt giảm doanh số hàng hóa và dịch vụ, ảnh hưởng đến khả năng duy trì kinh
doanh liên tục của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. [N7]
Thang độ giảm nhẹ trong giọng điệu Phủ định ở (198) được thể hiện qua tổ hợp
từ ―chưa thật sự‖ giúp giảm bớt tính phủ định tuyệt đối về sự phục hồi của thị trường
lao động. Thay vì khẳng định sự phục hồi là không bền vững, cách diễn đạt này cho
thấy thị trường vẫn đang trên đà cải thiện nhưng chưa đạt đến mức ổn định hoàn toàn.
Điều này không chỉ tạo ra sự thận trọng trong đánh giá mà còn mở ra khả năng thay
đổi tích cực trong tương lai. Đồng thời, việc sử dụng thang độ giảm nhẹ cho thấy
người viết tham gia vào lập luận ở mức trung bình, thể hiện quan điểm nhưng không
áp đặt, tránh gây cảm giác bi quan hoặc cực đoan.
(199) Tăng ca kéo dài có thể dẫn tới việc doanh nghiệp khai thác quá mức, dẫn
đến cạn kiệt sức lực, ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động, khi đó, mục đích năng
suất lao động sẽ không được cải thiện như mong muốn. [N4]
Thang độ giảm nhẹ trong phát ngôn (199) được biểu hiện qua từ ―có thể‖, đóng vai trò làm giảm mức độ khẳng định tuyệt đối về tác động của việc tăng ca kéo dài.
Việc sử dụng thang độ giảm nhẹ trong giọng điệu Trao đổi không chỉ giúp người viết duy trì thái độ thận trọng trong lập luận mà còn tạo ra không gian cho các cách diễn giải khác nhau, tránh đưa ra kết luận mang tính cực đoan. Về mức độ tham gia, người viết tham gia ở mức trung bình khi vừa bày tỏ quan điểm vừa giữ sự khách quan, không áp đặt một đánh giá tuyệt đối mà vẫn mở ra khả năng phản biện. Ngoài ra, phát
ngôn được xây dựng theo chuỗi liên kết nguyên nhân – kết quả, tạo nên một lập luận logic về tác động của việc tăng ca kéo dài. Cụ thể, việc doanh nghiệp khai thác sức lao động quá mức có thể dẫn đến sự suy giảm thể chất và tinh thần của người lao động,
167
ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, từ đó làm giảm hiệu suất làm việc. Hệ quả cuối cùng
là mục tiêu nâng cao năng suất lao động không đạt được như kì vọng, thậm chí có thể
phản tác dụng. Việc sử dụng cách lập luận này không chỉ giúp làm rõ tác động dây chuyền của vấn đề mà còn mở rộng phạm vi thảo luận về các chính sách lao động,
quản lí nhân sự và chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp trong dài hạn.
Như vậy, trái ngược với thang độ nhấn mạnh, thang độ giảm nhẹ có chức năng
làm giảm mức độ khẳng định trong phát ngôn, đồng thời mở rộng không gian đối
thoại, tạo điều kiện cho các ý kiến phản biện và góc nhìn đa chiều. Việc sử dụng thang độ giảm nhẹ thường cho thấy mức độ tham gia của người viết ở mức trung bình hoặc
thấp, thậm chí có thể mờ nhạt. Chính sự tham gia không quá rõ nét này góp phần tạo
nên tính khách quan trong lập luận, giúp tăng tính thuyết phục và dễ dàng thu hút sự
đồng thuận từ độc giả.
3.5. Đặc trƣng ngôn ngữ đánh giá thể hiện Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận báo chí
Để thấy được đặc trưng của NNĐG thể hiện Giọng điệu trong diễn ngôn bình
luận báo chí, chúng tôi tiến hành so sánh kết quả nghiên cứu về NNĐG trong thể loại
bình luận báo chí và trong thể loại khoa học (dựa trên kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Bích Hồng: “Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ đánh giá trong tiếng Anh và tiếng Việt
trên cứ liệu bài tạp chí chuyên ngành Ngôn ngữ học” [52]). Chúng tôi so sánh hai thể
loại báo chí và khoa học trên hai phương diện sau: tác dụng các loại giọng điệu, mức
độ tham gia của chủ thể đánh giá.
Trong diễn ngôn báo chí, Giọng điệu thể hiện mức độ tham gia của tác giả vào văn
bản và cách tác giả định hướng quan điểm của độc giả. Giọng điệu không chỉ phản ánh
lập trường của người viết mà còn ảnh hưởng đến cách tiếp nhận thông tin của công chúng.
Còn trong diễn ngôn khoa học, Giọng điệu phản ánh mức độ khách quan, tính trung lập và
cách thức lập luận của người viết trong việc truyền tải tri thức.
Hầu hết các diễn ngôn bình luận báo chí đều sử dụng giọng điệu đa thanh nhiều
hơn đơn thanh. Tuy nhiên, lựa chọn giọng điệu nào lại phụ thuộc vào mục đích, tôn chỉ và phong cách của tờ báo. Một phát ngôn có thể kết hợp nhiều giọng điệu khác nhau
để đạt được mục đích của bài viết đồng thời tạo sự hấp dẫn cho diễn ngôn.
Các diễn ngôn khoa học sử dụng giọng điệu để thu hẹp không gian hội thoại nhiều hơn giọng điệu để mở rộng không gian hội thoại. Còn trong diễn ngôn báo chí, dựa vào kết quả khảo sát ở 3.1, có thể thấy, giọng điệu nào được sử dụng nhiều hơn phụ thuộc vào mục đích, phong cách của từng tờ báo. Báo Tuổi trẻ có giọng điệu thu
hẹp cao hơn mở rộng không gian hội thoại, trong khi đó, báo Nhân dân lại sử dụng giọng điệu mở rộng nhiều hơn thu hẹp không gian hội thoại.
- Tác dụng của các loại giọng điệu:
168
+ Giọng điệu Từ chối (Phủ định và Phản lại):
Trong các diễn ngôn báo chí, Phủ định và Phản lại thường được sử dụng kết
hợp với nhau để nêu lên những vấn đề còn hạn chế, tồn đọng trong xã hội, thể hiện lập trường của người viết, từ đó định hướng dư luận. Còn trong diễn ngôn khoa học, hai
giọng điệu này được sử dụng để nêu ra khoảng trống nghiên cứu, thể hiện cái nhìn phê
phán của người viết đồng thời làm nổi bật tính cấp thiết của đề tài.
+ Giọng điệu Tuyên bố (Tán thành, Phát biểu, Xác nhận): cả hai thể loại đều ít
sử dụng các giọng điệu này so với các giọng điệu khác trong hệ thống Giọng điệu.
Giọng điệu Tuyên bố, trong diễn ngôn báo chí, có tác dụng tạo ảnh hưởng,
thuyết phục độc giả, định hướng dư luận. Nó thường mang tính khẳng định mạnh,
đôi khi cảm tính, được thể hiện qua các từ có thang độ nhấn mạnh (―chắc chắn‖,
―không thể phủ nhận‖, ―rõ ràng‖, ―tất nhiên‖). Sự xác nhận, tán thành trong diễn ngôn báo chí không nhất thiết phải có bằng chứng khoa học chặt chẽ. Ngược lại, trong diễn ngôn khoa học, giọng điệu này chỉ xuất hiện khi có đủ dữ liệu và bằng
chứng thực nghiệm, được thể hiện qua các cách diễn đạt trung lập (―có thể kết luận
rằng‖, ―dữ liệu cho thấy‖).
+ Giọng điệu Trao đổi và Quy gán trong mở rộng không gian hội thoại: ở cả hai
thể loại, giọng điệu Trao đổi đều xuất hiện ở phần kết luận và thể hiện rõ mức độ tham
gia của người viết vào cuộc đối thoại với người đọc. Giọng điệu Xa cách ít được sử
dụng ở cả hai thể loại. Tuy nhiên, giọng điệu Trao đổi và Thừa nhận (Quy gán) lại có
cách sử dụng và tác động khác nhau do đặc trưng từng thể loại.
Trong các diễn ngôn bình luận báo chí, Trao đổi và Thừa nhận có tác dụng tạo
sự tương tác với độc giả, làm cho bài viết hấp dẫn hơn, đồng thời đưa ra nhiều góc
nhìn, nhiều đề xuất khác nhau, giúp độc giả suy nghĩ về vấn đề. Hai giọng điệu này
được thể hiện bằng nhiều phương tiện ngôn ngữ (“có thể‖, ―có lẽ‖, ―dường như‖, câu
hỏi tu từ, dẫn lời nhiều nguồn ý kiến khác nhau…) nhằm tạo không gian mở để người
đọc tự đánh giá vấn đề. Sử dụng các giọng điệu trong Mở rộng không gian hội thoại,
người viết có thể tách mình ra khỏi các trách nhiệm đối với những nhận định trong phát ngôn. Đây là có thể được xem là chiến lược của người viết bình luận.
Giọng điệu Trao đổi và Thừa nhận trong diễn ngôn khoa học chủ yếu được sử dụng để thể hiện tính khách quan, đảm bảo đưa ra nhiều quan điểm học thuật trước khi kết luận. Việc trích dẫn nguồn rõ ràng giúp cung cấp một bức tranh tổng thể về bối cảnh nghiên cứu, đồng thời góp phần vào sự phát triển của tri thức khoa học.
- Mức độ tham gia của người viết trong đánh giá:
Trong diễn ngôn bình luận báo chí, mức độ tham gia của người viết trong lập luận là cao hoặc trung bình, ít khi mờ nhạt. Người viết thường trực tiếp thể hiện quan điểm và đánh giá qua các từ: tôi, chúng ta, rõ ràng, không thể phủ nhận, chắc chắn…
169
Việc người viết thể hiện quan điểm một cách trực tiếp như vậy dễ tạo ảnh hưởng
mạnh, thu hút tranh luận, nhưng có thể mang tính chủ quan.
Còn người viết trong diễn ngôn khoa học ít xuất hiện, mức độ tham gia là trung bình hoặc thấp. Người viết hạn chế bộc lộ quan điểm cá nhân, tập trung vào dữ kiện
khách quan. Hình ảnh của người viết xuất hiện gián tiếp qua các từ trung lập như ―có
thể thấy rằng‖, ―dữ liệu gợi ý rằng‖, ―cần thêm nghiên cứu‖, … Người viết ít tham
gia vào diễn ngôn để truyền tải thông tin một cách chính xác, đảm bảo tính khách quan
và có thể kiểm chứng.
Trong mục này, chúng tôi tiến hành phân tích chi tiết một diễn ngôn bình luận
trên báo Nhân dân để có thể thấy được đặc điểm của NNĐG thể hiện Giọng điệu trong
thể loại bình luận báo chí.
Diễn ngôn lựa chọn để phân tích thuộc chủ đề: giáo dục thời Covid-19, cụ thể:
―Mở cửa trường học an toàn‖ (Nhân dân, ngày 7/2/2022)
MỞ CỬA TRƢỜNG HỌC AN TOÀN
“Hôm nay (ngày 7/2), nhiều địa phương trên cả nước bắt đầu mở cửa trường học, đưa học
sinh, sinh viên trở lại học tập trực tiếp sau thời gian dài tạm dừng do dịch Covid-19 (1). Việc tạm dừng đến trường kéo dài đã ảnh hưởng lớn đến thể chất, tinh thần và chất lượng học tập của học sinh, sinh viên (2). Một số nghiên cứu của giới chuyên gia cho thấy, việc không được đến trường, phải ở nhà học trực tuyến khiến tỷ lệ học sinh, sinh viên đến thăm khám và điều trị các vấn đề về sức khỏe tâm thần tăng vọt (3). Tỷ lệ thiếu tập trung và không hứng thú học tập khá cao; tình trạng tự ti, mất phương hướng, bị rối loạn giấc ngủ, hay cáu gắt, lo lắng không lý do cũng xảy ra phổ biến đối với cả giáo viên và học sinh (4). Vì vậy, việc mở cửa, đưa học sinh, sinh viên đến trường là cần thiết (5). Tuy nhiên, với hơn 22,6 triệu học sinh, sinh viên các cấp, bậc học trên cả nước, khi đi học trực tiếp trong bối cảnh dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp cũng đặt ra nhiều vấn đề không chỉ cho thầy giáo, cô giáo, ngành giáo dục mà còn cho cả các cấp, các ngành và cha mẹ học sinh (6).
Mở cửa trường học cần theo tinh thần chung là thích ứng, linh hoạt, bảo đảm an toàn để thúc đẩy dạy học hiệu quả, chất lượng (7). Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo sở giáo dục và đào tạo, sở y tế, các ban, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở giáo dục phương án, kịch bản phù hợp để xử lý tình huống xảy ra dịch bệnh trong quá trình tổ chức dạy học trực tiếp tại trường; tổ chức tuyên truyền, tập huấn, diễn tập cho giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh để tạo sự đồng thuận cho trẻ đến trường, bảo đảm an toàn (8). Các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ nhà trường, gia đình học sinh để có phương án dạy và học phù hợp từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể (học sinh bị bệnh nền, hoàn cảnh khó khăn, sống xa cha mẹ...) (9). Địa phương cần khẩn trương bàn giao lại cơ sở vật chất đã trưng dụng của cơ sở giáo dục đóng trên địa bàn, sửa chữa hư hại nếu có để bảo đảm sử dụng tốt; đồng thời quan tâm, chỉ đạo các cơ sở giáo dục vệ sinh, khử khuẩn trường lớp trước khi cho học sinh đến trường; hỗ trợ, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng trực thuộc và các trường đưa sinh viên trở lại học tập trực tiếp sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán (10).
Mở cửa trường học trở lại đòi hỏi không chỉ có sự chuẩn bị ở trường học mà cần chuẩn bị tinh thần, thái độ cho cả phụ huynh, học sinh và giáo viên (11). Sau thời gian dài học trực tuyến, sẽ có trường hợp học sinh ngại học trực tiếp, giáo viên ngại dạy trực tiếp, do đó, cần có những hỗ trợ để học sinh hứng thú, mong muốn được học trực tiếp, giáo viên thích ứng trở lại với dạy trực tiếp (12). Những ngày đầu, cơ sở giáo dục cần phối hợp cơ sở y tế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cha mẹ học
170
sinh cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh; diễn biến tâm lý nhằm kịp thời tư vấn, giúp các em có nhận thức, thái độ, hành vi, kỹ năng phòng, chống dịch bệnh để sớm thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát tốt dịch Covid-19 (13). Tổ chức các hoạt động hội nhập, tương tác xã hội, tư vấn tâm lý, tăng cường hoạt động thể chất, giáo dục kỹ năng, củng cố, bù đắp kiến thức trước khi dạy kiến thức mới (14). Nhà trường, các thầy cô giáo cũng cần chuẩn bị tăng cường công tác bảo đảm an ninh, an toàn và phòng, chống bạo lực học đường, không để xảy ra mất an toàn trường học (15).
Đáng chú ý, hình thức dạy trực tuyến đã được xác lập trong hai năm qua và tạo ra cú huých thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của ngành giáo dục cũng như đã tạo dựng một nền tảng tốt cho việc tự học, đào tạo từ xa cũng như các kỹ năng tổng hợp trong dạy và học trực tuyến (16). Vì vậy, khi quay lại dạy và học trực tiếp cần tiếp tục tăng cường những yếu tố tích cực của dạy học trực tuyến vào dạy học trực tiếp (17). Tập trung củng cố, bù đắp kiến thức, cân nhắc lộ trình kiểm tra, đánh giá phù hợp… để không chỉ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ năm học 2021-2022, mà còn chuẩn
bị cho cả những năm học tiếp theo (18).”
Giang Sơn (1) Phân tích theo lí thuyết thể loại theo trƣờng phái Sydney - Bối cảnh văn hóa: diễn ngôn ―Mở cửa trường học an toàn‖ được viết trong bối cảnh đặc biệt khi Việt Nam và thế giới đang dần thích ứng với đại dịch Covid-19.
Sau một thời gian dài học sinh, sinh viên phải học trực tuyến, việc quay lại trường học
trở thành vấn đề cấp thiết nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Diễn ngôn phản ánh sự
quan tâm của toàn xã hội, bao gồm các cấp chính quyền, ngành giáo dục, giáo viên,
phụ huynh và học sinh, trong việc đảm bảo một môi trường học tập an toàn, hiệu quả.
- Cấu trúc thể loại: + Mở đầu: (câu 1-2) thực trạng mở cửa trường học sau thời gian dài học trực
tuyến; ảnh hưởng tiêu cực của việc tạm dừng đến trường.
+ Bàn luận: (câu 3-15) khẳng định sự cần thiết của việc mở cửa trường học; đề
xuất giải pháp để đảm bảo an toàn.
+ Kết luận: (câu 16-18) nhấn mạnh vai trò của công nghệ trong giáo dục; định
hướng dài hạn cho việc học tập.
- Mục đích: diễn ngôn nhằm thuyết phục người đọc về sự cần thiết của việc mở cửa trường học sau thời gian dài đóng cửa vì dịch Covid-19. Đồng thời, bài viết cũng nhấn mạnh trách nhiệm của các bên liên quan trong việc đảm bảo quá trình này diễn ra an toàn và hiệu quả.
- Tính chủ quan và đánh giá trong diễn ngôn bình luận: + Thể hiện quan điểm rõ ràng: diễn ngôn không trung lập mà nghiêng về quan điểm ủng hộ việc mở cửa trường học, nhấn mạnh ―việc mở cửa, đưa học sinh, sinh viên đến trường là cần thiết‖.
+ Sử dụng từ ngữ đánh giá: cần thiết, ảnh hưởng lớn, yếu tố tích cực, không
hứng thú học tập, …
171
(2) Phân tích Giọng điệu trong diễn ngôn theo lí thuyết ngôn ngữ đánh giá Diễn ngôn bình luận trên gồm có 18 câu, trong đó 6 câu thuộc giọng điệu đơn thanh (gồm: câu 1, 2, 8, 9, 14 và 18); 12 câu còn lại thuộc giọng điệu đa thanh. Trong đó, Thu hẹp hội thoại được thể hiện bằng các giọng điệu: Phủ định, Phản lại, Tán Thành, Xác nhận. Còn Mở rộng hội thoại được thực hiện qua giọng điệu Trao đổi. Cụ thể:
Bảng 3.2. Phân tích Giọng điệu trong diễn ngôn bình luận “Mở cửa trƣờng học an toàn” trên báo Nhân dân
Câu Phân tích
Loại giọng điệu Phƣơng tiện thể hiện
(3) Xác nhận
Một số nghiên cứu của giới chuyên gia cho thấy
Câu (3) mang giọng điệu Xác nhận, bởi nó viện dẫn kết quả nghiên cứu của chuyên gia như một sự thật hiển nhiên, không để ngỏ khả năng phản biện. Người viết không bày tỏ sự nghi ngờ hay đặt giả định khác, mà khẳng định rõ tác động tiêu cực của việc học trực tuyến đối với sức khỏe tâm thần. Đồng thời, câu còn sử dụng thang độ nhấn mạnh. Cụ thể, ―tăng vọt‖ nhấn mạnh mức độ gia tăng đáng lo ngại của các vấn đề tâm lí; tổ hợp từ ―các vấn đề về sức khỏe tâm thần‖ mở rộng phạm vi ảnh hưởng, không giới hạn ở một triệu chứng cụ thể; cách liệt kê hai vế ―không được đến trường, phải ở nhà học trực tuyến‖ nhấn mạnh nguyên nhân tác động. Nhờ đó, câu văn vừa có tính thuyết phục cao, vừa làm nổi bật mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Giọng điệu Phủ định trong (4) được thể hiện qua ―thiếu, không‖. Tổ hợp
từ ―thiếu tập trung‖ và ―không hứng thú học tập‖ sử dụng cấu trúc phủ
định, nhấn mạnh sự suy giảm về tinh thần và khả năng học tập - những yếu
Phủ Thiếu, tố vốn được kì vọng trong giáo dục. Bên cạnh đó, thang độ lực mạnh được (4) định không thể hiện qua các tổ hợp từ ―khá cao‖, ―phổ biến‖, nhấn mạnh mức độ lan
rộng và nghiêm trọng của vấn đề. Nhờ sự kết hợp giữa phủ định và thang độ nhấn mạnh, câu văn không chỉ phản ánh thực trạng đáng lo ngại mà còn
tạo sức thuyết phục mạnh mẽ về tác động tiêu cực của việc học trực tuyến.
Từ ―cần thiết‖ thể hiện rõ giọng điệu Tán thành mạnh mẽ của người viết
đối với việc mở cửa trường học. Nó mang tính khẳng định dứt khoát,
không để ngỏ khả năng tranh luận hay phản bác, thể hiện rõ thang độ lực
mạnh. Nếu dùng những cách diễn đạt nhẹ hơn như “nên mở cửa”, “có thể cần thiết”, mức độ bắt buộc sẽ giảm đi, nhưng ở đây, người viết nhấn Tán Cần (5) mạnh tính cấp thiết như một điều hiển nhiên. Đồng thời, nó cho thấy mức thành thiết độ tham gia của người viết trong câu này rất cao. Người viết trực tiếp
khẳng định quan điểm mà không dựa vào ý kiến bên ngoài hay mở ra sự
trao đổi. Chính cách diễn đạt chắc chắn này giúp nhấn mạnh lập trường
ủng hộ việc đưa học sinh trở lại trường và tạo sức thuyết phục mạnh mẽ
đối với người đọc.
Phản Tuy Câu (6) mang giọng điệu Phản lại, thể hiện sự điều chỉnh lập luận bằng (6) lại nhiên cách bổ sung một góc nhìn khác. Từ ―Tuy nhiên‖ đóng vai trò chuyển
172
hướng, nhấn mạnh rằng dù việc mở cửa trường học là cần thiết, nhưng vẫn
tồn tại nhiều thách thức đáng lưu tâm. Bên cạnh đó, kết cấu ―không chỉ …
mà còn‖ mở rộng phạm vi khó khăn, nhấn mạnh ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều đối tượng. Về thang độ, câu sử dụng thang độ lực mạnh, đặc biệt
trong các tổ hợp từ ―diễn biến phức tạp‖, ―nhiều vấn đề‖, giúp làm rõ
mức độ nghiêm trọng của tình huống. Mức độ tham gia của người viết ở
mức trung bình, khi lập luận không mang tính chủ quan mà dựa trên thực
tế khách quan, nhưng vẫn thể hiện sự đánh giá về mức độ khó khăn của
việc trở lại trường. Cách lập luận này tạo sự cân bằng, vừa khẳng định sự
cần thiết của việc đi học trực tiếp, vừa nhấn mạnh những thách thức cần
được giải quyết.
Các câu (7, 10, 11, 12, 13, 15, 17) mang giọng điệu Trao đổi, thể hiện qua
việc sử dụng từ ―cần‖. Từ ―cần‖ giúp mở rộng không gian thảo luận và (7),
để ngỏ khả năng điều chỉnh. Đây là phương tiện ngôn ngữ mang tính đề (10),
xuất, không áp đặt tuyệt đối mà tạo điều kiện cho sự linh hoạt trong thực (11), Trao Cần hiện. Thang độ không xuất hiện trong những câu này. Mức độ tham gia (12), đổi của người viết ở mức trung bình. Người viết đưa ra định hướng nhưng (13),
không ép buộc, cho phép người đọc cân nhắc và điều chỉnh linh hoạt theo (15),
thực tế. Điều này giúp tạo lập luận thuyết phục mà không gây cảm giác áp (17)
đặt, góp phần làm tăng tính khả thi của các giải pháp được đề xuất.
(16) Tán thành Đáng chú ý
Câu (16) mang giọng điệu Tán thành, thể hiện sự đồng thuận và đánh giá tích cực của người viết đối với hình thức dạy trực tuyến. Các phương tiện ngôn ngữ như ―đáng chú ý‖, ―đã được xác lập‖, ―tạo ra cú huých‖, ―thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin‖, ―tạo dựng một nền tảng tốt‖ nhấn mạnh những tác động tích cực mà dạy học trực tuyến mang lại. Những từ ngữ này không chỉ khẳng định giá trị của phương thức giáo dục này mà còn nhấn mạnh vai trò quan trọng của nó trong việc chuyển đổi số và phát triển kĩ năng tự học. Ngoài ra, việc sử dụng từ ―đáng chú ý‖ cũng giúp thu hút sự quan tâm của người đọc, nhấn mạnh sự quan trọng của vấn đề. Trong (16), người viết NNĐG sâu vào lập luận. Không chỉ trình bày một quan điểm trung lập mà người viết trực tiếp thể hiện sự đánh giá tích cực thông qua những từ ngữ mang tính khẳng định. Điều này cho thấy lập trường rõ ràng của người viết trong việc công nhận những lợi ích của dạy học trực tuyến, đồng thời củng cố niềm tin của người đọc vào giá trị của phương thức giáo dục này.
Trong diễn ngôn trên, chủ thể phát ngôn không xuất hiện trực tiếp mà được ẩn đi, tạo ra một giọng điệu mang tính khách quan, không mang dấu ấn cá nhân rõ rệt.
Việc không có đại từ nhân xưng (tôi, chúng ta, chúng tôi) giúp bài viết có tính chính luận cao, tạo cảm giác rằng lập luận đưa ra là dựa trên sự thật khách quan, chứ không
phải quan điểm chủ quan của người viết. Tuy nhiên, dù chủ thể không xuất hiện, mức độ tham gia của người viết vẫn thể hiện gián tiếp qua giọng điệu. Ở những câu mang
giọng điệu Tán thành hoặc Phản lại, có thể thấy quan điểm của người viết ẩn sau các
173
cách diễn đạt như ―cần thiết‖, ―đáng chú ý‖, ―tạo dựng một nền tảng tốt‖, cho thấy
sự đồng thuận hoặc nhấn mạnh về một vấn đề nào đó. Ngược lại, trong những câu
mang giọng điệu Trao đổi, sự vắng mặt của chủ thể càng làm nổi bật tính linh hoạt và mở rộng không gian thảo luận. Nhìn chung, việc không xuất hiện chủ thể trực tiếp
giúp diễn ngôn giữ được tính khách quan, tăng tính phổ quát và thuyết phục, đồng thời
phù hợp với phong cách của một bài bình luận chính sách.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương 3, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và phân tích giọng điệu trong diễn ngôn bình luận trên hai tờ báo Tuổi Trẻ và Nhân Dân, tập trung làm rõ cách thức sử dụng
các nguồn lực ngôn ngữ nhằm thể hiện lập trường, mức độ tham gia của người viết cũng
như các chiến lược lập luận được triển khai.
Kết quả khảo sát cho thấy cả hai tờ báo đều vận dụng linh hoạt hai kiểu giọng điệu: giọng điệu Thu hẹp và Mở rộng không gian hội thoại, song có sự khác biệt rõ rệt về mức độ sử dụng. Cụ thể, các bài bình luận trên báo Tuổi Trẻ có xu hướng sử dụng
giọng điệu Thu hẹp với tần suất cao hơn, phản ánh mức độ tham gia rõ rệt của người
viết trong diễn ngôn. Trong các diễn ngôn này, người viết thường trực tiếp đưa ra các
nhận định, đánh giá và thể hiện lập trường cá nhân một cách rõ ràng. Ngược lại, báo
Nhân Dân cho thấy xu hướng ưu tiên giọng điệu Mở rộng, với cách thể hiện lập luận
mang tính khách quan hơn, tạo điều kiện cho sự đa chiều trong tiếp nhận và khuyến
khích độc giả tham gia vào quá trình kiến tạo ý nghĩa.
Xét về phương thức thể hiện giọng điệu, cả hai tờ báo đều sử dụng kết hợp hai
nguồn lực chính là nguồn lực từ vựng - ngữ pháp và nguồn lực tu từ. Tuy nhiên, báo
Tuổi Trẻ cho thấy sự đa dạng hơn trong việc lựa chọn và triển khai các phương tiện
ngôn ngữ nhằm tạo hiệu quả giọng điệu, từ đó làm nổi bật lập trường của người viết.
Liên quan đến mức độ tham gia của người viết trong lập luận, kết quả khảo sát
cho thấy các tác giả trên báo Tuổi Trẻ có mức độ tham gia cao hơn so với các tác giả
trên báo Nhân Dân. Trong khi các bài viết trên Tuổi Trẻ thường thể hiện quan điểm
trực tiếp và rõ nét, thì các tác giả trên Nhân Dân có xu hướng lựa chọn lối diễn đạt
trung lập, thận trọng, và để mở khả năng diễn giải cho người đọc. Sự khác biệt này phản ánh chiến lược diễn ngôn đặc trưng của từng tờ báo, gắn liền với định hướng truyền thông và đối tượng độc giả mục tiêu.
Từ những phân tích trên, luận án bước đầu xác lập một số đặc điểm của giọng điệu trong diễn ngôn bình luận báo chí, đặc biệt là vai trò của các kiểu giọng điệu trong việc định hình lập luận và mức độ tham gia của người viết. Những đặc điểm này
không chỉ góp phần nhận diện phong cách diễn ngôn của từng tờ báo mà còn cho thấy mối liên hệ giữa lựa chọn giọng điệu và chiến lược tác động truyền thông trong bình luận báo chí.
174
KẾT LUẬN
Dưới góc nhìn của lí thuyết đánh giá và lí thuyết thể loại bình luận trên báo chí, chúng tôi đã lần lượt làm rõ đặc điểm và các nguồn lực thể hiện ba phạm trù Thái độ,
Giọng điệu và Thang độ trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và báo Nhân
dân. Qua các kết quả khảo sát và phân tích, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Về hệ thống Thái độ: qua khảo sát diễn ngôn bình luận trên hai tờ báo đại
diện cho các khuynh hướng báo chí khác nhau là Tuổi trẻ và Nhân dân, có thể khẳng định rằng hệ thống Thái độ giữ vai trò cốt lõi trong việc xây dựng lập trường, quan
điểm và chức năng xã hội của thể loại bình luận báo chí. Trong các diễn ngôn bình
luận trên báo, hệ thống Thái độ được triển khai đầy đủ cả ba nhóm: Cảm xúc, Phán xét
và Thẩm giá, với các tiểu loại đánh giá ở cả hai bình diện tích cực và tiêu cực, trong đó đánh giá tiêu cực chiếm ưu thế, phản ánh đặc trưng của bình luận báo chí là tập trung vào các vấn đề bất cập, nổi cộm, cần phản biện hoặc điều chỉnh. Cảm xúc được sử
dụng phổ biến, đặc biệt là nhóm Mong muốn, thể hiện tâm thế kì vọng vào sự thay đổi
tích cực; Phán xét tập trung vào hai nhóm Khả năng và Kiên trì, phản ánh sự chú trọng
đến năng lực thực thi và nỗ lực hành động của các chủ thể; còn Thẩm giá góp phần
đánh giá giá trị và tầm ảnh hưởng của hiện tượng xã hội. Hệ thống Thái độ không chỉ
thể hiện cảm xúc hay quan điểm cá nhân của người viết mà còn đóng vai trò quan
trọng trong việc định hướng nhận thức xã hội, thông qua việc làm nổi bật cái đúng –
sai, tốt – xấu, cần – không cần trong đời sống. Các biểu thức Thái độ được hiện thực
hóa qua nguồn lực từ vựng – ngữ pháp đa dạng, từ lựa chọn từ ngữ giàu sắc thái đến
cấu trúc cú pháp nhấn mạnh lập trường, cho thấy chiến lược tổ chức ngôn ngữ có chủ
đích của thể loại này. Dù có sự khác biệt về mức độ thể hiện – Tuổi trẻ thiên về cảm
xúc chủ quan, cách đánh giá trực diện và mang tính cá nhân, trong khi Nhân dân
hướng đến phong cách khách quan, tiết chế, định hướng – thì cả hai tờ báo đều cho
thấy tính đánh giá mạnh mẽ, tính định hướng rõ ràng và vai trò trung tâm của hệ thống
Thái độ trong việc kiến tạo lập luận, thể hiện lập trường và thực hiện chức năng xã hội của báo chí bình luận.
2. Về hệ thống Giọng điệu: qua khảo sát diễn ngôn bình luận trên hai tờ báo Tuổi trẻ và Nhân dân, có thể khẳng định rằng Giọng điệu đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập lập trường, điều chỉnh quan hệ giữa người viết và người đọc, đồng thời gia tăng hiệu quả lập luận, thuyết phục trong thể loại bình luận báo chí. Một đặc điểm nổi bật là thể loại bình luận có sự kết hợp linh hoạt giữa giọng điệu Thu hẹp và
Mở rộng không gian hội thoại, nhằm vừa thể hiện quan điểm của người viết, vừa tạo điều kiện để người đọc tiếp cận vấn đề từ nhiều góc độ. Giọng điệu Thu hẹp thường gắn với các phát ngôn đánh giá trực tiếp, cấu trúc phủ định mạnh hoặc từ ngữ mang
175
tính khẳng định cao, phản ánh sự can dự rõ rệt của chủ thể diễn ngôn. Trong khi đó,
giọng điệu Mở rộng được thể hiện thông qua các cấu trúc ngôn ngữ mang tính gián
tiếp hoặc các từ ngữ mang tính giảm nhẹ nhằm tạo tính khách quan, đa chiều và mở không gian tương tác với người đọc. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác
biệt trong cách thức sử dụng giọng điệu giữa hai tờ báo. Tuổi trẻ có xu hướng thiên về
giọng điệu Thu hẹp, thể hiện quan điểm cá nhân mạnh mẽ và trực diện, góp phần tạo lập
diễn ngôn gần gũi, sắc sảo và thu hút độc giả đại chúng. Ngược lại, Nhân dân sử dụng
giọng điệu Mở rộng với tần suất cao hơn, nhằm xây dựng lập luận khách quan, cân nhắc nhiều chiều thông tin và mở không gian để người đọc tự đưa ra nhận định. Ngoài ra, báo
Tuổi trẻ có sự đa dạng hơn trong việc lựa chọn và kết hợp các phương tiện ngôn ngữ,
giúp tăng cường hiệu quả diễn ngôn và thu hút độc giả. Sự khác biệt này phản ánh đặc
trưng phong cách và chiến lược diễn ngôn riêng của từng cơ quan báo chí trong quá trình thực hiện chức năng định hướng và dẫn dắt dư luận xã hội.
3. Về hệ thống Thang độ: trong luận án, Thang độ không được xem xét riêng lẻ
mà được phân tích trong mối quan hệ với Thái độ và Giọng điệu nhằm làm rõ sự tương
tác và bổ trợ giữa các phạm trù này. Thang độ đóng vai trò quan trọng trong việc tăng
cường hoặc giảm nhẹ mức độ đánh giá trong hệ thống Thái độ, đồng thời nhấn mạnh
hoặc làm suy giảm sự khẳng định trong Giọng điệu, qua đó thể hiện mức độ tham gia
của người viết vào lập luận. Kết quả khảo sát cho thấy, trong các diễn ngôn bình luận
trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, các đánh giá về Lực xuất hiện với tần suất cao hơn
đáng kể so với Tiêu điểm. Đáng chú ý, tỉ lệ các đánh giá mang tính nâng cấp, nhấn
mạnh cao hơn so với các đánh giá hạ cấp, giảm nhẹ, phản ánh xu hướng thể hiện quan
điểm trực tiếp của người viết bình luận, qua đó tác động đến độc giả và định hướng dư
luận. Thang độ trong diễn ngôn bình luận báo chí được hiện thực hóa qua hai nguồn
lực chính: từ vựng - ngữ pháp (sử dụng các từ/ tổ hợp từ mang sắc thái cường điệu
hoặc giảm nhẹ, các cấu trúc câu biểu đạt mức độ khẳng định khác nhau) và tu từ (biện
pháp lặp, liệt kê, so sánh). Trong đó, nguồn lực từ vựng – ngữ pháp được sử dụng với
tần suất cao nhất, cho thấy vai trò quan trọng của lựa chọn ngôn ngữ trong việc điều chỉnh mức độ đánh giá, tạo điểm nhấn và củng cố lập trường của người viết.
4. Về chủ thể đánh giá: trong các diễn ngôn bình luận của cả hai báo, chủ thể đánh giá được chia thành hai nhóm: tác giả (người viết bình luận) và phi tác giả (những đối tượng được tác giả trích dẫn, phản ánh quan điểm hoặc cảm xúc). Sự đa dạng về chủ thể đánh giá có vai trò quan trọng trong việc gia tăng tính đa chiều và khách quan của bài viết. Việc lồng ghép nhiều chủ thể không chỉ giúp bài bình luận
tránh khỏi tính phiến diện mà còn mở rộng góc nhìn, tạo lập luận chặt chẽ và thuyết phục hơn. Đồng thời, điều này cũng tăng cường sự kết nối với độc giả, khi họ có thể tìm thấy những quan điểm gần gũi với suy nghĩ của mình, từ đó nâng cao mức độ đồng
176
thuận và gắn kết với bài viết. Đây cũng được xem là chiến lược quan trọng trong thể
loại bình luận báo chí. Mặc dù cả hai báo đều có tỉ lệ chủ thể là tác giả cao hơn phi tác
giả, phản ánh đặc trưng của thể loại bình luận - nơi người viết/ tờ báo thể hiện quan điểm trước sự kiện đang bàn luận - nhưng trong hầu hết các diễn ngôn, chủ thể tác giả
thường được ẩn đi, chỉ còn lại đối tượng được/ bị đánh giá và nội dung đánh giá. Việc
ẩn chủ thể này góp phần làm cho lập luận trở nên khách quan và gia tăng sức thuyết
phục đối với độc giả. Tuy nhiên, cách thể hiện hình ảnh chủ thể tác giả giữa hai báo có
sự khác biệt rõ rệt. Báo Tuổi Trẻ có xu hướng thể hiện quan điểm cá nhân một cách trực tiếp và rõ ràng hơn, với sự xuất hiện thường xuyên của các đại từ nhân xưng như
“tôi”, “chúng tôi”, “chúng ta”. Điều này cho thấy mức độ tham gia của tác giả vào lập
luận khá mạnh mẽ. Ngược lại, báo Nhân Dân thể hiện sự tiết chế trong việc đưa chủ
thể tác giả vào văn bản. Chủ thể đánh giá phần lớn được ẩn đi, thể hiện sự khách quan và trung lập trong lập luận. Cách thể hiện này phù hợp với định hướng chính trị và tôn chỉ hoạt động của tờ báo.
5. Về đặc trưng của NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí: các diễn ngôn
bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân được tổ chức theo mô hình chung của thể loại
bình luận theo trường phái Sydney, gồm ba phần chính: mở đầu (nêu vấn đề), bàn luận
(phân tích thực trạng, trong đó nhấn mạnh những bất cập, phê phán hành vi của đối
tượng bị đánh giá, đồng thời ghi nhận những nỗ lực, chuyển biến tích cực), và kết luận
(đề xuất giải pháp). Cấu trúc này không chỉ giúp bài bình luận chặt chẽ về mặt lập luận
mà còn phản ánh rõ chức năng định hướng dư luận của báo chí. NNĐG trong diễn
ngôn bình luận báo chí chịu sự chi phối mạnh mẽ của bối cảnh xã hội và văn hóa. Để
xác định những đặc trưng của hệ thống này, chúng tôi đã tiến hành phân tích toàn diện
hai diễn ngôn bình luận và so sánh với diễn ngôn khoa học. Kết quả cho thấy, NNĐG
trong diễn ngôn bình luận báo chí có một số đặc điểm nổi bật sau:
(1) Tính lập trường và định hướng quan điểm: NNĐG trong bình luận báo chí
thể hiện rõ ràng lập trường của người viết/ tờ báo trước một vấn đề thời sự. Thông qua
việc sử dụng các nguồn lực NNĐG, tác giả có thể bày tỏ thái độ đồng tình, phản đối, ca ngợi hoặc phê phán, từ đó tác động đến nhận thức và thái độ của độc giả.
(2) Sự kết hợp giữa khách quan và chủ quan: bình luận báo chí hướng đến việc thuyết phục công chúng, do đó NNĐG trong thể loại này có sự đan xen giữa tính chủ quan (quan điểm cá nhân của tác giả/ tờ báo) và tính khách quan (trích dẫn, phản ánh đánh giá từ nhiều chủ thể khác nhau). Việc ẩn hoặc thể hiện chủ thể đánh giá cũng góp phần điều chỉnh mức độ khách quan của bài viết.
(3) Hệ thống đánh giá đa dạng: NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí vận hành theo ba hệ thống chính: Thái độ (biểu đạt quan điểm, cảm xúc đối với sự kiện, nhân vật), Giọng điệu (xác định mức độ tham gia của tác giả vào lập luận, điều chỉnh
177
không gian đối thoại), Thang độ (tăng cường hoặc giảm nhẹ mức độ chắc chắn, nhấn
mạnh hoặc làm mờ đi sự đánh giá).
(4) Sự linh hoạt trong việc sử dụng nguồn lực ngôn ngữ: NNĐG trong bình luận báo chí không chỉ phong phú về nội dung mà còn đa dạng về cách thức thể hiện. Có
hai nguồn lực ngôn ngữ được sử dụng để thể hiện đánh giá, quan điểm của chủ thể
trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân, gồm: nguồn lực từ vựng
- ngữ pháp và nguồn lực tu từ.
(5) Sự khác biệt giữa các tờ báo: tùy vào phong cách, tôn chỉ hoạt động mà mỗi tờ báo có cách sử dụng NNĐG khác nhau. Báo Tuổi trẻ có xu hướng phản biện mạnh
mẽ thường thể hiện đánh giá trực tiếp, chủ quan hơn, trong khi báo Nhân dân mang
tính định hướng thường duy trì giọng điệu tiết chế, trung lập.
Nhìn chung, NNĐG trong diễn ngôn bình luận báo chí không chỉ là công cụ biểu đạt quan điểm mà còn góp phần quan trọng vào việc định hướng dư luận, tạo ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng.
Những điểm khác biệt trong phong cách thể hiện NNĐG giữa báo Tuổi trẻ và Nhân
dân có thể là một điểm đáng lưu tâm khi nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ báo chí.
Trong giới hạn về thời gian, phạm vi và năng lực nghiên cứu, luận án không
tránh khỏi những hạn chế nhất định. Thứ nhất, nghiên cứu mới chỉ tập trung khảo sát
NNĐG trong thể loại bình luận trên hai tờ báo Tuổi Trẻ và Nhân Dân, chưa xem xét sự
phân bố của NNĐG trong cấu trúc tổng thể của bài báo, cũng như chưa tiến hành đối
chiếu với các thể loại báo chí khác như tin tức, phóng sự hay xã luận. Thứ hai, ngữ
liệu được sử dụng trong luận án giới hạn trong giai đoạn diễn ra đại dịch Covid-19, do
đó các kết luận về xu hướng cảm xúc - đặc biệt là sự lấn át của cảm xúc tiêu cực so với
cảm xúc tích cực - chỉ phản ánh đặc điểm của ngữ liệu trong bối cảnh cụ thể đó, chưa
thể khái quát cho toàn bộ diễn ngôn bình luận báo chí ở các thời kì khác. Thứ ba, luận
án hiện mới chỉ tiếp cận NNĐG ở cấp độ hiển ngôn, chưa đi sâu phân tích các yếu tố
mang tính hàm ngôn. Trong các công trình kế tiếp, chúng tôi dự kiến sẽ mở rộng phạm
vi khảo sát sang các thể loại báo chí khác, phân tích sự phân bố của NNĐG trong cấu trúc bài viết, đồng thời đi sâu nghiên cứu các phương tiện đánh giá hàm ngôn nhằm
góp phần hoàn thiện hơn về bức tranh NNĐG trong diễn ngôn truyền thông Việt Nam.
178
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trương Thị Mỹ Hậu (2024). Phạm trù Giọng điệu trong các bài báo bình luận trên báo Nhân Dân. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế ―Những khuynh hướng Ngôn ngữ
học hiện đại - Lí thuyết và ứng dụng‖, tr.734-747.
2. Bùi Thị Thúy Hằng, Trương Thị Mỹ Hậu (2024). Từ xưng hô tiếng Việt dưới góc
nhìn của lí thuyết đánh giá (xét ở tiểu hệ thống Cảm xúc). Kỉ yếu hội thảo khoa
học quốc tế ―Những khuynh hướng Ngôn ngữ học hiện đại - Lí thuyết và ứng dụng‖, tr.748-761.
3. Lê Thị Lan Anh, Trương Thị Mỹ Hậu (2024). Ngôn ngữ đánh giá cảm xúc và
phán xét trong văn bản bình luận về vấn đề xăng dầu trên báo Tuổi trẻ và báo
Nhân dân. Tạp chí Ngôn ngữ, Số 8 (406), tr. 3-15.
4. Trương Thị Mỹ Hậu, Bùi Thị Thúy Hằng (2024). Ngôn ngữ đánh giá "thái độ" trong các bài bình luận về vấn đề chăm sóc đời sống nhân dân lao động. Ngôn ngữ
& Đời sống, số 10 (359), tr. 21-31.
5. Bùi Thị Thuý Hằng, Trương Thị Mỹ Hậu (2024). “Từ xưng hô trong sự tình vật
chất theo lí thuyết SFG của M.A.K Halliday (Khảo sát trong một số tác phẩm văn
học)”. Ngôn ngữ & Đời sống, Số 11a (360), tr 37 – 48.
6. Trương Thị Mỹ Hậu (2025). “Comparison of the appraisal language “Attitude” in
commentaries on the issue of “people and work in the fight against covid-19” in
Tuoi tre and Nhan dan newspapers”. Language & Life, Vol.6b (369) 2025, p.97-
112, 2025.
179
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Halliday, M. A. K., & Matthiessen, C. M. I. M. (2004). An Introduction to
Functional Grammar (3rd ed.), London: Arnold.
2. Biber, D., Johansson, S., Leech, G., Conrad, S., & Finegan, E. (1999). Longman
Grammar of Spoken and Written English, London: Longman.
3. Thompson, G., & Hunston, S. (2000). Evaluation in text: Authorial stance and
the construction of discourse, Oxford: Oxford University Press.
4. Martin, J. R., & White, P. R. R. (2005). The Language of Evaluation: Appraisal in
English, Basingstoke: Palgrave Macmillan.
5. 钟丽丽 (2005). 研究政治演讲中的词汇选择:从系统评价角度出发 [Nghiên
cứu cách chọn lựa từ vựng trong diễn thuyết chính trị nhìn từ góc độ hệ thống
đánh giá]. 系统功能语言学与评价语言学全国研讨会 [Ngôn ngữ học chức
năng hệ thống và Ngôn ngữ đánh giá toàn quốc], 112-118.
6. 倪安琪 & 陶文军 (2009). 系统功能语言的评估理论及其在辩论中的应用 [Lý
thuyết đánh giá của ngôn ngữ chức năng hệ thống và ứng dụng vào tranh luận hùng
biện]. 货币教学研究杂志 [Nạp chí Nghiên cứu dạy học tiền tệ], 25(2), 80-85.
7.
Jalilifar, A., & Savaedi, A. (2012). Appraisal in English and Persian: A
contrastive study of evaluative language in newspaper editorials. Discourse &
Communication, 6(4), 401-424.
8. Mazlum, F., & Afshin, H. (2016). A Comparative Study of Appraisal System in
English and Persian Editorials. International Journal of Linguistics, 8(4), 25-40.
9. Motta-Roth, D. (2005) – "Discourse analysis and academic lectures: Exploring the language of knowledge dissemination." Journal of English for Academic
Purposes, 4(3), 231-251.
10. Lee, J. J. (2015) – "The role of language in EFL classroom interaction: A systemic functional linguistics perspective." Language Teaching Research,
19(3), 372-386.
11. Hood, S. (2010). Appraising Research: Evaluation in Academic Writing,
Palgrave Macmillan.
12. Hyland, K., & Tse, P. (2004) – "Metadiscourse in academic writing: A
reappraisal." Applied Linguistics, 25(2), 156-177.
13. Coffin, C. (2006). Historical Discourse: The Language of Time, Cause and
Evaluation, Continuum.
180
14. 关镜英 (2009). 运用联结与评估分析在英语阅读教学中的应用 [Vận dụng liên
kết và phân tích đánh giá trong dạy học đọc hiểu tiếng Anh]. 学报—凯里学院学
报 [Học báo Học viện Khải Lý], 27(4), 115-119.
15. 刘传风 (2011). 评估理论在外语写作教学中的应用 [Ứng dụng lý thuyết đánh
giá trong dạy học môn viết ngoại ngữ]. 西安外国语大学学报 [Nạp chí Đại học
Ngoại ngữ Tây An], 18(3), 45-50.
16. 朱伟琼 (2012). 在大学英语听力教学中应用态度意义分析 [Ứng dụng phân
tích ý nghĩa thái độ trong dạy học nghe hiểu tiếng Anh bậc đại học]. 湖北经济学
院学报(人文社会科学版) [Journal of Hubei University of Economics
(Humanities and Social Sciences)], 9(4), 121-125.
17. Hu, G., & Choo, L. (2015). The impact of disciplinary background and teaching experience on the use of evaluative language in teacheer feedback. Teachers and
teaching: Theory and Practice, 22(3), 329-349
18. Munday, J. (2012). Evaluation in Translation: Critical Points of Translator
Decision-Making, Routledge.
19. Zhang, M., & Pan, Y. (2020). "Translating Political Discourse: A Study on in Chinese Political Speeches and Their English
Appraisal Resources
Translations." Journal of Language and Politics, 19(4), 611-630.
20. Munday, J. (2018). "A Model of Appraisal in Translation: Addressing the Role of Affect, Judgement and Appreciation." Perspectives: Studies in Translation
Theory and Practice, 26(4), 491-507.
21. Liu, X., & Yu, H. (2021). "Reconstructing Narrative Voice: The Role of Engagement Resources in Translating Chinese Novels into English." Target:
International Journal of Translation Studies, 33(2), 213-234.
22. Xu, J., & Wang, L. (2017). "Attitude and Engagement in Academic Discourse
Translation: A Systemic Functional Perspective." Discourse Studies, 19(5), 573-590.
23. Biel, Ł. (2018) – "Legal Translation and Evaluation: The Role of Appraisal in
Translating Legal Texts." The Translator, 24(2), 133-152.
24. Bang, M-H., & S-I Shin. (2012). A corpus-based study of green discourse in the South
Korean press in comparison with the US press. Sociolinguistics, 20(1), 79- 110.
25. Bang, M-H., & S-I Shin. (2013). Comparing evaluative language in the copora of South Korean government and NGO documents on environmental issues. Language research, 49(3), 725-757.
26. Kong, K. C. C. (2006). Linguistic resources as evaluators in English and Chinese research articles. Multilingua – Journal of Cross-Cultural and Interlanguage
Communication, 25 (1-2), 183-216
181
27. Liu, X. (2010). An application of appraisal theory to teaching college English reading in China. Journal of Language Teaching and Research, 1(2), 133-135. 28. Pounds, G. (2010). Attitude and subjectivity in Italian and British hard-news reporting: The construction of a culture-specific „reporter‟voice. Discourse Studies, 12(1), 106-137.
29. Folkeryd, J.W. (2006). Writing with an attitude: appraisal and student texts in
the school subject of Swedish, Uppsala University.
30. Sano, M. (2011). Reconstructing English System of ATTITUDE for the 163 Application to Japanese: An exploration for the construction of a Japanese dictionary of appraisal. Paper presented at the ISFC38, Lisbon: Portugal.
31. Thomson, E (2008). Representations of Women in Six Japanese Folk Tales.
Proceedings of ISFC 35: Voices Around the World, 229.
32. Knox, J. S., & Patpong, P. (2008). Reporting boodshed in Thai newspapers: a comparative case study of English and Thai. In E. A. Thomson & P. R. R. White (Eds.), Communicating conflict: multilingual studies of the news media (pp. 173- 202), London: Continuum.
33. Tran, V.T.H. (2011). A linguistic study on social attitudes toward the quality issues
of postgraduate education in Vietnam, Doctoral thesis, Wollongong, NSW.
34. Tran Thi Hong Van & Elizabeth Thomson (2008). “The nature of „Reporter‟ voice in a Vietnamese hard news story”. In E. Thomson & P. White (Eds.). Communicating conflict: multilingual case studies of news media, London/New York: Continuum.
35. Duc Duy Vo (2011). Style, Structure and Ideology in English and Vietnamese Business Hard News Reporting – A Comparative Study, Doctoral thesis, Australia: The University of Adelaide.
36. Thu Thi Bich Ngo (2013). The deployment of the language of evaluation in English and Vietnamese spoken discourse, Doctoral thesis, Australia: University of New England.
37. Thu Ngo and Len Unsworth (2011). Vietnamese person reference system as an appraisal resource. In Quynh Le and Thao Le, editors. Linguistic diversity and cultural identity: A global perspective. Inc: Nova Science Publishers.
38. Nguyễn Hồng Sao (2010). So sánh ngôn ngữ báo chí tiếng Việt và tiếng Anh qua một số thể loại, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
39. Trần Thị Thanh Hương (2018). Ngôn ngữ đánh giá của các giám khảo trên truyền hình thực tế trong một số chương trình giải trí tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh), Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
182
40. Nguyễn Thị Thu Hiền (2017). Phương thức giao tiếp với độc giả của các bài bình luận báo chí về “Hồ sơ Panama” từ góc nhìn của thuyết đánh giá. Tạp chí Nghiên
cứu nước ngoài, số 1(33) (2017), Tr.31-37.
41. Nguyen Thi Thu Hien, Tong My Linh (2020). Appreciation in Enghlish anh Vietnamese News Reports towards Plastic Straws. Journal of Science, Quy Nhon
University, Vol 14 (4), P.29-38.
42. Lê Hữu Lộc, Nguyễn Quang Ngoạn (2019). Thái độ phán xét thông qua hành vi biểu cảm của giám khảo The voice UK so với giám khảo The voice Vietnam. Ngôn ngữ & Đời sống, 8 (288), Tr.12-20.
43. Lê Hữu Lộc (2020). Khảo sát nguồn ngôn liệu đánh giá trong truyện ngắn tiếng
Anh dành cho trẻ em. Ngôn ngữ & Đời sống, 10 (303), Tr.100-105.
44. Nguyen Quang Ngoan, Le Huu Loc (2019). Affect in expressive speech acts by the judges of The voice UK versus the voice Vietnam. VNU Journal of Foreign Studies, Vol.35, No.6 (2019), P.28-46.
45. Võ Nguyễn Thùy Trang (2017). Ngôn ngữ mang chức năng phán xét trong truyện ngắn của Nam Cao bản tiếng Việt và tiếng Anh. Tạp chí Khoa học và
công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 2(111)-2017, Tr.99-103.
46. Võ Nguyễn Thùy Trang, (2020). Ngôn ngữ đánh giá và phán xét trong văn bản bình luận về xã hội trên báo chí tiếng Việt và tiếng Anh. Tạp chí Khoa học và
công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Vol.18, No.2, Tr.36-41.
47. Trương Lê Bích Trang, Võ Nguyễn Thùy Trang, (2020). Phạm trù Thang độ trong ngôn ngữ bình luận về xã hội trên báo chí tiếng Việt và tiếng Anh. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 2 (18), Tr.42-47.
48. Nguyen Thi Kim Ngan, Nguyen Thi Huong Lan (2020). A preliminary study on attitude in english and vietnamese media texts in the light of appraisal theory.
VNU Journal of Foreign Studies, Vol.36, No.3 (2020), P. 101-117.
49. Nguyễn Thị Hương Lan (2018). Nghiên cứu ngôn ngữ đánh giá trong sách giáo khoa bậc tiểu học (So sánh sách tiếng Anh tiểu học ở Singapore và tiếng Việt tiểu học ở Việt Nam), Luận án tiến sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam,
Học viện Khoa học Xã hội.
50. Nguyễn Thị Mỹ Lệ (2023). Ngôn ngữ đánh giá trong sách giáo khoa tiếng Anh cấp trung học cơ sở tại Việt Nam dưới góc độ ngữ pháp chức năng hệ thống, Luận án tiến sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
51. Nguyen Bich Hong (2021). Evaluative language in conclusion sections of Vietnamese linguistic research articles. VNU Journal of Foreign Studies, Vol.37. No.3, P.40-59
183
52. Nguyễn Bích Hồng (2023). Nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ đánh giá trong tiếng Anh và tiếng Việt trên cứ liệu bài tạp chí chuyên ngành Ngôn ngữ học, Luận án
Tiến sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
53. Trần Văn Phước (2019). Sự lựa chọn ngôn ngữ đánh giá tình cảm trong một số
truyện ngắn Việt Nam. Ngôn ngữ & Đời sống, 9(289), Tr.3-15.
54. Nguyễn Thị Phương (2023). Ngôn ngữ đánh giá ngoại hình trong tiếng Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam,
Viện Ngôn ngữ học.
55. Nguyễn Thị Hương Lan (2016). Các luận thuyết nghiên cứu về ngôn ngữ đánh giá trong văn bản và diễn ngôn. Từ điển học và Bách khoa thư., Số 4 (42),
Tr.115-123.
56. Nguyễn Thị Thu Hiền (2016). Nghĩa liên nhân của ngôn ngữ trong thể loại bình luận báo chí tiếng Anh- nhìn từ ngữ pháp chức năng và thuyết đánh giá. Tạp chí từ điển học và bách khoa thư, số 3(41), Tr. 109-121.
57. Fowler, R. (1991). Language in the news: discourse and ideology in the press.
London: Routledge.
58. Reah, D. (1998). The Language of Newspapers, London and New York:
Routledge.
59. White, P. R. R. (1998). Telling media tales: the news story as rhetoric, PhD
thesis, Sydney: University of Sydney.
60. Cotter, C. (2010). News Talk: Investigating the Language of Journalism, New
York: Cambridge University Press.
61. Barbara Alysen, Gail Sedorkin, Mandy Oakham, Roger Patching
(2003).
Reporting in a multimedia world: An introduction to core journalism skills, Allen
& Unwin.
62. Edward Fenech (1978). Contemponary journalistic Maltese: An analytical and
comparative study, Leiden: E.J. Brill.
63. Siti Nurhaliza, Ahmad Thamrin Sikumbang, Suheri Harahap (2023). The Use of Journalistic Language in The Headlines of The Waspada Daily Newspaper.
International Journal of Cultural and Social Science, P.107-113.
64. Bell, A. (1991). The Language of News Media, Oxford: Blackwell. 65. Bell, A. (1995 a). Language and the media. Annual Review of Applied
Linguistics,Volume 15, P. 23 – 41.
66. Bell, A. (1998). The discourse structure of news stories. In A. Bell & P. G. Garrett (Eds.), Approaches to media discourse (pp. 64-104), Oxford: Blackwell Publishers.
184
67. Elda Weizman (1984). Some Register Characteristics of Journalistic Language:
Are They Universals? Applied Linguistics, VoL 5 , No.1, P.39-50.
68. Badriah K. Al-Gublan (2010). Some Register Characteristics of Journalistic Language Written in English by Native Speakers and Arabs: A Comparative
Study, English Department, College of Education in Riyadh.
69. Kong, K. C. C. (2009). Media discourse. Discourse, of Course: An overview of
research in discourse studies, Edited by Jan Renkema, p.253-274.
70. (Edited by) John E.Richardson (2010). Journalism Studies: theory and practice –
Language and Journalism, NewYork: Routledge.
71. Agus Hari Wibowo (2018). The language of Media Supporting peace Journalism. Jurnal Komunikasi: Malaysian Journal Of Communication, Jilid 34(3) 2018:
349-360.
72. Miller, C. A. (1984). Genre as social action. Quarterly Journal of Speech, 70(2),
151- 167.
73. Coe, R. M. (2002). The new rhetoric of genre: writing political briefs. In A. M. Johns (Ed.), Genre in the classroom (pp. 195-205), Mah Wah, NJ: Lawrence
Erlbum.
74. Hyon, S. (1996). Genre in three traditions: implications for ESL. TESOL
Quarterly, 30(4), 693-722.
75. Martin, J. R. (1984). Language, register and genre. In F. Christie (Ed.), Children
writing: A reader, Geelong, Vic: Deakin University Press.
76. Swales, J. M. (1990). Genre analysis: English in academic and research settings,
Cambridge, UK: Cambridge University Press.
77. Iedema, R., Feez, S., & White, P. R. R. (1994). Media literacy (Write it right literacy in industry research project- stage 2), Sydney: Metropolitan East
Disadvantaged School Program.
78. Van Dijk, T. A. (1988). News as discourse, Hillsdale: Lawrence Erlbaum
Associates, Inc
79. White, P. R. R. (1998). Telling media tales: the news story as rhetoric, PhD
thesis, Sydney: University of Sydney.
80. Antonio Fruttaldo (2017). News discourse and digital currents: A corpus-based
Genre Analysis of news tickers, UK: Cambridge.
81. Bolivar, A. (1994). The structure of newspaper editorials. In Coulthard, M. (ed.)
Advances in Written Text Analysis, London and New York: Routledge, pp. 276-294.
82. Vestergaard, T. (2000). From Genre to Sentence: the Leading Article and its Linguistic Realization. In Ungerer, F. (ed.) English Media Texts Past and Present. Amsterdam, Philadelphia: John Benjamin Publishing Company, pp.151-176.
185
83. Westin, I. (2002). Language Change
in English Newspaper Editorials,
Amsterdam – New York: Rodopi.
84. Wang, W. (2006). Newspaper commentaries on terrorism in China and
Australia: A contrastive genre study, PhD Thesis, University of Sydney.
85. Richardson, J.E. (2007). Analysing newspapers: An approach from critical
discourse analysis, Palgrave Macmillan.
86. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997). Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
87. Hà Minh Đức (2000). Cơ sở lý luận báo chí – Đặc tính chung và phong cách,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
88. Tạ Ngọc Tấn (1999). Từ lí luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
89. Nguyễn Đức Dân (2007). Ngôn ngữ báo chí – Những vấn đề cơ bản, NXB Giáo dục. 90. Vũ Quang Hào (2007). Ngôn ngữ báo chí, NXB Thông tấn, Hà Nội. 91. Dương Xuân Sơn (2014). Các loại hình báo chí truyền thông, NXB Thông tin và
Truyền thông.
92. Phan Quang (2001). Về diện mạo báo chí Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Phan Quang (2005). Nghề văn nghiệp báo, NXB Thông tấn, Hà Nội. 94. Philippe Gaillard (2003). Nghề làm báo, NXB Thông Tấn, Hà Nội. 95. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2011). Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
96. Trần Quang (2007). Các thể loại báo chí chính luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 97. Nguyễn Thị Thanh Hương (2003). Đối chiếu ngôn ngữ phóng sự trong báo in tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
98. Lê Thị Nhã (2010). Lao động nhà báo – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Lý
luận chính trị.
99. Nguyễn Thị Hồng Nga (2018). Phân tích diễn ngôn xã luận (trên ngữ liệu báo nhân dân giai đoạn 1964-1975), Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội. 100. Huỳnh Thị Chuyên (2014). Ngôn ngữ bình luận trên báo in tiếng Việt hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
101. Võ Nguyễn Thùy Trang, Trương Lê Bích Trang, Dương Quang Trung (2020). Phân tích ngôn ngữ bình luận về xã hội trên báo chí tiếng Anh và tiếng Việt nhìn
từ lý thuyết thẩm định. Báo cáo Tổng kết Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Đại học Đà Nẵng, Mã số: B2017-ĐN05-11, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng.
186
102. Nguyễn Thanh Long (2023). Đặc điểm ngôn ngữ thể loại diễn ngôn bình luận kinh tế - xã hội trên báo Mỹ (có đối chiếu với các bản dịch trên báo tiếng Việt),
Luận án Tiến sĩ, Đại học KHXH & NV, TP.HCM.
103. Nguyễn Thị Mai Phương (2009). Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ văn bản thông cáo báo chí, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
104. Đinh Văn Đức, Vũ Đức Nghiệu, Dương Hồng Nhung (2007). Một vài nhận xét vể ngôn ngữ quảng cáo bằng tiếng Việt trên báo chí cuối thế kỷ XIXvà đầu thế kỷ XX. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHXH&NV, Tập 23, Số 1, Tr.1-11. 105. Halliday, M. A. K., & Matthiessen, C. M. I. M. (2014). Halliday‘s Introduction
to Functional Grammar (4th ed.), Routledge.
106. Thompson, G. (2014). Introducing Functional Grammar (3rd ed.), Routledge. 107. Martin, J. & Rose, D. (2008). Genre relations: mapping culture, Equinox,
London & Oakville.
108. Coffin, C., & O‟ Halloran, K. (2006). The role of appraisal and corpora in
detecting convert evaluation. Functions of language, 13(1), 77-110
109. Martin, J.R. and David Rose (2002). Working with discourse – meaning beyond the
clause, London: Continuum.
110. Đỗ Hữu Châu (1999). Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục. 111. Nguyễn Thiện Giáp (2003). Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục. 112. Martin, J. & Rose, D. (2012). Genres and texts: living in the real world, In: Indonesian journal of systemic ffunctional linguistics, Vol 1, no.1, P. 1 - 21. 113. Diệp Quang Ban (2012). Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXB
Giáo dục Việt Nam.
114. Dương Văn Quảng (1998). Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ báo chí. Tạp chí
thông tin khoa học xã hội, Viện thông tin KHXH, 96(6), Hà Nội.
MỤC LỤC
1. Danh sách các văn bản bình luận .......................................................................... PL-1 2. Phụ lục về phạm trù Thái độ .................................................................................. PL-5
2.1. Tiểu hệ thống Cảm xúc .............................................................................. PL-5
2.2. Tiểu hệ thống Phán xét ............................................................................ PL-20
2.3. Tiểu hệ thống Thẩm giá ........................................................................... PL-45
3. Phụ lục về phạm trù Thang độ trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận ... PL-56
3.1. Tiêu điểm ................................................................................................. PL-56
3.2. Khối lượng ............................................................................................... PL-57
3.3. Thuộc tính ................................................................................................ PL-59
3.4. Quá trình .................................................................................................. PL-61
4. Phụ lục về phạm trù Giọng điệu trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận ..... PL-66
4.1. Tiểu hệ thống Thu hẹp hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận ................................................................................................ PL-67
4.2. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận ................................................................................................ PL-79
PL-1
PHỤ LỤC
1. Danh sách các văn bản bình luận được sử dụng làm ngữ liệu
1.1. Danh sách các văn bản bình luận trên báo Tuổi trẻ
STT Chủ đề Mã Tên bài báo Tác Giả
1. [T1] Buồn cho cô nhân viên y tế học đường Hoàng Hương Nguồn Tuổi trẻ, 10/12/2021
[T2] Thương chốn ở của công nhân Ngọc Hiển 2. Tuổi trẻ, 10/1/2022
3. [T3] Đừng để họ nghỉ hoài như thế! Hoàng Lộc Tuổi trẻ, 6/4/2022
4. [T4] Lương hưu đủ sống! Vũ Thủy Tuổi trẻ, 14/4/2022
5. [T5] Hãy đặt mình vào tâm thế người làm thuê Đặng Ngọc Tùng Tuổi trẻ, 19/4/2022
6. [T6] Được ở nhà thuê tươm tất Vũ Thủy Tuổi trẻ, 26/4/2022
7. Chăm sóc đời sống người lao động trong dịch covid- 19 [T7] Đừng để lạm phát cuốn trôi người nghèo Nguyễn Thị Lệ Tuổi trẻ, 25/5/2022
8. [T8] Chất lượng sống phải là ưu tiên hàng đầu Nguyễn Minh Hòa Tuổi trẻ, 10/6/2022
9. [T9] Trở lại phải hơn trước Trần Hoàng Ngân Tuổi trẻ, 1/1/2022
10. [T10] Áo giáp 3 lớp sống “bình thường mới” Lan Anh Tuổi trẻ, 03/01/2022
11. [T11] Lê Kiên Không để tiêu cực ẩn nấp trong “vùng covid” Tuổi trẻ, 6/1/2022
Sĩ 12. [T12] “Trăm hoa đua nở” không hợp lý Nguyễn Dũng Tuổi trẻ, 19/1/2022
13. [T13] Họ đã chiến đấu vì tổ quốc Nguyễn Minh Hòa Tuổi trẻ, 20/1/2022
14. [T14] Tự tin mở cửa Trần Ngọc Thơ Tuổi trẻ, 28/1/2022
Sĩ 15. [T15] Cần tự tin, tình hình đã khác Nguyễn Dũng Tuổi trẻ, 12/2/2022
– 16. Người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid- 19 [T16] Thay đổi “bản tin đếm ca” L.Anh D.Liễu Tuổi trẻ, 7/3/2022
17. [T17] Có “vũ khí” thì hãy tung ra sớm Lan Anh Tuổi trẻ, 11/3/2022
18. [T18] Thay đổi quan điểm chống dịch Lan Anh
19. [T19] Những chuyến bay giải cứu Lê Đức Dục Tuổi trẻ, 24/3/2022 Tuổi trẻ, 16/4/2022
PL-2
20. [T20] Hai năm đi qua và hai tiếng “gia đình” Trần Thanh Tuổi trẻ, 26/6/2022
Quốc 21. [T21] Thận trọng quá mức sẽ lỡ cơ hội Lê Vinh Tuổi trẻ, 11/12/2021
22. [T22] Để ai cũng phục hồi sau đại dịch Đông Hà Tuổi trẻ, 4/1/2022
23. [T23] Và chúng ta cùng ngắm trời xanh Như Bình Tuổi trẻ, 24/1/2022
24. [T24] Mở cửa quốc tế - những điều cần làm Lương Hoài Nam Tuổi trẻ, 18/2/2022
25. Hữu Khá [T25] Bài học đau xót Tuổi trẻ, 28/2/2022
Quốc Muốn mở cửa, trong nhà phải an 26. Phát triển du lịch thời Covid- 19 [T26] Lê Vinh Tuổi trẻ, 13/3/2022
27. [T27] Đón khách, đừng kêu khó do covid-19 Như Bình Tuổi trẻ, 16/3/2022
28. [T28] Tận dụng “cơ hội vàng” Nguyễn Sơn Thủy Tuổi trẻ, 13/4/2022
29. [T29] Từ chuyến đi trên dòng kênh Nguyễn Thị Hậu Tuổi trẻ, 10/5/2022
30. [T30] Bình thường mới cho trẻ Nhật Huy Tuổi trẻ, 13/12/2021
31. [T31] Chờ câu trả lời từ bộ giáo dục - đào tạo Hoàng Ngọc Vinh Tuổi trẻ, 27/12/2021
32. [T32] Cùng gỡ “nút thắt” đưa trẻ đến trường Nhật Huy Tuổi trẻ, 14/2/2022
33. [T33] Nhiều kịch bản nhưng vẫn lúng túng Vĩnh Hà Tuổi trẻ, 24/2/2022
34. [T34] Đừng nghĩ đến “đóng cửa” Giáo dục thời Covid- 19 Hoàng Hương Tuổi trẻ, 26/2/2022
35. [T35] Quyết liệt hướng đến “học thật” Phạm Anh Xuân Tuổi trẻ, 3/3/2022
36. [T36] Phần thưởng là được đến trường Vĩnh Hà Tuổi trẻ, 10/4/2022
37. [T37] Chữ “thật” trong giáo dục Ngọc Hà
38. [T38] Treo biển hết xăng, chuyện không nhỏ Thanh Tuyền Tuổi trẻ, 15/6/2022 Tuổi trẻ, 11/2/2022
39. [T39] Trách nhiệm điều hành Ngọc An Tuổi trẻ, 16/2/2022
40. [T40] Cây xăng “3 ngón tay”! Ngọc Hiển
41. [T41] Những câu hỏi khó về xăng Vấn đề về xăng dầu sau dịch Covid- 19 Trần Hoàng Ngân Tuổi trẻ, 20/2/2022 Tuổi trẻ, 25/3/2022
PL-3
42. [T42] Kềm giá, nhiệm vụ mới Bảo Ngọc Tuổi trẻ, 30/3/2022
43. [T43] Chủ quan với xăng dầu, sẽ trả giá! Trần Hoàng Ngân Tuổi trẻ, 15/5/2022
44. [T44] Giá xăng chưa cao, đâu vội giảm thuế!? Ngọc Hiển Tuổi trẻ, 6/6/2022
45. [T45] Giải nỗi oan quỹ bình ổn giá xăng dầu Ngọc Hiển Tuổi trẻ, 18/6/2022
1.2. Danh sách các văn bản bình luận trên báo Nhân dân
STT Mã Tên bài báo Tác Giả Nguồn Chủ đề
1. [N1] Khánh An Giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân Nhân dân, 17/12/2021
2. [N2] Chăm sóc người cao tuổi Thái Sơn Chăm Nhân dân, 14/1/2022
3. [N3] Bảo đảm quyền lợi cho người lao động Thảo Chi Nhân dân, 28/3/2022
4. [N4] Hài hòa lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp Phúc Quân Nhân Dân, 1/4/2022
5. [N5] Trông chờ tăng lương Phúc Quân Nhân dân, 8/4/2022
6. [N6] Thái Sơn Gỡ vướng, đưa nhanh tiền hỗ trợ đến tay người thuê trọ Nhân dân, 12/4/2022
7. sóc đời sống người lao động trong dịch covid- 19 [N7] Để thị trường lao động phục hồi bền vững Tô Hà Nhân dân, 20/4/2022
8. [N8] Chăm lo sức khỏe người dân tốt hơn nữa Đan Anh Nhân dân, 24/6/2022
9. [N9] Tiếp tục đẩy mạnh tiêm vắc-xin Thanh Mai Nhân dân, 15/12/2021
10. [N10] “Chia lửa” với tuyến đầu chống dịch Linh Phan Nhân dân, 21/12/2021
11. [N11] Tăng cường “vắc-xin ý thức” Thành Nam Nhân dân, 27/12/2021
12. [N12] Minh Hoàng Nỗ lực hơn nữa trong cuộc chiến chống covid-19 Nhân dân, 7/1/2022
13. [N13] Mở rộng vùng xanh Minh Hoàng Nhân dân, 18/1/2022
14. [N14] Quang Đông Khắc phục sớm việc trên “mở” dưới “đóng” Nhân dân, 20/1/2022
15. Người và việc trong cuộc chiến chống dịch Covid- 19 [N15] Thích ứng an toàn Minh Hoàng Nhân dân, 18/2/2022
16. [N16] Trung Hiếu Cần sớm đưa bộ xét nghiệm vào mặt hàng bình ổn giá Nhân dân, 24/2/2022
PL-4
17. [N17] Không được đánh mất niềm tin Thành Nam
18. [N18] Nhịp sống bình thường mới đang trở lại Tô Hà
19. [N19] Chủ động chống dịch Trung Hiếu
20. [N20] Đừng chủ quan trong phòng, chống dịch Trung Hiếu
21. [N21] Niềm tin về du lịch nội địa an toàn Quang Đông
22. [N22] Giang Nam Tận dụng thời cơ để phục hồi ngành du lịch
23. [N23] Cảnh giác với du lịch “chui” Trang Anh
24. [N24] Mở cửa du lịch an toàn và hiệu quả Trang Anh
25. [N25] “Lỗ hổng” nhân lực ngành du lịch Giang Nam
26. [N26] Quốc Dũng Phát triển du lịch thời Covid- 19 Giữ môi trường du lịch lành mạnh, thân thiện
27. [N27] Xây dựng môi trường du lịch an toàn Đắc Linh
28. [N28] Cần đột phá trong chính sách visa Việt Anh
29. [N29] Cơ hội để du lịch bứt phá Phong Điệp
30. [N30] Giảm áp lực cho giáo viên khi dạy trực tuyến Quỳnh Nguyễn
31. [N31] Mở cửa trường học an toàn Giang Sơn
32. [N32] Chuyện chữ “p” và học tiếng việt Hữu Việt
33. [N33] Bảo đảm an toàn sức khỏe học sinh Mạnh Xuân
34. [N34] Tư vấn, hỗ trợ tâm lý học sinh
35. [N35] Giáo dục thời Covid- 19 Tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho mọi thí sinh
36. [N36] Xóa “bệnh thành tích” trong giáo dục Quỳnh Nguyễn Giang Sơn Quỳnh Nguyễn
37. [N37] Gánh nặng từ sách tham khảo Giang Sơn
38. [N38] Ngăn chặn hành vi trục lợi từ xăng dầu Quỳnh Chi
39. [N39] Vấn đề về xăng dầu Điều hành giá linh hoạt, giữ ổn định thị trường Sông Trà Nhân dân, 25/2/2022 Nhân dân, 26/2/2022 Nhân dân, 9/5/2022 Nhân dân, 4/6/2022 Nhân dân, 2/1/2022 Nhân dân, 12/2/2022 Nhân dân, 1/3/2022 Nhân dân, 17/3/2022 Nhân dân, 15/4/2022 Nhân dân, 25/4/2022 Nhân dân, 8/5/2022 Nhân dân, 1/6/2022 Nhân dân, 9/6/2022 Nhân dân, 13/1/2022 Nhân dân, 7/2/2022 Nhân dân, 27/2/2022 Nhân dân, 2/3/2022 Nhân dân, 7/4/2022 Nhân dân, 21/4/2022 Nhân dân, 29/4/2022 Nhân dân, 21/6/2022 Nhân dân, 10/2/2022 Nhân dân, 15/2/2022
PL-5
40. [N40] Giảm cú sốc tăng giá nguyên liệu đầu vào Sông Trà Nhân dân, 4/3/2022
41. Quỳnh Chi [N41] sau dịch Covid- 19 Xử lý nghiêm hành vi trục lợi, “ăn theo” giá xăng dầu Nhân dân, 11/3/2022
42. [N42] Bảo Trân Điều hành giá linh hoạt, phù hợp diễn biến thị trường Nhân dân, 22/3/2022
43. [N43] Ngăn chặn buôn lậu xăng dầu Minh Vân Nhân dân, 5/4/2022
44. [N44] Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vận tải Xích Tùng Nhân dân, 10/5/2022
45. [N45] Linh hoạt điều hành giá xăng dầu Quỳnh Chi Nhân dân, 23/5/2022
2. Phụ lục về phạm trù Thái độ
2.1. Tiểu hệ thống Cảm xúc
Bảng P2.1.1. Khảo sát Cảm xúc trong các văn bản bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tổng Loại Cảm xúc
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD Mong muốn Hạnh phúc (-) (+) 17 27 13 22 10 25 10 13 16 16 66 103 (+) 1 10 11 7 2 31 (-) 6 2 6 4 10 28 An toàn (-) 8 15 7 24 12 66 (+) 0 2 1 1 0 4 Hài lòng (-) (+) 4 0 6 0 9 5 7 0 17 0 43 5 (+) 28 34 42 21 18 143 (-) 35 36 32 45 55 203 Tổng 131 97 70 48 346 (Đơn vị tính: lần)
Bảng P2.1.2. Kết quả khảo sát Cảm xúc trong các văn bản bình luận trên báo Nhân dân
Tổng Loại Cảm xúc
Mong muốn Hạnh phúc (-) (+) 10 28 4 26 6 22 9 32 7 22 36 130 (+) 1 0 4 0 0 5 (-) 8 4 7 4 1 24 An toàn (-) 10 13 7 3 2 35 (+) 0 0 0 0 0 0 Hài lòng (-) (+) 4 3 3 3 4 3 7 0 5 0 23 9 (+) 32 29 29 32 22 144 (-) 32 24 24 23 15 118 CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD Tổng 154 41 35 32 262 (Đơn vị tính: lần)
2.1.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Mong muốn
2.1.1.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) 3 Tần suất (lần) 1 Tần suất (lần) 1 cái khó Chẳng đặng đừng 1 1 1
đành phải khó mà kỳ vọng muốn nhưng chẳng được 2 1 1 Buộc phải chưa như mong đợi Đừng (để) không mua được phải 4 1 1 Câu hỏi tu từ chưa như mong muốn gập ghềnh không thể mong rào cản 1 1 1
PL-6
thôi thì 'cánh én' hi vọng Hy vọng, ước mơ Mong Mong muốn Nên Trông đợi Chờ đợi khát khao Mong chờ Muốn Nguyện vọng Ước ao Ước mơ 1 36 2 3 2 12 1 1 1 2 6 15 1 2 3 1 1 5 3 1 1 phân trần Cần (phải) Hãy Kỳ vọng Mong mỏi Phải Nôn nóng Ví dụ minh họa cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể cảm xúc Phương tiện ngôn ngữ Phân cực
(-) [T5] Doanh nghiệp
Cái khó (-) [T1]
(-) [T2]
(-) [T3] Nhân viên y tế Chẳng đặng đừng
(-) [T36] Một chủ trường Đành phải buông tay
(-) Chúng ta [T26] Khó mà kỳ vọng
(-) [T40] Khách hàng Muốn nhưng chẳng được
Phân trần (-) [T40] Doanh nghiệp
Buộc phải (-) [T35]
Họ (giáo viên, học sinh, phụ huynh)
(-) [T3] Nhân viên y tế Chưa như mong đợi
Đừng để (-) [T38] Người viết (ẩn)
Tất nhiên, ở góc độ doanh nghiệp cũng có những cái khó, nhưng dịch bệnh đâu phải ai cũng kiệt quệ, nhiều doanh nghiệp, ngành nghề thậm chí còn phất lên trong dịch. Nhưng cái khó ở chỗ nhà trường trả lương thấp quá, sao dám đòi hỏi cao, đành chấp nhận mọi hoạt động chỉ ở mức tương đối. Đó là chưa kể, trả một phần tiền trọ, thậm chí miễn phí tiền thuê đi nữa cũng chỉ là giải pháp ngắn hạn để bớt đi cái khó. Tuy vậy, cũng có rất nhiều nhân viên y tế chẳng đặng đừng phải nói lời chia tay nghề nghiệp, vốn là giấc mơ, "ưu tiên phấn đấu hàng đầu" suốt bao năm qua. "Dù biết có thể chỉ chờ thêm vài tuần hay một tháng nữa nhưng chúng tôi không còn đủ sức nữa, đành phải buông tay", một chủ trường chia sẻ vào cuối tháng 3-2022 sau khi đã chuyển nhượng mặt bằng, thanh lý tài sản. Mặc dù mức độ quan tâm của người nước ngoài đối với điểm đến Việt Nam đang gia tăng, nhưng chúng ta khó mà kỳ vọng một sự bứt phá về số lượng du khách cũng như doanh thu từ du lịch inbound. Nhân viên cây xăng giơ 3 ngón tay ý chỉ bán 30.000 đồng, khách hàng thì người giơ 5, kẻ giơ 7 ý muốn đổ nhiều hơn nhƣng chẳng đƣợc. Về phần mình, các doanh nghiệp đầu mối lại phân trần do Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn giảm công suất gây sụt nguồn cung nhất thời, trong khi nhập khẩu không thể có ngay. Họ buộc phải xáo trộn với những lo toan về thời gian đưa đón con, lo cho con ăn uống... và đặc biệt, mọi việc cần phải tiến hành rất nhanh trong giai đoạn tan học offline ở trường rồi nối tiếp học online ở nhà. Phát biểu tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 TP.HCM hôm 4-4, bà Lê Thiện Quỳnh Như - phó chánh văn phòng Sở Y tế TP.HCM - khẳng định hằng năm các cơ sở y tế công lập ở TP.HCM đều xảy ra tình trạng nhân viên y tế xin nghỉ việc với rất nhiều lý do như đi làm xa, môi trường làm việc không phù hợp, đặc biệt có nguyên nhân đến từ thu nhập chƣa nhƣ mong đợi. Thị trường xăng dầu thế giới đang trong giai đoạn nhạy cảm, giá nhăm nhe tăng, nguồn cung không ổn định. Vì vậy, đừng để thị trường xăng dầu trong nước thêm "nóng, ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng (phản ứng), bởi đằng sau đó chính là an ninh năng lượng quốc gia.
PL-7
(-) [T38] không mua được một số người tiêu dùng ở ĐBSCL
Trẻ Phải (-) [T17]
Phải (+) [T37] Người viết (ẩn)
Thôi thì (-) [T44] Người viết (ẩn)
Câu hỏi (-) [T13] Người viết (ẩn)
Chúng ta Gập ghềnh (-) [T9]
Chúng ta Cần (+) [T15]
Chúng ta Hãy (+) [T15]
Chúng ta (+) [T3] Kỳ vọng và đòi hỏi
Nhân loại (+) [T9] hy vọng, ước mơ
Nguyện vọng (+) [T6] Người lao động
Nguyện vọng (+) [T4] Người lao động
Nhân dân Nguyện vọng (+) [T13]
Chủ nhà Mong muốn (+) [T6]
Tôi Muốn (+) [T13]
Tôi Mong (+) [T29] An ninh năng lượng là vấn đề lớn, hiểu đơn giản là trên bình diện quốc gia phải duy trì liên tục, ổn định nguồn cung cấp và đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng năng lượng với giá chấp nhận được. Nhưng những ngày qua một số người tiêu dùng ở ĐBSCL không mua đƣợc xăng dầu. Trẻ đã phải học trực tuyến nửa thời gian của năm học trước và gần cả thời gian của năm học này. Ngành giáo dục phải thay đổi mạnh mẽ, dứt khoát mới có thể đạt đến chữ “thật” như lẽ ra nó phải có từ lâu. Thôi thì có áp thuế cũng tạm tránh những lúc thị trường đang căng thẳng, giá cả đang bào mòn túi tiền người dân. Lẽ nào cả nước và TP.HCM không lo nổi cho các "thiên thần áo trắng" một cái Tết đàng hoàng? COVID-19 còn đó, phía trước vẫn gập ghềnh nhưng chúng ta đã mạnh mẽ hơn vì thế "trở lại phải hơn trước" để thu nhập, cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương và quốc gia tốt hơn, hạnh phúc hơn trước. Các số liệu chúng ta cần thu thập để có những phản ứng chính sách phù hợp chỉ nên là số ca phát bệnh và số ca tử vong. Vậy thì hãy sống bình thường, làm việc bình thường và phòng chống COVID-19 bình thường như chúng ta vẫn ứng xử với bất kỳ loại bệnh tật nào khác. Chúng ta vẫn thường kỳ vọng và đòi hỏi ở người thầy thuốc phải đáp ứng rất nhiều tiêu chuẩn, từ giàu lòng nhân ái đến việc phải bắt trúng - đúng bệnh và đặc biệt phải lấy người bệnh làm trung tâm, xem việc cứu người bệnh làm mục đích hành đạo... Nhân loại đã bước vào năm 2022 với nhiều hy vọng, ƣớc mơ và mục tiêu mọi quốc gia hướng tới, đó là chế ngự và chiến thắng đại dịch COVID-19 để còn học tập, làm ăn, giải trí, làm điều có ích, có ý nghĩa. Được ở nhà thuê tươm tất. Đó là nguyện vọng của nhiều người lao động tại cuộc tiếp xúc với HĐND TP.HCM về vấn đề nhà ở cuối tuần qua. Năm 2014, Luật BHXH tiếp tục được sửa đổi theo đó siết lại quy định nhận trợ cấp BHXH một lần nhưng rồi đã phải lùi lại theo nguyện vọng của người lao động. Hãy làm gì đó cho họ, không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là tình cảm, đạo lý, là lời tri ân thiết thực của chúng ta dành cho đội ngũ này. Đa phần chủ nhà mong muốn có nơi ở tốt hơn cho người thuê nhưng xem ra tuân thủ tiêu chí lại cản trở họ khi cải tạo, nâng cấp. Tôi muốn lấy tên một tác phẩm điện ảnh được chuyển thể từ một tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Xô viết nổi tiếng Mikhail Solokhov cho tựa đề bài báo của mình. Tôi mong rằng hệ thống kênh rạch ở TP.HCM cần được nghiên cứu, đánh giá đầy đủ những giá trị và tiềm năng về nhiều mặt để có được sức sống mạnh mẽ
PL-8
Mong mỏi (+) và bản sắc văn hóa của nó. Nếu không, như chuyến đi trên kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè bị ngắn giữa chừng, tiềm năng đô thị sông nước không được khai thác hết. Trong nhiều tháng qua, học sinh, phụ huynh cả nước luôn mong mỏi tới ngày trường học mở cửa trở lại. [T33] Học sinh, phụ huynh cả nước
Dư luận (+) [T11] Trông đợi, mong muốn
Nôn nóng (+) [T8] Lãnh đạo các huyện
ước mơ (+) [T6] mọi người lao động
Chúng ta kỳ vọng (+) [T9]
Dư luận Trông đợi (+) [T11]
Ai mong muốn (+) [T9]
Mọi người mong chờ (+) [T10]
(+) hy vọng [T10] Người viết (ẩn)
(+)
Tôi Muốn
Như vậy, cùng với việc trông đợi kết quả cuối cùng của việc điều tra vụ án, dư luận cũng mong muốn sớm làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là các tổ chức, cá nhân có vai trò quyết định ở mỗi khâu, mỗi chặng trên "đường đi" của kit xét nghiệm Việt Á cũng như các sinh phẩm, thiết bị y tế phòng chống dịch khác nếu gây hoài nghi. Lên quận hay thành phố không quan trọng bằng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân". Đó là lời phát biểu của Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên tại buổi làm việc với Ban thường vụ Huyện ủy Hóc Môn sáng 8-6, cũng có thể hiểu đó là thông điệp quan trọng của lãnh đạo thành phố gửi đến lãnh đạo các huyện đang nôn nóng bỏ qua giai đoạn quá độ lên quận để tiến thẳng lên thành phố trực thuộc TP.HCM. Có chỗ an cư, làm chủ căn nhà là ước mơ của mọi người lao động. Nhiều người hỏi rằng khi nào các cửa hàng, quán ăn, trung tâm thương mại, du khách, các chuyến bay... lại nhộn nhịp để có nhiều việc làm? Khi nào nền kinh tế, tài chính của mỗi gia đình, cá nhân trở lại như trước khi có COVID-19? Nếu vài tháng trước, khó có câu trả lời. Nay chúng ta có quyền biến những kỳ vọng của mình thành hiện thực, không chỉ bằng mà phải hơn trước. Chính vì vậy, dư luận trông đợi các cơ quan có trách nhiệm sẽ "làm đến tận cùng" vụ án Việt Á để đưa mọi hành vi phạm tội và cả những người chịu trách nhiệm ra xử lý tương xứng, như tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường trả lời tại cuộc họp báo trước kỳ họp. Có sức khỏe là có tất cả. Với đại dịch, ai cũng mong muốn được bình an, bình yên để sống khỏe, học tập, làm ăn. Có được bình an, bình yên chúng ta phải bình tâm để tìm ra cơ hội trước thay đổi do COVID-19. Được như vậy là nhờ chúng ta đã có những vũ khí cần thiết để chống lại virus, đó là vắc xin, là 5K và điều mà mọi người mong chờ đó là thuốc điều trị… Có thuốc, hy vọng sẽ chấm dứt tình trạng nhiều gia đình "đói thuốc" trị COVID-19 phải tự tìm mua thuốc theo đường xách tay với giá cao. Tôi muốn lấy tên một tác phẩm điện ảnh được chuyển thể từ một tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Xô viết nổi tiếng (bình thường) Mikhail Solokhov cho tựa đề bài báo của mình.
PL-9
2.1.1.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 107 3 2 Tần suất (lần) 8 3 1 Tần suất (lần) 3 2 1 Cần Mong muốn Kỳ vọng Sẽ Muốn Nhu cầu Mong mỏi Tâm lý cực đoan 1 1 1
7 1 1 1 1 1 Phải (-) “lỡ hẹn” Chưa như mong muốn Phải (+) Yêu cầu Xin hãy Những vướng mắc Buộc Không muốn Buộc phải 1 1 1
Bị Giảm mong muốn Không như mong đợi Khó Bị bỏ quên 1 1 2 Gặp phải Ví dụ minh họa cảm xúc Mong muốn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Phân cực Phương tiện ngôn ngữ Cần Chủ thể cảm xúc Người viết (ẩn) (+) [N1]
Người dân Mong muốn
(+) [N12]
Kỳ vọng (+) [N24]
Phải (-)
Người viết (ẩn) Công nhân, người lao động (-) [N5]
“lỡ hẹn” Người viết (ẩn) (-) [N5]
Bộ Y tế Chưa như mong muốn (-) [N20]
Gặp phải giáo viên, học sinh (-) [N30]
Phải (+) (+) [N3]
Yêu cầu
(+) [N41] Người viết (ẩn) Phó Thủ tướng Lê Minh Khái Các đoàn giám sát, kiểm tra cần triển khai công việc với tinh thần bám sát thực tế, đi sâu tìm hiểu những khó khăn, trở ngại; trực tiếp thăm hỏi các đối tượng chưa được thụ hưởng… Hơn lúc nào hết, người dân mong muốn những vụ việc đó sớm được xử lý nghiêm minh, để không làm lu mờ nỗ lực đóng góp, cống hiến cũng như sự hy sinh của các y, bác sĩ, các cán bộ, nhân viên ngành y tế, những lực lượng tuyến đầu trong cuộc chiến với dịch Covid-19 suốt thời gian qua và cả trong thời gian sắp tới. Ðiều này mang đến kỳ vọng lớn cho sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ của du lịch nước nhà. Theo khảo sát mới nhất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về đời sống công nhân lao động năm 2021, 21% số người lao động phải ăn nhiều mì tôm hơn, 48% giảm lượng thịt hàng ngày, 22% chuyển mua sắm mỗi ngày sang thực phẩm do người thân cung cấp, 15% gộp bữa ăn giảm chi phí, 60% tiết kiệm các khoản chi tiêu, 11% phải vay mượn để chi tiêu, 0,3% phải vay lãi suất cao, tín dụng đen hoặc báo bảo hiểm xã hội. Nhưng trong hai năm liên tiếp, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 cho nên việc nâng lương tối thiểu vùng đã “lỡ hẹn”. Bộ Y tế đã phải nhiều lần có văn bản đốc thúc đẩy nhanh tiến độ tiêm vaccine phòng Covid-19, nhưng kết quả chƣa nhƣ mong muốn. Học sinh không được đến trường, các trường học phải chuyển sang dạy học trực tuyến, kế hoạch học tập bị đảo lộn... khiến giáo viên, học sinh gặp phải những khó khăn, thách thức và những áp lực khi dạy trực tuyến trong thời gian dài. Các doanh nghiệp sử dụng lao động cũng phải bảo đảm hài hòa lợi ích. Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá diễn ra mới đây, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã yêu cầu Bộ Công thương tiếp tục triển khai giải pháp bảo đảm đủ xăng dầu phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân; đồng thời, đề nghị các cơ quan chức
PL-10
Xin hãy [N30] (+)
Những vướng mắc [N6] (-)
Buộc Người viết (ẩn) chuyên gia lao động, công đoàn Doanh nghiệp [N3] (-)
Không muốn
Một số chủ nhà trọ [N6] (-)
Buộc phải Người lao động [N25] (-)
Bị bỏ quên Người viết (ẩn) [N43] (-)
Muốn Doanh nghiệp [N3] (+)
Người dân Nhu cầu [N22] (+)
Người dân Tâm lý cực đoan
[N17] (-)
Bị Doanh nghiệp [N3] (-)
nhân viên y tế Giảm mong muốn
[N10] (-)
Du khách Không như mong đợi [N28] (-)
Khó [N12] (-) Người viết (ẩn) năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát, xử lý ngay các hành vi sai phạm theo quy định của pháp luật. Xin hãy thận trọng, khoa học và chính xác để dạy cho các em học sinh của chúng ta học được cái thần tình ấy. Chính sách đã có, tuy nhiên khi triển khai, đã nảy sinh những vƣớng mắc khiến nhiều chuyên gia lao động, công đoàn e ngại độ phủ của chính sách có thể không đến được với tất cả công nhân, lao động. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong hơn 2 năm qua đã có khoảng 90% doanh nghiệp buộc cho người lao động thôi việc do hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả. Bên cạnh đó, theo phản ánh của nhiều công nhân, lao động khu vực phía nam, một số chủ nhà trọ không muốn cung cấp số căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân của mình cho công nhân làm đơn đề nghị hỗ trợ tiền nhà trọ với lý do đó là thông tin cá nhân, không tùy tiện cung cấp. Tại Hà Nội, trước thời điểm du lịch hoạt động trở lại đầu năm 2022, khoảng 90% doanh nghiệp trong khối lữ hành và lưu trú ngừng hoạt động, khiến nhiều lao động trong lĩnh vực du lịch buộc phải chuyển sang làm việc trong lĩnh vực khác. Không phải cứ mỗi khi giá xăng dầu có biến động lớn, các lực lượng chức năng mới đồng loạt ra quân khiến hoạt động chồng chéo thậm chí cản trở lẫn nhau, nhưng sau đó gần như bị bỏ quên. Bởi xét về lâu dài, xu thế chung phải “kéo” số giờ làm việc giảm xuống. Doanh nghiệp muốn tăng năng suất thì phải cải tiến kỹ thuật, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế. Trên thực tế, sau một thời gian dài bị “dồn nén”, nhu cầu đi du lịch của người dân là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít người nảy sinh tâm lý cực đoan: hoặc là chủ quan, coi thường dịch bệnh, không thực hiện nghiêm các khuyến cáo của cơ quan chức năng về biện pháp phòng, chống dịch; hoặc hoang mang, sợ hãi thái quá, nhìn đâu cũng thấy nguy cơ dịch bệnh cho nên phản đối mọi hoạt động mở cửa nhằm đưa cuộc sống bước vào trạng thái bình thường mới. Bởi việc bị gián đoạn sản xuất, kinh doanh vì dịch Covid-19 đã làm nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc rơi vào tình thế rất khó khăn do chi phí tăng cao khiến nhiều đơn hàng không sản xuất kịp và giao theo đúng tiến độ cam kết. Có thể thấy rằng, tình trạng khối lượng công việc tăng đột biến, thời gian làm việc kéo dài, trong khi các chế độ, chính sách chưa bảo đảm, thiếu thỏa đáng ở khu vực y tế đã dẫn đến hệ quả tất yếu là việc giảm đáng kể động lực làm việc, mong muốn gắn bó với nghề ở một bộ phận không nhỏ y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế. Quy trình thiếu tính chuyên nghiệp khiến du khách nhiều khi phải chờ lâu nhưng kết quả không nhƣ mong đợi, dẫn đến bị động, hủy lịch trình. Dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, dự báo khó có thể kết thúc sớm.
PL-11
2.1.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hạnh phúc
2.1.2.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hạnh phúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 2 1 Vui Vui mừng Vỡ òa, háo hức Phương tiện ngôn ngữ “cuộc sống mới” ấm lòng Cũng may 1 1 1
1 1 1 Tin mừng Hồi hộp Niềm hân hoan Niềm vui Niềm vui tinh thần Nỗi vui mừng Nụ cười hào sảng 1 1 1
1 1 2 Lạ lẫm, bùi ngùi Mắt cay cay Phấn khởi Sự phấn khởi 1 1 1
4 1 1 1 1 1 Mừng Mừng rỡ “bị thương” Vui sướng Xôn xao tiếng nói, cười Xúc động Những trải nghiệm khó quên Tin vui Đau xót Đè nặng 1 1 1
Bạc đầu Gồng gánh 1 1 1
1 1 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 14 “ngụp lặn” Bị tổn thương Buồn Bi đát Cảnh bi thảm Cay đắng thay Chẳng mấy ai vui vẻ Gian khó Giận dữ Gồng mình Hậm hực Hành hạ Khó khăn Lo âu 1 1 1
Khốn khó Nghẹt thở 1 1 1
1 1 1 Thân quen Thích thú Chật vật, gánh chịu Chấp nhận hy sinh Chạy ăn từng bữa Cơ cực Chịu đựng Đánh đổi Đau đớn Đau lòng Gánh nặng đè oằn Không thể không nhức nhối Nặng nề Nhọc nhằn Chật hẹp, bí bách Nốt trầm 1 2 1
Than Trầm cảm Tuyệt vọng 1 1 1 1 1 1 4 3 2 1 1 Nạn nhân xấu số Nhiều mất mát, tổn thương Nỗi lo Nỗi khốn khó Rối bời Oằn mình Thiệt/ thiệt thòi Phải chịu Tự "chòi đạp", ky cóp Vất vả Ví dụ minh họa cảm xúc Hạnh phúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn
Phương tiện ngôn ngữ Vui Phân cực (+) Giọng anh vui khôn tả: "Vậy là không còn sợ chết rồi!". [T19]
Vui mừng (+) [T35] Thế rồi những đứa con và cháu tôi vui mừng ra mặt khi được nhà trường thông báo sẽ cho phép đi học trực tiếp (offline). Chủ thể cảm xúc Anh Những đứa con và cháu tôi
Nỗi khốn khó (-) [T5] Họ (người lao động)
ấm lòng (+) [T2] Người lao động
Các nạn Đau đớn, (-) Nếu đi vào các khu trọ công nhân, sẽ không khó để thấy cuộc sống của họ đang ra sao, mọi thứ đều phơi bày trước mắt, rất dễ để cảm nhận nỗi khốn khó của người lao động. Nếu gói này được thông qua và thực thi hiệu quả, hàng triệu lao động sẽ cảm thấy ấm lòng bởi khó khăn của họ đã được thấu hiểu, hỗ trợ. Các nạn nhân may mắn thoát chết đau đớn nói rằng [T25]
PL-12
Cảnh bi thảm họ không ngờ chuyến du lịch đầu tiên sau hai năm dịch giã lại rơi vào cảnh bi thảm như thế. nhân may mắn thoát chết
Mừng (+) [T22] Người viết (ẩn)
Niềm vui (+) [T19] Vợ chồng anh
Tin mừng (+) [T19]
Một người anh thân thiết của tôi
(+) [T23] Nhiều người dân TP.HCM Thích thú, Những trải nghiệm khó quên
Tin vui (+) [T9] Người viết (ẩn)
Tôi Xúc động (+) [T19]
Buồn (-) [T19] Người viết (ẩn)
(-) [T7] Khó khăn, phải gánh chịu Người lao động, người nghèo
(-) [T25] Bài học đau xót Ông Khuất Việt Hùng
Oằn mình (-) [T39]
Kỳ nghỉ tết dương lịch 2022 vừa qua, nhiều địa phương, trong đó cóTP Vũng Tàu, đã đón một lượng khách rất lớn. Đây là tín hiệu đáng mừng cho những cơ sở kinh doanh du lịch và dĩ nhiên cũng mừng cho những nhà xe chạy tuyến Vũng Tàu, mừng cho người nông dân trồng rau, ngư dân đánh cá… Bởi suốt một thời gian dài, nhìn cảnh quan tài xếp lớp của các bệnh nhân nhiễm Covid-19 ở xứ người trên báo chí, vợ chồng anh không đêm nào ngủ được khi nghĩ đến hai đứa con mình đang ở đó, vì vậy dễ hiểu niềm vui của vợ chồng anh khi các con của mình được giải cứu. Năm ngoái, một người anh thân thiết của tôi gọi điện thoại lúc nửa đêm giọng như reo báo tin mừng: hai đứa con của anh, một đang làm nghiên cứu sinh, một đang là sinh viên từ Mỹ, đã theo chuyến bay giải cứu về tới Việt Nam. Nhiều người dân TP.HCM đã rất thích thú và có những trải nghiệm khó quên khi được tận mắt xem màn trình diễn đầy màu sắc từ khinh khí cầu diễn ra ở Thủ Thiêm những ngày cuối tuần qua. Việt Nam cũng đang chuẩn bị tốt nhất có thể để bước vào năm 2022 với mục tiêu GDP tăng trưởng 6 - 6,5%. Và một tin vui sẽ đến vào đầu năm… Đó là một trong nhiều trường hợp mà tôi đã được gặp năm ngoái, chuyện của bạn bè mà làm tôi xúc động theo khi nghĩ về sự sống và cái chết. Đành rằng chi phí cho những chuyến bay giải cứu tăng lên do nhiều lẽ, nhưng nay còn có thêm lý do thật buồn là một số người có trách nhiệm đã tìm cách trục lợi trong câu chuyện nhân đạo này. Người lao động, người nghèo vừa khó khăn, chật vật trải qua đại dịch COVID-19 kéo dài, nay phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề từ giá xăng dầu tăng cao kỷ lục, kéo theo giá cả những mặt hàng khác ồ ạt tăng theo. Có mặt tại hiện trường, ông Khuất Việt Hùng - phó chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông quốc gia - cho rằng đây là một bài học đau xót bởi số người chết và mất tích quá nhiều. Nhưng sau kỳ điều hành ngày 11-2 vừa qua, lượng xăng dầu bán ra từ các doanh nghiệp đầu mối, phân phối vẫn khá “nhỏ giọt”, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vẫn đang “oằn mình” khi đang lỗ 500-700 đồng/lít. Tôi chắc là một trong những người đầu tư mở trường mầm non kiên định, nhưng đã có lúc tôi nghĩ đến việc dừng lại vì tuyệt vọng.
Tuyệt vọng (-) [T36]
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Tôi (Cô Hoàng Thúy Hằng, quản lý hệ thống mầm non Happy Time)
PL-13
Than (-) [T40] Chủ cây xăng Chủ cây xăng than rằng tiền lời trên mỗi lít xăng xuống đáy, thậm chí âm. Bán ít đi là cách để cây xăng này giảm lỗ, chủ cây xăng biện minh đây là hình thức "khách hàng chia sẻ với cây xăng".
2.1.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hạnh phúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 1 1 1 1 Tần suất (lần) 1 1 1 1 1 Tần suất (lần) 1 7 1 1 1 Niềm vui và biết ơn Vui Tổn thương Ác mộng Tâm trạng căng thẳng ảnh hưởng tiêu cực 1 1 1
Phấn khởi Áp lực Thiệt hại nặng nề Thách thức Thiệt thòi Chịu ảnh hưởng nặng nề Không may 17 2 1 Niềm lạc quan Tin tưởng Tổn thất Những khó khăn Rạn nứt Phải chịu áp lực vô cùng nặng nề Khó khăn Xa xót Ví dụ minh họa cảm xúc Hạnh phúc trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể cảm xúc Phương tiện ngôn ngữ Phân cực
(+) [N27] Hai nữ du khách Nga Niềm vui và biết ơn
(+) [N27] Người viết (ẩn) Những tín hiệu vui
Tổn thương (-) [N7] thị trường lao động
(-)
Ác mộng [N27] du khách nước ngoài
(-) Giáo viên [N30] Tâm trạng căng thẳng
(-)
[N7] người làm công ăn lương Tác động nặng nề, ảnh hưởng tiêu cực
(-)
Cửa hàng Khó khăn [N41]
(+)
Mina Bùi [N29] Niềm lạc quan, tin tưởng Nhận được điện thoại bị mất chỉ sau vài tiếng, hai nữ du khách Nga đã bày tỏ niềm vui và biết ơn với công an Hà Nội và chia sẻ với bạn bè về sự hỗ trợ này cũng như những trải nghiệm tuyệt vời khi đến Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, cùng với những tín hiệu vui, ngay trong giai đoạn khởi động lại, cũng xuất hiện một vài vụ việc tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và hình ảnh du lịch Việt Nam. Với những biến chuyển tích cực đang diễn ra, tổn thƣơng của thị trường lao động việc làm đã phần nào lắng dịu (hạnh phúc). Ấy là khi du khách nước ngoài phản ánh phải chi hàng triệu đồng cho một chuyến xích lô tham quan phố cổ; thậm chí bị trả lại bằng tiền âm phủ bởi lái xe ta-xi; hay phải trải qua hành trình chẳng khác gì ác mộng trên chiếc tàu “rác” với chuột bọ, bánh mì mốc, thiết bị vệ sinh hư hỏng… Việc phải ngồi trước máy tính nhiều giờ cũng gây ảnh hưởng tới thị lực và sức khỏe, đôi lúc kéo theo tâm trạng căng thẳng. Dữ liệu này được quan tâm bởi khu vực dịch vụ gồm những ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp của đại dịch Covid-19 nhưng lại phục hồi sau cùng, khiến những người làm công ăn lương bị tác động nặng nề cả về việc làm và thu nhập, ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống. Theo phản ánh của các cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bên cạnh khó khăn về nguồn cung, hiện các cửa hàng đang “đứng ngồi không yên” do giá xăng dầu liên tục tăng cao. Tuy nhiên chứng kiến việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, cũng như khả năng phục hồi nền kinh tế đáng ngưỡng mộ của Việt Nam, ngay khi đất nước mở cửa trở lại, Mina Bùi quyết định khăn gói quay về quê hương với tràn đầy niềm lạc quan, tin tƣởng.
PL-14
(-) Tổn thất [N7] người lao động
(-)
[N30] giáo viên, học sinh Những khó khăn, thách thức, những áp lực
(-)
[N10] Phải chịu áp lực vô cùng nặng nề Ðội ngũ y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế
Sự phục hồi của thị trường lao động việc làm chưa thật sự bền vững, tổn thất về việc làm và thu nhập của người lao động sẽ khiến chi tiêu thắt chặt lại, Học sinh không được đến trường, các trường học phải chuyển sang dạy học trực tuyến, kế hoạch học tập bị đảo lộn... khiến giáo viên, học sinh gặp phải những khó khăn, thách thức và những áp lực khi dạy trực tuyến trong thời gian dài. Khi đợt dịch thứ tư bùng phát, lực lượng y tế cả nước đã làm việc với hơn 100% sức lực suốt nhiều tháng liên tiếp. Ðội ngũ y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế phải chịu áp lực vô cùng nặng nề từ mọi phía: gia đình, người thân gặp khó khăn trong cuộc sống, bị nhiễm bệnh, bất cập về cơ sở hạ tầng yếu kém, trang thiết bị, máy móc thiếu thốn, lạc hậu, công việc quá tải, thu nhập không đủ trang trải cuộc sống, không còn thời gian, cơ hội nâng cao tay nghề… (-) Mina Bùi bảo, chạm mắt vào đâu chị cũng thấy xa xót Mina Bùi Xa xót [N29]
(+) Phấn khởi [N6] công nhân, lao động (-)
Giáo viên Áp lực [N30]
(-) Việt Nam [N26] Thiệt hại nặng nề
(-) Việt Nam [N24] Chịu ảnh hưởng nặng nề (-)
Không may [N11] người mắc COVID- 19 như thể chính mình đang bị thương. Thông tin nêu trên không chỉ khiến công nhân, lao động đang ở thuê trọ phấn khởi mà nhiều doanh nghiệp còn có thêm động lực nhận thêm đơn hàng. Thực tế, ngoài áp lực về thời gian lên lớp trực tuyến, giáo viên vừa phải thiết kế bài giảng khác với bình thường sao cho ngắn gọn, dễ hiểu, vừa phải quay video, hướng dẫn học sinh làm bài, kết nối với phụ huynh, thậm chí là hướng dẫn cả thao tác sử dụng máy tính… Cả nước, đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long vừa trải qua đại dịchCovid-19, thiệt hại nặng nề về kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp không khói là du lịch. Từ ngày 15/3, Việt Nam chính thức mở lại toàn bộ hoạt động du lịch sau hai năm gần như tê liệt (khả năng) do chịu ảnh hƣởng nặng nề từ dịch Covid-19. Hiện nay, đội ngũ y tế trên toàn thành phố đang căng sức, nỗ lực hết mình, làm việc bất kể ngày đêm nhằm ngăn chặn đà lây lan của dịch bệnh, hỗ trợ, chăm sóc kịp thời những người không may mắc Covid-19. 2.1.3. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc An toàn
2.1.3.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc An toàn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 6 3 1 1 1 Tần suất (lần) 1 5 1 4 1 4 Tần suất (lần) 1 1 2 3 1 1 Tự tin Băn khoăn Lo lắng Báo động Bất an Cảnh báo Cám cảnh Phương tiện ngôn ngữ Những lo toan Nỗi bất an Rủi ro Sợ Sao…yên tâm Sự e ngại Sự lo lắng 1 1 1
Bị đe doạ Thảm họa 2 1 1
6 6 1 Vững tâm Nỗi lo Đắn đo E, e ngại, e dè, Giật mình Hoang mang Không đêm nào ngủ được Không thể tĩnh tâm Nguy cơ Ngại Trấn an 13 2 Câu hỏi Lo, lo lắng, lo âu, âu lo, lo ngại
PL-15
Ví dụ minh họa cảm xúc An toàn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Phân cực
Tự tin (+) [T23] Chủ thể cảm xúc Các doanh nghiệp du lịch TP
Mọi người Vững tâm (+) [T10]
ai (-) [T30] Băn khoăn, lo lắng (-) Các doanh nghiệp du lịch TP đang trong những ngày bận rộn và cả hồi hộp của mùa kinh doanh Tết nhưng họ vẫn tràn đầy tự tin. Có thuốc để mọi người vững tâm trở lại "bình thường mới", nhưng đừng thêm áp lực lên hệ thống y tế. Dù ai cũng mong con được đến trường nhưng khi ngày đến trường trước mặt, băn khoăn, lo lắng vẫn ùa đến. Đi học liệu có an toàn? Liệu [T32] Người viết (ẩn) (-)
lo lắng [T44] Bộ trưởng Bộ Công thương
(-)
Nỗi lo [T32] Người viết (ẩn)
(-) Người dân e ngại [T10]
(-)
[T7] Hoang mang, lo lắng Người nghèo, người lao động
(-)
[T39] Người viết (ẩn) Nỗi bất an và nguy cơ
(-) Sự lo lắng [T44]
(-)
Sợ [T44] Bộ trưởng Bộ Công thương lo lắng ép giá xăng dầu xuống thấp sẽ thiệt hại cho nền kinh tế, sợ bị kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, thao túng tiền tệ… trong khi các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu đã có giải pháp. Chúng ta không bù lỗ xăng dầu, chỉ là giảm thuế. Trong một góc độ nào đó, cũng có thể ví đợt học sinh trở lại trường lần này giống như "làn sóng thứ 4" mà phần nổi là nỗi lo về an toàn trường học, còn tảng băng chìm là vô vàn vấn đề từ việc tổ chức dạy và học, chất lượng chuyên môn đến công tác nhân sự, nhất là việc thiếu hụt giáo viên, bảo mẫu mầm non, tiểu học... Học sinh ở nhiều nơi vẫn chưa đến trường. Tại Hà Nội, hàng quán ở "vùng cam" đã phải ngưng phục vụ tại chỗ. Người dân vẫn e ngại khi du lịch. Thông tin giá xăng dầu được điều chỉnh tăng ở tất cả các mặt hàng, trong đó giá xăng tăng lần thứ 5 liên tiếp, xăng RON95 vượt mốc 30.000 đồng/lít từ 15h ngày 23-5 lần nữa khiến người nghèo, người lao động hoang mang, lo lắng. Nỗi bất an và nguy cơ về “hiệu ứng domino đóng cửa” hay thậm chí là “găm hàng, tăng giá”, làm thị trường nhiễu loạn trước mỗi chu kỳ điều chỉnh giá là hoàn toàn có thể diễn ra. Tại sao bộ trưởng Bộ Tài chính lại bày tỏ sự lo lắng rằng giảm thuế, xăng dầu sẽ chảy sang Lào, Campuchia? Nhiều cử tri và đại biểu Quốc hội đề nghị phải chủ động giảm thuế để kìm giá xăng dầu nhưng lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Công thương trả lời “sẽ cân nhắc”, “tiếp tục rà soát, đề xuất”. Ai cũng sợ lạm phát.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Ai (lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Công thương) (-) Rủi ro [T12] Người viết (ẩn) Đó là chưa nói tới rủi ro các quy định có thể được điều chỉnh, nhưng tính hợp lý vẫn chưa chắc đã đạt được.
PL-16
2.1.3.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc An toàn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Nguy cơ Mối lo lắng 5 1 1
Phương tiện ngôn ngữ Không nơi nương tựa Lo lắng Cảnh báo 3 1 2
E ngại Đáng lo Hoảng loạn Lo ngại Yếu thế Tự ti Trăn trở Hoang mang Cáu gắt Băn khoăn Khó chịu Mất phương hướng 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 4 1 1 1 1 1 3 1 1 Tâm lý bấn loạn, hốt hoảng Sợ Bị trầm cảm Sợ hãi E dè Cô đơn Phấp phỏng lo âu Chưa yên tâm Ví dụ minh họa cảm xúc An toàn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể cảm xúc Phương tiện ngôn ngữ Phân cực
Nguy cơ (-) [N5] Người viết (ẩn)
(-)
người dân [N17] Tâm lý bấn loạn, hốt hoảng
(-)
Chúng tôi Sợ [N17]
(-)
Du khách E dè, lo ngại [N27]
(-) [N29] Phấp phỏng lo âu cơ sở kinh doanh du lịch (-)
[N33] cha mẹ học sinh Chưa yên tâm Do vậy, nhiều doanh nghiệp dựa vào đó không điều chỉnh tiền lương, nguy cơ xảy ra đình công, nghỉ việc của công nhân, lao động tại doanh nghiệp là không thể tránh khỏi. Chính tâm lý bấn loạn, hốt hoảng này của một bộ phận người dân đã góp phần khiến thị trường thuốc và các thiết bị y tế mùa dịch càng trở nên bát nháo, hỗn loạn; tác động tiêu cực đến tâm lý, sinh hoạt của cả cộng đồng. Chúng tôi chỉ sợ người dân hoảng loạn, thiếu niềm tin ". Rõ ràng dịch bệnh dù phức tạp, nguy hiểm (tổng hợp) đến đâu cũng không đáng sợ bằng người dân mất niềm tin. Đây là những dấu hiệu tích cực cho thấy du khách đã bước đầy vượt qua tâm lý e dè, lo ngại (về dịch bệnh để tham gia các hoạt động du lịch; đồng thời cũng báo hiệu sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch Việt Nam sau thời gian dài “ngủ đông” vì đại dịch Covid-19. Suốt những ngày tháng ấy, phấp phỏng lo âu, câu chuyện "tồn tại hay không tồn tại" cũng đã được chủ cơ sở kinh doanh đặt ra. Ðặc biệt là một bộ phận cha mẹ học sinh chƣa yên tâm cho con em đi học trở lại, nhất là đối với học sinh mầm non và tiểu học (đối tượng chưa được tiêm vắc- xin).
[N2] người già độc thân Cô đơn, không nơi nương tựa (-)
E ngại [N6]
chuyên gia lao động, công đoàn (-)
Đáng lo [N11] Người viết (ẩn)
(-) Một bộ phận phải sống dựa vào con cái, nhiều người sống độc thân, cô đơn không nơi nƣơng tựa rất cần sự trợ giúp của cộng đồng, xã hội. Chính sách đã có, tuy nhiên khi triển khai, đã nảy sinh những vướng mắc khiến nhiều chuyên gia lao động, công đoàn e ngại độ phủ của chính sách có thể không đến được với tất cả công nhân, lao động. Hiện, toàn thành phố có 8 quận và 67 xã, phường được nâng lên cấp độ 3 trong phòng, chống dịch Covid-19. Ðây là những thông tin đáng lo, nhất là trong bối cảnh cuối năm, không khí tập trung làm việc để hoàn tất kế hoạch trong năm, chuẩn bị đón chào năm mới 2022
PL-17
đang diễn ra hối hả tại nhiều cơ quan, đơn vị cho đến các phường, xã, khu dân cư, hộ gia đình.
[N10] Lo ngại Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam
(-) [N5] Yếu thế người lao động
(-)
[N31] giáo viên, học sinh Tự ti, mất phương hướng
(-)
[N7] Mối lo lắng Người viết (ẩn)
(-) [N4] Cảnh báo chuyên gia
(-) [N8] Băn khoăn, trăn trở Các đại biểu Quốc hội (-)
[N17] người dân Hoang mang, sợ hãi
(-)
[N6] Băn khoăn
(-) Mới đây, Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam đã công bố nghiên cứu về tình trạng lương khu vực công đối với nhân viên y tế tuyến đầu trong Covid-19 với nhiều thống kê đáng lo ngại. Tiền lương tối thiểu là mức sàn để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ quan trọng để thỏa thuận tiền lương. Tỷ lệ thiếu tập trung và không hứng thú học tập khá cao; tình trạng tự ti, mất phƣơng hƣớng, bị rối loạn giấc ngủ, hay cáu gắt, lo lắng không lý do cũng xảy ra phổ biến đối với cả giáo viên và học sinh. Tình hình thiếu việc làm đã không còn là mối lo lắng như hệ quả của những làn sóng di cư ngược diễn ra liên tục trong nửa cuối năm 2021 với tỷ lệ thiếu việc làm ở thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Do đó, các chuyên gia cũng cảnh báo rằng, tăng thời gian làm thêm không quá 60 giờ/tháng chỉ nên thực hiện trong một thời điểm nhất định. Các đại biểu Quốc hội băn khoăn, trăn trở nhiều vấn đề đang ảnh hưởng công tác chăm sóc sức khỏe người dân trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít người nảy sinh tâm lý cực đoan: hoặc là chủ quan, coi thường dịch bệnh, không thực hiện nghiêm các khuyến cáo của cơ quan chức năng về biện pháp phòng, chống dịch; hoặc hoang mang, sợ hãi thái quá, nhìn đâu cũng thấy nguy cơ dịch bệnh cho nên phản đối mọi hoạt động mở cửa nhằm đưa cuộc sống bước vào trạng thái bình thường mới. Điều các chuyên gia lao động, công đoàn cũng như đại diện doanh nghiệp băn khoăn là, chính sách chỉ áp dụng cho lao động làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tại khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc khu vực kinh tế trọng điểm. chuyên gia lao động, công đoàn, doanh nghiệp
2.1.4. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hài lòng
2.1.4.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hài lòng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 1 1 Khi A sao không B? Bèo bọt Khó 1 4 1
1 1 1 2 1 1 1 1 10 1 1 Không thể chấp nhận Phiền toái Thật đáng tiếc Trách Ưa thích Băn khoăn Bức bí Đành/ phải chấp nhận Không hài lòng Phiền lòng Tạm bợ Vùng vằng Tạm hài lòng 1 1 1 Phương tiện ngôn ngữ Bất bình, phẫn nộ Bức xúc Chưa thể làm hài lòng Không thể Không thể tiếp tục Tâm lý chấp nhận Tiêu cực Tạm được giải quyết
PL-18
Ví dụ minh họa cảm xúc Hài lòng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể cảm xúc Phương tiện ngôn ngữ Phân cực
Chúng ta Tạm hài lòng (+) [T42]
(+) [T38] Người viết (ẩn) Tạm được giải quyết
(-) [T40] Người viết (ẩn) Khi A sao không B? (-)
Chúng ta Không lẽ [T44]
(-) Chúng ta Không thể [T14]
(-) [T39] Người viết (ẩn) Không thể chấp nhận
(-) [T40] Khách hàng Đành chấp nhận (-)
Dư luận [T11] Bất bình, phẫn nộ
(-)
[T29] Người viết (ẩn) Thật đáng tiếc
(-) Trách [T38] Chúng ta có thể tạm hài lòng với những giải pháp hạ nhiệt đà tăng giá cả như hỗ trợ tiền thuê nhà cho một số đối tượng người lao động, giảm thuế VAT, hỗ trợ lãi suất một số đối tượng… Cũng may, tình hình đã tạm đƣợc giải quyết. Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động hơn 100% công suất. Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn sẽ tăng dần sản lượng. Doanh nghiệp đầu mối tăng cường nhập khẩu. Vậy khi lãi cao trên 1.000 đồng mỗi lít sao không thấy cây xăng chia sẻ với khách hàng? Không lẽ chúng ta đánh đổi giữa giảm thuế có lợi cho 100 triệu dân, cho nền kinh tế với một nhúm buôn lậu đường bộ, không phải tuồn bằng tàu hay sà lan bằng đường biển ngược ra quốc tế? Chúng ta không thể cứ mãi tư duy kiểu chờ đợi sau cơn mưa trời lại sáng. Đây là điều không thể chấp nhận trong bối cảnh nguồn cung xăng dầu trong nước mà theo Bộ Công thương khẳng định là tự chủ 70-80% nhu cầu. Có người đành chấp nhận, người quay đi, kẻ hậm hực cho rằng cây xăng "găm hàng". Có thể nói, việc phát hiện "khối ung nhọt" mang tên Việt Á với hành vi làm giá, ăn chia trong đấu thầu, phân phối bộ kit xét nghiệm COVID đã khiến dư luận hết sức bất bình, phẫn nộ. Điều thật đáng tiếc là nhiều cây cầu trên kênh xây với độ tĩnh không rất thấp vì lý do được đưa ra là... vướng giải tỏa và thiếu kinh phí, khiến thuyền bè không thể đi qua được, tour bị chặn lại giữa chừng. Nhưng trách thương nhân cũng phải xem lại cách điều hành có lúc quá cứng nhắc.
Người viết (ẩn) 2.1.4.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cảm xúc Hài lòng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) Tần suất (lần) Sự cải thiện Phương tiện ngôn ngữ Dấu hiệu tích cực 1 1 1
1 2 1 1 1 1 1 6 1 Khởi sắc Tích cực Sách nhiễu Bị sụt giảm thu nhập 1 1 1
Phương tiện ngôn ngữ Năng lượng tích cực Được Thuận lợi Ép Mất nhiều thời gian, công sức Chịu Tác động tiêu cực Bất cập Trở lại Bức xúc Bị ảnh hưởng Giảm mức độ hài lòng Dậy sóng Tiêu cực Phàn nàn 1 3 1 1 1 1 1 1 2 Khó chấp nhận Gồng mình Thấp Ví dụ minh họa cảm xúc Hài lòng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể cảm xúc Phân cực
(+) [N7] Người viết (ẩn) Cũng phải nhắc đến tín hiệu tích cực khác là sự cải thiện mạnh mẽ về thu nhập của người lao động. Phương tiện ngôn ngữ Tín hiệu tích cực, sự cải thiện
PL-19
(+)
Khởi sắc [N18] Người viết (ẩn)
(+) Tích cực [N7] Người viết (ẩn)
(-)
[N32] Khó chấp nhận nhà giáo Đào Quốc Vịnh
(-)
[N45] Gồng mình, bức xúc Doanh nghiệp, dư luận Vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục khởi sắc trong khi vốn đầu tư tư nhân chảy mạnh vào nền kinh tế thông qua hoạt động thành lập doanh nghiệp mới và đưa các doanh nghiệp “ngủ đông” tái nhập thị trường,… Với những biến chuyển tích cực đang diễn ra, tổn thương của thị trường lao động việc làm đã phần nào lắng dịu. Ông cho rằng, sách giáo khoa cho học sinh phổ thông, nhất là cấp tiểu học phải có tính phổ quát tới 54 dân tộc Việt Nam, chữ “p” có trong bảng chữ cái tiếng Việt mà không được dạy như một âm độc lập là sai khó chấp nhận. Song trên thực tế, khi giá thế giới tăng, doanh nghiệp phải “gồng mình” chi quỹ, còn khi giá giảm, người tiêu dùng không được mua xăng dầu với giá thấp, gây không ít bức xúc trong dư luận.
[N18] Người viết (ẩn) Năng lượng tích cực
(+)
Được [N23] Người viết (ẩn)
(+)
người dân Thuận lợi [N15]
(-)
[N8] Một số địa phương Mất nhiều thời gian, công sức
(-)
chúng ta [N32] Đành phải chịu
(-)
[N27] Người viết (ẩn) Tác động tiêu cực
(-)
Bất cập [N10] Người viết (ẩn)
(+)
[N27] Người viết (ẩn) Dấu hiệu tích cực
(-)
Bức xúc [N26] anh Lê Quốc Khánh (+) Mặc dù diễn biến của đại dịch Covid-19 vẫn rất phức tạp, khó đoán định nhưng năng lƣợng tích cực đã và đang trở lại với đời sống kinh tế-xã hội. Hiện nay, các chuyến bay thương mại thường lệ đã được khôi phục, ngành du lịch đƣợc đồng ý mở cửa hoàn toàn từ giữa tháng 3/2022 nên lượng khách du lịch nội địa và quốc tế dự kiến sẽ tăng mạnh. Nhờ đó, các hoạt động giao thương, đi lại của người dân diễn ra thuận lợi; hoạt động phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội được đẩy mạnh, du lịch được mở cửa, học sinh trở lại trường học… Thời gian vừa qua, một số địa phương đã mất rất nhiều thời gian, công sức để tháo gỡ vướng mắc về công tác thẩm định, phân hạng, phân tuyến chuyên môn kỹ thuật, khiến cơ sở bị tạm ngừng thanh toán, quyết toán, ảnh hưởng lớn đến hoạt động cơ sở và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế. Nếu trong ngôn ngữ viết của chúng ta thiếu chữ cái nào đó để mô tả chính xác từ tiếng Việt thì đành phải chịu, chứ có mà không dạy hoặc chưa dạy vì sợ nó khó với các em học sinh nhỏ tuổi là điều những người biên soạn cần cân nhắc thận trọng. Song, cách làm ăn chộp giật, sai phạm như trên chẳng khác gì những “con sâu làm rầu nồi canh”, không chỉ làm xấu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam mà còn tác động tiêu cực tới thương hiệu du lịch quốc gia. Những ngày qua, số ca mắc, chuyển nặng và tử vong vẫn diễn biến phức tạp ở một số địa phương. Trong đó, tình trạng thiếu chủ động nguồn nhân lực y tế, phụ thuộc nhiều vào lực lượng hỗ trợ đang là vấn đề gây nhiều bất cập. Đây là những dấu hiệu tích cực cho thấy du khách đã bước đầy vượt qua tâm lý e dè, lo ngại về dịch bệnh để tham gia các hoạt động du lịch; đồng thời cũng báo hiệu sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch Việt Nam sau thời gian dài “ngủ đông” vì đại dịch Covid-19. Trước đó, tại Lễ hội đờn ca tài tử quốc gia lần thứ 3 diễn ra ở thành phố Cần Thơ từ ngày 7 đến 11/4, anh Lê Quốc Khánh, thành viên đoàn nghệ thuật đến từ Hà Nội tham gia biểu diễn tại lễ hội đã bức xúc về việc
PL-20
(-) [N4] Bị ảnh hưởng
(-) [N10] Công nhân, lao động Nhân viên y tế Giảm mức độ hài lòng (-) [N36] dư luận Dậy sóng
(-)
[N27] Tiêu cực Người viết (ẩn)
(-)
[N28] Phàn nàn doanh nghiệp lái tàu du lịch sách nhiễu, ép buộc phải mua vé tham quan vườn trái cây Bà Hiệp ở huyện Phong Ðiền. Công nhân, lao động mong muốn tăng ca do thời gian dài bị ảnh hƣởng của dịch bệnh, bị sụt giảm thu nhập. Ðáng chú ý, 25% số người tham gia khảo sát thừa nhận đã giảm mức độ hài lòng với công việc. Thông tin về một trường THCS gợi ý để học sinh có điểm số thấp chuyển trường hoặc cam kết không thi vào lớp 10 đã làm dậy sóng dư luận. Tuy nhiên, cùng với những tín hiệu vui, ngay trong giai đoạn khởi động lại, cũng xuất hiện một vài vụ việc tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và hình ảnh du lịch Việt Nam. Thời gian qua, một số doanh nghiệp phàn nàn về tình trạng không ít đoàn khách quốc tế phải hủy tour đến Việt Nam vào phút chót chỉ vì không lấy được visa, nhất là với visa điện tử.
2.2. Tiểu hệ thống Phán xét
Bảng P2.2.1. Kết quả khảo sát Phán xét trong các văn bản bình luận trên báo Tuổi trẻ
Thuộc tính cá nhân Chuẩn mực xã hội Tổng Khả năng Kiên trì Chân thật Đạo đức Thông thường Loại Phán xét (+) (-) (+) (-) (+) (-) (+) (-) (+) (-) (+) (-)
2 0 4 11 7 1 0 0 0 0 13 12
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD 4 2 0 0 8 5 4 5 3 17 12 14 3 0 33 5 10 6 10 42 8 10 14 3 42 0 9 8 2 20 1 0 0 0 1 0 0 0 6 6 0 0 0 0 0 23 7 5 7 42 25 26 17 3 84 33 30 24 28 127 Tổng 25 75 62 7 42 211 (Đơn vị tính: lần)
Bảng P2.2.2. Kết quả khảo sát Phán xét trong các văn bản bình luận trên báo Nhân dân (lần)
Thuộc tính cá nhân Chuẩn mực xã hội Tổng Khả năng Kiên trì Chân thật Đạo đức Thông thường Loại Phán xét (+) (-) (+) (+) (-) (+) (+) (-) (-) (+) (-) (-)
1 0 1 4 20 11 1 0 7 9 8 0
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD 3 0 0 8 12 0 1 0 0 1 15 27 1 15 59 0 0 0 0 4 39 25 6 16 106 35 37 11 33 127 0 4 1 0 6 1 0 0 1 2 21 7 1 10 46 15 8 7 9 48 18 13 4 6 49 1 2 3 0 6 Tổng 8 55 16 60 233 94 (Đơn vị tính: lần)
PL-21
2.2.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Thông thường
2.2.1.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Thông thường trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Lần đầu tiên May mắn 1 2 2
1 1 1 2 1 1 1 3 1 Nổi tiếng bất định cái mốt Điều lạ 1 1 1
lạ đời quen thuộc 1 1 1 1 1 1 Bỗng như lần đầu nhìn thấy Quen thuộc Một cơ chế đặc biệt bất thường bất cập lớn chưa từng có tiền lệ bị mang tiếng không phải là điều chưa từng một lần…chưa gì quá lạ lẫm từng hình dung lạc hậu không thể ngờ nực cười ngay A lại có B Ví dụ minh họa phán xét Bình thường trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Phân cực
(+) Phương tiện ngôn ngữ Nổi tiếng
Chủ thể phán xét Người viết (ẩn) Đối tượng được/ bị phán xét Trường THCS ở TP.HCM [T1]
"Dịch bệnh thì đang diễn biến phức tạp, học sinh thì sắp đi học lại - vậy mà cô nhân viên y tế của trường tôi lại xin nghỉ việc. Mấy ngày nay chúng tôi dò hỏi, mời gọi... khắp nơi nhưng vẫn không tuyển được người mới" - hiệu trưởng một trường THCS nổi tiếng ở TP.HCM tâm sự.
[T25] (+) May mắn Các nạn nhân may mắn thoát chết đau đớn nói rằng họ không ngờ chuyến du lịch đầu tiên sau hai năm dịch giã lại rơi vào cảnh bi thảm như thế. Người viết (ẩn)
(-) lạc hậu
Virus cũng không lây theo địa giới hành chính, nên quy định phân vùng xanh - đỏ cũng đã lạc hậu. Người viết (ẩn) [T26]
(-) Các nạn nhân trong vụ chìm tàu du lịch quy định phân vùng xanh - đỏ trong chống dịch Người dân không thể ngờ [T20] Người viết (ẩn)
(-) lạ đời
[T40] Năm ngoái vào tầm này, nhiều người không thể ngờ rằng phải ở suốt trong nhà hàng tháng trời. Vậy rồi thời gian cứ trôi, nhưng dường như con người đã được trải nghiệm và học thêm những bài học lớn lao. Có như thế mới có thể tránh tái diễn những câu chuyện lạ đời trong kinh doanh xăng dầu như đã xảy ra những ngày qua Người viết (ẩn)
(-) ngay A lại có B [T40] Không ai có thể ngờ được rằng ngay giữa TP.HCM lại có cảnh kỳ kèo thêm bớt từng lít xăng. Người viết (ẩn)
(-)
bất định, chưa từng có tiền lệ Người viết (ẩn) [T32]
Tình hình kinh doanh xăng dầu Tình hình kinh doanh xăng dầu Tình huống đi học trong dịch Covid-19
Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành phố nai lưng ra chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", vì phải đối phó với những tình huống bất định, chƣa từng có tiền lệ. Trong báo cáo gửi đến các đại biểu Quốc hội tại [T11] Người Kỳ họp (-) bất
PL-22
Quốc hội thường viết (ẩn)
kỳ họp bất thƣờng đang diễn ra, Chính phủ thông tin: "Công ty Việt Á đã lợi dụng tình trạng dịch bệnh để trục lợi, đồng thời một số cá nhân đã vi phạm các quy định trong tổ chức thực hiện mua sắm, đấu thầu và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ".
2.2.1.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Thông thường trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) 1 Tần suất (lần) 1 Tần suất (lần) 2 Phương tiện ngôn ngữ Không phải hiếm Ngưỡng mộ Phổ biến Rất may 1 1 1
ấn tượng Chưa từng có tiền lệ 1 1 Chuyện bình thường Ngưỡng mộ Ví dụ minh họa phán xét Thông thường trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Đối tượng được/ bị phán xét
Mina Bùi Việt Nam (+) Phương tiện ngôn ngữ Ngưỡng mộ
[N29]
(-) Người viết (ẩn) Cửa hàng xăng dầu treo biển hết hàng Không phải hiếm [N38]
Việt Nam (+) Người viết (ẩn) Ấn tượng
[N29]
Tuy nhiên chứng kiến việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, cũng như khả năng phục hồi nền kinh tế đáng ngƣỡng mộ của Việt Nam, ngay khi đất nước mở cửa trở lại, Mina Bùi quyết định khăn gói quay về quê hương với tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng. Việc các cửa hàng kinh doanh xăng dầu treo biển hết hàng, ngừng hoạt động diễn ra không phải hiếm, nhất là trước mỗi dịp giá xăng dầu thế giới biến động tăng cao hay trước thời điểm điều chỉnh giá xăng dầu của liên Bộ Công thương-Tài chính. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực hàng không, các thông tin tìm kiếm về Việt Nam liên tục tăng nhanh kể từ đầu tháng 3, đến đầu tháng 4, lượng tìm kiếm đạt con số ấn tƣợng là 663%, đến giữa tháng tháng 4 là 720% so cùng kỳ năm 2021. (+) Người viết (ẩn) [N27]
Rất may Rất may, sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời và trách nhiệm của lực lượng chức năng đã cứu được “pha mất điểm” nghiêm trọng về hình ảnh du lịch Việt Nam trong mắt khách quốc tế. Nhà xuất bản (+) Người viết (ẩn)
[N37]
Chính phủ (+) Người viết (ẩn) [N1]
(-) Người viết (ẩn) Nhu cầu trang thiết bị [N16] chưa từng có tiền lệ Chuyện bình thường Phổ biến Hiện nay, kênh phát hành khá phổ biến của các nhà xuất bản là theo đường hành chính qua các cơ quan quản lý giáo dục xuống các nhà trường, giáo viên, học sinh theo danh mục sách kê khai sẵn gồm cả sách giáo khoa và sách tham khảo. Từ đó, đã ban hành các nghị quyết với hàng loạt chính sách chưa từng có tiền lệ và được thực hiện ngay vào thực tế. Dịch bệnh gia tăng thì nhu cầu trang thiết bị, vật tư phòng, chống dịch gia tăng cũng là chuyện bình thƣờng. 2.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Khả năng
PL-23
2.2.2.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Khả năng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Hay Phù hợp 1 1 1
2 2 1 2 1 1 Câu hỏi Hồi sinh Tích cực Công lao lớn nhất Hồi phục mạnh Giỏi 1 1 1
1 1 1 Phương tiện ngôn ngữ ăn nên làm ra do biết biến "nguy" thành "cơ" Chống chọi, vượt qua Kiểm soát được đâu phải ai cũng kiệt quệ, phất lên Hiệu quả hơn Khắc phục được Mạnh mẽ Sự hồi sinh 1 1 1
Chểnh mảng 1 1 1
1 1 1 1 1 1 Tâm thế thích ứng, chống chịu tốt hơn Càng làm càng lỗ chưa đầy đủ và đạt chuẩn chưa thực hiện được 1 1 chưa công bố được chưa rõ ràng đâu phải ai cũng làm được 1
3 1 1 cứng nhắc Khó Kiểm soát được nhanh chóng thích ứng, linh hoạt khôi phục Sự sáng tạo, mới mẻ Chậm chưa đủ mạnh chưa được chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng đã biến mất Khó hiểu 2 1 1
không đảm bảo 1 1 1
không đủ năng lực không hiểu 1 1 1
1 1 1 không dễ thực hiện không phải ai cũng có thể không thể đáp ứng tiêu chí không thể mua được vé lọt lúng túng lắc đầu lỡ mua 1 1 1
1 thiếu hụt nhầm to 2 1 1 không được phát hiện và xử trí kịp thời không rõ ràng lỗ hổng trong công tác quản lý, giám sát, dự báo ngoài khả năng Quên Ví dụ minh họa phán xét Khả năng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Phân cực
(+) Phương tiện ngôn ngữ Công lao lớn nhất Chủ thể phán xét Người viết (ẩn)
[T13] Cũng như bất cứ một chiến dịch quân sự nào, có nhiều bộ phận, nhiều lớp tham gia nhưng công lao lớn nhất thuộc về những người ở tuyến đầu, những người trực tiếp tham gia cấp cứu, điều trị cho bệnh nhân. Đó là các bác sĩ, y tá, điều dưỡng quân y, dân y, các bác sĩ đương nhiệm và về hưu.
(-) Đối tượng được/ bị phán xét các bác sĩ, y tá, điều dưỡng quân y, dân y, các bác sĩ đương nhiệm và về hưu. người lao động ngoài khả năng Nhà trọ "sang" quá, giá thuê cao lại nằm ngoài khả năng của người đi thuê. [T6]
(-) không đủ năng lực Người viết (ẩn) Người viết (ẩn) Như vậy, việc cho phép các thương nhân không đủ năng lực tham gia thị trường đã "làm rầu" thị trường xăng dầu.
[T18] Người viết Một số thương nhân xăng dầu Các bộ phận (-) (+) lúng túng kiểm soát So với những lúng túng khi số mắc COVID-19 tăng cao cuối năm 2021, 3 tháng vừa qua cho
PL-24
(ẩn) được
chống dịch Covid-19
thấy các biện pháp đối phó với dịch COVID-19 đã tỏ ra hiệu quả hơn: số mắc tăng cao nhưng không rối loạn trong cung cấp dịch vụ y tế, kiểm soát đƣợc số ca chuyển nặng và giảm được số tử vong. Chúng ta (+) Chúng ta [T20]
Chúng ta Chúng ta (+) Mạnh mẽ hơn [T9]
(+) Ngành du lịch [T23] Người viết (ẩn) Hồi sinh một cách sáng tạo
(+) Sự hồi sinh Người viết (ẩn) [T36] Nhiều cơ sở mầm non
Vượt qua Nhưng chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng chúng ta đã vƣợt qua những tháng ngày căng thẳng nhất của COVID-19, có sức mạnh rất lớn từ gia đình. COVID-19 còn đó, phía trước vẫn gập ghềnh nhưng chúng ta đã mạnh mẽ hơn vì thế "trở lại phải hơn trước" để thu nhập, cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi địa phương và quốc gia tốt hơn, hạnh phúc hơn trước. Ngành du lịch hồi sinh một cách sáng tạo đã kéo ngành thương mại, dịch vụ khác cùng cựa quậy theo sau thời gian dài ngủ im tuân thủ các biện pháp chống dịch. Với nhiều cơ sở mầm non, không có câu từ nào chính xác hơn là một sự hồi sinh đang bắt đầu từ sau quyết định của thành phố cho phép các trường được mở cửa đón học sinh theo phương thức tự nguyện của phụ huynh.
2.2.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Khả năng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tay nghề cao Sự hồi sinh 1 1 1
Phương tiện ngôn ngữ Tay nghề chuyên môn cao Khả quan 1 1 1
Dấu hiệu hồi phục tích cực Tốp đầu thế giới Những nước hàng đầu thế giới Cái nhìn lạc quan 1 1 1
1 2 1 Chất lượng cao Làm kinh tế giỏi 1 1 1
1 1 1 Bứt tốc Hỗ trợ Vượt qua Đóng góp cho xã hội, cộng đồng Điều chỉnh kịp thời Triển khai kịp thời 1 1 1
Phù hợp Mức độ hiểu biết cũng khác Đã kìm được Có những hoạt động tích cực Thành công Chăm sóc kịp thời Hiệu quả 1 1 1
Về đích sớm hơn Thích ứng với từng giai đoạn Được kiểm soát 1 1 1
Đã phát hiện 1 1 1
Đạt được những kết quả khả quan Phát hiện, xử lý nghiêm Ban hành kịp thời 1 1 1
Được phát hiện, điều tra Đạt nhiều kết quả tích cực Kiểm soát tốt tình hình Cứu được Có kinh nghiệm làm việc lâu năm 1 1 1
Bám sát tình hình 1 1 Điều tra, xác minh và giải quyết rất nhanh Có các giải pháp kịp thời 1
Bảo đảm được quyền lợi và sự an tâm, hài lòng của du khách Đã tránh được bão giá Tốt 1 1 2
Linh động 1 Phát hiện, triệt phá Đủ cung cấp 1 Lạc quan, nhanh 1
PL-25
Thông thạo chóng, kịp thời và trách nhiệm Kịp thời 1 1 1
Tiến độ chậm Đầy đủ công cụ, bộ máy Kém hiệu quả 1 1 1
không đủ năng lực việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh sự thiếu hụt 1 1 1
1 1 1 mất nhiều thời gian ứng xử chưa tốt 1 1 1
sai sót bị phá sản hoặc rơi vào tình thế rất khó khăn phụ thuộc lúng túng 1 1 4
không đúng hướng dẫn 1 1 1
hiểu biết chưa sát sao về dịch bệnh hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ chưa cập nhật đầy đủ dữ liệu tiêm chủng 1 1 1
1 1 1 nộp bài muộn thua lỗ tư duy làm ăn kiểu ngắn hạn, ăn xổi bỏ sót chưa hiểu hết, hiểu rõ rơi vào trạng thái bị động chưa xử lí kịp thời tin, làm theo các bài thuốc chữa covid không có căn cứ khoa học lưu truyền trên mạng không nộp đủ bài không có lãi 1 1 1
mất kiểm soát 1 chưa mang lại hiệu quả cao 1 1
yếu Không nắm vững không được khắc phục hoạt động chồng chéo, cản trở lẫn nhau không đúng quy định 1 1 3
1 1 1 thiếu chủ động chuyên nghiệp chưa thông thạo bất cập tê liệt không dễ 3 1 1 1 1 1 1 chưa thật sự phát huy hiệu quả và đáp ứng kỳ vọng Chậm chưa cao xộc xệch chưa hợp lý Ví dụ minh họa phán xét Khả năng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Phương tiện ngôn ngữ (+) Người viết (ẩn) Đối tượng được/ bị phán xét ngành du lịch [N7]
kinh tế (+) Người viết (ẩn) Sự hồi sinh Ðáng lưu ý, lao động trong ngành dịch vụ tăng đáng kể nhờ sự hồi sinh mạnh mẽ của ngành du lịch, lưu trú, ăn uống, hàng không nhờ chính sách mở cửa hoàn toàn sau hai năm dịch Covid-19 bùng phát. Người dân được đi lại tự do, kinh tế có nhiều dấu hiệu hồi phục tích cực, khả quan. [N10]
Việt Nam (+) Người viết (ẩn) Dấu hiệu hồi phục tích cực, khả quan Tốp đầu thế giới
[N14]
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang đứng tốp đầu thế giới về tiêm vaccine phòng Covid-19 với hơn 170 triệu liều đã được tiêm, phần lớn người dân đã tiêm 2 đến 3 mũi vaccine, mức độ hiểu biết về Covid-19 cũng khác nhiều so với Tết 2021; khả năng
PL-26
(+) Người viết (ẩn) đội ngũ nhân lực du lịch
[N25]
Chất lượng cao, có kinh nghiệm làm việc lâu năm
(+) Người viết (ẩn) người cao tuổi Làm kinh tế giỏi
[N2]
Việt Nam Người viết (ẩn) Chậm Bứt tốc (-) (+) [N9]
(+) Người viết (ẩn) [N15] Công tác phòng, chống dịch phòng, chống dịch của hệ thống y tế cũng tốt hơn trước; chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm chống dịch, đang dần thích ứng an toàn với dịch bệnh thì lẽ ra việc đi lại của người dân và mở cửa du lịch phải thuận lợi hơn. Tại Hà Nội, trước thời điểm du lịch hoạt động trở lại đầu năm 2022, khoảng 90% doanh nghiệp trong khối lữ hành và lưu trú ngừng hoạt động, khiến nhiều lao động trong lĩnh vực du lịch buộc phải chuyển sang làm việc trong lĩnh vực khác. Trong số này, có những nhân lực chất lƣợng cao, có kinh nghiệm làm việc lâu năm. Hiện cả nước có hơn 6,5 triệu người cao tuổi đang trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, trong đó gần 100 nghìn người cao tuổi làm chủ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, gần 400 nghìn hội viên cao tuổi đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi; hơn 90 nghìn người cao tuổi tiếp tục đóng góp kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, trang trại. Việt Nam bắt đầu triển khai tiêm chủng vắc- xin từ đầu tháng 3/2021, có chậm một chút so với các nước, nhưng sau đó đã có bước bứt tốc khá ấn tượng. Công tác phòng, chống dịch đang đạt đƣợc những kết quả khả quan, khi số ca chuyển nặng, tử vong tiếp tục có xu hướng giảm…
Người viết (ẩn)
(+) (-) [N17] Chính phủ Một số người dân Mặc dù nhiều trường hợp sai phạm về phòng, chống dịch bệnh đã được cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nghiêm, tuy nhiên tình trạng chủ quan, lơ là, đối phó trước dịch bệnh cũng như việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh vẫn xảy ra dưới nhiều hình thức phức tạp, khó lường.
Chúng ta (+)
Đạt được những kết quả khả quan Phát hiện, xử lý nghiêm việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh Đã tránh được “bão giá” [N42] Tổng cục Thống kê Tổng cục Thống kê cho biết, qua phân tích diễn biến tốc độ tăng CPI tại một số nước trên thế giới và so sánh diễn biến trong nước, có thể khẳng định thời gian qua, chúng ta đã tránh đƣợc “bão giá”. (+) Người viết (ẩn) Doanh nghiệp [N6] Linh động Một số doanh nghiệp linh động ứng tiền cho người lao động, giúp họ giải quyết khó khăn, sau đó làm thủ tục sau. Trẻ em (+) Người viết (ẩn)
[N32] com-piu-tơ (computer),
(-) Người viết (ẩn) không đủ năng lực [N23] các công ty, cá nhân làm du lịch
nhà giáo sách giáo (-) Thông thạo Không nên cho rằng những từ như “pi-a-nô”, “pa-nô” hay “pa-tanh”, “pa-tê” là khó với học sinh lớp 1, bởi ngay những từ khá mới như in-tơ-nét (internet), phây-búc (facebook)... trẻ em còn thông thạo hơn nhiều người lớn tuổi. Tình thế này càng khiến nhiều người lo lắng về nguy cơ nảy sinh du lịch “chui” với nhiều doanh nghiệp, cá nhân không đủ năng lực vẫn sẵn sàng “làm liều” đón khách. Ông cho rằng, sách giáo khoa cho học sinh sai sót [N32]
PL-27
khoa
Đào Quốc Vịnh
(-) Người viết (ẩn) doanh nghiệp
[N3]
bị phá sản hoặc rơi vào tình thế rất khó khăn
(-) Người viết (ẩn) không đúng hướng dẫn [N10] người nhiễm bệnh COVID-19
(-) Người viết (ẩn) Các địa phương
[N14] Sự hiểu biết chưa sát sao về dịch bệnh
Học sinh (-) giáo viên [N30] nộp bài muộn, không nộp đủ bài
(-) thua lỗ doanh nghiệp [N38] các đại lý và thương nhân
(-) Người viết (ẩn) mất kiểm soát
[N40]
(-) Người viết (ẩn)
[N44]
việc sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu phổ thông, nhất là cấp tiểu học phải có tính phổ quát tới 54 dân tộc Việt Nam, chữ “p” có trong bảng chữ cái tiếng Việt mà không được dạy như một âm độc lập là sai sót khó chấp nhận Bởi việc bị gián đoạn sản xuất, kinh doanh vì dịch Covid-19 đã làm nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc rơi vào tình thế rất khó khăn do chi phí tăng cao khiến nhiều đơn hàng không sản xuất kịp và giao theo đúng tiến độ cam kết. Cá biệt, có những trường hợp người bệnh nhiễm Covid-19 chữa trị tại nhà, do thiếu hỗ trợ từ phía nhân viên y tế cho nên đã sử dụng thuốc không đúng hƣớng dẫn khiến bệnh trở nặng, tiếp tục làm gia tăng sức ép cho các bệnh viện. Cách làm của các địa phương “mỗi nơi một phách” này thể hiện sự hiểu biết chƣa sát sao về dịch bệnh và thành quả chống dịch, dựng lên rào cản đối với người dân có nhu cầu chính đáng về quê đón Tết, và khiến cho việc phục hồi du lịch vẫn rất khó khăn. Mặc dù đã quy định về thời gian nộp bài nhưng thường xuyên xảy ra tình trạng học sinh nộp bài muộn, không nộp đủ bài, hình ảnh mờ khiến quá trình chấm bài mất rất nhiều thời gian. Theo lý giải của các đại lý và thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, việc ngừng bán hàng do nguồn cung ứng xăng bị hạn chế, chiết khấu bán hàng thấp dẫn đến tình trạng càng bán, doanh nghiệp càng thua lỗ. Trong công tác điều phối, phải nhanh chóng cung cấp thông tin về nguồn hàng, ổn định tâm lý người tiêu dùng, tránh hiện tượng “đổ xô” đi mua hàng dẫn đến tăng cầu đột biến, mất kiểm soát khiến nguồn cung không thể đáp ứng ngay, gây hỗn loạn thị trường. Tuy nhiên, việc sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, một trong những “van” điều tiết về giá, trên thực tế đã chƣa thật sự phát huy hiệu quả và đáp ứng kỳ vọng của đông đảo người dân.
(-) chưa thật sự phát huy hiệu quả và đáp ứng kỳ vọng xộc xệch Người viết (ẩn) [N27] việc bảo đảm chất lượng dịch vụ
(-) Người viết (ẩn) Một số cơ sở giáo dục chưa hợp lý [N33]
cán bộ y tế (+) Người viết (ẩn) [N8] Tay nghề chuyên môn cao Trong đó, có cả những vấn đề như nguồn nhân lực du lịch đã phân tán trầm trọng, cơ sở hạ tầng du lịch xuống cấp, việc bảo đảm chất lượng dịch vụ ở nhiều nơi không tránh khỏi xộc xệch. Một số cơ sở giáo dục lúng túng xử lý các học sinh diện F0, F1; khoanh vùng chƣa hợp lý, dẫn đến nhiều học sinh phải nghỉ học trên lớp, chuyển sang học trực tuyến. Tại nghị trường Quốc hội, có đại biểu đã nhấn mạnh: Y học nước ta có tiến bộ, đội ngũ y, bác sĩ tay nghề chuyên môn cao
PL-28
Chúng ta (+) Đã kìm được Bộ Công thương [N42]
(+) Người viết (ẩn) người cao tuổi
[N2]
Việt Nam (-) Người viết (ẩn) có những hoạt động tích cực, đóng góp cho xã hội, cộng đồng Thành công [N10]
(+) Người viết (ẩn) đội ngũ y tế Hỗ trợ, chăm sóc kịp thời [N11]
Chính phủ (+) Người viết (ẩn) [N12]
Ta Nước ta (+)
Được phát hiện, điều tra Đạt nhiều kết quả tích cực [N15]
Việt Nam (+) Người viết (ẩn) Kiểm soát tốt tình hình [N19]
(+) Người viết (ẩn) Phát hiện, triệt phá các lực lượng chức năng [N43]
Việt Nam (+) Người viết (ẩn) Đủ cung cấp
[N9]
Chính phủ (+) Người viết (ẩn) Đầy đủ công cụ, bộ máy [N38]
(+) doanh nghiệp Kém hiệu quả [N3]
Liên đoàn Thương mại và ngày càng nhiều, tuy nhiên chưa tỷ lệ thuận với y đức. Về điều hành giá xăng dầu, Bộ Công thương cho biết, từ đầu năm 2022 đến nay, nhờ có Quỹ bình ổn giá xăng dầu, chúng ta đã kìm đƣợc mức tăng của giá xăng dầu trong nước so với thế giới. Và thời gian qua, trong đại dịch Covid-19, người cao tuổi là nghệ nhân, nhà văn hóa, nhà trí thức, thầy cô giáo nghỉ hưu, y, bác sĩ đã có những hoạt động tích cực, đóng góp cho xã hội, cộng đồng khi tham gia các lực lượng tuyến đầu chống dịch. Việt Nam đã rất thành công trong kiềm chế những ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến sức khỏe cộng đồng. Hiện nay, đội ngũ y tế trên toàn thành phố đang căng sức, nỗ lực hết mình, làm việc bất kể ngày đêm nhằm ngăn chặn đà lây lan của dịch bệnh, hỗ trợ, chăm sóc kịp thời những người không may mắc Covid-19. Bên cạnh đó, những ngày gần đây, một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực lợi dụng dịch bệnh để trục lợi đã đƣợc phát hiện, điều tra. Cả nước đã có hơn bốn tháng thực hiện Nghị quyết số128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhờ kiểm soát tốt tình hình, nhiều biện pháp ứng phó dịch đã được cơ quan chức năng tạm dừng áp dụng để tạo thuận lợi cho cuộc sống của người dân trở lại bình thường, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Trong 1-2 năm trở lại đây, khi dịch Covid-19 phức tạp, cũng như giá xăng dầu có sự biến động lớn, các lực lượng chức năng như công an, biên phòng, cảnh sát biển, quản lý thị trường liên tiếp phát hiện, triệt phá nhiều đường dây nhập lậu xăng dầu, thậm chí pha chế xăng dầu. Với nguồn cung vắc-xin khá nhiều như hiện nay, thậm chí sang năm 2022 (dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, Việt Nam không hề thiếu vắc-xin, thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành tiêm mũi bổ sung. Hiện nay, lượng dự trữ xăng dầu trong nước còn nhiều, Chính phủ có đầy đủ công cụ, bộ máy để điều tiết, Bộ Công thương có trách nhiệm và phải chủ động hơn, tuyệt đối không để thiếu trong mọi hoàn cảnh. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong hơn 2 năm qua đã có khoảng 90% doanh nghiệp buộc cho người lao động thôi việc do hoạt
PL-29
động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả.
(-) Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Người viết (ẩn)
tư duy làm ăn kiểu ngắn hạn, ăn xổi [N27]
một bộ phận rất nhỏ những người làm dịch vụ du lịch
(-)
các đoàn kiểm tra
các đơn vị thực thi chính sách an sinh xã hội bỏ sót, lúng túng, mất nhiều thời gian, tiến độ còn chậm
[N1]
(-) Người viết (ẩn) Một số chủ nhà trọ chưa hiểu hết, hiểu rõ [N6]
(-) Người viết (ẩn) Các cơ quan chưa xử lý kịp thời [N11]
người dân (-) Người viết (ẩn)
[N17]
tin, làm theo các bài thuốc chữa covid không có căn cứ khoa học lưu truyền trên mạng
(-) không có lãi cửa hàng kinh doanh xăng dầu [N38]
(-) Cục Quản lý thị trường tỉnh An Giang Người viết (ẩn) [N43] chưa mang lại hiệu quả cao Mặc dù vậy, để xây dựng môi trường du lịch lành mạnh gắn với sự phát triển bền vững, quan trọng nhất vẫn cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức để thay đổi tƣ duy làm ăn kiểu ngắn hạn, ăn xổi vẫn đang tồn tại ở một bộ phận những người hoạt động du lịch và cung ứng dịch vụ liên quan trong cộng đồng. Ðáng chú ý là do thời gian gấp rút và thực hiện giãn cách xã hội cho nên còn bỏ sót một số đối tượng; một số người dân còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 do không thuộc các nhóm đối tượng được hưởng theo quy định; các xã, thị trấn còn nhiều lúng túng cho nên mất nhiều thời gian để hướng dẫn doanh nghiệp và người lao động; nhiều địa phương vừa tập trung công tác phòng, chống dịch vừa triển khai thực hiện chính sách trong thời gian đang thực hiện giãn cách xã hội cho nên gặp khó khăn (hạnh phúc) trong công tác lập hồ sơ, thủ tục đề nghị hỗ trợ dẫn đến tiến độ còn chậm... Bên cạnh đó, do chƣa hiểu hết, hiểu rõ về quyết định, một số chủ nhà trọ không muốn phiền phức, liên quan đến thủ tục, giấy tờ, vì cho rằng họ cho người có nhu cầu thuê trọ, không cần phải đi “xin” ai. Ðây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, bởi các hành vi vi phạm diễn ra ở nhiều nơi song chƣa bị phát hiện và xử lý kịp thời. Thay vì bình tĩnh, chủ động tìm cách ứng phó khi bản thân hoặc người thân mắc Covid-19, thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tìm sự tư vấn, hỗ trợ từ những người có chuyên môn,… thì một số người lại vội vã tin, làm theo các bài thuốc chữa Covid không có căn cứ khoa học lưu truyền trên mạng, hối hả đặt mua và sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ với giá cả đắt đỏ, vô hình trung đặt tính mạng của bản thân và gia đình vào nguy hiểm. Cục Quản lý thị trường tỉnh An Giang đã tiến hành kiểm tra 153/489 cửa hàng kinh doanh xăng dầu trên địa bàn, phát hiện nhiều cửa hàng treo biển hết xăng xin nghỉ bán, ngừng hoạt động vì không có lãi, cửa hàng đang hoạt động nhưng hết xăng chờ giao hàng,... Dù vậy đến nay công tác phòng, chống buôn lậu mặt hàng này vẫn chƣa được đặt xứng tầm và mang lại hiệu quả cao. công tác phòng, chống buôn lậu
PL-30
Việt Nam (-) yếu Người viết (ẩn) [N25]
(-) bất cập
các đoàn kiểm tra So với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam vốn được xem là mạnh về chất lượng điểm đến, nhưng yếu về tính chuyên nghiệp, thái độ phục vụ khách du lịch. Qua kiểm tra thực tế, các đoàn đã phát hiện nhiều bất cập trong quá trình triển khai các chính sách hỗ trợ. [N1]
(-) tê liệt Người viết (ẩn) các đơn vị thực thi chính sách an sinh xã hội hoạt động du lịch
[N24]
(-) không dễ Chúng tôi
[N32]
những thí sinh nhỏ tuổi, đặc biệt là thí sinh người nước ngoài trường học Người viết (ẩn) (-) [N33] không đúng quy định
Người viết (ẩn) Bệnh viện, đội ngũ y, bác sĩ [N8] (+) (-) Từ ngày 15/3, Việt Nam chính thức mở lại toàn bộ hoạt động du lịch sau hai năm gần như tê liệt do chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch Covid-19. Ðiều này mang đến kỳ vọng lớn cho sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ của du lịch nước nhà. Trong những lần tham gia chương trình “Vua tiếng Việt” - một gameshow truyền hình rất thú vị về tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy phần nghe đọc rồi viết lại từ là câu đố không dễ với những thí sinh nhỏ tuổi, đặc biệt là thí sinh người nước ngoài. Thậm chí có trường học trừ thi đua của cán bộ, giáo viên là F0 vừa không đúng quy định, phản cảm, vừa ảnh hưởng tâm lý người dạy, người học. Kể cả những bệnh viện tuyến trên, những bệnh viện có uy tín trong kỹ thuật y khoa, có đội ngũ y, bác sĩ tay nghề cao, nhưng vẫn ứng xử chƣa tốt với người bệnh…
Việt Nam Người viết (ẩn)
[N12]
Việt Nam (-) (+) (+) Có uy tín, tay nghề cao ứng xử chưa tốt Chậm Những nước hàng đầu thế giới, về đích sớm Cái nhìn lạc quan
[N18]
Đáng chú ý, từ một nước tiếp cận chậm vaccine, nhưng tốc độ và tỷ lệ bao phủ tiêm chủng vaccine hiện nay thuộc những nƣớc hàng đầu thế giới, Việt Nam đã về đích sớm hơn so với mục tiêu khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới Fitch Ratings cũng có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam, khi đưa ra nhận định kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% vào năm 2022 và 6,5% vào năm 2023, nhờ thị trường trong nước phục hồi và hoạt động xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng mạnh.
(+) Vượt qua Đất nước ta Hai năm qua, đất nước ta đã vƣợt qua chặng đường phòng, chống đại dịch Covid-19 với khó khăn chồng chất khó khăn. [N1]
Hà Nội (+) Điều chỉnh kịp thời Tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới Fitch Ratings Ta (người viết + người đọc) Người viết (ẩn)
[N11]
Liên tục trong nhiều ngày, Hà Nội dẫn đầu cả nước về số ca mắc Covid-19. Chỉ tính riêng trong ngày 25/12 vừa qua, toàn thành phố có gần 1.900 ca mắc mới. Căn cứ tình hình thực tế, cũng trong ngày 25/12, Hà Nội đã điều chỉnh kịp thời cấp độ dịch thuộc cấp
PL-31
(+) Người viết (ẩn) hệ thống chính trị và y tế [N12]
khai kịp thời, phù hợp, hiệu quả, thích ứng
Việt Nam (+) [N15]
(+) Được kiểm soát Đã phát hiện cơ quan quản lý Người viết (ẩn) Người viết (ẩn) [N16]
Bộ Y tế (+) Người viết (ẩn) Ban hành kịp thời
[N24]
(+) Người viết (ẩn) Lực lượng chức năng
[N27]
(+) Người viết (ẩn) Điều tra, xác minh và giải quyết rất nhanh, bảo đảm được Có các giải pháp kịp thời [N42] Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương
(+) Người viết (ẩn) Các lực lượng chức năng [N27]
quận, huyện, thị xã và cấp xã, phường. Nhiều giải pháp chuyên môn chưa có tiền lệ như giám sát, cách ly, phân tầng điều trị, thiết lập các trung tâm hồi sức, các trạm y tế lưu động, điều trị tại nhà... đã được triển khai kịp thời, phù hợp, hiệu quả, thích ứng với từng giai đoạn. Dịch Covid-19 cơ bản đƣợc kiểm soát trên phạm vi cả nước. Đáng chú ý, qua các kênh thông tin, cơ quan quản lý đã phát hiện có hiện tượng đầu cơ, găm hàng hoặc lợi dụng dịch bệnh để tăng giá bán trang thiết bị y tế bất hợp lý. Cùng ngày, Bộ Y tế ban hành hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 đối với người nhập cảnh theo hướng thông thoáng hơn rất nhiều, bỏ quy định về cách ly, chỉ yêu cầu các quy định về xét nghiệm, khai báo y tế, tuân thủ các biện pháp phòng dịch. Những quyết sách nêu trên được ban hành kịp thời đã góp phần xóa bỏ những rào cản, tạo đà thuận lợi cho lộ trình mở cửa du lịch quốc tế, đồng thời cho thấy quyết tâm cao, kỳ vọng lớn của tất cả các cấp, ngành đối với việc mở cửa phục hồi du lịch và kinh tế trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Trên thực tế, thời gian qua, ngay khi nắm được thông tin các vụ việc, lực lượng chức năng đều lập tức vào cuộc điều tra, xác minh và giải quyết rất nhanh, phần lớn bảo đảm đƣợc quyền lợi và sự an tâm, hài lòng của du khách. Thực tế trong hơn hai tháng đầu năm cho thấy Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã chủ động bám sát tình hình và có các giải pháp kịp thời về công tác điều hành giá. Rất may, sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời và trách nhiệm của lực lượng chức năng đã cứu đƣợc “pha mất điểm” nghiêm trọng về hình ảnh du lịch Việt Nam trong mắt khách quốc tế.
(+) Lạc quan, nhanh chóng, kịp thời và trách nhiệm Kịp thời Người viết (ẩn) Bộ Tài chính [N39]
(-) Người viết (ẩn) sự thiếu hụt Nguồn cung trong nước [N41]
(-) [N14] Người viết (ẩn) các địa phương hiểu biết về chống Động thái này của Bộ Tài chính được đánh giá là kịp thời, khi nhóm hàng hóa nguyên, nhiên liệu đầu vào của nền kinh tế như xăng dầu, khí hóa lỏng,… trên thị trường thế giới tiếp tục tăng mạnh. Giá dầu thế giới liên tục tăng cao trong thời gian qua cùng sự thiếu hụt nguồn cung trong nước đã gây áp lực rất lớn đối với giá cả hàng hóa, đặc biệt là lĩnh vực vận tải và các mặt hàng thiết yếu, cũng như sinh hoạt hằng ngày của người dân. Đây không phải là biện pháp chống dịch mà là hiểu biết về chống dịch chƣa đầy đủ.
PL-32
(-) quy định cách ly Một số địa phương Người viết (ẩn)
[N20] dịch chưa đầy đủ Chậm, chưa cập nhật đầy đủ dữ liệu tiêm chủng
(-) Người viết (ẩn) cửa hàng kinh doanh xăng dầu không được khắc phục [N38]
(-) Người viết (ẩn) các lực lượng chức năng [N43]
(-) Người viết (ẩn) đội ngũ y tế [N10] Tuy nhiên, qua báo cáo theo dõi và giám sát công tác tiêm chủng cho thấy một số địa phương tiêm chậm, còn để vaccine đã được phân bổ tồn tại kho bảo quản vaccine khu vực, kho của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật; một số tỉnh chƣa cập nhật đầy đủ dữ liệu tiêm chủng, làm ảnh hưởng đến việc cập nhật tiến độ chung của toàn quốc. Tình trạng các cửa hàng kinh doanh xăng dầu treo biển hết xăng nghỉ bán hàng đã xảy ra tại một số địa phương từ trước Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, hiện vẫn không đƣợc khắc phục mà đang có dấu hiệu lan rộng ra ở nhiều tỉnh, thành phố khác. Không phải cứ mỗi khi giá xăng dầu có biến động lớn, các lực lượng chức năng mới đồng loạt ra quân khiến hoạt động chồng chéo thậm chí cản trở lẫn nhau, nhưng sau đó gần như bị bỏ quên. Nhiều nơi, khi lực lượng này "rút quân", đội ngũ y tế dự phòng, y tế cơ sở lập tức rơi vào trạng thái bị động, lúng túng do thiếu về số lượng và năng lực chƣa cao.
(-) Người viết (ẩn) đội ngũ y tế [N10] hoạt động chồng chéo, cản trở lẫn nhau Trạng thái bị động, lúng túng, năng lực chưa cao thiếu chủ động, phụ thuộc
(-) Người viết (ẩn) các công ty du lịch Thiếu chuyên nghiệp [N26]
Người thi (+) Người viết (ẩn) [N32] Trong đó, tình trạng thiếu chủ động nguồn nhân lực y tế, phụ thuộc nhiều vào lực lượng hỗ trợ đang là vấn đề gây nhiều bất cập. Trong bối cảnh từ Trung ương đến địa phương đã và đang nỗ lực thực hiện nhiều chiến lược quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước thì lại xuất hiện những cách làm du lịch thiếu chuyên nghiệp. Bên cạnh việc chƣa thông thạo ngữ pháp thì điều quan trọng là người thi không nắm vững cách phát âm của chữ cái. chưa thông thạo, không nắm vững 2.2.3. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Kiên trì
2.2.3.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Kiên trì trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 1 1 Tần suất (lần) 1 1 Bình tĩnh Dồn lực Lăn xả 1 Bám trụ Cặm cụi hy sinh quên mình 2 1
2 1 1 9 1 1 Bền bỉ Cố gắng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ Kiên định Mạnh dạn sức sống mãnh liệt 1 1 1
thận trọng Tin 1 1 Kiên trì Nỗ lực sự nhẫn nại chờ đợi tích cực tinh thần vượt 1 1 Liên tục Ráo riết tập trung toàn bộ tinh thần và sức lực tiếp tục tự xoay xở 1 1
PL-33
1 1 1 trụ lại vượt khó vào cuộc quyết liệt bất chấp 1 3 1
phó mặc, khoán trắng bối rối 1 1 2
khó tổ chức công phu không (hẳn) mặn mà sự thận trọng quá mức cảnh lúng túng Rối ren sự lúng túng 1 3 1 1 1 nản lòng Lúng túng Ví dụ minh họa phán xét Kiên trì trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Đối tượng được/ bị phán xét
Phương tiện ngôn ngữ Bền bỉ (+) Thầy hiệu trưởng [T1] Cô nhân viên y tế học đường
Hà Nội (+) Người viết (ẩn) Kiên định
[T15]
(+) Nỗ lực Người viết (ẩn) Các cơ quan chức năng [T42]
(+) Người viết (ẩn)
Theo lời kể của thầy hiệu trưởng, cô nhân viên y tế học đường này đã bền bỉ làm việc 20 năm nay tại ngôi trường THCS do thầy quản lý. Đây có lẽ là nhận thức của lãnh đạo và người dân TP Hà Nội. Chính vì thế, cho dù số ca nhiễm COVID-19 đang cao nhất nước thì Hà Nội vẫn cho phép tổ chức lễ hội chùa Hương, kiên định mở cửa các trường học, các rạp chiếu phim, các địa điểm vui chơi, giải trí… Nghệ An, Hải Phòng và nhiều địa phương khác trong cả nước cũng đang hành xử tương tự. Các cơ quan chức năng đang nỗ lực kiểm soát CPI ở mức khoảng 4% như Quốc hội đã đề ra. Họ đã lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ. [T13] Các y tá, điều dưỡng quân y, dân y, bác sĩ đương nhiệm và về hưu.
(+) Người viết (ẩn) Lăn xả, không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ hy sinh quên mình
[T13] Các y tá, điều dưỡng quân y, dân y, bác sĩ đương nhiệm và về hưu.
(+) trụ lại [T36]
Người viết (ẩn) Tôi (+)
Cơ sở mầm non Những đứa con, đứa cháu tôi (học sinh) Cặm cụi, tiếp tục [T35]
Trong những ngày khốn khó này, nhiều công ty vẫn ăn nên làm ra do biết biến "nguy" thành "cơ", nhiều công ty thu lợi lớn trên sàn chứng khoán, bất động sản, các đại gia buông bỏ hàng trăm tỉ đồng nhẹ như lông hồng... sao không nghĩ đến những người ngày hôm qua hy sinh quên mình cho chúng ta một cuộc sống bình yên, cho mỗi gia đình một cái Tết yên vui. Nhưng trong gian khó còn nhiều cơ sở mầm non khác trụ lại. Triền miên nhiều tháng ròng rã, những đứa con, đứa cháu tôi gần như cả ngày ngồi lì trong phòng, cặm cụi với học trực tuyến (online)… Rồi hết giờ học, chúng lại tiếp tục ngồi lỳ trước máy tính để hoàn thiện các bài tập về nhà.
PL-34
(-) Người viết (ẩn) người làm du lịch nản lòng [T26]
trường học (-) Người viết (ẩn) [T33] Lúng túng, rối ren
trường học (-) Người viết (ẩn) [T33]
(-) Khách du lịch
cảnh lúng túng không (hẳn) mặn mà
[T21]
Bên cạnh đó, các chính sách cứng nhắc ở nhiều địa phương cũng sẽ làm nản lòng những nỗ lực đón khách quốc tế. Do thiếu sự chỉ đạo thống nhất xuyên suốt, thiếu cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý để áp dụng khiến nhiều trường học không khỏi lúng túng, rối ren. Nhưng khi điều đó đến, nhiều nơi, nhiều trường lại rơi vào cảnh lúng túng khi đối diện với thực tế F0, F1 gia tăng. Theo nghiên cứu của GlobalWebIndex, cùng với Worldwide Partners, Inc., khách du lịch hậu Covid-19 sẽ không hẳn mặn mà với du lịch tour tuyến. Giới trung lưu sẽ tìm kiếm các giải pháp du lịch nội địa hoặc trong khu vực, ngắn hạn.
nghiên cứu của GlobalWeb Index, cùng với Worldwide Partners, Inc… 2.2.3.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Kiên trì trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Tần suất (lần) Tần suất (lần) Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ
sự nỗ lực 3 1 1 Phương tiện ngôn ngữ sự chung sức, đồng lòng
thậm chí cả tính mạng 1 1 1 ngày đêm chiến đấu
sự đồng hành 1 1 1
sự kiên định sự chung tay góp sức nỗ lực 1 9 2
1 1 1 thực hiện nghiêm cố gắng Phương tiện ngôn ngữ những đóng góp vô cùng lớn 100% sức lực suốt nhiều tháng liên tiếp sự phục hồi mạnh mẽ duy trì tiếp tục đóng góp kinh nghiệm
tích cực tìm kiếm 1 bám sát 1 1
kiên trì 1 tiếp tục sôi động 1 1
đẩy mạnh hồi phục mạnh mẽ phục hồi mạnh mẽ 1 1 1 quyết tâm cao tiếp tục tích cực 1 1 4 1 1 3
quyết liệt 2 Căng sức 1 1 làm việc bất kể ngày đêm hoạt động với công suất cao chạy đua tăng tốc chủ động khẩn trương nghiên cứu, xem xét
Mạnh mẽ chủ quan 1 1 1
1 1 1 không thực hiện nghiêm không tiếp tục
coi thường dịch bệnh bị giải thể hay ngừng hoạt động bất cập 1 kiệt quệ 2 1 lúng túng Ví dụ minh họa phán xét Kiên trì trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Phương tiện ngôn ngữ (+) Người viết (ẩn) Đối tượng được/ bị phán xét Chính phủ, ngành y tế [N9]
Người Quốc hội, (+) sự nỗ lực Những con số đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ, ngành y tế trong việc trang bị "vũ khí" chống dịch. Kinh nghiệm và sự kiên định trong chủ sự kiên [N39]
PL-35
viết (ẩn) Chính phủ định
Nhân dân (+) Người viết (ẩn)
[N1]
Việt Nam (+) Người viết (ẩn) thực hiện nghiêm, quyết liệt, sự chung sức, đồng lòng tích cực tìm kiếm
[N9]
trương ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát của Quốc hội, Chính phủ thời gian qua cũng giúp củng cố niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Nhưng nhờ thực hiện nghiêm sự lãnh đạo của Ðảng và lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt với sự chung sức, đồng lòng của toàn thể nhân dân. Kể từ khi dịch Covid-19 xuất hiện tại nước ta, Việt Nam đã rất tích cực tìm kiếm nguồn vắc-xin khác nhau như: kêu gọi hỗ trợ từ các nước, tổ chức quốc tế; đặt mua; thúc đẩy nghiên cứu, sản xuất trong nước. Đến nay Việt Nam đã ký hợp đồng mua, nhận viện trợ, tài trợ tổng số 211 triệu liều vắc-xin phòng Covid-19, trong đó đã tiếp nhận 156,4 triệu liều... Chúng ta Chúng ta (+) (+)
[N22]
(+) hồi phục mạnh mẽ Người viết (ẩn) ngành kinh tế du lịch
[N25]
(+) Người viết (ẩn) Du lịch Việt Nam Sự phục hồi mạnh mẽ [N27]
kiên trì đẩy mạnh Chúng ta cũng đang đẩy mạnh Chiến dịch tiêm chủng mùa xuân, để “phủ sóng” vaccine cho tất cả các đối tượng có chỉ định, đẩy mạnh tiêm mũi tăng cường. Dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vừa qua là lần đầu tiên, nhiều địa điểm du lịch quá tải sau hai năm du lịch “đóng băng” vì dịch COVID-19. Ðây là tín hiệu cho thấy ngành kinh tế du lịch đang hồi phục mạnh mẽ. Đây là những dấu hiệu tích cực cho thấy du khách đã bước đầy vượt qua tâm lý e dè, lo ngại về dịch bệnh để tham gia các hoạt động du lịch; đồng thời cũng báo hiệu sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch Việt Nam sau thời gian dài “ngủ đông” vì đại dịch Covid-19. (+) Người viết (ẩn) Bộ Giáo dục và Đào tạo
[N36]
(+) Người viết (ẩn)
[N21]
mạnh mẽ, chủ động, tích cực, sự đồng hành, sự chung tay góp sức quyết liệt Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết liệt chỉ đạo, ban hành văn bản yêu cầu cơ sở giáo dục từng bước khắc phục bệnh thành tích; giảm các cuộc thi cho giáo viên và học sinh; phát động cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”... nhưng trên thực tế, “bệnh thành tích” vẫn tồn tại, có nơi có lúc còn nặng hơn. Với sự vào cuộc mạnh mẽ, chủ động, tích cực của chính quyền các địa phương, ngành du lịch và sự đồng hành của các doanh nghiệp, sự chung tay góp sức của các bộ, ngành liên quan, chắc chắn năm mới 2022 các cơ hội mới sẽ mở ra để ngành du lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và lấy lại đà tăng trưởng. (-) [N33] lúng túng Tuy nhiên, những ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 đã khiến việc mở cửa Người viết (ẩn) chính quyền các địa phương, ngành du lịch, doanh nghiệp, các bộ, ngành liên quan các cơ sở giáo dục
PL-36
(+) Người viết (ẩn) Nhân viên y tế ngày đêm chiến đấu [N10]
(+) nỗ lực Người viết (ẩn) Bộ Giáo dục và Ðào tạo [N36]
Chính phủ (+) cố gắng Người viết (ẩn) [N1]
(+) Người viết (ẩn) hoạt động với công suất cao [N22]
trường học gặp nhiều khó khăn, nhất là khi các cơ sở giáo dục còn lúng túng trong xử lý trường hợp F0, F1. Ở thời điểm hiện tại, họ vẫn ngày đêm chiến đấu với dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực xóa bỏ nhưng “bệnh thành tích” trong giáo dục vẫn diễn ra ở một số địa phương, gây bức xúc dư luận. Chính phủ đã cố gắng huy động mọi nguồn lực từ ngân sách nhà nước và xã hội hóa để chi cho phòng, chống dịch Covid- 19, bảo vệ sức khỏe nhân dân… Các cơ sở kinh doanh du lịch khu vực phía nam như tại Nha Trang (Khánh Hòa), Đà Lạt (Lâm Đồng), Bà Rịa-Vũng Tàu, Phú Quốc (Kiên Giang)... đều hoạt động với công suất cao. (+) chạy đua Mặt khác, các nước Đông Nam Á đang Người viết (ẩn) chạy đua mở cửa du lịch quốc tế. [N22]
(+) tăng tốc Người viết (ẩn)
Các cơ sở kinh doanh du lịch khu vực phía nam các nước Đông Nam Á Ngành du lịch cùng các địa phương [N25]
Ngành du lịch cùng các địa phương là trung tâm du lịch đang tăng tốc quảng bá, kích cầu du lịch trong nước và quốc tế, nhiều khả năng khách sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới, nhất là khi nhu cầu du lịch của người dân bị kìm nén trong một thời gian dài. (+) Người viết (ẩn) Bộ Giáo dục và Ðào tạo [N33]
Quốc hội (+) Người viết (ẩn) [N1] chủ động Bộ Giáo dục và Ðào tạo đã chủ động phối hợp Bộ Y tế, các địa phương, chỉ đạo, hướng dẫn mở cửa trường học trở lại trên cả nước. Ðồng thời, Quốc hội đã tổ chức nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ để khẩn trƣơng nghiên cứu, xem xét các đề xuất của Chính phủ.
(-) Người viết (ẩn) khẩn trương nghiên cứu, xem xét không tiếp tục [N10]
(-) kiệt quệ Người viết (ẩn) [N27] Những khó khăn chồng chất kéo dài khiến nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế đã chọn con đường khác, không tiếp tục với nghề. Trải qua đại dịch, nhiều đơn vị, cá nhân hoạt động du lịch đã kiệt quệ về nguồn lực.
(+) Người viết (ẩn) [N10] nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế nhiều đơn vị, cá nhân hoạt động du lịch nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế.
(+) Người viết (ẩn) lực lượng y tế cả nước [N10] Có được điều này, không thể không kể đến những đóng góp vô cùng lớn, thậm chí cả tính mạng của nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế. Khi đợt dịch thứ tư bùng phát, lực lượng y tế cả nước đã làm việc với hơn 100% sức lực suốt nhiều tháng liên tiếp.
(+) [N29] những đóng góp vô cùng lớn 100% sức lực suốt nhiều tháng liên tiếp phục hồi mạnh mẽ Người viết (ẩn) du lịch Việt Nam Những con số ấn tượng này cho thấy du lịch Việt Nam đang phục hồi mạnh mẽ.
PL-37
(+) duy trì Người viết (ẩn) thành phố Hồ Chí Minh [N13]
(+) Người viết (ẩn) người cao tuổi
tiếp tục đóng góp kinh nghiệm [N2]
(+) bám sát Người viết (ẩn) Các địa phương [N13]
(+) [N22]
(+) Người viết (ẩn) Người viết (ẩn) các hoạt động du lịch các cấp, ngành tiếp tục sôi động quyết tâm cao
[N24]
(+) tiếp tục Người viết (ẩn) Các cơ quan quản lý [N39]
(+) tích cực Người viết (ẩn) Bộ Tài chính [N40]
Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh đã hai tuần liên tiếp duy trì là vùng xanh với số ca mắc mới, chuyển nặng và tử vong mỗi ngày tiếp tục có chiều hướng giảm sâu và đạt cả ba tiêu chí (tỷ lệ ca mắc mới tại cộng đồng, độ phủ vaccine và khả năng, thu dung điều trị). Hiện cả nước có hơn 6,5 triệu người cao tuổi đang trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, trong đó gần 100 nghìn người cao tuổi làm chủ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, gần 400 nghìn hội viên cao tuổi đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi; hơn 90 nghìn người cao tuổi tiếp tục đóng góp kinh nghiệm cho các doanh nghiệp, trang trại. Các địa phương luôn bám sát tình hình thực tế để có những điều chỉnh về phân vùng cấp độ dịch, từ đó đưa ra các biện pháp ứng phó phù hợp. Kỳ nghỉ Tết kết thúc, các hoạt động du lịch vẫn tiếp tục sôi động. Cùng ngày, Bộ Y tế ban hành hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 đối với người nhập cảnh theo hướng thông thoáng hơn rất nhiều, bỏ quy định về cách ly, chỉ yêu cầu các quy định về xét nghiệm, khai báo y tế, tuân thủ các biện pháp phòng dịch. Những quyết sách nêu trên được ban hành kịp thời đã góp phần xóa bỏ những rào cản, tạo đà thuận lợi cho lộ trình mở cửa du lịch quốc tế, đồng thời cho thấy quyết tâm cao, kỳ vọng lớn của tất cả các cấp, ngành đối với việc mở cửa phục hồi du lịch và kinh tế trên cơ sở thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Các cơ quan quản lý tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường các dịch vụ công và hàng hóa do Nhà nước quản lý khi điều kiện cho phép, sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá. Bộ Tài chính cũng đã có phương án sử dụng công cụ thuế, phí, tích cực triệt tiêu các xu hướng tăng giá hàng hóa khi vẫn còn công cụ điều hành. (+) Người viết (ẩn) đội ngũ y tế trên toàn thành phố [N11]
(-) Người viết (ẩn) [N25] doanh nghiệp du lịch bị giải thể hay ngừng hoạt động Căng sức Hiện nay, đội ngũ y tế trên toàn thành phố đang căng sức, nỗ lực hết mình, làm việc bất kể ngày đêm nhằm ngăn chặn đà lây lan của dịch bệnh, hỗ trợ, chăm sóc kịp thời những người không may mắc Covid- 19. Dịch COVID-19 khiến hàng loạt doanh nghiệp du lịch bị giải thể hay ngừng hoạt động, nhất là các doanh nghiệp trong khối lữ hành và lưu trú. 2.2.4. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Chân thật
PL-38
2.2.4.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Chân thật trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) biện minh găm hàng 1 3 1
2 Phương tiện ngôn ngữ không một chút toan tính, so đo té nước theo mưa Ví dụ minh họa phán xét Chân thật trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Đối tượng được/ bị phán xét
(+) Người viết (ẩn) Họ để lại sau lưng gia đình, cha mẹ, con cái và cả tình yêu đôi lứa nhiều tháng trời không một chút toan tính, so đo. [T13]
Các y tá, điều dưỡng quân y, dân y, bác sĩ đương nhiệm và về hưu. chủ cây xăng (-) Người viết (ẩn) Phương tiện ngôn ngữ không một chút toan tính, so đo Găm hàng [T40]
chủ cây xăng (-) Người viết (ẩn) Biện minh [T40]
(-) Người viết (ẩn) Người buôn bán [T41] Té nước theo mưa Nói găm hàng cũng không sai bởi chính chủ cây xăng thừa nhận trong bồn vẫn còn xăng, gọi đầu mối vẫn có hàng nhưng cây xăng không mặn mà bán. Bán ít đi là cách để cây xăng này giảm lỗ, chủ cây xăng biện minh đây là hình thức "khách hàng chia sẻ với cây xăng". Có mạnh tay tạm thời giảm thuế xăng dầu mới giảm sức ép lên giá cả, bớt tình trạng tăng giá té nƣớc theo mƣa.
2.2.4.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Chân thật trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) Tần suất (lần)
1 1 1
3 2 2 Phương tiện ngôn ngữ Hành vi đầu cơ, găm hàng Lợi dụng Tận tâm Găm hàng, đầu cơ, tích trữ Trục lợi “ăn không” 1 1 1
Phương tiện ngôn ngữ "té nước theo mưa" Thủ đoạn Chia sẻ, thắt lưng buộc bụng Tận tình Tinh thần hy sinh, gắn bó 1 1 1
Rời xa mục đích cao cả của ngành y Vô tư, hồn nhiên Có uy tín 1 1 1
Lơ là, chủ quan, đối phó 1 Giấu giếm Ví dụ minh họa phán xét Chân thật trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Đối tượng được/ bị phán xét Phương tiện ngôn ngữ (-) Người viết (ẩn) Đối tượng buôn lậu [N43] Ðiều này đã kích thích các đối tượng dùng nhiều thủ đoạn để buôn lậu xăng dầu từ nước ngoài vào trong nước hòng trục lợi.
(-) Thủ đoạn, hòng trục lợi Lợi dụng Người viết (ẩn) [N43] Các tàu dịch vụ hậu cần nghề cá Ngoài ra, các tàu dịch vụ hậu cần nghề cá cũng lợi dụng việc cung cấp nước ngọt, đá, thực phẩm,… để mua bán xăng dầu ngay
PL-39
Cán bộ y tế (+) Người viết (ẩn)
[N8]
(+) Người viết (ẩn) Người lao động
[N5]
Tận tâm, tinh thần hy sinh, gắn bó… tận tình Hết sức chia sẻ, thắt lưng buộc bụng
(-) Người viết (ẩn) Một bộ phận y, bác sĩ trên biển... Hình ảnh cán bộ y tế tận tâm với nghề, thể hiện tinh thần hy sinh, gắn bó, ứng xử hài hòa, tận tình chăm sóc người bệnh, xông pha chống dịch Covid-19 ba năm qua đã gây ấn tượng sâu sắc với hàng triệu đồng bào. Có thể nói, người lao động cũng đã hết sức chia sẻ, thắt lƣng buộc bụng cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp, dần đi vào ổn định sản xuất, phục hồi đáng kể. Thế nhưng cũng còn một bộ phận y, bác sĩ ngày càng rời xa mục đích cao cả của ngành y... [N8]
rời xa mục đích cao cả của ngành y 2.2.5. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Đạo đức
2.2.5.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Đạo đức trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Sự bất công “chặt chém” 3 2 1
1 1 1 Hành vi vi phạm pháp luật sự trục lợi sự vụ khuất tất hành vi vi phạm đạo đức hành vi phạm tội 1 1 1
vụ gian lận lợi dụng bị lên án bị lộ sáng chèn ép hoành hành giả 1 1 2 1 1 1 1 1 1 4 1 1 1 1 1 1 5 2 1 1 1 1 sự cấu kết những kẻ lợi dụng cơ hội Vết ố cơ hội trục lợi thiếu trách nhiệm tội phạm trục lợi buôn lậu vi phạm các quy định biến chất tha hóa tìm cách móc túi làm lộ bí mật bán xăng lậu trừng trị lậu vô can Ví dụ minh họa phán xét Đạo đức trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Đối tượng được/ bị phán xét
(-) Người viết (ẩn) Hành vi làm lộ đề Phương tiện ngôn ngữ Sự bất công [T37]
(-) Người viết (ẩn)
[T11]
hành vi làm giá, ăn chia trong đấu thầu, phân phối bộ kit xét nghiệm COVID Cay đắng thay khi sự bất công có thể đã xuất hiện từ trước khi các em bước vào phòng thi. Đó không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật đáng lên án mà còn là hành vi vi phạm đạo đức tệ hại, trong bối cảnh cả hệ thống chính trị và toàn dân chung tay, góp sức, góp của với quyết tâm sớm đẩy lùi dịch bệnh, phục hồi kinh tế, đưa cuộc sống trở lại bình thường.
hành vi vi phạm đạo đức, đáng lên án, hành vi vi phạm đạo đức tệ hại hành vi dư luận Cán bộ công (-) Chính vì vậy, dư luận trông đợi các cơ quan [T11]
PL-40
ty Việt Á
(-) Vết ố Người viết (ẩn) [T19]
dư luận (-) sai phạm trong những chuyến bay giải cứu Bộ Giáo dục - đào tạo thiếu trách nhiệm [T31]
(-) Người viết (ẩn) trục lợi, tìm cách móc túi Cán bộ trong những chuyến bay giải cứu [T19]
(-) vô can Người viết (ẩn) cơ quan quản lý [T40]
(-) Người viết (ẩn) một số lái xe taxi, xe hợp đồng, xe ôm [T24] Lợi dụng, “chặt chém”
(-) Người viết (ẩn) Cán bộ công ty Việt Á sự cấu kết [T11]
(-) Người viết (ẩn) cơ hội trục lợi, tha hóa Cán bộ trong những chuyến bay giải cứu [T19]
(-) Người viết (ẩn) cửa hàng xăng dầu bán xăng lậu [T38] phạm tội có trách nhiệm sẽ "làm đến tận cùng" vụ án Việt Á để đưa mọi hành vi phạm tội và cả những người chịu trách nhiệm ra xử lý tương xứng, như tổng thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường trả lời tại cuộc họp báo trước kỳ họp. Bức tranh đẹp về lòng hy sinh được vẽ nên bằng những hình ảnh đáng ghi nhận từ cuộc giải cứu bỗng bị vài vết ố do một vài cán bộ đảm nhiệm trọng trách liên quan gây ra. Sự việc dẫu sao đã xảy ra rồi, dư luận đang chờ đợi Bộ Giáo dục - đào tạo trả lời thế nào trước công luận vì sao lại quá chậm trễ, thiếu trách nhiệm trong việc xử lý đến cùng vụ việc nói trên, để đảm bảo vừa lấy lại lòng tin của xã hội vừa thực hiện tôn chỉ học thật thi thật. Lợi dụng chính sách hay hoàn cảnh để trục lợi không phải là điều gì quá lạ lẫm, điều lạ là vì sao trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng như vậy, sinh mạng con người bị đe dọa như vậy thì có người lại thản nhiên tìm cách móc túi những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi của đồng bào mình. Cuối cùng, cơ quan quản lý cũng không thể vô can khi quy định về dự trữ xăng dầu bắt buộc đối với hệ thống phân phối phải tối thiểu bằng 20 ngày. Sau Tết âm lịch, tại một số sân bay lớn, một số lái xe taxi, xe hợp đồng, xe ôm đã lợi dụng tình trạng cầu vượt quá cung để "chặt chém" hành khách với mức giá cao gấp nhiều lần giá cước vận chuyển quy định, gây thiệt hại, bức xúc cho hành khách. Như vậy là có sự cấu kết giữa một số cán bộ biến chất trong bộ máy và doanh nghiệp bên ngoài để trục lợi. Cũng chính vì sự sống không thể cân đong bằng tiền bạc nên việc những công dân Việt Nam ở nước ngoài có tâm lý chấp nhận, dù có thể bất hợp lý miễn sao được về quê nhà, nơi được coi là an toàn nhất. Tâm lý đó, tiếc thay đã bị tận dụng thành cơ hội trục lợi kiếm tiền của một nhóm nhỏ các cán bộ tha hóa. Thậm chí, có lúc bán xăng lậu đã trở thành cái mốt làm giàu nhanh của nhiều cửa hàng xăng dầu. (-) Người viết (ẩn) [T38]
(-) Người viết (ẩn) [T19] sai phạm trong những chuyến bay giải cứu sự vụ khuất tất, bị lộ sáng
(-) [T31] Người viết (ẩn) cá nhân thuộc ngành lậu, giả Không thể để hệ thống phân phối xăng dầu được giám sát chặt nhưng vừa qua vẫn lọt vài trăm triệu lít xăng dầu lậu, xăng giả. Chính vì ấn tượng đẹp như vậy nên khi những sự vụ khuất tất liên quan đến những chuyến bay giải cứu trong thời gian gần đây bị lộ sáng đã làm cho chúng ta không thể không nhức nhối. Vụ gian lận thi cử năm học 2017 - 2018 ở vài địa phương và đặc biệt lần này việc làm vụ gian lận
PL-41
giáo dục
(-) Chính phủ Công ty Việt Á lợi dụng, trục lợi
[T11]
(-) Người viết (ẩn) Cán bộ công ty Việt Á bị lên án, sự trục lợi [T11]
(-) Người viết (ẩn) người buôn bán hoành hành [T42] lộ bí mật quốc gia về đề thi (vốn xếp vào hàng tối mật) nằm ngay tại tổng hành dinh của Bộ Giáo dục - đào tạo. Trong báo cáo gửi đến các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp bất thường đang diễn ra, Chính phủ thông tin: "Công ty Việt Á đã lợi dụng tình trạng dịch bệnh để trục lợi, đồng thời một số cá nhân đã vi phạm các quy định trong tổ chức thực hiện mua sắm, đấu thầu và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ". Trong tình hình "nước sôi lửa bỏng" của đất nước những tháng ngày chống dịch, lòng tham của kẻ điều hành doanh nghiệp đáng bị lên án một thì sự trục lợi của những kẻ khoác áo công bộc phải bị lên án mười. Yếu tố tâm lý lo ngại giá cả tăng có xu hướng loang rộng, kiểu tăng giá té nước theo mưa sẽ hoành hành trong những tháng tới.
2.2.5.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện phán xét Đạo đức trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) chân chính sai phạm 4 3 1
hướng dẫn viên trái phép y đức 1 1 2
Phương tiện ngôn ngữ các hành vi vi phạm/ sai phạm việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh lợi dụng du lịch "chui" 1 4 1
trục lợi 4 4 4
3 2 3 Nhập lậu Hét giá hành vi tổ chức tour trái phép buôn bán xăng dầu giả Đầu cơ Buôn lậu 2 1 2
vận chuyển trái phép Ép buộc không bảo đảm yêu cầu giãn cách tham nhũng lén lút 1 1 1
bất hợp lý 1 1 1
lợi dụng dịch bệnh để trục lợi tung tin giả bất chấp dịch bệnh găm hàng hoặc lợi dụng tin sai sự thật 1 1 1
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 sử dụng hướng dẫn viên trái phép bị ép buộc “chặt chém” sai phạm trá hình trốn thuế làm sai lệch sách nhiễu chiếm đoạt làm liều bị truy tố về tội buôn lậu 1 1 1
vô tội vạ 1 1 1 xâm hại đe dọa chộp giật làm ẩu gian lận thương mại bất chính vi phạm pháp luật Ví dụ minh họa phán xét Đạo đức trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể phán xét Phân cực Phương tiện ngôn ngữ (+) Người viết (ẩn) Đối tượng được/ bị phán xét các công ty du lịch [N23] chân chính Du lịch “chui” còn cản trở sự hoạt động của các công ty du lịch chân chính, gây thất thu ngân sách nhà nước và làm xấu bộ mặt, chất
PL-42
(-)
một du khách quốc tế hướng dẫn viên trái phép [N23] thanh tra Sở Du lịch Khánh Hòa
(-) Người viết (ẩn) du lịch "chui" Cơ sở kinh doanh du lịch tự phát [N23]
(-) Nhập lậu Người vi phạm các lực lượng chức năng [N43]
(-) Trục lợi Người viết (ẩn) số ít người bán [N16]
(-) Người viết (ẩn) một số đối tượng
Lợi dụng, tung tin giả, tin sai sự thật
[N17]
lượng chung của toàn ngành du lịch, nhất là trong điều kiện phòng, chống dịch Covid- 19. Vụ việc vừa được ghi nhận tại Khu Du lịch Đảo Hoa Lan, khi thanh tra Sở Du lịch Khánh Hòa phối hợp các cơ quan chức năng kiểm tra đột xuất, phát hiện một du khách quốc tế đang làm hƣớng dẫn viên trái phép cho đoàn khách quốc tế gồm 20 người. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn thực hiện Chương trình thí điểm đón khách du lịch quốc tế có “hộ chiếu vắc-xin”, tức lượng khách tới nước ta còn hạn chế, song đã xuất hiện tour du lịch “chui”. Trong 1-2 năm trở lại đây, khi dịch Covid- 19 phức tạp, cũng như giá xăng dầu có sự biến động lớn, các lực lượng chức năng như công an, biên phòng, cảnh sát biển, quản lý thị trường liên tiếp phát hiện, triệt phá nhiều đường dây nhập lậu xăng dầu, thậm chí pha chế xăng dầu. Tuy nhiên, vì lợi nhuận, vẫn có số ít người bán vẫn tự ý nâng bán giá cao hơn so với mức giá niêm yết để trục lợi. Trong đó không thể không đề cập đến việc một số đối tượng lợi dụng diễn biến phức tạp của dịch bệnh để tung tin giả, tin sai sự thật về số ca mắc nhiễm mới, sự quá tải của hệ thống y tế, sự tắc trách trong công tác phòng, chống dịch bệnh ở các địa phương, chỉ trích chủ trương, đường lối, chính sách phòng, chống dịch bệnh… gây hoang mang dư luận, làm mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. lái xe ta-xi (-)
khách du lịch nữ người Nga [N27]
Bị can (-) bị truy tố lực lượng công an [N43]
(-) Người viết (ẩn) Đối tượng buôn lậu vi phạm pháp luật, nhập lậu [N43]
(-) sai phạm Người viết (ẩn) một số đối tượng vi phạm
chiếm đoạt Gần đây nhất là vụ việc hai khách du lịch nữ người Nga bị lái xe ta-xi chiếm đoạt điện thoại chứa nhiều thông tin cá nhân quan trọng khi thuê dịch vụ di chuyển ở phố cổ Hà Nội. Gần đây nhất, lực lượng công an đã khởi tố vụ sản xuất hơn 200 triệu lít xăng giả tại Ðồng Nai với giá trị ở thời điểm bắt giữ khoảng 2.800 tỷ đồng, 74 bị can bị truy tố về tội buôn lậu và nhận hối lộ. Ðây chính là điều kiện lý tưởng cho một số đối tượng sẵn sàng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật để nhập lậu, pha chế xăng dầu kém chất lượng đưa ra thị trường tiêu thụ. Mặc dù nhiều trường hợp sai phạm về phòng, chống dịch bệnh đã được cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nghiêm, tuy nhiên tình trạng chủ quan, lơ là, đối phó trước dịch bệnh cũng như việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh vẫn xảy ra dưới nhiều hình thức phức tạp, khó lường.
PL-43
(-) y đức Đại biểu Quốc hội Một số cán bộ y tế [N8]
(-) đoàn kiểm tra [N23] hành vi tổ chức tour trái phép ông Trần Minh Khánh
(-) Người viết (ẩn) [N16] một số đối tượng vi phạm
(-) Đầu cơ, găm hàng hoặc lợi dụng Buôn lậu, trục lợi Người viết (ẩn) Đối tượng buôn lậu [N43]
(-) Tại nghị trường Quốc hội, có đại biểu đã nhấn mạnh: Y học nước ta có tiến bộ, đội ngũ y, bác sĩ tay nghề chuyên môn cao ngày càng nhiều, tuy nhiên chƣa tỷ lệ thuận với y đức. Ngay sau đó, đoàn kiểm tra đã lập biên bản đối với hành vi tổ chức tour trái phép của ông Khánh, tiến hành xử lý theo quy định pháp luật. Đáng chú ý, qua các kênh thông tin, cơ quan quản lý đã phát hiện có hiện tượng đầu cơ, găm hàng hoặc lợi dụng dịch bệnh để tăng giá bán trang thiết bị y tế bất hợp lý. Ðiều này đã kích thích các đối tượng dùng nhiều thủ đoạn để buôn lậu xăng dầu từ nước ngoài vào trong nước hòng trục lợi. Một số nhà hàng, quán karaoke vẫn lén lút đón khách, bất chấp dịch bệnh. bất chấp dịch bệnh Người viết (ẩn) [N11]
(-) Người viết (ẩn) Một số nhà hàng, quán karaoke một số điểm du lịch [N26]
đe dọa (-) lái tàu du lịch anh Lê Quốc Khánh [N26]
(-) chộp giật, sai phạm Người viết (ẩn)
[N27]
xâm hại, ép Sau thời gian dài "đóng cửa" vì dịch Covid- 19, du lịch đồng bằng sông Cửu Long vừa đón khách trở lại nhưng đã xuất hiện nhiều hình ảnh không đẹp, như: bán vé hoạt động khu du lịch "chui"; tự ý tăng giá vé, ép du khách mua vé tham quan; xâm hại di tích lịch sử quốc gia... Khi thấy trong vườn có rất ít trái cây, đồng thời thấy việc tham quan này là không đúng với thỏa thuận ban đầu, anh Khánh và đoàn không đồng ý vào tham quan, yêu cầu lái tàu chở đi điểm khác nhưng liền bị lái tàu lớn tiếng đe dọa … Song, cách làm ăn chộp giật, sai phạm như trên chẳng khác gì những “con sâu làm rầu nồi canh”, không chỉ làm xấu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam mà còn tác động tiêu cực tới thương hiệu du lịch quốc gia.
(-) Làm liều, làm ẩu Người viết (ẩn) Tâm lý muốn kiếm lời nhanh chóng rất có thể sẽ là nguyên nhân dẫn đến cách làm liều, làm ẩu. [N27]
(-) Người viết (ẩn) một bộ phận rất nhỏ những người làm dịch vụ du lịch một bộ phận rất nhỏ những người làm dịch vụ du lịch Đối tượng buôn lậu Buôn lậu, gian lận thương mại [N43]
(-) bất chính Người viết (ẩn) một số cửa hàng
[N38]
người dân (-) [N11] Người viết (ẩn) các hành vi vi phạm/ Tuy nhiên, trước thực trạng buôn lậu, gian lận thƣơng mại mặt hàng xăng dầu vẫn diễn biến phức tạp, các cơ quan quản lý nhà nước phải có kế hoạch đấu tranh quyết liệt nhằm ngăn chặn vấn nạn này. Thực tế không thể có chuyện thiếu xăng dầu đến mức hàng loạt cửa hàng phải tạm dừng hoạt động. Vì lợi nhuận, một số cửa hàng đã bất chấp các quy định, vin đủ lý do để găm hàng, đầu cơ, tích trữ, tạo khan hiếm nhằm kiếm lợi bất chính. Tuy nhiên, đã và đang xuất hiện những biểu hiện lơ là, chủ quan, đối phó trong công tác
PL-44
sai phạm
(-) lợi dụng
[N23] Các chuyên gia cở kinh doanh du lịch tự phát
(-) Người viết (ẩn) Người vi phạm
[N43] bán xăng dầu giả, vận chuyển trái phép
(-) lái tàu du lịch Ép buộc, sách nhiễu anh Lê Quốc Khánh
[N26]
người dân (-) Người viết (ẩn)
không bảo đảm yêu cầu giãn cách [N11]
(-) Người viết (ẩn) [N12] một số đối tượng vi phạm phòng, chống dịch tại cộng đồng, các hành vi vi phạm xảy ra ở nhiều nơi. Theo các chuyên gia, nguyên nhân của du lịch “chui” là các cá nhân, đơn vị có thể lợi dụng con đường này để thu lợi mà không phải chi trả một số khoản phí, thuế. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng buôn bán xăng dầu giả, vận chuyển trái phép xăng dầu lậu vẫn có "đất sống" có một phần do xăng dầu hiện đang là mặt hàng chịu nhiều loại thuế, phí khác nhau, với tỷ lệ chiếm tới 32% giá bán lẻ xăng dầu. Trước đó, tại Lễ hội đờn ca tài tử quốc gia lần thứ 3 diễn ra ở thành phố Cần Thơ từ ngày 7 đến 11/4, anh Lê Quốc Khánh, thành viên đoàn nghệ thuật đến từ Hà Nội tham gia biểu diễn tại lễ hội đã bức xúc về việc lái tàu du lịch sách nhiễu, ép buộc phải mua vé tham quan vườn trái cây Bà Hiệp ở huyện Phong Ðiền. Ðặc biệt trong dịp lễ đón Giáng sinh vừa qua, nhiều người dân vẫn đổ về khu vực trung tâm, tụ tập tại các tụ điểm công cộng, không bảo đảm yêu cầu giãn cách, thậm chí nhiều người còn vô tư tháo khẩu trang ra để chụp ảnh, ăn uống hồn nhiên ngay giữa chỗ đông người. Bên cạnh đó, những ngày gần đây, một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực lợi dụng dịch bệnh để trục lợi đã được phát hiện, điều tra.
(-) Người viết (ẩn) cở kinh doanh du lịch tự phát [N23] tham nhũng, lợi dụng, trục lợi sử dụng hướng dẫn viên trái phép
du khách một số (-) “chặt chém” [N27]
(-) sai phạm
cơ quan chức năng tỉnh An Giang [N26]
điểm du lịch Công ty cổ phần Du lịch An Giang thuộc Tập đoàn Sao Mai
Các trường (-) trá hình Người viết (ẩn)
[N37]
(-) trốn thuế Người viết (ẩn) Đối tượng buôn lậu [N43] Thêm nữa, vào mùa cao điểm du lịch, ở nhiều nơi thiếu hướng dẫn viên quốc tế, nhất là với thị trường ngoại ngữ ít thông dụng dẫn đến tình trạng sử dụng hƣớng dẫn viên trái phép. Đó là việc du khách tố bị “chặt chém”, hét giá khi sử dụng dịch vụ liên quan ở một số cơ sở. Thời gian gần đây, từ dư luận phản ánh, cơ quan chức năng tỉnh An Giang đã vào cuộc làm rõ nhiều sai phạm của Công ty cổ phần Du lịch An Giang thuộc Tập đoàn Sao Mai, như đã tự ý mở cửa hoạt động, bán vé tham quan Khu du lịch điện mặt trời An Hảo với giá cao và liên tục tăng giá trong khi chưa đáp ứng yêu cầu về thủ tục pháp lý. Mặt khác, trong chỉ đạo chuyên môn của ngành giáo dục cho phép giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch bài dạy, nội dung cần điều chỉnh; nguồn học liệu và thiết bị dạy học… đã tạo kẽ hở để các trường đưa sách tham khảo vào “ép” học sinh phải mua một cách trá hình. Vậy cứ mỗi lít xăng được buôn lậu trót lọt, các đối tượng đã "ăn không được hơn 10 nghìn đồng tiền trốn thuế, phí các loại,
PL-45
(-) vô tội vạ
khiến Nhà nước thất thu hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Chỉ cần có nguồn cung tín dụng dồi dào, lãi suất giảm đồng bộ với quy mô lớn, liên tục, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; sẵn sàng mua/bán ngoại tệ với tổ chức tín dụng, sẽ giúp bình ổn thị trường và kinh tế vĩ mô..., đồng thời siết chặt quản lý thị trường, chống hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, sẽ triệt tiêu được động cơ tăng giá vô tội vạ.
2.3. Tiểu hệ thống Thẩm giá
Bảng P2.3.1. Kết quả khảo sát Thẩm giá trong các văn bản bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phản ứng Giá trị Tổng Loại Thẩm giá
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD (+) 1 7 11 7 0 26 (-) 9 3 0 1 7 20 Tổng hợp (-) 6 23 8 7 13 57 (+) 1 0 1 0 0 2 (-) 20 33 17 16 39 125 (+) 6 19 19 12 6 62 (-) 5 7 9 8 19 48 (+) 8 26 31 19 6 90 Tổng 46 59 110 215 (Đơn vị tính: lần)
Bảng P2.3.2. Kết quả khảo sát Phán xét trong các văn bản bình luận trên báo Nhân dân
Giá trị Tổng Loại Thẩm giá
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD Phản ứng (-) (+) 1 7 0 1 2 3 4 3 0 1 7 15 Tổng hợp (-) (+) 11 0 16 1 8 0 1 0 18 0 54 1 (-) 20 26 23 8 31 108 (+) 15 8 15 7 16 61 (-) 8 10 13 3 13 47 (+) 22 10 18 10 17 77 Tổng 22 55 108 185 (Đơn vị tính: lần)
2.3.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Phản ứng
2.3.1.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Phản ứng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) ấn tượng Trân quý 4 4 1
Bớt đi vẻ nặng nề Bức tranh đẹp 1 1 1
1 2 1 1 1 1 1 2 1 Đẹp Ít được quan tâm Không ngờ Mãi mãi không quên ơn 1 1 1
1 5 Dư vị khó quên Khó Không bất ngờ Mãi mãi là những hình ảnh đẹp Nan giải Nóng 1 1 Bào mòn túi tiền người dân Chưa tâm phục khẩu phục Duyên dáng Khó lòng Không nhẹ nhàng Mang vẻ đẹp của sự giải cứu Nặng nề Rực rỡ 1 1 Mới mẻ Quan tâm
PL-46
Tạm bợ Tác đông tiêu cực 1 2 1
Tàn nhẫn Trân trọng Thân thiện hơn Thấm thía Thu hút 1 1 1 1 1 1 1 1 Sự chật chội, nhếch nhác và thiếu thốn trăm bề Tăm tối Vắt kiệt sức Lung linh hơn Ví dụ minh họa thẩm giá Phản ứng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể thẩm giá Phân cực Đối tượng được/ bị thẩm giá Phương tiện ngôn ngữ (+) Người viết (ẩn)
[T36]
Trân quý Chỉ số vượt khó tăng lên qua đại dịch, động lực được hình thành từ sự nhẫn nại chờ đợi và có những điều trước đây bình thường, giờ là giá trị được trân quý hơn. Ví như trân quý với những giáo viên đã trở lại với nghề, trân quý những phụ huynh vẫn tin tưởng trường, trân quý một ngày bình thường khi cánh cổng trường được mở ra để đón trẻ...
Chúng ta (+)
những giáo viên đã trở lại với nghề, những phụ huynh vẫn tin tưởng trường, một ngày bình thường, những điều bình thường trước đây các lực lượng tuyến đầu chống dịch [T11]
(+) Người viết (ẩn)
[T29] Chúng ta càng trân trọng (phản ứng) công lao của các lực lượng tuyến đầu, sự đóng góp và nghĩa cử của nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cho công tác phòng chống đại dịch COVID-19 bao nhiêu, chúng ta càng mong muốn sớm trừng trị tội phạm và xử lý sai phạm của những kẻ lợi dụng cơ hội "đục nước béo cò" bấy nhiêu. Những ngôi nhà, quán xá, hẻm phố như thân thiện hơn, vài mái chùa, ngôi giáo đường nhỏ nhắn ngả bóng xuống dòng sông bỗng lung linh hơn, những cây cầu bớt đi vẻ nặng nề mà trở nên duyên dáng hơn...
(-) Người viết (ẩn) Ít được quan tâm Các cảnh vật: ngôi nhà, quán xá, mái chùa, ngôi giáo đường, cây cầu Nơi ăn chốn ở của công nhân [T2]
Người xem (+) Rực rỡ
Sự kiện trình diễn khinh khí cầu [T23]
Trong thực tế, nơi ăn chốn ở của công nhân suốt hàng chục năm qua ít đƣợc quan tâm, trong khi họ chính là người tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, tạo ra hàng hóa xuất khẩu và đóng góp chính cho sự tăng trưởng của nhiều địa phương. Người xem vỡ òa, háo hức không chỉ bởi đây là sự kiện trình diễn khinh khí cầu lớn nhất từ trước đến nay tại TP, mà đã từ rất lâu rồi họ mới được tham gia một sự kiện cộng đồng rực rỡ đến như vậy.
2.3.1.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Phản ứng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Sự ủng hộ Tần suất (lần) 1 Lắng dịu Tần suất (lần) 1 Phương tiện ngôn ngữ Sự đồng thuận Tần suất (lần) 1
PL-47
1 4 2 Được đón chờ Cú sốc Quan tâm Thu hút 1 3 1
Không thu hút Thú vị Phản cảm 1 1 1 1 1 1 Ấn tượng Trải nghiệm tuyệt vời Thiếu tập trung Cái thần tình Kích thích 1 1 1 Chưa đủ sức hấp dẫn Không hứng thú Chú ý Ví dụ minh họa thẩm giá Phản ứng trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể thẩm giá Phân cực Đối tượng được/ bị thẩm giá Phương tiện ngôn ngữ Dữ liệu (+) Người viết (ẩn) được quan tâm [N7]
(+) Người viết (ẩn) Tốc độ tiêm vắc-xin Ấn tượng [N9]
(+) Hai nữ du khách Nga Chuyến du lịch ở Hà Nội Trải nghiệm tuyệt vời [N27]
Chúng tôi (+) Thú vị
[N32]
(+) Chương trình “Vua tiếng Việt” - một gameshow truyền hình Dư luận xã hội Người viết (ẩn) Thu hút sự quan tâm [N35]
Học sinh (-) Người viết (ẩn) [N31]
Dữ liệu này đƣợc quan tâm bởi khu vực dịch vụ gồm những ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp của đại dịch Covid-19 nhưng lại phục hồi sau cùng, khiến những người làm công ăn lương bị tác động nặng nề cả về việc làm và thu nhập, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống Việt Nam bắt đầu triển khai tiêm chủng vắc- xin từ đầu tháng 3/2021, có chậm một chút so với các nước, nhưng sau đó đã có bước bứt tốc khá ấn tƣợng. Nhận được điện thoại bị mất chỉ sau vài tiếng, hai nữ du khách Nga đã bày tỏ niềm vui và biết ơn với công an Hà Nội và chia sẻ với bạn bè về sự hỗ trợ này cũng như những trải nghiệm tuyệt vời khi đến Thủ đô Hà Nội. Trong những lần tham gia chương trình “Vua tiếng Việt” - một gameshow truyền hình rất thú vị về tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy phần nghe đọc rồi viết lại từ là câu đố không dễ với những thí sinh nhỏ tuổi, đặc biệt là thí sinh người nước ngoài. Trong đó, một số điểm mới trong dự thảo quy chế tuyển sinh thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội, đòi hỏi mỗi thí sinh, trường THPT, cơ sở đào tạo… cần chủ động thích ứng tốt với những điểm mới để tuyển sinh đạt hiệu quả. Tỷ lệ thiếu tập trung và không hứng thú học tập khá cao; tình trạng tự ti, mất phương hướng, bị rối loạn giấc ngủ, hay cáu gắt, lo lắng không lý do cũng xảy ra phổ biến đối với cả giáo viên và học sinh. Thiếu tập trung và không hứng thú 2.3.2 Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Tổng hợp
2.3.2.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Tổng hợp trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Khủng Bối cảnh đặc biệt Cú sốc Diễn biến phức tạp Tần suất (lần) 1 1 1 2 Bất ổn Căng thẳng Cảnh rối ren Diễn biến xấu Tần suất (lần) 2 4 1 1 Phương tiện ngôn ngữ Bất tương xứng Biến động mạnh Đại dịch Khó đoán Tần suất (lần) 1 1 21 1
PL-48
1 1 3 1 2 3 1 1 1 Khôn lường Nghịch cảnh Nước sôi lửa bỏng Sự lộn xộn Không đơn giản Nhạy cảm Phức tạp Sức nóng 1 1 1
Không ổn định Nhỏ nhắn Rắc rối Tiềm ẩn nhiều yếu tố bất thường Vẫn chưa ổn 1 1 Vấn đề phức tạp Ví dụ minh họa thẩm giá Tổng hợp trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể thẩm giá Phân cực Đối tượng được/ bị thẩm giá Phương tiện ngôn ngữ Dịch bệnh (-) Người viết (ẩn) Diễn biến phức tạp [T1]
Dịch bệnh (-) Người viết (ẩn) Khó đoán
[T14]
Bộ Y tế (-)
dịch COVID-19 ở Việt Nam [T16] Rồi trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp như hiện nay, việc các nhà trường thiếu nhân viên y tế liệu công tác phòng chống dịch trong môi trường học đường sẽ như thế nào? Có lẽ, dù khó đoán COVID-19 sẽ thế nào, nhưng thông điệp "tự tin mở cửa" của Thủ tướng Chính phủ, chí ít cũng giúp người lao động có thêm niềm vui tinh thần, hướng về một tương lai phía trước để có cơ hội kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Theo Bộ Y tế, dịch COVID-19 ở Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn đại dịch sang bệnh lưu hành vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất thƣờng.
Đại dịch, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất thường Bất ổn (-) Nguy cơ giá xăng dầu bất ổn còn đó. [T41]
(-) Không đơn giản Người viết (ẩn) Người viết (ẩn)
[T8]
Khi Hóc Môn, Cần Giờ, Củ Chi, Nhà Bè phát triển từ một huyện nông nghiệp lên một hình thái đô thị cao hơn thì đó không phải đơn giản là một cái tên gọi quận hay thành phố mà là sự thay đổi một cách toàn diện về tất cả các lĩnh vực, từ tổ chức không gian, cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho đến cơ cấu kinh tế của địa bàn.
Giá xăng dầu Việc Hóc Môn, Cần Giờ, Củ Chi, Nhà Bè phát triển từ một huyện nông nghiệp lên một hình thái đô thị cao hơn Dịch bệnh Chúng ta (-)
[T14]
Phức tạp Dịch bệnh còn phức tạp, buộc chúng ta phải đi trước một bước. Kinh tế toàn cầu có dấu hiệu hồi phục mạnh, nhất là ở những nước phát triển có độ phủ vắc xin cao, đang có nhu cầu rất mạnh về hàng hóa, du lịch...
2.3.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Tổng hợp trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Diễn biến khó lường Đại dịch 4 22 1
Diễn biến phức tạp Phức tạp Khó đoán định Diễn biến bất thường 10 8 1 1 Biến động Khó lường Cú sốc 3 1 1 Chưa thực sự bền vững Bất ổn Nguy hiểm Sự biến động 2 2 2
PL-49
Ví dụ minh họa thẩm giá Tổng hợp trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Chủ thể thẩm giá Phân cực Đối tượng được/ bị thẩm giá Phương tiện ngôn ngữ Dịch bệnh (-) Người viết (ẩn) Diễn biến khó lường [N1]
Trong thời gian tới, tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến khó lường, nhu cầu kinh phí cho phòng, chống dịch dự báo sẽ rất lớn trong khi nguồn huy động từ xã hội có dấu hiệu giảm dần. (-) Người viết (ẩn) Dịch Covid- 19 [N1]
(-) Người viết (ẩn) Dịch Covid- 19 Đại dịch Và do đó, việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 phải bảo đảm đúng điều kiện, đối tượng, tuyệt đối không được để xảy ra lãng phí, thất thoát, trục lợi. Thực tế nêu trên cho thấy, dịch bệnh tại Hà Nội đang diễn biến hết sức phức tạp và khó lƣờng. [N11]
(-) Người viết (ẩn) [N43] Chính trị, tình trạng buôn lậu xăng dầu Diễn biến phức tạp và khó lường Bất ổn, diễn biến phức tạp
(-) Người viết (ẩn) Giá xăng dầu thế giới Diễn biến bất thường [N45]
Cùng với đó, những bất ổn về chính trị trên thế giới thời gian qua cũng khiến giá bán xăng dầu trong nước liên tục tăng cao, kéo theo tình trạng buôn lậu xăng dầu, nhất là trên tuyến biển còn diễn biến phức tạp. Không thể phủ nhận mặt tích cực khi sử dụng quỹ đã giúp giá xăng dầu trong nước không bị tăng sốc trước diễn biến bất thƣờng của giá xăng dầu thế giới, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân (phản ứng). 2.3.3. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Giá trị
2.3.3.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Giá trị trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 8 7 Tần suất (lần) 2 1 Tần suất (lần) 2 1 A (x) khiến B y A x gây B y A góp phần y Phương tiện ngôn ngữ điều quan trọng "cứu cánh" vũ khí cần thiết 1 1 1
Không có gì quý bằng B 1 1 1
Phương tiện ngôn ngữ phần thưởng một nghề đặc biệt thông điệp quan trọng vũ khí chống trả virus điểm tựa những bài học lớn lao 1 1 1
"cơ hội vàng" những chỉ số đáng chú ý nhất kết quả đáng ghi nhận chiến lược 1 1 1
nhiều dấu tích lịch sử được có ích 1 4 2
trung tâm của mọi tranh luận đáng ghi nhận tạo ra giá trị 2 1 1
mang ý nghĩa rất lớn có tất cả đóng góp chính 1 1 1
đem lại mang tính chuyên môn sâu sắc thêm nhiều ý nghĩa 1 1 1 không thể cân đong bằng tiền bạc
PL-50
có giá trị 1 1 1
đem đến những hy vọng mới "cứu sống" 1 1 1
làm mới các sản phẩm du lịch mang nhiều ý nghĩa biểu tượng trở thành điểm nhấn 1 1 1
1 3 1 1 2 1 9 1 1 để lại nhiều bài học cần thiết hiệu quả hơn Tốt mang tính đúng đắn làm được việc hợp lý hữu ích rào cản 1 2 1
tác nhân làm ảnh hưởng đóng vai trò quan trọng có vai trò cầm cân nảy mực quan trọng xứng đáng thiết yếu giải pháp phòng chống dịch cực đoan bị sứt mẻ 1 1 2
2 1 1 đảo lộn ít có ý nghĩa thực tiễn bị xáo trộn bị khai tử 1 1 1
làm rầu" chẳng làm được gì 1 1 1
1 1 1 2 1 1 bị méo mó không ảnh hưởng lớn không đủ chuẩn yếu tố "giả", yếu tố hình thức, yếu tố lãng phí cản trở bị đình trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng đẩy thương nhân vào thế càng bán càng âm vốn bị đảo lộn không hiệu quả khó khăn 1 1 1
bị đe dọa không quan trọng không phải bao giờ cũng có ích quá hình thức 1 phập phù lợi bất cập hại 1 1 1 1 không hợp lý vô nghĩa Ví dụ minh họa thẩm giá Giá trị trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Nguồn Chủ thể thẩm giá Phân cực Đối tượng được/ bị thẩm giá
Phương tiện ngôn ngữ (+) mang ý Người viết (ẩn) công tác y tế học đường [T1] nghĩa rất lớn
Công nhân (+) Người viết (ẩn)
[T2]
Thật khó hiểu khi công tác y tế học đường mang ý nghĩa rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh nhưng lâu nay ít được các cấp quản lý quan tâm. Trong thực tế, nơi ăn chốn ở của công nhân suốt hàng chục năm qua ít được quan tâm, trong khi họ chính là người tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, tạo ra hàng hóa xuất khẩu và đóng góp chính cho sự tăng trưởng của nhiều địa phương.
tạo ra giá trị, tạo ra hàng hóa, đóng góp chính Nghề y (+) một Người viết (ẩn) [T3]
(+) Người viết (ẩn) BHXH (bảo hiểm xã hội) nghề đặc biệt "cứu cánh"
[T4]
Nên nhớ rằng nghề y là một nghề đặc biệt, trực tiếp liên quan đến sức khỏe và sinh mạng của con người. COVID-19, dù Nhà nước có những gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, qua đó gián tiếp hỗ trợ người lao động, nhưng không thể vơi đi những khó khăn tứ bề. Vì thế, họ phải tự xoay trở và "của để dành" từ đóng BHXH được nhắm tới như là "cứu cánh" trước mắt.
PL-51
Công nhân (+) Người viết (ẩn) có quyền và xứng đáng [T6]
(-)
lãnh đạo thành phố HCM (+)
[T8] Lên quận hay thành phố nâng cao chất lượng cuộc sống người dân không quan trọng thông điệp quan trọng
lên thẳng thành phố trực
phòng trọ (-) không đủ chuẩn Sở Xây dựng TP.HCM [T6]
Y tế (-) Người viết (ẩn) A x gây B y [T1]
(-) cản trở Người viết (ẩn) tuân thủ tiêu chí [T6]
Giá đất tăng (-) Người viết (ẩn) [T8] Ở nhà thuê, mong muốn thật khiêm nhường, bởi với thu nhập của họ, không thể đủ để mua nhà ở xã hội. Họ đang ở trọ, ở thuê nhưng đa số là tạm bợ trong khi họ có quyền và xứng đáng có được nơi ở thuê tươm tất. "Lên quận hay thành phố không quan trọng bằng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân". Đó là lời phát biểu của Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên tại buổi làm việc với Ban thường vụ Huyện ủy Hóc Môn sáng 8-6, cũng có thể hiểu đó là thông điệp quan trọng của lãnh đạo thành phố gửi đến lãnh đạo các huyện đang nôn nóng bỏ qua giai đoạn quá độ lên quận để tiến thuộc TP.HCM. Khảo sát của Sở Xây dựng TP.HCM cuối năm 2021 cho thấy với hơn 551.000 phòng trọ (hơn 1,41 triệu người ở), có đến hàng ngàn phòng trọ không đủ chuẩn về diện tích, kể cả nước sạch, điện đóm. Chưa kể trên thực tế đã có trường hợp học sinh mắc bệnh nhưng không được y tế học đường phát hiện và xử trí kịp thời, gây ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển về thể chất và tinh thần của học sinh. Đa phần chủ nhà mong muốn có nơi ở tốt hơn cho người thuê nhưng xem ra tuân thủ tiêu chí lại cản trở họ khi cải tạo, nâng cấp. Thành phố chưa thấy đâu mà cò đất kéo về, giá đất tăng chóng mặt làm cho đời sống bị xáo trộn, tình làng nghĩa xóm bị sứt mẻ. (+) Sức khỏe bị xáo trộn, bị sứt mẻ có tất cả Có sức khỏe là có tất cả. [T9]
(+) Người viết (ẩn) Người viết (ẩn) vũ khí cần thiết [T10] thuốc điều trị COVID- 19
(+) Người viết (ẩn) thuốc điều trị COVID- 19 "vũ khí" chống trả virus [T10]
(+) Người viết (ẩn) 5K và vắc xin quan trọng
[T10]
(-) Người viết (ẩn)
[T12] tranh luận về việc phân quyền trong chống dịch không phải bao giờ cũng có ích
Được như vậy là nhờ chúng ta đã có những vũ khí cần thiết để chống lại virus, đó là vắc xin, là 5K và điều mà mọi người mong chờ đó là thuốc điều trị… Một cơ chế "đặc biệt" (thông thường) để nhiều loại thuốc điều trị COVID-19 khác cũng sẽ có mặt tại Việt Nam giúp ngành y tế có thêm "vũ khí" chống trả virus, người bệnh có cơ hội chiến thắng COVID-19. Trách nhiệm của Bộ Y tế là sớm cho phép sản xuất và thuốc điều trị phải sớm đến các cơ sở y tế. Nhưng cũng đừng chủ quan, phòng chống (với 5K và vắc xin) vẫn là quan trọng bởi một khi đã dùng đến thuốc cũng là thêm việc cho hệ thống y tế. Giống với chuyện trứng có trước hay gà có trước, tranh luận về việc nên tập trung quyền lực nhiều hơn cho trung ương hay nên phân quyền nhiều hơn cho các địa phương thường rất khó khăn (và không phải bao giờ cũng có ích). Người viết sự tập quyền (+) cần thiết Trong bối cảnh như vậy, một sự tập quyền [T12]
PL-52
(ẩn) cho trung ương
(+) mang Người viết (ẩn) phòng chống dịch cho trung ương ở đây là rất cần thiết. Hợp lý nhất là Bộ Y tế trên cơ sở những số liệu và phân tích khách quan, cần đề ra các biện pháp phòng chống dịch được áp dụng chung cho những người dân về quê ăn Tết. Suy cho cùng phòng chống dịch là một công việc mang tính chuyên môn sâu sắc. [T12]
Người viết (ẩn) Đo đếm số ca lây nhiễm
(+) (-) [T15]
tính chuyên môn sâu sắc có ích thực ít có ý nghĩa thực tiễn.
Người viết (ẩn) số ca nhiễm mới (+)
[T16]
một trong những chỉ số đáng chú ý nhất
(+) Người viết (ẩn) số ca nhiễm mới [T16]
lòng hy sinh (+) Người viết (ẩn) góp phần nâng cao đáng ghi nhận [T19]
sự sống (+) Người viết (ẩn) [T19]
Người viết (ẩn) dịch COVID-19 (+) không thể cân đong bằng tiền bạc những bài học lớn lao. [T20]
Nếu số liệu cho thấy những ca này ít hơn so với rất nhiều loại bệnh khác (mà thực tế đối với hầu hết các địa phương thì đều có vẻ đang là như vậy) thì cũng cần hành xử cho phù hợp. Đo đếm số ca lây nhiễm có thể vẫn có ích cho việc nghiên cứu và hoạch định chiến lược, nhưng quả thực ít có ý nghĩa thực tiễn. Trên thực tế, số ca nhiễm mới là một trong những chỉ số đáng chú ý nhất khi đánh giá cấp độ dịch, bên cạnh số ca chuyển nặng, tử vong và khả năng đáp ứng của cơ sở y tế (với chỉ số tiêm vắc xin thì hiện nay gần 100% người Việt Nam từ 12 tuổi trở lên đã được tiêm chủng 2 mũi). Và cũng chính số ca nhiễm mới lại góp phần nâng cao hành vi phòng chống dịch hơn là lời kêu gọi phải tuân thủ 5K. Bức tranh đẹp về lòng hy sinh được vẽ nên bằng những hình ảnh đáng ghi nhận từ cuộc giải cứu bỗng bị vài vết ố do một vài cán bộ đảm nhiệm trọng trách liên quan gây ra. Cũng chính vì sự sống không thể cân đong bằng tiền bạc nên việc những công dân Việt Nam ở nước ngoài có tâm lý chấp nhận, dù có thể bất hợp lý miễn sao được về quê nhà, nơi được coi là an toàn nhất. Năm ngoái vào tầm này, nhiều người không thể ngờ rằng phải ở suốt trong nhà hàng tháng trời. Vậy rồi thời gian cứ trôi, nhưng dường như con người đã được trải nghiệm và học thêm những bài học lớn lao.
(+) Người viết (ẩn) [T20] gia đình toàn thời gian
Chúng ta được (+) [T20] điểm tựa Chính “gia đình toàn thời gian” đó, trong ròng rã 2 năm đại dịch đã thành điểm tựa để chúng ta thêm nghị lực, thêm niềm lạc quan đi tiếp. Chúng ta được ở gần người thân, đƣợc làm tròn bổn phận với mái ấm qua ti tỉ việc trước đây chúng ta chểnh mảng. Chúng ta gia đình toàn thời gian Đại dịch (+) [T20]
Chúng ta (+) giữ được nếp gia đình [T20]
đem lại Đại dịch thật tàn nhẫn nhưng cũng đem lại cho chúng ta nhiều nếp sống tốt về gia đình, người thân. Cuộc sống sau đại dịch bộn bề khó khăn, nếu chúng ta vẫn giữ được nếp gia đình, chắn chắn cuộc sống thêm nhiều ý nghĩa không chỉ cho mỗi người mà cả người thân và xã hội. cuộc sống thêm nhiều ý nghĩa
PL-53
(-) Người viết (ẩn) dịch COVID-19 làm xáo trộn
[T9]
(-) Người viết (ẩn) không hợp lý [T12] Một ngày nào đó, chị tiểu thương sẽ thành công với thương mại điện tử. Chính quyền và doanh nghiệp sẽ gặt hái được thành quả nhờ biết làm chủ công nghệ và chuyển đổi số, tận dụng được cơ hội COVID-19 làm xáo trộn bàn cờ kinh tế thế giới để vươn lên, đi tắt đón đầu, "một bước lên hiện đại", rút ngắn khoảng cách, kể cả ghi danh với thế giới. Tuy nhiên, khi tỉ lệ tiêm chủng đã rất cao và khá đồng đều trong cả nước như hiện nay, sự "trăm hoa đua nở" về các giải pháp phòng chống dịch không hợp lý.
(-) Người viết (ẩn) gây khó khăn và hạn chế [T12]
(-) sự "trăm hoa đua nở" về các giải pháp phòng chống dịch sự "trăm hoa đua nở" về các giải pháp phòng chống dịch dịch COVID-19 Người viết (ẩn) Cách làm này không chỉ gây khó khăn và hạn chế không cần thiết quyền về quê ăn Tết của người dân mà còn làm phát sinh vô tận những chi phí cho cả chính quyền và người dân. Nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân đã bị đình trệ và ảnh hƣởng nghiêm trọng do dịch. [T18]
(+) bị đình trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng hiệu quả hơn Người viết (ẩn) cách thức chống dịch [T18] Đến nay COVID-19 đã thay đổi, cách thức chống dịch và hiệu quả phòng chống COVID- 19 cũng đã thay đổi, đã hiệu quả hơn.
2.3.3.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thẩm giá Giá trị trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) 6 Tần suất (lần) 4 Tần suất (lần) 1 A x gây y yếu tố quyết định A giúp B y A x khiến (cho) B y 7 2 4
Phương tiện ngôn ngữ A góp phần y A làm B y (hoặc y B) căn cứ quan trọng việc cần thiết 2 2 2
1 1 1 giải pháp hết sức cần thiết nhiệm vụ cấp bách mắt xích quan trọng cách tốt trọng tâm 1 1 1
1 1 1 1 1 1 thời cơ vàng điều kiện đầu tiên mũi nhọn trụ cột 1 1 1
cơ sở quan trọng giải pháp hữu hiệu mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện lý tưởng phù hợp 1 3 2
được đánh giá… trụ cột chính động lực quan trọng trọng điểm cú huých thúc đẩy mặt hàng chiến lược đóng vai trò quan trọng đáng lưu tâm 2 1 1
mở ra cơ hội có tác dụng 1 1 1
có vai trò quan trọng quan trọng 1 1 11
cần thiết tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội đóng vai trò quyết định có ý nghĩa hết sức cấp thiết thích hợp 8 1 1
không thể thiếu rào cản những thách thức thiếu tính chuyên 1 1 1 1 chính đáng và cấp thiết sự tác động tiêu cực ảnh hưởng 1 7
PL-54
4 1 2 1 1 1 tạo/ gây áp lực bộc lộ những hạn chế thiếu thỏa đáng dẫn đến sự sụt giảm chưa bảo đảm cản trở 1 1 1
1 1 1 chưa được đặt xứng tầm gây ảnh hưởng 1 1 1
1 tác động xấu không rõ nguồn gốc xuất xứ nghiệp không phù hợp , bất cập cách ly “cực đoan” gây sức ép chịu tác động tiêu cực nhạy cảm Ví dụ minh họa thẩm giá Giá trị trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Minh họa Nguồn Phân cực Chủ thể thẩm giá Đối tượng được/ bị thẩm giá Phương tiện ngôn ngữ (+) Người viết (ẩn) người cao tuổi quan trọng [N2]
(+) Người viết (ẩn) A góp phần y
[N2] Việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho người cao tuổi
(+) Người viết (ẩn)
được xem là giải pháp
nghị quyết về việc nâng số giờ làm thêm của người lao động
[N3]
(+) Người viết (ẩn) điều chỉnh giờ làm thêm [N3] giải pháp hết sức cần thiết
(+) Người viết (ẩn) Làm thêm giờ [N3]
(+) [N4] Người viết (ẩn) việc tăng giờ làm Tuy nhiên, người cao tuổi vẫn là nguồn lực rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho người cao tuổi, nhất là khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số và tác động của đại dịch Covid-19 hiện nay được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, vừa bảo đảm quyền làm việc, đóng góp cho xã hội của người cao tuổi, vừa tận dụng được kinh nghiệm, chất xám của lực lượng lao động đặc biệt này, góp phần bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội của đất nước. Mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp bàn, nhất trí thông qua nghị quyết về việc nâng số giờ làm thêm của người lao động trong một tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 60 giờ. Tương ứng, các doanh nghiệp được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong một năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%). Quy định mới này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/4. Riêng quy định về số giờ làm thêm trong 1 năm đã có hiệu lực thi hành từ ngày đầu năm nay. Đây đƣợc xem là giải pháp nhằm thực hiện chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục sản xuất, khắc phục những tổn thất do dịch Covid-19 gây ra trong hơn 2 năm qua. Chính vì vậy, điều chỉnh thời giờ làm thêm là giải pháp hết sức cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm bù đắp năng suất, sản lượng thiếu hụt trong thời gian dịch bệnh, kịp tiến độ đơn hàng, nhất là đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. cách tốt Về phía người lao động, làm thêm giờ cũng là cách tốt để cải thiện thu nhập, nhất là đối với những lao động đang gặp khó khăn (hạnh phúc) do nghỉ việc thời gian dài vì dịch bệnh. Việc tăng giờ làm thêm giúp công nhân lao động nâng cao thu nhập, giảm áp lực kinh A giúp B y
PL-55
(+) phù hợp doanh nghiệp thêm tăng thời giờ làm thêm
[N4]
(+) Người viết (ẩn) [N4] cần thiết và quan trọng tế, có điều kiện chăm sóc con cái tốt hơn. Phía doanh nghiệp cho rằng, vào thời điểm hiện tại khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt lao động do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng thời giờ làm thêm là phù hợp, giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp này, vai trò giám sát của tổ chức công đoàn là cần thiết và quan trọng.
(+) Người viết (ẩn) vai trò giám sát của tổ chức công đoàn Tiền lương tối thiểu [N5] căn cứ quan trọng
(+) Người viết (ẩn) việc cần thiết Tiền lương tối thiểu là mức sàn để bảo vệ người lao động yếu thế, đồng thời là một trong những căn cứ quan trọng để thỏa thuận tiền lương. Do đó, việc xem xét, điều chỉnh tăng lương tối thiểu là việc cần thiết. [N5]
(+) Người viết (ẩn) việc xem xét, điều chỉnh tăng lương tối thiểu Việc nhanh chóng triển khai hỗ trợ [N6]
(+) Người viết (ẩn) nhiệm vụ cấp bách
[N2] Việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho người cao tuổi
(+) Người viết (ẩn) Quyết định này tốt, kịp thời [N6]
(-) Người viết (ẩn) Dữ liệu này được phục hồi sau cùng A x khiến B y [N6]
Khu vực (+) Người viết (ẩn)
[N7]
(-) Người viết (ẩn)
[N8] cần thiết Việc nhanh chóng triển khai hỗ trợ là cần thiết, tuy nhiên các cơ quan chức năng cũng cần giám sát chặt chẽ, nhằm hỗ trợ đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách. Việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho người cao tuổi, nhất là khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số và tác động của đại dịch Covid-19 hiện nay được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, vừa bảo đảm quyền làm việc, đóng góp cho xã hội của người cao tuổi, vừa tận dụng được kinh nghiệm, chất xám của lực lượng lao động đặc biệt này, góp phần bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội của đất nước. Quyết định này được đánh giá là chính sách rất tốt, kịp thời, thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ trong việc hỗ trợ người lao động. Dữ liệu này được quan tâm bởi khu vực dịch vụ gồm những ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp của đại dịch Covid-19 nhưng lại phục hồi sau cùng, khiến những người làm công ăn lương bị tác động nặng nề cả về việc làm và thu nhập, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống. Hơn nữa, đây cũng là khu vực tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội nên khi tình hình lao động việc làm của khu vực dịch vụ phục hồi sẽ là mảnh ghép cuối cùng phản ánh sự hồi sinh trở lại của toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, Luật nói chung và công tác khám bệnh, chữa bệnh nói riêng đang bộc lộ những hạn chế, bất cập và có những quy định cần thiết phải sửa đổi, bổ sung kịp thời. tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội bộc lộ những hạn chế, bất cập
Luật nói chung và công tác khám bệnh, chữa bệnh nói riêng
PL-56
3. Phụ lục về phạm trù Thang độ trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận
3.1. Tiêu điểm
3.1.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện Tiêu điểm trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ
Sắc nét Phương tiện ngôn ngữ Mờ nhạt Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 3 3 1 Không phải đơn giản Không hẳn Chưa thực sự Không sai Tần suất (lần) 1 1 1 1 Chính Thật sự Thật
Ví dụ minh họa Tiêu điểm trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Tiêu điểm Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Sắc nét Thực sự [T26]
Sắc nét Chính [T20]
Sắc nét Thật [T40]
Mờ nhạt Không hẳn [T21]
Mờ nhạt Chưa thật sự
[T29]
Động thái này mang nhiều ý nghĩa biểu tượng hơn là một cú hích thực sự đối với ngành du lịch trong nước. Chính “gia đình toàn thời gian” đó, trong ròng rã 2 năm đại dịch đã thành điểm tựa để chúng ta thêm nghị lực, thêm niềm lạc quan đi tiếp. Thực tế các đoàn kiểm tra cũng đã cho thấy thực trạng đó, nhiều cây xăng rỗng kho thật trong khi khó lấy được hàng từ các doanh nghiệp đầu mối. Theo nghiên cứu của GlobalWebIndex, cùng với Worldwide Partners, Inc., khách du lịch hậu Covid-19 sẽ không hẳn mặn mà với du lịch tour tuyến. Để nhắc nhở về lịch sử đất nước, lịch sử thành phố, gần một số cây cầu đã có những bức tranh về một số sự kiện, nhân vật lịch sử, rất hữu ích cho tour du lịch dành cho học sinh, nhưng việc bố trí các bức tranh này chƣa thật sự hợp lý, làm giảm hiệu quả của công trình.
3.1.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện Tiêu điểm trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Nhân dân
Sắc nét Phương tiện ngôn ngữ Mờ nhạt Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 Chưa thực sự Tần suất (lần) 2 Thật sự Ví dụ minh họa Tiêu điểm trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Tiêu điểm Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Sắc nét Thực sự
[N6]
Mờ nhạt Chưa thật sự
[N7]
Đời sống công nhân, lao động đang thật sự khó khăn, do đó, việc triển khai cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương, bộ, ban, ngành để khi có vấn đề nảy sinh, lập tức cùng tháo gỡ, giải quyết để chính sách nhanh chóng đến với người được hưởng thụ. Sự phục hồi của thị trường lao động việc làm chƣa thật sự bền vững, tổn thất về việc làm và thu nhập của người lao động sẽ khiến chi tiêu thắt chặt lại, dẫn đến sự sụt giảm doanh số hàng hóa và dịch vụ, ảnh hưởng đến khả năng duy trì kinh doanh liên tục của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế...
PL-57
3.2. Khối lượng
3.2.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Khối lượng trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 10 1 2 1 2 8 Tần suất (lần) 2 21 2 1 1 6 Tần suất (lần) 2 2 2 2 1 Chỉ Chỉ có thế Hàng ngàn Khủng Lớn lao Quá To Chồng chất Đến Không nhỏ Phần lớn Thật khiêm nhường 4 1 Chí ít Đại Không cao Làn sóng Ngất ngưởng (Rất) lớn Vô cùng mỏng manh Ví dụ minh họa Khối lượng trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Thang độ Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp rất lớn [T1]
Nâng cấp "khủng"
[T2]
Nâng cấp Làn sóng
[T3]
Nâng cấp Quá [T6]
Nâng cấp hàng ngàn
[T6]
Giảm cấp Chỉ có thể
[T6]
Nâng cấp Đại
[T7]
Nâng cấp chồng chất [T7]
Nâng cấp vô cùng mỏng manh
[T13]
Thật khó hiểu khi công tác y tế học đường mang ý nghĩa rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh nhưng lâu nay ít được các cấp quản lý quan tâm Quốc hội sẽ bấm nút thông qua gói hỗ trợ "khủng" vào ngày mai. Điều đặc biệt, lần đầu tiên có khoản tiền lên đến 6.600 tỉ đồng sẻ chia gánh nặng thuê nhà trọ cho công nhân trong 3 tháng với mục đích kéo người lao động trở lại nhà máy, giữ chân công nhân, tránh bị cuốn theo làn sóng hồi hương. Không nhiều người bất ngờ trước thông tin 400 nhân viên y tế ở TP.HCM xin nghỉ việc trong vòng 3 tháng đầu năm 2022. Có chăng từ câu chuyện này sẽ là giọt nước tràn ly báo động về làn sóng nghỉ việc, vốn âm ỉ nhiều năm chưa có lời giải. Nhà trọ "sang" quá, giá thuê cao lại nằm ngoài khả năng của người đi thuê. Do vậy, phần lớn nhà trọ đang hoạt động không thể đáp ứng tiêu chí này. Khảo sát của Sở Xây dựng TP.HCM cuối năm 2021 cho thấy với hơn 551.000 phòng trọ (hơn 1,41 triệu người ở), có đến hàng ngàn phòng trọ không đủ chuẩn về diện tích, kể cả nước sạch, điện đóm. TP.HCM đang đầu tư xây nhà ở xã hội để bán cho người lao động, đó là một nỗ lực. Nhưng chỉ có thế, khó lòng nâng chất lượng nhà ở cho người đi thuê, mà số này cũng lên đến hàng triệu người. Người lao động, người nghèo vừa khó khăn, chật vật trải qua đại dịch COVID-19 kéo dài, nay phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề từ giá xăng dầu tăng cao kỷ lục, kéo theo giá cả những mặt hàng khác ồ ạt tăng theo. Nhiều người lao động trở lại đô thị làm việc với hai bàn tay trắng lại chồng chất khó khăn. Lịch sử đất nước này mãi mãi không quên ơn họ. Họ đã lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ. Họ để lại sau lưng gia đình, cha mẹ, con cái và cả tình yêu đôi lứa nhiều tháng trời không một chút toan tính, so đo.
PL-58
Giảm cấp Chí ít
[T14]
Nâng cấp lớn lao. [T20]
Nâng cấp Rất lớn
[T22]
Nâng cấp lên đến [T22]
Nâng cấp cao ngất ngưởng [T22]
Giảm cấp không nhỏ [T26] Có lẽ, dù khó đoán COVID-19 sẽ thế nào, nhưng thông điệp "tự tin mở cửa" của Thủ tướng Chính phủ, chí ít cũng giúp người lao động có thêm niềm vui tinh thần, hướng về một tương lai phía trước để có cơ hội kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Vậy rồi thời gian cứ trôi, nhưng dường như con người đã được trải nghiệm và học thêm những bài học lớn lao. Kỳ nghỉ tết dương lịch 2022 vừa qua, nhiều địa phương, trong đó cóTP Vũng Tàu, đã đón một lượng khách rất lớn. Đây là tín hiệu đáng mừng cho những cơ sở kinh doanh du lịch và dĩ nhiên cũng mừng cho những nhà xe chạy tuyến Vũng Tàu, mừng cho người nông dân trồng rau, ngư dân đánh cá… Một số vựa hải sản còn lợi dụng đẩy giá bán ghẹ lên đến 700.000 đồng/kg, trong khi ngày thường, loại ghẹ tầm trung nàu giá chỉ một nửa. Nhiều năm trước, Vũng Tàu là thành phố bị mang tiếng bởi nạn “chặt chém” du khách, lấy giá cao ngất ngƣởng, chính quyền và ngành chức năng đã vào cuộc quyết liệt chấn chỉnh tình trạng này. Đây sẽ là rào cản không nhỏ, bởi sự e ngại sẽ trở thành tác nhân làm ảnh hưởng đến vấn đề mở cửa du lịch quốc tế.
3.2.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Khối lượng trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần)
Tần suất (lần) 1 1 1 2 3 4 Cao Chưa cao Đến mức Khá Vô cùng Rất Tần suất (lần) 2 1 1 4 1 5 Chỉ Đại Giảm Không bằng Nhiều Thấp 7 22 3 1 2 3 “đỉnh” nhất Chồng chất Đầy đủ Hơn Lớn Quá
Ví dụ minh họa Khối lượng trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Thang độ Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp rất lớn [T1]
Giảm cấp giảm
[N1]
Nâng cấp Đại
[N1]
Nâng cấp tăng đáng kể
[N7]
Nâng cấp cao hơn [N8] Thật khó hiểu khi công tác y tế học đường mang ý nghĩa rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh nhưng lâu nay ít được các cấp quản lý quan tâm Trong thời gian tới, tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến khó lường, nhu cầu kinh phí cho phòng, chống dịch dự báo sẽ rất lớn trong khi nguồn huy động từ xã hội có dấu hiệu giảm dần. Thời gian tới, công tác kiểm tra, giám sát cần tiếp tục được thực hiện rộng khắp và sâu sát hơn nữa, trong đó cần chú trọng, quan tâm những lĩnh vực, đối tượng đang tiếp tục gặp nhiều khó khăn do tác động tiêu cực từ đại dịch. Ðáng lưu ý, lao động trong ngành dịch vụ tăng đáng kể nhờ sự hồi sinh mạnh mẽ của ngành du lịch, lưu trú, ăn uống, hàng không nhờ chính sách mở cửa hoàn toàn sau hai năm dịch Covid-19 bùng phát. Luật Khám bệnh, chữa bệnh hiện hành đã góp phần nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, khả năng tiếp cận với dịch vụ và chuẩn hóa chất lượng của hoạt động khám bệnh, chữa
PL-59
Giảm cấp Chỉ [N9]
Nâng cấp chồng chất [N10]
Nâng cấp vô cùng lớn [N10]
Nâng cấp khá cao
[N12]
Nâng cấp nhiều
[N17]
Nâng cấp liên tục tăng cao [N41]
Nâng cấp nặng hơn
[N36]
bệnh, góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới. Trong tuần đầu tháng 12, cả nước chỉ tiêm được 4,8 triệu liều vắc-xin, giảm tới 5,7 triệu liều so với tuần trước đó. Những khó khăn chồng chất kéo dài khiến nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế đã chọn con đường khác, không tiếp tục với nghề. Có được điều này, không thể không kể đến những đóng góp vô cùng lớn, thậm chí cả tính mạng của nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế. Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương tổ chức ngày 5/1, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, biến thể Omicron có tốc độ lây nhiễm cao gấp bảy lần trong nhóm chưa tiêm chủng và gấp ba lần với nhóm đã tiêm chủng đầy đủ... nguy cơ tăng nhanh số mắc, gây quá tải hệ thống y tế là khá cao. Mặc dù nhiều trường hợp sai phạm về phòng, chống dịch bệnh đã được cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nghiêm, tuy nhiên tình trạng chủ quan, lơ là, đối phó trước dịch bệnh cũng như việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh vẫn xảy ra dưới nhiều hình thức phức tạp, khó lường. Theo phản ánh của các cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bên cạnh khó khăn về nguồn cung, hiện các cửa hàng đang “đứng ngồi không yên” do giá xăng dầu liên tục tăng cao. Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết liệt chỉ đạo, ban hành văn bản yêu cầu cơ sở giáo dục từng bước khắc phục bệnh thành tích; giảm các cuộc thi cho giáo viên và học sinh; phát động cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”... nhưng trên thực tế, “bệnh thành tích” vẫn tồn tại, có nơi có lúc còn nặng hơn.
3.3. Thuộc tính
3.3.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Thuộc tính trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 1 2 5 2 1 1 4 1 16 Tần suất (lần) 3 2 1 1 1 1 1 1 2 Tần suất (lần) 1 3 2 1 1 2 1 5 5 Tăm tối, tạm bợ Căng thẳng Đặc biệt Duyên dáng Không nên Nặng nề Nhiều ý nghĩa Phức tạp Quan trọng Sâu sắc Cần thiết Cực kỳ Đầy Khôn lường Mới mẻ Nhạy cảm Nhỏ nhắn Phập phù Rực rỡ Tệ hại 1 1 1
Bớt nặng nề Chỉ Quá Khá Không hay Nghịch cảnh Cần thiết Nực cười Rất Sự chật chội, nhếch nhác và thiếu thốn Thiết yếu Vô cùng 3 2 Tràn đầy Biện pháp so sánh 1 9 1 4 Thật tàn nhẫn Trân quý
PL-60
Ví dụ minh họa Thuộc tính trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Thang độ Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp Cần thiết
[T21]
Có lẽ cho đến giờ này, Việt Nam là quốc gia cuối cùng còn đóng cửa với các chuyến bay thương mại quốc tế. Sự dè dặt, thận trọng là cần thiết, song thận trọng quá đang khiến chúng ta mất nhiều cơ hội hồi phục kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực du lịch. Nâng cấp [T20]
Nâng cấp Quan trọng bậc nhất [T24]
Quá Nâng cấp [T35]
Nâng cấp Nhiều ý nghĩa nhất [T36]
Khá Giảm cấp
[T26]
Nặng nề Nâng cấp [T42]
Rất Nâng cấp
[T29]
Cực kỳ Nâng cấp [T44] Thật tàn nhẫn Đại dịch thật tàn nhẫn nhưng cũng đem lại cho chúng ta nhiều nếp sống tốt về gia đình, người thân. Đối với du lịch quốc tế, visa là chính sách có giá trị và công cụ cạnh tranh thu hút du lịch quốc tế quan trọng bậc nhất. Nhiều giáo viên, phụ huynh, học sinh đã phát biểu trên báo chí và các diễn đàn rằng việc dạy và học hiện nay quá hình thức - thậm chí thiên về "chức năng trông trẻ". Có lẽ với những người phải nỗ lực vượt qua đại dịch, bao gồm cả những đứa trẻ thì phần thưởng nhiều ý nghĩa nhất là một ngày bình thường, một ngày trẻ được đến trường. Đây là đề xuất hợp lý trong bối cảnh số lượng nhiễm virus trên thực tế cao gấp bội so với con số thống kê chính thức, tỉ lệ nặng và tử vong giảm dần và trên thực tế ở một mức độ rất thấp nếu so với tỉ lệ mắc dương tính thật. Nhưng chính bộ lại giữ quan điểm khá cứng nhắc với người nhập cảnh. Các cơ quan chức năng đang nỗ lực kiểm soát CPI ở mức khoảng 4% như Quốc hội đã đề ra. Đó là một nhiệm vụ nặng nề. Để nhắc nhở về lịch sử đất nước, lịch sử thành phố, gần một số cây cầu đã có những bức tranh về một số sự kiện, nhân vật lịch sử, rất hữu ích cho tour du lịch dành cho học sinh, nhưng việc bố trí các bức tranh này chưa thật sự hợp lý, làm giảm hiệu quả của công trình. Nhưng giá cả đang ở thời điểm cực kỳ nhạy cảm, không chỉ với xăng dầu mà còn nhiều mặt hàng khác.
3.3.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Thuộc tính trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 3 5 1 3 1 Tần suất (lần) 1 5 1 2 3 Tần suất (lần) 1 2 1 1 2 Phương tiện ngôn ngữ Biến động lớn Quan trọng Chính đáng Hết Khó lường Lý tưởng Cực đoan Ấn tượng Cấp bách Rắc rối Rõ Phức tạp 5 1 18
Bất chấp Cần thiết Cấp thiết Hết sức Khá Không chỉ…mà còn Nhất Đáng Thú vị Không ổn định 7 1 1 1 Khó đoán Thật 1 2 2 11 2 1 Nguy hiểm Rất Thiết yếu Bất thường
PL-61
Ví dụ minh họa Thuộc tính trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Thang độ Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp Quan trọng nhất [N1]
Nâng cấp Rất quan trọng [N2]
Nâng cấp Hết sức cần thiết [N3]
Nâng cấp Cấp bách
[N2]
Nâng cấp Cần thiết
[N6]
Giảm cấp Khá [N9]
Nâng cấp Lý tưởng
[N25]
Nâng cấp Nhạy cảm nhất [N44] Ðây là điều kiện quan trọng nhất để các chính sách phát huy hiệu quả đối với cuộc sống của người dân và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, người cao tuổi vẫn là nguồn lực rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Chính vì vậy, điều chỉnh thời giờ làm thêm là giải pháp hết sức cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm bù đắp năng suất, sản lượng thiếu hụt trong thời gian dịch bệnh, kịp tiến độ đơn hàng, nhất là đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho người cao tuổi, nhất là khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số và tác động của đại dịch Covid-19 hiện nay được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, vừa bảo đảm quyền làm việc, đóng góp cho xã hội của người cao tuổi, vừa tận dụng được kinh nghiệm, chất xám của lực lượng lao động đặc biệt này, góp phần bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội của đất nước. Việc nhanh chóng triển khai hỗ trợ là cần thiết, tuy nhiên các cơ quan chức năng cũng cần giám sát chặt chẽ, nhằm hỗ trợ đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách. Điều đó cho thấy chiến lược vắc-xin của Việt Nam khá linh hoạt và phù hợp diễn biến dịch... Khi quá trình khôi phục hoạt động du lịch mới bắt đầu, các doanh nghiệp còn tương đối “rảnh rỗi”. Ðây là khoảng thời gian lý tƣởng để tổ chức các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao chất lượng nhân lực. Hoạt động vận tải đường bộ là lĩnh vực nhạy cảm nhất với biến động giá nhiên liệu, đối với mức tăng giá xăng, dầu hiện nay, chi phí nhiên liệu chiếm từ 40 đến 45%. 3.4. Quá trình
3.4.1. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Quá trình trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Tuổi trẻ
Phương tiện ngôn ngữ Phương tiện ngôn ngữ
Tần suất (lần) 2 1 1 6 3 Tần suất (lần) 1 1 1 3 1 Tần suất (lần) 2 1 1 1 1 Ấn tượng Bất bình, phẫn nộ Cảnh bi thảm Càng Càng … càng Chờ đợi/ chờ đợi quá lâu Phương tiện ngôn ngữ Băn khoăn, lo lắng Bi đát Cần ghi nhận Biến động mạnh Cay đắng Chuỗi dài 2 1 1
1 10 1 1 1 1 1 1 1 1 3 1 Cơ cực Đáng Đau đớn Âu lo Đời đời bất diệt Bạc đầu Bất chấp Bức xúc Căng thẳng Cảnh rối ren Chưa một cách đầy đủ Công phu Đánh đổi Đau xót Đè nặng Đôi khi… 1 1 1
Được … được Gập ghềnh 1 1 Đặc biệt lo lắng Đảo lộn Đầy Đè oằn Dù x nhưng B vẫn y Gian khó 1
PL-62
3 7 2 Lo lắng Khá Hơn Khát khao 1 1 1
5 1 5 1 1 1 2 1 2 Hoang mang Hy sinh, thương tật và thiệt thòi Khó khăn Khối ung nhọt Không chỉ … mà còn Không thể không Chật vật Khôn tả Không lớn Lăn xả 1 1 1
3 2 3 Lớn Mạnh/ mạnh mẽ Khó quên Không ai… Không mặn mà Lo ngại, băn khoăn, e dè Mãi mãi Mong chờ 5 1 1
2 4 1 1 4 1 Mong mỏi Nặng nề Nghiêm trọng Mừng/ mừng rỡ Nghẹt thở Nhất 1 1 2
Nhiều Luôn Mất mát, tổn thương Sáng tạo Nặng trĩu Nhanh chóng, linh hoạt Chồng chất 1 1 1
Quá Ráo riết Sao bằng Tăng chóng mặt Thật Trông đợi Vất vả Vùng vằng 8 1 1 1 2 2 1 1 1 1 1 2 1 3 1 1 Nhọc nhằn, chật hẹp, bức bí Cứng nhắc Rất Mới mẻ Thấm đẫm Tốt hơn Ưa thích Vỡ òa, háo hức Mãnh liệt 1 8 1 1 1 1 1 1 Oằn mình Quyết liệt Thích thú Tạm Thảm họa Trân quý Vắt kiệt Vui mừng ra mặt Ví dụ minh họa Quá trình trong diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
Minh họa Thang độ Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp Ấn tượng [T28]
Nâng cấp
[T11] Khối ung nhọt, bất bình, phẫn nộ
Nâng cấp Cảnh bi thảm, đau đớn [T25]
Nâng cấp Càng [T39] Và dịp lễ giỗ Tổ vừa qua với những kết quả hồi phục ấn tƣợng của du lịch đã làm chúng tôi thêm tin du lịch “hồi sinh”. Có thể nói, việc phát hiện "khối ung nhọt" mang tên Việt Á với hành vi làm giá, ăn chia trong đấu thầu, phân phối bộ kit xét nghiệm COVID đã khiến dư luận hết sức bất bình, phẫn nộ. Các nạn nhân may mắn thoát chết đau đớn nói rằng họ không ngờ chuyến du lịch đầu tiên sau hai năm dịch giã lại rơi vào cảnh bi thảm như thế. Còn người dân cũng phải chấp nhận túi tiền vốn eo hẹp do dịch bệnh càng hao hụt thêm. Nâng cấp Càng … càng Giá thép, ximăng trong nửa đầu tháng đã 3 lần tăng, nhà [T42]
Nâng cấp Chờ đợi quá lâu [T35]
Nâng cấp Cơ cực
[T5]
Nâng cấp Đáng lo
[T1]
thầu xây dựng càng làm càng lỗ. Chúng đã chờ đợi quá lâu cái ngày được gặp mặt bạn bè, thầy cô để không chỉ học kiến thức, mà còn được tung tăng chơi đùa, giao lưu và tương tác với nhau. Nếu thử đặt mình vào vị thế của người làm thuê, nhất là công nhân trong các nhà xưởng, bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy cuộc sống của họ quá khó khăn bởi lương thấp, vật giá leo thang trong khi dịch bệnh hơn hai năm qua càng đẩy miếng cơm manh áo của họ thêm cơ cực. Lại thêm một việc đáng lo: mạng lưới nhân viên y tế chưa đầy đủ và đạt chuẩn, cơ sở vật chất và kinh phí dành cho y tế học đường vẫn còn thiếu thốn có dẫn đến tình trạng gia tăng một số bệnh thường gặp ở lứa tuổi học đường hay không? Chưa kể trên thực tế đã có trường hợp học sinh mắc
PL-63
Nâng cấp Đầy âu lo
[T32]
Nâng cấp Đời đời bất diệt
[T13]
bệnh nhưng không được y tế học đường phát hiện và xử trí kịp thời, gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về thể chất và tinh thần của học sinh Đó là chưa kể băn khoăn, dự cảm đầy âu lo của nhiều người: Liệu cổng trường có được mở lại bền vững không, hay mở xong rồi đóng lại vì tình hình dịch COVID-19 vẫn chưa biết sẽ như thế nào? Tôi lại phải nhại lại một câu nói nổi tiếng khác trên tượng đài ngọn lửa vĩnh cửu ở quảng trường Đỏ rằng: rồi đất nước này sẽ (hay ngay bây giờ) không còn biết đến tên các bác sĩ, y tá, điều dưỡng, lao công ở các bệnh viện dã chiến, bệnh viện X, bệnh viện Y nữa... nhưng chiến công chống COVID-19 của họ đời đời bất diệt. Nâng cấp
[T20]
Nâng cấp Hoang mang, lo lắng [T7]
Nâng cấp [T13]
Nâng cấp Hy sinh, thương tật và thiệt thòi Khó khăn, chật vật [T7]
Nâng cấp Không chỉ … mà còn [T12]
Nâng cấp Mãnh liệt [T23]
Nâng cấp Mong mỏi [T33]
Nặng nề Nâng cấp [T43] Được … được Chính “gia đình toàn thời gian” đó, trong ròng rã 2 năm đại dịch đã thành điểm tựa để chúng ta thêm nghị lực, thêm niềm lạc quan đi tiếp. Chúng ta đƣợc ở gần người thân, đƣợc làm tròn bổn phận với mái ấm qua ti tỉ việc trước đây chúng ta chểnh mảng. Thông tin giá xăng dầu được điều chỉnh tăng ở tất cả các mặt hàng, trong đó giá xăng tăng lần thứ 5 liên tiếp, xăng RON95 vượt mốc 30.000 đồng/lít từ 15h ngày 23-5 lần nữa khiến người nghèo, người lao động hoang mang, lo lắng. Thực sự, trong cuộc chiến vừa qua đã có những người lính áo trắng hy sinh, bị thƣơng tật và thiệt thòi rất nhiều về sức khỏe, tinh thần, kinh tế và thu nhập. Người lao động, người nghèo vừa khó khăn, chật vật trải qua đại dịch COVID-19 kéo dài, nay phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề từ giá xăng dầu tăng cao kỷ lục, kéo theo giá cả những mặt hàng khác ồ ạt tăng theo. Cách làm này không chỉ gây khó khăn và hạn chế không cần thiết quyền về quê ăn Tết của người dân mà còn làm phát sinh vô tận những chi phí cho cả chính quyền và người dân. Sân bay đã đông đúc người, bến xe cũng nhộn nhịp không khí Tết với mai, đào… TP một lần nữa đã chứng minh sức sống mãnh liệt của một TP trẻ, năng động, không lùi bước. Trong nhiều tháng qua, học sinh, phụ huynh cả nước luôn mong mỏi tới ngày trường học mở cửa trở lại. Giá xăng dầu đẩy giá hàng hóa và dịch vụ tăng đã ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề đến đời sống của 35% dân số sống ở đô thị Nâng cấp Nghiêm trọng Nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống người [T18]
Nâng cấp dân đã bị đình trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng do dịch. Họ đã đi qua một chặng đường gian khó và phía trước vẫn còn nhiều khó khăn chồng chất của thời "hậu COVID-19". [T36]
Nâng cấp Nhiều khó khăn chồng chất Oằn mình [T39]
Nâng cấp Quyết liệt
[T22]
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vẫn đang “oằn mình” khi đang lỗ 500-700 đồng/lít. Nhiều năm trước, Vũng Tàu là thành phố bị mang tiếng bởi nạn “chặt chém” du khách, lấy giá cao ngất ngưởng, chính quyền và ngành chức năng đã vào cuộc quyết liệt chấn chỉnh tình trạng này. Nâng cấp
[T23]
Rất thích thú Nhiều người dân TP.HCM đã rất thích thú và có những trải nghiệm khó quên khi được tận mắt xem màn trình diễn đầy màu sắc từ khinh khí cầu diễn ra ở Thủ Thiêm những ngày cuối tuần qua.
PL-64
Giảm cấp Tạm
[T42]
Nâng cấp Thảm họa [T42]
Nâng cấp Trân quý
[T36]
Nâng cấp Vắt kiệt
[T3]
Nâng cấp Vui mừng ra mặt [T35]
Nâng cấp Không ai …
[T13]
Chúng ta có thể tạm hài lòng với những giải pháp hạ nhiệt đà tăng giá cả như hỗ trợ tiền thuê nhà cho một số đối tượng người lao động, giảm thuế VAT, hỗ trợ lãi suất một số đối tượng… Nhiều nước trên thế giới đã cảnh báo “thảm họa” giá lương thực do nguồn cung bị ảnh hưởng bởi xung đột. Ví như trân quý với những giáo viên đã trở lại với nghề, trân quý những phụ huynh vẫn tin tưởng trường, trân quý một ngày bình thường khi cánh cổng trường được mở ra để đón trẻ… Ngoài các nguyên nhân nêu trên, có thể thấy đợt dịch COVID-19 kéo dài suốt hơn 2 năm qua đã vắt kiệt sức của nhiều nhân viên y tế, kéo theo làn sóng xin nghỉ việc trong lực lượng này có xu hướng tăng. Thế rồi những đứa con và cháu tôi vui mừng ra mặt khi được nhà trường thông báo sẽ cho phép đi học trực tiếp (offline). Lịch sử đất nước này mãi mãi không quên ơn họ. Họ đã lăn xả vào nơi mà lằn ranh sống chết vô cùng mỏng manh, có thể nhiễm bệnh, có thể chết, có thể mang di chứng khôn lường suốt đời nhưng không ai từ chối, không ai bỏ ngũ, không ai run sợ. Họ để lại sau lưng gia đình, cha mẹ, con cái và cả tình yêu đôi lứa nhiều tháng trời không một chút toan tính, so đo.
3.4.2. Các phương tiện ngôn ngữ thể hiện thang độ về Quá trình trong diễn ngôn bình luận có chứa Thái độ trên báo Nhân dân
Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Tần suất (lần) Phương tiện ngôn ngữ Tần suất (lần) Bất thường Bấn loạn, hốt hoảng 1 1 1
1 1 1 2 1 1 1 2 1 2 6 1 2 2 1
1 1 4
1 3 2 1 7 6 1 1 1 3 7 4 1 1 1 1 6 1 8 1 1 7 1 1 Bùng nổ Càng … càng Đặc biệt Găm hàng Hoàn toàn Khó khăn chồng chất khó khăn Không ngừng nghỉ Phù hợp Lơ là, chủ quan, đối phó Chủ động Nặng nề Quá Sâu sắc Tràn đầy Vội vã, hối hả Càng Cơ bản Đầu cơ Hết sức Khá Không chỉ … mà (còn) Kịp thời Thích ứng Mạnh/ mạnh mẽ Một chút Phần nào Rất Thái quá Vô tội vạ Lặp, liệt kê 1 1 7
Phương tiện ngôn ngữ Bát nháo, hỗn loạn Bứt tốc Chậm Đáng Gánh nặng Hơn Khó khăn, thách thức, áp lực Không nhỏ Hiệu quả Lớn Tích cực Nghiêm trọng Quyết liệt Sớm hơn Tuyệt vời Vừa phải…vừa phải 1 Cơ bản Ví dụ minh họa Quá trình trong diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
Thang độ Minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Nâng cấp [N1] khó khăn chồng chất khó khăn Hai năm qua, đất nước ta đã vượt qua chặng đường phòng, chống đại dịch Covid-19 với khó khăn chồng chất khó khăn.
PL-65
Nâng cấp Nặng nề [N1]
Nâng cấp Chậm
[N1]
Nâng cấp Lớn
[N5]
Nâng cấp Hết sức [N5]
Nâng cấp Nặng nề
[N7]
Nâng cấp Mạnh mẽ [N7]
Giảm cấp Phần nào [N7]
Nâng cấp Đặc biệt
[N8]
Nâng cấp Rất lớn
[N9]
Giảm cấp Một chút [N9]
Nâng cấp [N10]
Nâng cấp Không ngừng nghỉ Vô cùng nặng nề; liệt kê
[N10]
Nâng cấp Rất [N10]
Nâng cấp Kịp thời [N11]
Nâng cấp Hết sức [N11]
Nâng cấp Thái quá [N14]
Nâng cấp Cơ bản [N15] Ðợt bùng phát dịch thứ tư đã và đang để lại những hậu quả nặng nề đối với đời sống người dân và tình hình phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. nhiều địa phương vừa tập trung công tác phòng, chống dịch vừa triển khai thực hiện chính sách trong thời gian đang thực hiện giãn cách xã hội cho nên gặp khó khăn trong công tác lập hồ sơ, thủ tục đề nghị hỗ trợ dẫn đến tiến độ còn chậm... Tuy nhiên, với đà tăng giá xăng đã kéo theo sự tăng giá gần như đồng thời của nhiều mặt hàng khác như: lương thực, thực phẩm, đi lại, vận tải… đã ảnh hưởng lớn đến chi tiêu của người lao động. Có thể nói, người lao động cũng đã hết sức chia sẻ, thắt lưng buộc bụng cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Dữ liệu này được quan tâm bởi khu vực dịch vụ gồm những ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp của đại dịch Covid-19 nhưng lại phục hồi sau cùng, khiến những người làm công ăn lương bị tác động nặng nề cả về việc làm và thu nhập, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống Cũng phải nhắc đến tín hiệu tích cực khác là sự cải thiện mạnh mẽ về thu nhập của người lao động. Với những biến chuyển tích cực đang diễn ra, tổn thương của thị trường lao động việc làm đã phần nào lắng dịu Trong kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV vừa qua, công tác khám bệnh, chữa bệnh cho người dân được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm, với việc đóng góp, đề xuất nhiều ý kiến, nội dung khác nhau. Đến nay Việt Nam đã ký hợp đồng mua, nhận viện trợ, tài trợ tổng số 211 triệu liều vắc-xin phòng Covid-19, trong đó đã tiếp nhận 156,4 triệu liều... Những con số đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ, ngành y tế trong việc trang bị "vũ khí" chống dịch. Việt Nam bắt đầu triển khai tiêm chủng vắc-xin từ đầu tháng 3/2021, có chậm một chút so với các nước, nhưng sau đó đã có bước bứt tốc khá ấn tượng. Ðể đạt được điều đó, có sự hy sinh thầm lặng, nỗ lực không ngừng nghỉ của các y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế… Ðội ngũ y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế phải chịu áp lực vô cùng nặng nề từ mọi phía: gia đình, người thân gặp khó khăn trong cuộc sống, bị nhiễm bệnh, bất cập về cơ sở hạ tầng yếu kém, trang thiết bị, máy móc thiếu thốn, lạc hậu, công việc quá tải, thu nhập không đủ trang trải cuộc sống, không còn thời gian, cơ hội nâng cao tay nghề… Việt Nam đã rất thành công trong kiềm chế những ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 đến sức khỏe cộng đồng. Căn cứ tình hình thực tế, cũng trong ngày 25/12, Hà Nội đã điều chỉnh kịp thời cấp độ dịch thuộc cấp quận, huyện, thị xã và cấp xã, phường. Thực tế nêu trên cho thấy, dịch bệnh tại Hà Nội đang diễn biến hết sức phức tạp và khó lường. Tuy nhiên, việc lo lắng thái quá dẫn đến không ít địa phương đưa ra những quy định phòng, chống dịch, cách ly “cực đoan” đối với người dân về quê đón Tết. Dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát trên phạm vi cả nước.
PL-66
Nâng cấp Không chỉ … mà (còn) [N29]
tràn đầy Nâng cấp
[N29]
rất Nâng cấp [N29]
Nâng cấp Vừa phải … vừa phải [N30]
Nâng cấp Lớn [N31]
Nâng cấp Mạnh mẽ, nghiêm trọng [N34]
Nâng cấp Bùng nổ
[N40]
Điểm kinh doanh du lịch đóng cửa, không chỉ khiến nhà đầu tư mất nguồn thu, lỗ vốn, mà còn khiến nhiều người dân trong thôn mất đi cơ hội việc làm, không có thu nhập. Tuy nhiên chứng kiến việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, cũng như khả năng phục hồi nền kinh tế đáng ngưỡng mộ của Việt Nam, ngay khi đất nước mở cửa trở lại, Mina Bùi quyết định khăn gói quay về quê hương với tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng. Bên cạnh đó, rất cần sự vào cuộc tích cực, đồng bộ của ngành chức năng, sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các ngành liên quan và cả cộng đồng. Thực tế, ngoài áp lực về thời gian lên lớp trực tuyến, giáo viên vừa phải thiết kế bài giảng khác với bình thường sao cho ngắn gọn, dễ hiểu, vừa phải quay video, hướng dẫn học sinh làm bài, kết nối với phụ huynh, thậm chí là hướng dẫn cả thao tác sử dụng máy tính… Việc tạm dừng đến trường kéo dài đã ảnh hưởng lớn đến thể chất, tinh thần và chất lượng học tập của học sinh, sinh viên. Việc học trực tuyến kéo dài đã tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tâm sinh lý của học sinh, nhất là với lứa tuổi thanh thiếu niên. Thêm vào đó, thiên tai và bất ổn địa chính trị tại các vùng giàu nguyên liệu đầu vào của nền kinh tế càng khiến cho áp lực tăng giá cả thị trường, áp lực lạm phát đã có nguy cơ lan rộng và bùng nổ. 4. Phụ lục về phạm trù Giọng điệu trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận
Bảng P4.1. Kết quả khảo sát Giọng điệu đơn thanh và dị thanh trong các bài bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Tuổi trẻ Nhân dân
Giọng điệu Chủ đề báo Đơn thanh Đa thanh Tổng Đơn thanh Đa thanh Tổng
CS ĐS NLĐ 59 94 153 81 76 157
CC CD 128 131 259 134 96 230
PT DL 84 111 195 107 82 189
GD 70 99 169 77 72 149
XD 92 131 223 88 74 162
Tổng 433 566 999 487 400 887
Bảng P4.2. Tần suất của các giọng điệu Thu hẹp và Mở rộng không gian hội thoại trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ và Nhân dân
Tuổi trẻ Nhân dân Giọng điệu Chủ đề báo
CS ĐS NLĐ CC CD PT DL GD XD Thu hẹp 82 97 69 83 84 415 Thu hẹp 39 56 60 42 30 227 Mở rộng 47 57 39 48 40 231 Mở rộng 32 58 48 29 65 232 Tổng 647 458
PL-67
4.1. Tiểu hệ thống Thu hẹp hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận
4.1.1. Tiểu hệ thống Thu hẹp hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
4.1.1.1. Giọng điệu Từ bỏ
Giọng điệu Phủ định
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
Chưa [T39] 20
Chưa thể [T34] 15
[T42] 31 Không, không dễ
Không chỉ [T37] 2
[T38] 17 Không chỉ … mà (còn)
Không được [T34] 7
Không có [T31] 6
Không thể [T38] 17
Không phải [T38] 11
[T1] 1 Thiếu thốn, chưa
quên mất [T3] 1
Chưa từng [T20] 2
Không còn [T14] 4
Thiếu hụt nguồn cục bộ do sự “đứt gãy” cung ứng từ Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn được xem là xuất phát điểm, cộng thêm mức giá bán lẻ chƣa theo kịp với giá cơ sở, trong bối cảnh nguồn cung thế giới căng thẳng và những biến động mạnh của giá thế giới… khiến thị trường xăng dầu trong nước rơi vào “vòng xoáy” khan hàng, tăng giá, doanh nghiệp đóng cửa vì thua lỗ. Khó tránh khỏi F0 trong trường học nhưng việc tổ chức dạy học khi có em đến trường, em ở nhà chƣa thể làm hài lòng phụ huynh. Trong tình hình này, CPI những tháng tới, quý tới không nhẹ nhàng như quý 1-2022 Và không chỉ thầy Hiền, có vị đại biểu Quốc hội sau khi tiếp nhận thông tin đã chuyển ngay cho bộ trưởng Bộ GD-ĐT từ cuối kỳ họp Quốc hội trước nhưng vẫn không nhận được phản hồi, mặc dù vụ việc lúc đó đã trôi qua gần nửa năm. Nhưng ổn định thị trường xăng dầu, giữ vững an ninh năng lượng không chỉ tập trung giải quyết nguồn cung, mà trước mắt cần phải chấn chỉnh ngay khâu lưu thông phân phối. Nhưng khi có quy định thống nhất thì lại có phản ứng, đại loại vì sao không cho F1 đến trường (nếu xét nghiệm âm tính), như thế tạo ra bất công giữa học sinh đến trường và học sinh phải cách ly ở nhà vì học ở nhà không đƣợc thụ hưởng trọn vẹn bài giảng. Có điều không hiểu vì sao bộ vẫn hầu như không có động thái gì để trả lời trước công luận cũng như đưa ra những biện pháp để ngăn chặn sự việc có thể tái diễn. Trách nhiệm đó là phải đảm bảo cung ứng xăng dầu cho thị trường, không thể lời thì bán, khó khăn thì né. Xăng dầu là ngành kinh doanh có điều kiện, không phải ai cũng có thể nhảy vào làm nhà phân phối, quyền lợi đi kèm trách nhiệm. Lại thêm một việc đáng lo: mạng lưới nhân viên y tế chƣa đầy đủ và đạt chuẩn, cơ sở vật chất và kinh phí dành cho y tế học đường vẫn còn thiếu thốn có dẫn đến tình trạng gia tăng một số bệnh thường gặp ở lứa tuổi học đường hay không? Nhưng chúng ta quên mất một điều mà dân gian thường nhắc "có thực mới vực được đạo", chỉ khi nhân viên y tế thực sự đủ sống và sống tốt bằng chính nghề nghiệp của mình thì lúc ấy mới có thể toàn tâm toàn ý thực hiện mục đích cao cả của người thầy thuốc là phục vụ người bệnh... Toàn là những thực tế chúng ta chƣa từng một lần tập dượt để đối diện, thậm chí cũng chƣa từng hình dung. Tự tin mở cửa mới giải tỏa lo âu của hàng triệu người lao động xa quê, tạo ra việc làm, thu nhập; là làm sống lại nhiều ngành kinh tế như du lịch, hàng không vốn kiệt quệ; là không còn những kiểu ngăn sông cấm chợ, cách ly gây bức xúc...
PL-68
không ở đâu 1 [T12]
không thể không 1 [T37]
không thể ngờ 1 [T20]
bất chấp 1 [T26]
chưa có 1 [T24]
chưa bao giờ 1 [T28]
chưa thấy 1 [T42]
1 [T27] chưa kịp, không thể
chưa được 2 [T42]
không hẳn là 1 [T21]
1 [T21] không phải…mà là
mất 2 [T26]
nghịch lý 1 [T26]
chẳng ai có thể 1 [T31]
chưa từng có 1 [T32]
chưa biết 1 [T32]
chưa thực sự 1 Mà về chuyên môn thì không ở đâu trên đất nước này hơn ở Bộ Y tế. Nhưng rõ ràng có những lớp “luyện thi VIP” sát ngày thi lại giải đề thi với độ trùng khớp 80-90% đề thật thì không thể không khiến dư luận băn khoăn, thí sinh hoang mang và phụ huynh giận dữ. Năm ngoái vào tầm này, nhiều người không thể ngờ rằng phải ở suốt trong nhà hàng tháng trời. Mặt khác, tâm lý không ít người dân vẫn lo lắng khi khách du lịch đến - một tâm lý xuất phát từ kết quả của thời gian dài truyền thông thổi phồng nguy cơ COVID-19, bất chấp những chuyển biến căn bản của xã hội bao gồm từ tỉ lệ tiêm vắc xin cao nhất thế giới, sự suy giảm tác hại của biến chủng Omicron và kiến thức chủ động điều trị dương tính. Một thực tế mà ngành du lịch nước ta đang đối mặt là rất nhiều doanh nghiệp du lịch đã mất nhiều lao động sau 2 năm đóng cửa, cơ sở vật chất bị xuống cấp, các tiêu chuẩn, quy trình, trang thiết bị phục vụ lâu ngày chƣa có điều kiện sử dụng. Ngành kinh tế tổng hợp đóng góp trực tiếp 10,4% GDP cả nước chƣa bao giờ bi đát như trong hai năm vừa qua. Vẫn chƣa thấy giá xăng dầu hạ nhiệt. Trước mắt là hệ thống lưu trú phải sẵn sàng hoạt động, tận tình phục vụ, không thể lấy lý do vì COVID-19 nên phòng ốc xuống cấp, thiếu nhân viên phục vụ vì khách sạn chƣa kịp tuyển mới. Với con số CPI trong quý 1 chỉ tăng 1,92%, dường như giá cả tăng chƣa đƣợc cơ quan thống kê ghi nhận trong quý 1-2022. Trong giai đoạn này, những người cất cánh bay không hẳn là những người muốn dạo chơi. Vùng xanh đó tuyệt nhiên không phải là một địa phương hoàn toàn không có COVID-19, mà là nơi phần lớn người dân được tiêm đủ vắc xin, có cuộc sống bình thường, với dịch vụ lưu trú, ăn uống, giải trí, chăm sóc con người phù hợp và hệ thống y tế đủ linh hoạt để xử lý các tình huống xảy ra. Từ thời điểm mở cửa, khách nước ngoài sẽ còn mất tương đối nhiều thời gian để hoạch định kế hoạch du lịch, nghỉ dưỡng và cả quan sát những hành động thay đổi cụ thể từ các cơ quan hữu quan của Việt Nam cũng như các cơ sở dịch vụ trong nước. Đây là nghịch lý. Chẳng ai có thể "nắm tay từ tối đến sáng" để rồi nói tài nói giỏi, nhưng đổi mới rất cần những người lãnh đạo có trách nhiệm, có bản lĩnh chính trị, thẳng thắn, trung thực, không vòng vo né tránh, xu thời, đi cùng với trí tuệ sáng suốt minh định phải trái để ra những quyết định kịp thời mang lại lợi ích cho sự phát triển. Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành phố nai lưng ra chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", vì phải đối phó với những tình huống bất định, chƣa từng có tiền lệ. Chúng ta có thể chƣa biết điều gì sẽ xảy ra khi học sinh trở lại trường nhưng chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát được thái độ, cách hành xử với những gì sẽ xảy ra. Bất ổn nhìn từ thực tế này vẫn là có nhiều kịch bản nhưng [T33]
PL-69
đâu phải [T41] 2
khó [T35] 1
chƣa thực sự có một "kịch bản" khung mang tính thống nhất, xuyên suốt, trong đó phải lường được các tình huống sẽ xảy ra, có kịch bản xử lý trong tình huống có hàng loạt học sinh cùng bị nhiễm trong một thời điểm. Nhưng đã lỡ sắm xe chạy xăng, giờ chuyển sang xe điện cần "đầu tư lớn", ít cũng bằng tiền tích cóp vài năm, đâu phải ai cũng làm được. Vẫn biết rất khó có thể ngay tức thời nhận diện và loại trừ hết những yếu tố đó. Không có gì quý bằng sức khỏe! [T30] 1 không có gì bằng
không hiếm [T32] 1
không hề [T30] 1
[T33] 1 không khỏi, thiếu
không phải là [T36] 1
thiếu [T31] 2
sao bằng [T34] 1
[T44] 1 Cũng giống như làn sóng dịch thứ 4 vừa rồi, cả thành phố nai lưng ra chống dịch trong tâm thế nỗ lực, bình tĩnh nhưng cũng không hiếm lần bối rối, "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", vì phải đối phó với những tình huống bất định, chưa từng có tiền lệ. Mở cửa trường không hề là quyết định dễ dàng! Do thiếu sự chỉ đạo thống nhất xuyên suốt, thiếu cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý để áp dụng khiến nhiều trường học không khỏi lúng túng, rối ren. Không phải là mùa thu mà đã bắt đầu mùa hạ, tiếng trống trường ở Hà Nội mới gióng lên. Sự việc dẫu sao đã xảy ra rồi, dư luận đang chờ đợi Bộ Giáo dục - đào tạo trả lời thế nào trước công luận vì sao lại quá chậm trễ, thiếu trách nhiệm trong việc xử lý đến cùng vụ việc nói trên, để đảm bảo vừa lấy lại lòng tin của xã hội vừa thực hiện tôn chỉ học thật thi thật. Cách làm này sao bằng học trực tiếp, trực tuyến, thiệt cho học sinh học ở nhà. Không có xăng, dân đô thị chẳng biết đi đứng thế nào. Không có xăng, không đi lại, chẳng làm đƣợc gì. [T41] 1
[T40] 1 chẳng biết chẳng làm được gì không ai có thể ngờ
không đủ [T38] 1
không sai [T40] 1
không thấy [T41] 1 Không ai có thể ngờ được rằng ngay giữa TP.HCM lại có cảnh kỳ kèo thêm bớt từng lít xăng. Như vậy, việc cho phép các thương nhân không đủ năng lực tham gia thị trường đã "làm rầu" thị trường xăng dầu. Nói găm hàng cũng không sai bởi chính chủ cây xăng thừa nhận trong bồn vẫn còn xăng, gọi đầu mối vẫn có hàng nhưng cây xăng không mặn mà bán. Không có máy lạnh, người dân thu nhập thấp không thấy có gì trở ngại. Giọng điệu Phản lại
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
11 [T4] (cho/mặc) dù … nhưng
nhưng 127 [T1]
song 2 [T5]
thậm chí 19 [T2] COVID-19, dù Nhà nước có những gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, qua đó gián tiếp hỗ trợ người lao động, nhƣng không thể vơi đi những khó khăn tứ bề. Thật khó hiểu khi công tác y tế học đường mang ý nghĩa rất lớn trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh nhƣng lâu nay ít được các cấp quản lý quan tâm. Với mức đề xuất tăng 6%, mức lương sẽ tăng thêm 180.000 - 260.000 đồng/tháng cho mỗi vùng, song lương tối thiểu cao nhất cũng chỉ ở ngưỡng chưa tới 4,7 triệu đồng/tháng. Đó là chưa kể, trả một phần tiền trọ, thậm chí miễn phí tiền thuê đi nữa cũng chỉ là giải pháp ngắn hạn để bớt đi cái khó.
PL-70
thế nhưng 3 [T6]
trong khi đó 7 [T5]
trong khi 11 [T6]
2 [T2] trong thực tế, trong khi
9 [T2] Tuy nhiên
2 [T3] tuy vậy
2 [T15] Cho dù … thì
3 [T27] dù
1 [T31] Mà thực chất
1 [T43] cho dù … vẫn cần
2 [T42] tuy … nhưng Thế nhƣng nhiều năm qua, với hàng triệu người lao động nhập cư, thị trường nhà cho thuê, nhà trọ đều do tư nhân đảm nhận. Trong khi đó, công nhân ở các nhà máy, các khu công nghiệp hiện nhận mức lương tối thiểu của vùng 1 chỉ 4.420.000 đồng/tháng. Họ đang ở trọ, ở thuê nhưng đa số là tạm bợ trong khi họ có quyền và xứng đáng có được nơi ở thuê tươm tất. Trong thực tế, nơi ăn chốn ở của công nhân suốt hàng chục năm qua ít được quan tâm, trong khi họ chính là người tạo ra giá trị cho doanh nghiệp, tạo ra hàng hóa xuất khẩu và đóng góp chính cho sự tăng trưởng của nhiều địa phương. Tuy nhiên, quy mô gói chỉ giới hạn cho công nhân bên trong các khu công nghiệp, còn doanh nghiệp bên ngoài các khu này vẫn chưa được nhắc đến. Tuy vậy, cũng có rất nhiều nhân viên y tế chẳng đặng đừng phải nói lời chia tay nghề nghiệp, vốn là giấc mơ, "ưu tiên phấn đấu hàng đầu" suốt bao năm qua. Chính vì thế, cho dù số ca nhiễm COVID-19 đang cao nhất nước thì Hà Nội vẫn cho phép tổ chức lễ hội chùa Hương, kiên định mở cửa các trường học, các rạp chiếu phim, các địa điểm vui chơi, giải trí… Dù trong các khảo sát quốc tế đều cho thấy, sau khi nới lỏng hạn chế đi lại, hầu hết du khách cho biết sẵn sàng xách gói "vi vu". Những điểm bất thường như trên không phải đến nay báo chí nêu ra thì Bộ Giáo dục - đào tạo mới biết mà thực chất bộ trưởng đã biết nghi án qua biên bản của tổ công tác thẩm định đánh giá về đề thi sinh vật đệ trình cách đây mấy tháng. Vì vậy, cho dù đã có gói 350.000 tỉ đồng để phục hồi kinh tế hậu COVID-19, vẫn cần chi thêm nguồn lực để giải vây giá xăng dầu. Tuy chỉ tăng 1,92% nhƣng giá cả tăng trong quý 1-2022 đè nặng túi tiền của người tiêu dùng. 4.1.1.1. Giọng điệu Tuyên bố
Giọng điệu Tán thành
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
1 [T3] Nên nhớ rằng
4 [T5] tất nhiên
3 [T15] rõ ràng
1 [T5] đúng rồi
[T5] 2 1 bàn cãi gì nữa Hợp lý
1 [T12] cần thiết Nên nhớ rằng nghề y là một nghề đặc biệt, trực tiếp liên quan đến sức khỏe và sinh mạng của con người. Tất nhiên, ở góc độ doanh nghiệp cũng có những cái khó, nhưng dịch bệnh đâu phải ai cũng kiệt quệ, nhiều doanh nghiệp, ngành nghề thậm chí còn phất lên trong dịch. Rõ ràng khi tuyệt đại đa số người dân đã được tiêm chủng đầy đủ khác với khi chưa ai hoặc chỉ rất ít người được tiêm chủng; khi thuốc và phương tiện chữa trị đã có khác với khi thuốc và phương tiện chữa trị chưa có; khi năng lực chữa trị của ngành y tế đã được tăng cường khác với khi chưa được tăng cường. Đó là điểm chung cần trung hòa, còn tăng từ 1-7 là đúng rồi, bàn cãi gì nữa. Còn về mốc thời gian, bàn cãi gì nữa khi đã 2 năm rồi chưa tăng, phải tăng ngay và mốc 1-7 năm nay là hợp lý. Trong bối cảnh như vậy, một sự tập quyền cho trung ương ở đây là rất cần thiết.
PL-71
không thể không 1 [T6]
1 [T8] không phải không có
1 [T19] không một người Việt nào không
1 [T19] không vì vậy mà phủ nhận
dĩ nhiên 1 [T22]
hiển nhiên 2 [T26]
Phải nhìn nhận 1 [T27]
Hợp lý 1 [T26]
là đúng 1 [T32]
ghi nhận 1 [T33]
1 [T33]
Nguyện vọng đó không thể không đáp ứng. Không phải không có những nơi ở đất nước này, đô thị hóa quá vội vã khiến cho dân bản địa bị bật đi rất xa còn "bờ xôi, ruộng mật" lại dành cho các nhà đầu tư, các đại gia, những người giàu có Và kể cả không có thân nhân được giải cứu đi nữa thì không một ngƣời Việt nào không xúc động với những chuyến bay xuyên lục địa, đưa các công dân Việt Nam từ hải ngoại trở về Tổ quốc thời điểm dịch căng thẳng đó. Câu chuyện phạm pháp xảy ra với những cá nhân liên quan đến các chuyến bay giải cứu công dân là điều rất đáng buồn, nhưng không vì vậy mà phủ nhận được chủ trương, sự tập trung, ưu tiên mà Nhà nước đã nỗ lực dành cho con dân người Việt trên khắp thế giới trong những ngày đại dịch hoành hành. Đây là tín hiệu đáng mừng cho những cơ sở kinh doanh du lịch và dĩ nhiên cũng mừng cho những nhà xe chạy tuyến Vũng Tàu, mừng cho người nông dân trồng rau, ngư dân đánh cá… Điều này hiển nhiên cho thấy nguy cơ họ bị lây nhiễm từ nguồn trong nước lớn hơn là ở chiều ngược lại. Phải nhìn nhận một thực tế như vậy. Đây là đề xuất hợp lý trong bối cảnh số lượng nhiễm virus trên thực tế cao gấp bội so với con số thống kê chính thức, tỉ lệ nặng và tử vong giảm dần và trên thực tế ở một mức độ rất thấp nếu so với tỉ lệ mắc dương tính thật Băn khoăn, lo lắng, thận trọng là đúng! Một điều cần ghi nhận là sự cố gắng của thầy cô giáo ở nhiều địa phương, trong đó có những địa bàn phức tạp về dịch như Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM… Nhưng một thực tế không thể phủ nhận là chất lượng dạy học không đảm bảo. Vụ “lộ đề” môn sinh chắc chắn để lại nhiều bài học. [T37] không thể phủ nhận chắc chắn 1 Giọng điệu phát biểu
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
1 [T2] Nói một cách sòng phẳng
Có thể thấy 2 [T3]
Ai cũng biết 1 [T4]
1 [T5] ai cũng dễ dàng nhận thấy
thực chất 1 [T5]
Có thể hiểu 1 [T8]
Nói một cách sòng phẳng, đó là sự bất tương xứng giữa sự đóng góp của công nhân đối với người sử dụng lao động lẫn địa phương. Ngoài các nguyên nhân nêu trên, có thể thấy đợt dịch COVID-19 kéo dài suốt hơn 2 năm qua đã vắt kiệt sức của nhiều nhân viên y tế, kéo theo làn sóng xin nghỉ việc trong lực lượng này có xu hướng tăng. Ai cũng biết sẽ là "trái đắng" khi số người không có lương hưu tăng lên. Nếu thử đặt mình vào vị thế của người làm thuê, nhất là công nhân trong các nhà xưởng, bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy cuộc sống của họ quá khó khăn bởi lương thấp, vật giá leo thang trong khi dịch bệnh hơn hai năm qua càng đẩy miếng cơm manh áo của họ thêm cơ cực. Vì vậy, việc tăng lương, thực chất là điều chỉnh lương tối thiểu để bảo đảm mức sống tối thiểu cần phải thực hiện ngay, đã chậm quá rồi. Đó là lời phát biểu của Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên tại buổi làm việc với Ban thường vụ Huyện ủy Hóc Môn sáng 8-6, cũng có thể hiểu đó là thông điệp quan trọng của lãnh đạo thành phố gửi đến lãnh đạo các huyện đang nôn
PL-72
nói cho cùng 1 [T8]
tôi nhận thấy 1 [T8]
có thể nói 5 [T9]
1 [T12] chúng ta sẽ thấy rất rõ
Thực sự 1 [T13]
Thực tế cho thấy 1 [T16]
Như thế để thấy 1 [T17]
1 [T18] 3 tháng vừa qua cho thấy
1 [T20] chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng
1 [T21] Điều này cũng dễ hiểu
1 [T26] hiển nhiên cho thấy
tôi vẫn tin rằng 1 [T26]
Theo tôi 1 [T28]
1 [T29]
nóng bỏ qua giai đoạn quá độ lên quận để tiến thẳng lên thành phố trực thuộc TP.HCM. Nói cho cùng, nhà to, đường rộng, nhiều xe không phải là mục tiêu của sự phát triển mà là cuộc sống bình an, hạnh phúc cho người dân mới là đích đến cuối cùng. Tôi nhận thấy ông Nên đã nắm bắt được chìa khóa của tiến trình phát triển mang tính bền vững. Quan sát những ngày gần đây, nhất là dịp đón năm mới 2022, có thể nói, nhịp sống đã hồi sinh, dù vẫn còn những thông tin gây lo lắng về số ca, biến thể, liên tục có khuyến cáo phải 5K, đẩy mạnh tiêm vắc-xin… Nếu có ai đó cho rằng việc phân cấp, phân quyền ở nước ta chưa đủ mạnh thì người đó nhầm to. Cứ nhìn vào các giải pháp phòng chống dịch mà 63 tỉnh thành áp đặt cho những người dân về quê ăn Tết chúng ta sẽ thấy rất rõ điều trên. Thực sự, trong cuộc chiến vừa qua đã có những người lính áo trắng hy sinh, bị thương tật và thiệt thòi rất nhiều về sức khỏe, tinh thần, kinh tế và thu nhập. Thực tế cho thấy đến lúc này, số ca nhiễm vẫn gây "ấn tượng" với người dân hơn là màu đỏ hay cam. Nhƣ thế để thấy việc triển khai tiêm chủng cho trẻ đã được chuẩn bị chu đáo, chỉ còn đợi vaccine về để tiêm. So với những lúng túng khi số mắc COVID-19 tăng cao cuối năm 2021, 3 tháng vừa qua cho thấy các biện pháp đối phó với dịch COVID-19 đã tỏ ra hiệu quả hơn: số mắc tăng cao nhưng không rối loạn trong cung cấp dịch vụ y tế, kiểm soát được số ca chuyển nặng và giảm được số tử vong. Nhưng chắc hẳn ai cũng đồng ý rằng chúng ta đã vượt qua những tháng ngày căng thẳng nhất của COVID-19, có sức mạnh rất lớn từ gia đình. Điều này cũng dễ hiểu, bởi không công ty nào có thể lập kế hoạch dài hạn cho du khách của mình khi không biết chừng nào Việt Nam mới có thể "bình thường mới" thực sự, sống chung, thích ứng linh hoạt và an toàn với virus. Điều này hiển nhiên cho thấy nguy cơ họ bị lây nhiễm từ nguồn trong nước lớn hơn là ở chiều ngược lại. Nhìn những khách sạn trống vắng hiện nay, khi chúng ta đã "bình thường mới" lâu rồi, tôi vẫn tin rằng nếu thật sự chúng ta mong muốn tạo động lực kích cầu du lịch quốc tế thì việc phải làm bây giờ là xây dựng chính sách công bằng cho du khách từ nước ngoài, tương tự như các điều kiện áp dụng cho du khách nội địa. Theo tôi, ngành du lịch cần xác định đây là "cơ hội vàng" để xây dựng lại thương hiệu du lịch Việt Nam chuyên nghiệp hơn. Tất nhiên, từ ngƣời đầu tƣ vào dự án đến ngƣời tham gia chuyến đi trải nghiệm này đều hiểu rằng để có được một sản phẩm du lịch trở thành thương hiệu của thành phố như "đi thuyền trên sông Seine ở Paris" thì dòng kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè còn cần đầu tư lớn và thay đổi rất nhiều.
1 [T31] từ người đầu tư vào dự án đến người tham gia chuyến đi trải nghiệm này đều hiểu rằng Như một thực tế rõ ràng
thực tế 2 [T34]
…cho thấy 1 Nhƣ một thực tế rõ ràng, càng ngại đấu tranh với tiêu cực thì tiêu cực sẽ càng có đất để phát triển. Thực tế tại nhiều lớp học ở TP.HCM, số học sinh thuộc diện F0, F1 chiếm hơn 50%. Từ hai câu chuyện nêu trên cho thấy khó có quy định giải [T34]
PL-73
Thật ra 2 [T43]
Sòng phẳng ra 1 [T44] quyết được tất cả các yêu cầu của cuộc sống muôn hình muôn vẻ thời COVID-19. Thật ra, giá mới nóng, chưa sốt, càng chưa thể gọi là bão giá. Sòng phẳng ra, giá xăng dầu phải theo thị trường, “nước lên thuyền lên”. Giọng điệu Xác nhận
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
1 [T3] số liệu thống kê cho thấy
phải thừa nhận 2 [T3]
1 [T6] Khảo sát của X cho thấy
1 [T18] Các thông số khác … cũng cho thấy
1 [T21] Theo nghiên cứu của X Cụ thể số liệu thống kê cho thấy nếu như cả năm 2020 tại TP.HCM chỉ có 597 người nghỉ việc thì đến năm 2021 con số này tăng gần gấp đôi khi có hơn 1.000 người. Nhưng phải thừa nhận thực tế trong số nhân viên y tế xin nghỉ việc có không ít người đã tìm được "bến đỗ" mới tốt hơn về cả điều kiện vật chất lẫn môi trường làm việc để phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Khảo sát của Sở Xây dựng TP.HCM cuối năm 2021 cho thấy với hơn 551.000 phòng trọ (hơn 1,41 triệu người ở), có đến hàng ngàn phòng trọ không đủ chuẩn về diện tích, kể cả nước sạch, điện đóm. Các thông số khác xung quanh dịch COVID-19 trong tháng qua cũng cho thấy dù tổng số ca mắc cao gần gấp 7 lần so với tháng trước, số khỏi bệnh cũng cao hơn gần 7 lần, số tử vong và chuyển nặng đều giảm. Theo nghiên cứu của GlobalWebIndex, cùng với Worldwide Partners, Inc., khách du lịch hậu Covid-19 sẽ không hẳn mặn mà với du lịch tour tuyến.
4.1.2. Tiểu hệ thống Thu hẹp hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
4.1.2.1. Giọng điệu Từ bỏ
Giọng điệu Phủ định
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
Chưa 8 [N6]
chưa thể 2 [N5]
chưa thực sự 2 [N7]
chưa từng có 3 [N1]
không 18 [N6]
không còn 1 [N5]
không thể 4 [N38] Tuy nhiên, hiện tại, đa số doanh nghiệp chƣa triển khai do đang chờ hướng dẫn. Chính vì vậy, mức lương tối thiểu hiện nay không còn phù hợp thực tiễn, chƣa thể là cơ sở đặt ra cho các bên thương lượng xác lập tiền lương trên thị trường. Sự phục hồi của thị trường lao động việc làm chƣa thật sự bền vững, tổn thất về việc làm và thu nhập của người lao động sẽ khiến chi tiêu thắt chặt lại, dẫn đến sự sụt giảm doanh số hàng hóa và dịch vụ, ảnh hưởng đến khả năng duy trì kinh doanh liên tục của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế… Từ đó, đã ban hành các nghị quyết với hàng loạt chính sách chƣa từng có tiền lệ và được thực hiện ngay vào thực tế. Tuy nhiên, đối với các đối tượng này, nếu các doanh nghiệp không quan tâm, hỗ trợ để họ làm thủ tục thì sẽ thiệt thòi. Chính vì vậy, mức lương tối thiểu hiện nay không còn phù hợp thực tiễn, chưa thể là cơ sở đặt ra cho các bên thương lượng xác lập tiền lương trên thị trường. Thực tế không thể có chuyện thiếu xăng dầu đến mức hàng loạt cửa hàng phải tạm dừng hoạt động.
PL-74
mất 1 [N8]
7 [N6] không chỉ…mà (còn)
chưa có tiền lệ 1 [N12]
(chứ) không có 6 [N26]
không hề 2 [N9]
1 [N14] không phải…mà là
không rõ 1 [N17]
chưa được 2 [N28]
không đúng 1 [N26]
không được 7 [N38]
1 [N27] không tránh khỏi
thiếu 4 [N23]
mất đi 1 [N29]
yếu 2 [N25]
không phải 3 [N37] Thời gian vừa qua, một số địa phương đã mất rất nhiều thời gian, công sức để tháo gỡ vướng mắc về công tác thẩm định, phân hạng, phân tuyến chuyên môn kỹ thuật, khiến cơ sở bị tạm ngừng thanh toán, quyết toán, ảnh hưởng lớn đến hoạt động cơ sở và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế. Thông tin nêu trên không chỉ khiến công nhân, lao động đang ở thuê trọ phấn khởi mà nhiều doanh nghiệp còn có thêm động lực nhận thêm đơn hàng. Nhiều giải pháp chuyên môn chƣa có tiền lệ như giám sát, cách ly, phân tầng điều trị, thiết lập các trung tâm hồi sức, các trạm y tế lưu động, điều trị tại nhà... đã được triển khai kịp thời, phù hợp, hiệu quả, thích ứng với từng giai đoạn. Trong khi đó, tại một số điểm khác chỉ cải tạo vườn cây ăn trái, dựng thêm các tum, chòi lá để bán thức ăn, rượu bia cho khách chứ không có đầu tư cũng như đăng ký hoạt động hợp pháp với cơ quan quản lý nhà nước, thế nhưng, hầu hết du khách khi đặt tiệc ăn uống tại các vườn sinh thái này đều bị ép buộc mua vé tham quan vườn trái cây, mặc cho cây có trái hay không. Với nguồn cung vắc-xin khá nhiều như hiện nay, thậm chí sang năm 2022 (dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, Việt Nam không hề thiếu vắc-xin, thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành tiêm mũi bổ sung. Đây không phải là biện pháp chống dịch mà là hiểu biết về chống dịch chưa đầy đủ. Thay vì bình tĩnh, chủ động tìm cách ứng phó khi bản thân hoặc người thân mắc Covid-19, thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tìm sự tư vấn, hỗ trợ từ những người có chuyên môn,… thì một số người lại vội vã tin, làm theo các bài thuốc chữa Covid không có căn cứ khoa học lưu truyền trên mạng, hối hả đặt mua và sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ với giá cả đắt đỏ, vô hình trung đặt tính mạng của bản thân và gia đình vào nguy hiểm. Song theo phản ánh, nhiều khách lẻ đến từ các quốc gia không được miễn thị thực gặp khó khăn liên quan các giấy tờ, thủ tục để được cấp visa, ngay cả việc đề nghị cấp thị thực điện tử cũng chƣa đƣợc xác nhận thời gian trả kết quả. Khi thấy trong vườn có rất ít trái cây, đồng thời thấy việc tham quan này là không đúng với thỏa thuận ban đầu, anh Khánh và đoàn không đồng ý vào tham quan, yêu cầu lái tàu chở đi điểm khác nhưng liền bị lái tàu lớn tiếng đe dọa... Tuy nhiên, hiện vẫn không đƣợc khắc phục mà đang có dấu hiệu lan rộng ra ở nhiều tỉnh, thành phố khác. Trong đó, có cả những vấn đề như nguồn nhân lực du lịch đã phân tán trầm trọng, cơ sở hạ tầng du lịch xuống cấp, việc bảo đảm chất lượng dịch vụ ở nhiều nơi không tránh khỏi xộc xệch. Thêm nữa, vào mùa cao điểm du lịch, ở nhiều nơi thiếu hướng dẫn viên quốc tế, nhất là với thị trường ngoại ngữ ít thông dụng dẫn đến tình trạng sử dụng hướng dẫn viên trái phép. Điểm kinh doanh du lịch đóng cửa, không chỉ khiến nhà đầu tư mất nguồn thu, lỗ vốn, mà còn khiến nhiều người dân trong thôn mất đi cơ hội việc làm, không có thu nhập. Nói cách khác là yếu về trình độ nhân lực làm du lịch. Đây không phải lần đầu Bộ Giáo dục và Đào tạo có chỉ thị về sách giáo khoa và sách tham khảo.
PL-75
Giọng điệu Phản lại
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
24 Nhưng [N1]
Thế nhưng [N2] 6
trong khi [N1] 3
tuy nhiên 42 [N2]
[N7] 9 (mặc) dù…nhưng
tuy…nhưng [N7] 2
tuy…vẫn [N2] 1
không chỉ [N12] 1
[N17] 1 mặc dù…tuy nhiên
song [N11] 6
thậm chí [N9] 9
trong khi đó [N14] 2
(Mặc) dù [N29] 2
thì lại [N26] 1
trong khi…thì [N28] 1
Cho dù [N32] 1 Nhƣng nhờ thực hiện nghiêm sự lãnh đạo của Ðảng và lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt với sự chung sức, đồng lòng của toàn thể nhân dân. Thế nhƣng, bên cạnh những niềm vui, vẫn tồn tại những con số suy tư, trăn trở khi không ít người cao tuổi hiện không có tích lũy, thu nhập thấp. Trong thời gian tới, tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến khó lường, nhu cầu kinh phí cho phòng, chống dịch dự báo sẽ rất lớn trong khi nguồn huy động từ xã hội có dấu hiệu giảm dần. Tuy nhiên, người cao tuổi vẫn là nguồn lực rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng của đất nước. Mặc dù chưa thể trở về trạng thái như trước đại dịch nhƣng ít nhất, tình hình thiếu việc làm đã không còn là mối lo lắng như hệ quả của những làn sóng di cư ngược diễn ra liên tục trong nửa cuối năm 2021 với tỷ lệ thiếu việc làm ở thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tuy vẫn cao so cùng kỳ nhƣng đã giảm. Nhiều người cao tuổi tuy đã hết tuổi lao động vẫn có nhu cầu tìm kiếm việc làm, kiếm thêm thu nhập, tự trang trải cuộc sống, san sẻ gánh nặng cho con cái, xã hội. Không chỉ Delta, Omicron, rất có thể xuất hiện thêm những biến thể khác. Mặc dù nhiều trường hợp sai phạm về phòng, chống dịch bệnh đã được cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nghiêm, tuy nhiên tình trạng chủ quan, lơ là, đối phó trước dịch bệnh cũng như việc lan truyền thông tin xấu độc về dịch bệnh vẫn xảy ra dưới nhiều hình thức phức tạp, khó lường. Ðây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, bởi các hành vi vi phạm diễn ra ở nhiều nơi song chưa bị phát hiện và xử lý kịp thời. Với nguồn cung vắc-xin khá nhiều như hiện nay, thậm chí sang năm 2022 (dự kiến) có thêm nguồn vắc-xin sản xuất trong nước, Việt Nam không hề thiếu vắc-xin, thậm chí đủ cung cấp để các địa phương hoàn thành tiêm mũi bổ sung. Trong khi đó cùng ở cấp độ dịch 3 nhưng tỉnh Bình Định không yêu cầu cách ly đối với người dân về quê ăn Tết mà chỉ khuyến cáo người dân tuân thủ 5K. Dù chỉ mới mở cửa được gần ba tháng, Việt Nam đã đón nhiều lượt khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm. Trong bối cảnh từ Trung ương đến địa phương đã và đang nỗ lực thực hiện nhiều chiến lược quảng bá, xúc tiến du lịch trong và ngoài nước thì lại xuất hiện những cách làm du lịch thiếu chuyên nghiệp. Trong khi nhiều nước ASEAN như Thái Lan áp dụng miễn thị thực cho công dân hơn 60 quốc gia, vùng lãnh thổ; Indonesia áp dụng cho khoảng 70 quốc gia, Philippines miễn cho hơn 150 quốc gia…; thì số lượng các quốc gia được Việt Nam miễn vẫn còn rất hạn chế. Chức năng quan trọng nhất của chữ cái là ghi lại chính xác âm của lời nói, cho dù trong nhiều ngôn ngữ “nói một đằng, viết
PL-76
[N32] thực ra 1
[N43] thực tế 2
[N45] 1 Song trên thực tế một nẻo” khiến người ta phải đưa ra những quy ước nhất định, chứng tỏ sự giới hạn chức năng “âm” của chữ. Thực ra, trong bộ Kết nối tri thức với cuộc sống còn có chữ “q” cũng không được dạy âm như một chữ cái độc lập mà phải kết hợp với chữ “u”, đọc là “quờ”. Thực tế, giá xăng dầu mua bán trái phép chỉ bằng hai phần ba giá bán lẻ trên đất liền cho nên một số tàu cá thường chọn mua dầu lậu trên biển để tiết kiệm chi phí và thời gian. Song trên thực tế, khi giá thế giới tăng, doanh nghiệp phải “gồng mình” chi quỹ, còn khi giá giảm, người tiêu dùng không được mua xăng dầu với giá thấp, gây không ít bức xúc trong dư luận. 4.1.2.2. Giọng điệu Tuyên bố
Giọng điệu Tán thành
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
cần thiết 2 [N3]
việc cần thiết 1 [N5]
không thể không 1 [N10]
rõ ràng 2 [N15]
chắc chắn 2 [N21]
tất nhiên 1 [N27]
cấp thiết 1 [N41]
1 [N45] không thể phủ nhận Chính vì vậy, điều chỉnh thời giờ làm thêm là giải pháp hết sức cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm bù đắp năng suất, sản lượng thiếu hụt trong thời gian dịch bệnh, kịp tiến độ đơn hàng, nhất là đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Do đó, việc xem xét, điều chỉnh tăng lương tối thiểu là việc cần thiết. Có được điều này, không thể không kể đến những đóng góp vô cùng lớn, thậm chí cả tính mạng của nhiều y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế. Nhưng rõ ràng với việc số ca mắc vẫn tăng cao đòi hỏi các ngành, địa phương cần có những giải pháp cụ thể, hiệu quả để giải quyết bài toán thích ứng an toàn, đó là vừa khôi phục kinh tế-xã hội nhưng vẫn phải bảo đảm phòng, chống dịch hiệu quả. Với sự vào cuộc mạnh mẽ, chủ động, tích cực của chính quyền các địa phương, ngành du lịch và sự đồng hành của các doanh nghiệp, sự chung tay góp sức của các bộ, ngành liên quan, chắc chắn năm mới 2022 các cơ hội mới sẽ mở ra để ngành du lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và lấy lại đà tăng trưởng. Tất nhiên, đây chỉ là những vụ việc gây ra bởi một bộ phận rất nhỏ những người làm dịch vụ du lịch. Việc chủ động nguồn cung, tránh tác động tiêu cực đối với nền kinh tế khi giá cả liên tục “leo thang” có ý nghĩa hết sức cấp thiết. Không thể phủ nhận mặt tích cực khi sử dụng quỹ đã giúp giá xăng dầu trong nước không bị tăng sốc trước diễn biến bất thường của giá xăng dầu thế giới, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân.
Giọng điệu Phát biểu
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
có thể thấy 2 [N4] Có thể thấy, trên tinh thần của nghị quyết, việc huy động làm thêm giờ vẫn phải dựa trên thỏa thuận với người lao động, người lao động không có nhu cầu hoặc sức khỏe không bảo
PL-77
có thể nói 2 [N5]
1 [N9] Điều đó cho thấy
Có thể thấy rằng 1 [N10]
2 [N11] đảm có thể không làm thêm giờ. Có thể nói, người lao động cũng đã hết sức chia sẻ, thắt lưng buộc bụng cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Điều đó cho thấy chiến lược vắc-xin của Việt Nam khá linh hoạt và phù hợp diễn biến dịch... Có thể thấy rằng, tình trạng khối lượng công việc tăng đột biến, thời gian làm việc kéo dài, trong khi các chế độ, chính sách chưa bảo đảm, thiếu thỏa đáng ở khu vực y tế đã dẫn đến hệ quả tất yếu là việc giảm đáng kể động lực làm việc, mong muốn gắn bó với nghề ở một bộ phận không nhỏ y sĩ, bác sĩ, nhân viên y tế. Thực tế nêu trên cho thấy, dịch bệnh tại Hà Nội đang diễn biến hết sức phức tạp và khó lường.
1 [N12] Cuộc chiến chống dịch Covid-19 trong năm 2021 cho thấy những thách thức rất lớn đối với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị nói chung và hệ thống y tế nói riêng. Thực tế … cho thấy Cuộc chiến chống dịch Covid-19 trong năm 2021 cho thấy
cho thấy 5 [N18]
Trên thực tế 2 [N22]
Theo chúng tôi 1 [N32]
1 [N32] chúng tôi nhận thấy
thực tế cho thấy 1 [N34]
Dự báo cho thấy 1 [N39] Những “mảnh ghép” cuối cùng là hàng không, du lịch, giáo dục và các hoạt động vui chơi, giải trí cũng đang được khôi phục, cho thấy sự trở lại rõ nét của cuộc sống bình thường mới. Trên thực tế, sau một thời gian dài bị “dồn nén”, nhu cầu đi du lịch của người dân là rất lớn. Theo chúng tôi, tiếng Việt trải qua quá trình phát triển lâu dài chịu sự tác động của các yếu tố lịch sử, văn hóa, thời đại đã có sự vay mượn ngôn ngữ của nước ngoài và có những từ không thể thay thế hoặc đã được Việt hóa tới mức yếu tố ngoại lai trở nên mờ nhạt. Trong những lần tham gia chương trình “Vua tiếng Việt” - một gameshow truyền hình rất thú vị về tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy phần nghe đọc rồi viết lại từ là câu đố không dễ với những thí sinh nhỏ tuổi, đặc biệt là thí sinh người nước ngoài. Thực tế cho thấy, suốt một thời gian dài học sinh không được giao tiếp, gặp gỡ bạn bè, thiếu tương tác với thầy giáo, cô giáo, nhiều em đã thay đổi tâm lý, bộc lộ các dấu hiệu mệt mỏi, buồn chán, mất ngủ, nghiện game, gặp phải các vấn đề về mắt... Trước đó, dự báo cho thấy, sẽ có một số yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá sau Tết, các chính sách hỗ trợ, kích thích kinh tế cũng có tác động nhất định lên mặt bằng giá cả.
Giọng điệu Xác nhận
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
1 [N2] Theo số liệu của X
2 [N3] Theo khảo sát của X
2 [N7] Số liệu của X cho thấy Theo số liệu của Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, có tới 60% số người cao tuổi trong độ tuổi từ 60 đến 69 đang tiếp tục làm việc. Theo khảo sát của Liên đoàn Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong hơn 2 năm qua đã có khoảng 90% doanh nghiệp buộc cho người lao động thôi việc do hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả. Số liệu của Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy thị trường lao động việc làm quý I/2022 đang dần phục hồi trở lại cùng với đà phục hồi của nền kinh tế.
PL-78
1 [N9] Những con số đó cho thấy
1 [N10] Dựa trên khảo sát ... nghiên cứu chỉ ra rằng
1 [N13]
Bản đồ cấp độ dịch Covid-19 vừa được Bộ Y tế công bố cho thấy
1 [N13] Kết quả đó cho thấy Đến nay Việt Nam đã ký hợp đồng mua, nhận viện trợ, tài trợ tổng số 211 triệu liều vắc-xin phòng Covid-19, trong đó đã tiếp nhận 156,4 triệu liều... Những con số đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ, ngành y tế trong việc trang bị "vũ khí" chống dịch. Dựa trên khảo sát với 2.000 nhân viên y tế các cấp, triển khai từ tháng 9 đến tháng 11/2021, nghiên cứu chỉ ra rằng: Khoảng 60% số nhân viên y tế phải đảm nhận khối lượng công việc, thời gian làm việc tăng đáng kể trong thời gian diễn ra đại dịch Covid-19. Bản đồ cấp độ dịch Covid-19 vừa đƣợc Bộ Y tế công bố cho thấy vùng xanh (dịch ở cấp độ 1, nguy cơ thấp), là vùng có mức độ bình thường mới trong phòng, chống dịch Covid- 19 tiếp tục được mở rộng, lấn át vùng vàng (dịch ở cấp độ 2, nguy cơ trung bình), vùng cam (dịch ở cấp độ 3, nguy cơ cao). Kết quả đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của tất cả các ngành, địa phương sau hơn ba tháng kiên trì thực hiện "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19" theo Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ.
1 [N15] Cập nhật đánh giá cấp độ dịch Covid-19 cho thấy cả nước có 48 tỉnh, thành phố ở cấp độ 1 (vùng xanh) và 15 tỉnh, thành phố ở cấp độ 2 (vùng vàng). Cập nhật đánh giá cấp độ dịch Covid-19 cho thấy
1 [N19] Thống kê của X cho thấy
1 [N19]
Cập nhật mới nhất về cấp độ dịch Covid-19 trong cả nước cũng cho thấy
1 [N20]
qua báo cáo theo dõi và giám sát công tác tiêm chủng cho thấy
3 [N22] Theo thống kê của X
1 [N27] Theo báo cáo của X
Trên thực tế 1 [N27]
2 [N28] Nghiên cứu của X cho thấy Thống kê của Bộ Y tế cho thấy, số mắc tăng cao nhất trong ba tuần đầu của tháng 3 rồi sau đó giảm mạnh; trung bình trong 7 ngày qua cả nước chỉ còn 3.237 ca nhiễm mới và hai ca tử vong mỗi ngày, trong đó, ngày 3/5 cả nước chỉ ghi nhận 2.709 ca mắc mới và không có tử vong; ngày 8/5 có 2.269 ca mắc mới và 1 ca tử vong. Cập nhật mới nhất về cấp độ dịch Covid-19 trong cả nƣớc cũng cho thấy các xã vùng xanh, vùng vàng chiếm tới 94,6% tổng số xã, phường trên toàn quốc, trong đó số xã, phường vùng xanh là 80,8% và 13,8% số xã vùng vàng... chỉ còn 16 trong tổng số 10.604 xã thuộc vùng đỏ (nguy cơ cao về dịch). Tuy nhiên, qua báo cáo theo dõi và giám sát công tác tiêm chủng cho thấy một số địa phương tiêm chậm, còn để vaccine đã được phân bổ tồn tại kho bảo quản vaccine khu vực, kho của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật; một số tỉnh chưa cập nhật đầy đủ dữ liệu tiêm chủng, làm ảnh hưởng đến việc cập nhật tiến độ chung của toàn quốc. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, trong 9 ngày nghỉ Tết Nguyên đán Nhâm Dần, 35 địa phương trong nước có các điểm đến du lịch quan trọng đã đón 6,2 triệu lượt khách. Theo báo cáo của Tổng cục Du lịch, trong bốn ngày nghỉ lễ vừa qua, ngành du lịch đã phục vụ khoảng 5 triệu lượt khách trong nước, trong đó có khoảng hai triệu lượt khách nghỉ đêm tại các cơ sở lưu trú; tổng thu từ du lịch ước đạt khoảng 22.000 tỷ đồng. Trên thực tế, thời gian qua, ngay khi nắm được thông tin các vụ việc, lực lượng chức năng đều lập tức vào cuộc điều tra, xác minh và giải quyết rất nhanh, phần lớn bảo đảm được quyền lợi và sự an tâm, hài lòng của du khách. Nghiên cứu của Hội đồng Tƣ vấn Du lịch (TAB) về tác động của việc miễn thị thực cho năm nước Tây Âu cũng cho thấy lượng khách trung bình từ các quốc gia này tới Việt Nam đã tăng gần 20%.
PL-79
4.2. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận
4.2.1. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Tuổi trẻ
4.2.1.1. Giọng điệu Trao đổi
Ví dụ minh họa Nguồn Tần suất Phương tiện ngôn ngữ
48 cần [T38]
chưa chắc [T12] 2
có chăng [T3] 1
có lẽ 12 [T43]
[T8] 1 không nhất thiết phải là
nên [T5] 8
liệu [T43] 9
phải [T38] 31
chắc chắn [T20] 1
chí ít cũng phải [T16] 1
có thể [T40] 32
Đừng [T38] 10
dường như [T42] 3
Lẽ nào [T13] 1
hãy [T24] 2
cần phải [T38] 9
[T29] 1 để có thể…thì phải
làm sao [T24] 1
không nên [T24] 3
không hiểu vì Vì vậy, nhân tình trạng treo biển hết xăng, cũng cần thanh lọc lại hệ thống các nhà phân phối. Đó là chưa nói tới rủi ro các quy định có thể được điều chỉnh, nhưng tính hợp lý vẫn chƣa chắc đã đạt được. Có chăng từ câu chuyện này sẽ là giọt nước tràn ly báo động về làn sóng nghỉ việc, vốn âm ỉ nhiều năm chưa có lời giải. Có lẽ số đông sẽ chọn phương án thứ nhất bởi giải pháp hợp lý, triển khai sớm sẽ hạn chế được hậu quả cho từng gia đình, doanh nghiệp và nền kinh tế. Người lãnh đạo thành phố không nhất thiết phải là kiến trúc sư hay nhà đô thị học, nhưng người lãnh đạo cần phải là một chính khách có một tầm nhìn xa và rộng. Để sẻ chia với khó khăn của nhà đầu tư, chúng ta đã lùi thời gian tăng lương nên đến thời điểm này tăng là phù hợp và vẫn còn thời gian để các doanh nghiệp chuẩn bị. Liệu chúng ta đã quyết liệt, đột phá để hạ nhiệt giá xăng dầu? Nhưng trách thương nhân cũng phải xem lại cách điều hành có lúc quá cứng nhắc. Cuộc sống sau đại dịch bộn bề khó khăn, nếu chúng ta vẫn giữ được nếp gia đình, chắn chắn cuộc sống thêm nhiều ý nghĩa không chỉ cho mỗi người mà cả người thân và xã hội. Những nội dung thông tin chí ít cũng phải có tác động đến tâm lý người dân ngang ngửa như những con số ca nhiễm mới đã phát huy tác dụng trong 2 năm qua. Có như thế mới có thể tránh tái diễn những câu chuyện lạ đời trong kinh doanh xăng dầu như đã xảy ra những ngày qua. Đừng để xảy ra treo biển hết hàng cơ quan chức năng mới vội cho người đi "tổng kiểm tra", ngó từng bồn xăng dầu để xử lý. Với con số CPI trong quý 1 chỉ tăng 1,92%, dƣờng nhƣ giá cả tăng chưa được cơ quan thống kê ghi nhận trong quý 1-2022. Lẽ nào cả nước và TP.HCM không lo nổi cho các "thiên thần áo trắng" một cái Tết đàng hoàng? Chúng ta hãy mạnh dạn đạt mục tiêu đón 5 triệu du khách, từng bước thu hẹp khoảng cách với Thái Lan trong và sau đại dịch. Nhưng ổn định thị trường xăng dầu, giữ vững an ninh năng lượng không chỉ tập trung giải quyết nguồn cung, mà trước mắt cần phải chấn chỉnh ngay khâu lưu thông phân phối. Vì vậy để có thể du lịch toàn tuyến - nhất là đoạn rạch Thị Nghè ra đến sông Sài Gòn rất đẹp và nhiều dấu tích lịch sử, thì phải cải tạo lại những cây cầu này một lần nữa, khá tốn kém và lâu dài. Làm sao để hành khách có được những trải nghiệm, ấn tượng tốt ngay từ khi họ đặt chân đến nước ta sau 2 năm đóng cửa. Tuyệt đối không nên để những hiện tượng tiêu cực, trục lợi tương tự xảy ra đối với du khách nước ngoài khi nước ta mở cửa quốc tế. Có điều không hiểu vì sao bộ vẫn hầu như không có động thái [T31] 1
PL-80
sao
sao có thể [T30] 1
giả sử [T41] 1
e rằng [T44] 1
Không lẽ [T44] 1
lẽ ra [T40] 1
xem như [T38] 1
Thôi thì [T44] 1 gì để trả lời trước công luận cũng như đưa ra những biện pháp để ngăn chặn sự việc có thể tái diễn. Những nơi đó sao có thể an toàn bằng nhà trường, nơi đã được chuẩn bị kỹ các biện pháp phòng dịch, đã sẵn sàng các kịch bản để trẻ đi học an toàn? Nhưng giả sử, giá xăng dầu thế giới vượt 120 USD/thùng, chúng ta có gì để làm mềm giá xăng dầu? Giờ có giảm thuế, e rằng hơi muộn. Không lẽ chúng ta đánh đổi giữa giảm thuế có lợi cho 100 triệu dân, cho nền kinh tế với một nhúm buôn lậu đường bộ, không phải tuồn bằng tàu hay sà lan bằng đường biển ngược ra quốc tế? Lẽ ra còn bao nhiêu, bán bao nhiêu phải là dữ liệu thực tế, ai găm hàng sẽ lòi ra ngay. Không được tăng giá bán, chẳng mấy ai vui vẻ mở cửa bơm xăng với mức chiết khấu... 0%, xem nhƣ lỗ! Thôi thì có áp thuế cũng tạm tránh những lúc thị trường đang căng thẳng, giá cả đang bào mòn túi tiền người dân.
4.2.1.2. Giọng điệu Quy Gán – Thừa nhận
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
X tâm sự [T1] 1
[T1] 1 Theo lời kể của X
X phân tích 1 [T1]
X thừa nhận [T40] 3
Theo lời X [T1] 1
X bộc bạch rằng 1 [T1]
[T2] 1 Theo tính toán của X
X khẳng định "Dịch bệnh thì đang diễn biến phức tạp, học sinh thì sắp đi học lại - vậy mà cô nhân viên y tế của trường tôi lại xin nghỉ việc. Mấy ngày nay chúng tôi dò hỏi, mời gọi... khắp nơi nhưng vẫn không tuyển được người mới" - hiệu trưởng một trường THCS nổi tiếng ở TP.HCM tâm sự. Theo lời kể của thầy hiệu trưởng, cô nhân viên y tế học đường này đã bền bỉ làm việc 20 năm nay tại ngôi trường THCS do thầy quản lý. "Vậy mà lương của cô tính theo ngạch, bậc chỉ có 5.971.000 đồng, bao gồm cả phụ cấp. Với bối cảnh dịch bệnh như hiện tại, công việc cũng như trách nhiệm của nhân viên y tế học đường rất áp lực và căng thẳng, nhất là việc xử lý các tình huống phát sinh liên quan đến dịch bệnh, khi học sinh đi học lại. Hiện nguồn tuyển nhân viên y tế đã rất eo hẹp rồi, mức lương lại quá eo hẹp nữa nên việc tuyển người mới rất nan giải" - thầy hiệu trƣởng phân tích. Mặt khác, doanh nghiệp đầu mối cũng thừa nhận có tình trạng găm hàng, chờ tăng giá bởi xác suất cao là tại kỳ điều hành mới vào ngày 21-2, xăng dầu sẽ tăng giá. Theo lời các hiệu trƣởng trường phổ thông ở TP.HCM, quy định của Bộ GD-ĐT yêu cầu nhân viên y tế học đường không chỉ tổ chức các hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức khỏe học sinh mà còn tổ chức các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khỏe cho học sinh trong trường học. Các trƣờng bộc bạch rằng: chỉ dám yêu cầu nhân viên y tế luôn có mặt tại trường trong giờ hành chính, đảm bảo khi học sinh gặp "sự cố" thì có ngay người xử lý về y tế. Theo tính toán của Chính phủ, chính sách hỗ trợ tiền trọ sẽ tác động đến khoảng 4 triệu công nhân, trong đó có 3,6 triệu công nhân đang làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế trọng điểm và thu hút 400.000 lao động trở lại các nhà máy. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia dịch tễ đã khẳng định trong [T30] 2
PL-81
X nói rằng 4 [T40]
1 [T17] Báo cáo của X cho hay
Theo X 8 [T38]
X cho biết 6 [T36]
X cho rằng 2 [T25]
X nhấn mạnh 2 [T11]
X nhận định 1 [T17]
X thông tin 1 [T11]
1 [T22]
1 [T29] Theo thông tin trên một số tờ báo Ai đó nói đầy ước ao rằng
X bình luận rằng 1 [T21]
1 [T21] Thông tin mới nhất cho hay
X khoe 1 [T23]
X chia sẻ 1 [T36]
X băn khoăn 1 [T37] bối cảnh người lớn đã "bình thường mới", trẻ ở nhà chưa chắc đã an toàn. Không ít cây xăng lại nói rằng họ chỉ bán lẻ khâu cuối trong chuỗi cung ứng, doanh nghiệp đầu mối xuất bao nhiêu họ bán bấy nhiêu, nghĩa là vấn đề không hẳn nằm tất cả ở cây xăng. Báo cáo của Bộ Y tế cho hay so với tháng 1, số mắc COVID- 19 ở nhóm trẻ tiểu học, nhóm chưa tiêm vắc-xin đã gia tăng trong tháng 2 kể từ khi đi học trực tiếp trở lại sau Tết. Nhưng theo Bộ Công thƣơng, nhiều cây xăng hết hàng là do lỡ mua của các thương nhân quy mô nhỏ, trong khi các doanh nghiệp đầu mối lớn (chiếm trên 90% thị phần) vẫn kiên trì bán xăng dầu cho người tiêu dùng. Chị Hạnh, người mẹ có con 5 tuổi, cho biết: "Đầu năm 2020, khi đó con 3 tuổi được xếp vào lớp mầm. Sau hai năm đại dịch, con tôi đã 5 tuổi. Rất nhiều đứa trẻ như con tôi đã kịp thay vài cỡ áo quần trong thời gian chờ đợi". Có mặt tại hiện trường, ông Khuất Việt Hùng - phó chủ tịch chuyên trách Ủy ban An toàn giao thông quốc gia - cho rằng đây là một bài học đau xót bởi số người chết và mất tích quá nhiều. Phát biểu tại hội nghị Chính phủ với các địa phương, Tổng bí thƣ Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh sẽ tiếp tục thúc đẩy công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, “làm liên tục, chứ không phải vì có dịch COVID-19 mà ngừng lại, dừng làm, không dám xử lý cái nọ, cái kia”. Khi dịch COVID-19 mới bùng phát, nhiều ý kiến nhận định COVID-19 có vẻ không "mặn mà" với trẻ em, thông qua dấu hiệu số ca mắc và tình trạng bệnh ở trẻ, ở tỉ lệ chuyển nặng và tử vong rất thấp. Trong báo cáo gửi đến các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp bất thường đang diễn ra, Chính phủ thông tin: "Công ty Việt Á đã lợi dụng tình trạng dịch bệnh để trục lợi, đồng thời một số cá nhân đã vi phạm các quy định trong tổ chức thực hiện mua sắm, đấu thầu và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ". Theo thông tin trên một số tờ báo, vì giá phòng nghỉ được hét quá cao nên một số du khách bình dân chỉ đi xe máy đến Vũng Tàu ngắm biển, dạo lòng vòng rồi… trở về. Ai đó nói đầy ƣớc ao rằng đi trên kênh mà cứ nghĩ chuyện "đi thuyền trên sông Seine ở Paris" Đã có ngƣời bình luận rằng Việt Nam đang xếp hạng 35/233 về số lượng ca nhiễm, du khách không sợ thì thôi, vì sao Việt Nam lại sợ du khách mang virus tới?! Thông tin mới nhất cho hay với chính sách mở cửa phập phù của chúng ta, một số hãng lữ hành, tàu biển nước ngoài đã hủy tour đến Việt Nam tới tháng 5-2022. Giám đốc một doanh nghiệp du lịch mừng rỡ khoe năm nay công ty ông vừa thưởng lương tháng 13 cho nhân viên, các tour Tết đang dần dần chốt sổ. "Dù biết có thể chỉ chờ thêm vài tuần hay một tháng nữa nhưng chúng tôi không còn đủ sức nữa, đành phải buông tay", một chủ trƣờng chia sẻ vào cuối tháng 3-2022 sau khi đã chuyển nhượng mặt bằng, thanh lý tài sản. Vị đại biểu ấy, bà Nguyễn Thị Kim Thúy, phó chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, đã dẫn Luật khiếu nại tố cáo và băn khoăn: “Lẽ ra bộ phải trả lời cho người chuyển thông tin, cụ
PL-82
X kể [T34] 2
X phát biểu rằng 1 [T35]
[T37] 1 X trải lòng như thế
X cảnh báo [T42] 1
X đề xuất [T42] 1
X phân trần [T40] 1
ý kiến của X [T44] 1
thể là tôi, về việc xử lý như thế nào trong vòng 20 ngày kể từ khi tiếp nhận. Nhưng tới thời điểm hiện tại, tôi chưa có thông tin chính thức phản hồi từ bộ”. Vị phụ huynh này kể: “Con trai lớp 6 đi học được 2 ngày, bạn ngồi cạnh là F0, cháu là F1, nhà trường yêu cầu ở nhà cách ly 14 ngày. Cũng là F0 nhưng trường THPT, nơi con gái lớn học lớp 12, lại xử lý khác. Trường đề nghị học sinh F1 tự test, nếu âm tính vẫn đến trường. Nhiều giáo viên, phụ huynh, học sinh đã phát biểu trên báo chí và các diễn đàn rằng việc dạy và học hiện nay quá hình thức - thậm chí thiên về "chức năng trông trẻ". “Nếu chúng ta không duy trì được sự công bằng, minh bạch trong các kỳ thi thì mọi điều làm cho học trò đều sẽ trở nên vô nghĩa” – thầy Đinh Đức Hiền, người đã nhiều lần viết thư cho lãnh đạo Bộ GD-ĐT về vụ lộ đề luyện thi môn sinh kỳ thi tốt nghiệp THPT 2021 – đã trải lòng với Tuổi Trẻ như thế. Nhiều nƣớc trên thế giới đã cảnh báo “thảm họa” giá lương thực do nguồn cung bị ảnh hưởng bởi xung đột. Nhƣ một số chuyên gia đã đề xuất, tạm thời bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt với xăng để hỗ trợ túi tièn của đại đa số người dân sống ở đô thị. Về phần mình, các doanh nghiệp đầu mối lại phân trần do Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn giảm công suất gây sụt nguồn cung nhất thời, trong khi nhập khẩu không thể có ngay. Như ý kiến của đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân, Chính phủ cần sớm trình đề xuất tạm thời giảm, miễn thuế để Quốc hội quyết định, lồng ghép ngay trong nghị quyết cuối kỳ với mục tiêu lớn nhất là kiềm chế lạm phát, giảm bớt khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.
4.2.2. Tiểu hệ thống Mở rộng hội thoại trong các diễn ngôn trong các diễn ngôn bình luận trên báo Nhân dân
4.2.2.1. Giọng điệu Trao đổi
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
Cần 130 [N1]
chắc chắn 1 [N3]
có thể [N4] 11
nên [N3] 5
phải [N1] 17
lẽ ra Các đoàn giám sát, kiểm tra cần triển khai công việc với tinh thần bám sát thực tế, đi sâu tìm hiểu những khó khăn, trở ngại; trực tiếp thăm hỏi các đối tượng chưa được thụ hưởng… Bởi chắc chắn có nhiều công nhân sẽ cố gắng làm thêm giờ dẫn đến tình trạng suy kiệt về sức khỏe, giảm sút năng suất lao động, khi đó chất lượng sản phẩm không bảo đảm, gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Tăng ca kéo dài có thể dẫn tới việc doanh nghiệp khai thác quá mức, dẫn đến cạn kiệt sức lực, ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động, khi đó, mục đích năng suất lao động sẽ không được cải thiện như mong muốn. Do đó, việc tăng giờ làm chỉ nên áp dụng trong thời gian ngắn để các doanh nghiệp dồn sức, dồn người, tăng ca hoàn thành các đơn hàng đang ùn ứ. Và do đó, việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 phải bảo đảm đúng điều kiện, đối tượng, tuyệt đối không được để xảy ra lãng phí, thất thoát, trục lợi. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang đứng tốp đầu thế giới [N14] 1
PL-83
không thể 1 [N28]
phải có 2 [N21]
thiết nghĩ 1 [N26]
không nên 2 [N36]
xin hãy 1 [N32]
cần phải 1 [N43]
chỉ cần…sẽ 1 [N40]
để 1 [N45] về tiêm vaccine phòng Covid-19 với hơn 170 triệu liều đã được tiêm, phần lớn người dân đã tiêm 2 đến 3 mũi vaccine, mức độ hiểu biết về Covid-19 cũng khác nhiều so với Tết 2021; khả năng phòng, chống dịch của hệ thống y tế cũng tốt hơn trước; chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm chống dịch, đang dần thích ứng an toàn với dịch bệnh thì lẽ ra việc đi lại của người dân và mở cửa du lịch phải thuận lợi hơn. Để làm được điều này, không thể thiếu độ “mở” về chính sách visa. Các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch phải có kế hoạch và tiêu chí cụ thể bảo đảm an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-19. Thiết nghĩ, cơ quan quản lý du lịch, chính quyền các tỉnh, thành phố, địa phương cần tổ chức kiểm tra các hoạt động du lịch, điểm du lịch tự phát, không đủ điều kiện, không đăng ký hoạt động kinh doanh để chấn chỉnh kịp thời. Bên cạnh trách nhiệm của ngành giáo dục, chính cha mẹ học sinh cũng cần vào cuộc, sẵn sàng đấu tranh, lên tiếng, kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục; không nên tạo thêm áp lực không đáng có đối với con em mình… Xin hãy thận trọng, khoa học và chính xác để dạy cho các em học sinh của chúng ta học được cái thần tình ấy. Do đó, việc chống buôn lậu xăng dầu cần phải có cách làm mới, thường xuyên và triệt để hơn. Chỉ cần có nguồn cung tín dụng dồi dào, lãi suất giảm đồng bộ với quy mô lớn, liên tục, tập trung vào sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; sẵn sàng mua/bán ngoại tệ với tổ chức tín dụng, sẽ giúp bình ổn thị trường và kinh tế vĩ mô..., đồng thời siết chặt quản lý thị trường, chống hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu, sẽ triệt tiêu được động cơ tăng giá vô tội vạ. Do đó, đã đến lúc chúng ta để mặt hàng xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường và người tiêu dùng hoàn toàn chấp nhận sự tăng, giảm khi mức giá được điều chỉnh theo thị trường.
4.2.2.2. Giọng điệu Quy Gán – Thừa nhận
Ví dụ minh họa Nguồn Phương tiện ngôn ngữ Tần suất
Ý kiến của X 1 [N3]
X cho rằng 8 [N4]
X cảnh báo rằng 1 [N4]
X nhận định 3 [N5]
X băn khoăn 2 [N6]
Tuy nhiên, nhiều ý kiến của các chuyên gia về lao động vẫn thật băn khoăn với việc tăng giờ làm thêm vì cho rằng, các doanh nghiệp sẽ “vắt kiệt” sức lao động. Phía doanh nghiệp cho rằng, vào thời điểm hiện tại khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu hụt lao động do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng thời giờ làm thêm là phù hợp, giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh. Do đó, các chuyên gia cũng cảnh báo rằng, tăng thời gian làm thêm không quá 60 giờ/tháng chỉ nên thực hiện trong một thời điểm nhất định. Các chuyên gia lao động, công đoàn nhận định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thời điểm này có thể gây cú sốc chi phí nhất định cho doanh nghiệp. Điều các chuyên gia lao động, công đoàn cũng nhƣ đại diện doanh nghiệp băn khoăn là, chính sách chỉ áp dụng cho lao động làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tại khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc khu vực kinh tế trọng điểm.
PL-84
X cho biết 7 [N6]
2 [N6] Theo phản ánh của X
X nhấn mạnh 2 [N8]
Được biết 1 [N16]
Được dự báo 1 [N18]
1 [N9] Theo ghi nhận của X
Theo X 7 [N18]
X ghi nhận 1 [N18]
X có cái nhìn 1 [N18]
X công bố 1 [N10]
X giải thích 1 [N16]
X dự báo 1 [N18]
X đánh giá 1 [N19]
theo phản ánh 1 [N28]
Một số công đoàn cơ sở cho biết, về nguyên tắc, lao động thời vụ đang làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh tế vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó, theo phản ánh của nhiều công nhân, lao động khu vực phía nam, một số chủ nhà trọ không muốn cung cấp số căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân của mình cho công nhân làm đơn đề nghị hỗ trợ tiền nhà trọ với lý do đó là thông tin cá nhân, không tùy tiện cung cấp. Tại nghị trường Quốc hội, có đại biểu đã nhấn mạnh: Y học nước ta có tiến bộ, đội ngũ y, bác sĩ tay nghề chuyên môn cao ngày càng nhiều, tuy nhiên chưa tỷ lệ thuận với y đức. Đƣợc biết để tránh tình trạng đầu cơ nhằm trục lợi, hầu hết các cơ sở bán thuốc trên địa bàn Hà Nội đều phải ký cam kết không găm hàng thổi giá, dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 đƣợc dự báo lạc quan sau hai năm liên tiếp tăng trưởng dưới mục tiêu do tác động của dịch. Tuy nhiên, theo ghi nhận của Bộ Y tế những ngày gần đây, tiến độ tiêm của cả nước có xu hướng giảm nhiều, tỷ lệ sử dụng vắc-xin trong tổng số vắc-xin được phân bổ của nhiều địa phương còn thấp trong khi tỷ lệ bao phủ vắc-xin cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên chưa cao (dưới 85%). Theo các chuyên gia kinh tế, để vực dậy nền kinh tế sau đại dịch không thể chỉ trông vào một vài động lực tăng trưởng mà phải có chính sách tổng thể. Ngân hàng Thế giới trong báo cáo Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 2/2022 công bố, đã ghi nhận các chỉ số chính của nền kinh tế tăng mạnh trước dịp Tết Nguyên đán nhờ tỷ lệ bao phủ vaccine đã vượt mức 73% dân số. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới Fitch Ratings cũng có cái nhìn lạc quan nhất về kinh tế Việt Nam, khi đưa ra nhận định kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7,9% vào năm 2022 và 6,5% vào năm 2023, nhờ thị trường trong nước phục hồi và hoạt động xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng mạnh. Mới đây, Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam đã công bố nghiên cứu về tình trạng lương khu vực công đối với nhân viên y tế tuyến đầu trong Covid-19 với nhiều thống kê đáng lo ngại. Nguyên nhân được các cơ sở bán hàng giải thích là do nhu cầu tăng đột biến, các cửa hàng thường không dự trữ nhiều. Các chuyên gia kinh tế của Ngân hàng Standard Chartered cũng đƣa ra dự báo triển vọng trung hạn của Việt Nam duy trì tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2022 dự kiến đạt 6,7% và đạt mức 7% vào năm 2023, tiếp tục là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu và là điểm đến được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Tuy nhiên, dự báo dịch vẫn diễn biến khó lường, Tổ chức Y tế thế giới đánh giá thế giới vẫn đang trong giai đoạn đại dịch và cảnh báo về những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể xảy ra làm cho diễn biến dịch trở nên phức tạp và gia tăng trở lại. Song theo phản ánh, nhiều khách lẻ đến từ các quốc gia không được miễn thị thực gặp khó khăn liên quan các giấy tờ, thủ tục để được cấp visa, ngay cả việc đề nghị cấp thị thực điện tử cũng chưa được xác nhận thời gian trả kết quả.
PL-85
X lo ngại 1 [N28]
1 [N28] Theo phân tích của X
X khẳng định 2 [N32]
1 [N32] Xin được nhắc lại lời của X
1 [N35] Theo dự thảo quy chế
1 [N45] phần lớn ý kiến cho rằng
1 [N44] theo báo cáo của X
1 [N44] Theo đánh giá của X
Theo dự báo 1 [N45]
1 [N38] Theo lý giải của X
1 [N41] Theo nhận định của X
1 [N43] Theo thống kê của X
Giới chuyên môn lo ngại tình trạng này sẽ gây cản trở lớn cho việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam. Theo phân tích của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (WTTC), sự thuận lợi của việc cấp thị thực nhập cảnh có khả năng làm tăng lượng khách quốc tế từ 5 đến 25% mỗi năm. Ngay sau đó, Phó Giáo sƣ Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên bộ sách tiếng Việt lớp 1 đã lên tiếng khẳng định, trong sách giáo khoa nói trên, chữ “p” và âm “pờ” vẫn được dạy như trong phần đánh vần ở cuối các âm tiết như op, ốp... hay ep, ếp… và trong những từ như lốp xe, cặp da, cá mập... Xin đƣợc nhắc lại lời của dịch giả Nguyễn Thụy Ứng khi ông viết về cái thần tình của tiếng Việt: “Một thứ tiếng giản dị lạ lùng, trong đó các từ hoàn toàn không có phụ đầu, biến vĩ; danh từ không có giống đực, giống cái, giống trung, số nhiều, số ít; động từ không biến theo thời, thái; tính từ không có thể so sánh, thể tối cao; thậm chí các hư từ như giới từ, liên từ cũng rất ít dùng thế mà vẫn phản ánh trọn vẹn tất cả các khái niệm, phạm trù và quan hệ lô-gic cần thiết, bảo đảm đầy đủ hiệu quả thông tin để tất cả các thế hệ dân tộc ta trong mấy chục thập kỷ có thể cùng nhau bàn bạc làm ăn, nuôi dạy con cái, xây dựng và gìn giữ đất nước, lại có đủ tính khoa học để viết về tất cả các môn khoa học chính xác, đủ chất thơ để nuôi dưỡng tâm hồn toàn dân hoàn thành những sự nghiệp đòi hỏi một nghị lực và óc tưởng tượng phi thường...”. Theo dự thảo quy chế, những điểm mới nhằm tăng quyền lợi, bảo đảm công bằng, minh bạch, hiệu quả hơn trong tuyển sinh năm 2022. Trong đó, phần lớn ý kiến cho rằng nên xóa bỏ quỹ, bởi trên thực tế giá xăng dầu trong nước đang bám sát theo giá xăng dầu thế giới. Ở lĩnh vực hàng không, theo báo cáo của các hãng, chi phí nhiên liệu chiếm khoảng 30 đến 42% tổng chi phí chuyến bay; giai đoạn cuối tháng 3 vừa qua, khi giá dầu thô có dấu hiệu chững lại thì giá xăng máy bay Jet A1 vẫn tiếp tục tăng cao. Theo đánh giá của Bộ Công thƣơng, trong hai tháng (từ kỳ điều hành giá xăng, dầu đầu năm 2022 ngày 11/1 đến ngày 11/3), đã có 6 kỳ điều hành đều tăng giá. Theo dự báo, giá xăng dầu còn tiếp tục xu hướng tăng cao trong thời gian tới, do vậy, các đơn vị, cơ quan quản lý lĩnh vực này cần chủ động, linh hoạt trong điều hành giá cũng như đảm bảo nguồn cung xăng dầu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hạn chế tác động xấu tới phát triển kinh tế. Theo lý giải của các đại lý và thƣơng nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, việc ngừng bán hàng do nguồn cung ứng xăng bị hạn chế, chiết khấu bán hàng thấp dẫn đến tình trạng càng bán, doanh nghiệp càng thua lỗ. Theo nhận định của các chuyên gia, kỳ điều chỉnh giá xăng dầu vào hôm nay (11/3) sẽ tiếp tục khiến hàng loạt loại hàng hóa khác rục rịch tăng theo. Theo thống kê của Tổng cục Quản lý thị trƣờng (Bộ Công thương), trong năm 2021, lực lượng quản lý thị trường trên cả nước kiểm tra hơn 2.000 vụ vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, xử lý 240 vụ, xử phạt vi phạm hành chính hơn tám tỷ đồng.