BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN PHẠM THỊ THÀNH
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI ĐỐI VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
Ngành : Báo chí học
Mã số : 60 31 02 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. TẠ NGỌC TẤN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của cá nhân tôi. Các số liệu sử dụng trong luận án
này là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào khác.
Tác giả
Phạm Thị Thành
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHAN KHÔI 1. Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước 2. Tình hình nghiên cứu Phan Khôi ở ngoài nước 3. Những vấn đề đặt ra
9 9 27 31
Chương 1: THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI NỬA
ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX 1.2. Sự phát triển báo chí đầu thế kỷ XX 1.3. Thân thế và quá trình hoạt động báo chí của Phan Khôi 33 33 41 63
Chương 2: QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG CÁC TÁC
PHẨM BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI
2.1. Quan điểm chính trị 2.2. Quan điểm xã hội 78 79 99
Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI ĐỐI VỚI PHÁT
TRIỂN TIẾNG VIỆT TRONG BÁO CHÍ
3.1. Những đóng góp của Phan Khôi với Việt ngữ học 3.2. Phát triển cách diễn đạt hiện đại vào ngôn ngữ báo chí 3.3. Phổ biến và phát triển tiếng Việt 121 123 132 141
149 Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI TRONG PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI TÁC PHẨM BÁO BÁO CHÍ VÀ KỸ NĂNG LÀM BÁO
4.1. Quan điểm của Phan Khôi về nghề báo và những kỹ năng hoạt
động nghề nghiệp 150
4.2. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại tiểu
phẩm báo chí 162
4.3. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại bình
luận, chuyên luận 176
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
183 189 190
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nửa đầu thế kỷ XX, Phan Khôi là nhà báo nổi bật. Ông là cây bút nổi
tiếng về sự sắc sảo và thẳng thắn, thường đề cập đến các vấn đề thời sự, nhạy
cảm trong xã hội. Ông cũng là người khởi xướng và tham gia những cuộc
tranh luận sôi nổi trên báo chí thời bấy giờ.
Vốn là người thông minh, nhạy cảm trước cái mới và giàu tinh thần
nhập thế, ông sớm bỏ lối học khoa cử, để chuyển sang học chữ quốc ngữ và
tiếng Pháp. Ông là một trong những người đầu tiên cắt tóc ngắn, hưởng ứng
vận động duy tân. Chính phong trào cách mạng sôi động những năm đầu thế
kỷ XX đã cuốn Phan Khôi vào hoạt động báo chí. Nhờ tiếp thu được những tư
tưởng tiến bộ từ Cách mạng Tân Hợi 1911, phong trào Ngũ Tứ 1919 ở Trung
Hoa cùng với làn sóng tân thư mà Phan Khôi đã bàn luận một cách thẳng thắn
trên báo chí về những vấn đề rất mới bấy giờ như: Vai trò người phụ nữ trong
thời đại mới; về vai trò người trí thức trong vận hội mới của dân tộc… Riêng
về vấn đề nữ quyền, Phan Khôi cho rằng phụ nữ có quyền bình đẳng với nam
giới, người phụ nữ không phải là những người chỉ biết quẩn quanh nơi góc
nhà, xó bếp mà họ có quyền tham gia các hoạt động xã hội, có quyền được
học hành và nuôi chí tiến thủ. Có thể nói, với tư tưởng cấp tiến đó, Phan Khôi
xứng danh là một trong những người khởi xướng phong trào “nữ quyền” ở
nước ta ngay từ những năm đầu thế kỷ XX.
Thời kỳ làm báo sung sức nhất của Phan Khôi là những năm 1928-
1939, đặc biệt là quãng thời gian ông làm chủ bút tờ Phụ nữ Tân văn (từ
02/5/1929 đến 21/4/1935). Đây là tờ báo lớn, được phát hành trong cả nước.
Trong hàng loạt bài báo đầy màu sắc luận chiến, Phan Khôi luôn đề cập đến
những vấn đề nóng bỏng và bức thiết được xã hội bấy giờ quan tâm, trong đó
có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ và văn tự. Cụ thể
là, ông quan tâm đến việc viết chữ quốc ngữ phải viết cho đúng, đính chính
2
những chữ mà người sử dụng hay dùng sai nghĩa; việc dùng điển tích trong
thơ văn và chú thích; cách đặt quán từ, danh từ, động từ… Những bài viết này
có ý nghĩa rất quan trọng, vì đây là thời kỳ chữ quốc ngữ đang trong quá trình
hoàn thiện ở nước ta. Những bài báo của Phan Khôi luôn gây được sự chú ý
bởi tính thẳng thắn trong suy nghĩ và cách trình bày hấp dẫn, rành mạch, đậm
chất duy lý. Tiếp cận, phân tích các tác phẩm báo chí của Phan Khôi, một
điều dễ nhận thấy là sự nhất quán trong tinh thần học thuật của ông - Phan
Khôi luôn trọng lý. Ông là người ưa nhập thế, thích tranh luận để làm sáng tỏ
chân lý. Chính trong những cuộc bút chiến này, độ sắc sảo của ngòi bút Phan
Khôi được bộc lộ một cách rõ nét nhất. Tinh thần nhập thế và ý thức luôn tìm
đến cái mới đã tạo nên nguồn cảm hứng tranh luận trong ngòi bút của ông.
Với bút lực mạnh mẽ, ý tưởng dồi dào, ông đã vận dụng luận lý học để giải
thích và bàn luận sâu nhiều vấn đề học thuật và tư tưởng.
Từ số lượng khổng lồ các tác phẩm báo chí, có thể nói, ông là người có
những đóng góp to lớn thúc đẩy sự phát triển của báo chí Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX. Những đóng góp đó đã được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận và đánh giá
rất cao. Trong bài viết tham dự tọa đàm nhân dịp 120 năm ngày sinh của Phan
Khôi (1887-2007), tác giả Lê Minh Quốc (làm công tác nghiên cứu, sưu tầm
danh nhân lịch sử nước Việt) viết: “Nếu chỉ chọn lấy một nhà báo tiêu biểu nhất
của xứ Quảng trong thế kỷ XX, tôi sẽ chọn lấy Phan Khôi. Đó là một hình ảnh
kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại”. Tác
giả Lại Nguyên Ân sau quá trình sưu tầm khối lượng khổng lồ các tác phẩm báo
chí của Phan Khôi những năm 20-30, thế kỷ XX đã nhận định:
Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách
nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng
lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ
mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn (...) Phan
Khôi hoàn toàn không thể hiện mình như một chí sĩ; ông sống như
3
một người thường trong đời thường, chỉ hoạt động chuyên nghiệp
như một nhà ngôn luận, chỉ tác động đến xã hội bằng ngôn luận.
Phan Khôi thuộc trong số những trí thức hàng đầu có công tạo ra
mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu
thế kỷ XX [12, tr.443-444].
Với sức lao động phi thường, thể hiện ở số lượng tác phẩm báo chí khổng
lồ đăng tải trên báo chí khắp ba miền từ những năm 20 đến những năm 50 của thế
kỷ XX (các tờ: Đông Tây, Đăng Cổ Tùng báo, Nam Phong, Thực nghiệp dân báo,
Hữu Thanh, Hà Nội báo, Phụ nữ thời đàm… ở Hà Nội; Đông Pháp thời báo,
Thần chung, Phụ nữ Tân văn, Trung lập…ở Sài Gòn; Tràng An và thành lập tờ
Sông Hương ở Huế…), Phan Khôi thực sự là tên tuổi lớn của báo chí Việt Nam.
Tuy nhiên, do những quan điểm về văn nghệ, “lúc đó là sau vụ Nhân
Văn Giai Phẩm, ông bị cách ly và không được quyền đăng bài vở, không
được quyền công bố gì cả, thành ra sau cái chết có thể nói là rất lặng lẽ của
ông vào năm 1959, thì dư luận, sách vở ở miền Bắc hầu như là lãng quên ông
hoàn toàn” [12, tr.444]. Là người đã dày công sưu tầm các tác phẩm đăng báo
của Phan Khôi giai đoạn 1928-1938, tác giả Lại Nguyên Ân cũng khẳng định
ông mới sưu tầm tác phẩm của Phan Khôi, chứ chưa đặt bút để bàn luận về
nhân vật này. Theo Lại Nguyên Ân, những tư tưởng của Phan Khôi về các
vấn đề xã hội, về con đường phát triển đất nước, về những nhược điểm của
dân tộc Việt Nam… cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và tính giá trị,
và các bài báo, sức sáng tạo, đóng góp cho báo chí thời Pháp thuộc của Phan
khôi có ý nghĩa lớn đối với các nhà báo hiện nay ở Việt Nam.
Như vậy, việc tìm hiểu, tổng kết “những đóng góp của Phan Khôi đối
với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX” là nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng và
cấp thiết, góp phần phác họa chân dung một trong số những nhà báo hàng đầu
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - Phan Khôi, đồng thời bổ sung tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng
4
thêm một lần tìm đến sự đánh giá tương đối công bằng về những đóng góp
của Phan Khôi đối với báo chí cũng như nền văn hóa Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở việc tìm hiểu, phân tích sự nghiệp báo chí và khắc họa chân
dung nhà báo Phan Khôi, luận án sẽ tổng kết, đánh giá những đóng góp của
ông đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX; tìm đến sự nhìn
nhận công bằng, khách quan hơn đối với Phan Khôi trong lịch sử báo chí Việt
Nam. Kết quả của luận án sẽ góp phần cung cấp tài liệu tham khảo có ý nghĩa
giúp những người làm công tác nghiên cứu có cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ
hơn trong quá trình nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Phan Khôi; bối cảnh xã hội Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX và những điều kiện chính trị - xã hội ảnh hưởng đến
hoạt động báo chí của ông.
- Nghiên cứu hệ thống tác phẩm báo chí của Phan Khôi và những hoạt
động của ông trong lĩnh vực báo chí.
- Phân tích làm rõ những thành tựu trong hoạt động báo chí của Phan
Khôi và ảnh hưởng của những hoạt động đó đối với xã hội, với diện mạo báo
chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Từ đó, làm sáng tỏ những đóng góp của
ông đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, trên các khía cạnh: Sự phát
triển những quan điểm chính trị - xã hội, học thuật thông qua báo chí; ngôn
ngữ; thể loại, nghiệp vụ báo chí; những bài học cho người làm báo hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX, hệ thống các tác phẩm, các hoạt động của Phan Khôi trong lĩnh vực báo
5
chí, những ý kiến đánh giá về Phan Khôi và hoạt động báo chí của ông qua
các thời kỳ để làm rõ những đóng góp của Phan Khôi đối báo chí Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, luận án tập trung khảo sát các
tác phẩm báo chí của Phan Khôi từ năm 1928 đến năm 1939. Đây là thời gian
nhà báo Phan Khôi hoạt động nghề nghiệp sung sức nhất, để lại dấu ấn đậm
nét nhất đối với nền báo chí Việt Nam. Những kết quả lao động báo chí của
ông thời kỳ này đã góp phần tạo nên diện mạo báo chí Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
- Các ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà báo và các tác giả khác phân
tích, nhận xét, đánh giá về cuộc đời, hoạt động báo chí của Phan Khôi.
- Trong điều kiện khó khăn về tìm kiếm và tập hợp tư liệu, trong luận
án, một số tác phẩm báo chí của Phan Khôi được thống kê toàn bộ, một số
khác được nghiên cứu khảo sát mang tính chọn lọc, đại diện.
- Nguồn tư liệu về các tác phẩm báo chí của Phan Khôi làm cơ sở cho
những phân tích trong luận án được khai thác chủ yếu từ các cuốn sách do tác
giả Lại Nguyên Ân sưu tầm. Các nguồn khác từ chương trình phát thanh của
Đài RFI hay trên các trang mạng ngoài nước dùng để tham khảo, đối chứng.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Do những quan điểm về văn nghệ và mối quan hệ với nhóm Nhân Văn
Giai Phẩm của Phan Khôi những năm 1956-1958, nên hiện nay những đánh
giá về ông không nhất quán, với các luồng ý kiến trái ngược nhau: Có ý kiến
đánh giá rất cao những đóng góp của Phan Khôi trong các lĩnh vực lịch sử,
văn học, báo chí, văn hóa, xã hội,… nhưng cũng không ít ý kiến phê bình, chỉ
trích gay gắt các quan điểm của ông. Có một xu hướng thứ hai là: Do những
tế nhị liên quan đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm, người ta không nhắc đến Phan
Khôi, và do đó, ông trở thành người xa lạ! Đây chính là tình huống có vấn đề.
6
Vì vậy câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là: Cần phải đánh giá về Phan Khôi thế nào
cho công bằng, nhất là những đóng góp của ông đối với nền báo chí nước nhà?
Luận án đưa ra hai giả thuyết như sau:
Thứ nhất: Mặc dù còn có những ý kiến phê bình thậm chí là chỉ trích
các quan điểm của Phan Khôi nhưng không thể phủ nhận ông đã có những
đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Thông qua hoạt động báo chí, ông có những đóng góp trên nhiều lĩnh
vực lịch sử, văn học, văn hóa, xã hội.
Thứ hai: Còn có sự đánh giá không công bằng đối với những đóng góp
“tích cực” và những điểm “tiêu cực” đối với Phan Khôi.
Luận án “Những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam
đầu thế kỷ XX” sẽ tìm những luận cứ góp phần làm sáng tỏ giả thuyết nghiên
cứu nêu trên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: phương pháp luận biện chứng Mác-Lênin và những
tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về báo chí; Đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như: thống kê, phân tích tài liệu
sẵn có, lịch sử so sánh (đồng đại, lịch đại), chuyên gia, tổng hợp. Cụ thể:
- Phương pháp thống kê, phân tích tài liệu sẵn có: Rà soát, thống kê
những ấn phẩm báo chí của nhà báo Phan Khôi. Luận án cũng thu thập và
phân tích những tài liệu nghiên cứu lịch sử báo chí về Phan Khôi cũng như
một số nhà báo cùng thời với ông.
- Phương pháp so sánh đồng đại: Luận án sẽ khảo cứu tư liệu để so
sánh những đóng góp và hạn chế của Phan Khôi (thông qua các hoạt động và
ấn phẩm báo chí của ông) với các nhà hoạt động báo chí Việt Nam khác trong
cùng thời điểm thập niên 30 và 40 của thế kỷ trước.
7
- Phương pháp so sánh lịch đại: Luận án sẽ khảo cứu tư liệu để so sánh
những đóng góp và hạn chế của Phan Khôi (thông qua các hoạt động và ấn
phẩm báo chí của ông) theo tuần tự thời gian trong suốt sự nghiệp báo chí của
ông, đặc biệt là giai đoạn 1928 - 1939.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả trực tiếp gặp gỡ (hoặc xin ý kiến
bằng văn bản) các nhà báo lão thành, các nhà hoạt động văn hóa, các nhà
ngôn ngữ, các nhà khoa học, giảng viên, người thân trong gia đình nhà báo
Phan Khôi - là những người đã dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu và có am
hiểu sâu sắc cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi về những nội dung mà luận
án quan tâm.
- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tư liệu thu được cùng ý
kiến phân tích của các chuyên gia, luận án sẽ tổng hợp và làm rõ những đóng
góp cũng như những hạn chế về những mặt khác nhau (như mục tiêu, quan
điểm chính trị - xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, thể loại, phương pháp - kỹ năng,
bản lĩnh nghề nghiệp…) của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam.
6. Đóng góp mới của luận án
- Làm sáng tỏ được những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Đây là nội dung mà do nhiều nguyên nhân,
chúng ta chưa đề cập và nghiên cứu; đồng thời góp phần bổ sung một cách
nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế
kỷ XX.
- Kết quả luận án góp một cách nhìn mới, đánh giá công bằng hơn đối
với sự nghiệp báo chí của Phan Khôi, bên cạnh những hạn chế của ông ở
những thời điểm lịch sử cụ thể.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, luận án chia thành bốn chương, gồm:
8
Chương 1: Thân thế, sự nghiệp báo chí của Phan Khôi những năm đầu
thế kỷ XX.
Chương 2: Quan điểm chính trị - xã hội trong các tác phẩm báo chí của
Phan Khôi.
Chương 3: Những đóng góp của Phan Khôi về phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt trong báo chí.
Chương 4: Những đóng góp của Phan Khôi về phát triển thể loại tác
phẩm báo chí và kỹ năng làm báo.
9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHAN KHÔI
1. Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước
1.1. Phan Khôi trong các sách nghiên cứu về lịch sử báo chí, văn học
đầu thế kỷ XX
- Cuốn sách của Vu Gia “Phan Khôi - Tiếng Việt, Báo chí và thơ mới”
(Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003), gồm
15 bài viết về Phan Khôi, đề cập đến nhiều vấn đề: Phan Khôi, huyền thoại
của một thời; người làm chủ được bản ngã; người bảo vệ ngôn ngữ dân tộc;
về những nội dung nổi bật trong các các tác phẩm văn chương, báo chí của
Phan Khôi, như: Vấn đề đấu tranh nữ quyền; cuộc tranh luận về Nho giáo; vụ
án Truyện Kiều; người đi nhặt những niềm vui; cuộc tranh luận về duy tâm,
duy vật; cuộc tranh luận về Quốc học; thi sĩ có tài năng vững chãi; truyện
ngắn; dịch thuật; vấn đề Nhân Văn Giai Phẩm; truyện dài và người tạo dấu ấn
rõ nét trong lòng bạn đọc.
Trong cuốn sách này, cùng với những bài viết của mình, tác giả còn
giới thiệu một số tác phẩm của Phan Khôi và những nhận định, đánh giá về
Phan Khôi của một số cây bút nổi tiếng, tiêu biểu như:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho rằng:
Hồi bấy giờ Phụ nữ tân văn đương thời cực thịnh. Những lời nói của
ông Phan được truyền bá đi khắp nơi. Cái bài thơ mới “Tình già”
được ông dẫn ra làm thí dụ, không rõ có được ai thích không, nhưng
một số đông thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì
cái táo bạo dấu diếm của mình đã được một bực đàn anh trong văn
giới công nhiên thừa nhận [35, tr.22-23].
Khẳng định những đóng góp của Phan Khôi với tiếng Việt, Lưu Trọng
Lư viết: “Tiên sinh thật là người trong những người tôi quen và tôi đã đọc,
quả là người viết quốc ngữ đứng đắn hơn hết, yêu chữ quốc ngữ với tất cả sự
10
từng trải của một người đã sống khắp ba kỳ, quen thuộc với những lỗi phát
âm, với những thổ ngữ...” [35, tr.337-338].
Còn Vũ Ngọc Phan cho rằng:
Lối bút chiến là lối ông sở trường nhất. Ông bút chiến về người, ông
bút chiến về việc, rồi ông bút chiến cả về những chữ dùng sai (...)
Phan Khôi mà đóng vai ngự sử đàn văn thì thật là xứng, vì không
mấy người kiêm được nhiều điều như ông: có óc tỉ mỉ, soi mói, lại
dùng chữ rất đúng, học rộng, kinh nghiệm nhiều (...) Trong văn giới
Việt Nam, dù thuộc về phái già hay trẻ, tuy có nhiều người không
đồng ý kiến với Phan Khôi, nhưng ai ai cũng phải công nhận ông là
một tay kiện tướng [35, tr.252-253].
Thanh Lãng đánh giá rất cao:
Phan Khôi là khuôn mặt đẹp đẽ nhất của thời đại ta, một tổng hợp
kỳ diệu được hình thành do những gì tinh túy nhất của nền cổ học
vô cùng tế nhị Đông phương và nền học thuật minh bạch khúc triết
của Tây phương (...) Hình như Phan Khôi không muốn người ta xếp
ông vào một biên thùy nào, là Trung ông không chịu, là Nam ông
không ưng, là Bắc ông cũng chẳng thích; có lẽ ông chỉ muốn người
ta gọi ông là người Việt Nam, ông muốn xóa bỏ cái biên thùy địa
phương chật hẹp... [35, tr.48-49].
Tác giả Nguyễn Văn Xuân khẳng định:
Từ 1918 đến 1945, ông Phan Khôi hoạt động cho báo chí, đã đóng
vai trò ký giả, học giả. Nêu cái gương sáng của một người thức thời,
biết cựu học không đủ để thực hiện công cuộc đổi mới (Duy Tân)
nên đã ra sức học Pháp văn và nhờ đó theo kịp Tân trào. Ông đã
không chấp nhận cái hư vinh bậc đại khoa cũ để dấn thân vào con
đường chông gai, mới mẻ của báo chí. Ông có công với báo chí suốt
giai đoạn từ 1918 đến 1936, nhất là thời Phụ nữ tân văn tạp chí dẫn
đầu cho loại tuần báo nổi tiếng [35, tr.646-647].
11
- Cuốn sách “Thiếu Sơn, Nghệ thuật và Nhân sinh” (Lê Quang Hưng
sưu tầm và chỉnh lý), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm 2000,
gồm nhiều bài phê bình nhân vật - các tác giả, nhà văn, nhà báo, chính khách
nổi tiếng đầu thế kỷ XX của nhà văn, nhà phê bình văn học Thiếu Sơn. Với
thái độ công bằng, thẳng thắn, những nhận xét sắc sảo, Thiếu Sơn viết về các
tác giả nổi tiếng: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Hồ Biểu
Chánh, Hoàng Ngọc Phách…
Trong đó, với “Bài học Phan Khôi”, Thiếu Sơn khắc họa:
Ông đã viết cho những tờ Đăng Cổ Tùng báo, Nam Phong, Hữu
Thanh, Thực nghiệp dân báo, Lục tỉnh tân văn v.v... Ông đã làm thơ
ký cho công ty Bạch Thái Bưởi, dịch Thánh kinh cho đạo Tin lành.
Nhưng người ta chỉ biết tới ông khi ông viết cho Đông Pháp Thời
báo, Thần chung và nhứt là Phụ nữ Tân văn”.
Ông Diệp Văn Kỳ là con người sành điệu đã để ý tới ông, mời ông
hợp tác nhưng lúc đó nhiều ngôi sao sáng đã gặp nhau ở một chỗ
nên Phan Khôi chưa nổi bật.
Ông chỉ nổi bật khi ông được mời tới viết cho Phụ nữ Tân Văn của
ông bà Nguyễn Đức Nhuận. Hồi đó, vào khoảng 1930 một bài văn
được trả 5 đồng tiền nhuận bút là hậu lắm rồi.
Vậy mà Phụ nữ Tân Văn dám trả 25 đồng một bài cho ông Phan. Một
tháng bốn bài, 100 đồng tức là hơn lương công chức ngạch cao cấp ở
huyện, phủ. Như vậy thì đâu phải văn chương hạ giới rẻ như bèo.
Phải nói là mắc như vàng mới đúng. Nhưng cũng phải nói thêm là
chỉ có văn chương của Phan Khôi mới được giá đến thế và chỉ có
ông bà Nguyễn Đức Nhuận mới dám trả tới giá đó mà thôi.
Trả như vậy mà tôi còn cho rằng chưa tới mức vì hầu hết độc giả bỏ
15 xu ra mua Phụ nữ Tân Văn đều chỉ muốn được coi bài của Phan
Khôi hay Chương Dân, những bài viết gãy gọn, sáng sủa, đanh thép
12
với những đề tài mới mẻ, những lý luận thần tình làm cho người đọc
say mê mà thống khoái. Cái đặc biệt ở Phan Khôi là chống công
thức (non conformiste) [35, tr.353-355].
- Cuốn sách: “Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945”, của Huỳnh
Văn Tòng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000.
Là người dày công nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam, khi đề cập đến
sự ra đời và phát triển của tờ Phụ nữ tân văn, nhà báo, học giả Huỳnh Văn
Tòng khẳng định: “Chủ bút Phụ nữ Tân văn là Đào Trinh Nhất, một người
làm báo nhà nghề, lừng danh. Phải nhìn nhận rằng báo này được mọi giới chú
ý nhờ sự hợp tác của nhà văn Phan Khôi, ký giả lão thành, học rộng, có lối lập
luận sắc bén” [106, tr.255].
1.2. Phan Khôi trong các hồi ký
- Hồi ký: “Nhớ cha tôi - Phan Khôi”, của Phan Thị Mỹ Khanh, Nhà
xuất bản Đà Nẵng, năm 2001.
Cuốn sách giới thiệu gia cảnh và những chặng đường đời của Phan
Khôi; những chuyện đời thường, chuyện văn nghiệp của ông (trong đó có
những nội dung đã được tác giả ghi lại trong bài “Cha tôi: ông Phan Khôi”,
được đăng 2 kỳ trên Tạp chí Phổ thông số 29 ra ngày 01-3-1960 và số 30 ra
ngày 15-3-1960, nhân dịp một năm sau ngày mất của Phan Khôi); một số tác
phẩm của Phan Khôi và một số bình luận, nhận định của các nhà văn, nhà
nghiên cứu, nhà báo viết về Phan Khôi. Cuốn sách được hoàn thành vào mùa
Thu năm 1999. Những dòng khép lại đoạn kết, tác giả viết:
Năm nay tròn 40 năm ngày cha tôi đi vào cõi vĩnh hằng. Nhìn lại
cuộc đời thăng trầm của ông, những năm tháng vinh quang thời
tráng niên, rồi chuỗi ngày lận đận tuổi xế chiều, tôi không khỏi
ngậm ngùi vừa thương, vừa tiếc. Với đôi điều hiểu biết còn nông
cạn, với mớ kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, tôi xin trân trọng gởi đến bạn
đọc những trang hồi ức trung thực mà tôi ấp ủ từ lâu, qua đó, bạn đọc sẽ hiểu thêm về con người của cha tôi [43, tr.142].
13
- Hồi ký:“Nắng được thì cứ nắng”, tác giả: Phan An Sa, Nhà xuất bản
Tri thức, năm 2013.
Nếu như, năm 2001, Phan Thị Mỹ Khanh, người con gái của Phan Khôi
xuất bản cuốn “Nhớ cha tôi - Phan Khôi” là cuốn sách đầu tiên phác thảo về
tiểu sử, thân thế sự nghiệp của ông giai đoạn từ trước năm 1975 ở miền Nam,
thì, năm 2013, “Nắng được thì cứ nắng” - cuốn sách do người con trai út của
ông viết là cuốn sách thứ hai. Có thể nói, “Nắng được thì cứ nắng” là cuốn
sách chứa đựng rất nhiều thông tin về Phan Khôi, mặc dù sách chỉ giới hạn ở
giai đoạn 1936 đến cuối đời ông - thời kỳ Phan Khôi từ vai trò chủ nhiệm
tuần báo Sông Hương đến vai trò chủ nhiệm tuần báo Nhân văn rồi đi vào văn
học sử Việt Nam với tư cách một trong số những tác gia trọng yếu của phong
trào Nhân văn - Giai phẩm.
Những mốc thời gian quan trọng trong hai mươi ba năm cuối đời của
Phan Khôi (1936-1959), được tác giả Phan An Sa ghi lại trong cuốn "Nắng
được thì cứ nắng":
- 1936-1937: Phan Khôi ở Huế, sáng lập báo Sông Hương, xuất bản 32 số.
- 1937: Phan Khôi về quê Quảng Nam, sau đó vào Sài Gòn, dạy trường
tư thục Chấn Thanh; viết tiểu thuyết “Trở vỏ lửa ra”.
- 1939: Phan Khôi ra Hà Nội, viết cho Tạp chí Tao đàn; cộng tác với
Phổ thông bán nguyệt san để in “Trở vỏ lửa ra”.
- Cuối tháng 8-1939: Phan Khôi về quê Quảng Nam rồi vào Sài Gòn,
dạy trường Chấn Thanh, viết cho một số tờ báo Bắc, Nam.
- Giữa năm 1941: Phan Khôi cùng cả gia đình về quê Bảo An, Quảng Nam;
- Tháng 6-1946: Phan Khôi ra Hà Nội, dự Hội nghị văn hóa toàn quốc.
- 19-12-1946: Phan Khôi đi từ Hà Nội về phía Hà Đông, gặp đoàn văn
hóa kháng chiến, ông nhập đoàn, đi Việt Bắc; làm việc trong cơ quan Hội Văn
nghệ Việt Nam.
- Tháng 10-1954: Phan Khôi cùng Ban Văn, Sử, Địa về Hà Nội. Ông
hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam; tham gia Ban chung khảo giải
14
thưởng văn nghệ Việt Nam; viết bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trên
Giai phẩm mùa thu, tập 1; nhận làm chủ nhiệm báo Nhân văn; đi Trung Quốc
dự kỷ niệm 20 năm ngày mất Lỗ Tấn; bị phê phán trong cuộc đấu Nhân văn -
Giai phẩm; ông qua đời ngày 16-01-1959.
Trong cuốn sách này, tác giả khai thác được các nguồn ký ức của các
thành viên trong đại gia đình Phan Khôi, nhất là hồi ức của bà Nguyễn Thị
Huệ, mẹ của tác giả - người phụ nữ luôn bên cạnh Phan Khôi từ năm 1934
đến 1946 ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Quảng Nam, và từ năm 1955 đến 1959 ở
Hà Nội.
1.3. Phan Khôi trong các bài nghiên cứu
- Cuộc Tọa đàm tưởng niệm cố nhà văn, nhà báo Phan Khôi nhân 120
năm ngày sinh của ông (1887-2007), đã tập hợp được nhiều bài viết ghi nhận,
đánh giá cao những đóng góp của Phan Khôi trong các lĩnh vực lịch sử, văn
học, báo chí, văn hóa, xã hội… của các nhà khoa học, nhà văn, nhà nghiên
cứu, phê bình… Trong đó, nhà sử học Dương Trung Quốc nhận xét Phan
Khôi là người có tính cách quyết liệt và tư tưởng duy tân. Theo nhà thơ Hữu
Thỉnh, Phan Khôi là một trong những nhà văn hóa nổi bật của thế kỷ XX.
Giáo sư Chương Thâu nhấn mạnh khả năng trực dịch của Phan Khôi. Còn tác
giả Nguyễn Văn Khang khẳng định: “Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, không
thể phủ nhận những đóng góp của Phan khôi bằng cả tâm huyết, trách nhiệm, trí
tuệ đối với quá trình bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia tiếng Việt”…
- Nhân dịp kỷ niệm 127 năm ngày sinh Phan Khôi, ngày 06-10-2014,
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam, quê hương ông, đã tổ chức Hội
thảo khoa học với chủ đề “Phan Khôi và những đóng góp trên lĩnh vực văn
hóa dân tộc”. 48 bài viết cùng với đề dẫn và tổng luận của cuộc hội thảo tập
trung vào hai mảng nội dung lớn: Một là, những bài viết về cuộc đời Phan
Khôi; hai là, những đóng góp của Phan Khôi cho nền văn hóa dân tộc (cụ thể
là trên các lĩnh vực: báo chí, văn học, văn hóa - tư tưởng). Một số bài xếp vào
15
nhóm nội dung những đóng góp của Phan Khôi trên lĩnh vực báo chí, đề cập
đến phong cách báo chí Phan Khôi như “Phong cách nghị luận, bút chiến của
Phan Khôi” của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh; “Tinh thần hiện đại qua các bài
báo “vị nữ giới” của Phan Khôi” của tác giả: PGS,TS Trần Thị Quỳnh Thuận,
Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành
phố Hồ Chí Minh; “Phan Khôi với thơ trào phúng và nghề làm báo”, tác giả:
nhà văn Vu Gia; “Phan Khôi - Đào Trinh Nhất: Hai cách tồn tại trong báo chí
văn chương Việt Nam trước 1945”, tác giả Cao Việt Dũng, và “Phan Khôi -
Nhà hoạt động báo chí nửa đầu thế kỷ XX”, tác giả Thái Nhân Hòa.
Trong quá trình sưu tầm các tác phẩm báo chí của Phan Khôi, tác giả
Lại Nguyên Ân có dịp tìm hiểu tổng thể hoạt động báo chí Việt Nam đầu thế
kỷ XX và viết các bài nghiên cứu khái quát cuộc đời làm báo của Phan Khôi,
đặc biệt trong 30 năm đầu thế kỷ. Có thể kể đến một số bài tiêu biểu sau:
Bài thứ nhất:“Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920-1930”,
Lại Nguyên Ân - Nhà xuất bản Hội nhà văn - Tạp chí Nghiên cứu Văn học số
tháng 8-2007.
Ở bài viết này, Lại Nguyên Ân khái quát quá trình Phan Khôi tham gia
báo chí Sài Gòn. Tác giả cho rằng:
Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi
nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng
thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản
nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn
đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi nổi
tiếng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời [7].
Theo thời gian, ngòi bút Phan Khôi hiện diện trên báo chí Sài Gòn
những năm 1920-1930 như sau:
Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài là tờ Lục tỉnh tân
văn. Theo nghiên cứu của Lại Nguyên Ân, ngày 07-5-1919 trên tờ Lục tỉnh
16
tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Những loạt bài kéo dài thành mục
báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 là về đề tài
thường thức xã hội và về ngôn ngữ. (10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12-5
đến 25-6-1919).
Thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn có thể tính từ
đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ
Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập.
Trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi bắt đầu viết thể loại tiểu phẩm
báo chí, trong mục hài đàm, với bút danh Tân Việt trong tiểu mục “Câu
chuyện hằng ngày” do Chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, và được tiếp tục trên tờ
Thần chung sau đó.
Trên Thần chung, Phan Khôi dùng họ tên thật của mình từ 03-10-1929
trong loạt bài 21 kỳ của tiểu luận “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”,
sau đó là trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu.
Giữa năm 1929, đánh dấu sự tham gia từ đầu của Phan Khôi vào tuần báo rất
thành công của báo chí tiếng Việt những năm 1930: Tuần báo Phụ nữ tân văn.
Số lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này khá lớn: Khoảng trên 100
bài trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 02-5-1929 đến 21-4-1935,
trong đó, nhiều bài là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ.
Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay
quanh đề tài về giới nữ với đủ các thể loại: Nghị luận xã hội, khảo luận lịch
sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Và một số tranh luận về học thuật,
về việc dùng chữ quốc ngữ...
Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập là lớn nhất so với ba tờ báo Sài
Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm “Những điều nghe thấy” mà toà
soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ông dùng
bút danh Tha Sơn); các bài chính luận, bình luận về chính trị - xã hội, về lịch
17
sử. Về phương diện văn học, một đóng góp khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế
Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được
“Phụ trương văn chương”, thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra
được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ Bảy hằng tuần.
Bài thứ hai:“Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng Phương Tây
trong sự lý giải của Phan Khôi”, Lại Nguyên Ân, tại Hội thảo khoa học: Lý
luận văn học Việt Nam thế kỷ XX, do khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội
tổ chức, 07-6-2008.
Bài thứ ba:“Liệu có thể xem Phan Khôi (1887 - 1959) như một tác gia văn
học quốc ngữ Nam Bộ?”. Đây là tham luận tại hội thảo khoa học “Văn học quốc
ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945” tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 26-5-2006.
Từ việc khái lược hoạt động báo chí và văn chương của Phan Khôi tại
Sài Gòn, trong những thời đoạn ông sống và viết báo, viết văn ở đây đủ để
khẳng định:
Rõ ràng là Phan Khôi có thời gian làm báo viết văn tại Sài Gòn, tức
là Nam Kỳ (nay ta dùng từ “Nam Bộ”). Hoạt động văn chương báo
chí ấy của ông (ở đây chưa kể đến hoạt động văn chương báo chí
của ông tại các nơi khác) chẳng những để lại dấu ấn tại đây mà còn
có tiếng vang và ảnh hưởng đến tiến trình chung của văn học Việt
Nam trên quy mô cả nước [4].
Bài thứ tư:“Suy nghĩ từ hành trình khai quật quá khứ”.
Đây là cuộc trò chuyện giữa phóng viên Báo Tia sáng với tác giả Lại
Nguyên Ân nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh Phan Khôi và ra mắt những
tập sách mới trong bộ Phan Khôi, tác phẩm đăng báo do Nhà xuất bản Hội
Nhà văn và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phối hợp xuất bản. Trong
cuộc trò chuyện này, Lại Nguyên Ân đã chia sẻ những suy nghĩ về Phan
Khôi, về công tác nghiên cứu lịch sử văn học, văn hóa và các nguồn tư liệu ở
Việt Nam hiện nay.
18
1.4. Bộ sách sưu tập các tác phẩm báo chí của Phan Khôi
Bộ sách do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, gồm
08 cuốn: “Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1928”(Nhà xuất bản Đà Nẵng và
Trung tâm Văn hóa Đông Tây, năm 2003); “Phan Khôi, tác phẩm đăng báo
1929” (Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, năm 2004);
“Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1930” (Nhà Xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm
Văn hóa Đông Tây, năm 2005); “Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1931” (Nhà
xuất bản Hội Nhà văn, năm 2006) và “Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1932”
(Nhà xuất bản Tri thức, năm 2009); “Phan Khôi, tác phẩm đăng báo năm
1933-1934” (Nhà xuất bản Tri thức, năm 2010); “Phan Khôi, tác phẩm đăng
báo năm 1935” (Nhà xuất bản Tri thức, năm 2011); “Phan Khôi, tác phẩm
đăng báo 1936” (Nhà xuất bản Tri thức, năm 2012); “Phan Khôi, tác phẩm
đăng báo năm 1937” (Nhà xuất bản Tri thức, năm 2013).
Đây là công trình sưu tầm số lượng khổng lồ các tác phẩm báo chí của
Phan Khôi từ năm 1928 đến năm 1937, cũng là thời kỳ cây bút Phan Khôi
sung sức nhất trên diễn đàn báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với đủ các
thể loại báo chí: Thời sự trong nước và quốc tế, tùy bút, ghi chép, bình luận
chính trị, văn hóa, nghệ thuật, phiếm luận, ý kiến, nói chuyện nghề báo, tranh
luận về các lĩnh vực văn hóa, chính trị… Theo tác giả Lại Nguyên Ân: “Phan
Khôi là một trong những tên tuổi lớn của báo chí, văn học và tư tưởng Việt
Nam thế kỷ XX. Tìm hiểu các lĩnh vực ấy, người ta không thể bỏ qua vai trò
Phan Khôi và vì vậy không thể không tìm hiểu ít ra là một phần trong số
những điều Phan Khôi đã viết ra, đã đăng báo, in sách suốt hơn nửa thế kỷ
sống và hoạt động của ông” [2, tr.6]. Trong khi: “Sự nghiệp của Phan Khôi
hầu hết hay còn nằm rải rác trên mặt báo. Mà có lẽ những gì tinh túy nhất của
ông, linh lợi nhất nơi ông, hóm hỉnh nhất ở ông, “Phan Khôi nhất” trong
ông… hình như đều chưa được in thành sách mà hãy còn giấu kín dưới những
chồng báo” [65]. Vì vậy, Lại Nguyên Ân cho rằng:
19
Trong tình hình tư liệu hiện tại, việc nghiên cứu một tác giả như
Phan Khôi giờ đây có lẽ buộc phải bắt đầu từ công việc sưu tầm và
công bố lại, nếu không được toàn bộ thì cũng phải được phần khá lớn
những tác phẩm của ông, từng đăng tải trên báo chí khắp ba miền Việt
Nam từ những năm 20 đến những năm 50 (thế kỷ XX) [2, tr.6].
Như vậy, có thể nói bộ sách sưu tầm những tác phẩm đăng báo của
Phan Khôi các năm 1928, 1929, 1930, 1931, 1932, 1933-1934, 1935, 1936,
1937 do Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn có giá trị quan trọng, là nguồn
tư liệu quý giá cho những nghiên cứu về nhà báo Phan Khôi. Nguyễn Quân
trong bài “Hai cuộc phục chế” cho rằng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã
rất chuyên nghiệp và dầy công khi truy tìm mạch tư liệu vô cùng đồ sộ tản
mát khắp nơi.
Ông đưa ra một mẫu mực xử lý văn bản như một nhà phục chế xuất
sắc và có trách nhiệm. Hơn bẩy nghìn trang sách được xử lý đến
từng từ, từng dấu chấm phảy, cái ngoặc đơn ngoặc kép, những chỗ
trống bị kiểm duyệt hay những chữ bị đục đi, bị rách nát… đều được
ghi chú cẩn thận. Các từ khó hiểu được soạn giả chú giải qua các từ
điển hoặc đề xuất cách đọc cho đúng Phan Khôi. (...) Đúng là Lại
Nguyên Ân đã phục chế chuyên nghiệp cả một lâu đài trí tuệ bị bỏ
hoang phế. Dưới bàn tay Lại Nguyên Ân lâu đài Phan Khôi không
“mới hơn, đẹp hơn” mà chỉ được trả về nguyên dạng. Không phải
giải oan cho một nhân vật hay vẽ ra một chân dung chủ quan mà bác
Ân đã mở lại một mỏ tài nguyên tri thức để ta khai thác [80].
Tác giả đã sưu tập các tác phẩm báo chí của Phan Khôi đăng trên các tờ
báo ông tham gia từ bản vi phim ở Thư viện đại học California, Berkeley và
Thư viện đại học Cornell, Hoa Kỳ; các bản chụp lưu ở Thư viện quốc gia
Pháp do Hiệp hội bảo quản và tái chế ảnh báo chí ở Paris (Pháp); và các số
báo này lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam; một số khác là do tác giả nhờ
20
được nhà báo Thụy Khuê ở Paris chụp giúp từ bản vi phim ở Thư viện quốc
gia Pháp.
Bên cạnh văn bản các tác phẩm của Phan Khôi, tác giả cũng đã sưu tầm
các tác phẩm trong mục “phụ lục” là một số bài báo có liên quan của tác giả
khác. Trong các cuốn sách, mục tồn nghi là những tác phẩm tác giả cho rằng
có thể của Phan Khôi, nhưng còn thiếu chứng cứ đích xác.
- “Phan Khôi tác phẩm đăng báo năm 1928”:
Bao gồm gần 200 bài báo của Phan Khôi đăng trên Đông Pháp thời báo
(Le Courrier Indochinois) ở Sài Gòn, Thời kỳ này ông thường ký bút danh
C.D. (viết tắt tên hiệu của ông là Chương Dân), đôi lúc là K., Kh., và trong
mục Câu chuyện hằng ngày, Phan Khôi và Diệp Văn Kỳ ký chung bút danh
- “Phan Khôi tác phẩm đăng báo năm 1929”:
Tân Việt, T.V.
Gồm các tác phẩm báo chí của Phan Khôi đã đăng trên các nhật báo
Thần chung, Trung lập và tuần báo Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn trong năm 1929.
Trên nhật báo Thần Chung: Trong quá trình sưu tập, tác giả nhận thấy,
ngòi bút Phan Khôi xuất hiện trên tờ báo này ngay từ số đầu tiên và hầu như
cho đến số cuối. Trước hết là ở mục Câu chuyện hằng ngày. Trên Thần
chung, Phan Khôi dùng các bút danh: Chương Dân, C.D., và bút danh Khải
Minh Tử (Đây là bút danh ông dùng khi viết bài đăng trên báo chữ Hán của
Hoa kiều ở Chợ Lớn). Từ tháng 10-1929, ông ký họ tên thật Phan Khôi, với
bài luận kéo dài 21 kỳ về ảnh hưởng của Khổng giáo ở Việt Nam.
Trên nhật báo Trung lập: Năm 1929, Trung lập có đăng bài của Phan
Khôi, nhưng đều là đăng lại của hai tờ Thần Chung và Phụ nữ tân văn. Chỉ từ
giữa năm 1930 ông mới trực tiếp viết bài cho tờ báo này.
Trên Phụ nữ tân văn: Phan Khôi là một trong những người cộng tác đắc
lực với Phụ nữ tân văn. Ở các cuộc tranh luận về Nho giáo, về quốc học, về
việc dùng chữ quốc ngữ trên Phụ nữ tân văn, ông thường là cây bút châm
21
ngòi và đã thử “vai ngự sử trên đàn văn”. Thời kỳ này, các bút danh ông dùng
được xuất phát từ họ, tên thật và tên hiệu của ông, gồm: Phan Khôi, Ph.Kh.,
P.K., K., Chương Dân, C.D., C., D.; cũng có những bài ông viết và ký tên báo
Phụ nữ tân văn hoặc P.N.T.V.
- “Phan Khôi tác phẩm đăng báo năm 1930”:
Bao gồm các tác phẩm báo chí của Phan Khôi trong năm 1930 gắn với các
tờ báo Thần chung, Trung lập, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn, tờ Phổ thông ở Hà Nội.
Trong ba tháng đầu năm 1930 - thời gian tồn tại còn lại của Thần
chung, mặc dù Phan Khôi tham dự cho đến số cuối cùng trước ngày báo bị
cấm xuất bản, nhưng hầu như ông chỉ góp bài cho mục Câu chuyện hằng
ngày. Sau đó, tờ này bị cấm. Đề tài thảo luận về việc dùng chữ quốc ngữ Phan
Khôi viết đồng thời trên cả hai nhật báo Thần chung, Trung lập và trên tuần
báo Phụ nữ tân văn.
Trên tuần báo Phụ nữ tân văn, trong năm 1930, Phan Khôi đã châm
ngòi cho nhiều cuộc thảo luận, tranh luận xung quanh nhiều đề tài như viết
chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt thế nào cho đúng; việc hiểu và đánh giá Nho
giáo, vấn đề về nền học thuật của Việt Nam…
Trên nhật báo Trung lập, trước tháng 5-1930, những bài của Phan Khôi
đều là do báo này đăng lại của các báo khác. Với tờ Trung lập đổi mới từ 02-
5-1930, sự tham gia của Phan Khôi mới trực tiếp và thường xuyên. Lượng bài
Phan Khôi viết và in trên tờ Trung lập khá lớn và đa dạng. Ban đầu, ông viết
thường xuyên cho hai mục: ở mục Ý kiến Trung lập ông ký tên thật (Phan
Khôi), và ở mục Những điều nghe thấy, với bút danh Tha Sơn trong mười kỳ
đầu, sau đó là Thông Reo và duy trì bút danh này đến nhiều năm sau.
Bên cạnh đó, Phan Khôi còn tham gia nhiều mục khác của Trung lập
như “Thức đêm xem báo”, “Này kia, kia nọ”,v.v…
Trên báo Phổ thông (xuất bản ở Hà Nội), từ tháng 9-1930, Phan Khôi
tham gia dưới bút danh Thiết Khẩu Nhi trong mục hài đàm Gặp đâu nói đấy
22
và “Phần tòa soạn ở Nam Kỳ”, trong đó mục “Học nghệ” hoàn toàn dành cho
“Độc thư tùy bút” của Phan Khôi. “Độc thư tùy bút” trên tờ báo này chỉ kéo
dài hơn một tháng. Tác giả cho rằng, có thể sự cách trở về phương tiện giao
dịch, sự bận rộn của ngòi bút Phan Khôi với báo chí Sài Gòn là những lý do
làm gián đoạn sự tham gia của ông vào báo chí Hà Nội, cụ thể là tờ Phổ thông
trong năm 1930 này.
- “Phan Khôi tác phẩm đăng báo năm 1931”:
Bao gồm các tác phẩm báo chí trong năm 1931 của Phan Khôi, chủ yếu
là ở các tờ: Nhật báo Trung lập và tuần báo Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn, tuần
báo Đông tây ở Hà Nội.
Đối với nhật báo Trung lập trong năm 1931, Phan Khôi đóng góp nhiều
nhất ở mục Những điều nghe thấy với bút danh Thông Reo. Cùng với bút
danh Thông Reo, T.R., năm này còn có một số lượng khá lớn bài bình luận
thời sự xã hội chính trị trong, ngoài nước của báo Trung lập ký các tên Phan
Khôi, Chương Dân.
Trên Đông tây tuần báo (từ 01-4-1931 là Đông tây), sự tham dự của Phan
Khôi vào tờ Đông tây, theo phân tích của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, có lẽ
bắt nguồn từ cảm tình của Hoàng Tích Chu với ngòi bút Phan Khôi. Đó là, năm
1930, một bài hài đàm của Phan Khôi (với bút danh Thông Reo) trong mục
“Những điều nghe thấy” của báo Trung lập đã khiến Hoàng Tích Chu (chủ
nhiệm Đông tây) rất thích thú, ông đăng lại bài báo, sau đó còn viết thêm bài
hưởng ứng. Sang năm 1931, trên tờ Đông tây bắt đầu xuất hiện đều đặn các bài
viết của Phan Khôi, như: Cuộc tranh luận về quốc học, khởi nguồn từ những
nhận xét của Ngẫu Trì Trịnh Đình Rư (đăng trên Đông tây) về sách Bạch Vân
am thi văn tập do Sở Cuồng Lê Dư biên soạn, các học giả như Phạm Quỳnh,
Phan Khôi nhập cuộc khiến cuộc tranh luận mở rộng quy mô. Các bài tranh
luận quốc học thường được nhiều tờ báo trong Nam ngoài Bắc đăng tải: tờ
Đông tây ngoài Bắc, các tờ Trung lập và Phụ nữ tân văn trong Nam. Phan
Khôi tham gia cả ba tờ báo này.
23
Trên Phụ nữ tân văn, từ tháng 5 đến giữa tháng 9 năm 1931 Phan Khôi
liên tục có bài đăng. Các bài viết của ông xoay quanh đề tài về phụ nữ và gia
đình, về luân lý Khổng Mạnh, về các vấn đề của tiếng Việt… Mục “Vai ngự sử
trên đàn văn” ông chủ trì chính là trên tuần báo Phụ nữ tân văn năm 1931. Đây
là chuyên mục cung cấp ngữ liệu, văn liệu, sửa chữa sai sót trong sử dụng câu
chữ, điển cố văn chương trên báo chí và văn học. Tuy không duy trì mục này
được lâu nhưng nó có ý nghĩa như một sáng kiến quan trọng, nhất là khi văn
học chữ quốc ngữ bắt đầu phát triển, không đơn giản để người viết báo, viết
văn quốc ngữ nắm bắt được những hàm nghĩa vốn có trong phần từ vựng Hán
Việt khi chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ.
- “Phan Khôi Tác phẩm đăng báo năm 1932”:
Bao gồm các tác phẩm đăng báo của Phan Khôi trong năm 1932, chủ
yếu vẫn ở các tờ: báo Đông tây ở Hà Nội, nhật báo Trung lập và tuần báo Phụ
nữ tân văn ở Sài Gòn.
Trên tờ Đông tây: Phan Khôi đăng bài trên Đông tây tuần báo từ 1930.
Tuy nhiên, lúc đầu, số bài vở này của ông là do tờ Đông Tây đăng lại báo
Trung lập trong Nam. Chỉ đến năm 1931, lượng bài viết của ông trên báo này
mới là nhiều nhất. Những đề tài chủ yếu gồm: Các vấn đề về Hán học, về Nho
giáo; có những đề tài trở thành các cuộc tranh luận, tiêu biểu là cuộc tranh
luận về quốc học. Đặc biệt, bài“Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” -
bài báo đi vào văn học sử Việt Nam thế kỷ XX như là điểm khởi đầu phong
trào thơ mới, Phan Khôi cho ra mắt độc giả ngoài Bắc sớm hơn, ông gửi in
trên Tập văn mùa xuân (1932) của Đông tây ở Hà Nội, trước khi cho đăng
trên Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn. Nhìn chung trong năm 1932, Phan Khôi dành
phần lớn các bài viết thuộc nhiều loại khác nhau cho hai tờ báo trong Nam
(nhật báo Trung lập và tuần báo Phụ nữ tân văn), nên số bài dành đăng Đông
tây ở Hà Nội ít hơn, thường là những bài đáp lại dư luận, ví dụ dư luận làng
báo ngoài Bắc khi Phan Khôi đưa ra “một lối thơ mới” kể trên, hoặc trao đổi,
tranh luận với Tản Đà xung quanh cách hiểu Tống nho và truyền thống.
24
Bài của Phan Khôi đăng Trung lập năm 1932, chủ yếu vẫn là ở chuyên
mục Những điều nghe thấy. Ngoài ra, ông cũng dùng tên thật Phan Khôi hoặc
tên hiệu Chương Dân trong một số bài viết về chính trị, xã hội hoặc những bài
viết cho Phụ trương văn chương. Nếu như trước đó, ông dùng bút danh T.R.
(Thông Reo) cho chuyên mục hài đàm thì giai đoạn này ông cũng dùng cho
một số bài về văn hoá xã hội. Có khá nhiều bài Phan Khôi viết được Trung
lập sử dụng và ký tên toà soạn, tuy nhiên, Lại Nguyên Ân cho rằng các bài
loại này hầu như cũng chỉ xuất hiện ở Trung lập trước khi Bùi Thế Mỹ từ
chức chủ bút.
Năm 1932, lượng bài vở Phan Khôi đăng trên Phụ nữ tân văn là nhiều
nhất so với các năm khác ông đăng trên tuần báo này. Sau đó, suốt năm 1933,
trên tuần báo này không xuất hiện các bài viết của ông. Đề tài chính trị xã hội
trong các bài viết của ông trên tuần báo này trong năm 1932 cũng ít hơn hẳn
so với các đề tài về văn hoá. Các chủ đề chính trị xã hội tiếp tục là về giới
chính trị bàn chuyện lập hiến, về quan hệ giữa các ông nghị viên quản hạt, về
các vấn đề phụ nữ, hôn nhân và gia đình, về phong tục tập quán, nhưng nổi
bật hơn lại là đưa một lối thơ mới “trình chánh” với làng thơ. Ông cũng đưa ra
lối tự học chữ Hán cho công chúng, đồng thời với việc kiên quyết phản đối
những ai đề xuất dạy chữ Hán cho bậc tiểu học phổ thông; mục Hán văn độc
tu của ông đăng liên tục vài chục kỳ trên tuần báo này. Số lượng bài “tạp trở”,
dịch thuật ông đăng Phụ nữ tân văn trong năm này cũng nhiều hơn hẳn các
năm khác.
Phần phụ lục II của sách này, gồm các bài của tác giả khác viết về Phan
Khôi trong năm 1932, được rút ra từ nhiều tờ báo khác nữa, như Nam phong,
Thực nghiệp dân báo, Ngọ báo, An Nam tạp chí, Công luận.
- “Phan Khôi tác phẩm báo chí năm 1933-1934”:
Hoạt động báo chí trong hai năm 1933-1934 của Phan Khôi bao gồm
những tháng cuối cùng của đoạn thời gian ông sống và làm báo hiệu quả nhất
25
tại Sài Gòn (1927-1933), và hơn một năm ông chuyển ra Hà Nội làm báo,
trước khi trở vào Huế hành nghề. Thời gian này, hoạt động làm báo của ông
chủ yếu gắn với các tờ Trung lập, Phụ nữ tân văn và Công luận (Sài Gòn),
Thực nghiệp dân báo và Phụ nữ thời đàm (Hà Nội).
Trên nhật báo Trung lập (1924-1933) - tờ báo tồn tại và hoạt động đến
30-5-1933. Phan Khôi đã luôn thể hiện được tư tưởng và văn phong của mình,
dù trong năm cuối cùng này ở tờ Trung lập, ông hầu như chỉ còn viết cho mục
Những điều nghe thấy. Và cũng chỉ khi Phan Khôi rời Sài Gòn ra Bắc, mục
Những điều nghe thấy mới dần dần bộc lộ dấu bút Nguyễn An Ninh.
Trên tờ Thực nghiệp dân báo, trong năm 1933 Phan Khôi xuất hiện
bằng họ tên thật chỉ 2 lần, đó là khi ông thanh minh về một bài cũ của ông mà
tờ Văn học tạp chí đăng lại, không hỏi ý kiến tác giả; trường hợp thứ hai là
ông ký họ tên thật dưới bài phê bình bản dịch Trung dung của Hà Tư Vị và
Nguyễn Văn Đang. Còn lại, ông xuất hiện dưới bút danh Bướng Nhân trong
một mục riêng, là Bướng Nhân nhật ký, bài đầu đăng từ 25-5-1933, tính đến
04-7-1933 mục này có 17 kỳ.
Phụ nữ thời đàm (1930-1934;1938) là tờ báo tư nhân của ông bà
Nguyễn Văn Đa, ở 11-13 phố Sông Tô Lịch (Hàng Lược), Hà Nội, ban đầu
hoạt động như một tờ nhật báo. Số 1 ra ngày 08-12-1930, gần như đúng dịp tờ
Phụ nữ tân văn trong Nam phải đóng cửa vì bị rút giấy phép, và xu hướng ban
đầu của tờ báo phụ nữ ngoài Bắc này cũng đi ngược cái xu hướng mà tờ Phụ
nữ tân văn trong Nam cổ động, ít ra là trên vấn đề phụ nữ.
Dưới dạng thức tuần báo, với vai trò chủ trì việc biên tập của Phan Khôi, Phụ
nữ thời đàm lập tức có diện mạo khác và mau chóng gây được ấn tượng mạnh
trong dư luận. Nhưng dạng thức tuần báo cũng chỉ giúp Phụ nữ thời đàm tồn
tại thêm 26 tuần lễ (từ 17-9-1933 đến 05-6-1934)
Với tờ Phụ nữ thời đàm ở dạng tuần báo, Phan Khôi tham gia trong 22
tuần đầu với lượng bài vở dày đặc, mỗi số ông góp tới 3-4 bài: Bài xã thuyết
26
ký Phan Khôi hoặc ký tên tòa soạn; thơ (thơ trữ tình hoặc thơ vui, được gọi là
“vận hài”) ký Tú Xơn; các mục dật sự, tạp trở (ví dụ Chuyện cũ nước nhà,
Dưới mắt chúng tôi) ký C.D. hoặc D. hoặc P. hoặc K.; đặc biệt là mục “Tiểu
phê bình” được ông đưa ra như một nét mới trong thể tài viết báo của mình,
dưới bút danh Hồng Ngâm.
Tuy nhiên để nói chung về hoạt động của tờ tuần báo Phụ nữ thời đàm
này, mà Phan Khôi là cây bút chính định hình diện mạo mới của nó, thì điều cần
ghi nhận là, với sự tham gia của ông, tờ báo này đã chuyển từ thái độ bảo thủ
sang tiếp cận, đề cập về vấn đề phụ nữ trước dư luận theo tinh thần cập nhật các
phương diện của đời sống thời hiện đại; từ đây cũng có thể nói, với Phụ nữ thời
đàm, Phan Khôi đã đưa “vấn đề phụ nữ” - mà ông đã nêu lên một cách rất có ấn
tượng từ báo chí miền Nam ra miền Bắc, nơi vẫn được xem là dinh lũy của
những quan niệm và lối sống thủ cựu, nơi mà phần đông dân cư vẫn đang sống
trong niềm tin vào các giá trị và chuẩn mực của xã hội gia trưởng nam quyền.
Chỉ có điều, thời gian hoạt động của ông với tờ báo này lại quá ngắn ngủi.
Trên tờ Phụ nữ tân văn (1929-1934), trong đó, hầu như suốt năm 1933
không thấy có bài của Phan Khôi. Tuần báo này đã tạm ngừng từ 20/12/1934
(số 271); bốn tháng sau, báo ra thêm 2 số nữa: số 272 (11/4/1935) và số 273
(21/4/1935), rồi ngừng hẳn. Chính trong thời gian cuối cùng này của tờ tuần
báo, Phan Khôi đã trở lại gửi đăng Phụ nữ tân văn những bài nghị luận: “Trên
lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến”, “Câu chuyện lấy vợ đầm”,
“Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ”, “Ý kiến tôi đối với sự
bỏ kiểm duyệt báo quốc ngữ”.
- “Phan Khôi tác phẩm đăng báo năm 1935”:
Hoạt động báo chí của Phan Khôi trong năm 1935 hầu như tập trung
trên tờ Tràng An báo ở Huế; đây là tờ báo thứ hai Phan Khôi điều hành với tư
cách chủ bút. Nếu với tờ Phụ nữ thời đàm từ 2 năm trước (1933-1934), sự
điều hành của ông ở vai trò chủ bút dù sao cũng giới hạn ở tính chất của một
27
tuần báo văn hóa xã hội, thì với tờ Tràng An báo, một nhật báo (dù chỉ ra 2 kỳ
mỗi tuần) có nội dung tổng hợp mà trước hết là các vấn đề thời sự chính trị xã
hội, vai trò chủ bút là một trọng trách mà Phan Khôi trải nghiệm lần đầu tiên
trong đời làm báo của mình.
Phan Khôi làm chủ bút Tràng An báo liên tục từ số 1 (01-3-1935) đến số
94 (31-01-1936). Phan Khôi để lại dấu ấn trong vai trò chủ bút Tràng An báo
năm 1935 - nhật báo rất vì lợi ích người dân (nội dung này sẽ được phân tích
trong chương IV). Tràng An báo thời Phan Khôi làm chủ bút cũng từng góp vai
trò là một trong những diễn đàn văn học và tư tưởng đương thời. Có những việc
dễ thấy, ví dụ Tràng An là nơi đăng tải khá nhiều ý kiến của nhóm Hoài Thanh,
Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư trong cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật
hay nghệ thuật vị nhân sinh”. Có những việc khó thấy, ví dụ việc Tràng An là
nơi đăng tải chủ yếu và là nguồn cổ vũ sáng tác của một số nhà thơ mới xứ Huế,
nhất là Nam Trân (1907-1967): Không những Tràng An đăng tải hầu hết những
bài thơ về sau sẽ được dựng thành tập Huế, đẹp và thơ (1939) của tác giả này,
mà trên Tràng An ngay những số đầu đã in lời nhắc bạn đọc: “Sau này bản báo
sẽ mở một cuộc thi lớn, trong đó có một đầu đề thi quan hệ về thơ Nam Trân.
Vậy ai muốn dự cuộc thi ấy nên cắt bài thơ Nam Trân trong mỗi số mà giữ
lại…”. Mặc dù không mở được cuộc thi liên quan, nhưng đây vẫn là một sự
quan tâm đặc cách hiếm hoi của tòa soạn, tức là của chủ bút Phan Khôi.
Tháng 8-1936, ông xin được giấy phép ra tờ Sông Hương, một tờ tuần
báo thiên về ngữ văn học, sử học. Đây là tờ báo duy nhất trong đời mình,
Phan Khôi là người sáng lập, là chủ nhiệm kiêm chủ bút.
2. Tình hình nghiên cứu Phan Khôi ở ngoài nước
2.1. Phan Khôi trong các công trình, nghiên cứu của các học giả
ngoài nước
Qua tìm hiểu, chúng tôi không tìm được tài liệu nước ngoài nào với quy
mô của một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống về Phan Khôi nói
28
chung, về những đóng góp của Phan Khôi đối với báo chí nói riêng. Như đã
đề cập trong phần tình hình nghiên cứu trong nước, cuốn sách của Vu Gia
“Phan Khôi, tiếng Việt, báo chí và thơ mới”, có những nhận định, đánh giá
của các học giả, nhà văn, nhà phê bình về tác giả Phan Khôi, trong đó, có
trích lại nhận định tại cuốn “Historical Dictionary of Vietnam” (William J
Duiker, The Scarecrow Press Inc Metuchen NJ & London 1989, p.146), viết
về Phan Khôi: “Phan Khôi là học giả tiến bộ và là người trí thức trong thế kỷ
XX của Việt Nam. Được giáo dục theo truyền thống Nho giáo nhưng cuộc đời
hoạt động của Phan Khôi đã hiến dâng cho đời và báo chí trở thành một nhà
phê bình và nhà bình luận về văn hóa” [35, tr.103].
Theo thông tin của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, các nghiên cứu
khác của các tác giả Việt Nam ở nước ngoài cũng là những bài nghiên cứu
nhỏ lẻ; một số bài trên trang Web cá nhân. Khi thực hiện bộ sách sưu tầm các
tác phẩm báo chí của Phan Khôi, một số nhóm sinh viên Việt Nam ở nước
ngoài cùng tham gia hỗ trợ tác giả Lại Nguyên Ân.
2.2. Chương trình phát thanh phát trên đài RFI
- Ngày 15-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về Phan Khôi: người xa lạ.
- Ngày 22-12-1996: Tạ Trọng Hiệp so sánh Phan Khôi và Lỗ Tấn.
- Ngày 29-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về thân thế Phan Khôi và thời
đại vùi dập của người trí thức.
- Ngày 05-01-1997: Thụy Khuê giới thiệu những nét chính trong tư
tưởng Phan Khôi và vĩnh biệt Tạ Trọng Hiệp.
- Ngày 13-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân: Hoạt
động của Phan Khôi trên các báo Thần Chung, Phụ nữ Tân Văn và Trung Lập.
- Ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân: Hoạt
động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ.
- Ngày 15-12-2007: Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về sự nghiệp của
Phan Khôi.
29
- Ngày 22-12-2007: Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về hoạt động văn
hóa của Phan Khôi.
Trong đó, những bài nói chuyện với Lại Nguyên Ân đề cập nhiều đến
hoạt động báo chí của Phan Khôi hơn cả.
Bài “Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về việc sưu tập những tác phẩm
đăng báo của Phan Khôi” (Thụy Khuê, RFI, tháng 8-2005, Lại Nguyên Ân
đọc lại và bổ sung tháng 01-2006). Trong lời dẫn chuyện của mình tại cuộc
trò chuyện với Lại Nguyên Ân về Phan Khôi và hành trình sưu tập các tác
phẩm báo chí của Phan Khôi, nhà báo Thụy Khuê (Đài RFI) cho rằng:
Trong một bài in trên Đông Pháp Thời báo, số ra ngày 01-9-1928 giữa
thời Pháp thuộc, Phan Khôi viết: “Ở vào thế kỷ XX là thế kỷ mà thiên hạ làm
phách hô lớn lên hai chữ tự do, nói rằng đâu đâu cũng phải tôn trọng sự tự do,
đâu đâu cũng phải tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản. Bỗng dưng nghe
đến hai chữ “cấm sách” thì há chẳng phải là một sự lạ hay sao. Song là lạ ở xứ
nào kia, còn xứ nầy sự ấy đã như cơm bữa rồi, không còn lạ gì nữa”. Đó là giọng
Phan Khôi, là chí khí toát ra lời. Chí khí ấy trở thành có một không hai trong lịch
sử văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nhưng thế hệ hôm nay, bao nhiêu người còn
biết Phan Khôi là ai? Tạ Trọng Hiệp gọi Phan Khôi là “người xa lạ”!
Trong nhiều năm nay, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã cố gắng sưu
tập, tìm lại những bài viết của Phan Khôi, người xa lạ ấy, trên báo chí ngày
xưa. Trong cuộc trò chuyện với nhà báo Thụy Khuê (Đài RFI), Lại Nguyên
Ân thuật lại sơ lược hành trình này, trong đó ông nhận định: Trong giai đoạn
hoạt động sôi nổi nhất từ 1929 đến 1936, trên báo chí khắp ba kỳ Nam,
Trung, Bắc, Phan Khôi đã đưa ra những đề tài tranh luận lớn, chủ yếu phê
bình Khổng học và Phan Khôi đặt các vấn đề về việc dùng tiếng Việt và chữ
quốc ngữ. Lại Nguyên Ân sẽ nói về những cuộc tranh luận văn học mà Phan
Khôi đã khai ngòi trong những năm 1929-1930 trên các báo Thần Chung, Phụ
nữ Tân Văn và Trung Lập ở Nam Kỳ.
30
Thay cho lời kết, tác giả Lại Nguyên Ân chia sẻ: “Tôi nghĩ là đối với
một cây bút đã bị lãng quên nghiêm trọng như trường hợp Phan Khôi thì công
việc tìm hiểu trở lại này cũng phải lâu dài. Và tôi hành động theo phương
châm tìm hiểu được tới đâu sẽ chia sẻ với đồng nghiệp và bạn đọc đến đấy.
Kết quả tìm hiểu hiện giờ cho tôi thấy là thời gian hoạt động sung sức nhất
của ngòi bút Phan Khôi là từ khoảng 1928 đến 1936. Hiện tôi nghĩ như vậy và
tôi đang làm việc cung cấp cho người nghiên cứu và cả cho bạn đọc quan tâm,
những kết quả, những văn bản, có thể nói là ở mức nhiều nhất, tốt nhất có thể
có được, để mà cùng tìm hiểu, cùng theo dõi hoạt động của ngòi bút Phan
Khôi. Đây là một trong những việc mà tôi nghĩ là rất đáng làm, bởi vì ông là
một trong những tác gia rất đáng kể trong lịch sử báo chí, trong lịch sử tư
tưởng cũng như trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ thứ XX, một tác gia
mà các di sản, do nhiều lý do khác nhau về thời sự chính trị, cho đến những lý
do về khả năng tư liệu, thì đã gần như là trở nên một người xa lạ trong con mắt
của thế hệ hậu thế. Cho nên là nhìn về quá khứ, nếu như không có những công
tác sưu tầm để công bố lại, thì những thế hệ sau có thể không biết Phan Khôi là
ai và không còn biết có một Phan Khôi trong lịch sử báo chí, trong lịch sử tư
tưởng, lịch sử văn học nữa. Công việc tôi làm có ý nghĩa như vậy, để cứu vãn
một di sản không đáng mất và để chúng ta khỏi quên một trong những nhà báo,
một trong những nhà văn, một trong những nhà tư tưởng rất quan trọng của lịch
sử văn học, lịch sử báo chí, lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XX”.
2.3. Trang http://www.viet-studies.info của GS Trần Hữu Dũng, Đại
học Wright State University tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ đăng tải toàn bộ các sưu
tập của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về Phan Khôi.
2.4. Hồ sơ “Nhân văn giai phẩm” của Thụy Khuê (tại địa chỉ
http://thuykhue.free.fr), dành chương 15 nói về Phan Khôi, đề cập thân thế, sự
nghiệp, con đường văn hóa của Phan Khôi đặt trong bối cảnh những phong
trào chống Pháp đầu thế kỷ XX.
31
2.5. Tạp chí Hợp lưu của người Việt Nam ở Mỹ năm 1997 ra số
chuyên về Phan Khôi.
3. Những vấn đề đặt ra
3.1. Trong thời gian dài, dư luận xã hội, sách, báo, những nghiên cứu
về Phan Khôi rất ít ỏi. Từ quá trình dày công sưu tầm các tác phẩm báo chí
của Phan Khôi, tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng, từ sau ngày Phan Khôi mất
(năm 1959), Phan Khôi hầu như không được nhắc tới ở Miền Bắc.
Riêng ở miền Nam, suốt thời kỳ từ 1954 đến 1975, theo như chúng
tôi đọc lại được tài liệu thì thấy rằng ít nhất có hai nhà nghiên cứu
nhắc đến Phan Khôi: Một là nhà giáo Phạm Thế Ngũ trong cuốn
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, có nhắc đến đóng góp của
Phan Khôi trong giai đoạn những năm 1930 về mặt phê bình văn
học và cũng nhắc đến một số tác phẩm của ông đăng trên báo chí
những năm 1930. Người thứ hai là nhà nghiên cứu, nhà giáo Thanh
Lãng, ông nhắc đến những đóng góp, những hoạt động báo chí của
Phan Khôi những năm 1930, trong những cuốn như là Bảng lược đồ
văn học sử hay là nói về thế hệ phê bình 1932, hoặc là có một công
trình của Thanh Lãng sưu tầm những bài tranh luận văn học, sau khi
Thanh Lãng mất, đã được in, đó là bộ sách 13 năm tranh luận văn học,
ba tập (1995), trong này có một số lượng đáng kể những tác phẩm của
Phan Khôi in trên tờ Phụ nữ Tân văn. Và có lẽ đấy là tất cả những gì
mà người ta còn biết, hậu thế còn biết về Phan Khôi [12].
3.2. Sau thời kỳ đổi mới (1996), những nghiên cứu về Phan Khôi nhiều
hơn, khẳng định những đóng góp của ông trên các phương diện khác nhau:
học giả, văn chương - báo chí, chính trị - văn hóa - xã hội.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu những nghiên cứu này (trong nước và ngoài
nước gồm cả sách và các bài nghiên cứu đăng tạp chí, hội thảo...), có thể thấy
đó là những cách tiếp cận mang tính đơn lẻ, hoặc là tập hợp những nghiên cứu
32
đơn lẻ, trên những bình diện nhỏ, không mang tính hệ thống, cụ thể là, những
đóng góp của Phan Khôi liên quan đến văn chương, báo chí, văn hóa...; Các
cuốn hồi ký chủ yếu đề cập đến cuộc đời, những sự kiện, kỷ niệm gắn với
những giai đoạn cuộc đời cầm bút và cuộc sống gia đình Phan Khôi; Những
cuốn sách công bố các tác phẩm báo chí của Phan Khôi từ năm 1928 đến năm
1937 của tác giả Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn có thể nói là bộ sưu
tầm đồ sộ một mặt để lưu giữ những tác phẩm báo chí của Phan Khôi (do thời
gian và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan có thể các thế hệ hậu sinh
không còn tìm lại được), mặt khác, là nguồn tư liệu, chất liệu để nghiên cứu
về tác giả - tác phẩm đối với nhà văn, nhà báo Phan Khôi.
3.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, những nghiên cứu về
Phan Khôi với tư cách là một trong số ít nhà báo tiêu biểu của Việt Nam đầu
thế kỷ XX không nhiều. Và, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên
cứu riêng biệt, chuyên sâu nào về những đóng góp của Phan Khôi đối với báo
chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Vậy thì, việc tìm hiểu hoạt động báo chí
của Phan Khôi, phân tích làm rõ những đóng góp của ông về tư tưởng, học
thuật nói chung, về nghề báo nói riêng; trong phát triển thể loại, ngôn ngữ
tiếng Việt trên báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX với mức độ một luận án tiến
sĩ có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với người làm công tác nghiên cứu
cũng như trực tiếp làm công tác báo chí.
Từ nghiên cứu này, mở ra các hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa
về những đóng góp cụ thể của Phan Khôi đối với nghề báo, đối với việc góp
phần tạo nên diện mạo của nền báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX - thời kỳ
quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển báo chí Việt Nam theo hướng
chuyên nghiệp.
33
Chương 1
THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh chung
Năm 1918, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất kết thúc. Hậu quả để lại
đối với tất cả các nước tham chiến, cả nước thắng trận và bại trận là sự thiệt
hại nặng nề về người và của “10 triệu người chết, 20 triệu người bị thương và
208 tỷ đô la bị ngốn vào chi phí quân sự” [105, tr.152]. Sau chiến tranh, một
cục diện thế giới mới với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản,
phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ra đời sau thắng lợi
của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga.
Tình hình này làm cho các nước đế quốc lúng túng. Trên thực tế, mặc
dù nội bộ rất mâu thuẫn, nhưng các nước đế quốc vẫn phải liên kết để hạn chế
và đàn áp các trào lưu cách mạng nói trên. Mặt khác, để khôi phục nền kinh tế
nhằm tạo đà cho cuộc chạy đua trong nội bộ giới tư bản và với một hệ thống
mới - hệ thống xã hội chủ nghĩa, vừa ra đời từ thắng lợi của cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga, các nước đế quốc tăng cường khai thác nguồn tài nguyên và
nhân công giá rẻ của các nước thuộc địa.
Trong bối cảnh chung đó, đế quốc Pháp vừa ra sức bóc lột nhân dân
chính quốc, vừa đẩy mạnh khai thác các thuộc địa cả cũ và mới. Thêm vào đó,
Pháp còn có những điều chỉnh trong chính sách thuộc địa để cho việc khai
thác hiệu quả hơn, trong đó Đông Dương được Pháp đặt vào kế hoạch khai
thác trước hết vì đây được coi là thuộc địa mà “về mọi phương diện là quan
trọng nhất, phát triển nhất và giàu có nhất” [134, tr.24].
Cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói
riêng được Pháp tiến hành hết sức gấp rút, bằng những chương trình lớn: 5
34
năm (1918 - 1923 và 1924 - 1930) với những chính sách nhiều chiều về kinh
tế, tài chính, chính trị, văn hóa xã hội... và những biện pháp đa dạng về hành
chính, pháp lý... để cụ thể hóa những chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu của
cuộc khai thác thuộc địa. Trong đó, chính sách “hợp tác với người bản xứ”
được sử dụng triệt để. Mục đích của chính sách này nhằm lôi kéo người Việt
về phía Pháp, tránh ảnh hưởng của những luồng tư tưởng mới, nhất là ảnh
hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đang tác động mạnh mẽ đến
phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói
chung. Trên tờ l’Annam, số 121 (ngày 03-12-1926), Hồ Từ Hải đã viết: “Mục
đích ích kỷ của những người Pháp khi họ kêu gọi hợp tác, thì không cần
chứng minh cũng thấy rõ lắm rồi. Họ cần nhân công bản xứ dể khai thác tài
nguyên xứ ta làm giàu cho họ; họ cần chúng ta để bán hàng hóa của họ,
thương mại của họ sẽ sụp đổ nếu chúng ta tẩy chay; mộng đế quốc của họ sẽ
tan vỡ nếu chúng ta bất hợp tác toàn diện. Bằng lời lẽ quỷ quyệt, họ yêu cầu
chúng ta giúp họ để bóc lột chúng ta. Bằng cớ chứng minh rõ nhất rằng họ dối
trá chính là ở chỗ họ không bao giờ xác định đến mức rõ ràng cần thiết thế
nào là sự “hợp tác”, chỉ dùng những từ như: “chân thành”, “không mưu mô
thầm kín” mà họ hiểu theo một cách khác” [134, tr.45]. Về tác hại của “chính
sách hợp tác” này, Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng:
Dù sao ảnh hưởng của những bài diễn văn của Sarraut khá rộng rãi
và khá lâu dài, một lúc nào đó nó đánh lừa được nhiều người, kể cả
nhiều người yêu nước chân thật, nó là một nguồn cảm hứng lý luận cho
bọn truyền bá chủ nghĩa dân tộc cải lương ngoài Bắc và trong Nam suốt
thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới [37, tr.507].
Có thể nói cuộc khai thác thuộc địa bằng chính sách “hợp tác với người
bản xứ” đã tác động đến xã hội Việt Nam trong những năm 20 - 30 thế kỷ XX
với những thay đổi trong kinh tế, văn hóa - xã hội, nhất là những biến động
trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam thời kỳ đó.
35
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chỉ trong một thời gian ngắn, từ năm 1919 cho đến khi cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới bùng nổ, nền kinh tế thuộc địa đang trên đà phát triển ở
những năm trước nhờ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sự mở rộng
một số ngành sản xuất phục vụ chiến tranh có những bước phát triển mới.
Hầu hết các ngành kinh tế đều phát triển, từ nông nghiệp, đến công, thương
nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ tài chính... trong đó phải kể đến sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế nông nghiệp.
Đi liền với sự phát triển của các ngành kinh tế, cơ cấu của nền kinh tế
cũng thay đổi, mang tính chất thực dân - tư bản. Chế độ đại sở hữu tư nhân tư
bản phát triển. Nền sản xuất được thương mại rõ rệt, với sự xuất hiện và mở
mang của những vùng kinh tế thương phẩm lớn, nhất là những vùng trồng các
loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cao su, chè, cà phê... Mối quan
hệ giữa tư bản và công nhân trở thành mối quan hệ chi phối quan trọng trong
nền sản xuất.
Sự chuyển biến của nền kinh tế, cùng với sự thay đổi trong chính sách
thuộc địa - lấy “hợp tác với người bản xứ” làm cho xã hội Việt Nam có sự
thay đổi về kết cấu dân cư, sự phân hóa xã hội trở nên phức tạp hơn, mâu
thuẫn xã hội quyết liệt hơn xung quanh vấn đề cách mạng dân tộc, dân chủ.
Tùy vào địa vị kinh tế và xã hội trong hệ thống thuộc địa, mỗi giai cấp, mỗi
tầng lớp có vai trò và tiếng nói chính trị khác nhau.
Ở khu vực nông thôn, địa chủ tăng cường tích tụ ruộng đất, người nông
dân chịu thuế khóa nặng nề, phu phen tạp dịch. Quá trình chiếm đoạt ruộng
đất của chính quyền thực dân đã làm cho số ruộng đất dành cho việc mở rộng
diện tích canh tác của nông dân cũng như dành cho sự gia tăng dân số bị thu
hẹp, gây nên tình trạng manh mún hơn về ruộng đất ở các vùng thôn quê, nhất
là ở những vùng đồng bằng đông dân. Mặt khác, công cuộc khai thác thuộc
địa được mở rộng khiến cho nông dân buộc phải đáp ứng những nhu cầu
36
không giới hạn về nhân công cho các cơ sở kinh tế (đồn điền, hầm mỏ, nhà
máy...) ở cả trong và ngoài nước và dù ở đâu họ cũng bị bóc lột thậm tệ. Đời
sống của nông dân ngày càng lầm than, cơ cực. Có thể nói, chính cuộc sống
vật chất cơ cực, giá trị tinh thần bị xúc phạm đã khiến cho nông dân giác ngộ
hơn về quyền lợi cũng như ý thức dân tộc.
Giai đoạn này, giai cấp địa chủ gia tăng về số lượng và đa dạng hơn về
thành phần, gồm: địa chủ “nhà quê” là địa chủ nước ngoài và địa chủ người
Việt. Thành phần của giai cấp địa chủ ngày càng trở nên phức tạp. Một bộ
phận xuất thân từ các tầng lớp “trên” của xã hội thuộc địa, là các quan lại
trong bộ máy chính quyền, là các trí thức Đông - Tây học, các doanh nhân,
thương gia trung thành với chủ nghĩa “Pháp - Việt đề huề” quay lưng lại với
quyền lợi quốc gia, dân tộc, chống lại nhân dân. Bộ phận khác là tầng lớp địa
chủ nhỏ và vừa, trong đó có một số xuất thân từ nông dân có những quan
điểm khác nhau đối với các phong trào giải phóng dân tộc. Trong khi đó, địa
chủ người nước ngoài, trên thực tế cũng có tham gia vào việc cướp đoạt ruộng
đất và bóc lột nông dân. Giữa những năm 20, giai cấp địa chủ, một lần nữa đã
trỗi dậy nhằm phục hưng dân tộc, nhưng đó chỉ là sự trỗi dậy muộn màng,
giai cấp này thực sự mất vai trò lịch sử, cùng với sự thất bại của Đảng Lập
hiến ở Nam Kỳ.
Tư sản dân tộc chính thức trở thành một giai cấp, trên cơ sở một nền
kinh tế phát triển, ít nhiều có tính chất “Việt hóa”. Giai đoạn này, vượt qua
thời kỳ hoạt động riêng lẻ, phân tán, các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã biết
liên kết thành hội đoàn để mở rộng sản xuất và bảo vệ quyền lợi của mình
trước sự cạnh tranh của tư bản nước ngoài. Cùng với sự phát triển về số
lượng, ý thức giai cấp trong giới này đã hình thành và ngày càng bộc lộ rõ nét.
Từ những cuộc đấu tranh đòi được bình đẳng về quyền lợi kinh tế, giai cấp tư
sản đã tiến sang đòi được hưởng quyền tự do - dân chủ theo kiểu tư sản, đòi
có tiếng nói và vai trò về chính trị. Lúc này, chính sự ra đời của báo chí tư sản
37
đánh dấu một bước trưởng thành của giai cấp tư sản Việt Nam về tư tưởng và
ý thức giai cấp.
Tuy nhiên, do sinh sau đẻ muộn, lại là con đẻ của một nền kinh tế thuộc
địa kém phát triển - hậu quả của chính sách khai thác thuộc địa mang tính chất
ăn bám của tư bản Pháp, giai cấp tư sản Việt Nam nhanh chóng bộc lộ sự yếu
ớt về kinh tế và bạc nhược về chính trị. Sau một thời gian ngắn, các cơ sở sản
xuất của tư sản Việt Nam đã bị các ngành công nghiệp của tư bản nước ngoài
đè bẹp, nhất là khi khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra. Còn về chính trị thì
những ý tưởng của nó đã nhanh chóng bị phá sản. Cuối cùng thì một số đại tư
sản đã về với nguồn gốc xuất thân của mình là các địa chủ, đại địa chủ, kinh
doanh về ruộng đất và bóc lột nông dân theo kiểu phong kiến và gắn với chế
độ thuộc địa.
Cũng trong bối cảnh đó, giai cấp tiểu tư sản hình thành, cùng với sự bổ
sung về số lượng và sự trưởng thành về ý thức giai cấp. Là một bộ phận gắn
với hệ thống hành chính và các thiết chế của bộ máy chính quyền thuộc địa,
nhưng giai cấp tiểu tư sản có tinh thần dân tộc, căm ghét chế độ thực dân. Bao
gồm phần lớn là các trí thức, đại trí thức Đông - Tây học, đây cũng là giai cấp
nhạy cảm nhất trong xã hội và dễ tiếp thu những tư tưởng mới. Vì vậy, họ
luôn luôn là những người đi đầu trong các hoạt động cách mạng. Về chính trị,
giai cấp tiểu tư sản thực hành chủ nghĩa quốc gia cách mạng. Về tổ chức, họ
đã có các đảng phái, nhưng lại không lập ra được một chính đảng bền vững,
có tôn chỉ mục đích rõ ràng, có đường lối tập hợp quần chúng đúng đắn. Cuối
cùng, do yếu ớt và thiếu kiên định, không có khả năng tập hợp quần chúng, tất
cả mọi hoạt động mang tính đảng phái của giai cấp này đều rơi vào tình trạng
thất bại hoặc bị phân hóa, đi đến tan rã bởi sự đàn áp của kẻ thù, hoặc cũng là
bởi sự cảm hóa của phong trào cộng sản.
Giai cấp công nhân phát triển thêm một bước về số lượng do sự mở
rộng quy mô của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở trong nước, cùng với
38
số công nhân hết hạn hợp đồng từ chính quốc và từ các thuộc địa khác trở về.
Số lượng hơn 20 vạn công nhân trong các hầm mỏ, xí nghiệp, nhà máy, đồn
điền... lớn gấp hơn 2 lần so với trước chiến tranh và hơn 4 lần so với thời gian
đầu thế kỷ. Con số này mới chỉ tính đến những công nhân chuyên nghiệp và
cũng chỉ là công nhân trong các cơ sở kinh tế của tư bản Pháp, mà chưa kể
đến công nhân của các cơ sở kinh tế của tư sản dân tộc và tư sản ngoại quốc
khác. Về số lượng, đây thực sự là sự tăng lên đáng kể, mặc dù so với dân số,
công nhân mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Vẫn như từ trước, công nhân được bổ
sung chủ yếu từ giai cấp nông dân, nên họ càng dễ dàng trong việc lôi kéo
khối quần chúng nông dân đông đảo và liên minh chống đế quốc, phong kiến
với mình.
Ở giai đoạn trước, mặc dù đã hình thành một giai cấp, nhưng phong
trào công nhân vẫn trong giai đoạn “tự phát”, tức là giai cấp công nhân chưa
trở thành lực lượng chính trị độc lập. Thế nhưng sau chiến tranh, với số lượng
được bổ sung đông đảo, sự tác động của những yếu tố bên ngoài, sự tích cực
hoạt động của các chiến sĩ cách mạng đã làm cho giai cấp công nhân Việt
Nam trưởng thành, phong trào công nhân chuyển sang giai đoạn tự giác.
1.1.3. Các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc và sự ra đời của
Đảng Cộng sản Đông Dương
Sự phân hóa sâu sắc bên trong xã hội Việt Nam, trong cơ cấu nền kinh
tế cũng như cơ cấu xã hội đã ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước, giải
phóng dân tộc của nhân dân ta trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX.
Những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa Mác -
Lênin - vũ khí cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế, cũng như những ảnh
hưởng mạnh mẽ từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vô
sản đầu tiên trên thế giới thắng lợi, mở ra một thời đại mới cho lịch sử loài
người - thời đại phong trào giải phóng dân tộc chuyển hẳn sang phạm trù vô
sản. Sự ra đời của các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên thế
39
giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa tạo ra
những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng
tiến bộ vào Việt Nam. Phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành
một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh
đạo chung của Quốc tế cộng sản.
Đây là thời kỳ phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân
dân ta diễn ra sôi nổi cả ở trong và ngoài nước, dưới những hình thức khác
nhau, in đậm dấu ấn của những giai cấp, những tầng lớp xã hội tiến hành
những cuộc đấu tranh đó.
Ở nước ngoài, đó là những hoạt động xuất sắc và công lao to lớn của
Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên xô cũng như tại các nước láng giềng: Trung
Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin - lý luận cách
mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho việc
thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt Nam cũng như đưa phong trào
cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của
phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh đạo chung của Quốc tế cộng sản.
Bên cạnh đó, là những hoạt động rất đa dạng tại nhiều quốc gia của các cá
nhân cũng như những nhóm người Việt Nam yêu nước như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Mai Lão Bạng, Nguyễn Thượng Hiền...; hoạt động sôi nổi đầy
nhiệt huyết trong nhóm Tâm Tâm xã ở Quảng Châu mà tiêu biểu là tấm gương
hy sinh lẫm liệt của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, trong các tổ chức yêu nước của
người Việt Nam ở Pháp (Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền....), cũng như ở
trong nước của các trí thức tiểu tư sản: Nguyễn An Ninh, Trần Huy Liệu...
Đó cũng còn là phong trào do giai cấp tư sản chủ trương, đòi những
quyền lợi cụ thể về kinh tế, chính trị. Phong trào do giai cấp tiểu tư sản, học
sinh, sinh viên tiến hành đòi những quyền tự do dân chủ: Tự do ngôn luận, tự
do báo chí, đòi được bình đẳng với các viên chức và trí thức Pháp về đãi ngộ
cũng như về bằng cấp...
40
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lan rộng, phát triển cả về
số lượng và chất lượng: Từ những đòi hỏi quyền lợi hàng ngày về kinh tế, tiến
tới đòi hỏi đáp ứng những khẩu hiệu về chính trị. Từ sự cố gắng của các hội viên
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức Công đoàn đã được thành lập.
Phong trào đấu tranh của thanh niên cũng phát triển rầm rộ ở khắp nơi,
chống địa chủ, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt lính.
Tuy nhiên, giai đoạn này, mặc dù, phong trào dân tộc diễn ra sôi nổi,
nhưng vẫn chưa thống nhất được lực lượng, chưa có đường lối đấu tranh
chung, tức là vẫn khủng hoảng về lãnh đạo.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã hết vai trò lịch sử, chủ nghĩa cải lương
Pháp - Việt đề huề đã nhanh chóng bị giới thực dân phản đối cũng như bị các
trào lưu cách mạng lấn át.
Giai cấp tư sản non yếu không thể trở thành giai cấp lãnh đạo phong
trào. Giai cấp tư sản không kiên định, không có đường lối cách mạng rõ ràng
nên không thành lập được một chính đảng riêng, có đủ khả năng tập hợp quần
chúng để làm cách mạng.
Từ 1925 đến năm 1927, các tổ chức cách mạng, đại diện cho các giai
cấp, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức lần lượt ra đời ở Việt Nam, nhưng
cuối cùng thì hoặc là tan rã, hoặc là bị phân hóa.
Trong các giai cấp cần lao, giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của
phong trào dân tộc, bị bóc lột nhiều, nhưng chưa bao giờ là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Trong khi đó, là con đẻ của nền kinh tế hiện đại, giai cấp công
nhân là giai cấp tiên tiến nhất. Đây cũng là giai cấp chịu nhiều ách áp bức bóc
lột nhất, đói khổ nhất, vì vậy là giai cấp kiên định nhất. Với những lý do đó,
giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo được phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Được sự dìu dắt của Quốc tế Cộng
sản, của các chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc, giai cấp
công nhân Việt Nam dần dần trưởng thành và vào những năm cuối thập niên
41
20 thế kỷ XX đã sẵn sàng thực hiện sứ mạng chính trị của mình. Đó là khi tất
cả các tổ chức đảng phái của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội bị thất
bại hoặc bị phân hóa triệt để theo hướng vô sản thì các tổ chức cộng sản ra
đời và Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng của phong trào yêu nước của nhân
dân ta trong những năm đầu thế kỷ đó. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam
Quốc dân Đảng lãnh đạo bị thất bại, giai cấp công nhân độc tôn lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, thông qua chính đảng của mình.
Có thể nói, 30 năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử mang tính
bản lề quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam cận -
hiện đại. Đây chính là giai đoạn quyết định chiều hướng phát triển
của Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo, tạo ra những tiền đề
tư tưởng, tổ chưc và lực lượng cho sự phát triển của phong trào giải
phóng dân tộc ở những giai đoạn sau, mà sớm nhất là thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo [134, tr.11].
1.2. Sự phát triển báo chí đầu thế kỷ XX
1.2.1. Giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ Nhất
1.2.1.1. Bối cảnh
Đây là thời kỳ phát triển các phong trào dân tộc như Đông Du, Đông
Kinh nghĩa thục và cũng là thời điểm xuất hiện nền văn học yêu nước và
cách mạng. Giai đoạn này, mặc dù báo chí hoàn toàn nằm trong tay chính
quyền thực dân, nhưng những người cầm bút yêu nước vẫn tìm mọi cách để
có thể đưa tiếng nói của mình ngay trên mặt báo của kẻ thù. Những bài báo
của một số nhà nho yêu nước trên các tờ Lục Tỉnh Tân văn, Nông Cổ Mín
Đàm hay Đăng Cổ Tùng Báo tuy ít ỏi, tiếng nói phản kháng còn yếu ớt
nhưng có thể được xem là sự khởi đầu cho những tiếng nói mạnh mẽ vào
thời kỳ tiếp theo.
42
Ở hải ngoại, Phan Bội Châu dùng báo chí để tuyên truyền yêu nước.
Trong tay không có báo chí, Cụ đã mượn báo chí cách mạng Trung Hoa như
các tờ Binh Sự Tạp chí (Hàng Châu), Vân Nam Tạp chí, Tân Dân Tùng báo
làm phương tiện vận động cách mạng và coi đó là sự viện trợ về phần văn tự
của bạn.
Trước tình hình này, bên cạnh việc huy động quân đội và nhà tù để đàn
áp, khủng bố phong trào cách mạng của dân tộc ta, thực dân Pháp còn tiến
hành tập hợp lực lượng để phản kích lại các lực lượng cách mạng và yêu nước
trên mặt trận văn hóa tư tưởng, trong đó có báo chí. Mục tiêu của chúng là
giành lại sự thống trị tuyệt đối về mặt tinh thần.
Đối với báo chí, chính quyền thực dân áp đặt chế độ kiểm duyệt gắt gao
hòng ngăn chặn những tư tưởng tiến bộ, sách báo cách mạng từ ngoài gửi về.
Trong điều kiện đó, báo chí Bắc Kỳ hầu như không hoạt động, chỉ có duy
nhất tờ Công báo của phủ Toàn quyền. Mặt khác, chính quyền thực dân khẩn
trương vạch ra và thực hiện một đường lối báo chí có hiệu lực nhằm chống lại
những tư tưởng yêu nước.
1.2.1.2. Một số tờ báo tiêu biểu:
Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo và Đại Việt Tân Báo: Ra đời vào khoảng
năm 1891, do chủ nhà in Scheider sáng lập, nhưng thực tế là do Nha Kinh
lược chủ trì với hai cây bút chính là Đào Nguyên Phổ và Hàn Thái Dương.
Báo được phát hành khắp Bắc và Trung Kỳ. Đây là công cụ ngôn luận của
nhà nước bảo hộ, trực tiếp là Nha Kinh lược Bắc Kỳ (Lúc này do Hoàng
Cao Khải nắm giữ). Đối tượng chính là các nhà nho và chỉ phát hành trong
giới quan lại.
Đại Việt Tân báo ra mỗi tuần 2 số, in cả bằng chữ Hán và chữ Quốc
ngữ. Đây được xem là một bước tiến về mặt ngôn ngữ để báo chí có thể xâm
nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại người bản xứ. Về danh nghĩa, đây là tờ
báo tư nhân, nhưng thực chất là được chính quyền bảo hộ đỡ đầu.
43
Đăng Cổ Tùng báo: Số 793 của tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật báo chính
là số đầu tiên của tờ Đăng Cổ Tùng báo (số 01). Đăng Cổ được tách ra gắn
với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. “Mang hơi thở của phòng trào Đông
kinh Nghĩa Thục tờ báo có những lời hô hào thực nghiệp, chống những thói
hủ tục, mê tín dị đoan, kêu gọi hợp tác. Đó là nét mới của tờ báo quốc ngữ
đầu tiên ở Hà Nội” [40, tr.45]. Về nghệ thuật báo chí, Đăng Cổ Tùng báo là
một bước tiến đáng kể trong nghề làm báo.
Trong 9 tháng liền, Đăng Cổ Tùng báo ra được 34 số. Phát hành qua
số 826, ngày 14-11-1907 thì tiếng trống Đông Cổ đột nhiên ngừng bặt.
Đó cũng chính là lúc Đông Kinh Nghĩa Thục đang trải qua cơn khủng
bố. Các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... lần lượt bị bỏ ngục. Tờ
báo không thể tồn tại cũng như cơ sở xuất bản (Ban Tu thư) của Đông
Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, sách vở bị tịch thu... [40, tr.47].
Đông Dương Tạp chí: tuần báo ra số đầu tiên vào ngày 15-5-1913, ở
Hà Nội. Đây là tờ báo quan trọng bậc nhất trong việc tuyên truyền cho văn
minh phương Tây, văn minh Pháp. Đông Dương Tạp chí luôn có chuyên mục
dạy, phổ biến chữ quốc ngữ, dịch (“diễn nôm”) các văn phẩm nổi tiếng, chủ
yếu là văn học Pháp, đăng tải các diễn văn, tin tức quan trọng của Phủ toàn
quyền (bằng cả hai thứ tiếng Pháp - Việt) và quảng cáo rao vặt... Trong suốt
những năm Chiến tranh thế giới thứ Nhất, đây thực sự là tờ báo quan trọng
bậc nhất của giới thực dân. Mặt khác, tờ báo này với nghệ thuật báo chí tiên
tiến đã trở thành cơ quan báo chí đi đầu trong việc truyền bá văn minh
phương Tây, phê bình lối sống phong kiến, các hủ tục còn rơi rớt lại.
1.2.2. Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ Nhất
1.2.2.1. Bối cảnh
Tháng 08 năm 1914, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Cuộc
chiến tranh đế quốc chủ nghĩa này đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính
trị và văn hóa ở các nước thuộc địa do chính sách vơ vét sức người, sức của
của thực dân.
44
Về chính trị, thực dân Pháp tiến hành các hoạt động: “Chấn chỉnh quan
trường”, bố trí cho “Hoàng thượng ngự giá Bắc tuần”, ban hành “Hoàng Việt
Tân luật”, “chính sách thuế mới”, củng cố “Hội đồng tư vấn”... “Trên lĩnh vực
văn hóa giáo dục, một chính sách thực dân bằng sách vở được đem ra thực
hiện. Bọn thống trị ra sức đào tạo từ trong lớp người “đã sống nhờ vào chúng
ta (thực dân) và ở bên cạnh chúng ta nhưng mù tịt về truyền thống của giống
nòi và xa lạ với môi trường sống của mình” ... “một đội ngũ những tên tay sai
trợ lực cho công cuộc cai trị thuộc địa và phục vụ cho “chiến thắng của mẫu
quốc” [40, tr.51]. Ngược lại với “một nền thịnh vượng chung” mà bọn chúng
mong ước, chiến tranh vừa bùng nổ, các nhà cách mạng chỉ trông ở thời cơ
này để hô hào và hành động nhằm nêu cao quốc kỳ Việt Nam trên thế giới.
Hàng loạt các hoạt động vũ trang liên tiếp nổ ra ở biên giới phía Bắc, cuộc
khởi nghĩa của Vua Duy Tân, vụ phá Khám Lớn ở Sài Gòn khiến bọn thực
dân không yên. Để đối phó, thực dân Pháp vừa thẳng tay đàn áp, vừa ráo riết
thi hành chủ thuyết “Pháp Việt đề huề”. Nằm trong toàn bộ chính sách văn
hóa và tư tưởng, báo chí một lần nữa được bọn thực dân tận dụng như một thứ
vũ khí lợi hại.
1.2.2.2. Một số tờ báo tiêu biểu
Đầu năm 1915, báo chí ở Bắc Kỳ có bước phát triển với sự phân thân
của Đông Dương Tạp chí: có thêm phụ chú là “Học báo” ra ngày Chủ nhật
hàng tuần chuyên sâu vào khảo cứu, học thuật và sư phạm. Tiếp theo đó là sự
xuất hiện của hai tờ Trung Bắc Tân văn và Công thị báo.
Sau khi đặt chân lên Đông Dương với những nhiệm vụ mới của tình
hình thời chiến, Toàn quyền Raume tức tốc triển khai một kế hoạch toàn diện
cho công cuộc cai trị thuộc địa. Tháng 6 - 1915 “Thư viện truyền bá được
thành lập” thu hút toàn bộ công việc xuất bản sách báo ở Đông Dương, dưới
sự cai quản của Cơ quan mật thám Đông Dương cùng với Nha các vấn đề
chính trị và bản xứ thuộc Phủ toàn quyền. Thư viện truyền bá thông qua 2 ấn
45
phẩm: Đông Dương Tạp chí - tuần báo văn chương, khoa học và giáo dục và
Trung Bắc Tân văn - thời báo chính trị, kinh tế.
Tờ báo lớn nhất thời kỳ này là Nam Phong Tạp chí, gắn liền với tên
tuổi Phạm Quỳnh, ra số đầu tiên vào tháng 7-1917. Tính đến số cuối cùng, ra
ngày 16-12-1934, bộ sưu tập Nam Phong gồm 210 số báo, chia làm 3 thời kỳ:
Thời kỳ đầu (1917-1925) hoạt động trong khuôn khổ Hội khai trí tiến đức;
giai đoạn (1925 - 1932), bên cạnh xu hướng chính trị quốc gia cải lương, Nam
Phong còn phát triển nghiên cứu học thuật, hướng theo Âu Tây tư tưởng - văn
hóa, tạo ra một thế lực chính trị theo chủ thuyết lập hiến do chính Phạm
Quỳnh đứng đầu; thời kỳ cuối (1932-1934) Phạm Quỳnh bỏ vào Huế làm
quan thượng thư cho Nam Triều, Nguyễn Tiến Lãng đứng làm chủ bút. Từ
đây, tờ báo suy giảm chất lượng, mất dần bạn đọc và phải tự đình bản.
1.2.3. Báo chí Việt Nam thời kỳ 1919 - 1930
1.2.3.1. Giai đoạn 1919 - 1924
Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, thực dân Pháp tập trung khôi phục
nền kinh tế của nước Pháp bị tàn phá trong chiến tranh và tiến hành khai thác
các thuộc địa với quy mô lớn và có chiều sâu. Đi đôi với các chính sách kinh
tế mới, thực dân Pháp có những chủ trương thích ứng nhằm củng cố và tăng
cường bộ máy cai trị ở các thuộc địa, từ đó làm nảy sinh những cơ cấu giai
cấp mới và quan hệ xã hội mới (như đã phân tích ở phần 1).
Thời kỳ này, cùng với những biến đổi về kinh tế và chính trị là sự
chuyển hướng về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… nhằm mục đích
phục vụ cho những chính sách cai trị mới của thực dân Pháp trong tình hình
mới. Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định lập “Hội khai trí tiến đức” do tên trùm
mật thám L.Mácty làm chủ tịch nhằm tập hợp tầng lớp trí thức thượng lưu
tuyên truyền học thuật và tư tưởng của chính quyền thực dân, khuyến khích
người dân làm việc đạo đức cũng là bảo trì cho quyền lợi người Pháp, người
Nam trong trường kinh tế.
46
Việc Quốc tế cộng sản ra đời, giương cao ngọn cờ tập hợp các dân tộc
thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc bị báo chí trong nước làm ngơ, báo chí từ
Pháp sang, trừ báo chí phe tả, còn lại đều cùng một luận điệu chống cộng,
chống chủ nghĩa Bôn-sê-vích. Tháng 01-1924, Quốc tế cộng sản có lời kêu
gọi gửi tới nhân dân Việt Nam in bằng tiếng Việt được bí mật truyền tay nhau
đã trở thành nỗi lo của chính quyền thực dân.
Sau Yêu sách tám điểm gửi Hội nghị quốc tế họp ở Véc-xay, ký tên
Nguyễn Ái Quốc, việc Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Tua tháng 12-1920,
bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba, trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, rồi tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản
báo Le Paria, là những nguồn kích thích mạnh mẽ tinh thần yêu nước và lòng
tin của những người yêu nước vào Người dẫn đường mới cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Những hoạt động của các nhà yêu nước như Phan Bội
Châu, Phạm Hồng Thái... từ nước ngoài vọng về trong nước, hòa vào xu
hướng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc, hun đúc thêm khí thế dân tộc
chống ngoại xâm.
Bối cảnh lịch sử cùng với những vấn đề mới xuất hiện trong tình hình
xã hội Việt Nam trên đây có quan hệ đến những đặc điểm của sự phát triển
báo chí.
Những tờ báo, tạp chí xuất hiện từ thời kỳ trước còn tiếp tục xuất
bản trong thời kỳ này, như Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân văn,
Nam Kỳ địa phận, Nam Trung Nhật báo, Công luận báo, Nam
Phong... hầu hết là ở Sài Gòn, chỉ có báo Trung Bắc Tân văn và Tạp
chí Nam Phong xuất bản ở Hà Nội, trong đó có 2 tờ kinh tế, 6 tờ
chính trị và 1 tờ tôn giáo [40, tr.68].
Tình thế thay đổi, đòi hỏi những tờ báo và tạp chí này cũng có những
thay đổi cần thiết để thích ứng, về mặt thể loại bài, đưa tin, phong cách... mặc
dù vẫn bám sát tôn chỉ, mục đích kể từ khi ra số 1 và trong quá trình xuất bản
từ trước đến nay.
47
Về nội dung, ngoài những loại báo chính trị, kinh tế, tôn giáo như thời
kỳ trước, tuy cơ cấu có thay đổi, báo kinh tế có xu hướng phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc. Có tờ báo kinh tế kết hợp
chặt chẽ với tính chất chính trị, hoặc xuất hiện thể loại mới về văn hóa, giáo
dục, khoa học và thể dục thể thao mà trước kia chưa có. Có 6 tờ báo tiếng
Pháp do người Việt chủ trương phát triển theo hai xu hướng chính trị khác
hẳn nhau, 5 tờ theo khuynh hướng phát ngôn quyền lợi và yêu cầu của giai
cấp tư sản Việt Nam, mang tính chất thỏa hiệp với thực dân Pháp; 01 tờ có
khuynh hướng dân tộc và xã hội chủ nghĩa chống chủ nghĩa thực dân.
Những tờ báo tiêu biểu nhất của thời kỳ này có thể được nói đến là:
- Thực nghiệp dân báo, ra số đầu tiên vào ngày 12-02-1920. Chủ nhiệm
kiêm quản lý là Bùi Huy Tin, rồi Mai Du Lân. Chủ bút là Trần Văn Quang rồi
Bùi Đình Tá. Thời kỳ đầu thường đăng những bài về kỹ thuật trồng trọt và kỹ
thuật tiểu công nghiệp, hô hào mọi người đi vào con đường “thực nghiệp”,
phản ánh tình hình “đói khát về công nghiệp”...; tiếp đến là đòi cho giai cấp tư
sản Việt Nam được phép xây dựng nhà máy, góp cổ phần lập xí nghiệp sản
xuất, phát triển kinh tế để có hàng xuất khẩu và mua hàng nước ngoài về.
- Khai Hóa: Người sáng lập là Bạch Thái Bưởi, ra số 1 ngày 15-7-
1921. Đây là nhật báo, xuất bản hàng ngày. Cũng như Thực nghiệp dân báo,
Khai Hóa là tiếng nói của giai cấp tư sản xứ Bắc Kỳ đang lên. Từ giữa năm
1925 trở đi, Khai Hóa đề cập trực tiếp hơn nữa những vấn đề kinh tế và chính
trị. Xét về thái độ với thực dân Pháp, Khai Hóa có phần yếu đuối hơn Thực
nghiệp dân báo. Sau khi ra số 1762, tháng 6-1928, Khai Hóa ngừng xuất bản.
- La Cloche fêlée (Chuông rạn), người sáng lập là nhà trí thức yêu nước
Nguyễn An Ninh, ra số 1 ngày 10-12-1923, xuất bản hàng tuần. Sau khi ra số
62, ngày 3-5-1926, báo đổi tên là L’Annam, đánh số 63, ngày 06-6-1926, cho
đến khi báo ra số 182, ngày 02-02-1928 thì đình bản. Báo kịch liệt công kích
chế độ thực dân tàn bạo, gây lòng căm thù sâu sắc của nhân dân ta đối với bọn
48
thực dân Pháp đồng thời lên án nhà vua bù nhìn ở Huế. Mặt khác, báo kêu gọi
lòng yêu nước, đề cao ý thức độc lập, tự chủ của dân tộc ta bắt nguồn từ
truyền thống lịch sử kết hợp với tinh thần đương đại, phấn đấu cho một tương
lai tươi đẹp hơn. Báo đả kích kịch liệt chủ nghĩa “Pháp-Việt đề huề”. Có thể
nói, tờ Chuông rạn thực sự là một dấu son trong lịch sử báo chí nước nhà.
1.2.4. Thời kỳ 1925-1930
Công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai đi dần vào chiều sâu. Nhiều
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền mở rộng quy mô sản xuất khá nhanh, đem lại
những khoản lợi nhuận lớn, càng thúc đẩy tư bản Pháp đầu tư mạnh hơn.
Trong bối cảnh kinh tế mới, tư sản bản xứ cũng có điều kiện phát triển khá
nhanh, tuy rằng tốc độ chậm hơn tư sản Pháp vì vốn liếng không nhiều, khả
năng quản lý và kỹ thuật hạn chế, nhất là những chính sách nâng đỡ tư sản
Pháp, chèn ép tư sản bản xứ. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn giữa tư sản
Việt Nam và tư sản Pháp vốn có lại tăng lên và kích thích ý thức dân tộc phát
triển trong tư sản Việt Nam.
Để mong ổn định tình hình chính trị, xoa dịu mâu thuẫn giữa nhân dân
ta với thực dân Pháp, nhằm phục vụ cho việc triển khai các chính sách kinh
tế, Bộ Thuộc địa Pháp cử Varen sang làm Toàn quyền Đông Dương, thực
hiện đường lối Pháp - Việt đề huề nhằm mê hoặc nhân dân, các phái chính
trị cùng bộ phận trí thức đang có ý chống đối bằng những thủ đoạn xảo
quyệt hơn.
Các phong trào yêu nước và dân chủ phát triển khá mạnh trong trí thức,
tư sản. Đặc biệt là xu hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu xâm nhập phong trào
dân tộc và giai cấp công nhân. Những cuộc vận động đòi thả Phan Bội Châu,
để tang Phan Châu Trinh sôi nổi trong cả nước. “Nhiều cuốn sách chứa chan
lòng yêu nước của các tác giả Việt Nam sáng tác cùng với các sách dịch của
nước ngoài của Nam Đồng thư xã ở Hà Nội, Cường học thư xã ở Sài Gòn...
được phổ biến rộng rãi và người đọc hoan nghênh” [40, tr.77].
49
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lập Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam
(Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội) ở Quảng Châu. Những thanh
niên Việt Nam yêu nước từ trong nước, từ Thái Lan cùng với những thanh
niên trong Tâm Tâm xã đang có mặt ở Trung Quốc được Nguyễn Ái Quốc
giáo dục về lý luận cách mạng vô sản và con đường giải phóng dân tộc theo
chủ nghĩa Lênin. Học xong, phần lớn được cử về nước xây dựng phong trào.
Nhờ có lý luận cách mạng khoa học, đường lối chính trị đáp ứng được yêu
cầu và xu hướng phát triển của lịch sử đất nước nên Hội Thanh niên Cách
mạng Việt Nam phát triển rất nhanh chóng trong cả nước, đi vào hàng ngũ trí
thức, thanh niên, học sinh và giai cấp công nhân tạo ra những tiền đề tư tưởng
và chính trị chuẩn bị cho bước phát triển mới nhảy vọt của cách mạng Việt
Nam, theo con đường cách mạng vô sản.
Về văn hóa giáo dục trong những năm 1925-1929 có sự phát triển đáng
kể, do yêu cầu của phát triển kinh tế, do thực hiện chính sách mị dân và
những đòi hỏi của nhân dân về nâng cao đời sống tinh thần, là điều kiện cần
thiết trong việc tạo nên số đông độc giả cho báo chí, tiêu thụ và kích thích báo
chí phát triển.
Trong điều kiện lịch sử đó, báo chí Việt Nam cũng có bước phát triển mới:
Giai đoạn này có 6 tờ báo và tạp chí ra đời từ trước năm 1919 còn
lại (trong tổng số 29 tờ), trong đó 4 tờ chính trị, 1 tờ kinh tế, 1 tờ tôn
giáo; 17 tờ báo và tạp chí ra đời trong thời 1919-1924 còn lại (trong
tổng số 26 tờ), có 13 tờ báo tiếng Việt và 4 tờ báo tiếng Pháp. Trong
những năm 1925-1929, có 40 tờ báo và tạp chí mới xuất bản công
khai và hợp pháp. Ngoài các tờ báo ngành như chính trị, kinh tế, văn
hóa giáo dục, thể thao, tôn giáo còn có báo về y dược, nghệ thuật.
Có 6 tờ báo tiếng Pháp đều thuộc loại chính trị [40, tr.78-79].
Thời kỳ này, một dòng báo mới xuất hiện trong lịch sử báo chí nước ta
- báo cách mạng, xuất bản bí mật, không hợp pháp, mở đầu bằng tờ Thanh
50
niên của Tổng bộ Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc
sáng lập. Tiếp theo tờ Thanh niên còn có tờ Công nông và Lính Cách mệnh
của Tổng bộ do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và chỉ đạo.
Cùng với sự phát triển của hệ thống tổ chức và cơ sở của Hội Thanh niên
Cách mạng Việt Nam, nhiều tờ báo của kỳ bộ, tỉnh bộ và chi hội cũng ra đời.
Đến khi các tổ chức Cộng sản ra đời: Đảng Cộng sản Đông Dương (6-
1929) và Đảng Cộng sản An Nam (10 - 1929) xuất hiện báo nhân danh Trung
ương Đảng, như Búa Liềm của Đảng Cộng sản Đông Dương (1-10-1929) và
cơ quan vận động của công nhân trực thuộc Trung ương Đảng, như Tạp chí
Công Hội Đỏ. Tính tất cả những tờ báo từ ngày trước còn lại và mới ra đời
trong khoảng thời gian 1923-1929, cả báo xuất bản công khai, hợp pháp và
không hợp pháp, cả nước có khoảng trên dưới 90 tờ, gấp 2 lần tổng số báo chí
xuất bản trong 60 năm trước đó (1865-1924).
Những tờ báo của các tổ chức cách mạng (Hội Thanh niên Cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản An Nam) hoàn toàn
đối lập với chế độ thực dân thống trị, đấu tranh giải phóng giành độc lập dân
tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những tờ báo của các nhóm có tinh thần yêu nước, tiến bộ, chống
chính quyền thực dân với mức độ khác nhau, thuộc những hệ tư tưởng khác
nhau, mục tiêu và phương hướng đấu tranh không giống nhau. Có tờ biểu thị
thái độ chống chủ nghĩa thực dân từ đầu cho đến khi đình bản, nhưng có
những bước phát triển từ thấp đến cao. Có tờ lúc đầu chưa bộc lộ thái độ
chính trị chống đối, sau chuyển sang chủ bút mới thì bắt đầu xuất hiện. Có thể
kể đến các tờ báo tiếng Pháp Le Nhà Quê của Nguyễn Khánh Toàn, Le Jeune
Annam của Lâm Hiệp Châu; La cloche fêlée sau đổi là L’Annam của Nguyễn
An Ninh, Phan Văn Trường và các tờ báo tiếng Việt: Tân Thế kỷ của Cao Văn
Chánh, Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng, Pháp Việt Nhứt gia của Cao Hải
Đễ, Lê Thành Lư, Thần chung của Diệp văn Kỳ.
51
Trong thời kỳ này, có một số tờ báo tiêu biểu như:
- Thanh niên: Do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, ra số 1 ngày 21-6-1925.
Thời gian đầu báo xuất bản mỗi tuần 1 kỳ, về sau do khó khăn về điều kiện in
nên mỗi số cách nhau 3 - 5 tuần. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu,
Người kiêm Tổng biên tập báo, viết những bài quan trọng, vẽ tranh, sửa hoặc
viết những bài khác và tin tức, ra được 88 số. Đến cuối năm 1929, Tổng bộ
Hội Thanh niên Cách mạng ngừng hoạt động, báo cũng ngừng xuất bản. Báo
được chuyển phần lớn bằng đường giao thông bí mật về các cơ sở trong nước;
số còn lại gửi đi các cơ sở của Hội ở nước ngoài (Trung Quốc, Xiêm, Pháp).
Báo Thanh niên giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, mở đầu cho việc tuyên
truyền chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm Mác - Lênin, được thanh niên yêu
nước đọc nhiều. Báo đã góp phần tích cực chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- L’Annam: Nguyên là tờ La cloche fêlée do Nguyễn An Ninh sáng lập;
sau đó Phan Văn Trường làm Tổng Biên tập từ số 20 ngày 26-11-1925, đến 6-
5-1926 thì đổi tên thành L’Annam. L’Annam chỉ rõ chủ nghĩa thực dân là
nguồn gốc sâu xa của mọi nỗi đau khổ của dân tộc bị bóc lột. Báo lên án chủ
nghĩa thực dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục...
bảo vệ quyền lợi của công nhân và nông dân là những người bị áp bức, bóc
lột tàn tệ nhất, chịu đựng nhiều đau khổ nhất. Báo đưa tin về những cuộc đấu
tranh chống thực dân áp bức ở trong nước; về những cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân và các lực lượng dân chủ, tiến bộ các nước, bày tỏ tình cảm, sự
đồng tình với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Đối với sự
kiện Nhà yêu nước Phan Bội Châu bị bắt giam, nhờ có phong trào đấu tranh
sôi nổi của các tầng lớp nhân dân trong cả nước buộc thực dân Pháp phải
giảm án theo ý định ban đầu xuống quản thúc. Báo có nhiều bài viết ca ngợi
Phan Bội Châu, phản đối việc bắt giữ Cụ. Ngày 02-02-1928, báo ngừng
xuất bản.
52
- Tiếng Dân: Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu sáng lập, Huỳnh
Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút từ số 1, ngày 10-8-1927, đến số
cuối cùng, ngày 24-4-1943, Trần Bình Phiên làm quản lý. Tiếng Dân là tờ báo
đầu tiên của xứ Trung Kỳ, thuộc thể loại chính trị - xã hội. Báo có những
tiếng nói tích cực nhất định trong việc bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động,
chủ yếu từ năm 1927 - 1929; từ năm 1930 đến 8 - 1938, tiếng nói đó giảm sức
nặng những yếu tố tích cực và tiêu cực xen kẽ nhau. Tuy nhiên, từ khi Chiến
tranh thế giới thứ Hai bùng nổ đến ngày báo đình bản, Tiếng Dân bị lầm lạc
về chính trị, lẫn lộn bạn thù, tác dụng tích cực hầu như không còn.
- Hà Thành Ngọ Báo: Do Bùi Xuân Học sáng lập và làm chủ nhiệm,
báo xuất bản hàng ngày, số 1 vào tháng 5-1927. Kể từ số 1.200, ngày 15-8-
1931 đổi tên là Ngọ Báo, duy trì đến số 2.620, ngày 06-6-1936 rồi bị cấm.
Về nội dung chính trị, báo không có chính kiến rõ, có khuynh hướng tự
do tư sản. Về hình thức, báo đánh dấu một bước tiến bộ đáng kể so với các
báo chí xuất bản cùng thời, nhờ học tập được nghề làm báo của Pháp do Đỗ
Ân và Hoàng Tích Chu du học ở Pháp đem về áp dụng. Báo trình bày đẹp, lối
hành văn mới, gọn gàng, khác hẳn với lối văn báo chí lúc đó còn mang nặng
dấu vết biền ngẫu của lối hành văn cổ, đối chữ trong câu, hoặc chứa đựng nhiều
chữ Hán cổ, nhiều điển cổ Trung Hoa không phù hợp với ngôn ngữ đại chúng.
- Tân Thế kỷ: Do Cao Văn Chánh làm Chủ nhiệm, Hà Trí Bửu Đình là
Tổng lý kiêm chủ bút. Báo ra số 1 ra ngày 01-12-1920 và ngừng xuất bản ở số
cuối cùng ra ngày 30-4-1927 (số 142). Báo ngừng xuất bản vì có nghị định
cấm của Toàn quyền Đông Dương. Đây là tờ báo xuất bản hàng ngày, danh
nghĩa “Công lý nhơn đạo”. Báo hoạt động với tôn chỉ: Khuyến khích dân Việt
Nam làm việc để xây dựng có ý thức; phục hưng nền quốc học; kêu gọi đồng
bào hãy kính trọng các nhà “Ái quốc và khinh khi bọn phản quốc”.
- La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương): Đây là cơ quan
chính thức của Đảng Lập hiến Đông Dương, xuất bản mỗi tuần 3 kỳ, vào các
53
ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu. Số 1 ngày 06-8-1928, số cuối cùng, ra tháng 10-
1942 (số 2342). Báo tuyên truyền và cổ động cho khẩu hiệu “Pháp Việt đề
huề”, chống lại các phong trào yêu nước, đấu tranh cho độc lập dân tộc. Báo
cho rằng yêu cầu giải phóng và độc lập là xa vời. Tờ báo là tiếng nói cực
đoan, phản động của bộ phận đại diện cho giai cấp địa chủ và tư sản mại bản
người Việt, phục vụ cho chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông
Dương. Vì lẽ đó, La Tribune Indochinoise trở thành đối tượng để những tờ
báo tiến bộ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp tập trung công kích, lên án.
- Phụ nữ Tân Văn: Do bà Nguyễn Đức Nhuận tức Cao Thị Khanh xin
phép xuất bản và làm chủ nhiệm. Đào Nhất Trinh làm chủ bút. Báo ra số 1,
ngày 2-5-1929, xuất bản hàng tuần. Số cuối cùng, ra ngày 21-4-1935 (số 273).
Đây là tờ báo của giới phụ nữ, xuất bản được trên 5 năm, có ảnh hưởng lớn
trong giới phụ nữ và có vị trí đáng kể trong làng báo Việt Nam. Đối tượng của
báo chủ yếu là nữ giới thuộc tầng lớp trung lưu, có xu hướng cấp tiến trong
việc trình bày quan hệ và trách nhiệm của nữ giới đối với đời sống quốc gia,
xã hội và trong gia đình. Báo được sự quan tâm, cộng tác của nhiều nhà văn,
nhà báo có tiếng, đăng những vấn đề thời sự chính trị có quan điểm tiến bộ
mang đậm màu sắc riêng như: Giải phóng phụ nữ khỏi ràng buộc của lễ giáo
phong kiến, nữ công gia chánh, vệ sinh và khoa học. Đối với Phụ nữ Tân văn,
Phan Khôi tham dự từ số đầu đến số cuối.
- Thần chung: về nhiều mặt, là sự tiếp tục của tờ Đông Pháp thời báo
(1923-1928). Sau khi mua lại tờ báo này từ Nguyễn Kim Đính (tháng 10-
1927), Diệp Văn Kỳ và các cộng sự đã chuyển Đông Pháp thời báo theo
hướng một tờ báo đối lập và Đông Pháp thời báo đã trở thành tờ báo có rất
đông bạn đọc. Chủ nhiệm là Diệp Văn Kỳ, chủ bút là Nguyễn Văn Bá
(nguyên giáo sư Cao đẳng sư phạm, từng làm báo An Nam của Phan Văn
Trường); các trợ bút trong bộ biên tập đều là những cây bút tên tuổi: Ngô Tất
Tố, Phan Khôi, Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ, Phan Văn Hùm. Về mặt kỹ
54
thuật, đây là tờ báo có sự quản lý và tổ chức quy củ, với một “bộ biên tập gồm
những người có năng lực, phân công rõ rệt, với nhiều cộng sự viên xứng đáng
và một ban giám đốc có tinh thần khoa học, trong khi các nhật báo khác còn
hoạt động trong tình trạng luộm thuộm, tiểu công nghệ và chỉ huy theo tinh
thần gia đình” [40, tr.211-212]. Xu hướng chính trị của Thần chung là tinh
thần chống chính quyền thực dân cùng với một ý thức quốc gia dân tộc rõ rệt.
Trên nhật báo Trung lập, trong năm 1931 vẫn giữ được phong độ một tờ báo
“của người Việt Nam” - cái ý hướng mạnh mẽ được đánh dấu bằng sự cải tổ
thành một tờ Trung lập mới từ 02-5-1930. Trong năm 1931, trên Trung lập có
thêm các chuyên mục mới: Phụ nữ tu tri, Pháp luật vấn đáp, Phụ trương văn
chương, Xem qua các báo… và các chuyên mục thường kỳ đã có từ năm
trước: Ý kiến Trung lập với Bùi Thế Mỹ hoặc Tôn Hiền, Những điều nghe
thấy với Thông Reo (Bút danh của Phan Khôi trong chuyên mục “Những điều
nghe thấy” trên Trung lập). Có khi báo mở đến những nội dung như bài dài
hàng chục kỳ về nước Nhật mới, hàng chục kỳ về nước Mỹ, về những ông
vua báo chí…, có khi đăng cả những thứ đáng ngạc nhiên như đăng lược dịch
nhiều kỳ Tư bản luận của Các Mác. Để xen kẽ với các nội dung quảng cáo
trên bốn trang ruột, báo phải có các “đoản thiên tiểu thuyết”, và các truyện
đăng đều kỳ; vì thế từ giữa tháng 8-1931 Trung lập được thêm một lợi thế
mới: Nhà văn Phú Đức (một cựu bỉnh bút của Trung lập cũ) do bất bình riêng
đã từ chức chủ bút Công luận báo, sau đó nhận lời tham gia biên tập Trung lập,
chủ yếu dành các tiểu thuyết của mình đăng đều kỳ trên báo này. Vậy là Trung lập
có thể đăng tải song song hai tiểu thuyết khác nhau: Một của Phú Đức, một của
Vân Trình hoặc Michel Trần Thiện Thành hoặc tác giả khác.
Phụ trương văn chương ra vào ngày thứ bảy, bắt đầu từ 02-5-1931
nhân kỷ niệm 1 năm của Trung lập mới, mỗi lần chiếm khoảng 2 trang báo, là
nét mới của nhật báo này, gợi nhớ đến Phụ trương văn chương của Đông
Pháp thời báo năm 1928, cũng vào hồi có Phan Khôi tham gia. Chính ở phụ
55
trương này ngay từ số 2 (ra 09-5-1931) đã nêu vấn đề “nghệ thuật vị nghệ
thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” và đấy là thời điểm sớm nhất vấn đề này
được thông tin trên báo chí công khai ở Việt Nam. Tính ra Phụ trương văn
chương của báo Trung lập ra được 104 số, tồn tại hằng tuần liên tục cho đến
khi Trung lập bị đóng cửa, thu hút được sự tham gia của những nhà báo yêu
văn chương như Phiêu Linh (Bùi Thế Mỹ), Sử Bình Tử (Huỳnh Thúc Kháng),
Phan Khôi... kể cả những học giả ở xa ngoài Bắc như Bùi Kỷ, Dương Quảng
Hàm, Ngô Tất Tố, v.v…
1.2.5. Báo chí Việt Nam thời kỳ 1930 - 1939
1.2.5.1. Giai đoạn 1930 - 1936
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 gây ra những thiệt hại
cho nền kinh tế Việt Nam. Mặt khác, cũng lúc này, việc thực dân Pháp đánh
phá phong trào cách mạng trong những năm 1930-1931: Bắt hàng vạn người,
đốt phá làng mạc, ném bom vào cuộc biểu tình quần chúng ở Hưng Nguyên,
Nghệ An... trực tiếp phá hoại sức sản xuất đã làm cho nền kinh tế càng sa sút,
đời sống nhân dân cực khổ.
Đúng lúc Việt Nam quốc dân Đảng suy sụp sau Khởi nghĩa Yên Bái,
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời, đánh dấu bước ngoạt lịch sử dân tộc. Ngày
3-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản chính thức khai mạc dưới sự
chủ tọa của đại biểu quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc, quyết định thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới, sau khi giai cấp tư sản đã kết thúc vai trò lịch sử của mình.
Cao trào 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đánh dấu cột
mốc đầu tiên của phong trào cách mạng mới. Mặc dù từ cuối năm 1931, cao
trào đã bị đàn áp nặng nề và đi vào thoái trào nhưng rồi dần dần hồi phục vào
năm 1934. Năm 1935 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất họp ở Ma Cao
(Trung Quốc), đánh dấu một bước tiến quan trọng của phong trào cộng sản ở
nước ta.
56
Đảng Cộng sản Đông Dương có đoàn đại biểu tham dự Đại hội lần thứ
Bảy Quốc tế cộng sản (07-8-1935). Đại hội đề ra sự chỉ đạo chiến lược mới,
tập trung chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, mở ra cho cách mạng nước
ta một hướng đi mới trực tiếp tham gia phong trào cộng sản và dân chủ quốc
tế. Quốc tế cộng sản đánh giá cao hoạt động của Đảng Cộng sản Đông
Dương, công nhận Đông Dương là bộ phận chính thức của Quốc tế và cử đại
biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương là Lê Hồng Phong làm ủy viên chính
thức của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản.
Tình hình chính trị, xã hội thời kỳ này để lại dấu ấn rất rõ nét trên báo chí.
Trong 5 năm rưỡi, kể từ đầu năm 1936, có gần 30 tờ báo và tạp chí
từ thời gian trước còn được tiếp tục xuất bản và 180 tờ báo mới ra
đời công khai, hợp pháp. Số báo và tạp chí xuất bản công khai hợp
pháp lên tới 210, gấp gần 2 lần rưỡi số báo và tạp chí của quãng thời
gian trước dài tương đương như vậy (1924-1929)
Bên cạnh báo công khai hợp pháp, phải kể đến hệ thống báo chí
xuất bản bí mật không hợp pháp, chủ yếu là báo chí cách mạng,
khoảng 170 tờ.
Tổng cộng toàn bộ cả báo chí xuất bản công khai, hợp pháp và xuất bản
bí mật, không hợp pháp, con số lên khoảng 380 tờ, gấp gần 4 lần của
quãng thời gian dài tương đương như vậy, từ 124 đến 1929 [40, tr.96].
Báo chí công khai, gồm: Những tờ báo không có khuynh hướng chính
trị thân thực dân được sự bảo trợ của chính quyền, do những phần tử chính trị
phản động nắm như Nam Phong, Báo Đông Pháp, La Tribune indigène, La
Tribune indochinoise thì nhân những cuộc đàn áp cách mạng mà đả kích cách
mạng, chống cộng sản trắng trợn, ca ngợi chính sách khai hóa của thực dân
Pháp, tuyên truyền cho thuyết Pháp - Việt hợp tác và Pháp - Việt đề huề.
Cũng trong thời kỳ này, lần đầu tiên xuất hiện báo của phái Tơrôtxkít ở
nước ta. Đó là tờ La Lutte, ra số 1 ngày 24-4-1934. Trong những năm 1930 -
57
1936, La Lutte đã có tác dụng tích cực nhất định như đăng phóng sự của
Nguyễn Văn Nguyễn viết về tù chính trị ở Côn Đảo, trong gần 60 số báo,
đăng “Mười ngày rung chuyển thế giới” của G.Rít. Giới thiệu những sách báo
tiến bộ của những nhà văn cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp; cung cấp nhiều
tài liệu có giá trị về tù chính trị sinh hoạt và đấu tranh. Tuy nhiên tờ La Lutte
rất nhanh tỏ rõ khuynh hướng Tơrốtxkit mặt tiêu cực đậm nét hơn.
Trong bối cảnh đấu tranh chính trị quyết liệt sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam thành lập, việc xuất bản báo chí bằng tiếng Việt càng ngặt nghèo
hơn. Đối với báo tiếng Pháp, việc xuất bản tuy không phải xin phép, nhưng
vẫn bị cơ quan an ninh theo dõi hết sức chặt chẽ, để không có một tổ chức nào
có thể chỉ đạo biên tập một tờ báo nào.
Về báo chí bí mật không hợp pháp: Báo chí xuất bản và phát hành bí
mật, không hợp pháp trong thời kỳ này, chủ yếu là báo chí của Đảng Cộng
sản và các tổ chức đoàn thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tuy vậy, không phải
mọi báo chí bí mật không hợp pháp đều là báo chí cách mạng, như tờ Đường
Cách mạng của nhóm Việt Nam Quốc dân Đảng chống cộng sản. Tờ Del fray
của nhóm trí thức Tơrốtxkit có khuynh hướng trung lập. Trong danh mục
những tờ báo cách mạng Việt Nam, có tờ Hồn Nước của Trung ương Việt
Nam quốc dân Dảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu, biên tập và xuất bản, chỉ
được một số vào tháng 01-1930. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ và thất
bại, báo Hồn Nước cũng không ra được số 2. Ở một số nhà tù đã xuất hiện
báo trong tù do các chi bộ Đảng Cộng sản chủ trương. Đây là một yêu cầu
khách quan không định trước nhưng vào cùng một thời điểm đã có các báo trong
tù như: Hỏa Lò có Lao tù Đỏ sau đổi là Lao tù, rồi Lao tù tạp chí, Con đường
chính; Bon Sê Vích, Đuốc đưa đường. Nhà tù Côn Đảo có Bàn Góp, Hòn Cau
Tuần Báo, Ý kiến chung, Người Tù Đỏ, sau đổi là Tù Nhân rồi Tiến Lên...
Vì điều kiện xuất bản bí mật, không hợp pháp, luôn bị kẻ địch theo
dõi, truy lùng, lục soát, khủng bố nên báo chí cách mạng không
58
những phải in bằng phương tiện thô sơ, khổ nhỏ mà thường ra
không định kỳ; báo chí xuất bản công khai, hợp pháp in bằng máy
chữ chì, khổ lớn, ra định kỳ (trừ những trường hợp riêng không ổn
định), có điều kiện cải tiến về hình thức để ngày càng hiện đại và
hấp dẫn hơn [40, tr.102].
Những tờ báo tiêu biểu nhất của thời kỳ này chính là các tờ báo cách
mạng hoặc có xu hướng cách mạng:
- Tranh đấu: Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam ra số
1, ngày 15-8-1930. Tôn chỉ, mục đích được thể hiện trong Bài “Mấy lời tuyên
cáo”. Do các đoàn thể và các phần tử cộng sản nhỏ lẻ trong nước bây giờ đã
thống nhất lại một đảng gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà cơ quan
Trung ương tuyên truyền các đoàn thể xưa kia đã hết nhiệm vụ lịch sử và phải
đình bản. Ngày nay Tranh đấu này ra đời làm cơ quan Trung ương của Đảng
thống nhất để hướng đạo tư tưởng và hành động cho cả toàn thể đồng chí và
quần chúng lao khổ. Tờ báo luôn đặt trọng tâm vào việc giáo dục ý thức và
trình độ cách mạng cho quần chúng”.
- Cộng Sản: Cơ quan Đảng Cộng sản Đông Dương, ra số 1 ngày 01-02-
1931. Tạp chí Cộng Sản ra đời để giải thích chính sách của Quốc tế Cộng sản
và của Đảng ta; chống tư tưởng sai lầm, xu hướng cơ hội, biệt phái, thống nhất
tư tưởng và hành động trong Đảng; tổng kết kinh nghiệm đấu tranh trong nước
và giới thiệu kinh nghiệm đấu tranh của các đảng anh em; nghiên cứu tình hình
trong nước và thế giới; tự phê bình và phát huy sáng kiến của đảng viên.
Tờ Đấu tranh cũng như Tạp chí Cộng sản luôn coi việc hướng dẫn
tranh đấu là nhiệm vụ hàng đầu.
- Con Đường Chính: Ra đời trong cuộc đấu tranh lý luận và tư tưởng
với tù chính trị là Việt Nam Quốc dân Đảng của chi bộ cộng sản ở nhà tù Hỏa
Lò, Hà Nội. Tờ báo có khuynh hướng lý luận. Một số chủ đề luôn được báo
phân tích và tranh luận. Những cuộc tranh luận của báo đã thúc đẩy sự phân
59
hóa vốn có trong hàng ngũ Quốc dân Đảng, một số tờ bắt đầu chuyển sang
khuynh hướng cộng sản, như tờ Đuốc đưa đường do được những người cộng
sản đấu tranh rèn luyện và nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng.
- Tạp chí Bôn-Sơ-Vích: Lúc đầu là cơ quan của Ban chỉ huy ở ngoài
của Đảng Cộng sản Đông Dương, sau Đại hội lần thứ Nhất của Đảng, từ
tháng 3-1935 tạp chí là “Cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương”.
- La Lutte: Ra số 1 ngày 24-4-1933, là diễn đàn chung của nhiều
khuynh hướng lý luận và chính trị khác nhau.
1.2.5.2. Thời kỳ 1936-1939
Dưới sự tác động của phong trào dân chủ thế giới chống chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh, trực tiếp nhất là phong trào dân chủ ở Pháp với chương
trình hành động tiến bộ kích thích mạnh mẽ phong trào dân chủ trong nước.
Những người cộng sản Việt Nam và trí thức cách mạng nhạy bén với tình
hình mới, đứng ra vận động một phong trào dân chủ rộng khắp trong nước.
Một phong trào dân chủ bắt đầu dưới hình thức cuộc vận động Đại hội
Đông Dương nổi lên từ Sài Gòn, phát triển ra các tỉnh miền Nam, lan rộng ra
miền Trung và miền Bắc, huy động cả công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư
sản dân tộc, nhân sĩ dân chủ và những người Pháp, người Hoa tán thành dân
chủ, chống phát xít và bọn phản động ở thuộc địa.
Không khí sinh hoạt dân chủ và đấu tranh cho tự do ngôn luận, đòi cải
thiện đời sống của những người lao động ở thành thị và nông thôn diễn ra sôi
nổi, bắt đầu từ mùa Thu năm 1936, phát triển đến đỉnh cao vào giữa năm 1938.
Đảng Cộng sản Đông Dương đấu tranh đòi chính quyền thuộc địa công
nhận hoạt động công khai, hợp pháp, nhưng không được chấp nhận. Mặc dù
vậy, dựa vào khí thế của phong trào quần chúng do Đảng lãnh đạo, một bộ
phận những người cộng sản ra hoạt động công khai, gây được ảnh hưởng sâu
sắc trong đấu tranh cho dân chủ và dân sinh trong các tầng lớp xã hội. Nhất là
trong những người lao động và trí thức.
60
Đó chính là một trong những nền tảng cho sự phát triển của báo chí
nước ta trong một giai đoạn đặc biệt. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939)
là thời kỳ báo chí phát triển sôi nổi đặc biệt.
Theo tài liệu của cơ quan lưu trữ của thực dân Pháp, năm 1936, cả
nước có 277 tờ báo, tạp chí, tập san các loại. Cuối năm tăng hơn đầu
năm 47 tờ và hơn năm 1935 là 10 tờ (3,7%). Năm 1937 có 289 tờ, tăng
hơn năm 1936 là 12 tờ (4,3%). Năm 1938 có 308 tờ, tăng hơn năm
1937 là 19 tờ (6,5%). Đến năm 1939, con số báo và tạp chí tiếp tục
tăng lên 4%, trong đó tốc độ tăng của Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên đều
nhau; Trung Kỳ từ năm 1938 lại sụt hơn 1936 (26/17 tờ) [40, tr.113].
Để giữ thế hợp pháp và hoạt động được lâu dài trong khi Đảng Cộng
sản chưa được chính quyền công nhận hợp pháp, báo phải lấy danh nghĩa “Cơ
quan của Lao động và nhân dân Đông Dương”. Tờ báo cách mạng đầu tiên ra
công khai là Hồn Trẻ (tập mới), từ 06-6-1936 đến 27-8-1936, do nhóm cộng
sản Nguyễn Thế Rục, Trần Huy Liệu... chủ trương. Có một số tờ báo cách
mạng in với số lượng cao như tờ Dân Chúng của Trung ương Đảng, Tin Tức
của Xứ ủy Bắc Kỳ.
Báo Dân Chúng mở cửa đột phá đánh vào chế độ báo chí của Pháp,
mở ra một thời kỳ mới: Ra báo tiếng Việt không phải xin phép tuy không
có tác dụng trong cả nước, nhưng đã làm cho báo chí ở Nam Kỳ được tự do
xuất bản, như các tờ báo cách mạng: Lao Động, Dân Tiến, Dân Muốn,
Đông Phương Tạp chí, Sống tiến Tới và các tờ báo khác cũng nhờ đó mà
được tự do.
Một số tờ báo tiêu biểu như:
- Hồn Trẻ Tập Mới: Ra số 1 ngày 06-6-1936, Nguyễn Mạnh Đang đứng
tên chủ nhiệm, chủ bút Nguyễn Uyển Diễm, quản lý vẫn là Nguyễn Văn An.
Thực tế là Trần Huy Liệu làm chủ bút còn Nguyễn Uyển Diễm là danh nghĩa
như đã nói ở trên. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên ra công khai thời kỳ Mặt
61
trận Dân chủ. Nội dung theo hướng tiến bộ, đấu tranh đòi tự do dân chủ và cải
thiện đời sống cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Sông Hương, Tục Bản
Báo Sông Hương, nguyên là của Phan Khôi xin phép xuất bản, ra số 1
ngày 01-8-1936, ra được 32 số. Ông duy trì tờ báo qua 32 kỳ (từ 01-8-1936
đến 27-3-1937), sau đó tạm ngừng. Trước khi rời Huế về Quảng Nam rồi vào
Sài Gòn, ông bán lại giấy phép tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu; kể
từ đó, tuy vẫn mang tên Sông Hương và ghi rõ “sáng lập: Phan Khôi”, báo
được tục bản và hoạt động trong 14 kỳ nữa (19/6/1937 - 14/10/1937), nhưng
đây thực sự là một tờ báo khác mà Phan Khôi không can dự; vai trò “sáng
lập” của Phan Khôi - như được in ở manchette tờ báo tục bản - chỉ là để “giữ
thế hợp pháp” cho hoạt động ngôn luận công khai của một tổ chức cộng sản
bí mật. Giai đoạn thứ hai này của tuần báo Sông Hương được giới nghiên cứu
truyền thống báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định như một tờ
báo cách mạng, có đóng góp lớn vào thắng lợi của Mặt trận Dân chủ (tổ chức
quần chúng của Đảng Cộng sản Đông Dương) trong cuộc bầu cử Viện Dân
biểu Trung Kỳ năm 1937.
Sau đó Xứ ủy Trung kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương mua
lại vẫn tên báo Sông Hương nhưng thêm 2 chữ Tục Bản. Sông Hương Tục
Bản ra số 01 ngày 19-6-1937, với nhiệm vụ chủ yếu là tham gia tranh cử vào
Viện Dân biểu Trung kỳ, giành thắng lợi cho các ứng viên của Mặt trận Dân
chủ, sau khi thắng cử rồi, thông qua báo mà nhân danh nhân dân yêu cầu các
dân biểu phải làm tròn nhiệm vụ của mình, mang nguyện vọng của nhân dân
vào nghị viện, đòi hỏi đi sát với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân
đồng thời công bố quan điểm, yêu cầu, đề nghị của báo để chuẩn bị cho
đấu tranh nghị trường.
- Tin tức: Ra số 1 ngày 2-4-1938 với danh nghĩa “Cơ quan Mặt trận
Dân chủ” do Đặng Xuân Khu, Xứ ủy viên trực tiếp chỉ đạo và Trần Huy Liệu
62
làm chủ bút. Nội dung nổi bật là cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thành lập
và tăng cường Mặt trận Dân chủ. Báo đăng những bài thuộc nhiều thể loại, cổ
động cho các ứng viên của Mặt trận Dân chủ, tuyên truyền cho chương trình
tranh cử của Mặt trận, đả kích bọn phản động thuộc địa và tay sai, bọn bảo
hoàng, tơrốtxkit tranh vào Viện dân biểu và cản trở, phá hoại hoạt động của
những người là thành viên của Mặt trận.
- Dân Chúng: Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương,
xuất bản ở Sài Gòn, ra số 1 ngày 22-7-1938. Dân Chúng đề cập đến tất cả các
vấn đề trong cuộc vận động dân chủ trên cả nước; làm một phần nhiệm vụ
tuyên truyền lý luận đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng cộng sản.
Nửa đầu thế kỷ XX, kể từ năm 1865 - năm khai sinh ra báo chí Việt
Nam bằng sự ra đời của tờ Gia Định báo, tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên,
sau giai đoạn phôi thai (1865-1908), báo chí bước sang giai đoạn phát triển
mới (1908-1918), gắn với sự xuất hiện của phong trào Duy Tân và Đông Kinh
Nghĩa Thục với khẩu hiệu “Giáo dục quần chúng để canh tân xứ sở". Cuộc
vận động vừa mang tính chất chính trị, vừa mang tính chất văn hóa này đã tác
động mạnh đến nội dung báo chí lúc bấy giờ. Nhờ vậy, một số tờ báo đã góp
phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn học quốc ngữ. Giai
đoạn thứ ba (1918-1930), là giai đoạn ra đời của nhiều loại báo: báo ngày,
định kỳ và báo cho từng giới, ngành (phụ nữ, tôn giáo, kinh tế, thương mại...).
Báo chí xuất bản bí mật; kỹ thuật và trình độ nghiệp vụ được cải tiến nhiều.
Giai đoạn cuối bắt đầu từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập
cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ Hai. "Có thể gọi đây là giai đoạn trưởng
thành của báo chí Việt Nam với sự ra đời của đủ loại báo, phục vụ rộng rãi
nhu cầu của bạn đọc thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau và mang đủ mọi
màu sắc chính trị” [106, tr.7].
Với số lượng rất lớn các tác phẩm báo chí đăng tải trên nhiều tờ báo
trong những năm 20-30, với sự sắc sảo trong ngòi bút, sự uyên thâm về trí
63
tuệ, Phan Khôi góp phần không nhỏ vào sự phát triển của báo chí Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX, nhất là giai đoạn được khẳng định là giai đoạn trưởng
thành của báo chí Việt Nam.
1.3. Thân thế và quá trình hoạt động báo chí của Phan Khôi
1.3.1. Thân thế
Phan Khôi sinh ngày 20-8-1887, quê làng Bảo An, Điện Bàn, Quảng
Nam. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Thân phụ
ông là Phan Trần, tri phủ Diên Khánh thời nhà Nguyễn, ông ngoại là Tổng
đốc Hoàng Diệu.
Năm 1906, ông đỗ tú tài Hán học. Tuy nhiên, ông bỏ khoa cử, để học
quốc ngữ và chữ Pháp, hoạt động trong phong trào Duy Tân, theo Phan Châu
Trinh cắt tóc ngắn.
Ngày 16-02-1908, ông ra Hà Nội với dự định học tiếng Pháp ở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục, nhưng tới nơi, trường đã bị đóng cửa, ông lánh về
Nam Định. Ba tháng sau, ông bị bắt giải về Quảng Nam, bị tù 3 năm. Trong
tù, ông tự học tiếng Pháp. Năm 1911, ông được ra tù. Năm 1912, vào học
trường dòng Pellerin ở Huế được vài tháng thì bà nội mất, ông trở về làng
chịu tang, rồi ở lại quê.
Năm 1913, ông kết hôn với bà Lương Thị Tuệ, quê huyện Đại Lộc, tỉnh
Quảng Nam (con gái Lương Thúc Kỳ, đỗ cử nhân 1900, làm quan tại Huế).
Hai ông bà có 8 con: Phan Thao, Phan Cừ, Phan Thị Hựu Khanh, Phan Thị
Bang Khanh, một con trai chết lúc 10 tuổi (năm 1935), Phan Thị Mỹ Khanh,
Phan Thị Tiểu Khanh, Phan Trản. Bà Nguyễn Thị Huệ, vợ thứ hai, ông gặp tại
Hà Nội, chung sống từ 1935, có ba con: Phan Nam Sinh, Phan Thị Thái, Phan
Lang Sa (sau tự đổi tên thành Phan An Sa).
Trong những năm 1913-1916 Phan Khôi mở trường dạy học chữ Nho
và quốc ngữ tại quê nhà.
Năm 1916 triều đình bỏ thi lối cũ, Phan Khôi nghỉ dạy, trở lại trường
học tiếng Pháp với thầy Lê Hiển cùng với học trò. Thái Phiên rủ tham gia
64
kháng chiến vua Duy Tân, nhưng ông không nhận, với lý do ông không tin
tưởng ở cách mạng bạo động mà chọn con đường hoạt động văn hoá.
Từ tháng 02-1918 đến tháng 5-1919, ông được Nguyễn Bá Trác giới
thiệu vào Nam Phong, viết bài quốc ngữ đầu tiên trên Nam Phong số 8
(02/1918), khai trương mục Nam Âm thi thoại, diễn đàn phê bình thơ sớm
nhất ở Việt Nam.
Tháng 6-1919, ông vào Sài Gòn, viết cho Quốc dân diễn đàn; rồi Lục
Tỉnh Tân Văn, ít lâu sau bị sa thải vì viết bài công kích một viên chức cao cấp
Pháp sắp lên làm toàn quyền. Tháng 9-1919, ông trở về quê Quảng Nam.
Tháng 3-1920 ông ra Hải Phòng, làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi (từ
01-5-1920 đến 31-12-1920).
Cuối năm 1920 ông nhận việc dịch Kinh Thánh (dịch toàn bộ Tân Ước
và 1/3 Cựu Ước) trong 5 năm (1920-1925) từ bản tiếng Hán và Pháp văn sang
quốc ngữ.
Trong hai năm 1921-1922, ông viết cho Thực Nghiệp dân báo và Hữu
Thanh ở Hà Nội. Năm 1922 ông vào Nam, liên lạc và hoạt động với nhóm
Nguyễn An Ninh, Dejean de la Bâtie, khi Nguyễn An Ninh từ Pháp về lập báo
La Cloche fêlée (1923).
Những năm 1922-1925 ông xuống Cà Mau ẩn náu. Trong thời gian
này, ông học tiếng Pháp qua thư từ với Dejean de la Bâtie và tiếp tục dịch
Kinh Thánh.
Năm 1925 Phan Châu Trinh từ Pháp về, giao cho Phan Khôi viết lại
lịch sử đời ông. Ngày 24-3-1926 Phan Châu Trinh mất. Phan Khôi soạn bản
“Hiệu triệu quốc dân”, đi dự đám tang Phan Châu Trinh và viết “Lịch sử Phan
Châu Trinh”.
Trong hai năm 1926-1928, Phan Khôi viết cho các báo Thần Chung,
Đông Pháp thời báo, Văn Học ở Sài Gòn và Đông Tây ở Hà Nội.
65
Từ 1929-1932: Đây là thời kỳ ông hoạt động báo chí mạnh nhất, viết
cho các báo Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập ở Sài Gòn; Đông Tây,
Phổ Thông ở Hà Nội.
Năm 1933, ông ra Hà Nội viết cho Thực Nghiệp và Phụ Nữ thời đàm.
Năm 1934 về Huế viết cho Phụ Nữ Tân Văn tái bản, rồi làm chủ bút báo
Tràng An.
1936-1937, ông lập báo Sông Hương tại Huế (01/8/1936-27/3/1937).
Viết cho Hà Nội báo; xuất bản Chương Dân thi thoại (1936).
Thời gian 1937-1941, ông vào Sài Gòn dạy ở trường Chấn Thanh; Viết
tiểu thuyết và in cuốn Trở vỏ lửa ra (1939); Viết báo Tao Đàn từ tháng 3-
1939, viết cho Dân Báo trong năm 1940. Năm 1941 trường Chấn Thanh đóng
cửa. Năm 1944, cha từ trần, Phan Khôi về Quảng Nam ở đến 1946.
Đêm 12-7-1946, công an bao vây nhà Khái Hưng, Phan Khôi bị bắt tại
đây. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Phan Khôi lên Việt Bắc.
Thời gian này, ông tập trung dịch sách và làm biên khảo.
1954-1955, ông về Hà Nội, gặp lại vợ con từ Quảng Nam ra ở số 51
Trần Hưng Đạo.
Năm 1956, ông nhận lời làm lãnh đạo tinh thần phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm; làm chủ nhiệm báo Nhân Văn.
Ông cũng được cử đi Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn.
Sau các đợt học tập đấu tranh chống Nhân Văn - Giai Phẩm do Ban
Tuyên huấn Trung ương Đảng Lao động Việt Nam mở cho văn nghệ sĩ (đầu
năm 1958), các hội văn học nghệ thuật được chấn chỉnh lại. Theo tinh thần
ấy, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tại hội nghị lần thứ tư, ngày 02 và
03-7-1958, đã quyết định khai trừ vĩnh viễn Phan Khôi (cùng Thụy An,
Trương Tửu) ra khỏi Hội.
Sáu tháng sau, ngày 16-01-1959, Phan Khôi qua đời tại nhà riêng ở phố
Thuốc Bắc, Hà Nội.
66
1.3.2. Hoạt động báo chí của Phan Khôi từ năm 1918 đến trước Cách
mạng tháng Tám
Năm 1918, Phan Khôi bắt đầu viết cho tạp chí Nam phong với bút danh
Chương Dân. Mục Nam âm thi thoại do ông xây dựng bắt đầu xuất hiện từ tạp
chí này và được giới thiệu trên một vài tờ báo khác. Ông viết cả chữ Hán lẫn
chữ Việt, với nhiều thể loại: Nghị luận, khảo luận lẫn sáng tác văn chương.
Tuy nhiên, ngoài mục Nam âm thi thoại, tác giả chưa thể hiện được gì nhiều ở
các bài mục khác.
Hơn một năm sau, Phan Khôi rời Hà Nội vào Sài Gòn. Tờ báo đầu tiên
ở Sài Gòn mà Phan Khôi cộng tác là Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo
này ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Những loạt
bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn
năm 1919 là những bài thường thức xã hội hoặc khảo về ngôn ngữ. Đó là mục
Làm dân phải biết và mục Ghi chép tiếng An Nam.
Ông trở ra Hà Nội, cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh
Tin Lành, đồng thời cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu
thanh. Đây là thời kỳ việc viết báo của ông ít hiệu quả.
Đầu năm 1928 được đánh dấu là thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với
báo chí Sài Gòn. Thời kỳ này kéo dài khoảng 5 năm (1928-1933), hoạt động
báo chí của ông gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân
văn, Trung lập tiếng Việt, và một số ít với các tờ Quần báo hoặc Hoa kiều
nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn.
Trong số những bài Phan Khôi đăng trên Đông Pháp thời báo có một
số bài bình luận thời sự chính trị, như “Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và
Nhân dân đại biểu viện xứ ấy” (ra ngày 28-8-1928); “Ít lời lạm bàn về chánh
sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp” (ra ngày 30-8-
1928), và khá nhiều bài chuyên luận hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm
bài tranh luận phản bác quan điểm“Cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về
67
hồi cuối thế kỷ XVIII”; và những bài cũng phản bác “cái thuyết châu Âu sắp
tan nát” của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), và nhận diện tình hình học
thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương
Đông và phương Tây.
Trên tờ Đông Pháp thời báo, phần văn học, Phan Khôi tham gia khá đa
dạng: Sáng tác thơ, bình luận văn học, giới thiệu văn sĩ và văn chương nước
ngoài, dịch thuật văn chương. Đặc biệt, chính trên tờ này, Phan Khôi đã bắt
đầu viết tiểu phẩm (hài đàm). Dưới bút danh Tân Việt trong mục Câu chuyện
hằng ngày do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành người viết
chính. Và, ông tiếp tục thực hiện vai trò này trên tờ Thần chung (1920-1930).
Viết cho báo Thần chung, Phan Khôi duy trì mục “Câu chuyện hằng ngày”,
với bút danh Tân Việt. Trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái ảnh hưởng của
Khổng giáo ở nước ta (bắt đầu từ ngày 3-10-1929), Phan Khôi xuất hiện với
họ tên thật của mình. Bên cạnh đó, ông vẫn dùng bút danh Chương Dân hoặc
ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn và bút danh Khải Minh
Tử cho một số bài báo chữ Hán trên tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn.
Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu đối với tuần báo Phụ nữ
tân văn. Đây là tờ báo ghi dấu ấn thành công đáng kể của báo chí tiếng Việt
những năm 1930, với lượng bài khá lớn: Khoảng trên 100 bài (trong tổng số
273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 02-5-1929 đến 21-4-1935).
Những bài Phan Khôi đăng trên Phụ nữ tân văn, nổi bật vẫn là xoay
quanh đề tài về giới nữ, với các thể loại nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử,
nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Trong đó, ông kiên trì quan điểm bình
đẳng nam nữ. Những bài viết tiêu biểu như: “Việt Nam phụ nữ liệt truyện” (trên
Phụ nữ tân văn số ra các ngày 02-5, 13-6, 04-7, 01-8, 8-8, 15-8, 12-9-1929); “Tơ
hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do” (trên Phụ nữ tân văn ra ngày 12-9-1929);
“Chữ trinh: cái tiết với cái nết” (trên Phụ nữ tân văn số ra ngày 19-9-1929);
“Vấn đề cải cách cho phụ nữ” (trên Phụ nữ tân văn số ra ngày 28-01-1932)...
68
Đặc biệt, năm 1930, đánh dấu sự tham gia, sự quan tâm của những độc
giả có học vấn cao đối với Phụ nữ tân văn, mà khởi nguồn là do có loạt bài
thảo luận của Phan Khôi về tư tưởng, học thuật. Ông đã khởi xướng các học
giả tham gia thảo luận bằng cách đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung
học thuật, như “Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” (trên Phụ nữ
tân văn số ra ngày 29-5-1930); “Cảnh cáo các nhà học phiệt” (trên Phụ nữ
tân văn số ra ngày 24-7-1930)…
Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập nhiều nhất so với ba tờ báo Sài
Gòn đã nêu trên. Ba mục ghi đậm dấu ấn Phan Khôi trên Nhật báo Trung lập,
đó là: Hài đàm “Những điều nghe thấy”, các bài chính luận và mục văn
chương. Tòa soạn Trung lập dành riêng mục hài đàm Những điều nghe thấy
cho ông viết với bút danh Thông Reo (lúc đầu ông lấy bút danh Tha Sơn).
Mục quan trọng thứ hai là các bài chính luận. Chỉ sau hơn một tháng, khi tờ
Trung lập đổi mới ra đời, Phan Khôi đã khởi xướng cuộc bút chiến giữa hai tờ
Trung lập và Đuốc nhà Nam, bàn về thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc
đó ở Nam Kỳ, như: Trong khi nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân
vật hàng đầu của đảng Lập hiến giấu mặt im lặng… hay trước những sự biến
liên quan đến vận mệnh dân chúng. Loạt bài này được bắt đầu từ bài “Ý kiến
Trung lập: Phải nói minh bạch” (trên Trung lập số ra ngày 20-6-1930) đến
loạt bài, gồm 4 kỳ “Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi” và bình luận về
các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ. Năm 1929, chính Phan Khôi trên báo
Thần chung đã có bài luận về bút chiến với chủ nhiệm Đuốc nhà Nam
Nguyễn Phan Long: “Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm ‘Đuốc
nhà Nam’, đăng trên Trung lập số ra ngày 19-7-1930; “Một sự buồn trong
báo giới” (đăng trên Trung lập số ra ngày 21-7; 24-7; 1-8-1930). Một bài
bình luận quan trọng nữa là bài báo đăng 4 kỳ với nhan đề “Vấn đề cải cách”
(trên Trung lập, số ra các ngày 09-8; 12-8; 13-8; 18-8-1930).
69
Những đóng góp về văn chương của Phan Khôi trên Trung lập cũng
gần gũi với các bài loại này mà ông đăng trên Phụ nữ tân văn. Thông thường,
một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược
lại, trong một số trường hợp có những bài đăng đồng thời cả trên hai tờ đó,
chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,
Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về “quốc học” với Lê Dư,
v.v…. Riêng ở Trung lập Phan Khôi có khá nhiều bài về ngôn ngữ, về các thể
loại văn chương, như ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí
ngoài Bắc, ủng hộ lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người khởi
lên cuộc bài xích lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ Việt Nam
tân tự điển của Hội khai trí tiến đức, v.v… Ông không chỉ thường xuyên có bài
về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung
Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (đăng
trên Phụ trương văn chương số 36 ngày 31-12-1931; số 37 ngày 9-1-1932).
“Phụ trương văn chương” của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi
trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai, v.v…
Cũng trong những năm sống và viết báo tại Sài Gòn, Phan Khôi đồng
thời cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội. Trước hết là những bài viết về học
thuật của ông đăng các báo trong Nam được không ít tờ báo ngoài Bắc như
Ngọ báo, Đông tây, Thực nghiệp, v.v… đăng lại; thứ hai là loại bài ông viết
riêng cho các báo ở Hà Nội. Như, loạt bài trong mục Độc thư tùy bút đăng
trên báo Phổ thông từ 02-9 đến 07-10-1930. Chủ bút Đông tây là Hoàng Tích
Chu (1897-1933) đặc biệt ưa thích ngòi bút Phan Khôi, sau lần chủ nhiệm
Đông tây vào Nam gặp gỡ đồng nghiệp, cuối năm 1930, sau đó, độc giả bắt
đầu thấy Phan Khôi có những bài viết riêng cho tờ báo này, khi ấy được coi
như tờ báo của giới trẻ đất Bắc. Đó là loạt bài trích thư Nguyễn Pho kể
chuyện ngành Trung Hoa học ở trường Đại học bên Pháp (Đăng trên Đông
tây, các số 23-5; 30-5 và 3-6-1931), tiếp đó là những bài về học thuật (Đôi
70
điều nên biết về Nho giáo, Đông Tây, các số 26-8; 02-9; 05-9; 23-9; 30-9-
1931), về việc trừng trị quan lại ăn hối lộ (đăng trên Đông Tây, các số 21-10-
1931; 28-11-1931), nhận xét về sự thiếu vệ sinh và văn hóa đô thị nói chung
của người Việt (đăng trên Đông Tây, ngày 14-10-1931), bàn về quyền tự do
ngôn luận (đăng trên Đông Tây, các số 21-11-1931; 12-12-1931), đặc biệt là
loạt bài tham gia luận bàn về “vấn đề quốc học” do những tranh luận giữa
Trịnh Đình Rư và Lê Dư khởi ra.
Tháng 4 năm 1933, khi Phan Khôi từ Sài Gòn ra Hà Nội, không còn cơ
hội làm việc với tờ Đông Tây nữa vì tờ này đã bị đóng cửa (sau số 222 ngày
25-7-1932), nhà báo Hoàng Tích Chu đã mất. Vì vậy, từ giữa tháng 5 năm ấy,
ông bắt đầu tái xuất hiện trên tờ Thực nghiệp dân báo, chủ yếu là trong vai
Bướng Nhân của mục “Bướng Nhân nhật ký” (từ 25-5 đến 4-7-1933); mục
này sau đó chuyển thành mục mới "Chuyện dóc tổ”, nhưng cũng chỉ sau 2 kỳ
(25-8; 26-8-1933), ông chấm dứt cộng tác với Thực nghiệp dân báo.
Từ 17-9-1933, Phan Khôi bắt đầu xuất hiện trên tờ Phụ nữ thời đàm.
Ông có 22 tuần làm việc trong vai trò chủ bút và là người viết chính của tờ
tuần báo Phụ nữ thời đàm tập mới này. Điểm nổi bật của tuần báo này đó là tờ
báo đã trình ra một thái độ xã hội cấp tiến, khác hẳn thái độ bảo thủ của tờ
báo cũ, nhất là trên vấn đề phụ nữ. Hầu như số nào cũng có một bài ngắn, ký
Phan Khôi hoặc P.K., nêu một khía cạnh liên quan đến nữ giới, với rất nhiều
nội dung: Bàn về “ý nghĩa thật sự của vấn đề phụ nữ ở xứ ta” (Phụ nữ thời
đàm, 17-9-1933), nêu các việc đáng quan tâm gắn với phụ nữ và trẻ em. Phan
Khôi tiếp tục công việc của ngòi bút bình luận thời sự với mục Dưới mắt
chúng tôi; ông cũng không quên chọn dịch các sự tích nhân vật trong các
truyện ký chữ Hán thời trước cho mục Chuyện cũ nước nhà. Nhưng điểm mới
mẻ nổi bật ở ngòi bút ông thời kỳ này là các bài viết được gọi chung là “tiểu
phê bình”, từ “tiểu phê bình về nhân vật” đến “tiểu phê bình về phong tục”,
“tiểu phê bình về báo chí, sách vở”.
71
Cuối năm 1934, Phan Khôi trở lại cộng tác với Phụ nữ tân văn (Sài
Gòn), góp mặt bằng một số bài nghị luận quan trọng: “Trên lịch sử nước ta
không có chế độ phong kiến”, Phụ Nữ tân văn, số 268, ngày 29-11-1934;
“Câu chuyện lấy vợ đầm”, Phụ Nữ tân văn, số 269, ngày 6-12-1934; “Thánh
hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ”, Phụ Nữ tân văn, số 270, ngày
13-12-1934; “Ý kiến tôi đối với sự bỏ kiểm duyệt báo quốc ngữ”, Phụ Nữ tân
văn, số 271, ngày 20-12-1934. Nhưng đây cũng là thời điểm kết thúc của tờ
báo từng gắn bó nhiều nhất với những thăng hoa trong đời làm báo của Phan
Khôi. (Phụ Nữ tân văn ngừng ở số 271; sang năm 1935 tục bản, chỉ được 2
kỳ: số 272, ngày 11-4 và số 273, ngày 20-4-1935).
Đầu năm 1935, Phan Khôi ra Huế, làm chủ bút nhật báo Tràng An. Đây
là tờ báo tiếng Việt, ra 2 kỳ/tuần, là một trong hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1-3-
1935, chủ nhiệm là Bùi Huy Tín. Ngoài các bài xã luận về thời sự xã hội ký
tên Phan Khôi hoặc ký tên tòa soạn, ông còn mở nhiều mục cho các loại bài
phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”,“Nhớ đâu nói đó” , ông viết và
lấy bút danh Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện rông” cho Hoài
Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồi các mục mở cho ngòi bút của Tiêu
Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân,
Hương Giang Thiếu Niên, cho các cây bút trẻ như Trần Thanh Mại, Phan
Nhưng, v.v… Tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng
bài của Hoài Thanh trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật - vị nhân sinh”.
Đầu tháng 8-1936, ông cho ra mắt tờ tuần báo Sông Hương, tờ báo duy
nhất trong đời mình, Phan Khôi là người sáng lập, chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Ông duy trì tờ báo qua 32 kỳ, tạm ngừng sau số ra ngày 27-3-1937. Trong 32
kỳ Sông Hương, Phan Khôi đã tập hợp được khá đông những cây bút khác
nhau, nhiều nhất là những cây bút thiên về nghị luận, dù viết khảo cứu hay
phê bình, văn học hay sử học: Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Tửu,
Thiếu Sơn, Trần Thanh Mại, Lê Tràng Kiều, Phan Thị Nga, Từ Ngọc, Phan
72
Nhưng, v.v…, cạnh đó là một số cây bút sáng tác: Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng
Lư, Nam Trân, Nguyễn Đình Miến, Xuân Tâm, Xuân Diệu, Lan Viên…
Về phần mình, Phan Khôi viết nhiều loại bài mục, từ các bài nghị luận
về thời sự xã hội đến các bài nhỏ, nhằm lấp kín các góc trống mà chỉ những
người làm thứ báo sắp chữ in khuôn mới biết rõ. Ông tiếp tục các đề tài sử
học, ngữ học quen thuộc; ông cũng tạo những mục mới: Sử liệu từng mảnh
vụn, Lý luận của tôi, bên cạnh những mục ông từng viết ở các báo khác như:
Ngự sử đàn văn, Chương Dân thi thoại… Ông cũng cho in lại tập bài giảng
Hán văn độc tu từng in trên Phụ nữ tân văn năm 1932.
Thời gian ở Huế, Phan Khôi đã tập hợp lại các bài viết trong mục Nam
âm thi thoại của mình, cho xuất bản dưới tên mới Chương Dân thi thoại. Đây
cũng là quyển sách đầu tiên ông xuất bản.
Sau khi bán tờ Sông Hương, Phan Khôi vào lại Sài Gòn, chủ yếu dạy
học tại trường tư thục Chấn Thanh mà chủ nhân là một người Quảng Nam,
trường này chuyển về Đà Nẵng vào cuối năm 1941, Phan Khôi về sống ở làng
Bảo An quê nhà. Suốt thời gian đó (1937-1941), Phan Khôi vẫn viết báo, nhất
là vẫn theo đuổi những tranh luận với đồng nghiệp ở các nơi: Trong năm
1936, khi đang chuẩn bị ra tờ Sông Hương, Phan Khôi cộng tác với Hà Nội
báo (chủ nhiệm Lê Cường, chủ bút Lê Tràng Kiều), đóng góp những bài về
lịch sử (Một me tây thuở Gia Long - Minh Mạnh, số 17, 29-4-1936), về ngôn
ngữ (Về sự thay đổi mấy vần quốc ngữ, số 19, 13-5-1936), về nghề làm báo
(Cái ác ý bởi nghề nghiệp, số 23, 10-6-1936), về thể loại (Thơ tình trong kinh
điển, số 20, 20-5-1936; Văn học tiểu thuyết là cái quái gì?, số 21, 27-5-1936) hoặc
nhân vật (Cái chỗ buồn cười của ông Lương Khải Siêu, số 26, 01-7-1936)…
Trong năm 1937-1938, Phan Khôi cộng tác với Đông Dương tạp chí
(tục bản, do Nguyễn Giang làm chủ nhiệm, Vũ Trọng Phụng là thư ký tòa
soạn phần chữ Việt), có bài đăng liên tục từ số 24 (23-10-1937) đến những số
cuối cùng, trong đó đáng chú ý nhất là những bài ông bàn về Nhà nho và dân
73
chủ (số 33, 25-12-1937), Nhà nho với quân chủ (số 36, 20-01-1938), về các
nhân vật Trung Hoa như Cô Hồng Minh (số 24, 23-10-1937), Tôn Văn (số 25,
30-10-1937), nữ tác gia Hoàng Lư Ẩn (số 27, 13-11-1937), luận về địa vị văn
học Trung Hoa trên đàn văn thế giới (số 28, 20-11-1937), về các nhân vật
Việt Nam (Hạng “lương dân” của Phan Châu Trinh hay là từ Nguyễn Thuật,
Hồ Lệ đến Bùi Bằng Đoàn, số 30, 04-12-1937; Nội các với ngự tiền văn
phòng, số 32, 18-12-1937; Cái tâm lý người tù chính trị được tha, số 37, 27-
01-1938), đáp lại nhà báo Phạm Mạnh Phan về chuyện nếu Phan Khôi là “học
phiệt” (số 31, 11-12-1937), v.v…
Trong các tháng 7, 8-1938, Phan Khôi cộng tác với báo Thời vụ (Hà
Nội, chủ nhiệm Phạm Toàn, chủ bút Nguyễn Đức Bính) có đăng một số bài:
Không có công dân giáo dục, sẽ không thể thi hành chính thể đại nghị (số 42,
5.7.1938), Từ ngõ chợ Khâm Thiên đến Việt Nam tự trị (số 44, 12-7-1938),
Giữa chánh phủ và nhân dân…(số 51, 5-8-1938), Sẽ làm gì, ngạch nông quan? (số
54, 16-8-1938)…; Trong các tháng 8,9-1938 ông cộng tác với tuần báo Dư luận
(Hà Nội, chủ nhiệm Đỗ Xuân Mai, chủ bút Phùng Bảo Thạch), có các bài đăng báo
như Cụ Phan Sào Nam và Nhật Bản (01-8-1838), Ésope tức là Doãn Hỷ? (08-8,
15-8-1938), Học sinh với quốc sự (29-8-1938), Một bài phú giá hai ngàn lượng bạc
(05-9-1938), Thanh niên với hòa bình (12-9-1938)…
Năm 1939, ông có bài đăng khá đều đặn trên tạp chí Tao đàn của Nhà
xuất bản Tân dân (chủ nhiệm Vũ Đình Long, chủ bút Lan Khai), với một số
bài tiêu biểu như: “Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta” (số 1, 01-3 ; số
2, 16-3-1939), “Người Việt Nam và óc khoa học” (số 3, 01-4-1939), “Tục ngữ
phong dao và địa vị của nó trong văn học” (số 9 và 10, 16.7 ; số 11, 16-8-1939),
“Tôi với thi sĩ Tản Đà” (số 9, 10), “Khổng Tử chẳng duy vật mà cũng chẳng
duy tâm” (số 12, 16-9-1939), “Vận ngữ với thơ” (số 13, 16-10-1939).
Cũng trong năm 1939, ông cho in tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra trên Phổ
thông bán nguyệt san (số 41, 16-8-1939) của Nhà xuất bản Tân dân.
74
Suốt thời gian tờ Điện tín do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (1935-1939),
Phan Khôi chỉ gửi đăng một “thi thoại” cho số Tết 1936. Khi Bùi Thế Mỹ
chuyển sang làm chủ bút Dân báo (Sài Gòn), Phan Khôi đã cộng tác tích cực
hơn nhiều. Ông ký họ tên thật trong những bài tranh luận với báo Điện tín ở
Sài Gòn, với tác giả Trúc Khê và báo Nước Nam ở Hà Nội, với báo Tiếng dân
ở Huế. Ông cũng tiếp tục sử dụng lại bút danh Thông Reo cho chuyên mục
Chuyện hàng ngày, sau đó đổi sang bút danh mới Hy Tô. Mục Chuyện hàng
ngày được ông duy trì đến cuối tháng 9-1942. Đây có lẽ cũng là dấu mốc cuối
cùng về bài đăng báo của ông thời kỳ trước tháng Tám 1945.
1.3.3. Hoạt động báo chí của Phan Khôi từ Cách mạng tháng Tám
đến cuối đời
Thời gian ở Việt Bắc (1947-1954), ông tập trung vào hai loại công
việc: nghiên cứu tiếng Việt và dịch thuật. Trong số các bài viết về tiếng Việt,
bài Một phương pháp dạy văn pháp tiếng ta từng được trình bày tại Hội nghị
văn hóa toàn quốc lần II (tháng 7-1948) và in trong kỷ yếu của hội nghị này;
ba bài (Phân tích vần quốc ngữ, Một vài nhận xét trong tiếng ta theo chữ
Nôm, Tiếng đệm) được Hội Văn hóa Việt Nam cho in năm 1949; tám bài viết
khác, vào năm 1950 được Hội Văn hóa Việt Nam cho in thành cuốn sách Tìm
tòi trong tiếng Việt.
Ông chủ yếu cộng tác với tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt
Nam, mỗi năm đăng một vài bài, ví dụ năm 1948 đăng Thơ tặng một vệ quốc
quân (số 7, tháng 12), Vì sao tôi viết tiểu thuyết (dịch của Lỗ Tấn, số 3, tháng
6, 7); năm 1949: Chúc phước (dịch của Lỗ Tấn, số 8, 9, tháng 01, 02), Tìm tòi
trong tiếng Việt I (số 15 và 16, tháng 9 và 10); năm 1950: Tìm tòi trong tiếng
Việt II (số 19, tháng giêng); giới thiệu tiểu thuyết Thời gian, tiến lên của V.
Katayev (số 22, tháng 4), Giới thiệu thơ Trung Hoa hiện đại (số 24, tháng 6),
Đọc cuốn Sử cách mạng cận đại Việt Nam của Trần Huy Liệu (số 25, tháng
8), Phát biểu tranh luận sân khấu (số 26, tháng 9); năm 1953: Một vị học giả
75
mác-xít thiên tài (viết về Xít-ta-lin, số 40, tháng 3); năm 1954: Phấn đấu để
sáng tạo những tác phẩm văn học ngày càng hay hơn… (dịch của Chu
Dương, số 44, tháng 2). Trong giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-
1952, Phan Khôi được trao giải về tất cả các bản dịch thực hiện trong thời
gian này. Tại Việt Bắc thời kháng chiến, Phan Khôi xuất bản được 3 cuốn
sách mỏng: Tìm tòi trong tiếng Việt (1950), Chủ nghĩa Mác và ngôn ngữ học
(dịch của Stalin, 1951), Thù làng (truyện, dịch của Mã Phong, 1952).
Trở về Hà Nội sau hòa bình lập lại, Phan Khôi cũng tập trung vào dịch
thuật, trước hết là các tác phẩm của Lỗ Tấn. Ông cho xuất bản một loạt cuốn
sách: Ánh lửa đằng trước (dịch truyện của Lưu Bạch Vũ, 1954), Việt ngữ
nghiên cứu (1955), Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn (dịch, 1955), Tuyển tập tạp
văn Lỗ Tấn (dịch, 1956), Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn, tập II (dịch, 1957).
Trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày mất văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn
(1881-1936), Phan Khôi có một loạt bài nói và viết: Lỗ Tấn, một đại văn hào
của Trung Quốc và thế giới (Nhân dân, 28-8-1955), Sự đấu tranh về văn học
của Lỗ Tấn (Văn nghệ, số 92, 27-10-1955), Đời sống và sự nghiệp văn học
của Lỗ Tấn (bài nói tại lễ kỷ niệm Lỗ Tấn tại Hà Nội, 30-10-1955), Phát biểu
tại lễ kỷ niệm 20 năm mất Lỗ Tấn tổ chức tại Bắc Kinh (đăng báo Văn nghệ,
số 145, 02-11-1956).
Trên các đề tài khác, Phan Khôi có bài giới thiệu Lý Cơ Vĩnh, người
được xem là sáng lập văn học hiện đại Triều Tiên, nhân 60 năm ngày sinh nhà
văn này (Văn nghệ, số 74, 10-6-1955); ông hưởng ứng đề tài đấu tranh thống
nhất bằng những bài về Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho chân chính miền
Nam (Văn nghệ, số 132, 02-8 và số 133, 09-8-1956), bằng các bài tạp văn
trong chuyên mục trào phúng Mũi nhọn ký bút danh Tơ-hông-re-o (Văn nghệ,
số 132, 02-8 ; số 135, 23-8 ; số 136, 30-8-1956).
Thời kỳ 1954-1958, ngoài các báo của nhà nước và các đoàn thể từ
vùng kháng chiến chuyển về, ở Hà Nội còn có khá nhiều báo chí tư nhân và
76
nhà xuất bản tư nhân. Sau lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ do Hội Văn nghệ
Việt Nam mở (từ 01 đến 18-8-1956), Phan Khôi cũng như không ít văn nghệ
sĩ khác đã lên tiếng góp ý với lãnh đạo (thường mới chỉ là lãnh đạo các ngành,
mà trước hết là ngành văn nghệ) về một số khuyết điểm trong công tác quản
lý; không chỉ viết trên các báo nhà nước và đoàn thể, họ còn viết và đăng trên
các ấn phẩm tư nhân. Bài báo Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi
(Giai phẩm mùa thu tập I, Minh Đức xuất bản, Hà Nội, 29-8-1956, tr. 3-16)
nói về những bất cập trong việc xét giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn
nghệ Việt Nam, đã gây ra những thảo luận trong giới văn nghệ.
Tháng 9-1956, Phan Khôi nhận lời đứng làm chủ nhiệm tờ tuần báo
Nhân văn của một nhóm văn nghệ sĩ; ông chỉ đăng một bài Trả lời một nhà
báo ở Sài Gòn (số 1, 20-9-1956) trên báo này và hầu như không làm công
việc tòa soạn, một phần vì bận với chuyến đi Trung Quốc dự kỷ niệm ngày
mất của Lỗ Tấn, nhưng Phan Khôi không hề thoái thác trách nhiệm của mình
trước sự lên án của dư luận chính thống suốt thời gian tờ báo còn hoạt động
và ngay cả sau khi tờ báo bị cấm (từ 15-12-1956).
Đầu năm 1957, Phan Khôi tham dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ
hai (từ 20 đến 28-02-1957), tham gia Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt
Nam (từ ngày 01 đến 04-4-1957), được kết nạp làm hội viên của Hội, tham
gia các cuộc thảo luận về thơ do tuần báo Văn (Hội Nhà văn Việt Nam) tổ
chức. Ông cũng cộng tác với Tạp chí Văn nghệ (từ đây thuộc Hội Liên hiệp
văn học và nghệ thuật Việt Nam) mà bài đăng sau cùng của ông là bản dịch
tạp văn Lỗ Tấn nhan đề Chúng ta không bị lừa lần nữa đâu (Tạp chí Văn
nghệ, số 6, tháng 11-1957). Tác phẩm đăng báo cuối cùng của ông khi sinh
thời có lẽ là truyện ngắn Ông Năm Chuột (Văn, số 36, 10-1-1958).
Tiểu kết chương 1
Gần 40 năm cầm bút, trên diễn đàn báo chí, Phan Khôi đã hoạt động
liên tục, có tờ ông làm chủ nhiệm, chủ bút: Phụ nữ Thời đàm (1933), Tràng
77
An (1936), Sông Hương (1936-1937); đặt dấu ấn đậm nét trên các tờ Đông
Pháp Thời báo, Thần chung và đặc biệt là Phụ nữ Tân văn. Ngòi bút của ông
luôn tung hoành trên các mặt báo. Dưới bút pháp nghị luận sắc sảo, đanh
thép, ông không ngần ngại phê phán chế độ xã hội đương thời, đấu tranh cho
tự do và bình đẳng xã hội. Cùng với bút pháp nghị luận, nhà báo - học giả
Phan Khôi đã góp phần phản ánh hiện thực xã hội đương thời, bảo tồn và phát
triển tiếng Việt, đấu tranh cho bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ… Ông đã
góp phần mở mang dân trí - “Khai dân trí” theo “tư tưởng dân quyền” của
phong trào Duy tân trên mặt báo chí nói chung và trên báo Phụ nữ Tân văn
nói riêng. Với quá trình hoạt động và công hiến trong vai trò của một ký giả
xuất sắc, một học giả uyên bác, ông thực sự có công vào sự phát triển nền báo
chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Những chương tiếp theo sẽ nghiên cứu,
khẳng định sự đóng góp này.
78
Chương 2
QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG
CÁC TÁC PHẨM BÁO CHÍ CỦA PHAN KHÔI
Đầu thế kỷ XX, báo chí là một hiện tượng còn mới mẻ trong nền văn
hóa - xã hội Việt Nam, là một phần quan trọng làm nên thời kỳ lịch sử hiện
đại nói chung và lịch sử báo chí, văn học nói riêng. Đây là thời điểm gần như
toàn bộ cuộc sống văn chương, học thuật đương thời diễn ra sôi nổi trên báo
chí. Không khí học thuật, văn chương cũng hoàn toàn khác trước, với sự xuất
hiện của một hiện tượng nổi bật: Những cuộc tranh luận thường xuyên “nảy
lửa” và không ít lần lôi kéo hàng loạt tờ báo tham gia. Nếu như trước đó,
những lời bình chủ yếu được người đời sau thực hiện với đối tượng là người
xưa, thì đến đầu thế kỷ XX sự phê bình, tranh luận được thực hiện ngay giữa
những người cùng thời. Một lời phê bình đưa ra, có thể được đáp trả ngay vào
ngày hôm sau, rồi tiếp tục sau đó là những bài viết tranh luận xoay quanh vấn
đề dường như mãi không ngừng. Tiêu biểu như cuộc tranh luận Phan Khôi -
Trần Trọng Kim xung quanh bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim, cuộc tranh
luận Tản Đà-Phan Khôi xung quanh cách hiểu Tống Nho và truyền thống,
cuộc tranh luận lớn xung quanh vấn đề “quốc học” với sự tham gia của những
người như Lê Dư, Trịnh Đình Rư, Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Trọng
Thuật, cuộc tranh luận xung quanh Thơ Mới với rất đông thành phần, nổi bật
là Phan Khôi, Lưu Trọng Lư… Một điều rất dễ thấy là có một số nhân vật
luôn luôn có mặt trong các cuộc tranh luận, đặc biệt Phan Khôi luôn ở vị trí
trung tâm trong mọi cuộc tranh luận, nếu không phải là người châm ngòi thì
cũng là người tham gia hết sức tích cực và có tiếng nói rất trọng lượng.
Với sức lao động phi thường, bút lực dồi dào, Phan Khôi ghi dấu ấn
đậm nét trong quá trình phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong
đó phải kể đến những đóng góp của ông trong nâng cao nhận thức chính trị -
79
xã hội; tư tưởng, học thuật thông qua hoạt động báo chí. Đây cũng là đóng góp
quan trọng của ông trong việc khẳng định vai trò xã hội của báo chí - vai trò định
hướng dư luận xã hội, nhất là trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Việc “Hướng dẫn và hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn trên cơ sở
thông tin nhanh chóng, đầy đủ và phong phú về các sự kiện thời sự, những vấn
đề nảy sinh trong đời sống xã hội” [99, tr.33] càng có ý nghĩa quan trọng.
2.1. Quan điểm chính trị
2.1.1. Về vai trò bảo hộ của Pháp
Có thể thấy rất rõ quan điểm chính trị của Phan Khôi gắn với vấn đề
dân tộc khi trở lại những bài báo chuyển tải quan điểm của ông về những sự
kiện lịch sử của Việt Nam, phản biện những quan điểm trái với sự thật lịch sử,
nhất là đối với những quan điểm đi ngược lại những giá trị lịch sử của dân
tộc. Trong những năm 1920-1930, ở Sài Gòn, bên cạnh báo chí tiếng Việt,
còn có báo chí tiếng Pháp, báo chí chữ Hán, trong đó các báo tiếng Pháp
chiếm số lượng không nhỏ. Có một thực tế là trên báo chí tiếng Pháp, có hiện
tượng những ký giả, học giả viết bài ảnh hưởng đến lịch sử, chính trị, kinh tế,
văn hóa-xã hội của nước bản xứ. Trước thực tế đó, một số ký giả người Việt
có khả năng đọc được các tờ báo tiếng Pháp đã bằng cách này, cách khác tỏ
thái độ trên các báo tiếng Việt để thông tin cho dân mình, trong đó, Phan Khôi
là nhà báo lên tiếng rất mạnh mẽ.
Năm 1928, hai tác giả Pháp là Albert de Pouvourville và Jean Bouchot
đã viết trên báo chữ Pháp ở Sài Gòn cho rằng tổ tiên người An Nam mời
người Pháp sang bảo hộ, rằng người Pháp đã giúp cho người An Nam chinh
phục đất Nam Kỳ. Ngay sau khi xuất hiện bài báo này, các ký giả Việt Nam
như Đào Trinh Nhất, Nguyễn Phan Long,... đã lên tiếng phản bác trên cả các
báo tiếng Việt lẫn báo tiếng Pháp, nhưng, dường như sức lan tỏa là hết sức
yếu ớt, như ký giả Tân Việt (Phan Khôi) nhận xét, đó chỉ là những “lý sự giữa
sa mạc”. Trước tình hình, một mặt, chính quyền thuộc địa không chấn chỉnh
80
gì các tác giả người Pháp, mặt khác các tác giả đó không hề đáp lại phản ứng
của dư luận từ phía người bản xứ, Phan Khôi cho rằng, cần để sự bàn luận có
quy mô và khiến đông đảo công chúng Việt Nam chú ý thì tốt hơn, cụ thể là
chuyển thành cuộc trao đổi giữa các tác giả, ký giả người Việt. Chính vì vậy,
ngay khi bắt gặp những chi tiết thiếu chính xác về nhận định sử học liên quan
đến nội dung bài báo tiếng Pháp nói trên, ông đã tận dụng để biến thành cuộc
thảo luận lớn.
Quan điểm của hai ký giả đương thời: Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng
và Nam Kiều Trần Huy Liệu được xem là cơ hội để Phan Khôi đưa ra cuộc
thảo luận, nhằm làm rõ vấn đề về lịch sử dân tộc. Cụ thể là: Trong bài xã
thuyết trên tờ Tiếng dân (xuất bản ở Huế) Mính Viên có viết rằng Gia Long
đã nhờ được binh lực nước Pháp mà làm thành cuộc thống nhất đất nước, còn
Nam Kiều trong sách Một bầu tâm sự (mặc dù khi vừa phát hành ở Sài Gòn
đã bị cấm) cũng có chỗ nói “Pháp quốc giúp cho vua Gia Long hai cái tàu và
một ít súng thần công”.
Phan Khôi châm ngòi thảo luận bằng bài “Mấy cái quái trong sách và
báo ta” [23]. Ông nêu lại những sự kiện lịch sử có liên quan đến những chi
tiết sai trong bài xã thuyết trên Tiếng dân rằng, bản điều ước ký khi hoàng tử
Cảnh và Bá Đa Lộc được phái sang Pháp cầu viện, rốt cuộc đã không được
phía Pháp thực hiện. Thậm chí, việc Bá Đa Lộc mộ được vài mươi người
Pháp sang giúp Gia Long, “song đó chẳng qua là người riêng của nước Pháp
giúp chứ không phải chính nước Pháp giúp”; với tác giả Một bầu tâm sự về
chuyện nước Pháp tặng tàu và súng là chuyện xảy ra ở thời Tự Đức, sau khi
hòa ước Pháp-Nam đã ký, chứ không phải thời nội chiến Nguyễn Ánh chống
Tây Sơn, ông viết: “Đọc báo Tiếng dân số 68, ra ngày 7 Avril mới rồi, trong
bài xã thuyết cột thứ nhì, có một câu rằng: “... Đương thời kỳ Gia Long bôn
ba, đã phái người sang đến Âu châu cầu viện, sau nhờ được binh lực nước
Pháp mà làm thành cuộc thống nhứt” [23].
81
Về nội dung mà bài xã thuyết cho rằng “Gia Long sai hoàng tử Cảnh đi
cầu cứu Pháp quốc để về đánh nhau với Tây Sơn, Pháp quốc giúp cho hai cái
tàu và một ít súng thần công, về sau tàu thì bỏ chìm ở ngoài cửa bể, còn súng
thần công thì chôn ở cửa thành...”, Phan Khôi không đồng tình, cụ thể là ông
không công nhận quan điểm về sự kiện lịch sử được phản ánh trong bài báo
đó. Ông kết luận:
Nhiều người Pháp đã kể công với ta rằng nước Pháp đã giúp cho
nước Nam trước đây một trăm năm, song họ nói vậy chớ không có
bằng cớ gì cả. Bây giờ có ông Trần Huy Liệu viết rõ chuyện ấy
vào trong sách để dựng chứng lên! Nếu sách của ông Trần mà
không bị cấm, được lưu hành tự do, chắc sau này sẽ có người Pháp
khác viện chứng ở sách của ông mà cho sự nước Pháp giúp nước
Nam là có thật, làm cho lịch sử Việt Nam rối loạn là ngần nào!
Cho nên sách ông bị cấm mà chúng ta cực chẳng đã phải lấy làm
hân hạnh... [23].
Sau bài châm ngòi thảo luận của Phan Khôi, hai học giả Trần Huy Liệu
và Mính Viên đã có ý kiến phản hồi. Trong đó, Trần Huy Liệu gửi đến tòa
soạn Đông Pháp thời báo bài “Trả lời ông C.D.” (Đông Pháp thời báo, 12-5-
1928), bảo vệ ý kiến của mình bằng việc dẫn cuốn Đại Nam sử ký, có ghi
“cuối năm 1784 Gia Long giao hoàng tử Cảnh cho cố đạo Bá Đa Lộc sang
cầu cứu bên Pháp”, và một vài chi tiết khác khẳng định trong năm 1789, Bá
Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi tàu về, có vài chiếc tàu chở về súng đạn, và kể
tên mươi người Pháp sang giúp việc trong quân Nguyễn Ánh. Còn tác giả
Mính Viên trong bài Nói điều lỗi của ta là sự may cho ta (Tiếng dân số 79,
Đông Pháp thời báo đăng lại 24-5-1928) vẫn cho rằng “dầu thế nào mặc lòng,
người nước mình hồi đó cũng có cầu cứu nước Pháp, nước Pháp cũng có hứa
lời, trong cuộc chinh chiến cũng có tàu Pháp súng Pháp và người Pháp”.
Tuy nhiên, Phan Khôi đã không chú trọng việc trả lời ý kiến phản hồi
của Trần Huy Liệu và Mính Viên. Mà, ông muốn nhân dịp này làm rõ một số
82
tình tiết lịch sử quan trọng và nhất là để công chúng hiểu đúng ý nghĩa của
các sự kiện lịch sử dân tộc.
Khi tìm hiểu mục đích việc làm này của Phan Khôi và cách thức nêu,
phân tích vấn đề của ông và tham chiếu với lý thuyết truyền thông hiện đại, về
chức năng xã hội của truyền thông đại chúng, rằng, “để hình thành dư luận xã
hội đúng đắn và tích cực, yêu cầu đặt ra đối với truyền thông đại chúng là
phải đầy đủ, kịp thời, phong phú và chân thực về những sự kiện, hiện tượng,
những vấn đề thời sự. Hơn thế nữa, truyền thông đại chúng còn phải phân
tích, lý giải, chỉ ra bản chất, tính quy luật của các sự kiện, biến cố thời sự,
giúp nhân dân nhận thức và ứng xử hợp lý, tích cực” [34, tr.34], chúng ta sẽ
càng hiểu sâu sắc thêm cách Phan Khôi tiếp cận, lý giải thấu đáo để công
chúng có thể hiểu vấn đề bản chất về “thuyết nước Pháp giúp nước Nam” cuối
thế kỷ XVIII. Ở đó, thể hiện sự am hiểu rộng về kiến thức lịch sử, sự sâu sắc
trong nghiên cứu, học thuật và hơn hết, đó là đặt ý nghĩa chính trị của vấn đề
trong tinh thần dân tộc cao cả.
Rất cặn kẽ, ông đã lần lượt cho đăng các bài:
- “Bác cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”,
trên Đông Pháp thời báo, hai kỳ: 15-5 và 19-5-1928
- “Trở lại việc nước Pháp giúp nước Nam: Sách Tàu nói bướng. Các
nhà Hán học ta mở mắt ra mà coi”, trên Đông Pháp thời báo ngày 10-7-1928
- “Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước Pháp giúp nước Nam. Một cuốn
sách Tàu minh oan cho chúng ta”, trên Đông Pháp thời báo, ngày 04-8-1928.
Đối tượng tranh cãi của Phan Khôi trong loạt bài này không phải là
Minh Viên hay Nam Kiều mà là “cái thuyết nước Pháp giúp nước
Nam”, cái thuyết mà những tác gia đầu tiên có lẽ là một số học giả
thực dân, cái thuyết mà giới quan chức nho sĩ Việt Nam tuy không
muốn nhưng vì thiếu một nhận thức rạch ròi, họ đã ngấm ngầm cam
chịu thừa nhận, cái thuyết mà tính đến những năm 20 của thế kỷ XX
83
đã phổ biến khá rộng, đã thâm nhập không ít đầu óc trí thức người
Việt, thâm nhập cả vào một số thư tịch sử học Trung Hoa, tóm lại đã
thành một thảm họa nhận thức [10, tr.393].
Để dư luận xã hội có cách nhìn nhận thấu đáo, Phan Khôi cho rằng phải
làm rõ nguyên nhân dẫn đến cách hiểu không chính xác về lịch sử của học giả
Viêt Nam, ảnh hưởng đến nhận thức chung của xã hội, đồng thời ngăn chặn sự lợi
dụng, lạm dụng cách hiểu này của sách, báo nước ngoài viết về lịch sử Việt Nam.
Một là, Phan Khôi thấy cần giải thích với công chúng về cái gọi là
thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” hồi cuối thế kỷ XVIII. Tinh thần dân tộc
của ông thấm đẫm trong sự công phu, tỉ mỉ của quá trình tìm hiểu, phân tích,
đồng thời cũng thể hiện sự say sưa trong cách tìm đến bản chất của những sự
kiện lịch sử dân tộc. Trong quá trình tập hợp sử liệu, Phan Khôi ưu tiên lấy sử
sách của người Nam chép ra làm chủ yếu (Đông Pháp thời báo, 15-5-1928):
Đoạn sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép truyện Bá Đa Lộc, sách Quốc
triều chính biên toát yếu chép việc các năm Quý Mão 1783, Giáp Thìn 1784,
Bính Ngọ 1786, Kỷ Dậu 1789 trong đó có ghi việc Nguyễn Ánh giao con trai
là Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin, nhờ Bá Đa Lộc sang thuyết phục vua
Pháp đem binh sang giúp mình; Bá Đa Lộc và Cảnh lưu lại Pháp hai năm,
“song nhân vì trong nước có việc”, “người Tây không thể giúp được”. Phan
Khôi cho rằng, sách chính thống của triều Nguyễn chép về việc này, tuy còn
rất sơ lược, nhưng đã nói rõ phía nước Pháp trên thực tế chưa giúp gì cho
Nguyễn Ánh. Sau đó, ông chọn sách sử Việt Nam do soạn giả Pháp viết để
làm rõ hơn sự kiện này. Ông nghiên cứu và nhận thấy sách Histoire moderne
du Pays d’Annam của tiến sĩ văn khoa Charles B.Maybon viết khá dài và kỹ
về sự kiện này nên đã tóm tắt lại cho công chúng. Sách này cho biết Nguyễn
Ánh có giao cho giám mục d Adran (tức Bá Đa Lộc) một bức thư gồm 14
khoản, đại ý là nhờ nước Pháp giúp cho 1500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc
đạn thì Ánh sẽ nhường cho nước Pháp cửa Hàn, đảo Côn Lôn và cho Pháp
84
độc quyền buôn bán ở nước mình. Đoàn của Bá Đa Lộc rời Việt Nam tháng
12-1785, đến Pondichéry (đất Ấn Độ lúc đó thuộc Pháp) tháng 02-1786, Bá
Đa Lộc xin viên Tổng đốc Pháp ở đây đem quân sang giúp, nhưng không
được hưởng ứng, chỉ được họ cho tàu chở sang Pháp. Tháng 02-1787 đoàn
của Bá Đa Lộc tới Pháp, gặp được vua Pháp Louis XVI. Tờ giao ước Pháp -
Việt được ký kết tại Véc - xay. Vua Pháp giao cho Tổng đốc Pháp ở 5 tỉnh Ấn
Độ thuộc Pháp lúc đó thực hiện. Tuy được Vua Pháp cắt cho ngân khoản 2
vạn đồng (tiền Pháp đương thời) dự chi cho việc can thiệp này, nhưng Bộ
Ngoại giao Pháp lại có thư riêng nhắc viên Tổng đốc đương nhiệm (ở 5 tỉnh
Ấn Độ thuộc Pháp lúc ấy) là De Conway thận trọng, có lợi thì mới cử binh,
không được tiêu phí khoản tiền trên vì Vua Pháp đang rất khó khăn về tài
chính. Vì vậy, khi đoàn của Bá Đa Lộc từ Paris trở về đến Pondichéry, mọi đề
nghị của giám mục đều bị De Conway bác bỏ. Ông ta không cử binh sang
Nam Kỳ, không cấp dù chỉ một chiếc tàu nhỏ đi báo tin cho Nguyễn Ánh,
thậm chí không cấp tiền chi tiêu cho Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh. Tháng
3-1789, Bá Đa Lộc được liên lạc từ Nam Kỳ cho biết Nguyễn Ánh đã chiếm
lại được 5 tỉnh phía Nam, có nhiều tàu thuyền, nhưng vẫn mong có đạo quân
lớn đến làm thanh viện. Một lần nữa Bá Đa Lộc xin De Conway phái một số
tàu, một trăm lính pháo thủ sang Nam Kỳ và phía Nguyễn Ánh xin chịu phí
tổn. Nhưng De Conway vẫn không nghe, thậm chí còn viết thư về Bộ Ngoại
giao Pháp xin bác bỏ đề nghị của Bá Đa Lộc và Bộ Ngoại giao Pháp đã đồng
ý với chủ trương không can thiệp của De Conway. Bá Đa Lộc đành một mặt
nhờ tiền của một số nhà buôn Pháp ở Pondichéry và Ile de France, mặt khác
dùng tiền Nguyễn Ánh gửi sang, mua một số tàu thuyền, súng ống, đạn dược,
và rủ được vài chục người Pháp, kể cả một số người đang là sĩ quan trong hải
quân Pháp bỏ ngũ đi với mình sang đầu quân giúp Nguyễn Ánh. Rốt cuộc
Nguyễn Ánh đã thắng trong cuộc nội chiến, lập nên triều Nguyễn, xác lập nền
thống trị khắp Đàng trong, Đàng ngoài.
85
Trong bài “Bác cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ
XVIII”, trên Đông Pháp thời báo, hai kỳ: 15-5 và 19-5-1928, sau khi tóm tắt
đoạn sách của Maybon, Phan Khôi đặt câu hỏi: “Vậy thì, nhơn thấy giám mục
Bá Đa Lộc nhờ tiền của mấy nhà buôn Pháp hoặc lấy tiền của Gia Long gởi sang
mà mua tàu súng và mộ người Pháp về giúp Vua để đánh lại Tây Sơn, rồi nói
rằng đó là nước Pháp giúp, có được không?” Và ông trả lời như một sự khẳng
định: “Không được, vì đó là mấy mươi người riêng của nước Pháp giúp, chứ
không phải chính nước Pháp giúp. Mấy mươi người ấy hoặc có vì lòng háo
nghĩa chăng nữa, song đã không phụng mạng bổn quốc mình, ăn lương của vua
Cao hoàng (ý nói Nguyễn Ánh) mà đi đánh giặc mướn, thì người ta chỉ coi như
một bọn lính thuê mà thôi”. Làm sâu sắc hơn, Phan Khôi khẳng định:
Nói rằng nước Pháp giúp đi chăng nữa, thì sự giúp ấy cũng chỉ giúp
vua Gia Long mà thôi, nào có giúp gì cho nước An Nam mà hòng kể
công với dân An Nam? Vì bấy giờ, cuộc loạn trong nước Nam chỉ là một
cuộc nội tranh, bên nào thắng thì làm vua đó thôi; còn dân An Nam vẫn
cứ làm dân, và nước An Nam cũng không hề bị mất mà! [27].
Cách trình bày và lý giải của Phan Khôi đã giành được sự tán thưởng
của khá đông độc giả Đông Pháp thời báo. Có nhiều ý kiến gửi về tòa soạn
cho rằng, qua những lý giải của Phan Khôi, họ đã có được cách hiểu mới,
không hồ đồ nghĩ rằng “Tây giúp vua Gia Long”, mà phải phân biệt việc nước
Pháp tức là chính phủ Pháp giúp Gia Long với việc vài mươi người Pháp ăn
lương của Gia Long mà giúp Gia Long.
Hai là, Phan Khôi thấy cần phải làm rõ về cái thuyết “nước Pháp giúp
nước Nam” trong thư tịch Trung Hoa, đây là nguồn thư tịch mà các giới sử
học, văn hóa học Việt Nam xưa nay tin cậy. Ông khảo cuốn Thanh giám dị tri
lục của Hứa Quốc Anh soạn dưới thời Thanh (trước 1911) và sách Bách khoa
toàn thư của Thương Vụ ấn thư quán ở Thượng Hải soạn dưới thời Dân quốc
(sau 1911). Thanh giám dị tri lục viết rằng khoảng ngang thời Gia Khánh
86
(1796-1821) ở Việt Nam chúa Nguyễn cũ dấy lên ở Nam Kỳ giành nước với
Nguyễn mới (Tây Sơn), mượn binh của Pháp, hẹn trả bằng tiền nhưng về sau
chỉ trả được phân nửa, lại vì việc giết cố đạo nên bị Pháp đánh chiếm lấy Nam
Kỳ. Bách khoa toàn thư thì viết rằng Phước Ánh thuộc dòng Nguyễn cũ muốn
chống Nguyễn mới (Tây Sơn) và thống nhất cả nước, bèn cầu cứu nước Pháp,
hứa cho tự do giảng đạo và cắt cho cù lao Hóa Nam; sau Nguyễn cũ thống
nhất được cả nước, nhưng bội lời ước; người Pháp giận, đánh các pháo đài
ven biển miền Trung rồi chiếm Nam Kỳ.
Hiểu rõ điểm sai của cả hai cuốn sách Tàu này, Phan Khôi cũng tìm
được nguyên nhân dẫn đến quan điểm sai này là vì những người viết đã theo
những nguồn thông tin của các sử gia thực dân. Các soạn giả Tàu đã dùng
sách Pháp vì trong các văn bản có những dấu vết là những tên riêng viết lầm.
Ông nhấn mạnh: “Thế là cái thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” không
những nhồi một mình sọ An Nam thôi, mà lại nhồi luôn cả sọ Chệt nữa!”
[24]. Phan Khôi thẳng thắn chỉ ra rằng, để xảy ra sai sót này, có một phần lỗi
thuộc về giới sử gia Việt Nam:
Phép chép sử hai chiến quốc nào phải lấy sử liệu của cả hai nước ấy
làm gốc. Như người Tàu chép chuyện Pháp chiếm lãnh Việt Nam
đây, tất phải căn cứ ở sách Pháp và sách Việt Nam. Song trong
khoảng trăm năm nay trừ ra bổn sử chữ quốc ngữ và chữ Pháp của
Trương Vĩnh Ký, Việt Nam có ai chép cái gì bằng chữ Hán đủ làm
tài liệu cho người Tàu tham khảo đâu, trách nào họ chẳng vớ lấy chỉ
một mình sách Pháp! [24].
Bởi vậy Phan Khôi bày tỏ mong muốn các nhà Hán học, nhà nghiên
cứu trong nước, cần phải đính chính những sai lầm của sử gia nước láng giềng
phương Bắc về sử cận đại nước mình như ở mấy cuốn sách trên.
Có thể thấy, khi tranh luận, lý giải các vấn đề, Phan Khôi luôn tìm cách
lập luận cặn kẽ, trở đi, trở lại để tìm ra những kết luận thuyết phục. Để đưa ra
87
ý kiến bảo vệ sự thật khách quan của lịch sử, bác thuyết “nước Pháp giúp
nước Nam”, cùng với việc chỉ ra những sơ sài trong sử liệu Việt Nam, những
sai lầm về sử Việt Nam trong một số cuốn sách Trung Hoa Phan Khôi tìm đến
một tài liệu khác của học giả Trung Hoa, đó là cuốn Cận thế đại quốc gia chủ
nghĩa của Lưu Văn Hải xuất bản năm Dân quốc 14 (1925). Với ông, tìm được
cuốn sách này như một lời khẳng định khách quan, để ông có thể viết bài cuối
cùng, kết thúc một cuộc thảo luận "Nói một lần nầy nữa thôi, về việc nước
Pháp giúp nước Nam" (Đông Pháp thời báo, 04-8-1928). Phan Khôi đã tìm
thấy một nhà sử học Tàu hiện đại, nghiên cứu các điều ước quốc tế theo tinh
thần mới. Tương tự các học giả Pháp Gosselin và Maybon, Lưu Văn Hải xác
định điều ước Pháp Việt 1787 chưa được ký và cũng chưa được thi hành.
Sang giữa thế kỷ XIX, khi cách mạng Pháp đã qua, chính phủ Pháp muốn mở
thêm thuộc địa đã viện đến bản điều ước 1787 và lấy cớ việc triều Nguyễn
giết cố đạo để tiến hành xâm lược. Lưu Văn Hải cho rằng phía Pháp chưa
thực hiện giao ước thì chưa thể đòi quyền lợi từ phía Việt Nam. Và, nếu có
coi chút viện binh và súng ống Bá Đa Lộc đưa sang là thi hành điều ước Véc -
xay, thì tính hợp pháp của bản điều ước này vẫn cần xem xét lại. Theo công
pháp quốc tế, khi lập một giao ước mà có dấu hiệu lừa gạt, gian dối thì bản
điều ước ấy vô hiệu. Tác giả Lưu Văn Hải phân tích: Phía Việt Nam tham gia
điều ước Véc - xay chỉ là cậu bé 8 tuổi, những người cùng đi với cậu đều là
người Pháp, còn phía Pháp là vua Louis XVI và các chính trị gia hàng đầu.
Đây là sự không bình thường, không công bằng. Hơn nữa, những nội dung
phía chúa Nguyễn hứa sẽ cho phía Pháp là những thứ mà mình chưa có, là
điều không có giá trị về luật pháp. Vì vậy, hành động của phía Pháp thực hiện
điều ước ấy là xúi giục cuộc nội loạn của các nước khác để kiếm lợi ích riêng
cho mình, đây là điều mà các dân tộc văn minh nên lên án.
Phan Khôi cho rằng lập luận này rất thuyết phục, ông viết: “Xem những
lời nghị luận trên đó thì thấy ra ông Lưu Văn Hải chẳng những không bị cái
88
ngụy thuyết kia phỉnh gạt, mà lại đã ra công bài bác nó nữa và bài bác đến tận
gốc” [25]. Với việc dẫn giải cuốn sách của Lưu Văn Hải, Phan Khôi thấy đã
có thể kết thúc cuộc thảo luận mà mục đích ông hướng tới nhằm đính chính
một sai lầm trong nhận định về lịch sử cận đại Việt Nam. Ông kết luận bằng
lời đề nghị: “Xin hết thảy người trong nước phải biết tôn trọng quốc sử, phải
biết tôn trọng sự thực của lịch sử nước mình, đừng để cho người khác xáo bậy
đi” [25].
Có thể nói, cuộc thảo luận về một sự kiện thuộc lịch sử Việt Nam cận
đại đã được Phan Khôi khởi xướng và kéo dài suốt ba tháng trong năm 1928
trên một tờ báo có số lượng phát hành lớn không chỉ ở Sài Gòn và mà còn
nhiều nơi trong nước, có ý nghĩa không nhỏ, cả về mặt nhận thức lịch sử, cả
về mặt nâng cao ý thức dân tộc cho công chúng đương thời. Cách đề cập, giải
quyết vấn đề của Phan Khôi như một biểu hiện sinh động khi nghiên cứu báo
chí, nghiên cứu lý thuyết truyền thông về một trong những nội dung của giáo
dục chính trị - tư tưởng của truyền thông đại chúng, đó là: “Phân tích, lý giải
chỉ ra bản chất đúng đắn của các vấn đề, sự kiện thời sự, hướng dẫn con
đường, cách thức tiếp cận, đánh giá, ứng xử đối với các vấn đề, sự kiện đó
một cách hợp lý” [99, tr.35].
Quan điểm chính trị - xã hội gắn với vấn đề dân tộc qua hoạt động báo
chí của Phan Khôi còn thể hiện ở tinh thần chống Pháp. Đây là nội dung khó
để chuyển tải trên báo chí, vì thời điểm đó, báo chí nằm trong sự kiểm duyệt
gắt gao của chính quyền thực dân. Tuy nhiên, bằng sự sắc sảo, vốn kiến thức
sâu, rộng, Phan Khôi vẫn thể hiện được tinh thần này trên các tác phẩm báo
chí của mình. Dưới bút danh C.D, trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi có bài
“Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan toàn quyền mới đông
pháp” [26] cũng đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước, và cho dù bài báo qua
kiểm soát đã có đoạn bị cắt đi, người đọc vẫn cảm nhận được một tinh thần
dân tộc sâu sắc.
89
2.1.2. Phê phán thể chế chính trị đương thời và đấu tranh quan điểm
về con đường phát triển
- Phê phán thể chế chính trị đương thời (Đảng Lập hiến)
Trở lại dòng lịch sử, năm 1923, ở Nam Kỳ, trong giới công chức cao
cấp và tư sản, điền chủ đã hình thành một khuynh hướng chính trị mang tính
chất cải lương nhằm vận động chính quyền thực dân ban hành những cải
cách. Khuynh hướng này đương thời được gọi là Lập hiến và lãnh tụ của nó là
Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long. Khuynh hướng chính trị này cũng
hình thành một số giới Việt kiều tại Pháp và tiêu biểu là nhóm Dương Văn
Giáo, Trần Văn Khá, Diệp Văn Kỳ... tập hợp quanh nhóm Lập hiến (ra đời
chính thức ngày 15-11-1925 tại Pari). Các lãnh tụ Lập hiến đặc biệt quan tâm
tới việc vận động chính giới tư sản Pháp nhằm nới rộng chế độ cai trị thuộc
địa và ban hành một số biện pháp cho xứ Đông Dương trên cơ sở tôn trọng và
hợp tác với sự bảo hộ của nước Pháp. Cuộc vận động này đã dẫn tới việc ngày
20-10-1926 chính thức thành lập Đảng Lập hiến như một tổ chức chính trị
công khai, đăng ký với nhà cầm quyền theo đạo luật năm 1901 của nước
Pháp. Cơ quan ngôn luận là tờ báo La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông
Dương) số 1 ra ngày 15-8-1927.
Mặc dù Đảng Lập hiến đẩy mạnh các hoạt động ở Nam Kỳ, ở Pháp và
nước ngoài như việc tham dự đại hội thành lập Liên đoàn chống đế quốc
(Ligue Anti Imperialisme) tại Bruxcen (Bruxelles - thủ đô Bỉ, tháng 2-1927)
nhưng những ảnh hưởng và hoạt động của nó chỉ giới hạn trong tầng lớp trên
ở Nam Kỳ và bản chất cơ hội, vụ lợi, các lãnh tụ Đảng Lập hiến đã sớm phơi
bày sự phản bội đối với phong trào dân tộc ngay từ trước khi nó được thành
lập (đặc biệt là sau vụ Bùi Quang Chiêu từ Pháp trở về, 24-3-1926) nên thực
chất đây chỉ là một đảng phải chính trị tay sai của chính quyền thực dân.
Đánh giá về Đảng Lập hiến, Nguyễn Ái Quốc viết: “Ở Nam Kỳ có
nhóm trí thức Tây học tự xưng là Đảng Lập hiến, họ là một nhúm ôn hòa, chủ
90
trương “Pháp - Việt đề huề”. Theo chúng tôi biết thì nhúm này không có hệ
thống tổ chức, không có điều lệ, không có cán bộ. Đó là một tổ chức tập hợp
nhau về mặt tinh thần” (Phong trào cách mạng Đông Dương, tháng 6-1926).
Trong tác phẩm Tự chỉ trích, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương
Nguyễn Văn Cừ phân tích:
Đảng Lập hiến không có quy tắc và tổ chức gì rõ rệt cả, mà chỉ là
đại biểu cho một xu hướng cải cách của tư sản và địa chủ. Lúc đầu,
nó được một bộ phận giai cấp tư sản và địa chủ ủng hộ mà cũng có
một số quần chúng công nông, tiểu tư sản thành thị hoan nghênh,
nhưng sau vì chủ trương quỵ lụy, đầu hàng đế quốc, vì thái độ hèn nhát
và ích kỉ của bọn lãnh tụ nên dân chúng đã hết sức chán ghét, cả những
tầng lớp tư sản địa chủ càng ngày càng mất tín nhiệm [81, tr.16].
Phan Khôi thể hiện quan điểm về sự tồn tại vô nghĩa của Đảng Lập
hiến đối với vận mệnh của đất nước nói chung và đối với đời sống nhân dân
nói riêng bằng hoạt động báo chí. Cụ thể là, trên Trung Lập 19-7-1930 Phan
Khôi nói rõ: Những bài bút chiến với báo Đuốc nhà Nam, những bài phê bình
đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, tuy ký tên tòa soạn Trung lập nhưng đều do Phan
Khôi viết. Theo đó, các bài ký Trung lập từ 20-6-1930, được bắt đầu từ mục
“Ý kiến Trung lập”, về sau vượt khỏi mục đó để trở thành những bài báo dài,
trong phạm vi bút chiến với Đuốc nhà Nam, sau đó là loạt bài Về các cuộc
biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi và loạt bài “Nói về đảng Lập Hiến ở Nam Kỳ” thể
hiện quan điểm chính trị gắn với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc qua ngòi bút
Phan Khôi.
Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm
chính trị (nghị viên Hội đồng Quản hạt hoặc Hội đồng Thành phố, tham gia
Đảng Lập hiến...) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng, bắt
đầu từ bài “Ý kiến Trung lập: Phải nói minh bạch” [110], qua một loạt bài:
“Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử?”
91
[111]; “Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử,
hễ có lỗi thì phải chịu” [112]; “Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập
nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào?” [113] … đến loạt bài Về các
cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi (gồm 4 kỳ: kỳ I và II bàn về cái thái độ hẫng
hờ và kiêu căng của ông Nguyễn Phan Long, các ông Hội đồng quản hạt,
Đảng Lập hiến và Đuốc nhà Nam; kỳ III - Tại sao luôn trong mấy số Trung
lập cười Đuốc Nhà Nam; kỳ IV - Ý kiến Trung lập về ruộng đất) từ 26-6-
1930 đến 30-6-1930, chuyển sang bình luận về các vấn đề của Đảng Lập hiến
Nam Kỳ (Nói về Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2-7-1930, đến kỳ XIII, 25-
7-1930, với những tiểu mục từng kỳ: Cái chủ nghĩa của Đảng Lập hiến; Đảng
Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường
chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên;
Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về Đảng Lập hiến nay sắp sau,...).
Ở loạt bài này, bàn về Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, ông chỉ rõ, mặc dù,
xứ Nam kỳ tuy thuộc dưới quyền nước Pháp là nước “dân chủ lập hiến” hơn
70 năm nay, song sự cai trị trong xứ lại không theo hiến pháp của nước Pháp,
mà chỉ theo mệnh lệnh của đức Tổng thống, của quan Toàn quyền và của
quan Thống đốc Nam kỳ. Như vậy, ở đây chỉ có tiếng ở dưới quyền nước dân
chủ mà thôi, chứ thực tế là dân chủ chuyên chế. Còn ý tưởng lập hiến pháp
riêng cho xứ Nam Kỳ mà Đảng Lập hiến trông chờ ở chính quyền thực dân là
gì? Ông phân tích:
Hiến pháp ở nước nào cũng vậy, tự nhân dân khi nào biết là cần
dùng thì tự lập ra hiến pháp chớ chẳng phải có ai lập thế cho dân. Ở
Nam Kỳ ta cũng vậy, nếu sau nầy có một cái hiến pháp, cũng sẽ tự
quốc dân chúng ta lập lấy cho mình. Đừng có ai tưởng lầm rằng
nước Pháp sẽ ban ơn lập hiến pháp cho chúng ta. Vì nếu vậy thì
chẳng khác nào theo mạng lịnh một vài người cai trị, cần gì hiến
pháp? [113].
92
Sau khi phân tích, chỉ rõ ra chỗ sai lầm của Đảng Lập hiến về đường
chính trị, rằng Đảng Lập hiến chỉ là tay sai của chính phủ Pháp và chính quyền
thực dân Pháp chứ không có quan hệ gì với dân chúng An Nam. Thực tế là hàng
chục năm trời, đảng Lập hiến chỉ lấy một tờ báo Tây làm cơ quan cho mình - tờ
Tribune Indochinoise (trước kia là tờ Tribune Indigène). Họ cho rằng chỉ dùng
một tờ báo chữ Pháp để bênh vực quyền lợi cho mình, không cần có tờ báo quốc
ngữ. Điều đó càng khẳng định, Đảng Lập hiến không có quan hệ gì với dân
chúng An Nam, không thuộc về nhân dân. Trung Lập đưa ra kết luận:
Chúng tôi dám chắc rằng nếu chánh phủ để cho Nam Kỳ nầy có một
cái chánh đảng, -Lập hiến hay đảng nào cũng được, - đứng trong
vòng pháp luật, giúp chánh phủ về mặt nội trị, thì trong xứ sẽ yên
lặng, không có hội kín nào khuấy rối cho mệt chánh phủ hết, vì họ
đã thỏa cái “lòng dục chánh trị” của họ rồi.
Bên Đảng Lập hiến cũng vậy mà bên chánh phủ cũng vậy, nếu có
làm cho ra bề ra thế ít nữa cũng như chúng tôi nói trên đây thì hãy
nên để còn cái tên Lập hiến. Bằng không làm như vậy được thì
chúng tôi tưởng các ngài cũng nên kiếm cách mà giải tán đi, thủ tiêu
cái tên đảng đi. Chớ còn để nửa sống nửa chết, dật dờ dật dưỡng,
hữu danh vô thiệt như vậy thì chẳng ích chi cho dân cho nước, mà hễ
có việc chi, ấy là các ngài mang tiếng, thiệt vô ích quá [115].
Với tinh thần thẳng thắn, bằng lập luận chặt chẽ và chiều sâu của những
kiến thức mang tính nguyên tắc và thực tiễn lịch sử dân tộc, Phan Khôi đứng
về phía người dân để phê phán, phủ định vị trí, vai trò của Đảng Lập hiến -
đảng cổ súy cho thuyết “Pháp - Việt đề huề”, hoạt động không vì lợi ích của
nhân dân. Qua điểm chính trị này thể hiện niềm tự tôn dân tộc và tinh thần
- Đấu tranh quan điểm về con đường phát triển
yêu nước sâu sắc.
Những năm 20-30 của thế kỷ XX là giai đoạn giao thời mà Hoài Thanh
gọi là “Cuộc biến thiên vĩ đại”: Giai đoạn diễn ra cuộc giao lưu văn hóa Đông
93
Tây, nói chính xác thì đó là giai đoạn “xâm lăng văn hóa” của phương Tây
đối với phương Đông. Phan Khôi là một trong những người đi tiên phong
trong “cuộc biến thiên vĩ đại” đó của lịch sử văn hóa dân tộc. Vấn đề cấp thiết
đặt ra đối với nền văn hóa là muốn tồn tại thì phải “duy tân”. Ông cho rằng:
“Muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải
cách trước”, đó là một chủ kiến có không ít căn cứ. Dưới ngòi bút sắc sảo,
Phan Khôi đã bàn về những bài học từ Nhật Bản, nước Tàu để đi đến khẳng
định “Nhựt Bổn đã vậy mà Tàu cũng vậy, họ phải cải cách tư tưởng học thuật
trước rồi sau mới đủ lòng tin mà cải cách mọi sự khác, sự lý rất là hiển nhiên.
Người Việt Nam mình nếu muốn cải cách, cũng phải làm như họ” [118].
Trên Trung lập, Sài gòn, các số 6218 (9-8-1930), 6220 (12-8-1930),
6221 (13-8-1930), 6223 (18-8-1930), đề cập về vấn đề cải cách Phan Khôi lần
lượt bàn 4 nội dung:
Một, muốn duy tân cải cách thì phải bắt buộc từ học thuật tư tưởng mà
duy tân cải cách trước;
Hai, cuộc duy tân của nước Nhật cũng bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà
duy tân trước;
Ba, tình thế xã hội Nhật Bản còn dễ cải cách hơn xã hội ta ngày nay;
cho nên ta lại phải ra sức nhiều hơn;
Bốn, cuộc cải cách rút lại cũng phải cải cách đến học thuật tư tưởng
mới có công hiệu.
Ông khẳng định “Phương Đông gặp phương Tây, trăm sự gì cũng thua
kém, người phương Đông không cải cách mà theo phương Tây thì chắc không
sanh tồn nổi, cho nên phải duy tân cải cách”, và “ở một nước nào mà muốn
cải cách thì phải cải cách tận gốc tức là cải cách ngay từ học thuật tư tưởng,
để cho tiệt cái mống thủ cựu đi rồi mới làm gì đặng. Nói rõ ra mà nghe trước
phải có những học thuật tư tưởng như người Tây rồi sau mới làm được mọi
công việc như người Tây” [116]. Ông cho rằng, các nhà cải cách của nước ta
94
trước đó và đến thời điểm ông bàn về vấn đề này, vẫn chỉ lo cải cách cái ngọn
mà không biết lo cải cách về học thuật tư tưởng. Trong khi, một nước muốn
cải cách mà chỉ cải cách cái ngọn, tức là về phương diện vật chất, thì sự cải
cách ấy không có hiệu quả gì. Hơn nữa, nếu còn tồn tại những cái tư tưởng cũ
cản trở, thì thậm chí cải cách về phương diện vật chất cũng không thực hiện
được. Một ví dụ tiêu biểu cho rào cản của tư tưởng cũ là: “Theo như lời tục
truyền, hồi trào Tự Đức có mấy ông đi sứ Tây về, khoe bên Tây có những đèn
điện và nước máy, cả trào bèn lấy lẽ “hỏa viêm thượng thủy nhuận hạ” ra mà
bẽ bác, cho là nói láo, “khi quân”, thế đủ biết rằng nếu chẳng đổi những tư
tưởng cũ đi thì trong óc chẳng khi nào dung được sự cải cách duy tân vậy”
[116]. Ông chỉ ra rằng, trong một xã hội, học thuật tư tưởng theo hướng nào,
thì sự sinh hoạt cũng nghiêng theo hướng đó. Theo đó, phải có học thuật tư
tưởng như người Tây rồi mới có sự sinh hoạt như người Tây. Sự thất bại,
hoặc kết quả nửa vời của những phong trào cải cách của nước ta lúc đương
thời cũng là do chưa từng bàn đến đổi mới về học thuật tư tưởng. Và, có thể
nói, muốn cải cách gì chăng nữa, thì vấn đề căn cốt, vấn đề cốt yếu đó là cải
cách về học thuật tư tưởng.
Từ những nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm từ các nước phương Đông
khác, Phan Khôi lấy nước Nhật Bản để chứng minh, làm rõ rằng, một nước
muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu duy tân cải cách từ học thuật tư tưởng
trước, bằng không, sẽ không bao giờ cải cách thành công. Để phản bác lại một
số quan điểm cho rằng ở nước ta đã có nhiều người biết sự cải cách là cần cho
nước mình, song lại vẫn muốn duy trì những học thuật tư tưởng cũ. Họ cho sự
khí cựu mưu tân là nguy hiểm. Nên, những ý kiến này muốn rằng về học thuật
tư tưởng thì cứ theo Khổng Mạnh, còn các việc cơ xảo thì theo Tây và
khẳng định Nhật Bản cũng làm như vậy.
Một lần nữa, ông lại đi tìm bản chất vấn đề để phản biện và làm sáng tỏ
nguyên nhân cách hiểu thiếu sâu sắc, thiếu căn cứ trên. Với ông, không thể có
95
cách hiểu vấn đề một cách tùy tiện, mà phải căn cứ vào lịch sử. Ông đã đọc
bộ “Nhựt Bổn duy tân tam thập niên sử”, trong đó khẳng định công duy tân
chính là các thầy giáo đời bấy giờ, rằng nhờ sự giáo dục đổi mới tư tưởng của
người Nhật nên mới có cuộc duy tân ấy. Quan điểm này được khẳng định
thêm ở chương VI, bộ “Nhựt Bổn văn học sử”, nói về hiện đại văn học, kể từ
Minh Trị nguyên niên (1868) về sau. Tuy là sách nói về văn học nước Nhật,
song trong đó nói về phong trào tư tưởng hồi đó rất rõ. Mặt khác, tác giả của
cuốn sách này là người Trung Quốc, lấy tài liệu của các bản sử người Nhật,
nên càng đáng tin cậy. Về đoạn đó đại ý tác giả nói rằng: Cuộc duy tân của
Nhật Bản bấy giờ thật có quan hệ với văn học, mà văn học của Nhật Bản lúc
đó lại là một nền văn học mới, nó sản sinh ra bởi người Nhật đã du nhập các
tư tưởng của Âu - Mỹ; rồi kể ra có bốn điều cốt yếu có ảnh hưởng đến chính
trị và văn học rất lớn, không ai có thể chối cãi được.
Phan Khôi khẳng định: “Cái tình thế nước mình bây giờ đây cũng còn
chẳng khác hồi Tự Đức là mấy vì mọi người cũng còn ôm chặt cái tư tưởng
cũ, cho nên tôi nói rằng nếu muốn cải cách thì cũng phải làm như Nhựt Bổn,
bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà cải cách trước đi” [117]. Nếu như những nhà
ngôn luận - những người làm khuôn làm mẫu cho đồng bào, lại vẫn thủ cựu,
đòi duy trì những cái đạo đức luân lý cũ thì không mong gì có thể duy tân cải
cách được. Và, “Quốc dân ta nếu không cải cách thì thôi, bằng muốn cải cách
thì phải ra sức càng nhiều hơn người Nhựt Bổn hồi Minh Trị, mà phá trừ cái
tư tưởng cũ cho sạch hết rồi mới nói chuyện cải cách được” [117].
Để có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn trong quan điểm cải cách của
mình, Phan Khôi nói về bài học của nước Tàu để thấy cuộc cải cách của nước
Tàu suy cho cùng cũng phải cải cách đến học thuật tư tưởng mới có công hiệu:
Nước Tàu là một chỗ ổ đẻ ra văn hóa phương Đông, những học
thuật tư tưởng cũ bám vào trong đầu người ta đã thâm căn cố đế, vả
lại là một nước lớn, đất rộng người đông, nên sự cải cách của họ
96
phải chậm hơn Nhựt Bổn. Nay xem xét lại lịch sử Trung Huê trong
khoảng ba bốn mươi năm trở lại đây, thấy ban đầu họ cũng giữ tư
tưởng cũ thiệt gắt, toan bắt chước người Tây nội những cái lợi khí
văn minh mà thôi; song như vậy không có thể thành tựu được, về
sau họ cũng phải cải cách đến học thuật tư tưởng [117].
Cụ thể, từ những sự kiện lịch sử, ông phân tích, người Tàu vì còn chưa
bỏ hết những tư tưởng cũ, nên mặc dù đã đánh đổ Mãn Thanh, lập nên Dân
quốc, nhưng mọi việc vẫn còn hư bại. Là nước dân chủ nhưng trong tư duy,
trong suy nghĩ của dân chúng lại vẫn tâm thế của nô lệ, bởi vậy hồi Dân quốc
ngũ niên (1916), Viên Thế Khải mới nổi lên xưng hoàng đế.
Ngày 04-5-1919, khắp cả nước Tàu có cuộc vận động rất lớn về văn
hóa với tên gọi “Tân văn hóa vận động” hay là “Tứ ngũ vận động”. Cuộc vận
động này do những học sinh nam nữ khắp cả nước Tàu chủ trương, họ dấy lên
kêu gọi đánh đổ những học thuật tư tưởng cũ, những đạo đức luân lý cũ. Cuộc
vận động này có ảnh hưởng rất lớn, được xem là mốc thời gian bắt đầu cuộc
duy tân cải cách của người Tàu. Tiếp đó lại có cuộc cải cách về văn học của
Hồ Thích đề xướng. Đó là, người Tàu từ trước làm văn bằng văn ngôn. Bắt
đầu có cuộc cải cách này, người ta mới làm văn bằng bạch thoại. Làm văn
bằng bạch thoại thì văn với tiếng nói đồng nhất với nhau, làm cho sự tiến hóa
của xã hội thêm nhanh hơn.
Từ những phân tích, chứng minh thực tế của hai nước phương Đông
lớn Nhật Bản và Tàu, ông kết luận “họ phải cải cách tư tưởng học thuật trước
rồi sau mới đủ lòng tin mà cải cách mọi sự khác, sự lý rất là hiển nhiên.
Người Việt Nam mình nếu muốn cải cách, cũng phải làm như họ” [117].
Quan điểm về cải cách của Phan Khôi còn thể hiện rõ và mạnh mẽ
trong chùm bài tranh luận phản bác “cái thuyết châu Âu sắp tan nát” của học
giả Cô Hồng Minh (1856-1928 quan chức ngoại giao, giáo sư Đại học Bắc
Kinh, tôn sùng tư tưởng Khổng giáo, phản đối tân văn hoá). Thuyết đó thể
97
hiện sự khinh miệt văn minh Âu châu và cho rằng thời điểm đó văn minh Âu
châu đã phá sản rồi, nếu muốn sống thì phải ăn ở theo người Tàu, học theo
Khổng Tử. Phan Khôi cho rằng cái thuyết “Âu châu sắp tan nát” thiệt là tầm bậy.
Ông đưa ra kết quả nghiên cứu của các học giả thế giới về nguyên nhân
cuộc chiến tranh năm 1914-1918. Ở đó, khẳng định nhờ sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, các nước phát triển, sản xuất ra rất nhiều hàng hóa, đến mức
không có chỗ bán, mà phải đánh nhau để giành lấy thị trường. Như vậy
nguyên nhân gây ra chiến tranh lại xuất phát từ các nước yếu chưa có nền
khoa học tiến bộ, công nghệ kém phát triển, không sản xuất được hàng hóa,
và các nước phát triển xung đột nhau để tranh giành mối hàng. Vấn đề cốt lõi
là cái họa tan nát không phải tại trong lòng Âu châu gây ra, nó chỉ là đấu
tranh nhất thời, và không thể nói là Âu châu sắp tan nát được.
Mặt khác, theo thuyết tiến hóa thì trong xã hội tiến hóa luôn gắn liền
với những biến động. Ông lấy ví dụ, như nước Pháp, để có nền dân chủ vững
chãi lúc bấy giờ, thì trước đó đã phải trải qua một thời khủng hoảng. Ông đặt
câu hỏi: Giả sử Cô Hồng Minh ở vào thời Cách mạng ấy thì chắc cũng nói
rằng “nước Pháp sắp tan nát”; song không biết đó là cái cơ tiến hóa vậy.
“Cuộc tan nát của Âu châu mà Cô nói đây, chưa biết chừng, có lẽ là cái cơ tấn
hóa của cả thế giới. Không phải Âu châu là trăm sự trăm tốt hết thảy, song cái
đại thể các dân tộc yếu ở Á châu ngày nay là phải học theo Âu châu thì mới
có thể sanh tồn” [45].
Quan điểm về cải cách, duy tân của Phan Khôi càng được làm sâu sắc
thêm trong bài nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại.
Ông cho rằng, chỉ khi nào triệt tiêu được học thuyết cũ nước Tàu, thì cái vận
mệnh của nước này mới có thể vững chãi. Bởi vì, học thuyết tư tưởng của
người Tàu là bảo thủ, trong khi công cuộc cải cách vài mươi năm qua là làm
cách mạng, hai luồng tư tưởng có thể nói là đối lập nhau. Cụ thể là, về xã hội
luân lý, người Tàu trọng thuyết trung dung, về chính trị, triết học, họ trọng cái
98
thuyết minh đức tân dân. Như vậy là trái với sự tiến hành của cuộc cách mạng
và trái với nền dân chủ. Ông cho rằng: “Khổng giáo cai trị phần tinh thần
người Tàu đã hơn hai ngàn năm nay rồi, ngày nay cũng nên về hưu đi. Người
Tàu nếu muốn sống trong một cái đời mới thì cần phải có các học thuyết tư
tưởng mới” [44].
Đặc biệt, bằng những lý lẽ và hiểu biết sâu, ông đã đưa ra phép so sánh
đầy thuyết phục về đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng
định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải "Âu hoá",
phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới
hiện đại, trong bài: “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương” [46] và
“Bác cái thuyết tân cựu điều hoà” [47].
Lịch sử đã chứng minh, cùng với cuộc xâm lăng chính trị, lãnh thổ của
Thực dân Pháp là cuộc xâm lăng về văn hóa, hay như người ta thường nói, đó
là cuộc đụng độ về tư tưởng và văn hóa giữa phương Đông và phương Tây.
Là người say sưa nhập thế, Phan Khôi viết bài “Tư tưởng của Tây phương và
Đông phương” để bàn về vấn đề thời sự nóng bỏng này. Ông cho rằng, sự
hiện diện hai thứ văn minh trong thế giới lúc bấy giờ, là văn minh Tây
phương và văn minh Đông phương, hai nền văn minh này khác nhau do hai
luồng tư tưởng khác nhau. Tây phương gồm cả các nước châu Âu châu Mỹ,
trong đó Pháp là một trong những đại diện tiêu biểu; Đông phương gồm cả
các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của Tây phương phát
nguyên từ Hy Lạp, La Mã, Hê-bơ-rơ, song bây giờ đã hỗn thành ra một nền tư
tưởng Tây phương, nên ở đây gọi chung là tư tưởng Tây phương. Tư tưởng
Đông phương có hai loại cơ bản là: Tàu và Ấn Độ. Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng của tư tưởng Đông Phương theo kiểu Tàu.
Người ta thấy bên Tây về đường vật chất phát đạt tinh xảo hơn bên
Đông, rồi cho rằng văn minh Tây phương là vật chất văn minh, còn
văn minh Đông phương là tinh thần văn minh. Nói như vậy là lầm.
99
Những cái thuyết tự do bình đẳng, là phần hệ trọng nhứt trong văn
minh Tây phương, chẳng phải tinh thần là gì? Bên nào cũng có tinh
thần vật chất cả, chẳng qua vật chất tùy theo tinh thần của mỗi bên
mà hiện ra hai vẻ khác nhau. Cái tinh thần ấy tức ở đây tôi gọi là tư
tưởng [46].
Trong đó, ông đã nêu ra ba điểm khác nhau cơ bản của Phương Đông
và Phương Tây với sự phân tích rõ ràng, dễ hiểu đối với công chúng, đó là:
Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học; Tây phương
trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc; Tây phương quý tấn thủ, Đông
phương quý an phận. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù có tư tưởng tiến
bộ, đề cao cải cách, nhưng xét về mức độ, ông đề cao đến mức cực đoan.
Chính vì vậy, sau khi phân tích, làm rõ tư tưởng phương Tây, phương Đông,
ông đưa ra kết luận khá cứng nhắc:
Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó
phản đối nhau như phương Nam với phương Bắc, như mặt trăng với
mặt trời. Nay ta nếu muốn theo cách sanh hoạt mới của Tây phương,
mà ta lại còn giữ cả tư tưởng cũ của Đông phương thì quyết không
có thể được. Âu là phải dứt bỏ tư tưởng cũ của ta mà theo tư tưởng
của Tây phương, thì mới hiệp với cách sanh hoạt mới của ta [47].
2.2. Quan điểm xã hội
2.2.1. Những quan điểm học thuật
Một trong những nét vẽ quan trọng để khắc họa chân dung nhà báo
Phan Khôi chính là tinh thần học thuật sâu sắc trong ngòi bút của ông, những
đóng góp trong nghiên cứu những vấn đề học thuật của ông trên báo chí tạo
nên một phần diện mạo báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đây là thời kỳ báo
chí dành một phần nội dung không nhỏ làm diễn đàn cho các cuộc thảo luận
về học thuật của các học giả. Đây cũng là kênh thông tin qua trọng nâng cao
nhận thức của nhân dân, của công chúng báo chí bấy giờ. Như đã đề cập ở
100
phần trên, với loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật, Phan Khôi đã làm cho
tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc và
trực tiếp tham gia vào quá trình thảo luận đó. Từ việc nêu lên một vài bài ông
đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong như
“Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim”, đăng trên Phụ nữ tân văn, Sài
Gòn, số 54, ngày 19-5-1930; “Cảnh cáo các nhà học phiệt”, đăng trên Phụ nữ
tân văn, Sài Gòn, số 62, ngày 24-7-1930 Phan Khôi đã khiến những cây bút
hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,... lên
tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề
ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm, được đông đảo
người đọc chờ đợi, vì dường như đây là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những
người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như
các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng
văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả... Không khí tranh biện
nghiêm túc, chất hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể
nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động
tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Phải chăng, chính không khí ấy cũng đã hỗ
trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường.
Với tinh thần học thuật nghiêm túc, ông đem những hiểu biết của mình
để chia sẻ với công chúng về Nho giáo, bằng cách đặt vấn đề bình dị nhưng
nghiêm túc và khoa học. Thực ra, trong suy nghĩ và mong muốn, ông định
viết một cuốn sách với chủ đề Nho giáo nguyên lưu, để phục vụ độc giả
những tri thức về Nho giáo. Trong đó, sẽ nêu rõ lịch sử của Nho giáo từ
Khổng Tử đến các nho nhà Thanh: Từ sự sáng lập thế nào đến biến thiên ra
sao và cuối cùng là vị trí của Nho giáo trong thời điểm hiện tại lúc bấy giờ.
Quan điểm của ông là dựa vào chứng cứ khách quan để bàn về vấn đề này,
chính vì vậy, khi cảm thấy chưa đủ chắc chắn, chưa thực sự thấu đáo, ông
chưa viết.
101
Loạt bài về Khổng giáo, Nho giáo chính là những nội dung Phan Khôi
cho rằng ông đã hiểu thấu đáo, ông viết ra vừa cung cấp tri thức về các vấn đề
này với công chúng, vừa để thảo luận, trao đổi với các học giả đương thời.
Năm 1929, trên 21 số báo Thần chung (213, 214, 216, 218, 219, 220,
221, 222, 223, 225, 227, 229, 232, 235, 236, 239, 241, 242, 247, 248, 249),
ông có bài nói về “cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”, gồm 13 chương:
I- Mấy lời nói đầu; II - Cái chơn tướng của Khổng giáo; III - Người ta theo
Khổng giáo cách nào; IV - Cái kết quả sự theo Khổng giáo dưới quyền nhà
vua; V - Cái óc phán đoán của kẻ học đời nay; VI - Cái vấn đề sanh tử của
chúng ta ngày nay - Âu hóa với Khổng giáo; VII - Về cái thuyết minh đức tân
dân; VIII - Về cái thuyết trung dung; IX - Cái chủ nghĩa làm quan; X - Về cái
thuyết khinh nông; XI - Về sự bao biếm của sách Xuân Thu; XII - Sự phân
biệt nghĩa và lợi; XIII - Khổng giáo đã cùng Âu hóa gặp nhau. Đây là nhóm
vấn đề ông dự định đưa vào cuối cuốn sách với chủ đề Nho giáo nguyên lưu
sau này. “Về Nho giáo, trong đó còn có nhiều điều nên biết mà tự hồ như ở ta
đây số người biết hãy còn ít lắm. Bởi vậy, về vấn đề này, tôi định viết nhiều
bài, mà lấy chung một cái đầu bài là Đôi điều nên biết về Nho giáo. Và, hôm
nay bài thứ nhất, tôi xin phô bày cái thâm ý, sở dĩ tôi định đem những điều ấy
cống hiến cho học giới ta là thế nào” (“Đôi điều nên biết về Nho giáo”, Đông
Tây, Hà Nội, số 100, ngày 26-8-1931).
Với mong muốn cống hiến, chia sẻ học thuật ấy, Phan Khôi đã lần lượt
phân tích về “Cái thuyết đạo thống đã bị đánh đổ”, “Cái lý học của Tống Nho
đã bị trọng thương” rồi đi đến phần kết là “Gỡ cái lầm cho hai ông Lê Dư và
Trần Trọng Kim”: “Trong sách Thanh đại học thuật khái luận của ông Lương
Khải Siêu, có nói về cuốn sách này mà cho là một cuộc cách mạng lớn về tư
tưởng lúc bấy giờ. Bởi vì cái học của Tống nho có một phần ở dịch lý của họ,
nhân đó họ chiếm lãnh lấy cái đạo thống, làm như của riêng thuộc về mình.
Nhờ có cuốn sách Hồ Vị ra, lấy Kinh Dịch đem trả cho Phục Hy, Văn Vương,
102
Chu Công, Khổng Tử, lấy những đồ thư tượng số đem trả cho Tống nho. Như
thế, làm cho kẻ học biết rằng Tống nho tự Tống nho, mà Khổng Tử tự Khổng
Tự, không cần gì nương theo Tống nho mới tìm” (“Đôi điều nên biết về Nho
giáo”, Đông Tây, Hà Nội, số 100, ngày 26-8-1931).
Phan Khôi căn cứ vào cuốn sách của ông Lương, cuốn Đối đông
nguyên đích triết học của Hồ Thích và văn tập Cố Viêm Vũ để có thể hiểu sâu
sắc những nội dung nói trên. Ông cho rằng, hiểu được như vậy rất có ích cho
các học giả trong nghiên cứu nói riêng và cho sự học của nước nhà nói chung.
Trước đó, những thuyết âm dương ngũ hành dựa vào Dịch học mà làm mê
hoặc lòng người, thì lúc này cần phải xem xét lại. Thậm chí, các học giả như
Lê Dư, Trần Trọng Kim cũng có chỗ lầm như ông Lê (trong sách Nho giáo
của ông Trần Trọng Kim, ông đã đem cái vô cực của Chu Liêm Khê mà gán
vào cho Khổng Tử).
Đọc Phan Khôi, chúng ta cảm nhận được sự nhất quán trong tinh thần
học thuật của ông - luôn lấy chữ lý làm trọng. Với ông, tình nằm trong lý. Ưa
nhập thế, thích tranh luận để làm sáng tỏ chân lý, vì vậy, trong những cuộc
tranh luận, từ những cuộc do ông khởi xướng đến những cuộc ông là người
tham gia, ông đều rất say sưa. Cũng chính trong những cuộc bút chiến này, độ
sắc sảo của ngòi bút Phan Khôi được bộc lộ một cách rõ nét nhất. Tinh thần
nhập thế và ý thức luôn tìm đến cái mới đã tạo nên tính cách Phan Khôi, tạo
nên nguồn cảm hứng tranh luận trong ngòi bút của ông. Có thể nói, nhắc đến
Phan Khôi là nhắc đến môn luận lý học. Theo ông, “luận lý học cai trị cả mọi
sự ở đời” [116].
Ông khẳng định: “Nước Việt Nam ta từ xưa đến nay chưa có cái nền
học thuật đáng gọi là học thuật, có chăng họa là bắt đầu từ ngày nay; mà ngày
nay muốn bắt đầu lập cho nước ta một nền học thuật vững vàng thì phải lấy
luận lý học làm trụ cốt. Vì trong các khoa học nếu chẳng hết thảy lấy luận lý
học làm gốc, thì hết thảy đều là cẩu thả mà thôi, chẳng có giá trị gì hết” [116].
103
Hơn thế nữa, ông cho rằng chẳng những về học thuật, suy ra cho đến trăm sự
ở đời, việc nào cũng phải cần đến luận lý học. Ông nêu ví dụ:
Nói về “đời”, nghĩa là sẽ có mối quan hệ giữa con người với con
người; về lời nói và việc làm: Lời nói việc làm đều gốc ở tư tưởng
mà ra. Luận lý học là một khoa học dạy cho ta tư tưởng theo đường
chính đáng. Vì lẽ đó, ông nói: Trăm sự ở đời cũng phải cần đến luận
lý học; luận lý học cai trị cả mọi sự ở đời.
Thuở trước, ta theo Nho giáo, mọi sự đều thiên trọng về cảm tình
mà không kể đến lý trí. Nhưng, khi đã mở rộng mối quan hệ với
nhiều nước trên thế giới, nhất là với người Pháp - họ sống cùng với
ta, họ đã đạt đến trình độ dân trí rất cao, nếu ta vẫn giữ cách cũ, mọi
sự không theo lý trí mà phán đoán, thì rất nguy hiểm. Thấu hiểu
điều đó, Phan Khôi “quyết đem những ngôn luận của mình mà mở
mang cho đồng bào được phát đạt về lý trí. Ấy là tôi đã đề xướng
cái khoa cần yếu là luận lý học trong bất kỳ việc gì. Luận lý học là
một phần trong triết học, song le nó chẳng phải cao xa chi, đem mà
ghép vào mọi việc xảy ra hằng ngày đều được hết. Nếu làm như vậy
thì nó thành ra dễ dàng lắm, ai lại chẳng hiểu ? [116].
Tuy nhiên, có thể thấy, điểm mạnh trong tinh thần học thuật duy lý nhất
quán ấy cũng bộc lộ những nhược điểm trong lý giải, cắt nghĩa một số sự
việc, hiện tượng của Phan Khôi, đó là tính duy lý cực đoan, thiếu biện chứng.
Ông tỏ ra lúng túng, thậm chí bất lực khi nhận thức, lý giải những hiện tượng
phức tạp, nghĩa là vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Ông chỉ thấy mặt đối lập
mà không thấy yếu tố có thể hòa hợp giữa văn hóa Đông và Tây, giữa cựu học
và tân học, giữa truyền thống và cách tân, giữa văn chương bình dân và văn
chương bác học, giữa nhận thức trực giác và tư duy khoa học… Ông đặc biệt
tỏ ra lúng túng trước quy luật tinh vi, phức tạp của tình cảm con người. Ông
đem quy tắc luận lý học để phản bác một bài thơ “khóc cha” của một tác giả
104
nào đó: “Đương khi cha chết mà làm thơ khóc cha là hai sự trái ngược
không dung nhau, luận lý không cho phép như vậy” [118], ông lập luận
nhạc, nhạc để vui, cha chết sao lại vui! Có thể nói, lối suy nghĩ có phần đơn
giản, máy móc, luận lý học như vậy là không thích hợp. Ông không thấy chỗ
khác biệt, đồng thời có chỗ hòa hợp giữa lý trí và tình cảm trong sáng tạo
thơ ca, nên đồng nhất nữ tính với tài năng nghệ thuật. Ông cho rằng Trường
can hành và Cung oán ngâm nếu đàn bà làm sẽ hay hơn Lý Bạch và Nguyễn
Gia Thiều…[74] và, ông tỏ ra bất lực khi đề cập đến quy luật của ái tình. Về
vấn đề này ông đành thú nhận là người thủ cựu hơn ai hết: “Tôi bình sinh,
cái gì thì tôi khuynh hướng về mới, duy có ái tình thì tôi thủ cựu rất mực.
Tôi hết sức phản đối cái thuyết “luyến ái tự do”, tôi cho là đem ái tình ra
dùng tầm bậy. Tôi nhận cái chơn ái tình duy có ở chỗ vợ chồng mà thôi”. Ai
chê mặc, “tôi vẫn sống một cách êm đềm trong cái thú ái tình cũ rích của
tôi” [127].
2.2.2. Quan điểm "vị nữ giới"
Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào tuần báo Phụ nữ tân
văn. Ông là một trong những người gắn bó cùng với Đào Trinh Nhất - trong
vai trò chủ bút. Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập, nữ giới là đề tài
có vị trí quan trọng, với đủ loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử,
nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Có thể nói, việc Phan Khôi và các tác
giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, không đơn giản là để viết cho
hợp với tên gọi, tôn chỉ, mục đích của tờ báo, mà mục đích lớn hơn là để triển
khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Khi bàn về nội dung Phan Khôi
với vấn đề đấu tranh nữ quyền, Vu Gia viết:
Cách nhìn cách nghĩ của Phan Khôi về vấn đề cách đây hơn 70 năm
theo tôi vẫn chưa phải lỗi thời. Nói cho chính xác hơn phần nào đó
nó vẫn còn tươi mới. Một người xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình
như Phan Khôi mà có những ý nghĩ như vậy vào thời điểm ấy ở xứ
105
ta quả chẳng được mấy người, nếu không muốn nói là quá tiến bộ so
với người cùng thời [35, tr.145].
Trong số các lĩnh vực hoạt động, có thể thấy, Phan Khôi dành ưu tiên
cho công việc làm báo. Sự lựa chọn ấy thực sự thích đáng, khi ông muốn tìm
kiếm một phương tiện hữu hiệu để thực hiện tâm nguyện và lý tưởng của
mình, là chung tay với những trí thức thiết tha với tiền đồ đất nước, gây dựng
một đời sống xã hội Việt Nam văn minh, tiến hóa. Tiếp cận các bài báo của
Phan Khôi đăng từ 1928 đến 1935 trên các tờ Đông Pháp thời báo, Thần
chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, Công luận, Thực nghiệp dân báo, Đông
Tây, Phụ nữ thời đàm, Tràng An…, có khoảng trên 100 bài viết trực tiếp đề
cập đến vấn đề nữ giới nói chung và các sự kiện trong cộng đồng phụ nữ Việt.
Nếu nói rằng một trong những dấu hiệu nhận diện văn chương báo chí của
Phan Khôi là chất hiện đại, thì có thể tìm thấy tinh thần hiện đại thể hiện hết
sức rõ nét qua mảng báo “vị nữ giới” của ông.
Theo Phan Khôi, “Vấn đề phụ nữ! Bốn chữ rất đơn giản, nghe qua
tưởng không có gì, mà kỳ thực nó có một lịch sử sâu xa và rộng rãi. Sâu xa vì
cái vấn đề ấy đâm rễ mọc mầm ở hàng mấy ngàn năm; rộng rãi vì nó, hoặc
sớm hoặc muộn, đã phát sinh ra hầu khắp trong các dân tộc trên thế giới”
(Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, số 1, ngày 17-9-1933). Ông cho rằng, trước nay, từ
đời này, sang đời khác, dần dần, quyền đàn bà suy đi, quyền đàn ông thịnh
lên, ở xã hội nào cũng bày ra cái hiện tượng nam tôn nữ ty, rồi trở thành quen
với con mắt loài người, đến hàng mấy ngàn năm, ai cũng coi là sự cố nhiên.
Thậm chí, chính giới nữ cũng coi là sự cố nhiên, không hề đặt câu hỏi tại sao.
Từ chỗ tái hiện hiện trạng như vậy, Phan Khôi kêu gọi: “Thế thì chúng ta đây,
bổn phận là phải hiểu thấu cái ý nghĩa ấy; kẻ có học thức và có lòng với tiền
đồ dân tộc, tưởng nên đem những vấn đề ấy ra mà nghiên cứu, giúp cho cuộc
tiến hóa của dân ta. Còn về phần chính mình phụ nữ thì bổn phận lại càng
trọng đại lắm. Phụ nữ Việt Nam ngày nay cốt phải dưỡng thành một cái tự lực
106
sao cho càng ngày càng sung túc, hầu một ngày kia thực hành được cuộc phụ
nữ vận động để giải quyết những vấn đề cần thiết cho mình. Vấn đề phụ nữ ở
xứ này đã phát sinh ra rồi; chẳng sớm thì chầy, cuộc phụ nữ vận động một
ngày kia đáng phải có” ("Cái ý nghĩa thật trong vấn đề phụ nữ ở xứ ta", Phụ
nữ thời đàm, Hà Nội, số 1, ngày 17-9-1933)
Đặt vấn đề về thực trạng đời sống tinh thần của giới nữ nói chung một
cách trực diện, thẳng thắn, Phan Khôi đã đồng thời khẳng định một cách dứt
khoát về việc phụ nữ phải đấu tranh giành lấy cái quyền chính đáng và tự
nhiên cho giới của mình “Gần mấy năm gần đây, phụ nữ xứ ta cũng đã thành
vấn đề rồi. Mặc dầu ai có dã tâm mà bưng bít hay là không nhìn nhận chăng
nữa, là những vấn đề đã mọc lên ở nước khác nó cũng đã và sẽ lù lù mọc lên
ở nước này mà thôi. Có chậm chăng là tại khí hậu và hoàn cảnh chứ hễ cái
cây phải mọc thì rồi thế nào nó cũng mọc” (“Cái ý nghĩa thật trong vấn đề
phụ nữ ở xứ ta”, Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, số 1, ngày 17-9-1933).
Từ cách nhìn đó, các bài báo với rất nhiều đề tài đã lần lượt phân tích,
từ xác định rào cản căn cốt về tư tưởng, tư duy, quan niệm, đến việc cung cấp
thông tin về một thế giới mới của nữ giới bên ngoài lũy tre làng, hay đề cập
những sự kiện cụ thể, thực tế diễn ra trong đời sống phụ nữ Việt đương thời.
Qua việc phân tích, lý giải, nhận định thấu đáo các vấn đề, Phan Khôi một
mặt chỉ rõ những nguyên nhân căn bản để từ đó hướng dư luận xóa bỏ thành
trì văn hóa, tập quán bảo thủ, tồn cổ, làm phương hại đến quyền lợi giới nữ,
cũng như cản trở “cuộc tiến hóa nữ giới”; mặt khác, ông có những bài báo cổ
xúy, động viên, khuyến khích, đề cao một nền nếp mới, văn minh, tiến bộ
trong tư duy và hành động của phụ nữ Việt.
Trước hết, trong các tác phẩm báo chí của mình, Phan Khôi đã đã tái
hiện các phương diện lý thuyết, quan niệm “truyền thống” đối với các vấn đề
nữ giới, Theo Phan Khôi, thân phận và đời sống hiện tại của phụ nữ Việt được
quy định bởi luận lý Nho giáo, đặc biệt là Tống Nho, thể hiện trong các bài:
107
“Đôi điều nên biết về Nho giáo”, “Tống Nho với phụ nữ”, “Lại nói về tam
cang ngũ luận”... Ở đó, ông cũng tỏ rõ quan điểm phản bác những quan niệm
cổ hủ, vốn là cái gông giam hãm người phụ nữ trong bóng tối của sự thiển cận
và nhịn nhục, mà vẫn được các bậc thánh hiền truyền giảng là “đức nhu
thuận”, là một trong những phẩm chất cần yếu của nữ giới.
Trong bài báo “Bà cố tôi” [79], qua câu chuyện về người phụ nữ mạnh
mẽ, giỏi giang, đầy bản lĩnh, đã vượt lên trên mọi nghiệt ngã của số phận,
chấp nhận điều tiếng để cải giá mà gây dựng cơ nghiệp cho gia đình, dòng họ,
Phan Khôi đã vẽ lại chân thực thân phận của giới nữ nói chung, trong vòng
vây khắc nghiệt của thứ lễ giáo thần quyền và phụ quyền phản nhân bản. Ông
đã chỉ rõ: “Đại phàm cái chế độ gì trong xã hội mà nó còn có được là nhờ nó
dính dấp với cái khác. Như cái luật bạc đãi người đàn bà cải giá đây, là nó
nhờ cái thuyết tam cang mà thành lập. Tuy nói tam cang, chớ chỗ cốt yếu là
cái cang quân thần. Nhờ cái cang ấy, ông vua mới lập ra mà binh vực hai cái
cang kia, để cho người làm cha làm chồng cũng có quyền mà đè đầu con và
vợ thế cho mình. Vì vậy, luật cũng chiều theo cái lòng ích kỷ của lũ đàn ông
mà cấm đàn bà cải giá; liệu cấm không thể được thì họ ra mặt ngược đãi”.
Nhìn lại cái vết thương dù là quá khứ mà vẫn còn di hại đến thời Phan
Khôi, ông đặt câu hỏi:
Tôi hỏi: Giá như không có bà cố tôi thì ai gây dựng nên cái cơ
nghiệp cho vừa phú vừa quý, mà con cháu trở đi đoán phạt ông bà?
Tôi hỏi: Giá như bà cố tôi không cải giá thì làm thế nào mà nuôi con
cho người nào cũng thành lập, lại nhỏ giọt đến kẻ khác nữa, mà bây
giờ cả họ xin nhau truất bỏ một người có công?
Không, không ai dám đâu. Cái đó là vì phải theo lễ thánh hiền, theo
luật nhà nước, theo chế độ xã hội [79].
Sau đó, trong bài “Ân và Tình”, nhân liên hệ với câu chuyện về cái chết
của nàng Viên Thục Tú ở Trung Hoa (nhân vật trong một bài thơ dịch), Phan
108
Khôi lại một lần nữa bày tỏ sự phản đối về vấn đề này: “Cấm đàn bà tái giá,
tức là thiệt hành cái luật “tùng nhứt nhi chung” mà còn nghiêm khốc hơn. Bởi
vì trong Lễ tuy có nói tùng nhứt nhi chung, nhưng theo trường hợp chánh
đáng cũng không cấm đàn bà cải tiết. Nay nhứt luật bảo rằng hễ chết chồng
rồi thì không được lấy chồng nữa, thế chẳng khác nào chỉ định một người đàn
bà nào đó của riêng của một người đàn ông nào đó, hễ người chủ mất rồi thì
thôi, không được thuộc về tay ai. Nếu vậy thì đã thành “cái vật” rồi, chớ
không còn phải là “con người”. Vả chăng, con người có ý chí tự do, khác với
cái vật mà" (Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 116, ngày 14-1-1932).
Đúng như những nhận định, phân tích của Phan Khôi, những hủ tục đè
nặng lên cuộc sống giới nữ không chỉ được thực thi trong thời của những ông
cố bà tổ, vốn chưa có điều kiện mở mang về nhận thức. Điều nguy hại là ngay
cả các trí thức ở thời đại văn minh cũng một mực níu kéo và nuôi dưỡng
chúng. Nhân xuất hiện bài “Thiên chức của đàn bà” của Hoàng Tăng Bí trên
Trung Bắc tân văn, Phan Khôi đã viết “Phản đối bài Thiên chức của đàn bà”,
trong đó, ông thẳng thắn tranh luận:“Rút lại, cái thiên chức của đàn bà ở đâu?
Tác giả chỉ vào trong bếp, trong buồng, trong nhà trong, bảo rằng thiên chức
đàn bà ở đó”, và “Bài Thiên chức của đàn bà”, tác giả lập luận chẳng có dựa
vào lý do gì vững chãi hết; chỉ có, một điều nói người ngoại quốc khen ngợi
phong hóa nước ta, hai điều nói người ngoại quốc khâm phục cách tổ chức gia
đình và xã hội nước ta. Cái khẩu khí này chẳng riêng gì một mình ông H.T.B.
mới có; hầu hết thức giả nước Việt Nam thỉnh thoảng cũng thở ra những câu
như vậy. Rõ thật làm đau lòng tôi quá, tôi chẳng buồn nghe!
Nếu quả phong hóa nước ta là tốt, cách tổ chức gia đình xã hội của ta là
tốt, thì ít nữa ta cũng đã lên được cái địa vị thế nào rồi, sao lại còn phải nghèo
yếu như ngày nay? Nếu quả họ nhận cho của ta là tốt thật, thì sao họ lại không
bỏ phăng hết thảy của họ để đi theo ta, lại cứ đứng một bên mà ca tụng tán
dương làm gì thế ấy?” Và tác giả dứt khoát kết luận: “Tôi xin khuyên anh em
109
chị em chớ nên nghe lời nói xằng ấy” (Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, số 5, ngày
15-10-1933)
Cũng trong chủ đề sự áp bức tinh thần đối với nữ giới, Phan Khôi viết
bài “Chữ trinh: cái tiết với cái nết”, ông cực lực lên án sự áp đặt, trói buộc
người phụ nữ bởi tư tưởng thủ lợi các thế lực phụ quyền:
Chữ trinh, như là một cái tín điều của một tôn giáo riêng cho đàn bà.
Làm sao không buộc đàn ông phải trinh mà chỉ nội đàn bà thôi? Xưa
nay chừng như chưa hề có câu hỏi kỳ khôi ấy; vì người ta đã cho đứt
đi rằng cứ hễ đàn bà là phải trinh, không cần hỏi gì lôi thôi nữa. Mà
có hỏi, người ta sẽ dẫn những kinh thánh hiền truyện ra mà trả lời;
rút lại, trinh là cái thiên kinh địa nghĩa mà đàn bà phải theo, ở trong
dường như có cái nghĩa huyền bí của tôn giáo [76].
Sau khi phân giải về sự khác nhau giữa cách hiểu “trinh” là cái tiết hay
cái nết, tác giả nhận định:
Trinh mà chuộng về nết thì một người đàn bà chết chồng có thể lấy
chồng khác, không gọi là trinh được, miễn là trong khi có chồng
khác đó cũng vẫn đoan chánh và chánh chuyên. Nhưng chuộng về
tiết thì chết chồng mà lấy chồng khác là thất tiết. Cái luật nghiêm
khắc ấy là do lòng tham lam và thói ích kỷ của bọn đàn ông bày ra,
rất là không công bình [76].
Cuối cùng, Phan Khôi kết luận đầy trách nhiệm: “Ông Nguyễn Du nói
“Chữ trinh có ba bảy đường”; nhưng tôi nói: Chữ trinh có hai đường, là nết và
tiết. Nết thì hay mà tiết thì dở. Chuộng nết thì có ích mà chuộng tiết thì có hại.
Huống chi đương thời buổi này, cái thói dâm ô tràn ngập cả thiên hạ, đàn bà
nước Nam ta nếu muốn giữ lấy nhân cách mình trên nền tự do độc lập thì hãy
phản đối cái tiết trinh, mà nhứt là cần phải trau dồi lấy cái nết trinh” [76]. Có
thể thấy, trong giai đoạn lịch sử đương thời, quan điểm của Phan Khôi mang
đậm dấu ấn của tư tưởng tiến bộ, và, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
110
Để từng bước xóa bỏ những quan niệm hủ tục trong tư tưởng về thân
phận người phụ nữ trong xã hội, cần phải thay đổi nhận thức của chính giới
nữ, Phan Khôi viết những bài cung cấp thông tin về giáo dục nữ giới. Trong
bài “Tư cách phụ nữ xưa nay khác nhau: làm vợ, làm mẹ, với làm người", ông
chỉ ra cái tệ trạng đối xử phân biệt giữa nam và nữ: “Từ xưa đến nay, người ta
cho con trai đi học, trừ cái học để làm quan ra không kể, còn thì ai cũng kỳ
vọng cho học để làm người. Nhưng đến lúc dạy con gái phải nhớ rằng con gái
được dạy là sự ít có lắm thì lại chỉ mong cho học để làm vợ và làm mẹ.
Ủa hay, sao lại có sự phân biệt như thế? Con trai đi học, sao chẳng chỉ
mong cho chúng nó biết đạo làm chồng và làm cha mà thôi?
Coi một chút đó đủ thấy thói thường trọng nam khinh nữ là thế nào.
Con trai mới là “người” thật, cho nên phải học làm người. Còn con gái, tiếng
là “người” nhưng là “người phụ thuộc”, thôi thì chỉ học cho biết làm vợ làm
mẹ là đủ, vì hai điều ấy là sự cần cho bên nam, tự nhiên phải nhận là cái nghĩa
vụ của bên nữ!”
Từ thực tế bất cập ấy, Phan Khôi khẳng định: “Cái mục đích của sự nữ
học hiếm có ở xứ ta xưa nay, chỉ ở bốn chữ “lương thê hiền mẫu”. Dạy cho họ
như thế hằng ngàn năm nay, mà các công hiệu ra sao cũng đã thấy rồi. Bây
giờ tưởng nên đổi cái mục đích ấy đi, dạy cho họ làm người đi. Ấy là vài lời
chúng tôi muốn đem hiến cho nhà đương đạo mới vừa cầm lấy quyển giáo
dục trong xứ ta” (Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, số 2, ngày 24-9-1933).
Tệ phân định nam nữ, trong sự quan sát của Phan Khôi, ngoài chế độ
giáo dưỡng, đã ăn sâu vào cả cách nghĩ trong cuộc sống thường nhật, ví như
việc con cái gần gũi cha mẹ, anh chị em ruột thịt thân mật trong gia đình cũng
bị dị nghị (sự phân cách nam nữ và sự tỵ hiềm). Những thực tế như vậy, và
còn rất nhiều tồn đọng từ các thứ nguyên tắc đạo đức làm đời sống vật chất
lẫn tinh thần của nữ giới bị tổn hại, Phan Khôi cho rằng, đã đến lúc phải thay
đổi triệt để. Nhiệm vụ đặt ra là tìm phương án để giải quyết tình trạng lạc hậu
111
trong cách nhìn và thực thi các vấn đề nữ giới. Thực hiện nhiệm vụ này trong
vai trò của người làm báo, Phan Khôi có nhiều bài viết, tập trung vào các chủ
đề đấu tranh cho không khí tự do, tự chủ của phụ nữ Việt, trả lại cho họ quyền
được làm người bình đẳng bên cạnh nam giới, như Vấn đề cải cách cho phụ
nữ, Giải phóng phụ nữ, Thế nào là phụ nữ giải phóng, Vấn đề phụ nữ giải
phóng với nhân sanh quan...
Phan Khôi đã rất cấp tiến trong cách diễn giải khái niệm về giải phóng
phụ nữ:
Phụ nữ ta ngày xưa chỉ lo việc tề gia nội trợ, làm mẹ, làm vợ, có hai
cái bổn phận ấy mà thôi, mà muốn làm cho tròn hai cái bổn phận ấy,
cũng không cần học nữa. Phụ nữ thuở xưa không được dự biết đến
việc nhà ngoài, chớ đừng nói quốc gia xã hội, đừng nói ra mà làm một
việc “vì công chúng” như là diễn thuyết cho cả ngàn người nghe.
Đời nay có nhiều phụ nữ không chịu bó buộc mình vào cái khuôn
khổ hẹp hòi ấy nên mới cầu giải phóng. Giải phóng nghĩa là phải đi
học như đàn ông không những làm vợ làm mẹ mà thôi mà cũng làm
người nữa, nghĩa là đàn ông làm người như thế nào thì đàn bà làm
người thế ấy; đàn ông được diễn thuyết, đàn bà cũng được diễn thuyết.
Chúng tôi tưởng cái nghĩa của chữ giải phóng là như vậy. Giải
phóng tức là “cởi trói” chớ không gì khác [130].
Để có thể thay đổi nhận thức của xã hội về giải phóng phụ nữ, phải trải
qua nhiều phương diện, nhiều bước đi, nhưng có lẽ một trong những tiền đề
cơ sở là bản thân nữ giới phải nhận thức cho được vị trí, quyền lợi, và cả trách
nhiệm của mình trong mọi mối quan hệ và vận động xã hội; nghĩa là họ ý
thức về quyền được sống đúng với tư cách “người”, đồng đẳng với nam giới
về mọi phương diện. Với vai trò chủ bút tờ Phụ nữ thời đàm, khi xác định tôn
chỉ của tờ báo ở bài “Cái quan niệm đối với tờ báo nữ”, Phan Khôi đã nhấn
mạnh đến việc làm thế nào để giúp phụ nữ được làm một con người tự nhiên,
112
mà trước hết là dỡ bỏ cái thiên kiến "nam tôn nữ ty”, nghĩa là cùng xóa đi cái
ranh giới theo nghĩa tiêu cực, phản tiến hóa giữa nam với nữ, ông viết:
“Đối với tờ báo phụ nữ, nhiều người có cái quan niệm thiên lệch lắm.
Người này nói: “Đã là tờ báo nữ thì ở trong phải toàn là những bài có quan hệ
với đàn bà con gái”. Người khác lại nói: "Đã là tờ báo nữ thì phải là đàn bà
đứng ra chủ trương”.
Người thứ nhất tưởng cái ý kiến mình như thế là có ích cho phụ nữ lắm,
chứ không dè như thế là trở lại giam hãm cái tri thức của phụ nữ trong xó tối!
Việc quan hệ với đàn bà con gái là việc gì? Có phải là may vá, bánh
trái, đi chợ, nấu ăn... cùng là sinh đẻ, nuôi con... chăng? Muốn chỉ cho phụ nữ
biết những điều đó mà thôi à? Nếu có một tờ báo nêu cái tôn chỉ mình ra như
thế, chúng tôi phải nói rằng tờ báo ấy cố dạy cho phụ nữ làm đầy tớ!
Không, không được. Chúng tôi không muốn thế mà muốn cho chị em
“làm người” kia”.
Mà điều kiện để thực hiện việc cởi trói hầu được làm người, Phan Khôi
rất đồng tình quan điểm: “phải đứng vững trên cái chỗ đất tấn hóa của lịch sử
và trên sự kiến lập xã hội bằng kinh tế” (Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 158,
ngày 07-7-1932; số 160, ngày 21-7-1932).
Theo Phan Khôi, một trong những gốc rễ của công cuộc giải phóng phụ
nữ, là đổi mới được cách nhìn, cách nghĩ, cách tư duy đối với các vấn đề nhân
sinh trong mối quan hệ với giới nữ. Chính những vốn liếng về tri thức, sự hiểu
biết để có những chuyển hóa trong nhận thức sẽ giúp người ta tự chuyển hóa
về chất trong quan niệm và hành động. Có thể nói, trong lịch sử báo nữ Việt
Nam, sự kiện Phụ nữ thời đàm chuyển hướng tôn chỉ hoạt động sau khi Phan
Khôi đảm trách cương vị chủ bút từ tháng 9 năm 1933 ghi một dấu ấn quan
trọng về phương diện đấu tranh cho nữ giới:
“Cái tôn chỉ của phụ nữ và để bênh vực quyền lợi cho phụ nữ. Nâng
cao tri thức, nghĩa là tùy theo trình độ của chị em mà chúng tôi sẽ hiến cho
113
những điều thiết thực ở đời, cần phải biết; hầu cho khi đọc xong tờ báo này,
chị em cũng được bổ ích về tinh thần như được bổ ích sau khi ở lớp học mà
ra. Nhờ những bài nghiên cứu, phê bình trong này, chúng tôi sẽ đưa chị em
đến một cõi tư tưởng chính đáng mà xác thực; mong rằng nếu có ai lâu này
sống trong chiêm bao thì, sau khi đọc bản báo, sẽ biết sống trong một cái đời
thực tại.
Bênh vực quyền lợi, nghĩa là chúng tôi không đánh đổ hiện trạng của
xã hội mà cứ tùy theo hiện trạng để yêu cầu cho chị em những quyền lợi đáng
được và vãn hồi cho những quyền lợi đã mất” (“Phụ nữ thời đàm đổi làm tuần
báo”, Phụ nữ thời đàm, Hà Nội, số 1, ngày 17-9-1933)
Xác định rõ việc cung cấp tri thức để mở rộng nhận thức của phụ nữ
chính là một nhiệm vụ quan trọng, Phan Khôi đã đóng góp những bài viết về
nhiều lĩnh vực được nữ giới quan tâm: Pháp luật đối với phụ nữ, Phụ nữ thời
đàm với phong hóa, Trả lời mấy câu hỏi về vấn đề luyến ái, Ân và tình, Tình
bạn bè giữa trai với gái, Thầy trò đời nay có thể lấy nhau được không.... Ở
những bài báo này, ông trao đổi, luận giải một cách cụ thể, giản dị và có chủ
kiến về những vấn đề thiết thân với đời sống nữ giới, đặc biệt, trong các mối
quan hệ với gia đình, xã hội.
Liên quan đến văn hóa gia đình hiện đại, Phan Khôi bàn giải quan niệm
mới về hôn nhân, cụ thể là về thực chất của sự ràng buộc vợ chồng trong bài
“Sự vợ chồng ly dị ở nước Phô - lôn”. Hoặc, trong mục “chuyện lạ đó đây”,
ông cũng cung cấp những thông mở ra những hướng suy nghĩ mới so với
những tập quán hay nếp nghĩ truyền thống của người Việt về việc hôn nhân,
như các bài "Đi cưới chồng", "Những tục lạ về nam nữ ở thế gian"... Để làm
rõ hơn hình ảnh người phụ nữ mới, Phan Khôi đã chỉ ra những nhân tố cơ bản
làm nên sự tích cực giới tính. Ông tập trung một số bài viết về văn hóa hành
xử của nữ giới Mỹ - nơi mà trong tư duy cũ vẫn thường xem là xã hội thực
dụng. Đó là bản tính nhân hậu nữ tính rất đáng trân trọng của người mẹ Tổng
114
thống Roosevel đem đến những chuyển biến tích cực trong sự nghiệp của con
trai trong bài "Bà mẹ quan Tổng thống Mỹ không quên bọn đầy tớ". Hay sự
khéo léo, tế nhị, tâm lý của vợ nhà văn Nathaniel Hawthorn, biết cách hỗ trợ
tinh thần giúp chồng con vững vàng trong cuộc sống. Cũng trong mạch thông
tin đó, Phan Khôi nhắc lại "Một cái gương sáng cho người làm mẹ" qua
trường hợp bà Vương Thạc Nhân, ở Trung Quốc vào cuối đời nhà Minh. Là
một phụ nữ kiên định, quyết đoán, bà đã dưỡng dục Cố Viêm Võ, là em trai
của em chồng thành người: “Mẹ ông Cố Viêm Võ chỉ có công nuôi không có
công đẻ mà con còn như thế, huống chi là một người mẹ hiền cả đẻ lẫn nuôi.
Vậy thì ta trông trong nước có nhân tài mà trông ở cái khí thiêng chung đức
của non sông, thật không bằng trông ở sự giáo hóa của người từ mẫu vậy”
(Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 19, ngày 05-9-1929). Còn với "Câu chuyện thủ
trong nghị viện có đàn bà", nhân thuật lại hiện tượng đan lát trong nghị
trường của các nữ nghị viên Âu Mỹ, ông cũng thẳng thắn chỉ ra việc khi giới
nữ sử dụng những phẩm chất nữ tính không đúng chỗ, làm ảnh hưởng đến công
việc cũng như hình ảnh của người nữ hiện đại.
Cùng với những bài viết về chuyện ở xứ người, Phan Khôi, cũng viết
nhiều bài phân tích, nhận định thực tế đời sống của giới nữ, gắn liền với các
phương diện quan hệ nam nữ, hôn nhân, gia đình Việt Nam, ở đó, ông cũng
rất quan tâm đến việc nêu các gương tiêu biểu của phong trào cải cách phụ nữ
trong nước. "Việt Nam phụ nữ liệt truyện" là bài viết khá dài, tái hiện một số
chân dung đặc sắc trong giới nữ Việt: chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị; mẹ ông
Nguyễn Cao; mẹ ông Nguyễn Vĩnh; Hoàng hậu Hiếu Chiêu; Thái phi Từ
Tuyên; bà nghè Sáu tiền; bà Lễ sư... Mỗi người một vẻ, nhưng nét trội chung ở
họ là sự cứng cỏi, bản lĩnh; có nhận thức; không chấp nhận sự “thường tình nhi
nữ”; và đóng thật tốt vai trò làm mẹ, làm vợ, làm con dân. Rõ ràng, đây là những
chuyện cũ, bối cảnh, sự kiện cũ, nhân vật cũng cũ, nhưng tinh thần, cách nghĩ,
cách hành động thì sáng láng, làm hiện ra những gương mặt nữ mới.
115
Trong những năm đầu thế kỷ XX, xã hội Việt xuất hiện hình ảnh của
những cô gái tân tiến, hay được gọi tên bằng cụm từ “gái tân thời”. Theo Phan
Khôi, để thể hiện đúng tinh thần hiện đại, thì không phải chỉ qua cái vỏ hình
thức, mà cần đạt được sự mới mẻ bên trong. Ông cắt nghĩa: “Mới cách ăn
mặc, mới cách trang sức, mà cho là gái hư thì thật là quá đáng; nhưng mới chỉ
nội ngần ấy thôi, thì ai dám bảo là gái nên? “Tân thời” dịch bởi moderne,
tiếng Pháp. Nghĩa chính là điều gì hợp với cái thời mình đương ở. Thời chúng
ta đương ở đây, cố nhiên hình thức phải hợp mà nhất là tinh thần lại càng phải
hợp. Thế thì, gái tân thời đã mới hình thức, cũng phải mới cả tinh thần.
Bao giờ cho trong khi người ta gọi “gái tân thời” mà hiểu là gái có học
thức mới, có tư tưởng mới, bấy giờ phụ nữ ta mới thật là có tiến bộ!" (Phụ nữ
thời đàm, Hà Nội, số 7, ngày 29-10-1933)
Thực chất của cái tân thời mà Phan Khôi nói đến ở đây, chính là những
phẩm chất giúp nhận diện một người phụ nữ đủ bản lĩnh, năng lực và đạo đức
để có thể có mặt trong đời sống gia đình, xã hội với tư thế ngang bằng nam giới.
Phan Khôi cũng đã bày tỏ sự trân trọng và cảm kích khi viết về các gương mặt
đại diện cho tầng lớp phụ nữ Việt Nam tiên tiến, như: Bà Tương Phố mạnh dạn
cải giá để tìm kiếm hạnh phúc chính đáng (Bà Tương Phố lấy chồng); bà Hà Văn
Ngoạn không những không cần dựa dẫm bổng lộc của chồng quan, mà còn độc
lập làm kinh tế, tạo điều kiện cho ông sống liêm chính (Bà Hà Văn Ngoạn lo làm
giàu, mặc kệ chồng làm quan); bà Đạm Phương thể hiện nghị lực sống đáng biểu
dương dù gặp nghịch cảnh (Bà Đạm Phương đi tu?), bà Diệp Văn Kỳ gắn bó,
chia sẻ mọi điều với chồng, và họ là cặp đôi rất mới (Ông Diệp Văn Kỳ với vợ
ông ấy)... Bên cạnh đó, dù có chồng địa vị, bà Phạm Quỳnh vẫn luôn giữ được
cách hành xử mẫu mực, văn hóa (Bà Thượng Phạm vẫn nhũn như xưa); bà Cao
Xuân Sang sống một cách cao thượng, nhân hậu (Bà góa Cao Xuân Sang); bà
Thượng thư Phạm Liệu vừa học thức, tài năng lại rất được chồng kính nể
trong cách cư xử (Bà Thượng Phạm có ghen không?)...
116
Có thể thấy, mảng báo về nữ giới của Phan Khôi, bao gồm các sự kiện
thực tiễn, cập nhật, đầy tính thời sự, và có ý nghĩa xã hội, nhân sinh thiết thực.
Trong bối cảnh xã hội, văn hóa ở buổi giao thời ấy của đất nước, với sự giằng
co của việc chọn lựa mới - cũ trên con đường tiến hóa của dân tộc, thì vấn đề
nữ giới là một trong những điểm nóng nhất, bởi bản thân việc cải cách hay
không cải cách tình trạng phụ nữ thể hiện một cách tập trung và rõ nét nhất
quyết định về phương diện nhân sinh quan. Vì thế không chỉ riêng giới nữ là
khu vực độc giả ưu tiên nhắm tới và chịu tác động, mà đông đảo người đọc
nói chung đều có thể chia sẻ các vấn đề được tác giả đề cập và mổ xẻ, vì dù
muốn hay không thì giới nữ vốn chiếm chỗ phân nửa trong cuộc sống, tất yếu
những gì liên quan đến phụ nữ cũng nằm ngoài các mối quan tâm hàng ngày
của mỗi cá nhân.
Loạt bài viết về nữ giới của Phan Khôi rải ra trên các trang báo trong
một thời kỳ khá dài, tuy nhiên, tất cả đều mang tính định hướng và một những
bước đi rõ rệt của quá trình thay đổi nhận thức của xã hội đối với vấn đề giải
phóng phụ nữ. Dễ dàng nhận ra chủ kiến của người viết qua sự tập trung vào
một mục tiêu chủ chốt, như tác giả từng nêu rõ: “Muốn giải quyết vấn đề phụ
nữ phải làm hai từng công việc. Việc thứ nhất là phải suy tìm cho biết cái tình
trạng phụ nữ nước ta từ xưa đến nay ra làm sao, việc thứ hai là phải định
phương châm cho cách sanh hoạt mới của phụ nữ nên thế nào." (“Theo tục
ngữ phong dao, xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta”, Phụ nữ tân văn, Sài
Gòn, từ số 5, ngày 30-5-1929, đến số 18, ngày 29-8-1929).
Qua phần các vấn đề nội dung đã tái hiện, có thể nhận thấy, các bài báo
lớn, nhỏ của Phan Khôi, dù đề cập đến sự kiện nào, cũ hoặc mới, Đông hoặc
Tây, ở Việt Nam hay thế giới, và thuộc bất cứ lĩnh vực nào, đề tài nào..., cũng
tập trung vào việc trình bày bức tranh nữ giới và nữ giới Việt, gắn liền với các
phương diện cần quan tâm và giải quyết. Trước hết, qua việc tái hiện thế
tương quan bất bình đẳng, phản tự nhiên giữa nam và nữ giới hiện vẫn được
117
duy trì vì quan niệm cổ hủ và tư tưởng thủ lợi của nam giới, tác giả gợi mở ý
thức cho từng cá nhân phụ nữ Việt về chỗ đứng và giá trị của mình. Tiếp theo,
nhà báo trang bị các hiểu biết cần thiết để họ đủ khả năng nhận thức về cuộc
sống và bản thân, nhằm thoát khỏi sự tự ti trước nam giới, vốn là mặc cảm đè
nặng lên số phận giới họ hàng ngàn năm, đồng thời hỗ trợ họ trong việc giải
quyết với tinh thần cải cách các vấn đề hệ trọng như quan hệ gia đình, hôn
nhân, luyến ái... Cuối cùng, Phan Khôi hướng dẫn họ các bước đi trên con
đường chung của cộng đồng với tư thế tự chủ, chủ động tận dụng thế mạnh
của giới mình để tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước, mà
vốn họ cũng có nghĩa vụ và quyền lợi ngang bằng nam giới.
Tiểu kết chương 2
Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi đã chứng tỏ mình còn là một học
giả, một nhà tư tưởng uyên bác và say mê học thuật. Có thể đi vào chi tiết hơn
để thấy ở ông một nhà tư tưởng sớm biết đặt ra vấn đề của di sản tư tưởng
Nho giáo cổ truyền trước thời đại mới, sớm đặt vấn đề tiếp nhận tư tưởng Âu
Tây để đổi mới xã hội, rõ nhất là xây dựng quan niệm mới về người phụ nữ
trong sự bình đẳng về giới tính, xem đổi mới vị trí người phụ nữ là góp phần
đổi mới xã hội; một nhà xã hội học biết phân tích sự chuyển động bên trong
xã hội và đặt ra các vấn đề về phẩm chất người hoạt động chính trị, phẩm chất
quan chức trong bộ máy quản lý.
Cũng không quá lời khi cho rằng, Phan Khôi thuộc trong số những trí
thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hoá cho xã hội Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX. Những quan điểm chính trị - xã hội trong các
tác phẩm báo chí của Phan Khôi là những đóng góp quan trọng góp phần
nâng cao nhận thức đối với công chúng về những vấn đề chính trị, xã hội; về
con đường phát triển của Việt Nam, những vấn đề học thuật. Những kiến thức
đó càng có ý nghĩa, khi đất nước ta đang bị đặt trong ách đô hộ của thực dân
Pháp. Đó là:
118
Thứ nhất, tinh thần “nhập cuộc”, cùng với kiến thức uyên thâm và sự
sắc sảo của ngòi bút, Phan Khôi đã đem lại cho công chúng những kiến
thức, những hiểu biết có chiều sâu về những giá trị lịch sử của dân tộc.
Cuộc tranh luận về vai trò bảo hộ của Pháp, những bài viết về quan Toàn
quyền Đông Dương… đã thể hiện sự trân trọng những giá trị khách quan
của lịch sử, có sức lan tỏa trong công chúng, trong xã hội về tinh thần yêu
nước, niềm tự tôn dân tộc. Đây là giá trị quan trọng của nhận thức, trong
bối cảnh đất nước đang bị đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Phan
Khôi tiếp cận, lý giải thấu đáo để công chúng có thể hiểu vấn đề bản chất
về “thuyết nước Pháp giúp nước Nam” cuối thế kỷ XVIII. Sự am hiểu rộng
về kiến thức lịch sử, sự sâu sắc trong nghiên cứu, học thuật và hơn hết,
cuộc thảo luận về một sự kiện lịch sử Việt Nam cận đại đã được Phan Khôi
khơi lên và kéo dài suốt ba tháng trong năm 1928 trên Đông Pháp thời báo
có ý nghĩa không nhỏ, cả về nhận thức lịch sử, và nâng cao ý thức dân tộc
cho công chúng đương thời.
Thứ hai, với tinh thần yêu nước, đứng về phía nhân dân, thông qua hoạt
động báo chí của mình, Phan Khôi đã thẳng thắn phê phán thể chế chính trị
đương thời, cụ thể là Đảng Lập hiến - Đảng cổ súy cho chủ trương “Pháp -
Việt đề huề”. Với bản chất cơ hội, vụ lợi, các lãnh tụ Đảng Lập hiến đã sớm
phơi bày sự phản bội đối với phong trào dân tộc ngay từ trước khi thành lập
và thực chất đây chỉ là một đảng phải chính trị tay sai của chính quyền thực
dân. Phan Khôi đã thể hiện quan điểm thẳng thắn về sự tồn tại vô nghĩa của
Đảng Lập hiến đối với vận mệnh của đất nước nói chung và đối với đời sống
nhân dân nói riêng bằng hoạt động báo chí. Với tinh thần thẳng thắn, bằng lập
luận chặt chẽ và chiều sâu của những kiến thức mang tính nguyên tắc và thực
tiễn lịch sử dân tộc, Phan Khôi đứng về phía người dân để phê phán, phủ định
vị trí, vai trò của Đảng Lập hiến - đảng cổ súy cho thuyết “Pháp - Việt đề
huề”, hoạt động không vì lợi ích của nhân dân.
119
Thứ ba, với vốn kiến thức sâu rộng, uyên bác, Phan Khôi đã đưa ra
những quan điểm về con đường phát triển đất nước - muốn phát triển phải
thực hiện cải cách.
Những năm 20-30 của thế kỷ XX được xem là giai đoạn “xâm lăng văn
hóa” của Phương Tây đối với phương Đông. Văn hóa phương Đông đứng
trước thách thức: phương Tây “thôn tính” hay tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
của văn hóa phương Tây để tự làm mới để hòa nhập vào dòng chảy của thời
đại. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với nền văn hóa là muốn tồn tại thì phải “duy
tân”. Phan Khôi cho rằng: Muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu từ học thuật
tư tưởng mà duy tân cải cách trước. Dưới ngòi bút sắc sảo, Phan Khôi đã bàn
về những bài học từ Nhật Bản, nước Tàu để đi đến khẳng định “Nhựt Bổn đã
vậy mà Tàu cũng vậy, họ phải cải cách tư tưởng học thuật trước rồi sau mới
đủ lòng tin mà cải cách mọi sự khác, sự lý rất là hiển nhiên. Người Việt Nam
mình nếu muốn cải cách, cũng phải làm như họ” [118]. Quan điểm về cải
cách của Phan Khôi còn thể hiện rõ, mạnh mẽ trong chùm bài tranh luận phản
bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học giả Cô Hồng Minh và càng được
làm sâu sắc thêm trong Bài nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung
Hoa đương đại.
Thứ tư, trên trang báo mà Phan Khôi tham gia, cùng với các bài viết
mang chức năng thông tin, giới thiệu tri thức mới, bàn luận, lý giải các vấn đề
nhân sinh thiết thực, phát biểu ý kiến, nhận định về các sự kiện thời sự..., việc
gợi mở, khai hỏa các cuộc tranh luận về chủ đề, trong đó có các vấn đề về nữ
giới, với địa điểm tập trung lý tưởng là mặt báo, là một hình thức sinh hoạt
văn hóa hiện đại, dân chủ, mang lại những tác động tích cực, sâu sắc đối với
sự chuyển biến các quan niệm, tập quán văn hóa.
Phong cách viết trong mảng bài về nữ giới của Phan Khôi, cũng như
văn phong báo chí của ông nói chung, mang một sắc thái riêng. Có thể nhận
ra, trên nền kiến thức rộng, có chiều sâu, với cái nhìn thực tế, nhà báo luôn
120
trình bày, lý giải các vấn đề một cách giản dị, tạo được sự đồng cảm, gần gũi,
dễ chia sẻ với mọi đối tượng độc giả. Cách nói của Phan Khôi dung dị mà vẫn
giữ được các chuẩn mực cần thiết, có sức thu hút, thuyết phục, đáng tin cậy.
Ông cũng sở hữu một văn phong hài hước, dí dỏm, ý nhị, tạo cảm giác nhẹ
nhõm cho người đọc, dẫn tới hiệu quả tiếp nhận tích cực.
Những đóng góp này không chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh lịch sử
đương thời, mà ở chừng mực nào đó còn giữ nguyên giá trị trong xây dựng và
phát triển đất nước ngày nay.
121
Chương 3
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
TIẾNG VIỆT TRONG BÁO CHÍ
Từ nửa cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam tồn tại ba
ngôn ngữ khác nhau: Chữ Hán, tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Chữ Hán, chỉ tồn
tại ở dạng chữ viết chứ không trong dạng lời nói, chỉ thông dụng ở giới nho sĩ
và giới quan lại của chính quyền, nhưng chính thứ văn tự vay mượn từ quá
khứ lâu đời này lại chứa đựng một dung lượng ký ức văn hoá lịch sử đáng kể
của dân tộc. Tiếng Pháp và chữ Pháp bắt đầu được phổ biến, nhưng mới chỉ
trong một bộ phận nhỏ cư dân (bộ phận viên chức). Tiếng Việt, với tư cách là
tiếng mẹ đẻ, phổ thông trong rộng rãi cộng đồng ở dạng lời nói, nhưng có hai
dạng văn tự ứng với nó là chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Chữ Nôm, một mặt quá
phụ thuộc chữ Hán, mặt khác chưa được chuẩn hoá để có thể thông dụng
trong số đông công chúng; chữ quốc ngữ (tiếng Việt ghi bằng các ký tự của
chữ latin) dần được phổ biến rộng ra, tự chứng tỏ là thứ chữ viết dễ sử dụng,
nhưng việc chuyển sang dùng hệ văn tự này vẫn còn xa lạ với truyền thống.
Chính sách ngôn ngữ của chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam thể
hiện điểm nhất quán là loại bỏ chữ Hán. Còn trong việc lựa chọn loại chữ thay
thế, ý chí ban đầu là phổ biến và độc tôn chữ Pháp, tiếng Pháp, sau chuyển
sang phương án mềm dẻo: Kết hợp sử dụng tiếng Pháp với tiếng Việt, chữ
Pháp với chữ quốc ngữ. Nền học Pháp - Việt (sản phẩm của phương án mềm
dẻo nói trên) trở thành cơ sở của hệ thống nhà trường phổ thông ở xã hội
thuộc địa bấy giờ.
Đầu thế kỷ XX ở Việt Nam có hai phía đối lập nhau (chính quyền thực
dân và sĩ phu yêu nước chống Pháp), nhưng đồng thuận ở chủ trương phổ cập
chữ quốc ngữ vào dân chúng. Trong bài tham luận tại Hội nghị quốc tế Việt
học, tổ chức tại Hà Nội, từ 15 - 17/6/1998, bàn về quá trình hiện đại hóa văn
122
học Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX, GS Phong Lê nhận định: “Không đầy
hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn
chương - học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình
quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí,
xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bao giờ
có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền”
Giai đoạn này, chữ quốc ngữ trở thành đối tượng quan tâm hàng đầu
cho các cuộc vận động canh tân - yêu nước và được vận dụng trên các hoạt
động báo chí, xuất bản liên tục ngay từ thập niên đầu thế kỷ. Có thể thấy,
hàng nghìn năm nền văn hóa cổ truyền đã tạo nên một mô hình ổn định cho
sáng tác và tiếp nhận, trong đó cả chữ Hán và chữ Nôm đều đã có đời sống
riêng gần như không mấy thay đổi. Nhưng, rất nhanh, trong hai thập niên
đầu thế kỷ XX, nền văn chương, học thuật đã chuyển hướng sang mô hình
chữ quốc ngữ. Lớp người nhận trách nhiệm tiếp nhận và chuyển tải, phổ
biến chữ quốc ngữ vẫn là thế hệ các nhà nho, tiếp ngay sau thế hệ các chí sĩ
yêu nước, mà đứng đầu là cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và những
người sáng lập Đông Kinh Nghĩa thục. Đây là thế hệ chủ yếu vẫn thuộc lớp
người được đào tạo trong nền Hán học, nhưng đã sớm giác ngộ sự cần thiết
phải có vốn Tây học, để tiếp xúc với văn minh phương Tây; mong qua sự
tiếp xúc ấy có thể tìm ra lời giải và cách thức giải quyết các vấn đề đang
đặt ra của dân tộc, về mặt văn hóa, tinh thần. Họ có điều kiện tiếp nhận vốn
học thuật phương Tây theo hai con đường: Qua Tân Thư, hoặc trực tiếp từ
nền giáo dục Pháp - Việt. Lớp người này đã góp phần quan trọng tạo nên
diện mạo văn chương - học thuật, báo chí trong một cuộc chuyển giao từ
văn hóa cổ truyền sang nền học thuật mới bằng ngôn ngữ mới - tiếng Việt
trong những thập niên đầu thế kỷ.
Và, như đã nêu ở trên, quá trình chuyển giao từ Nho học sang Tây học
với mô hình chữ quốc ngữ được chuyên chở và phổ cập bởi báo chí. Đội ngũ
123
nhà văn, nhà báo bằng lao động sáng tạo của mình đã thực hiện trọng trách
này, trong đó, Phan Khôi là nhà báo tiêu biểu.
Trong bài “Người bảo vệ ngôn ngữ dân tộc”, Vu Gia viết: “Bây giờ đọc lại
những chồng báo cũ, tôi thấy Phan Khôi xứng đáng là chiến sĩ tiên phong, thậm
chí còn là một kiện tướng trong việc cổ động và góp phần phát triển tiếng nói và
chữ viết của dân tộc” [35, tr.490]; “Như con kiến cần mẫn nhặt từng hạt tấm, mẩu
bánh, Phan Khôi không ngớt tìm tòi, và vui mừng khi thấy ai đó có suy nghĩ gì
mới giúp cho tiếng nói và chữ viết của dân tộc được phát triển” [35, tr.491-492].
3.1. Những đóng góp của Phan Khôi với Việt ngữ học
Trong suốt hơn 40 năm gắn bó với nghiệp viết, Phan Khôi đã sử dụng
tiếng Việt để viết, chủ yếu là viết báo, dịch thuật. Và, qua thực tế sử dụng
tiếng Việt, ông nghiên cứu tiếng Việt. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, không
thể phủ nhận những đóng góp của ông bằng cả tâm huyết, trách nhiệm, trí tuệ
đối với quá trình bảo vệ và phát triển ngôn ngữ quốc gia tiếng Việt, với những
công trình nghiên cứu tiếng Việt tiêu biểu gồm:
- Bài “Một phương pháp dạy văn pháp tiếng ta”, đây là bài thuyết trình
tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Đông Lĩnh, 1948, là bài nghiên cứu khá sâu
về tiếng Việt. Trong đó, ông cho rằng, đối với tiếng Việt thì phương pháp dạy
ngữ pháp theo từ bản vị - lấy từ làm căn bản của ngữ pháp - như lâu nay là
không thích hợp; nên ông đề nghị thay bằng phương pháp dạy ngữ pháp theo
cú bản vị - lấy câu làm căn bản của ngữ pháp. Phần đồ giải chiếm dung lượng
lớn trong bài thuyết trình, ông cho biết nó có xuất xứ từ Châu Âu, ông nghiên
cứu và cụ thể hóa để ứng dụng theo các đặc điểm của tiếng Việt.
- Bài “Phân tích vần quốc ngữ”, ông viết tháng 11 năm 1948, in tipo
phát hành lần đầu năm 1949. Sau đó, ông bổ sung phần “Viết thêm về sau” để
đính chính vào ngày 05-2-1950 và phần “Cắt nghĩa thêm”, ngày 05-11-1954.
Khi nghiên cứu lần đầu (11-1948), ông cho rằng tiếng Việt có hai mươi
ba chữ cái, mười hai nguyên âm cùng vần xuôi, vần ngược và năm dấu huyền,
124
sắc, nặng, hỏi, ngã. Theo ông, nói như thế chưa chắc đã chính xác, nhưng cứ
tạm công nhận như vậy để tiến hành phân tích, làm rõ công dụng của mỗi loại
nói riêng và giá trị của tiếng Việt nói chung. Ông quan niệm, nghiên cứu tiếng
Việt phải trong trạng thái động, và coi đó là công việc phải làm vĩnh viễn, bởi
vì khi thời đại tiến hóa thì ngôn ngữ cũng sẽ phải tiến hóa. Mà ngôn ngữ tiến
hóa tức là dân tộc tiến hóa. Ông khảo sát và phân tích, bắt đầu từ chữ cái, rồi
lần lượt đến nguyên âm, nguyên âm ghép, nguyên âm phụ, phụ âm, âm giai,
âm hệ, thứ tự và sự phối hợp năm dấu với bốn thanh, vận và vận hệ, gồm: hệ
trắc, hệ trắc nhập, cùng với vận hệ hai, vận hệ ba.
Khi viết xong bài nghiên cứu, ông tiếp tục nghiền ngẫm và nhận ra rằng
có những chỗ viết sai hoặc chưa rõ. Vì vậy, ông thực hiện phần viết thêm về
sau hai lần nữa. Lần viết thêm thứ nhất vào ngày 05-02-1950. Ông muốn làm
rõ nội dung: Ở đầu bài nghiên cứu trước, ông cho rằng, gọi “vần quốc ngữ” là
không có nghĩa gì cả, vì đó chưa phải là vần; thì nay ông thừa nhận: Nói như
vậy là sai, bởi vì tiếng Việt lấy vần xuôi ngược làm chính, cho nên gọi “vần
quốc ngữ” là đúng lắm, sao lúc trước ông lại bảo là vô nghĩa được? Lần thứ hai,
vào ngày 15-11-1954, ông cắt nghĩa thêm đối với một số vấn đề ông viết chưa rõ
trong bài nghiên cứu đó. Như, đối với phụ âm, ông viện dẫn các căn cứ từ chữ
La tinh, chữ Hán, để nói rõ: Gọi là phụ âm, chỉ có nghĩa là phụ với nguyên âm.
Đối với thanh âm và từ ngữ, ông viện dẫn lịch sử Trung Hoa, tiếng Quảng Đông,
tiếng Bắc Kinh để khẳng định: Giữa tiếng ta và tiếng Tàu, cách kết cấu có khác
nhau, nhưng về thanh âm và từ ngữ thì rất có liên quan với nhau, cần phải được
nghiên cứu sâu thêm nữa. Một nội dung khác nữa là trong bài nghiên cứu ông
dùng “từ ngữ đôi”, thì nay ông thấy dùng như vậy chưa thỏa đáng.
- Bài “Một vài nhận xét tiếng ta theo chữ Nôm”, ông viết năm 1948.
Trong bài này, ông tập trung khảo sát sự không phân biệt trong khi nói của
người Việt hiện đại đối với âm d-gi, ch-tr, s-x, dấu hỏi - dấu ngã. Ông căn cứ
vào các sách viết bằng chữ Nôm còn lại để khẳng định rằng: Người Việt ở
125
miền Bắc sáu bảy trăm năm trước vốn có phân biệt những âm này. Ông còn
tìm ra sự gần gũi (theo cách gọi của ông là sự thông nhau) giữa d - đ, và ông
đặt câu hỏi: Nguyên cơ là đâu mà người đời nay toan đánh lộn sòng giữa d -
gi. Ông thấy có nhiều chữ Hán - Việt phát âm bằng d và gi, để sáng tỏ điều
này, ông khảo sát xem người Trung Hoa đọc những chữ ấy như thế nào, thì
thấy là người Quảng Đông có phân biệt. Cũng bằng cách nghiên cứu, khảo sát
thận trọng như vậy, ông nghiên cứu về chữ ch và tr, thì thấy chữ Hán - Việt,
người Việt hiện đại và người quảng Đông đều không phân biệt, và không theo
một quy luật nào; nhưng với những chữ thuần Nôm thì người Việt ở miền Bắc
thời xưa có phân biệt d - gi, ch - tr. Qua nghiên cứu, ông còn thấy được sự
tương quan giữa chữ tra với chữ gia; giận - trận; giọng - trọng; giời - lời; b - v.
Ông tự nhận thấy một vài nhận xét của ông ở đây là nông nổi, lẻ loi, vụn vặt,
một mình nó tất nhiên không có lợi gì ngoài việc tìm cho biết đúng cổ âm. Và
ông bày tỏ mong muốn: Nước Việt Nam rồi đây cũng có một ngành cổ âm
học của mình, như ngành cổ âm học của Trung Hoa do Cô Viêm Vũ dựng
nên. Bài này, ông cũng có mục viết thêm về sau: Viết thêm về sau về “tr” và
“l” vào năm 1951 và “Mấy chữ Nôm lạ mắt”, ngày 19-12-1953.
Ba bài nghiên cứu về tiếng Việt nói trên của ông được Hội Văn hóa
Việt Nam cho xuất bản thành một tập, in li-tô, phát hành đầu năm 1949.
- Bài “Tiếng đệm”, ông viết tại đầm Ao Châu, in litô phát hành ngày
28-02-1949. Viết thêm về sau để bổ di (23-6-1953).
- Bài “Tìm tòi trong tiếng Việt”, Hội Văn hóa xuất bản năm 1950.
- Tập "Việt ngữ nghiên cứu", Nhà Xuất bản Văn nghệ, 1955; Nhà Xuất
bản Đà Nẵng, 1997.
Trước đó, ông có một loạt bài báo đăng trên Phụ nữ Tân văn, Chung
lập, Thần chung đề cập đến chữ quốc ngữ, gồm:
- Bài “Chữ Quốc ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nữ”, Phụ nữ tân
văn, Sài gòn, số 28, ngày 7-11-1929.
126
- Bài “Viết chữ quốc ngữ phải viết đúng” (Bác lại bài ông Đặng Công Thắng
con ông Đặng Thúc Liêng), Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 31, ngày 5-12-1929.
- Bài “Hai dấu hỏi ngã cũng cần phải phân biệt” (trong mục: Nói
chuyện viết quốc ngữ), Thần chung, Sài Gòn, số 273 (17-12-1929); Trung lập
Sài Gòn, số 6038 (27-12-1929).
- Bài “Mẹo tiếng An Nam mới”, Thần chung, Sài Gòn, số 185 (31-8-1929).
- Bài “Còn viết tắt nữa thôi”, Thần chung, Sài Gòn, số 260 (01,02-12-1929).
- Bài “Trả lời cho một vị độc giả hỏi về chữ quốc ngữ”, Thần chung,
Sài Gòn, số 115 (7-6-1929).
- Bài “Lại trả lời cho một vị độc giả hỏi về chữ quốc ngữ”, Thần chung,
Sài gòn, số 118 (11-6-1929).
- Bài “Cách xưng hô của người mình”, Thần chung, Sài Gòn, số 208
(17-1-1929).
- Bài “Đính chánh lại những chữ mà người ta hay dùng sai nghĩa”, Phụ
nữ tân văn, Sài Gòn, số 43 (13-3-1930).
- Bài “Theo thuyết chánh danh đính chánh lại cách xưng tên của người
Việt Nam”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 58 (26-6-1930); số 59 (03-7-1930)
- Bài “Theo thuyết chánh danh, soát lại mấy cái danh từ người mình
thường dùng”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 69 (11-9-1930).
Từ những tác phẩm báo chí viết về tiếng Việt của Phan Khôi, có thể rút
ra những đóng góp của ông đối với Việt ngữ học trên các phương diện nghiên
cứu về ngữ pháp, từ vựng và ngữ âm của tiếng Việt như sau:
Trước hết, là một học giả thông thái, Phan Khôi đã sớm nhận ra những
vấn đề mang tính lý thuyết quan trọng của ngôn ngữ học, nhưng ông mới chỉ
có thể phát biểu được bằng quan sát và cảm nhận vì ở thời điểm đó các lý
luận về ngôn ngữ ở Việt Nam còn ít ỏi, đó là:
Ông nhận ra sự vận động của ngôn ngữ, nên cho rằng: Ngôn ngữ luôn
luôn biến hóa, đó là một quy luật nhất định. Sự biến đổi của ngôn ngữ là một
127
tất yếu khách quan, bởi, với tư cách là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của
con người, ngôn ngữ mang bản chất xã hội. Ông cho rằng có một thực tế là, ta
cứ tưởng đang nói về ngôn ngữ, nhưng thực ra ngôn ngữ đang nói về ta, mọi
biến động của xã hội đều được phản ánh trong ngôn ngữ. Bởi, ngôn ngữ là
tấm gương phản ánh xã hội, là chiếc hàn thử biểu của xã hội. Phan Khôi đã
tìm thấy sự vận động này trong tiếng Việt, chẳng hạn, đó là tương quan giữa b
và v. Ví dụ: bua quan - vua quan, be rượu - ve rượu, ăn bận - ăn vận,… hay
ruộm - nhuộm, lẽ - nhẽ, trời - giời - lời (đức chúa Lời), giăng - trăng - lăng,
giai - trai, giả - trả,… Ông đưa ra nhận xét rằng “Bấy nhiêu điều tìm thấy như
trên đây mà lúc đầu tôi cho là lạ lắm, đến bây giờ không còn gì lạ cả, nó chỉ là
sự biến chuyển của tiếng nói trải qua các thời đại” [60, tr.48].
Ông sớm nhận ra những vấn đề về ngôn ngữ cấu trúc hóa thế giới. Theo
ông, các từ chỉ hướng trong tiếng Việt như trên, dưới, trong, ngoài, lên,
xuống, ra, vào “ngó ra bình thường lắm, không có gì là khó khăn cả, nhưng
thực ra, nghĩa của nó cũng khá rắc rối lôi thôi, có khi làm cho chúng ta dùng
lầm mà không tự biết” [60, tr.109]. Để làm rõ hơn nhận định này, ông phân
tích, trong tiếng Việt có các cách nói như “lên Tây xuống Đông”, “vào Nam
ra Bắc”, “trên trời dưới đất” khác với cách nói trong tiếng Pháp, tiếng Hán, và
lý giải rằng “người Pháp, người Tàu xem trọng ở mục đích điểm là chỗ hoạt
động, còn ta xem trọng ở xuất phát điểm, từ chỗ lập trường của mình mà kể
đi, cho nên nói ra sân khấu, ra đời” [60, tr.111]. Nhưng đến cách nói “lên
thuyền, xuống thuyền” đều có nghĩa là “đi đến thuyền cả” (tức là cả lên và
xuống dùng cho cùng một tác động, ngoài ra, “lên thuyền” còn có nghĩa là
“lên bờ”); “xuống xe là ở xe xuống, xuống ngựa là ở ngựa xuống, mà xuống
thuyền không có nghĩa là ở thuyền xuống” thì tác giả đã thốt lên rằng “điều
này thật là điều rắc rối lôi thôi trong ngôn ngữ văn tự của ta” [60, tr.117]. Đây
chính là sự cảm nhận rất trúng của ông đối với một trong những vấn đề cụ thể
của ngôn ngữ tiếng Việt - lý thuyết Việt ngữ học gọi là ngôn ngữ học tri nhận.
128
Ngày nay ngôn ngữ học tri nhận đã giải quyết vấn đề này nhờ vào nguyên lý
“dĩ nhân vi trung” với hình thức phản ánh và cách nhìn không gian trong ngôn
ngữ của con người nói chung, của mỗi dân tộc nói riêng.
Ông nhận ra đặc điểm đơn âm của tiếng Việt. Đặc điểm này làm cho
tiếng Việt khác với các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp - một thứ tiếng quen
thuộc với người Việt bởi 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Thông qua khảo
sát về thời gian và không gian Việt trong ngữ pháp tiếng Việt và so sánh với
tiếng Pháp, ông nhận định “sở dĩ tiếng Việt không chia thì như kiểu tiếng
Pháp, vì nó là thứ tiếng đơn âm, chữ nào chết chữ ấy, không có biến hóa như
tiếng Pháp, cho nên phải tìm lối khác mà chia, không chia như tiếng Pháp được”
[60, tr.103]. Cần phải đặt sự phân tích này ở thời đại của Phan Khôi - thời kỳ mà
tiếng Pháp có tầm ảnh hưởng mạnh, thậm chí là lấn lướt tiếng Việt, thì mới thấy
được giá trị. Lúc này, cùng với quá trình xâm lược, thì đồng hóa dân tộc trong đó
có đồng hóa ngôn ngữ luôn là mục tiêu của kẻ xâm lăng (như phong kiến
phương Bắc với tiếng Hán, thực dân Pháp với tiếng Pháp). Nhưng, với Việt
Nam, tiếng Việt không hề bị mất, mà vẫn tồn tại và phát triển trở thành ngôn ngữ
quốc gia như ngày nay. Đó là công sức của cả dân tộc, trong đó có những người
như Phan Khôi. Những gì “lai căng” kể cả về ngôn ngữ cũng mất đi theo thời
gian. Trong cuốn Bách khoa ngôn ngữ học đã thể hiện rất rõ điều này. Trong đó
có ghi trên thế giới có hơn 100 tiếng bồi (pidgins), thì hai tiếng bồi của Việt Nam
(một là, tiếng bồi được xây dựng trên cơ sở tiếng Pháp được dùng rộng rãi ở Việt
Nam trong thời kỳ thuộc địa Pháp; hai là, tiếng bồi xây dựng trên cơ sở tiếng
Anh, được sử dụng ở Việt Nam giữa người dân bản địa với các nhân viên người
Mỹ), đều được khẳng định là hiện không còn tồn tại nữa.
Thứ hai, bằng cảm thụ tinh tế của người cầm bút sử dụng ngôn ngữ của
dân tộc mình, Phan Khôi đã đi vào xem xét một số đặc điểm về từ vựng, âm
của tiếng Việt mà cho đến nay vẫn là những nội dung thời sự trong Việt ngữ
học. Có thể kể đến một số nội dung chính như:
129
- Hiện tượng ghép và láy trong từ tiếng Việt. Trong tiếng Việt có hai
phương thức tạo từ cơ bản và phổ biến là ghép và láy. Hiểu một cách đơn
giản: Từ ghép được tạo ra nhờ phương thức ghép (theo một cơ chế ghép bằng
các quy tắc kết hợp giữa các thành tố theo trật tự vị trí, theo khả năng tổ hợp
giữa các thành tố,… để tạo nên nghĩa tổng thể hay nghĩa chuyên biệt); từ láy
được tạo ra nhờ phương thức láy (theo một cơ chế láy bằng cách “nhân đôi
tiếng gốc” theo các quy tắc riêng của sự kết hợp về mặt ngữ âm có giá trị biểu
trưng hóa về ngữ nghĩa). Một trong các thành tố đó đã được Phan Khôi nhận
ra là “tiếng đệm”, ông đã tập trung lý giải những “tiếng đệm” trong từ láy.
Thực ra, cho đến bây giờ, quan niệm “việc phân đôi tiếng gốc” đối với từ láy
vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ mà chính Phan Khôi đã nhận ra từ thời ấy, thuật
ngữ mà ông gọi là “tiếng đệm: có từ căn và không có từ căn” [60, tr.70].
Chẳng hạn, ông cho rằng những từ như dáng dấp, màu mè, lạnh lẽo, lạnh
lùng, mối manh, vắng vẻ, mát mẻ, vàng vọt,…thì rõ ràng là có “tiếng gốc”
hay “từ căn” (đó là: dáng, màu, lạnh, mối, vắng, mát, vàng,…). Nhưng còn
các trường hợp như bâng khuâng, long lanh, lẩn thẩn, lơ thơ,… thì không biết
đâu là “tiếng gốc” hay “từ căn”. Và như vậy, thì việc khái quát “nhân đôi
tiếng gốc” là chưa thỏa đáng. Đặc biệt, Phan Khôi đã chỉ ra nghĩa (giá trị ngữ
nghĩa) ở “phần vần” của từ láy như u ơ, êm ái, ấm áp, õng ẹo,… Ví dụ: U ơ có
nghĩa là đi theo nó là: hụ hượ, khù khờ, lu lơ, rù rờ, su sơ, tru trơ, vu vơ, vù
vờ; ấm áp có nghĩa, đi theo nó là: bậm bạp, chậm chạp, lấm láp, nhấm nháp,
ngấm ngáp, rậm rạp, thấm tháp; õng ẹo có nghĩa, đi theo nó là: khõng khẹo,
lỏng lẻo, mỏng mẻo, tòng tẹo, trong trẻo, tròng trẹo, thõng thẹo.
Qua khảo sát trên tư liệu thực tế, Phan Khôi tinh tế khi đưa ra nhận xét
rằng, những từ láy có chung âm mẫu ứ, ôi thì đều có chung một nghĩa là “ở
giữa tình trạng phản thường, làm cho khó chịu” (bực bội, nực nội,…); những
từ láy có chung âm mẫu ư, ơ thì đều có chung một nghĩa là “không thành ra
cái gì, không có đâu ra đó” (khù khờ, rù rờ…) [60, tr.72-73]. Đó chính là đặc
130
trưng của từ láy tiếng Việt nói riêng và ngữ âm tiếng Việt nói chung mà có
người cảm nhận trong âm thanh của tiếng Việt có “tiếng nhạc” (nhạc điệu).
Những cảm nhận về nghĩa hay sắc thái qua âm thanh như vậy chỉ có người
bản ngữ Việt mới có được. Chẳng hạn, người Việt nhận ra ngay sắc thái nghĩa
của vàng khè khác với vàng hoe, càng khác với vàng xọe; người Việt có thể
hình dung được và có thể vẽ được biểu đồ khi nghe các từ láy bập bềnh, gập
ghềnh, khấp khểnh,… (âp - ênh). Trong khi đó, người nước ngoài, dù giỏi
tiếng Việt đến đâu cũng cũng không có cảm nhận này.
- Từ mượn Hán và chữ Nôm với biến động của ngữ âm tiếng Việt. Nhờ
tinh thông Hán học, nhanh chóng nắm được chữ Nôm, ông đã nhìn nhận sự
biến động của tiếng Việt ở bình diện ngữ âm qua các từ mượn Hán và việc ghi
chữ Nôm với âm tiếng Việt hiện đại (thời kỳ đó). Chẳng hạn, các trường hợp
góa - quả (trong góa phụ/quả phụ), vũ - múa, chủ - chúa, khoa - khoe,…đều là
các biến thể của cùng một chữ Hán. Thực tế là, sự tiếp nhận các yếu tố Hán
trong tiếng Việt là một quá trình diễn ra rất phức tạp dưới tác động của hàng
loạt các nhân tố ngôn ngữ - xã hội. Vì thế, có thể nói, từ gốc Hán trong tiếng
Việt tồn tại và hoạt động thành tầng lớp nên một chữ Hán có thể trở thành vài
biến thể từ Việt như Phan Khôi đã chỉ ra những chuyện bình thường. Ví dụ:
chữ “mộ” thành ba từ tiếng Việt: mả (cổ Hán Việt), mộ (Hán Việt), mồ (Hán
Việt - Việt hóa). Cũng vậy, sự biến đổi về ngữ âm của các từ Hán cũng sẽ kéo
theo sự biến đổi về cách dùng, ví dụ từ chữ Hán có hai âm là chính và chánh.
Ông chỉ ra, bấy lâu nay, người ta đều cho rằng chánh là tiếng địa phương
Nam Bộ, nhưng thử hỏi: Nếu chỉ có cách nói chánh văn phòng, chánh án mà
không có cách nói chính văn phòng, chính án thì liệu có thể coi chánh chỉ là
tiếng địa phương được?
Có thể nói, những ví dụ cũng như những nhận xét của Phan Khôi về từ
mượn Hán và chữ Nôm với biến động của ngữ âm tiếng Việt ở thời điểm ông
nghiên cứu tuy mới dừng lại ở cảm nhận mà theo cách nói của tác giả “chỉ là
131
nông nổi, lẻ loi, vụn vặt” [60, tr.50], nhưng lại là gợi mở có giá trị, góp vào
nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt - một hướng nghiên
cứu cho đến nay còn rất khiêm tốn trong Việt ngữ học.
- Loại từ và khả năng kết hợp của loại từ với danh từ. Loại từ và khả
năng kết hợp của chúng với danh từ là một trong những nội dung học thuật
được trao đổi nhiều nhất khi bàn về ngữ pháp tiếng Việt nói chung và từ loại
nói riêng. Với cách gọi “tiền danh tự” (mà “không dùng cái danh tự “loại tự”)
Phan Khôi đã nhận ra rằng, bên cạnh những danh từ có khả năng kết hợp trực
tiếp với số từ (trước nó) thì có không ít danh từ muốn kết hợp với số từ trước
nó cần phải có “tiền danh tự” ở giữa. Đây chính là chức năng tiền danh tự “để
làm nổi bật lên cái tính chất cá biệt của danh tự nào có cái tính chất ấy” và
theo tác giả đó là “danh tự tập thể [60, tr.93]. Không dừng lại ở những nhận
xét chung, tác giả đã phân tích sự tinh tế của tiếng Việt trong cách sử dụng:
Có thể phân biệt sự khác nhau của cách dùng từ nhà trong “một nhà sum họp
trúc mai” (là danh tự tập thể) với “bên sông có một cái nhà” (là danh tự cá
thể) bằng vào sự kết hợp với loại từ trước nó. Cũng vậy, trong một số trường
hợp (chứ không phải là tất cả), khi nào “cần nói đến cái chất của sự vật chứ
không cần chỉ rõ cái cá thể của nó, thì không cần tiền danh tự đặt trên nó” (ví
dụ, ba bò chín trâu, chín đụn mười kho) [60, tr.94].
- Phan Khôi quan tâm đến những mảng “có vấn đề” của tiếng Việt từ
ngữ âm (vần chữ quốc ngữ; sự biến động của ngữ âm tiếng Việt qua cách ghi
chữ Nôm,…) đến ngữ pháp (tiếng đệm; tiền danh tự, mạo tự; vấn đề thời gian
và không gian trong tiếng Việt; các từ chỉ hướng như trên, dưới, trong, ngoài,
lên, xuống, ra, vào; đại danh từ,…) và cả đề xuất về dạy ngữ pháp tiếng Việt.
Những thành công ấy là nhờ vào tư chất thông minh của ông cũng như sự am
hiểu sâu sắc về tiếng Việt và vốn ngoại ngữ tiếng Hán cùng với tiếng Pháp mà
phải lao tâm khổ tứ như ông mới có được. Ông không dựa vào những cuốn
ngữ pháp tiếng Hán hoặc tiếng Pháp có sẵn để nhận xét về ngữ pháp tiếng
132
Việt (hay viết về ngữ pháp tiếng Việt), “năm 1948, ở trong đoàn văn hóa
kháng chiến Xuân Áng, Phú Thọ, tôi nhân đọc cuốn Tân quốc văn ngữ pháp
của Lê Cẩm Hy, toan dựa theo viết một cuốn ngữ pháp tiếng Việt mà cứ lúng
túng mãi, không xử lý được nhiều trường hợp rắc rối trong ngôn ngữ, nên
chưa viết được” [60, tr.5]. Nhưng ông cũng thấy rõ giá trị của việc hiểu sâu
ngữ pháp của tiếng Hán và tiếng Pháp đã giúp ông đối chiếu, so sánh, soi vào
tiếng Việt, để từ đó nhận ra những đặc thù của tiếng Việt. Tuy nhiên, có lẽ,
hơn hết, phải nhìn nhận ông là người Việt và sử dụng tiếng Việt để viết. Cần
phải hình dung bối cảnh chính trị - xã hội thời Phan Khôi cầm bút và bản thân
ông là người tinh thông hai thứ tiếng Hán và tiếng Pháp - hai thứ tiếng mà
ngày nay gọi là “ngoại ngữ” còn ở thời đó - Việt Nam là nước thuộc địa -
chúng là ngôn ngữ cao (high languages), trong khi tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ
thấp (low languages) thì mới cảm nhận hết được lòng yêu nước Việt và yêu
tiếng Việt của ông. Và, cũng vì thế, nhờ sự tinh thông tiếng Hán và tiếng Pháp
đã không làm ông không những không “quên” sử dụng tiếng Việt mà chúng
lại giúp ông hiểu sâu hơn tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt hay hơn, tốt hơn.
Ông trăn trở với từng câu chữ, bởi ông “ưa rành mạch, rõ ràng trong lối viết”
[35, tr.51] bởi ông “tích cực tự học, cái gì không hiểu thì hỏi, chưa biết thì
học, không chút ngại ngùng” [35, tr.57]. Nhờ đó - tiếng Việt với tư cách
là công cụ truyền tải - đã giúp ông có được những trang viết vừa sắc sảo
lại giàu hồn Việt.
3.2. Phát triển cách diễn đạt hiện đại vào ngôn ngữ báo chí
Cuối năm 1929, trên một số tờ báo ở Sài Gòn đã diễn ra hai cuộc thảo
luận đều liên quan đến việc dùng tiếng Việt. Đó là cuộc thảo luận về “vấn đề
viết chữ quốc ngữ cho đúng” được bắt đầu từ bài viết của Phan Khôi trên tuần
báo Phụ nữ tân văn ngày 07-11-1929, trở thành cuộc tranh luận trên các báo
Lục tỉnh tân văn, Thần chung, Trung lập, kéo dài đến cuối năm 1931 vẫn
chưa chấm dứt hẳn. Cuộc thảo luận thứ hai do báo Thần chung đề xướng và
133
hầu như thu gọn trên nhật báo này từ cuối tháng 12-1929 đến tháng 02-1930,
với đề tài sách giáo khoa tiếng Việt.
Từ việc nêu lên “Cảm tưởng trong khi chấm bài luận quốc ngữ” về kỳ
thi cấp học bổng của phụ nữ Việt Nam, Phan Khôi nói về sự cần thiết phải
viết chữ quốc ngữ cho đúng:
Hết thảy các quyển của người dự thi, về bài luận ấy, quyển nào được
nhiều điểm hơn hết, - trong bài kỷ thuật (tường thuật) số trước có
nói qua rồi, đây tôi chỉ nói về cái cảm tưởng riêng của tôi. Nhơn dịp
này tôi thấy ra người An Nam ta viết chữ quốc ngữ còn sai lầm lắm.
Hết thảy là 16 quyển mà chỉ được một vài quyển viết ít lỗi mà thôi,
còn bao nhiêu thì nhiều lỗi quá, giá bắt lỗi về nét chữ thì không hơi
nào mà bắt [75].
Bài báo đã chỉ rõ các lỗi khi dùng chữ quốc ngữ, như: Sự nhầm lẫn
trong sử dụng các chữ c với t; có g với không g; x với s; ch với tr. Trong đó,
Trung, Nam kỳ thì hay sai về vần ngược, c, t và có g không g ; Bắc Kỳ hay sai
về vần xuôi, x, s và ch, tr; những người ở Nghệ Tĩnh thì mắc lỗi sử dụng dấu
đó là dấu hỏi, ngã đều đánh thành dấu nặng.
Còn về lỗi chấm câu, ông cho rằng: Bài văn được xem là trôi chảy hoặc
đến mức “hay” đi nữa, mà chấm câu không đúng phép, thì cũng gần như bỏ
đi. Có nhiều quyển viết một thôi dài mà cứ phết (virgule) luôn cho đến cuối
đoạn, mới có một chấm (point), thành ra mạch lạc không được phân minh. Lại
còn có kẻ viết từ đầu đến cuối một mạch, không thèm qua hàng (aller à la
ligne) một lần nào, coi vào tựa như đám rau muống bò lan, chẳng biết đường
nào mà rờ hết.
Ông cũng không đơn thuần chỉ ra những lỗi sai, mà lồng vào đó sự
phân tích làm như thế nào là đúng. Ví dụ, về lỗi sai khi dùng dấu chấm hỏi
(?), nhiều người hay dùng sai, chỗ không đáng dùng mà dùng (như những câu
“Tôi hỏi nó đã ăn cơm chưa!”, hay là “Tôi tưởng sự ấy là không nên chăng”)
134
thì không phải đánh dấu chấm hỏi. Câu trên vì có chữ “hỏi” rồi, còn câu dưới,
chữ “chăng” đi theo chữ “tưởng” (cũng như trong tiếng Pháp, chữ “ne” đi
theo verbe craindre thì không cần đánh dấu chấm hỏi).
Vẫn theo cách đăng các bài báo rà soát, phân tích những hạn chế trong sử
dùng chữ quốc ngữ, đồng thời đưa ra những hiểu biết về các nguyên tắc sử dụng
chữ quốc ngữ, Phan Khôi đã một mặt nâng cao nhận thức cho công chúng về
chữ quốc ngữ, mặt khác cũng là một cách hiện đại hóa cách diễn đạt, văn phong
báo chí. Trên Phụ nữ tân văn số 58 (26-6-1930) và số 59 (03-7-1930), Phan
Khôi có bài “Theo thuyết chánh danh đính chánh lại cách xưng tên của người
Việt Nam”. Trong đó ông cho rằng bất kỳ một cái tên chung (nom commun) hay
là một cái tên riêng (nom propre), trong khi dùng nó cũng phải xem xét kỹ,
không được cẩu thả. Bài “Theo thuyết chánh danh, soát lại mấy cái danh từ người
mình thường dùng” trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 69 (11-9-1930) nói về sự
dùng tên chung: Một mặt cắt nghĩa về cái nguyên tắc của sự đặt danh từ là thế
nào; mặt khác chỉ rõ ra cái hại của sự dùng danh từ không chính đáng là thế nào.
Về nguyên tắc của sự đặt danh từ, bằng những kiến thức phong phú, lập
luận chặt chẽ cùng với những ví dụ trực quan, sinh động, ông phân tích, làm
rõ: Quan niệm về danh từ trong luận lý học và trong văn pháp, trong đó, cơ
bản nhất là khi gọi tên sự vật gì, phải hiểu được đặc tính của sự vật ấy, để
phân biệt với sự vật khác. Biết được nguyên tắc này rồi, cần phải biết trong
những danh từ chung mà ta thường dùng, được chia thành hai loại: danh từ
nguyên hữu, và thứ danh từ duyên khởi. Ông cho rằng, mục đích việc tìm ra
những chỗ sai khi công chúng sử dụng cốt là để ông làm rõ thêm nguyên tắc
và khẳng định: “Nếu nó là phải, thì ai cũng có thể cứ theo đó mà soát lại như
tôi. Có làm như vậy rồi dùng danh từ mới được đúng, và tiếng Việt Nam ta
sau nầy mới mong trở nên một thứ tiếng hoàn thiện” [78].
Về cái hại của sự dùng danh từ không đúng: Để công chúng hiểu sâu
sắc vấn đề này, Phan Khôi đã phân tích bằng sự kiện lịch sử của Trung Quốc,
135
hệ lụy từ việc dùng danh từ không đúng, dẫn tới cách hiểu sai hoặc ảnh hưởng
đến cả những việc quốc gia trọng đại. Cụ thể là, ông viết về thời kỳ nước Tàu
lập nên nước dân chủ, đặt tên là Trung Hoa dân quốc, song trong bản lâm thời
ước pháp (convention provisoire) thì lại có một điều nói rằng quốc thể là
“cộng hòa” (chữ dùng của Phan Khôi là “cọng hòa”). Ông phân tích, bấy giờ
người Tàu coi hai chữ “cọng hòa” cũng như hai chữ “dân chủ”, cho nên trong
bản ước pháp mới nói như vậy. Tuy nhiên, trên thực tế, hai từ này tồn tại độc
lập, không phải là một, mà chỉ là do cách hiểu, do thói quen của mọi người.
Đây chính là kẽ hở gây nên sự rắc rối, thậm chí ảnh hưởng đến quá trình xưng
vương hoàng đế của Viên Cao Khải.
Để đi đến kết luận, Phan Khôi tiếp tục phân tích những dẫn chứng
những lỗi trong tiếng Việt “dùng danh từ không chánh đáng, có hại là thế đó.
Tuy vậy, chữ “cọng hòa” trong ước pháp Trung Hoa làm cớ lót miệng cho
cuộc vận động đế chế của Viên Thế Khải đó, cái hại còn là dễ thấy; lại có cái
hại khó thấy nữa kia, vì nó không xảy ra việc gì trực tiếp, mà cứ ngấm ngầm
làm hại hoài” [78]. Đó là, Phan Khôi muốn đề cập đến ví dụ người Nam kỳ
dùng danh từ “tân triều” (chữ dùng của Phan Khôi là "tân trào") để chỉ cơ
quan đại biểu cho nước Pháp. Theo ông, cách sử dụng danh từ này là không
chính xác. Phan Khôi chỉ rõ: “Trào” nghĩa là “trào đình”, duy nước nào có
vua thì mới xưng là “trào” được. Nước Pháp là nước dân chủ, mà xưng “trào”,
thế là danh bất chính. Ông cho rằng, dù nước Pháp là nước quân chủ, có vua
đi nữa, thì triều đình của hoàng đế nước Pháp cũng chỉ ở Paris mà thôi; còn
tại thuộc địa, chính phủ Pháp phái một vài ông đại thần qua cai trị, có dời cả
triều đình qua đây đâu mà ta gọi là “trào” được? Và, hệ lụy của cách dùng từ
không đúng là khi nước Pháp tới chinh phục xứ này, nhân dân không phục
tùng triều Nguyễn nữa mà theo quyền nước Pháp, thì họ tưởng rằng cũng như
trước đó Nam Kỳ từng ở trong tay triều Nguyễn, rồi lại thuộc về triều Tây
Sơn thế thôi, hay cũng như triều Nguyễn đã thay cho triều Lê, triều Lê thay
136
cho triều Trần. Tóm lại là, cứ một cơ quan chính trị mới nổi lên, thay cho cái
cũ, thì đều gọi là “tân trào”. Và, cũng từ cách hiểu này, “thấm vào trong óc
mọi người làm cho cái quan niệm của mọi người cũng không chơn xác. Sự hại
bởi đó mà ra, mà cái hại ngầm ngấm khó thấy” [78]. Người dân xác định rằng
nước Pháp là một “trào đình”, thì cũng nhận luôn rằng chính thể nước Pháp
chẳng khác nào cái chính thể chuyên chế của triều đình An Nam ngày xưa.
Do đó người ta cũng coi các quan lại là cha mẹ dân, mà chẳng hề biết tới cái
nghĩa “dân chi công bộc” theo như ở dưới chế độ dân chủ; người ta cũng coi
sự đóng thuế là cái phận làm tôi con đối với trào đình phải vậy, chứ không
nghĩ đó là nghĩa vụ của công dân. Bằng những lập luận chặt chẽ về những tác
hại khôn lường từ cách dùng danh từ không đúng, Phan Khôi kết luận" “Rốt
bài, tôi có lời xin đồng bào ta rày về sau nên thận trọng trong sự dùng danh từ,
chẳng những vì muốn làm cho hoàn thiện tiếng Việt Nam, mà cũng vì sự lợi
ích trên đường chánh trị nữa” [78].
Với Phan Khôi, báo chí là phương tiện quan trọng để ông bày tỏ, thể
hiện quan điểm, tư tưởng của mình. Ông hiểu sâu sắc vai trò xã hội quan
trọng cũng như hiệu quả thực tế của báo chí đối với xã hội, cùng với việc thúc
đẩy quá trình sử dụng lối diễn đạt hiện đại trên báo, ông khẳng định vai trò
quan trọng của báo chí trong việc nâng cao nhận thức của công chúng về chữ
quốc ngữ. Bài “Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nữ" trên Phụ nữ
tân văn, Sài Gòn, số 28 (07-11-1929) thể hiện rất rõ quan điểm này của ông.
Trong bài này, ông bắt đầu bằng việc nói về khởi nguồn của chữ quốc ngữ, rồi
quá trình phát triển ở 3 miền Bắc - Trung - Nam (lúc đầu là rất tốt, nhất là ở
Nam Kỳ, nơi có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Ký và ông
Paulus Của, tức là Huỳnh Tịnh Trai). Ông khẳng định: “Không những hai ông
đại sư ấy, lúc bấy giờ người Nam Kỳ hễ đã viết quốc ngữ thì ai cũng phải viết
đúng. Vì hồi đó người ta học quốc ngữ một cách nghiêm. Bây giờ thử tìm một
vài cuốn sách xuất bản thời ấy ra mà coi, cuốn nào in cũng hẳn hoi, cho đến
137
dấu ngã dấu hỏi cũng phân minh” [77]. Sau đó, ông nói về các lỗi sai trong sử
dụng chữ quốc ngữ của người dân Nam Kỳ thời gian sau đó “chữ quốc ngữ
Nam Kỳ ngày nay, thôi, không còn chỗ nói nữa! Ai muốn viết thế nào đó thì
viết, tuồng như họ muốn nổi cách mạng nghịch cùng Huỳnh Tịnh Trai và
Trương Vĩnh Ký! Bỏ hết thảy, đừng nói; chỉ nói một chữ dịch (traduire) mà
viết ra chữ vịt trong một quyển luật đã in và bán chạy như ngựa rồi kia, cũng
đủ cho các ông đương khóc mà phải bật cười” [77].
Rồi ông thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của kết cục này “chữ quốc ngữ
ở Nam Kỳ mà viết sai bậy bạ hết là bắt đầu từ các ông làm báo bậc tiền bối.
Phần nhiều các ông làm báo thuở xưa là nhà nho sót lại, chắc các ổng không
học quốc ngữ đúng đắn, chỉ học vần sơ rồi ráp lại mà viết, thành ra viết sai mà
không hay. Người mình lại có cái tánh hay “sợ chữ in”, hễ thấy tờ báo cuốn
sách, thì cho là mực thước rồi cứ theo đó mà bắt chước, bắt chước thét lại
càng sai nhiều hơn các ổng nữa”. Cùng với việc khẳng định lại: Cách viết
quốc ngữ “loạn xị” ấy di hại cho đến ngày nay. Ngày nay ai cũng cho sự viết
bậy viết bạ là thường, không cần phải viết cho đúng, không cần theo tự vị của
Huỳnh Tịnh Trai và Trương Vĩnh Ký, là lỗi ở hết thảy các ông làm báo tiền
bối; Phan Khôi nêu lên trách nhiệm của báo chí trong việc khắc phục lỗi sử
dụng ngôn ngữ này: “Tôi không có quyền sửa đổi trong một tờ báo cho trở
nên đúng. Song tôi mong rằng có một tờ báo nào ở Sài Gòn đây sẽ làm tiên
phong mà sửa đổi cho đúng đi. Tôi thiệt mong ở Phụ nữ tân văn” [77].
Quan điểm này của ông tiếp tục được nhấn mạnh trong bài “Viết chữ
quốc ngữ phải viết đúng” trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 31 (05-12-1929)
và bài “Tại làm sao chúng ta không nên bỏ qua chữ quốc ngữ và phải viết cho
đúng?” đăng trên Thần chung, Sài Gòn, số 341 (20-3-1930) và Trung lập, Sài
Gòn, số 6105 (22-3-1930).
Bài “Tại làm sao chúng ta không nên bỏ qua chữ quốc ngữ và phải viết
cho đúng?” đăng trên Thần chung, Sài Gòn, số 341 (20-3-1930) và Trung lập,
138
Sài Gòn, số 6105 (22-3-1930), Phan Khôi trao đổi lại với ông Hồ Quý Kiên,
do trước đó, trên Trung lập, ông Hồ Quý Kiên đưa ra quan điểm “nên dẹp chữ
quốc ngữ lại, ngõ lấy chữ Pháp làm quốc văn Việt Nam”, được hiểu là, người
Việt Nam nên chuyên học chữ Pháp, còn chữ quốc ngữ viết ra miễn sao có thể
đọc được thôi, không cần phải thật đúng.
Phan Khôi cho rằng, quan điểm của của ông Hồ Quý Kiên dựa vào các
luận điểm: Tiếng Pháp là thứ tiếng khoa học, ta muốn theo văn minh Âu Mỹ
thì phải dùng nó; mặt khác, ta ở dưới quyền cai trị của người Pháp, phải học
theo tiếng Pháp và tiếng An Nam khuyết điểm nhiều quá, không thể nào bồi
bổ được.
Theo Phan Khôi, việc ông Hồ Quý Kiên khẳng định tiếng Pháp là thứ
tiếng khoa học, ta nên dùng thứ tiếng đó mà trực tiếp với văn minh Âu Mỹ
hơn là dùng tiếng quốc ngữ như đi con đường quanh, điều đó đúng, nhưng
nếu nghĩ như vậy thì mới thấy một mặt của vấn đề. Nói rằng trong một nước
được văn minh tiến bộ, nghĩa là hết thảy cả người trong nước đều văn minh
tiến bộ chứ không phải một số ít người. Văn minh đời nay là văn minh cho cả
quần chúng chứ không phải văn minh cho nội giới quý tộc. Để có nền văn
minh thì hết thảy mọi người trong nước đều phải biết chữ, đều có tri thức.
Vậy thì đặt vấn đề hết thảy người An Nam có thể học chữ Pháp cho biết chữ
là không khả thi? Theo Phan Khôi, phải dùng chữ quốc ngữ để làm lợi khí
cho sự giáo dục xã hội, để rải khắp hạt giống văn minh cho quần chúng. Bởi
vì có thể học quốc ngữ mà hết thảy người An Nam biết chữ được, chứ không
thể học tiếng Pháp mà hết thảy người An Nam biết chữ được. Đó là lý do
không bỏ chữ quốc ngữ. Vậy, tại sao phải viết quốc ngữ cho đúng? Phan Khôi
nhận định: Bản thân chữ quốc ngữ nước ta thời điểm đó chưa gọi là một thứ
chữ thành văn được.Trong khi đó, người mình viết quốc ngữ hiện thời thì lại
viết sai, tùy tiện, không thành ra chữ nữa. Một thứ chữ đã lộn xộn, lại còn
thêm viết sai đi thì làm sao có thể còn đem ra học được? Bởi vậy, cần phải
139
sửa sang bồi bổ nó cho một ngày kia nó thành văn, hầu làm cái lợi khí tốt cho
chúng ta.
Cuối cùng, Phan Khôi mượn chính ý của ông Hồ Quý Kiên để kết
luận: “Mình đã trầm trồ khen tiếng Pháp là thứ tiếng khoa học thì mình cũng
phải chịu khó làm cho tiếng mình trở nên khoa học. Muốn như vậy, trước hết
là phải viết cho đúng, viết đúng tự vị” [109].
Từ bề dày vốn kiến thức về văn hóa, xã hội của các nước phát triển,
Phan Khôi ý thức sâu sắc rằng, đất nước muốn có nền văn minh, thì người
dân phải biết chữ, có tri thức. Đối với người An Nam, đó là chữ quốc ngữ -
tiếng Việt! Trong hoạt động nghề nghiệp của mình, ông đã dành một phần
quan trọng vào việc nâng cao nhận thức của công chúng xã hội đối với việc sử
dụng đúng chữ quốc ngữ; đúc kết những quy tắc, nguyên tắc trong sử dụng
tiếng Việt: Từ tìm ra nguyên tắc về sự vận động của ngôn ngữ, sự phát triển
của ngôn ngữ cùng với sự phát triển của xã hội, đến những đặc điểm cơ bản
của các cấu trúc từ, ngữ, câu trong tiếng Việt (từ láy, từ ghép, từ mượn Hán,
Nôm với biến đổi của ngữ âm tiếng Việt…). Đây là những kiến thức cơ bản,
khi chữ quốc ngữ ở chặng đường đầu ra đời và phát triển, đặt nền móng cho
những nghiên cứu Việt ngữ sau này.
Có thể thấy, nửa đầu thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của chữ quốc
ngữ đã đem lại cho một diện mạo mới cho báo chí và trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu trong đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Việc sử dụng chữ
quốc ngữ trong hoạt động báo chí góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa
lối diễn đạt, văn phong báo chí trong buổi giao thời. Với Phan Khôi, không
chỉ viết báo, ông còn làm thơ, dịch thuật khảo cứu, phê bình, sáng tác truyện
ngắn... Lĩnh vực nào ông cũng thể hiện sự tài hoa, uyên bác của một “ngự sử
văn đàn”, Vũ Ngọc Phan cho nhận định:
Ông là một nhà Hán học có nhiều sở đắc về Tây học, nên từ cái đầu
đề ông chọn cho đến cách lập luận của ông trong các bài đều mới
140
mẻ và khúc triết... Văn ông giản dị mà sáng sủa, ý ông mới mẻ mà
thâm trầm... Ông thiệt là một người có tài. Cái công phu lập ngôn
của ông đối với quốc dân cũng là cần thiết lắm vậy [35, tr.87].
Trên nhiều số của Phụ nữ tân văn (1930), Phan Khôi đã tranh luận với
học giả Trần Trọng Kim nhân “Đọc cuốn “Nho giáo” của ông Trần Trọng
Kim”. Vận dụng những kiến thức uyên thâm về Hán học và Tây học khi bàn
về Tống Nho, về Khổng Tử, về các thuật ngữ được dùng trong triết học..."
Tiên sanh đã nói rằng chữ lý trí có trong sách nho, vậy thì làm sao mà biết nó
tức là cái trí xuyên tạc của người như lời của Mạnh Tử được ư?... Huống chi
chữ lý trí, tiên sanh đã nhìn cho là bởi chữ raison dịch ra, mà raison, theo tự vị
Pháp giả là: “Faculté au moyen de laquelle l'home peut connaỉte et juger”.
Vậy thì làm sao gọi được là cái trí xuyên tạc? Xuyên tạc hơi giống tiếng ta là
xiên xỏ; chữ raison lại còn sanh ra trạng từ (adjectif) là raisonnable; vậy khi
nói I'home est un être raisonnable, và theo như tiên sanh, thì nên cắt nghĩa
rằng người ta là giống hay xiên xỏ hay sao?... Về điều quân quyền và quân
chủ thì tôi tưởng trong lời phê bình của tôi đã rõ ràng lắm. Trần tiên sanh bác
lại, dầu tôi không phục cũng phải làm thinh, vì chẳng biết còn lời nào nói cho
rõ hơn nữa! Tôi nhớ hội Khương Hữu Vi chủ trương cái thuyết lấy Khổng
giáo làm quốc giáo cho nước Tàu, cũng nói từa tựa như Trần tiên sanh đây,
cũng có nói quân quyền tức là chủ quyền; song cái việc sờ sờ trước con mắt
mà cắt nghĩa ra như vậy, thật tôi đến chết cũng không hiểu!” [35, tr.168]. Và,
kết quả của cuộc tranh luận nhiều kỳ trên báo, học giả Trần Trọng Kim buộc
phải thừa nhận: “Tôi xét lại, quả thật có mấy chỗ tôi viết vội vàng không xem
lại cho cẩn thận cho nên thành ra không đúng. Vậy tôi xin chịu lỗi... để khi
nào tái bản quyển Nho giáo thứ nhứt, tôi xin sửa lại” [35, tr.172].
Cũng trên Phụ nữ tân văn số 270, ngày 13-12-1934, với bài viết
“Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ”, Phan Khôi đã phản bác
ý kiến của cụ Phan Bội Châu: “Mới rồi trên báo Đuốc Nhà Nam có một bài
141
của cụ Phan Sào Nam, nói thầy Mạnh Tử đã xướng ra chủ nghĩa bình dân và
cái thuyết tam quyền phân lập... thật là viễn vông quá, không chắc vào đâu
cả... Cuộc cách mạng trong ý Mạnh Tử không giống cuộc cách mạng đã xảy
ra như ở nước Pháp hay nước Nga. Cuộc cách mạng của Mạnh Tử không do
toàn dân mà phải có một người đứng đầu, tức là như vua Thang, vua Võ. Rốt
cuộc lại, Thang, Võ lại làm vua nữa. Thế chẳng qua là vua cách cái mạng của
vua chớ không phải dân cách cái mạng của vua. Chỗ đó thấy rõ là tư tưởng
Mạnh Tử khác với tư tưởng bọn J.J.Rousseau rất xa. Tôi nhận cho là hai thứ
tư tưởng chớ không phải cùng một thứ”.
Có thể thấy rất nhiều chất hiện đại trong cách diễn đạt của Phan Khôi
như vậy trong các bài báo của ông. Ở đó, là lối hành văn rõ ràng, mạch lạc,
lập luận đanh thép, khúc chiết, xác thực... không phải là lối viết quen thuộc
của những nhà nho vốn ưa điêu trùng tiểu kỹ, mà là lối viết của một người
thấm nhuần văn phạm, cốt cách phương Tây, thích lập luận, thuyết phục. Việc
học tập, tiếp thu văn học phương Tây và vận dụng trong sử dụng lối diễn đạt
hiện đại bằng chữ quốc ngữ, Phan Khôi đã viết nên những bài báo lay động
người đọc, đồng thời đem lại cho công chúng thói quen thưởng thức báo chí
quốc ngữ. Đây là một trong những đóng góp nổi trội của Phan Khôi trong
việc hiện đại hóa báo chí tiếng Việt, góp phần đưa báo chí Việt Nam hội nhập
một cách tự nhiên vào dòng chảy chung của nền báo chí thế giới.
3.3. Phổ biến và phát triển tiếng Việt
Trong thời kỳ bắt đầu phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam, giới sĩ phu
người Việt, do từng gắn bó với Nho giáo và Hán học, đã phải trải qua nhiều
khó khăn trong thay đổi nhận thức để có thể thừa nhận hệ chữ latin phiên âm
tiếng Việt là chữ quốc ngữ của cộng đồng mình. Họ đã phải vượt lên hàng
loạt những băn khoăn được đặt ra, như, mối bận tâm vì nguồn gốc Âu Tây của
dạng chữ viết mới này của tiếng Việt, hay là sự gần gũi của chữ viết này với
kẻ thực dân đang cai trị đất mình… Những năm 20 của thế kỷ XX, nhà văn
142
Đông Hồ, thuộc lớp trí thức trẻ hơn, đã khẳng định: Cái mà giờ đây ghi bằng
thứ chữ viết mới ấy chính là tiếng mẹ đẻ của người Việt, do vậy việc học thứ
chữ viết mới này chính là học tiếng mẹ đẻ; dùng chữ quốc ngữ và tiếng Việt
làm công cụ chính thức trong giáo dục thì mới giúp phát triển được tư duy của
các thế hệ người Việt. Đông Hồ cho rằng: Phàm một dân tộc nào đều có riêng
một tiếng nói, đã có riêng một tiếng nói tất có riêng một thứ chữ. Chữ của
nước nào là quốc ngữ của nước ấy. Người trong một nước mà không thông
chữ của một nước, là không đủ tư cách làm người dân trong nước ấy.
Khi Đông Hồ viết những bài báo này thì nền báo chí tiếng Việt (bằng
chữ quốc ngữ) ở Nam Kỳ đã có độ dài năm, sáu chục năm tồn tại và phát
triển; tại miền Nam và miền Bắc, mỗi nơi đã có vài chục tờ nhật báo chữ quốc
ngữ (tiếng Việt), số lượng phát hành của những tờ được đọc nhiềt nhất lên
đến gần chục ngàn bản mỗi số…; điều đó khẳng định, trong xã hội đã có một
cộng đồng sử dụng chữ quốc ngữ khá đông đảo. Tuy nhiên, lúc này, ở hệ
thống nhà trường phổ thông đương thời, vị trí chữ quốc ngữ còn rất hạn hẹp.
Sau nhiều vận động, đề đạt của dư luận báo chí, từ 18-9-1924 Nha Học chính
Đông Pháp mới sửa đổi học quy, cho lấy chữ quốc ngữ dạy ở ba lớp dưới của
bậc tiểu học; còn các lớp và cấp học khác vẫn dùng tiếng Pháp như cũ. Giới
nhân sĩ giàu tinh thần dân tộc không đồng tình với mức độ của những sửa đổi
ấy, họ tiếp tục vận động đưa chữ quốc ngữ vào nhà trường ở các lớp và cấp
học cao hơn. Đối tượng vận động của họ không chỉ là các quan chức của
chính quyền thực dân và các quan chức người Việt trong bộ máy cai trị; họ
còn phải đương đầu với một bộ phận không ít phụ huynh học sinh vốn có
những tính toán riêng về lợi ích và tương lai con cái. Những người này tính
rằng cho con cái học tiếng Pháp chừng trên chục năm rồi đi làm thông ngôn
ký lục… kiếm mỗi tháng ngót trăm bạc lương - là thiết thực hơn so với việc
đeo đuổi chữ “mẹ đẻ” vốn không hứa hẹn lợi ích gì đáng kể. Theo chiều
hướng tính toán đó, việc chữ quốc ngữ được đưa vào dạy ở một số lớp ở cấp
143
tiểu học phổ thông chẳng những không khiến họ vui, ngược lại, khiến họ lo
lắng. Một thái độ và tâm trạng phản đối việc đưa chữ quốc ngữ vào nhà
trường đã hình thành ngay trong công chúng người Việt với những lý do là:
tiếng Việt nghèo vốn từ, phạm vi sử dụng hẹp, khó diễn tả các kiến thức cơ
xảo kỹ nghệ mới từ phương Tây đưa tới…, tóm lại học tiếng Việt không lợi
bằng học tiếng Pháp, đưa tiếng Việt vào nhà trường càng với liều lượng nhiều
bao nhiêu lại càng làm mất thời giờ học tiếng Pháp của học sinh bấy nhiêu…
Chính Đông Hồ cũng chưa thấy rõ sức sống mạnh mẽ thực sự của tiếng
Việt và chữ quốc ngữ ngay trong đời sống dân sự đương thời; và trong việc
tham gia “tài bồi quốc văn” bằng mở trường dạy chữ quốc ngữ, Đông Hồ
cũng đã chưa quan niệm và xác định đúng phương hướng, nên mấy lần phải
đóng cửa trường. Giữa năm 1931, nhân đọc thấy một bài trên tạp chí Nam
phong nói việc Trí đức học xá (ở Hà Tiên, do Đông Hồ chủ trương) đóng cửa
lần thứ ba, tác giả bài báo ấy lấy đó làm buồn vì “quốc ngữ không phải món
đắc dụng”, Phan Khôi, dưới bút danh Thông Reo trong mục Những điều nghe
thấy trên nhật báo Trung lập, nêu một nhận định khác:
Thình lình mở tạp chí Nam phong số 162 ra coi, mới hay rằng Trí
đức học xá ở Hà Tiên đóng cửa. Trí đức học xá là trường chuyên dạy
quốc văn. Theo lời rao đó thì Trí đức học xá lập ra năm Nhâm Dần đến
nay năm Tân Tỵ, kể đã 5 năm. Trong 5 năm ấy có đóng cửa hai lần, rồi
lại mở. Nay đóng cửa lần nầy là lần thứ ba. Người báo tin đó cho rằng
tại Học phong tiêu điều, sĩ khí vắng vẻ. Vì thấy quốc ngữ không phải
là món đắc dụng ở đời mưu lợi, cho nên thôi học [131].
Phan Khôi cho rằng, đó không phải lý do chính đáng. Thậm chí, theo
ông, nếu nói người học thấy quốc ngữ “không phải món đắc dụng ở đời mưu
lợi nên thôi học” là sự đổ lỗi. Ông phân tích: Ngày nay quốc văn tuy chưa
thông hành cho lắm chớ cũng đã đứng lên cái địa vị khá khá rồi. Nói một sự
mưu lợi mà nghe, đã thấy biết bao nhiêu kẻ sanh nhai nhờ quốc ngữ? Ấy là
144
như bọn chúng tôi viết báo đây, cùng những người viết tuồng cải lương, viết
và dịch tiểu thuyết, đều là hạng sống về quốc ngữ cả. Sao lại gọi là không đắc
dụng? Chỉ sợ có các ông chủ trương Trí đức học xá dạy bấy lâu nay đó, là dạy
cái gì, chớ không phải dạy văn chương Quốc ngữ đó thôi. Nếu quả vậy thì chớ
trách học trò không học!
Rồi, ông tiếp tục lấy ví dụ ở bài báo tin ở Nam phong số 162 - đề là
Bông hoa cuối mùa - có câu văn như sau: “Lại nhân buổi nhàn tảo tiểu song,
trong cái cảnh điểm điểm dương hoa mà cảm về mối bất tri xuân khứ”. Ông
khẳng định: “Đọc câu văn đó, tôi không còn nghi ngờ chi nữa, tôi nói: Nhằm
(nhầm) rồi, nếu các ổng đổ cả đống Hán văn vào trong quốc ngữ như vầy thì
dầu cho tôi làm anh học sinh trong Trí đức học xá là tôi cũng phải ôm sách ra
về. Đi dọc đường, tôi nói lẩm bẩm: Dạy cái gì đâu, chớ nào có phải là văn
quốc ngữ?” [84].
Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi trong vai trò nhà ngôn ngữ thực hành
đã đề xuất “viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng” [78]. Ông
cho rằng: “Những người phản đối sự cổ động của chúng tôi, trong tay họ chỉ
cầm có một cái lẽ rất mong manh và yếu đuối, ấy là họ nói: Viết thế nào hiểu
được thì thôi. Song họ quên lửng đi rằng viết mà không đúng, thì làm sao cho
người ta hiểu được? Văn viết ra là cốt để phô bày ý tứ mình cho kẻ khác hiểu,
mà nếu không hiểu thì viết ra làm chi? Phô bày cái ý tứ tầm thường mà nếu
còn không hiểu thay thì mong gì đến sự giải cho người ta nghe những lẽ cao
thâm huyền diệu?
Ví dụ: Hai chữ “triết lý”, nghĩa là cái lý thuộc về triết học, mà nếu theo
như nhiều người Bắc Kỳ hay lẫn lộn ch với tr, viết thành ra “chiết lý”, thì
nghĩa nó là “bẻ lẽ”, dùng lý lẽ mà bẻ bác nhau; vậy có phải bởi mình viết
không đúng mà làm cho người ta hiểu nghĩa nầy ra nghĩa khác không? Hết
thảy trên trái đất nầy, bất kỳ thứ chữ nào, nếu dùng nó để phô bày ý tứ mà lại
có thể làm cho lộn nghĩa nầy ra nghĩa khác, thì thứ chữ ấy không thành lập
145
được; nó sẽ không dùng được để viết một cái khế vay, chớ đừng nói dùng để
mà viết sách triết học” [78].
Cũng trong bài báo này, ông còn đề cập đến cách dùng danh từ sao cho
đúng “sự dùng danh từ cho đúng, lại còn quan hệ lắm nữa, quan hệ cũng
chẳng kém gì sự viết đúng nói trên kia.
Theo luận lý học (logique), khi người ta suy nghĩ một sự vật gì trong
lòng hoặc trong óc mình rồi phán đoán nó là gì, thì cái đó gọi là “khái niệm”;
đoạn dùng ngôn ngữ mà phát biểu cái khái niệm ấy ra, thì gọi là “từ” hay là
“danh từ”. Danh từ và khái niệm chỉ là một vật, có điều khi nó còn ở trong
lòng thì kêu bằng khái niệm, đến khi phát ra bằng tiếng nói thì gọi là danh từ.
Hễ danh từ mà dùng sai, tức là mình nghĩ sai, tức là cái khái niệm của mình
không đúng. Nghĩ không đúng và nói ra không đúng, là sự nguy hiểm lắm,
theo như lời Khổng Tử mà tôi đã dẫn ra trong một bài trước kia: “Danh chẳng
chánh thì nói ra chẳng thuận; nói ra chẳng thuận thì việc làm chẳng nên; việc
làm chẳng nên thì lễ nhạc chẳng dấy; lễ nhạc chẳng dấy thì hình phạt chẳng
nhằm; hình phạt chẳng nhằm thì dân không chỗ đặt tay chơn.”
Trong bài phê bình sách Nho giáo, Phan Khôi có chỉ ra một số danh từ
mà tác giả dùng sai: “Như dùng chữ “lương tri” mà cho rằng tức là “lý trí”,
dùng chữ “quân quyền” thay vì chữ “chủ quyền”. Do sự dùng sai ấy mà thành
ra kết luận thiên lệch đi, như tôi đã chỉ ra đó. Độc giả coi đó thì đủ thấy sự
dùng danh từ nó quan hệ là dường nào” [78]; “đính chánh lại cách xưng tên của
người Việt Nam"(Phụ nữ tân văn, ngày 26-6-1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng
thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (“Tiếng hay văn
Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi”, Phụ nữ tân văn, ngày 11-6-1931), phản
đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ Nho (Phụ nữ tân văn, ngày 24-3-1932);
“Vì sự phát âm cho trúng” (Đông tây, Hà Nội, số 132 (16-12-1931), bàn sự
thống nhất, cụ thể là thống nhất về phát âm chữ quốc ngữ giữa các miền. Ông
chỉ ra, người Bắc đọc văn của người Nam, thấy t với c lẫn nhau, người Nam
đọc văn của người Bắc, thấy tr với ch lẫn nhau, đã sinh chán mà vứt cuốn
146
sách hoặc tờ báo đi rồi. “Thế thì có tư tưởng hay, không bón tưới được cho
nhau; có tri thức mới, không trao đổi được cho nhau; chữ quốc ngữ, nói là cái
lợi khí tuyên truyền, mà té ra không còn phải là lợi khí nữa. Nếu cứ mãi thế,
tôi tưởng cũng là một điều mà chúng ta đáng lấy làm thất vọng. Bởi vậy, sự
phát âm về quốc ngữ cần phải thống nhất là thế”. Ông cho rằng, trong khi đọc
và viết cũng phải cần phát âm cho trúng. Mỗi người tự sửa lấy cho mình và
cũng sửa cho người khác nữa, như thế dần dần chúng ta sẽ đạt đến sự thống
nhất về phát âm. Như người Nam Kỳ ra ở Hà Nội, phải có ý bắt chước chỗ
đúng của người Bắc mà sửa chỗ sai của mình; người Trung Bắc vào Nam
cũng vậy. Hay là có thể thì sửa cái chỗ sai của nhau lại càng tốt hơn.
Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông tự
phong cho mình “vai ngự sử trên đàn văn”. Ông vừa thử vai hương sư dạy
cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ
nữ tân văn (từ 23-10 đến 30-11-1930) đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp
lại vai trò "thày đồ" dạy chữ Nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc của ông
được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng
trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18-8 đến 29-12-1932, sau nữa Phan
Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-1937).
Riêng ở Trung lập, Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể
loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí
ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người
khởi lên cuộc bài xích lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở Bộ
Việt Nam tân tự điển của Hội Khai trí Tiến đức.
Bằng những hoạt động của nhà ngôn luận, Phan Khôi đã góp sức vào
việc khẳng định vai trò và những yêu cầu về chất lượng chương trình dạy chữ
quốc ngữ ở các trường phổ thông; dùng báo chí làm phương tiện chuyển tải,
chuyên chở những kiến thức để phổ biến và phát triển tiếng Việt trong công
chúng xã hội.
147
Tiểu kết chương 3
Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ khả năng của một nhà ngữ
học vừa nghiên cứu tiếng Việt vừa tác động đến sự phát triển của tiếng Việt
trong thời hiện đại.
Có thể nói Tiếng Việt đã giúp Phan Khôi “công hiến cả đời cho sự
nghiệp báo chí” [35, tr.57] và chính sự nghiệp báo chí đã giúp Phan Khôi
thêm yêu tiếng Việt, trăn trở với tiếng Việt, nghiên cứu tiếng Việt và đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp Việt ngữ học nói chung và phát triển tiếng
Việt trong báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX nói riêng. Thậm chí, đến những
năm tháng cuối đời, “Phan Khôi vẫn nặng lòng với tiếng Việt, nhưng không
đủ thì giờ, nên sau đó ông thiên về việc sưu tầm, ghi chép các câu nói, các thổ
ngữ chợt nghe được từ đồng bào dân tộc hoặc trong ca dao tục ngữ, để làm tư
liệu cho việc nghiên cứu” (Phan An Sa, “Nắng được thì cứ nắng”, Nhà xuất
bản Tri thức, 2013). Từ số lượng khổng lồ các tác phẩm báo chí của ông trong
gần 40 gắn bó với nghiệp viết, có thể thấy những đóng góp quan trọng của
ông đối với phát triển tiếng Việt trong báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX:
Một là, bằng hoạt động báo chí, Phan Khôi chuyển tải những tri thức có
tính nguyên tắc, quy tắc về sự ra đời và phát triển của tiếng Việt. Trong đó,
nguyên tắc về sự vận động và phát triển của tiếng Việt cùng với sự vận động
và phát triển của xã hội; một số quy tắc về cấu trúc chữ, từ, câu; các biện pháp
tu từ và những đặc điểm riêng biệt của tiếng Việt…, có những nội dung Phan
Khôi đã kết luận, có những hiện tượng ông mới chỉ phân tích, phát hiện hoặc
cảm nhận, nhưng đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi mà
chữ quốc ngữ mới ra đời thì đây là những kiến thức quý giá. Có những phân
tích, phát hiện về quy luật tiếng Việt vẫn còn nguyên giá trị và là những vấn
đề hiện nay đang được tiếp tục nghiên cứu trong Việt ngữ học.
Hai là, thông qua sự phân tích, bàn luận về vấn đề viết chữ quốc ngữ
cho đúng, Phan Khôi đặt ra những yêu cầu về sự phát triển cách diễn đạt hiện
148
đại vào ngôn ngữ báo chí. Đóng góp này có ý nghĩa quan trọng để đưa hoạt
động báo chí vào chuyên nghiệp. Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi mới ra
đời, đặc điểm nổi bật của báo chí Việt Nam là thiếu chuyên nghiệp, ở đó, vẫn
là sự hòa trộn của các sản phẩm văn chương - báo chí. Những bài báo của
Phan Khôi, đặc biệt là loạt bài trên Phụ nữ tân văn, trong cuộc thảo luận “vấn
đề viết chữ quốc ngữ cho đúng” là những đóng góp quan trọng trong việc phát
triển văn phong báo chí theo hướng chuyên nghiệp, khắc phục những hạn chế
của cách hành văn cũ, theo lối văn biền ngẫu trước đó.
Ba là, với vốn kiến thức xã hội uyên thâm, Phan Khôi đặt ngôn ngữ
trong mối quan hệ của văn hóa, xã hôi, và ông hiểu sâu sắc rằng, xã hội muốn
phát triển, người dân phải có thông tin, có tri thức. Do đó, việc phổ biến và
phát triển tiếng Việt luôn đau đáu trong ông. Suốt cuộc đời gắn bó với nghiệp
viết, ông viết tiếng Việt, gắn bó với tiếng Việt để tìm tòi, phát hiện và đúc kết
thành những quy tắc, quy luật, những đặc điểm của tiếng Việt, và quan trọng
hơn là thông qua báo chí, khẳng định yêu cầu như một tất yếu để đất nước
phát triển, đó là phổ biến và phát triển tiếng Việt trong nhân dân, trong xã hội.
Những đóng góp của Phan Khôi đối với phát triển tiếng Việt trong báo chí
Việt Nam đầu thế kỷ XX thực sự có ý nghĩa, trong điều kiện tiếng Việt vừa ra
đời, lại trong bối cảnh đất nước đang chịu sự đô hộ của thực dân Pháp. Đây
được xem như những viên gạch đầu tiên làm nên nền móng để những người
làm báo thời kỳ đó và cả những thế hệ những người làm báo, làm công tác
nghiên cứu hôm nay thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình tiếp tục giữ
gìn và phát triển sự trong sáng của tiếng Việt.
149
Chương 4
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA PHAN KHÔI TRONG PHÁT TRIỂN
THỂ LOẠI TÁC PHẨM BÁO BÁO CHÍ VÀ KỸ NĂNG LÀM BÁO
Nửa đầu thế kỷ XX là thời kỳ xuất hiện khá đông đảo những người làm
báo và viết báo, những chủ nhiệm, chủ bút, biên tập bộ, quản lý ở cả ba miền
Bắc, Trung, Nam. Tính chất cơ động của báo chí khiến cho nhiều người ở
miền Nam nhưng thường xuyên viết cho báo miền Bắc (trường hợp Kiều
Thanh Quế, Lê Thọ Xuân, Tố Phang…) hoặc rất nhiều người miền Bắc viết
cho báo miền Nam, lại có những người từ Bắc vào Nam để làm báo, như Tản
Đà và Phan Khôi. Đội ngũ rất đông đảo này bao gồm những người trẻ tuổi có
mong muốn đổi mới và cả những người cựu học. Lần lại lịch sử báo chí có thể
tìm được rất nhiều nhân vật gắn bó mật thiết với các tờ báo và tạp chí nổi
tiếng như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Đức Nhuận, Diệp Văn Kỳ,
Vũ Đình Long, Phan Khôi, Hoàng Tích Chu…
Gần như toàn bộ cuộc sống văn chương, học thuật thời đó diễn ra sôi
nổi trên báo chí. Không khí học thuật, văn chương cũng hoàn toàn khác trước,
với sự xuất hiện của một hiện tượng nổi bật - những cuộc tranh luận thường
xuyên nảy lửa và không ít lần lôi kéo hàng loạt tờ báo tham gia. Thời kỳ đầy
sôi động này còn đáng chú ý ở chỗ nó làm nảy sinh một lớp người mới -
những nhân vật học thuật - văn chương gắn liền với các tờ báo và tạp chí. Đây
là những người ở vị trí trung tâm của đời sống báo chí - văn chương bấy giờ,
Phan Khôi là điển hình tiêu biểu. Ông không chỉ là một nhà văn, một nhà phê
bình, một nhà khảo cứu bình thường, ông còn là một “ngôi sao” (chữ dùng
của Thiếu Sơn) của giới báo chí.
Gần 40 năm gắn bó với nghiệp báo chí, ông viết về rất nhiều đề tài
khác nhau của đời sống xã hội, bằng nhiều loại hình tác phẩm: nghị luận xã
hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, sáng tác thơ văn….
150
trong đó, những đóng góp của ông trong phát triển thể loại tiểu phẩm báo chí,
bình luận, chuyên luận thực sự nổi bật và có ý nghĩa quan trọng.
4.1. Quan điểm của Phan Khôi về nghề báo và những kỹ năng hoạt
động nghề nghiệp
4.1.1. Về nghề báo
- Vấn đề đạo đức nghề nghiệp
Trong bài “Cái ác ý bởi nghề nghiệp” (Hà Nội báo, số 23, ngày 10-6-
1936), Phan Khôi khẳng định “ít nào người ta cũng phải có một chút lòng tôn
trọng chân lý thì mới đứng ra làm một cái nghề như nghề báo”.
Để làm rõ quan điểm đó, ông lý giải những sự ác ý trong nghề nghiệp
nói chung, nhất là nghề buôn bán - theo ông, là nghề thường có sự ác ý. Phan
Khôi phân biệt rõ: Nói “ác” với nói “ác ý” khác nhau. Người ta làm ra một
điều ác có thể bởi vô ý. Nhưng đến nói “ác ý” thì cái ấy rõ ràng bởi người ta
hữu ý mà làm hay thậm chí cố ý mà làm. Một ví dụ được đưa ra, đó là, câu
chuyện một hiệu thuốc lá toan chuyện cạnh tranh với một cửa hiệu khác đã
giở đến cái thủ đoạn xấu xa: “Số là hiệu X, thuốc lá ngon có tiếng, vẫn bán
chạy lâu nay. Ra để tranh với hiệu X, hiệu Y bèn dùng một kế rất hiểm độc.
Hiệu Y bỏ vốn ra hàng vạn mua lấy thật nhiều thuốc lá của hiệu X rồi dìm lại
một vài năm mới bí mật đem ra bán. Trong lúc ấy, hiệu Y cố làm cho thuốc lá
của mình ngon lên và quảng cáo thật riết. Tự nhiên công chúng thấy thuốc X
quá dở - thuốc để đến hàng năm tài gì chả dở?- rồi đổ xô nhau mua thuốc lá Y
mà hút nên nó bán rất chạy. Hiệu X sau cũng biết mình thiệt hại vì hiệu Y,
nhưng không kiện được, bởi không đủ tang chứng”.
Hoặc chuyện hai hãng tàu thuỷ tranh nhau:
Hãng Giáp cố cướp quyền lợi của hãng Ất, bèn quyết kế đụng cho
chìm tàu hãng Ất trong khi hai chiếc gặp nhau. Vả tàu này đụng
chìm tàu kia là một sự có tội trước pháp luật. Nhưng hãng Giáp
không kể điều ấy, tính rằng dù có kiện nhau cho ra lẽ cũng phải mất
151
một vài năm mới xong, bây giờ cứ hẵng triệt nó đi để chuyển cái lợi
chạy tàu con đường ấy về phần mình. Quả nhiên sau đó vụ kiện cứ
dây dưa hoài cho đến ba bốn năm mới xong. Hãng Giáp có bị bồi
thường cho hãng Ất ít nhiều, nhưng nhờ sự độc quyền trong bấy
nhiêu năm, nó vẫn còn lời chán [59].
Từ chỗ cử ra một vài ví dụ để chỉ rõ cái ác ý bởi nghề nghiệp, Phan
Khôi bàn đến đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Ông cho rằng:“Làm
báo cũng là một nghề nghiệp. Một nửa nghề làm báo hàm có những cái tính
chất văn học, xã hội v.v... nhưng một nửa là buôn bán”. Tuy nhiên, ông phân
biệt rất rõ: Nếu cho rằng, nghề làm báo cũng là buôn bán đi chăng nữa, thì
cũng chỉ một phần về ty quản lý mà thôi, “trong nghề làm báo còn một phần
nữa về toà soạn, phần này thì quả không dính dấp gì với việc buôn bán, cho
nên nó chẳng dung được cái ác ý nào cả” [59].
Ông phân tích về những biểu hiện của ác ý trong nghề báo, như chuyện
báo này dùng áp lực cướp chủ của báo kia hay chuyện về việc ra số Tết, mà
báo này lập kế làm cho báo kia trục trặc để mình ra trước. Theo ông “Ai có ác
ý trong việc biên tập như đặt điều nói xấu cho kẻ khác, thì có thể bị toà án
truy tố mà mắc vào tội phỉ báng. Còn ai không làm hại đến kẻ khác, chỉ lấy
phải làm trái, lấy đen làm trắng, dù pháp luật không có quyền hỏi đến chớ
cũng bị dư luận khinh rẻ hay là hình phạt bởi lương tâm” [59].
Những phân tích của ông về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
vẫn giữ nguyên giá trị thời sự. Bởi vì, trên thực tế, công việc, nghề nghiệp nào
cũng phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, với nghề báo, vấn
đề đạo đức nghề nghiệp luôn được xã hội quan tâm và đòi hỏi cao, vì “nghề
nghiệp báo chí không chỉ tác động và liên quan đến cộng đồng, đến đông đảo
dân cư, mà còn quan trọng là việc tác động vào hệ thống giá trị tinh thần, tư
tưởng, những quan niệm giá trị đạo đức và nhân phẩm, giá trị của con người
trong mối quan hệ với dư luận xã hội” [19, tr.293]. Và, trong xã hội hiện đại,
152
khi Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường, trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ, cùng với vai trò của
báo chí đối với xã hội không ngừng tăng, thì vấn đề tăng cường đạo đức nghề
nghiệp càng được đặt ra với yêu cầu cao, vì trong điều kiện này, quan hệ đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo cũng đã dạng và phức tạp hơn rất nhiều.
- Về vấn đề tự do ngôn luận
Trong điều kiện báo chí hoạt động dưới chế độ kiểm soát ngặt nghèo
của chính quyền bảo hộ, việc đề cập đến vấn đề tự do ngôn luận thật không
đơn giản. Tuy nhiên, với phông kiến thức dày dặn về lý thuyết và thực tiễn
vấn đề và sự tinh tế trong ngòi bút, Phan Khôi vẫn bàn về nội dung này, ngay
trên mặt báo.
Trước tiên, bằng những hiểu biết của mình, ông đề cập quyền tự do
ngôn luận ở nước văn minh (ở đây, ông lấy ví dụ ở nước Nhật). Trên tờ Đông
tây, Hà Nội, số 125 (ngày 21-11-1931), Phan Khôi viết bài “Quyền ngôn luận
tự do ở nước văn minh”. Bài báo bàn về ý kiến của một người Nhật về vụ
xâm lược Mãn Châu: “Trong số báo của trường Đại học ấy ra ngày 5 Octobre
mới đây, giáo thụ Hoành Điền có đăng một bài, đề là Vụ Mãn Châu với Vạn
quốc hội, đại ý không phục cái cử chỉ của Chánh phủ Nhật trong vụ xuất binh
Mãn Châu này, theo con mắt của nhà pháp luật học mà cải chánh lại, vì ông
ấy là một nhà pháp luật học”. Ông phân tích, trong khi cả nước Nhật đồng
tâm muốn chiếm Mãn Châu, thì việc có một người dám đứng ra, viết lên trên
báo mà phản đối việc xâm lược ấy chắc chắn độc giả sẽ lấy làm lạ. Bởi vì, lẽ
ra luận điệu ấy phải miệng người Tàu, không nữa thì cũng từ miệng người
một nước trung lập nào mới phải. Sao một người ở trong đất nước, chung chịu
một cái số phận với 50 triệu người kia, mà lại biểu đồng tình với bên địch, trở
dáo đâm lại Chánh phủ mình, là lẽ gì?
Ông cũng giả định: “Con người ấy nếu ở trong đất Đại Nam này, hẳn là
phải bị chúng dẫm lên mà chết bẹp cho đáng kiếp!” [57], và giải thích
153
nhưng mà không, ở nước văn minh như Nhật Bản, người ta không
hẹp hòi đến thế. Người ta biết dùng dư luận. Người ta chịu cho cái
lẽ phải đi trước luôn luôn. Tuy có cái dã tâm muốn tranh quyền lợi
mặc lòng, cái quyền lợi sẽ tranh được ấy cả nước cùng hưởng mặc
lòng, cũng không hề vì đó mà làm lu mờ cái lẽ phải. Ấy là cái quyền
ngôn luận tự do của họ. Cái quyền ấy không những đối với Chánh
phủ họ mà nhất là đối với xã hội họ, vì xã hội họ biết dung [57].
Bàn chuyện tự do ngôn luận ở nước văn minh như vậy, chính là để
Phan Khôi đem ra so sánh với nước nhà “Trong nước Việt Nam ta, cái sự xã hội
kiềm chế dư luận thật quá là nghiêm khắc. Cái xã hội này, không phải nói thừa,
thật là không biết dung dư luận” [57]. Rất thẳng thắn, ông đưa ra quan điểm:
trong nước Nam ngày nay, đừng nói sự ngôn luận không được tự do,
dầu cho Chánh phủ có cho tự do đi nữa là cũng chưa có thể nẩy ra
cái dư luận chánh đáng được. Hỏi tại cớ gì? Thưa rằng tại xã hội hay
nể mích lòng, hay vị tình diện, không chịu để cho cái lẽ phải nó đi
trước, thì nhà ngôn luận phải chiều theo xã hội mà bợ hót, còn
không chiều thì giữ mực làm thinh, chớ có dám nói thẳng đâu mà
hòng mong cái dư luận chánh đáng sinh sản ra? [57].
Ông khẳng định, nước văn minh không hề như vậy. Nhà ngôn luận của
họ không hùa theo phần đông để vê tròn bóp bẹp lẽ phải, sự thật khách quan
được tôn trọng. Ông phân tích: “Cái xã hội Nhật là cái xã hội ăn ở với nhau
bằng lý trí, cũng như xã hội Pháp hay là xã hội Anh; thành ra ai thấy điều gì
phải, được đem ý kiến riêng phô bầy ra, dầu phản đối với cả nước cũng không
sợ họ xúm nhau mà công kích. Vì họ chịu suy xét, họ biết phán đoán, chỉ coi
cái điều người ấy phô bầy ra đó có thật là phải hay không, chứ họ không có
thói cảm tình tác dụng, hễ thấy nói nghịch cùng mình một cái, ấy là hè nhau ô
lên mà công kích rồi”. Ông bày tỏ nguyện vọng, cũng là thể hiện quan điểm
về vấn đề tự do ngôn luận nước nhà: “Văn minh thay cái xã hội ấy! Tôi thấy
nó mà thèm, ước gì bưng được nó mà để vào giữa chúng ta!” [57].
154
Để bàn sâu hơn nữa về quyền tự do ngôn luận ở nước ta, ông viết bài
“Quyền ngôn luận của ta nếu có chăng, sẽ sản sinh sau khi lập hiến”, đăng
trên Đông tây, Hà Nội, số 131, ngày 12-12-1931.
Bài báo bàn về sự kiện chính quyền bảo hộ cho phép bỏ sở kiểm duyệt,
“các báo Tây, Nam ở xứ này đều đã đồn vang lên rằng rồi đây người Việt
Nam ngôn luận sẽ được tự do”. Ông khẳng định: “như vậy, chưa phải là ngôn
luận tự do đâu; chúng ta chưa có được cái quyền ấy đâu. Chớ vội tưởng mà
lầm. Thậm chí nếu thi hành luôn một lần hai việc: Sở kiểm duyệt đã bỏ, sự lập
báo lại không cần xin phép nữa, là chúng ta cũng chưa được quyền ngôn luận
tự do đâu vậy” [58].
Bằng những lập luận chặt chẽ, ông làm rõ sự khẳng định của mình, để
trả lời cho những băn khoăn, rằng khi Chính phủ (chính quyền bảo hộ) cho
phép, báo chí muốn nói gì thì nói, tại sao vẫn không được cho là tự do ngôn
luận? Theo ông, quyền tự do như vậy là không có gốc. Cụ thể là “chớ tưởng
rằng sau khi quan Toàn quyền ra một cái nghị định, bãi sở kiểm duyệt, ấy là
nhà ngôn luận Việt Nam được quyền tự do, chớ tưởng vậy mà lầm. Quyền
ngôn luận tự do không hề bởi một ông quan thủ hiến ban cho mà có được, nó
không khi nào sản sinh ra bởi một cái nghị định” [58]. Ông nêu tư tưởng tiến
bộ của các nước phát triển về vấn đề này: Ở các nước văn minh, quyền ngôn
luận tự do cho đến các quyền tự do khác nữa cũng đều sản sinh ra bởi hiến
pháp. Hiến pháp quy định nhân dân có quyền đó thì nhân dân có quyền đó,
chứ không phải bởi một người nào ban cho. Hiến pháp đã sản sinh ra quyền
ngôn luận tự do được rồi, nhưng nếu nó không được thực hiện đúng thì sao?
Vì lẽ đó nên còn phải có pháp luật để bảo hộ nó nữa. “Hiến pháp Nhật Bản,
điều thứ 20, nói rằng: Thần dân Nhật Bản, ở trong phạm vi pháp luật, có
quyền tự do được ngôn luận, xuất bản, v.v.”. Và mở rộng hơn thế nữa “Mà
chẳng những Nhật Bản, trong hiến pháp nước nào cũng vậy, cũng có một điều
nói riêng về quyền ngôn luận tự do từa tựa như thế (Xem điều thứ 10 và 11
trong bản tuyên bố nhân quyền của nước Pháp).
155
Từ những phân tích, lập luận trên, ông một lần nữa khẳng định: “Về
quyền ngôn luận tự do, hiến pháp đã nhìn nhận cho nhân dân có quyền ấy rồi;
nếu nhân dân ở trong phạm vi pháp luật mà ngôn luận, thì không ai được xâm
phạm tới. Như vậy là còn có pháp luật nữa để bảo hộ cho cái quyền mà hiến
pháp đã nhận nhìn cho. Hiện nay xứ ta chưa có hiến pháp, cái quyền tự do ấy
không ai nhìn nhận cho, nó đã không từ đâu sản sinh ra được; mà cũng chưa
có luật riêng về việc làm báo, thì dầu có quyền ấy chăng nữa, nó cũng chẳng
có cái gì bảo hộ cho. Thế thôi, còn nói chuyện gì! Cái quyền ngôn luận Việt
Nam có hay không, không ở trong thời kỳ phế kiểm duyệt này mà ở trong thời
kỳ lập hiến sẽ tới”.
Ngay từ khi nền báo chí Việt Nam vừa ra đời, mọi vấn đề liên quan đến
báo chí và hoạt động báo chí còn quá mới mẻ trong xã hội, trong công chúng,
mà Phan Khôi đã có những phân tích thấu đáo, mang tính bản chất của nghề
báo, của hoạt động báo chí như trên, có thể nói, đó là những tư tưởng xuất
chúng. Và, quan trọng hơn, những quan điểm của ông về tự do ngôn luận, đến
nay, vẫn còn nguyên giá trị. Những quan điểm này rất gần với những tổng kết
trong phát triển lý luận báo chí, đó là những vấn đề lý thuyết về tự do và tự do
báo chí: “Không thể và không bao giờ có tự do tuyệt đối. Trong hoạt động xã
hội, tự do chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và hệ thống giá trị
văn hóa, do pháp luật và hệ giá trị ấy quy định. Đối với hoạt động báo chí, tự
do báo chí phải tuân thủ trật tự của pháp luật, do pháp luật quy định - tối
thượng là hiến pháp” [19, tr.243].
4.1.2. Về kỹ năng làm báo
- Cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống của báo chí:
Nếu như đọc các tác phẩm báo chí của Phan Khôi trên các báo khác
nhau, người đọc cảm nhận được một cách đầy đủ phong cách viết báo của
ông, thì nghiên cứu một tờ báo ông làm chủ bút, sẽ thấy những đóng góp quan
trọng của ông làm rõ nét đặc trưng của hoạt động báo chí, từ phương pháp thu
thập, xử lý đến chuyển tải thông tin.
156
Phan Khôi làm chủ bút Tràng An báo liên tục từ số 1 (01-3-1935) đến
số 94 (31-01-1936). Trong vai trò chủ bút Tràng An báo năm 1935, trong điều
kiện giữa đất Huế những năm 1930, nơi vẫn đang là dinh lũy của thế lực quân
chủ chuyên chế Việt Nam thì việc tạo ra một tiếng nói độc lập về chính kiến
như công việc mà trên thực tế Phan Khôi đã làm, là một sự dấn thân rất đáng
kể trong đời làm báo của ông. Đây là tờ báo rất chú trọng đến người dân, đặc
biệt khi họ là nạn nhân của sự chà đạp, cướp bóc bởi hệ thống quan chức, nha
lại. Những phóng sự đăng nhiều kỳ về vụ án điền thổ ở Phú Yên, về vụ xử ly
hôn của vợ chồng Tham Ân ở Hội An, về vụ kiện bị lấn chiếm mặt nước của
dân làng chài Thủy Tú ngay “bên chân đền vua” đương thời (tức thành Huế)...
là loạt bài sát cánh hỗ trợ dân oan trong các cuộc khiếu kiện dài ngày của họ.
Những trường hợp nạn nhân như “người đàn bà bị bỏ đỉa vào tai”, người hành
khách xe lửa bị nhà đoan bắt giam vì tình nghi buôn lậu thuốc phiện, hay ông
Cử họ Hồ bị viên tri phủ Quỳnh Lưu hành hung... thường được Tràng An báo
đề cập như những hồ sơ để ngỏ, thỉnh thoảng lại bổ sung, cập nhật những tình
tiết mới, phản ánh những khía cạnh xã hội phức tạp liên quan đến mỗi vụ
việc, đồng thời cho thấy khả năng xử lý các vụ việc trong những tương quan
đương thời. Đó có thể được xem như những mẫu mực về nghề làm nhật báo,
đó là bám sát, phản ánh hiện thực cuộc sống bằng sự kiện, chi tiết theo dòng
thời sự, khác với cách tiếp cận sự thực bao quát, phiếm chỉ, theo kiểu các
phóng sự văn học.
Làm theo cách bố trí trang mục của các tờ nhật báo trong Nam, Tràng
An của chủ bút Phan Khôi cũng đặt ra rất nhiều mục thường xuyên cho từng
thể tài hoặc cho từng cây bút đảm nhiệm, chẳng hạn, mục “Tiếng oanh” cho
đề tài phụ nữ, “Tiểu phóng sự” cho những bài ký dài (ví dụ Cái xã hội của
người hành khất của Đoàn Văn Phương, Một giờ nói chuyện với cụ Ngáo của
Bùi Ái, v.v…), hay những mục tạp trở, hài đàm mang những tên “Nhớ đâu
nói đó”, “Có có không không”, “Chuyện rông”, “Văn nghệ tạp đàm”, … Đây
157
là đóng góp rất đáng kể của Phan Khôi đưa hình thức, cách thức làm báo đến
gần hơn với báo chí hiện đại.
- Yêu cầu về đọc, để nâng cao nhận thức, hiểu biết
Không đi vào bàn trực tiếp về kỹ năng này, ông thông qua vai trò của
thư viện đối với người làm báo, để chuyển tải thông điệp về việc cần thiết
lắm, việc đọc sách, nghiên cứu tài liệu đối với người làm báo để có thể viết
đúng. Quan điểm này được thể hiện trong bài “Thơ viện với nhà làm báo”, với bút
danh Tân Việt, đăng trên Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 768, ngày 13-9-1928.
Khi Phan Khôi đọc trên tờ báo ở Sài Gòn, có nội dung: “Ông Lê Văn Duyệt
và ông Phan Thanh Giản là hai vị danh thần ở đời Gia Long”. Trong khi theo
kiến thức lịch sử, ông nắm được, thì ông Lê Văn Duyệt là một vị tướng tài
giúp vua Gia Long đánh Tây Sơn; còn ông Phan Thanh Giản là một nhà nho
học đậu cử nhân triều Minh Mạng, làm quan lớn triều Tự Đức, có đi sứ sang
Pháp và sau lại chết theo ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Phan Khôi thấy cần phải
vào thư viện để kiểm tra lại sách. Tuy nhiên, giờ mở cửa của thư viện ở Sài
Gòn rất hạn chế, sáng 9h-11h; chiều 15h-17h. Do đó ông không thể tìm được
những nội dung cần làm rõ, sau khi đọc bài báo trên. Ông cho rằng: “Thơ viện
ở Sài Gòn đây thật khí hà tiện thì giờ quá! Nhớ lại ngày nào ở Hà Nội mà
thèm! Thơ viện ở Hà Nội, người ta mở cửa luôn từ tám giờ mai cho đến mười
giờ đêm. Tha hồ cho những người ham học mà chỉ có thì giờ rảnh trong buổi
trưa và buổi tối thì đến đó mà đọc sách” [92].
Theo Phan Khôi, nghề viết, nhất là viết báo, việc đọc sách, nghiên cứu
tài liệu để đảm bảo viết đúng, tôn trọng sự thật khách quan là rất quan trọng.
Và, chính các bài viết của Phan Khôi, cũng thể hiện, ông đọc rất nhiều. Hầu
như bài báo nào, Phan Khôi cũng đặt những nội dung cần bàn trong khung lý
thuyết, và những ví dụ thực tế sinh động có liên quan của cả hoặc trong nước,
hoặc ngoài nước để làm sáng tỏ. Đây là cách viết phù hợp, đầy hiệu quả trong
quá trình báo chí Việt Nam đang trong giai đoạn đầu ra đời và phát triển. Báo
158
chí bắt đầu thực hiện vai trò xã hội, nâng cao nhận thức của công chúng và
hướng dẫn dư luận xã hội. Theo ông, việc đọc đối với người làm báo, để nâng
cao hiểu biết quan trọng đến mức “về phương diện khác chẳng nói làm chi;
riêng về phương diện học vấn, chỉ một cái thì giờ mở cửa đóng cửa của thơ
viện cũng đủ làm cho bọn mình dốt rồi” [92].
Rồi, với cách viết châm biếm, ông kết thúc bài viết về việc cần mở của
thư viện với thời gian nhiều hơn trong ngày, để nhà báo có điều kiện đọc,
nghiên cứu được nhiều hơn, đáp ứng tốt hơn việc thông tin chính xác, đồng
thời, nhấn mạnh sự nguy hiểm của việc thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, để báo
chí phản ánh sai sự thật - đem lại nhận thức sai cho công chúng và xã hội:
Thơ viện cứ mở cửa từ 8 giờ ban mai cho đến mười giờ đêm đi, rồi
thì ông Lê Văn Duyệt sẽ ở yên với vua Gia Long và ông Phan
Thanh Giản sẽ ở yên với vua Tự Đức. Bằng chẳng vậy, hai ông ấy
cứ lộn xộn hoài, cứ xạo xự hoài! Lần nầy nhà làm báo họ đem ông
Phan Thanh Giản lên đời Gia Long, còn chưa đến nỗi hề chi; chớ
lần sau họ đem ông Lê Văn Duyệt xuống đời Tự Đức thì bao nhiêu
sự tích và bia chí của Lăng Ông trong Bà Chiểu đều phải sửa lại cả,
rối lắm! rối lắm! [92].
- Về cách ghi tên tác giả
Có thể, đây là vấn đề rất đơn giản, nhưng trong bối cảnh báo chí ở giai
đoạn đầu, tính không chuyên là phổ biến, thì việc Phan Khôi đề cập đến cách
ghi tên tác giả trên báo là cần thiết. Theo ông “Sự xưng tên trên báo chỉ có hai
cách mà thôi, là xưng tên thiệt của người viết bài cùng là xưng biệt hiệu (hoặc
kêu là bút tự) của người ấy” (“Triết học và nhân sanh quan: Nói chuyện tầm
thường ở đời” - Tên xưng trên báo và tạp chí)
Theo Phan Khôi, tác giả ghi tên thật trên báo khi người viết muốn đưa
ra ý kiến của mình mà cần cho độc giả nói chung hoặc những độc giả cụ thể
biết là của mình để thể hiện chính kiến. Ông phân tích: “Thật vậy, trên báo và
159
tạp chí, có khi đồng một bài đó, đồng một ý kiến đó, giá đem ký một cái tên
bông lông vào thì người đọc xem khinh xem thường, mà ký một cái tên của
người có danh vọng trong xã hội, thiên hạ phục sẵn, thì tự nhiên cái bài thành
ra có giá trị. Gặp khi như vậy, các nhà viết báo thường ký tên thiệt của mình”
(“Triết học và nhân sanh quan: Nói chuyện tầm thường ở đời” - Tên xưng trên
báo và tạp chí).
Vậy, khi nào nên xưng biệt hiệu (bút danh)? Phan Khôi còn phân biệt
giữa biệt hiệu và hiệu, ví dụ như ông Tùng Thiện Vương, tên là Miên Thẩm,
tự là Thận Minh, hiệu là Thương Sơn, biệt hiệu là Bạch Hào Tử. Biệt hiệu tùy
ý mình muốn đặt, không có quy tắc. Phan Khôi phân tích:“Biệt hiệu ở xứ ta
và Tàu ngày xưa chỉ các nhà thi sĩ mới có mà thôi; trong khi làm một bài thơ
có ý trào hước hay là xúc phạm sao đó, xưng tên, tự, hiệu thiệt của mình
không tiện, thì họ mới dùng biệt hiệu mà xưng trong báo. Cái biệt hiệu đã
dùng mà xưng trên báo thì chỉ dùng mà xưng trên báo, không khi nào dùng
mà xưng nơi khác; bởi vậy nên cũng gọi là bút tự, theo tiếng Pháp thì là nom
de plume. Đã biết cái nghĩa và cách dùng của biệt hiệu rồi, khắc biết rằng khi
dùng nó mà xưng trên báo là có ý thế nào (”Triết học và nhân sanh quan: Nói
chuyện tầm thường ở đời” - Tên xưng trên báo và tạp chí).
Phan Khôi đã không phải không có lý, khi ông phân tích rất kỹ cách
dùng tên thật và bút danh trên báo, bởi vì trong thực tiễn báo chí bấy giờ, nếu
những nhà văn, các tác giả cựu trào làm báo không quan tâm đến nâng cao
nhận thức về kỹ năng nghề nghiệp, ngay trong đội ngũ những người làm báo
trong giai đoạn nền báo chí Việt Nam non trẻ mới ra đời, thiếu chuyên
nghiệp, thì sẽ dẫn đến lối làm tùy tiện, sai. Điều này ảnh hưởng xấu tới bức
tranh chung của báo chí, vì vai trò quan trọng của báo chí, của ngôn luận
trong xã hội. Mục đích ông hướng đến là "chỉ để cho biết rằng sự ứng dụng
của cái tên và cái biệt hiệu trên báo chí là khác nhau, không thể nhận làm một
được; cho nên hễ ký tên thì đừng ký biệt hiệu, còn đã ký biệt hiệu thì đừng ký
160
tên. Nếu có ai ký vừa tên vừa biệt hiệu vô một lần, thì tôi cho người ấy đã làm
một sự vô ý thức, vô nghĩa lý"
Ông đưa ra ví dụ của chính mình: Tên tôi là Phan Khôi, biệt hiệu tôi là
Chương Dân, khi nào tôi ký bằng cái nầy thì tôi phải bỏ cái kia. Có một lần,
tại Hà Nội, tôi cũng ở ngoài viết bài cho nhà báo kia, sau khi báo ra, tôi thấy
người ta thiện tiện ký cả tên tôi và biệt hiệu, thì tôi liền phải viết thơ mà trách
ông chủ nhiệm báo ấy, vì tôi tưởng cho sự họ làm đó là có ý làm tôi ra trò
cười (Car je crois qu’en ce faisant, on a l’intention de me tourner en ridicule).
Ông thấy trách nhiệm cần đưa nội dung này ra bàn công khai trên báo, vì
trong thực tiễn báo chí bấy giờ, Phan Khôi thấy trên rất nhiều tờ báo trên các
tập tạp chí quốc ngữ, người ta cứ ký cái biệt hiệu trước rồi cái tên sau. Ông
cũng kết thúc bài viết bằng ý kiến rất gay gắt, nhưng có lẽ, sẽ là bài học về
một trong những kỹ năng đơn giản, nhưng cần có ý thức làm đúng ngay từ
đầu của những người làm báo chuyên nghiệp: "Sao người ta không chịu coi
trong báo Tây, báo Tàu đã có ai ký tên cách vô ý thức như vậy không? Mà
cho đến các nhà viết báo thiện nghệ và kỳ cựu ở xứ ta như ông Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh cũng chẳng hề
có ai làm như vậy, sao người ta không để mắt coi mà cứ lằm lằm lùi lụi làm ra
những điều vô ý thức, vô nghĩa lý"? Bởi có sự vô ý thức, vô nghĩa lý đó, trong
báo Trung Bắc tân văn, nơi mục hài đàm, mới thường có cái tên ký là “Hi
đình, Nguyễn Văn Tôi”. Đó là ông Nguyễn Văn Vĩnh muốn chế nhạo những
người quê mùa, không biết cách ký tên trên mặt báo, đã ký biệt hiệu còn ký tên,
nên ông làm ra như vậy đó, tội nghiệp, có ai biết cho chăng?" ("Triết học và nhân
sanh quan: Nói chuyện tầm thường ở đời" - Tên xưng trên báo và tạp chí).
4.1.3. Về văn chương của nhà báo
Bài báo "Văn chương và văn chương của nhà báo (Đáp lại Đuốc nhà
Nam)", đăng trên Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 787, ngày 27-10-1928 là ý
kiến của Phan Khôi trao đổi lại ý kiến với Đuốc nhà Nam về bài xã thuyết
161
"Thế nào gọi là văn chương có giá trị", trong đó, ông đưa ra những quan điểm về
văn chương của nhà báo (hay còn gọi là văn chương báo chí) rất có ý nghĩa.
Trước hết, Phan Khôi bàn về văn chương nói chung: "Về văn chương,
không cứ đặt để làm sao, không cứ theo lề lối nào, người làm văn cốt phải giữ
ba điều, là: tín, đạt, mỹ", trong đó,
Tín, nghĩa là văn phải cho tin. Trong một bài văn, kể chuyện thì phải
cho thật, nói lý thì phải cho đúng; ấy là tín đó. Đạt, nghĩa là văn cho
thông. Cái ý mình nghĩ trong óc thế nào thì viết ra trên giấy cũng thế
ấy, làm cho người xem văn mình hiểu đúng như ý mình, mà khỏi hiểu
ra đường khác hay là không hiểu chi cả; ấy là thông đó. Mỹ, nghĩa là
văn phải cho đẹp. Tín và thông cũng đã gọi là đủ dùng trong sự viết
văn rồi; song nếu muốn cảm người cho sâu, truyền đi cho xa thì phải
cần đến cái đẹp. Lời cho nhã, ý cho mới, ấy là đẹp đó [33].
Theo ông, bất kỳ văn nước nào thời nào, dầu cho ở bên Tây, bên Tàu,
hay là đời xưa, đời nay, cũng phải có đủ ba điều ấy thì mới gọi là văn được,
mới gọi là văn hữu dụng được.
Còn văn chương của nhà báo thì thế nào? Phan Khôi cho rằng:
"Về sự chúng ta viết báo bằng chữ quốc ngữ hiện thời đây, chúng tôi muốn
cho hẵng "tín" và "thông" đi đã, chớ chưa vội nói đến cái "đẹp". Thật thế, về
sự viết văn, chúng tôi chưa hề khi nào nghĩ đến cái đẹp, mà chỉ cầu cho thông
là đủ. Chúng tôi tưởng các nhà làm báo ta bây giờ, ai đã thông rồi mà bước
lên đến cái đẹp là càng hay, còn ít ra cũng phải lấy mực thông làm hạn" [33].
Phan Khôi cũng chỉ ra những lỗi viết, lỗi diễn đạt trên các số báo của
Đuốc nhà Nam, như sự chứng minh rõ quan điểm, văn chương báo chí trước
hết phải đúng, đơn giản, dễ hiểu. Những lỗi rất cụ thể, ông chỉ ra như: "Cả
một bài ấy phần nhiều câu không có chủ thể (sujet). Như, thình lình nổi lên
nói rằng: "Nay đem hết tâm chí v.v...", và "Lúc nhỏ theo thầy v.v..." thì chúng
tôi chỉ có lấy ý mà hiểu, chớ như cứ theo văn pháp thì chẳng biết ai là kẻ hành
162
động trong những câu nầy. Quý báo đã hô lớn lên rằng văn chương phải cho
rõ ràng, mà như vậy thì chẳng biết có rõ ràng không nhỉ?"; Hoặc "Cũng trong
bài ấy, "Học rồi, hành sự", dứt ngay làm một câu. Chúng tôi chẳng khi nào tin
rằng chỉ như vậy mà đứng làm một câu được, vì nó chỉ có mấy tiếng động từ
(verbe) không mà thôi. Chúng tôi chẳng hiểu nói như vậy là có ý nghĩa gì" [33].
Đây là quan điểm quan trọng, hình thành lối diễn đạt mang tính thông
tấn của ngôn ngữ báo chí; càng có giá trị, khi ở thời điểm này, sự giao thoa
giữa văn chương và văn chương báo chí là rất lớn, thậm chí lối diễn đạt trong
văn chương, báo chí còn ảnh hưởng nặng nề của lối văn biền ngẫu, rườm rà.
4.2. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại tiểu
phẩm báo chí
4.2.1. Sự ra đời và những đặc điểm cơ bản của thể loại tiểu phẩm báo chí
Trong lịch sử báo chí thế giới, tiểu phẩm được cho là đã xuất hiện từ
cuối thế kỷ XVIII, trong thời gian diễn ra cuộc cách mạng dân chủ tư sản
Pháp lần thứ nhất. Cũng như những thể loại báo chí khác, tiểu phẩm ra đời do
yêu cầu khách quan của xã hội. Giai cấp tư sản tìm thấy ở tiểu phẩm một thứ
vũ khí sắc bén để chống lại các thế lực phong kiến, quý tộc bảo thủ, phản
động cùng chế độ phong kiến lỗi thời lạc hậu đã mục ruỗng từ bên trong.
Ngay từ đầu, tiểu phẩm đã mang tính chiến đấu cao - là tiếng nói của giai cấp
cách mạng, của khuynh hướng vận động tích cực chống lại giai cấp phản
động, những tiêu cực, thói hư, tật xấu trong xã hội. Trên thế giới, “lịch sử tiểu
phẩm thế giới đã từng gắn bó với những con người nổi tiếng, dùng ngòi bút
của mình đấu tranh cho sự tiến bộ, công bằng xã hội, cho chủ nghĩa nhân đạo
cũng như những lý tưởng tốt đẹp của nhân loại như: Tuốc-ghê-nhi-ép, Ghéc-
xen, U-xpen-xki, Gor-ky, An-na-tôn Frăng, Lỗ Tấn... Các Mác, Ph.Ăngghen,
V.I Lênin - những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản thế giới, bên cạnh những
tác phẩm khoa học, chính trị lớn của mình, cũng đã sử dụng tiểu phẩm báo chí
như vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp” [100, tr.29].
163
Phẩm chất tiêu biểu tạo nên sức chiến đấu của tiểu phẩm chính là tiếng cười.
Nhiều nhà văn, nhà báo lớn có tư tưởng tiến bộ ở Châu Âu trước đây, đã sử
dụng tiểu phẩm trên diễn đàn báo chí công khai để châm biếm, giễu cợt, lên
án sự thối nát, bất công của xã hội đương thời với những biểu hiện cụ thể về
sự giả dối, lừa bịp trong hoạt động chính trị, hoạt động tôn giáo hoặc lợi dụng
tôn giáo để thực hiện những mục tiêu chính trị vụ lợi, ích kỷ.
Những đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm báo chí là: Tính châm biếm; sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa những phương pháp thể hiện của báo chí và
những thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận
với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật.
Ở Việt Nam, đến đầu thế kỷ XX, “trên thực tế, có lẽ phải đến những
năm 30 của thế kỷ này, khi mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu
phẩm mới thực sự khẳng định vai trò vị trí của mình là một thể loại báo chí có
uy lực” [100, tr.30-31]. Trên văn đàn, báo chí Việt Nam, thể văn hài hước,
châm biếm đã phát triển, thể hiện trên báo trong mục "Hài đàm" và tranh vẽ
châm biếm đùa cợt. Thay vì phần ngẫu hứng kiểu văn chương, tiểu phẩm báo
chí giờ đây đã nóng bỏng một ý thức xã hội và tính mục đích của nó luôn luôn
được xác định như một lý do tồn tại của mỗi tác phẩm. "Trong báo chí, tiểu
phẩm có dung lượng nhỏ và tần số xuất hiện ít hơn so với các thể loại: tin tức,
phóng sự, bình luận v.v.... Nhưng với sự ra đời và phát triển của mình, tiểu
phẩm khẳng định vai trò là một vũ khí sắc bén" [100, tr.32]. Các bài viết dạng
này đề cập đến những vấn đề khá phức tạp, đa dạng. Hầu như mọi sự kiện của
đời sống xã hội đều được các tiểu phẩm báo chí đề cập đến với dụng ý mỉa
mai, đả kích...
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho rằng, trong làng báo tiếng Việt, có
lẽ Phan Khôi là một trong những người đầu tiên viết thể tài tiểu phẩm, hài
đàm này, coi nó như là một góc cho sự sáng tạo văn chương trên đất đai của
báo chí, là một thứ rất mới đối với một người vốn là con đẻ của nền Nho học
164
cũ “có thể nói Phan Khôi là một trong những nhà báo, nhà văn Việt Nam viết
thể loại hài đàm vào loại sớm nhất và phong phú nhất trên báo chí tiếng Việt.
Tất nhiên là bên cạnh ông và sau ông cũng còn nhiều người khác viết hài đàm
thành công như Ngô Tất Tố, Phùng Tất Đắc, v.v..." [12].
4.2.2. Phan Khôi và vấn đề phát triển thể loại tiểu phẩm báo chí
- Phan Khôi viết tiểu phẩm (hài đàm) trong các tiểu mục "Câu chuyện
hằng ngày" và "Những điều nghe thấy".
Đến những năm 30 của thế kỷ XX, nhờ tiếp thu những kinh nghiệm từ
báo chí phương Tây và một phần từ báo chí Trung Hoa, những người làm báo
tiếng Việt tìm kiếm những phương cách nâng cao chất lượng các tờ báo tiếng
Việt nhằm đạt tới sự bình đẳng nghề nghiệp với những tờ báo tiếng Pháp do
chính người Pháp thực hiện tại Đông Dương. Có thể nói, sự xuất hiện của tờ
Đông Tây năm 1929 đặt dấu ấn quan trọng trong quá trình chuyên nghiệp hoá
nghề báo ở nước ta.
Trong quá trình vận động có ý thức đó, tình trạng không rõ ràng trong
phân chia thể loại báo chí (văn - báo bất phân) được cải thiện dần, các thể loại
trên báo chí Việt Nam đã có khuynh hướng tách dần khỏi các thể loại văn
học, để trở thành những thể loại riêng biệt của báo chí. Nói một cách chung
nhất, yếu tố thông tấn đã được đặt ở vị trí hàng đầu trong những thể loại đó.
Cụ thể là: Tin tức (càng về sau cách thể hiện tin tức càng trở nên đa dạng; có
tin sâu, tin kèm bình luận, tin chuyển thành biếm họa thời sự); phỏng vấn, từ
chỗ chỉ có một giọng văn viết của người hỏi và người đáp trên những tờ Lục
tỉnh tân văn, Nam Phong... đến sự tách bạch của văn nói giữa phóng viên và
nhân vật trên những tờ Thời vụ, Đông Tây...; xã thuyết; bài báo và tiểu phẩm,
trong đó hài đàm - một loại tiểu phẩm báo chí ghi dấu ấn về sức lao động
cũng như sự đóng góp quan trọng của Phan Khôi trong việc phát triển thể loại
này trên các tờ Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Trung Lập nói riêng và
báo chí tiếng Việt thời điểm đó nói chung. Trong việc tìm tòi cách viết hài
165
đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Georges de la
Fouchardière (1874-1946) và Clément Vautel (1876-1954) trên các tờ Le
Journal và L’ Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời. Theo quan sát của Phan
Khôi, trong suốt 15 năm, hai nhà báo này đã viết những bài luận bàn thế sự
với giọng hài hước, hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả đương thời.
Mục Câu chuyện hằng ngày xuất hiện trên Đông Pháp thời báo từ số
673 (ra thứ Năm 19-01-1928). Ở các số đầu (673, 677, 678, 679, 680, 684,
685, 687, 697), tác giả các bài trong mục này ký tên Q.C. (Quán Chi tức Đào
Trinh Nhất), của Phiêu Linh Tử (ở các số 705, 707, 709, 710, 712, 713, 747),
của B.T.M. (Bùi Thế Mỹ). Đôi khi cuối bài không ký tác giả như các số 675,
676, 681, 683, 691. Ở các số 714, 717, Phan Khôi có bài ký C.D.
Trên tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã bắt đầu viết tiểu phẩm báo
chí với bút danh Tân Việt trong tiểu mục "Câu chuyện hằng ngày" do Chủ
báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, “Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể
nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này và nhân đây xây dựng một "mặt nạ tác giả"
hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giao tiếp
gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí” [4].
"Câu chuyện hằng ngày" với bút danh Tân Việt được Phan Khôi tiếp
tục trên tờ Thần chung. Nếu Đông Pháp thời báo chỉ ra 3 kỳ/tuần thì Thần
chung ra 6 kỳ/tuần, cho nên, lúc này Câu chuyện hằng ngày mới thực sự
mang đúng ý nghĩa của tên gọi. Hầu như ngày nào trong tuần trên Thần chung
cũng xuất hiện một cột báo giữa trang 1 của Tân Việt. Chỉ do những điệu kiện
thật đặc biệt, chủ yếu là bị kiểm duyệt cắt bỏ toàn bài hoặc hầu hết các phần
trong bài, Câu chuyện hằng ngày của Tân Việt mới vắng mặt. Con số 337/346
kỳ báo có bài của mục "Câu chuyện hằng ngày" dưới bút danh Tân Việt đã
chứng minh điều đó. So với trên Đông Pháp thời báo, "Câu chuyện hằng
ngày" vẫn ở tình trạng "cách nhật" vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần.
166
Trên nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày trong tuần, trừ chủ nhật,
"Câu chuyện hằng ngày" mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày với đủ
loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn
và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài.
Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử Hội
đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi
chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ
Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây,
v.v..., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả, khi cười cợt khi nghiêm chỉnh [4].
Có thể nói, lúc đầu, các bài trong mục này cũng chưa có sự xác định về
thể loại. Sau này, cùng với việc ổn định một bút danh Tân Việt, Phan Khôi
xây dựng mục này định hình dần về thể loại tiểu phẩm báo chí với tính chất
của "hài đàm", nhàn đàm, dùng giọng điệu hài hước, mỉa mai để nói về một
vấn đề, đề tài thời sự nào đó. Bút danh Tân Việt xuất hiện trong mục Câu
chuyện hằng ngày từ số 723, ra ngày 24-5-1928, trước đó đã xuất hiện dưới
dạng viết tắt T.V. ở số 693, ngày 10-3-1928. Từ đó cho đến lúc chấm dứt
Đông Pháp thời báo, Tân Việt trở thành bút danh duy nhất của mục Câu
chuyện hằng ngày. Người thực hiện mục này là Phan Khôi và Diệp Văn Kỳ.
"Tân Việt là bút danh mà Phan Khôi và Diệp Văn Kỳ ký chung ở những bài
viết cho mục Câu chuyện hằng ngày trên Đông Pháp thời báo và sau đó trên
báo Thần chung" [126].
Ngày 03-5-1930, đánh dấu thời điểm bắt đầu mục mới trên tờ Trung
Lập - mục gắn liền với ngòi bút Phan Khôi. Vào ngày này, trên trang 2 báo
Trung lập có nội dung khung quảng cáo: "Trung lập mới chúng tôi mới cậy
được ông tú Chương Dân Phan Khôi viết giùm cho mục “Những điều nghe
thấy” ký là Tha Sơn. Ông Phan tức là người viết “Câu chuyện hằng ngày” cho
Đông Pháp thời báo khi trước mà ký tên là Tân Việt đó. Vậy chắc rằng mục
"Những điều nghe thấy" của T.L. mới sẽ được hoan nghinh một cách xứng đáng”
167
Mục “Những điều nghe thấy” (ngày đầu là “Những điều trông thấy”,
sau đổi “trông” thành “nghe”) xuất hiện ở Trung lập từ 02-5-1930 và gắn bó
với tờ báo cho đến số cuối cùng. Khoảng 10 kỳ đầu tác giả ký là Tha Sơn, sau
đó ký là Thông Reo. Với mục “Những điều nghe thấy”, ngòi bút Phan Khôi
lại tiếp tục vai trò tương tự như vai trò Tân Việt trong “Câu chuyện hằng
ngày” hai năm trước. Đây là loại mục “hài đàm”, tuy không phải lúc nào tác
giả mục này cũng đùa cợt, chọc ghẹo thiên hạ, nhưng vai của ký giả viết mục
này chính là vai đàm tiếu, mai mỉa, trào lộng. Trong số nhiều thể tài báo chí
mà Phan Khôi từng viết, có lẽ hài đàm là chỗ thể hiện rõ nhất phương diện
sáng tạo văn chương của ông.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có thể là lớn nhất so với
lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn. Trước hết là
mục hài đàm "Những điều nghe thấy" mà toà soạn dành riêng cho ông viết
với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Tính từ ngày 2-5-1930
(khi ông bắt đầu viết mục này) đến 30 - 5 - 1933, ngày Trung lập bị đóng cửa,
Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục "Những điều nghe thấy".
- Đặc điểm tiểu phẩm báo chí Phan Khôi
Có thể nói rằng, với sự ra đời và phát triển, tiểu phẩm báo chí khẳng
định vai trò là một loại vũ khí sắc bén vạch mặt, đấu tranh với kẻ thù chính
trị, là một phương tiện có tác dụng tự phê bình, phê bình, chỉ cho xã hội thấy
những khía cạnh chủ yếu của từng sự việc xấu cản trở quá trình tiến triển của
xã hội, góp phần bồi dưỡng phát triển cái tốt đẹp và tích cực. Phan Khôi nắm
bắt được những đặc điểm cơ bản này, bằng những trải nghiệm cuộc sống và
vốn tri thức sâu rộng về văn hóa, xã hội, học thuật, ông đã thể hiện thể loại
mới trên báo chí đương thời, với một màu sắc rất riêng:
Thứ nhất, tất cả những đề tài Phan Khôi khai thác để viết tiểu phẩm báo
chí đều là những chuyện có thật trong đời sống hàng ngày. Rất nhiều bài thấm
đẫm tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho công bằng xã hội, cho quyền sống của
168
con người; đấu tranh không dè dặt với những chuyện chướng tai gai mắt kể cả
với những nhân vật tai to, mặt lớn trong xã hội. Ông bàn về sự hợp tác Pháp -
Nam, một phương châm đầy tính mị dân mà một số nhà chính trị thực dân
Pháp đã từng đề xướng, phương pháp châm biếm, sâu cay.
Trong bối cảnh đương thời, đề cập đề tài về thực dân Pháp trên báo chí
thời kỳ đó theo hướng châm biếm, đả kích là không dễ dàng vì hậu quả về tờ
báo bị đóng cửa và người viết bị tù đày là nhỡn tiền. Nhưng Phan Khôi không
hề lẩn tránh mà vẫn tìm cách viết đề cập một cách trực diện để châm biếm, đả
kích. Trong bài "Lý sự giữa sa mạc" phản bác quan điểm về thuyết "nước
Pháp giúp nước Nam" và quan điểm cổ súy cho chủ trương "Pháp - Việt đuề
huề", Phan Khôi viết: "Cách vài ba tuần lễ nay, một người Pháp tên là M.
Bouchot, hiện làm điển bộ (Archiviste - Xin nhớ rằng ông nầy không có làm
Hàn lâm viện đâu!) sở thơ viện nhà nước, có viết mấy bài đăng trên báo
L'Opinion nói về cái lẽ người Pháp đến chiếm xứ Nam Kỳ nầy.
Đại ý ông nói rằng: 1. Người An Nam tiếng rằng mất xứ Nam Kỳ, kỳ
thiệt không mất chi cả; 2. Người Pháp đã giúp cho người An Nam chinh phục
đất nầy; 3. Người An Nam là thứ dân không ưa sự đồng cảm.
Ông muốn nói cho cái sự chiếm đất của người Pháp ở đây thành ra có
nghĩa, song những cái luận chứng của ông vu vơ quá, mỏng manh quá, chỉ
búng một cái là ngã.
Nực cười thay cho ông Tây nói chuyện An Nam! ấy thế mà là một "ông
mọt" ở từ trong kho sách nhà nước mà ra!" [23].
Tinh thần này cũng được thể hiện rất rõ, trong các bài "Một người Tây
bằng bốn trăm người An Nam" (Thần Chung, Sài Gòn, số 174, ngày 18 và 19-
8-1929); "Khổng Tử với quan Toàn quyền" [23].
Viết về thực dân Pháp - một đối tượng khó, phức tạp và nguy hiểm mà
khai thác được nhiều yếu tố, từ ý tưởng đến hình tượng, tiến hành phê phán từ
nhiều mặt là một thành công đáng kể của tiểu phẩm báo chí của Phan Khôi.
169
Mặt khác, ông cũng thể hiện tinh thần phê phán mạnh mẽ đối với bọn bù nhìn
tay sai, trước hết là những tổ chức mị dân núp dưới chiêu bài dân cử. Với lối
viết châm biếm, ông tinh tế trong đả kích, phê phán sự tồn tại vô nghĩa của
đảng phái đương thời (ở đây cụ thể là Đảng Lập hiến - Đảng về bản chất là
tay sai cho Pháp), trong bài "Ghandhi và Trần Văn Khá":
"-Nè Tân Việt, anh nghĩ đó mà coi. Chuyện cụ Bùi đi du lịch bên Ấn Độ
không ích lối gì cho mình hết. Tốn bạc ngàn thì thấy chớ không thấy điều gì hay.
- Sao lại không hay?
- Mua về ba cái khăn lông với ba tấm trải bàn là chuyện hay của anh
đó phải không?
- Ây, anh ở xa không rõ chớ Tân Việt ở gần xóm Lagrandière, Tân Việt
rõ hết. Cụ Bùi đi Ấn Độ chuyến nầy có phải đi như Cô ba... chi chi đó và Đỗ
Văn... chi chi đó đâu. Ổng đi chuyến này cốt để hỏi ông thánh Gandhi nhiều
chuyện bí mật và thứ nhứt là hỏi coi nên cổ động cho ai ra Hội đồng quản hạt.
- Sao anh biết?
- Sao lại không biết. Người ta biết tới ông Gandhi khuyên Đảng Lập
hiến phải cổ động cho ông Trần Văn Khá nữa chớ.
- Anh nói gì lạ vậy?
- Có cái gì lạ. Ông Gandhi là thánh. Mà thường thường các thánh thần
như đức Cao Đài Lý Thái Bạch, họ nói mí nói xa chớ bao giờ mà họ nói sát
đề. Ông thánh Gandhi khuyên cụ Bùi dùng nội hóa là biểu cụ phải cổ động
cho ông Khá đó" (Thần chung, Sài Gòn, số 69, ngày 12-4-1929).
Hoặc trong bài khác, ông gọi Đảng Lập hiến là "Một cái Đảng có đầu
mà không có đuôi" (Thần chung, Sài Gòn, số 76, ngày 20-4-1929), và đi đến
kết luận: Hèn chi mà tờ báo cơ quan của đảng họ là một tờ báo hai mặt!...
Phan Khôi đã phân tích khách quan những sự kiện, vấn đề có thực
trong cuộc sống để phản ánh trong các tác phẩm với mục đích - đây cũng là
tính mục đích nói chung của tiểu phẩm báo chí, đó là phê phán kẻ thù.
170
Thứ hai, tiểu phẩm báo chí Phan Khôi thể hiện rõ nét đặc trưng cơ bản
của tiểu phẩm báo chí, đó là tính châm biếm sâu sắc.
Vẫn bàn về quan điểm chính trị mị dân của Đảng Lập hiến, Phan Khôi
viết bài "Vì nước vì dân", bằng giọng văn đậm chất châm biếm:" Mấy bữa rày
Thần chung có công kích sao mấy ông Lập hiến lại tiến dẫn ông Trần Văn
Khá và ông Nguyễn Văn Sâm mà nói rằng đó là vì dân vì nước.
Song hôm nay tôi nghĩ lại e khi họ lộn chớ không có lỗi chi hết.
Anh thử nghĩ coi. Nếu súc hai chai lit cho thiệt sạch, rồi một bên đổ
nước, một bên đổ rượu công-xi thứ thượng hạng thì đố ai phân biệt được. Trừ
ra những bợm rượu thật sành nghề như ông Nguyễn Khắc Hiếu họa may.
Vì lộn, nên mấy người kia thấy rượu mà hô là nước.
Còn dân?
Say ai nhớ được. Huống chi như tuồng mấy ngài cũng đã có nghĩ tới
rồi. Rượu dầu độc đến đâu mà đã có bỏ Sâm vô, thì cũng phải thành ra rượu thuốc.
Vả cụ Bùi có dạy năm nay quyết tình phấn đấu mà cụ nhìn anh em
mình còn khiếp nhược quá nên cụ định đem ông Khá mà trộn với ông Sâm
cho thành ra rượu thuốc đặng trước khi phất cờ thì cụ sẽ mời anh em mình
một người một ly cối" (Thần chung, Sài Gòn, số 67, ngày 10-4-1929).
Phan Khôi đã khai thác triệt để cách viết châm biếm để tạo nên tiếng
cười trong tiểu phẩm. Ở đây là tiếng cười sâu cay, tiếng cười phê phán đối với
kẻ thù xâm lược và đảng phái chính trị thân Pháp, đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Có thể kể đến hàng loạt tiểu phẩm trong mục "Câu chuyện hằng ngày" trên
Đông Pháp thời báo và Thần chung như :"Nhơn chánh của nhà nước bảo hộ";
"Toàn Pháp với tòa án An Nam"; "Ai muốn làm Président?", hoặc trong mục
"Những điều nghe thấy" trên Trung lập: "Mật thám, lính kín hay công an?";
"Cuộc trị an của chánh phủ và cuộc trị an của nhơn dân"; "Trung - Bắc Kỳ sẽ
có Đảng Lập hiến"; "Buổi nhóm họp hội đồng quản hạt vừa rồi"; "Chuyện vặt
trong kỳ tuyển cử nầy"...
171
Đây cũng chính là nghệ thuật mang tính đặc trưng của tiểu phẩm báo chí:
Đối với kẻ thù, cười trong tiểu phẩm thuộc về những cung bậc khác.
Ngọn đòn của tiểu phẩm phơi trần bản chất kẻ thù ở những khía
cạnh xấu xa nhất, phản động nhất qua những sự kiện, vấn đề thời sự
sinh động không thể chối cãi. Tiếng cười khi cất lên chứa đựng sự
khinh bỉ, dấy lên sự phẫn nộ, căm thù, lúc lại lắng xuống châm biếm
sâu cay, chứng minh sự diệt vong tất yếu của kẻ thù [100, tr.48].
Thứ ba, Phan Khôi đã rất thành công nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong
các tiểu phẩm báo chí của mình.
Có thể nói, người đọc bị lôi cuốn vào những câu chuyện, những cảnh
ngộ để rồi có cùng một thái độ với tác giả trước những đề tài, sự kiện mà tiểu
phẩm báo chí của Phan Khôi đề cập. Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp
dẫn đó, chính là ngôn từ. Trong tiểu phẩm báo chí Phan Khôi, ngôn từ kết hợp
được nét sắc nhọn, mạnh mẽ của ngôn ngữ báo chí với chất thâm thúy, hàm
súc của ngôn ngữ văn chương. Dường như bất kỳ tiểu phẩm báo chí nào của
ông, người đọc cũng thấy công dụng của tác giả về mặt ngôn từ. Ngôn ngữ
không chỉ biểu đạt những ý tưởng một cách thông thường mà còn tham gia
trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm. Cách đặt tiêu
tiểu phẩm cũng sử dụng nhiều lối chơi chữ, nghệ thuật sắp đặt ngôn từ tạo nên
sự hấp dẫn, gợi mở. Trên Trung lập, Sài Gòn, số 6525 (ngày 28-8-1931), với
bút danh Thông Reo, Phan Khôi đăng tiểu phẩm "Dịch là diệt". Bài báo hấp
dẫn và cuốn hút ngay từ tiêu đề, đến nội dung: "Trong tiếng Pháp, có câu
người ta thường nói: Traduire, c'est détruire. Ý cho sự dịch một thứ chữ nầy
ra thứ chữ khác là khó lắm. Dịch mà không khéo, sẽ làm mất cả nguyên ý của
nguyên văn. Như vậy khác nào phá hại nguyên văn cho hư mất đi hay là trừ
diệt nó vậy! Bởi vậy tôi mới nói ra tiếng An Nam rằng: Dịch là diệt"
Ông dẫn dắt thêm: Nhưng traduire, c'est détruire mà dịch ra "dịch là
diệt" thì nó đúng cả vừa chữ, vừa nghĩa, vừa ý. Tuy nhiên, chính ông cũng
172
thấy rằng công việc dịch thuật cho đúng, cho hay là rất khó. Có thể lúc này ta
dịch đúng, nhưng lúc khác lại bị sai. Để rồi, ông kể câu chuyện để phê phán
lối dịch ẩu, vô trách nhiệm:
"Thuở xưa bên Tàu, hồi còn nhà Mãn Thanh cai trị, có lần một ông
thân vương nhờ một ông Hàn lâm nọ dịch chữ Hán ra chữ Mãn mà đã để lại
một trò cười.
Số là có người dâng cho ông thân vương ấy một cây quạt, trên nó có
viết y cả bài phú Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha; mà vị thân vương nầy học
chữ Hán kém, đọc không được, không hiểu là gì, bèn nhờ một ông Hàn lâm
dịch ra tiếng Mãn cho mình.
Dịch xong, chép ra một bổn, đưa cho ông thân vương xem, ông thấy mà
sửng sốt, vì bắt đầu có hai chữ chó mực!
Bài phú Tiền Xích Bích ai cũng biết mở đầu ra là câu "Nhâm tuất chi
thu, thất nguyệt ký vọng", thế thì có nghĩa gì mà dịch là chó mực được ư?
Khi ấy ông thân vương phát nghi, đem đi hỏi ông Hàn lâm khác, thì té ra dịch
theo nguyên văn, nhưng mà diệt chớ không phải dịch!
Trong chữ Hán có mười can với mười hai chi, như chữ nhâm tuất đó là
can với chi hiệp lại; song tiếng Mãn thì không có can chi như vậy, nên dịch
giả không biết đường mà dịch, dịch bậy cho rồi.
Ông Hàn lâm thứ nhứt đó lấy ý rằng Nhâm chẳng là thuộc phương bắc,
thuộc thủy, thuộc sắc đen; còn tuất chẳng là tuổi con chó; thế thì đen với chó
hiệp nhau, phải thành ra chó mực rồi! Khi ấy ông ta viết ngay lên trên đầu bài
dịch của mình là chó mực, nên mới làm cho ông thân vương sửng sốt.
Đừng chê ông Hàn lâm đó. Cái kiểu dịch là diệt ấy ở xứ ta từ hồi Tây lại đến
giờ thiếu chi". Hoặc: "Trong bổn tiểu thuyết của ông Khả Gia mới xuất bản,
có chỗ ông Cò đến bắt thầy Bang biện nọ, ổng nói với người tình nhân của
thầy đương ở đó như vầy:
- Madame, je vous prie de vous écarter.
173
Vậy mà người thông ngôn nói lại với cô rằng:
- Ê! cô kia, quan Cò nói cô còn xớ rớ đó thì ổng đánh chết cha và bắt
bỏ tù luôn đa!
Thế cũng là diệt đó. Nghĩa là đáng diệt cho một bạt tai vậy! Ai biểu
dịch bậy làm chi?
Thứ dịch bậy ấy kể làm sao cho xiết được. Mà hễ còn dịch thì cứ còn
dịch bậy hoài.
Muốn trừ cái thói ấy thì họa chỉ có đụng đâu diệt đó mới trừ hết
được chăng!"
Trong các tiểu phẩm báo chí của mình, Phan Khôi đã kết hợp tinh tế
giữa những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn
học; giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật.
Sự kết hợp này rất phong phú, sinh động, một mặt đáp ứng kịp thời yêu cầu
thông tin của xã hội của công chúng, tôn trọng hoàn toàn tính chân thật khách
quan của sự kiện, mặt khác, tạo nên sức cuốn hút, hấp dẫn trong nghệ thuật
viết tiểu phẩm của ông. Đó là sự kết hợp linh hoạt giữa các yếu tố chính luận,
tự sự, thông tin và thơ ca, hò vè, ca dao, dân ca… vốn từ sử dụng trong tiểu
phẩm rất phong phú.
Có thể kể tên hàng loạt tiểu phẩm nói lên sự hấp dẫn ngay từ cách Phan
Khôi sử dụng nghệ thuật ngôn từ để đặt tiêu đề cho tác phẩm: "Nghi như Tào"
[28], "Gian giữ gian" [30], "Vô dụng mà hữu dụng" [32], "Mình ốc mang rêu
rửa sạch ai?" [33], "Tiền và lợi" [110], "Tội tại con chó với con cua" [119],
"Mèo cho chuột bú" [120] , "Cưới ít đẻ nhiều" [121] ...
Thứ tư, một số thủ pháp trong nghệ thuật hài hước, châm biếm:
Có nhiều bài viết của Phan Khôi thuần túy là kể chuyện vui. Chẳng hạn
như bài “Đoàn bò Sài Gòn - Hà Nội” [125]. Nhân thấy có phong trào đua xe
đạp, thi đi bộ, nhiều người nhờ đó mà nổi danh, ông đề nghị thi bò “chụm hai
chân hai tay thi bò từ Sài Gòn ra Hà Nôi, một môn thể thao mới đáo để sẽ nổi
174
danh vô cùng". Hoặc như bài “Mang nặng đẻ đau” (Trung lập, số 6385, ngày
7-3-1931), Hội bảo trợ nhân quyền gửi đơn lên Thượng đế xin giải quyết cho
một bất công: Đàn bà đã mang nặng, lại phải đẻ đau, trong khi đàn ông chỉ
hưởng cái sướng mà không chịu chung cái khổ. Thượng đế bèn ra lệnh: Đàn
bà đẻ, dàn ông đau. Lệnh truyền ra thấy nguy quá. Một bà nọ đẻ, chồng không
thấy đau mà ông hàng xóm lại đau… Bài “Cả nhà đều hay thơ" [129] cũng chỉ
là một chuyện vui. Mở đầu câu chuyện, ông viết: “Nói chuyện đời nay mãi
cũng chán: Chẳng những Thông Reo chán mà có lẽ độc giả cũng chán. Vậy
hôm nay tôi xin nói một chuyện đời xưa để cống hiến các bạn gọi là “đổi bữa
cho vui”.
Một tâm hồn trẻ trung, thích vui đùa như thế, kết hợp với một đầu óc
phê phán rất sắc sảo, đã tạo ra ở Phan Khôi một hứng thú châm biếm giễu cợt
như một nét phong cách cơ bản của văn nghị luận, bút chiến Phan Khôi. Ông
viết một loạt bài gọi là tiểu phẩm hay hài đàm với tiếng cười đả kích vừa
hoạt bát hiện đại học được của phương Tây, vừa sâu sắc thâm thúy của
một nhà nho.
Tiếng cười châm biếm của Phan Khôi thường được tạo ra bằng thủ
pháp sau đây: Nhân một sự kiện nào đó, một tin tức thời sự nào đó trong nước
hoặc trên thế giới, tóm bắt được qua báo chí, ông liên tưởng đến một mặt tiêu
cực nào đó trong xã hội mình, tạo ra một mâu thuẫn nực cười. Liên tưởng
càng bất ngờ, tác dụng gây cười càng thú vị. Ở đây, sự hóm hỉnh và đầu óc
thông minh giữ vai trò quyết định.
Ví dụ: Nhân một tờ báo Pháp đưa tin có một người vừa câm, vừa điếc,
anh ta leo thang gác bị gẫy tay, bỗng nhiên nói được, nghe được, Phan Khôi
bèn viết bài “Các ông hội đồng ta mỗi ông nên ở mọt cái nhà lầu” [122]. Nhà
lầu thì mới có thang gác. Các ông leo lên, leo xuống có thể ngã. Nhưng nhờ
đó, may ra các ông mới khỏi mù, khỏi câm, khỏi điếc. Một liên tưởng quá bất
ngờ, tạo nên một đòn đả kích rất ác đối với các ông nghị gật.
175
Có một thông tin: Ở Trung Quốc người ta vừa xuất bản cuốn sách tên là
“Bất diệt để” nghĩa là “Không tới nơi”. Cuốn sách nói rằng, không thể biết
được giới hạn của nó. Cuốn sách kết luận “sự nghĩ, sự biết, sự làm, đừng nên
yêu cầu tới nơi làm chi”. Phan Khôi bèn viết bài “Không tới nơi”(Trung lập,
số 6377, ngày 26-02-1931). Ông liên hệ đến nước mình: “Theo cái học thuyết
này thì có lẽ An Nam ta là đúng lắm. Cái gì chúng ta cũng có mà cái gì cũng
không ra cái gì cả, cái gì cũng không tới nơi”.
Ông đọc báo Tây thấy có chuyện này: Người ta thành lập Hội nghiên
cứu triết học. Hội này đưa ra cái thuyết “Không biết được” (Agnosticisme),
Phan Khôi bèn viết bài “Không biết được” [124] để giễu Hội Nam kỳ cứu tế
nạn dân và Nguyễn Phan Long, Chủ báo Đuốc Nhà Nam. Hội Nam kỳ cứu tế
nạn dân lạc quyên tiền để gửi ra cứu tế nạn dân ngoài Bắc. Hội thu của một cơ
quan 4000 đồng mà không thấy gửi ra. Hỏi, trả lời: “Không biết được”; còn
ông Nguyễn Minh Doãn thì hùn vốn cho báo Đuốc Nhà Nam để kinh doanh.
Ông hỏi Nguyễn Phan Long lời lỗ ra sao. Trả lời: “Không biết được”. Kết
luận: Thế là Việt Nam đã có cái học thuyết “Không biết được” rồi không cần
tìm đến cái triết học Agnosticisme bên Tây kia làm gì.
Có những liên tưởng chứa đựng ý nghĩa phê phán vừa sâu vừa sắc,
đồng thời tạo ra tiếng cười đầy vị cay đắng, chua chát, cười ra nước mắt: Một
thông tin thời sự nóng hổi cho biết, có một người Tây đánh chết một người
Việt Nam. Anh ta khai trước tòa là mắc bệnh điên, nên không biết gì cả. Thế
là tòa xử trắng án.
Phan Khôi liền viết bài “Bệnh điên của người Tây” [125] nói rằng Tây
và ta khác nhau đủ thứ, điên cũng khác nhau. Người Tây văn minh nên điên
cũng văn minh Agnosticisme Agnosticisme, không như người ta, điên thì ăn
nói bậy bạ, bỏ ăn bỏ ngủ, xé quần xé áo, cởi truồng xuống phố… Tây điên rất
văn minh, cứ y như người khỏe mạnh bình thường vậy thôi!
Thủ pháp liên tưởng được vận dụng có lẽ bất ngờ nhất, thần tình và thú
vị nhất là ở bài “Trong trần ai kẻ mày râu” [123]. Nhân chuyện nghề dệt lĩnh
176
phát triển rất ồ ạt (lĩnh là thứ lụa trơn mát, màu đen, tránh lộ vết bẩn, dùng để
may váy hay quần cho phụ nữ), Phan Khôi liên hệ một cách bất ngờ để giễu
đàn ông. Ông cho rằng đàn ông nước ta thành đàn bà hết rồi nên nước ta mới
tiêu thụ lĩnh nhiều đến như vậy chứ “Ấy là cái triệu cho ta biết rằng An Nam
rầy về sau sẽ không còn đàn ông nữa vì bao nhiêu đàn ông Agnosticisme
Agnosticisme Agnosticisme Agnosticisme hiện thời sẽ biến ra đàn bà hết (…)
Chẳng người nào còn khía có góc nữa, lãng trơn hết thẩy (…) không còn ai
tinh khiết nữa, người nào cũng không khỏi dơ dáy làm cho mình cần dùng đồ
đen mà che đậy cho nó khuất lấp đi. Than ôi!”
Trong bài “Cái địa vị khôi hài trên đàn văn học” (Trung lập, số 6481,
ngày 04-7-1931), ông cho rằng, khôi hài là thể hiện “cái tư tưởng tự do”, “cái
khí phách độc lập”, “Ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được chuyện
giễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn”, kẻ “nói chơi không biết,
nói thiệt không hay” là “ngu đần”.
4.3. Những đóng góp của Phan Khôi trong phát triển thể loại bình
luận, chuyên luận
4.3.1. Sự ra đời và những đặc điểm cơ bản của thể loại bình luận,
chuyên luận (loại tác phẩm chính luận)
Bình luận, có thể coi là một phái sinh của tin tức khi nó lấy sự kiện làm
hạt nhân, xuất hiện trên khắp các mặt báo. Bút chiến, một phía phát triển khác
của bình luận nhưng với một lối tư duy nặng về lập luận chặt chẽ và một văn
phong hùng biện, làm nên bản sắc của nhiều cây bút và nhiều tờ báo.
Đối tượng phản ánh của loại tác phẩm này là các sự kiện, hiện tượng,
vấn đề thời sự mà xã hội quan tâm, muốn nhận thức về những mối quan hệ
phức tạp, tính quy luật, nguyên nhân cũng như xu hướng vận động của chúng.
Chất lượng thông tin trong loại tác phẩm chính luận chủ yếu là những phán
đoán khái quát dựa trên sự phân tích, lý giải toàn diện các mối quan hệ bên
trong và bên ngoài của sự kiện, vấn đề.
177
"Đặc điểm cơ bản của các thể loại này là "luận" để bày tỏ quan điểm,
thái độ của người viết, thông qua các luận điểm, luận cứ, luận chứng theo lối
quy nạp hoặc diễn dịch; trình bày lô gíc, khoa học. Nhóm thể loại này chủ yếu
là bàn và luận" [17, tr.18].
Ngôn ngữ của loại tác phẩm chính luận thường mang tính lôgic, luận
lý. Kết cấu của các tác phẩm thuộc loại này thường hình thành theo các quy
luật của tư duy, liên kết chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.
Mục đích thông tin của loại tác phẩm chính luận nhằm giúp công
chúng nhận thức hợp lý về tính chất và bản chất của các sự kiện, vấn
đề thời sự. Trên cơ sở đó, nó tạo điều kiện để hình thành trong công
chúng phương pháp tư duy đúng đắn về sự vận động, phát triển của
xã hội nói chung [98, tr.184].
4.3.2. Phan Khôi viết thể loại bình luận, chuyên luận trên Đông Pháp
thời báo và Trung Lập
Một số bài bình luận thời sự chính trị tiêu biểu của Phan Khôi đăng trên
Đông Pháp thời báo, như “Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại
biểu viện xứ ấy” (Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 761, ngày 28-8-1928) hay
“Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông
Pháp” (Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 762 ngày 30-8-1928).
Là người ưa phản biện và khởi nguồn cho những cuộc tranh luận lớn
trên báo chí, Phan Khôi đưa ra những lập luận chặt chẽ, bàn luận, trao đổi để
tìm ra những câu hỏi cho những vấn đề lớn đang đặt ra trong xã hội, được
công chúng quan tâm. Trong đó, có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc
bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là
"cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII"; các vấn đề
về tư tưởng, học thuật, như phản bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học
giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở
Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương
178
Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là
phải "Âu hoá", phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình
độ của thế giới hiện đại: “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu” [44];
“Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát” [45];
“Tư tưởng của Tây phương và Đông phương” [46]; “Bác cái thuyết tân cựu
điều hoà” [47] là những bài bình luận sắc sảo.
Về chuyên luận, chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới,
Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập - Đuốc nhà Nam
xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ, khi mà
nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của Đảng Lập
hiến dấu mặt im lặng.
Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng tất cả đều do Phan Khôi viết:
“Như Phan Khôi ít lâu sau (trên Trung lập, ngày 19-7-1930) nói rõ: Những
bài bút chiến với báo Đuốc nhà Nam, những bài phê bình đảng Lập hiến ở
Nam Kỳ, tuy ký tên tòa soạn Trung lập nhưng đều do Phan Khôi viết” [3,
tr.242]. Ông nói rõ: “Gần nay, trong Trung lập, những bài bút chiến với quý
báo và những bài công kích Đảng Lập hiến đều do tay tôi viết ra. Tôi nghĩ
rằng theo phép làm báo đúng đắn, khi công kích một cái cơ quan hay một cái
đoàn thể nào, ký tên của tờ báo thì có vẻ trịnh trọng hơn là ký tên của người viết,
vì vậy nên luôn luôn tôi ký tên Trung lập mà không ký tên tôi, chớ chẳng phải
tôi nhút nhát hay là sợ sệt gì”(Trung lập, Sài Gòn, số 6200, ngày 19-7-1930).
Cụ thể là, trên tờ Trung lập từ ngày 20-6-1930, được bắt đầu từ mục “Ý
kiến Trung lập”, về sau vượt khỏi mục đó để trở thành những bài báo dài,
trong phạm vi bút chiến với Đuốc nhà Nam, sau đó là loạt bài "Về các cuộc
biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi" và loạt bài nói về Đảng Lập Hiến ở Nam Kỳ,
xen kẽ còn có thêm các bài nhỏ thể hiện các đối đáp với báo Đuốc nhà Nam,
Phan Khôi (bút danh Trung Lập). Những bài chuyên luận này đã đi từ việc
bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (các nghị viên
179
Hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia Đảng Lập hiến) trước
những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng.
Chuỗi bài này được bắt đầu từ bài Ý kiến Trung lập: “Phải nói minh
bạch” (Trung lập, Sài Gòn, ngày 20-6-1930), qua một loạt bài: “Trung lập xin
nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử?” [111]; “Trung
lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì
phải chịu” [112]; “Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở
thành cuộc bút chiến thì phải thế nào?” [113]; và 4 bài nhỏ đều đăng trên
Trung lập ngày 25 - 6 - 1930: “Ai nói dối?”; “Bây giờ chúng tôi mới biết cái
văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long”; “Trung lập giành lại cái nhân
cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ”; "Kiến hiền tư tề yên"… Tiếp đó,
đến loạt bài về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi (kỳ I - IV) từ 26-6- 930
đến 30-6-1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của Đảng Lập hiến Nam
Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2-7-1930, đến kỳ XIII, 25-7-1930,
với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập
hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh
trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần
với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...).
Năm 1929, trên báo Thần chung, Phan Khôi đã có bài luận về bút
chiến. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn
Phan Long. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân
người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12 - 7 -
1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài "Viếng mộ ông Lê Chất"
của Phan Khôi rồi viết rằng "người mình có cái tật "vì người mà bỏ lời nói"
nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến", tức là
mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi). Phan Khôi
đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám, đồn ông là mật thám của
khâm sứ Trung Kỳ, ông buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng
180
cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường
ngôn luận" (Trung lập, Sài Gòn, ngày 19-7-1930); "Một sự buồn trong báo
giới” (Trung lập, ngày 21-7; 24-7; 01-8-1930).
Một bài bình luận cũng rất quan trọng nữa là bài báo đăng 4 kỳ, có
nhan đề "Vấn đề cải cách" (Trung lập các số ra ngày 9-8; 12-8; 13-8; 18-8-
1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để
khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư
tưởng mà duy tân cải cách trước", đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.
Ngay trong "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần của tờ Trung
lập, ngoài những mục như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, mục "Giấy thừa
mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn và lượng khá lớn bài vở trong
đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam, Phan Khôi
cũng có những bài chuyên luận, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như
"đạo văn". Cụ thể là, trên Phụ trương văn chương số 41, ngày 13-2-1932Cao
Minh Chiếm đã "tố giác cái án đạo văn" nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp
thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác. Tác giả Mai
Lan Quế nhận thấy sự vô lý này, trên Phụ trương văn chương số 47, ngày 26-
3-1932, đã đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi trên Phụ trương văn
chương số 48, ngày 02-4-1932 giải rõ thế nào là "đạo văn" và xác định những
trường hợp ấy không phải là "đạo văn", hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có
những sáng tác gây tổn thương phong hoá.
Tiểu kết chương 4
Trong thời gian đầu khá dài, tính không chuyên nghiệp là một đặc điểm
lớn đã chi phối tất cả mọi hoạt động của nền báo chí non trẻ nước ta. Chúng ta
chưa có một đội ngũ nhà báo thực thụ, phần lớn các nhà báo xuất thân từ nhà
văn, họ viết báo bằng những kinh nghiệm của viết văn và hầu như không có
khái niệm rõ ràng về các thể loại báo chí. Qua hoạt động báo chí của mình,
Phan Khôi đã có những đóng góp quan trọng trọng phát triển thể loại tác
phẩm báo chí và kỹ năng làm báo:
181
Một là, những năm đầu thế kỷ XX diễn ra sự chuyển dịch từ văn học
sang báo chí, chính là các thể loại vốn có ranh giới mong manh giữa hai loại
hình lấy văn tự làm phương tiện này: tiểu phẩm, ký sự, phóng sự, phóng sự
điều tra, thường được "rút gọn" thành hai thể loại tiểu phẩm và phóng sự.
Đến cuối những năm 20 và những năm 30 của thế kỷ XX, các thể loại báo
chí Việt Nam đã định hình khá rõ nét, có phần được chiếu theo những tiêu
chí của báo chí phương Tây. Bên cạnh những thể loại cũ, một số thể loại
mới xuất hiện, trong đó có hài đàm (một loại tiểu phẩm báo chí). Tiểu
phẩm có gốc gác từ thể loại tạp văn của văn học, một thể loại vốn được các
nhà văn, đặc biệt là các nhà văn phương Đông ưa chuộng. Các thể loại
"nhỏ" của văn học thường được xếp vào khu vực này: nhàn đàm, nhàn
tưởng, thư từ, sổ tay... với đặc điểm chung là dung lượng nhỏ và có yếu tố
ngẫu hứng. Đặc điểm này ngay lập tức được phát huy trên báo chí để đáp
ứng nhu cầu cập nhật thông tin của xã hội. Chỉ cần nhìn vào tên của các
chuyên mục dành cho tiểu phẩm trên mặt báo sẽ thấy ngay điều này: Nói
hay đừng, Guồng trần xoay máy, Câu chuyện hàng ngày, Câu chuyện hàng
tuần... Cùng với việc diễn ra các cuộc tranh luận về các vấn đề về học
thuật, về đời sống xã hội (như đề cập trong chương 3), là sự xuất hiện của
các bài báo thuộc thể loại bình luận, chuyên luận nhằm làm sáng tỏ những
nội dung tranh luận. Bằng lao động sáng tạo của mình, trong vai trò người
viết chính của chuyên mục Câu chuyện hàng ngày trên Thần chung, Trung
lập và vai trò trung tâm của các cuộc tranh luận trên báo chí đầu thế kỷ
XX, Phan Khôi đã có những đóng góp quan trọng trong việc định vị và
phát triển thể loại tiểu phẩm báo chí, bình luận, chuyên luận nói riêng và
phát triển thể loại tác phẩm báo chí nói chung trong những năm 20 - 30 của
thế kỷ XX. Đây chính là một trong những bước tiến, đưa hoạt động báo chí
nói riêng, diện mạo báo chí Việt Nam mang tính chuyên nghiệp, đến gần
hơn với những tiêu chí phát triển của báo chí thế giới.
182
Hai là, tinh thần “nhập cuộc”, sự trau dồi kiến thức uyên thâm, sự
phong phú trong ý tưởng, sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức sâu sắc về đạo đức
nghề nghiệp, về vai trò và trách nhiệm của nhà báo trong việc tác động vào xã
hội thông qua hoạt động nghề nghiệp đã tạo nên một phong cách Phan Khôi
của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc đời hoạt động báo chí của Phan
Khôi đã để lại những bài học kinh nghiệm còn nguyên giá trị mang tính thời
sự đối với những người làm công tác nghiên cứu cũng như hoạt động thực
tiễn báo chí ngày nay.
183
KẾT LUẬN
Phan Khôi là một trong những người đầu tiên thuộc thế hệ đa tài giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, thế hệ được sinh ra và sống trong thời kỳ lịch sử
mang tính bản lề quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam cận - hiện
đại. Có thể nói, đây chính là giai đoạn quyết định chiều hướng phát triển của
Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo, tạo ra những tiền đề tư tưởng, tổ chức
và lực lượng cho sự phát triển của các phong trào giải phóng dân tộc và thắng lợi
của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Đây cũng là thời kỳ nền văn hóa Nho học và Tây học cùng lúc ảnh hưởng
đến nền văn hóa Việt nam. Trong điều kiện lịch sử ấy, Phan Khôi đã lựa chọn
cho mình con đường để cống hiến, đó là tham gia hoạt động báo chí: quản lý cơ
quan báo chí khi ông sáng lập và làm chủ nhiệm tờ Sông Hương; là cây bút
chính của nhiều tờ báo, nhất là thời gian ông tham gia hoạt động báo chí ở Sài
Gòn; cộng tác, viết bài cho hàng chục tờ báo khắp hai miền Nam - Bắc.
Qua nghiên cứu di sản khổng lồ các tác phẩm cũng như cuộc đời hoạt
động báo chí của Phan Khôi, trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX cùng với kế thừa những đánh giá, nghiên cứu về ông, có thể thấy, trong
suốt cuộc đời làm báo của mình, Phan Khôi đã có những đóng góp to lớn thúc
đẩy sự phát triển của báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX:
1. Với tư cách của một nhà báo - học giả, Phan Khôi có những đóng
góp quan trọng trong phát triển báo chí Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp,
từ tổ chức tòa soạn (là những lúc ông trong vai trò người sáng lập tờ báo, chủ
nhiệm một cơ quan báo chí, chủ bút của một tờ báo), đến định vị và phát triển
thể tài, thế loại báo chí mới (tiêu biểu là tiểu phẩm báo chí - thời của ông gọi
là hài đàm, nhàn đàm, bình luận, chuyên luận), góp phần đưa báo chí Việt
Nam có những bước chuyển, từ chỗ văn - báo bất phân, có thể đến gần hơn
với những tiêu chí phát triển của báo chí thế giới. Ngòi bút tài năng của ông
184
đã hướng vào tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội với một niềm say mê
và lòng nhiệt huyết yêu nghề, nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn cuộc sống. Văn
phong báo chí của ông là tiếng nói sắc sảo, thẳng thắn và rất hoạt. Ông là một
trong những nhà báo tiên phong trong lĩnh vực văn xuôi báo chí. Với kiến
thức uyên thâm, tiếp thu những tiến bộ của văn minh phương Tây, Phan Khôi
thổi hồn hiện đại vào các tác phẩm báo chí của mình, xây dựng phong cách
làm việc của một nhà báo chuyên nghiệp. Vị trí "ngôi sao" (từ dùng của nhà
văn Thiếu Sơn) của Phan Khôi trong nghề, sức hấp dẫn của các tác phẩm báo
chí của Phan Khôi trong lòng công chúng và khả năng tạo nên sức hút đặc
biệt, sự quan tâm của xã hội đối với các tờ báo ông tham gia hoặc trực tiếp
sáng lập, làm chủ bút đã khẳng định những giá trị, những đóng góp không nhỏ
của ông vào sự phát triển của báo chí nửa đầu thế kỷ XX.
Những đóng góp tiêu biểu:
Một là, qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi đã có phát triển
nhận thức mới về nghề báo, kỹ năng làm báo. Vốn kiến thức uyên thâm cùng
sự phong phú trong ý tưởng, sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức rõ vai trò, trách
nhiệm của nhà báo trong việc tác động vào xã hội thông qua hoạt động nghề
nghiệp và sự ý thức sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp chính là những yếu tố tạo
nên một phong cách Phan Khôi của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hai là, bằng lao động sáng tạo của mình, trong vai trò người viết chính
của chuyên mục Câu chuyện hàng ngày trên Thần chung, Trung lập và vai trò
trung tâm của các cuộc tranh luận trên báo chí đầu thế kỷ XX, Phan Khôi đã
có những đóng góp quan trọng trong việc định vị và phát triển các thể loại
tiểu phẩm báo chí, bình luận, chuyên luận nói riêng và phát triển thể loại tác
phẩm báo chí nói chung trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Đây chính
là một trong những bước tiến, đưa hoạt động báo chí nói riêng, diện mạo báo
chí Việt Nam mang tính chuyên nghiệp, đến gần hơn với những tiêu chí phát
triển của báo chí thế giới.
185
2. Qua hoạt động báo chí, Phan Khôi bộc lộ khả năng của một nhà tư
tưởng sớm biết đặt ra những vấn đề giá trị di sản Nho giáo cổ truyền trước
thời đại mới, trực tiếp đưa ra những quan niệm mới về luân lý, bình đẳng và
dân chủ, tiếp nhận tư tưởng Tây Âu để đổi mới xã hội. Với vốn kiến thức
uyên thâm cả Nho học và Tây học, ông có điều kiện đối chiếu, sàng lọc để
chắt lấy những tinh hoa của từng phía, nhằm cổ vũ, truyền bá một mô hình
văn hóa Việt mới, trong đó, chú trọng chuyển đổi nhận thức, tư duy, như đầu
mối của công cuộc cải cách. Trong môi trường hoạt động nghề nghiệp, thực
tiễn sinh hoạt, ông tiếp cận, cập nhật tri thức và các sự kiện thế giới, cũng như
giao lưu, tiếp xúc với nhiều đối tượng, tầng lớp; qua đó, thường xuyên được
học hỏi, tiếp nhận đa dạng các thực tiễn, tích lũy nhiều kinh nghiệm... Trên cơ
sở đó, ông có điều kiện phát triển một nhận thức và tư duy dân chủ, hiện đại;
với cách nhìn, cách nghĩ cởi mở, khoáng đạt... là tiền đề cho các tư tưởng và
quan niệm nhân sinh tiên tiến, đậm chất nhân bản. Không đáng ngạc nhiên khi
tác giả của những bài báo kịp thời, hữu ích, đáp ứng được nhu cầu đời sống
thường nhật của quần chúng ấy, ông trở thành người hướng đạo về tinh thần
cho người đọc, vừa là thày khi truyền đạt tri thức, vừa là bạn khi tranh luận...
Những giá trị này dựng nên chân dung ông - nhà báo - học giả.
Những đóng góp tiêu biểu:
Một là, những quan điểm chính trị - xã hội tích cực trong các tác phẩm
báo chí của Phan Khôi là những đóng góp quan trọng góp phần nâng cao nhận
thức chính trị, xã hội của công chúng, đem lại cho công chúng những kiến
thức, những hiểu biết có chiều sâu về những giá trị lịch sử của dân tộc. Đây là
những kiến thức quan trọng, trong bối cảnh đất nước đang bị đặt dưới ách đô
hộ của thực dân Pháp.
Hai là, với tinh thần yêu nước, đứng về phía nhân dân, thông qua hoạt động
báo chí của mình, Phan Khôi đã thẳng thắn phê phán thể chế chính trị đương thời,
cụ thể là phê phán chủ trương “Pháp - Việt đề huề” của Đảng Lập hiến.
186
Ba là, với vốn kiến thức sâu rộng, uyên bác, Phan Khôi đã đưa ra
những quan điểm về con đường phát triển đất nước - muốn phát triển phải
thực hiện cải cách theo tư tưởng tiến bộ của Phương Tây.
3. Cũng từ hoạt động báo chí, Phan Khôi thể hiện được vai trò của
một nhà văn hóa lỗi lạc. Ông là một trong những người đầu tiên đưa sự giao
lưu, gặp gỡ giữa hai nền văn hóa, văn minh phương Đông và phương Tây, rõ
nhất là xây dựng quan niệm mới về người phụ nữ trong sự bình đẳng giới,
xem đổi mới vị trí người phụ nữ là góp phần đổi mới xã hội. Nổi tiếng là cây
bút phê phán thói hư, tật xấu của bọn quan lại nhà Nguyễn và thực dân Pháp
một cách công khai, tìm kiếm sự công bằng, lẽ phải cho nhân dân, ông giới
thiệu những cách hiểu và đem lại những cách tiếp cận mới về nền văn hóa
của các nước trên thế giới với mong muốn dân ta được mở mang tầm mắt
cũng như tự biết trang bị cho mình vốn kiến thức để nâng cao hiểu biết.
Trong hoạt động nghề nghiệp, ông vừa sử dụng tiếng Việt, vừa nghiên cứu
tiếng Việt như một nhà Việt ngữ học và có những đóng góp quan trọng vào
sự phát triển báo chí tiếng Việt nói riêng, phát triển tiếng Việt trong thời
hiện đại nói chung. Với những đóng góp trong phát triển tiếng Việt và mở
mang giáo dục thông qua hoạt động báo chí của mình, Phan Khôi xứng đáng
với vai trò của một trong những nhà văn hóa có công trong khai hóa dân trí
đối với dân tộc Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Những đóng góp tiêu biểu:
Một là, các bài viết mang chức năng thông tin, giới thiệu tri thức mới,
bàn luận, lý giải các vấn đề nhân sinh thiết thực, nhận định về các sự kiện thời
sự..., việc gợi mở, khai hỏa các cuộc tranh luận về chủ đề, trong đó có các vấn
đề về nữ giới, mang lại những tác động tích cực, sâu sắc đối với sự chuyển
biến các quan niệm, tập quán văn hóa.
Hai là, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi đóng góp những nghiên cứu
phát triển góp phần hoàn thiện tiếng Việt về các phương diện ngữ pháp, ngữ
187
âm, từ vựng; đặt ra những yêu cầu về sự phát triển cách diễn đạt hiện đại vào
ngôn ngữ báo chí, nhằm đưa hoạt động báo chí vào chuyên nghiệp. Ông đặt
ngôn ngữ trong mối quan hệ của văn hóa, xã hội, và khẳng định yêu cầu như
một tất yếu để đất nước phát triển, đó là phổ biến và phát triển tiếng Việt
trong nhân dân, trong xã hội.
4. Bên cạnh những đóng góp quan trọng trên, ông cũng có những
hạn chế. Là người mang đậm tư duy trọng lý, có những lúc, trong nhìn
nhận vấn đề, ông trọng lý đến mức cực đoan, để rồi thiếu đi sự linh hoạt
và tính biện chứng trong phân tích, đánh giá các sự việc, hiện tượng của
đời sống xã hội. Tinh thần nhập thế, ưa phản biện, có những lúc ông đưa
ra những quan điểm, nhận định về đời sống chính trị, văn hóa, xã hội chưa
thực sự phù hợp, và cũng vẫn theo góc nhìn nhận, đánh giá có phần cực
đoan. Tuy nhiên, những hạn chế này, trong thời điểm lịch sử cụ thể đối
với một người gắn bó với nghiệp viết, một trong những người thuộc thế
hệ xuất chúng giai đoạn chót của thời kỳ cận đại chuyển sang hiện đ ại -
rất ủng hộ cách tân, đổi mới - chúng ta hoàn toàn có thể hiểu và chia sẻ.
Với việc phân tích, làm sáng tỏ được những đóng góp của Phan Khôi
đối với báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX - một nội dung mà do nhiều nguyên
nhân, chúng ta chưa đề cập và nghiên cứu một cách đầy đủ, đã một mặt khẳng
định vai trò của ông - một trong những nhà báo tiêu biểu hàng đầu góp phần
tạo nên diện mạo của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX, mặt khác, đây cũng là
sự bổ sung một cách nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong nghiên cứu lịch sử báo
chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu góp một cách nhìn mới,
đánh giá công bằng hơn đối với sự nghiệp báo chí của Phan Khôi, bên cạnh
những hạn chế của ông trong quan điểm chính trị ở những thời điểm lịch sử
cụ thể. Có thể nói, tinh thần “nhập cuộc”, sự trau dồi kiến thức uyên thâm
cộng với ý tưởng và sự sắc sảo của ngòi bút, ý thức sâu sắc về đạo đức nghề
nghiệp, về vai trò và trách nhiệm của người làm báo vẫn là những bài học
188
kinh nghiệm còn nguyên giá trị và mang tính thời sự đối với những người làm
công tác nghiên cứu cũng như hoạt động thực tiễn báo chí ngày nay.
Thiết nghĩ, cần tiếp tục có những nghiên cứu thêm về các nội dung:
quan điểm chính trị gắn liền với ý thức dân tộc trong các tác phẩm báo chí của
Phan Khôi; nghệ thuật viết báo của Phan khôi; những đóng góp của Phan
Khôi trong sử dụng tiếng Việt, phát triển lối diễn đạt hiện đại vào báo chí Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX; Bài học cho những người làm báo ngày nay. Đây sẽ
là những nghiên cứu để có những kết luận đầy đủ hơn về một nhà báo tài
năng có rất nhiều đóng góp vào sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ
XX, khắc họa chân dung Nhà báo - học giả Phan Khôi trong bức tranh tổng
thể của nền báo chí Việt Nam.
189
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Thành (2014), "Những đóng góp của Phan Khôi đối với phát
triển tiếng Việt trong báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX", Tạp chí Lý
luận chính trị & truyền thông, (8).
2. Phạm Thị Thành (2014), "Những đóng góp về quan điểm chính trị - xã hội
trong các tác phẩm báo chí của Phan Khôi", Tạp chí Người làm báo
- Hội nhà báo Việt Nam, (75).
190
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Lại Nguyên Ân (2003), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1928, Nxb Đà
Nẵng và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
2. Lại Nguyên Ân (2005), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1929, Nxb Đà
Nẵng và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
3. Lại Nguyên Ân (2006), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1930, Nxb Hội
Nhà văn và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
4. Lại Nguyên Ân (2006), “Liệu có thể xem Phan Khôi (1887 - 1959) như
một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?” (Tham luận tại Hội thảo
khoa học “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945”
tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26-5-2006).
5. Lại Nguyên Ân (2007), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1931, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân (2007), Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (2007), “Phan Khôi và báo chí Sài Gòn những năm 1920
- 1930)”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (số 8-2007).
8. Lại Nguyên Ân (2008), Phạm trù chủ nghĩa cá nhân của tư tưởng
Phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi, Hội thảo khoa học: Lý
luận văn học Việt Nam thế kỷ XX, do Khoa Ngữ văn Đại học Sư
phạm Hà Nội tổ chức, ngày 07-6-2008.
9. Lại Nguyên Ân (2009), “Đông Hồ bàn về quốc văn”, Mênh mông chật
chội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
10. Lại Nguyên Ân (2009), “Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm
1928 trên Đông Pháp thời báo”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
191
11. Lại Nguyên Ân (2009), “Một cuộc thảo luận về sách giáo khoa tiếng Việt
trên báo chí Sài Gòn 1929 - 1930”, Mênh mông chật chội, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
12. Lại Nguyên Ân (2009), “Suy nghĩ từ hành trình khai quật quá khứ”,
Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
13. Lại Nguyên Ân (2010), Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1932, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
14. Báo Quân đội nhân dân (2007), "Tọa đàm tưởng niệm cố nhà văn, nhà
báo Phan Khôi", ngày 07-10-2007.
15. Hồng Chương (1987), Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb Sách Giáo
khoa Hà Nội.
16. Phan Cừ và Phan An (1996), Phan Khôi niên biểu, Chương dân di thoại,
Nxb Đà Nẵng.
17. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2010), Tác phẩm báo chí (tập Hai), Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
18. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao
động, Hà Nội.
19. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao
động, Hà Nội.
20. PGS.TS Nguyễn Văn Dững (Chủ biên), TS Đỗ Thị Thu Hằng (2012),
Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
22. Đông Pháp thời báo, các số năm 1924, 1925, 1926, 1927, Sài Gòn.
23. Đông Pháp thời báo, (số 714), ngày 1-5-1928, Sài Gòn.
24. Đông Pháp thời báo, ngày 10-7-1928, Sài Gòn.
25. Đông Pháp thời báo, (số 751), ngày 02-8-1928, Sài Gòn.
26. Đông Pháp thời báo, (số 762), ngày 30-8-1928, Sài Gòn.
192
27. Đông Pháp thời báo, ngày 19-5-1928, Sài Gòn.
28. Đông Pháp thời báo, (số 771), ngày 20-9-1928, Sài Gòn.
29. Đông Pháp thời báo, (số 774), ngày 27-9-1928, Sài Gòn.
30. Đông Pháp thời báo, ngày 27-9 và 02-10-1928, Sài Gòn.
31. Đông Pháp thời báo, ngày 11-10-1928, Sài Gòn.
32. Đông Pháp thời báo, (số 785), ngày 23-10-1928, Sài Gòn.
33. Đông Pháp thời báo, (số 807), ngày 18-12-1928, Sài Gòn.
34. GS Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lý luận báo chí: đặc tính chung và
phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Vu Gia (2003), Phan Khôi, Tiếng Việt, Báo chí và Thơ mới, Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Kiều Xuân Bá (1963), Lịch sử cận đại
Việt Nam, tập 4 (1919 - 1930), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập I: “Hệ ý thức phong kiến và sự
thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
38. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám, tập II: “Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của
nó trước các nhiệm vụ lịch sử”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Nguyễn Mạnh Hùng (1980), Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ XX, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Đỗ Quang Hưng (Chủ biên) (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 -
1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Khang (2007), “Học giả Phan Khôi với Việt ngữ nghiên
cứu”, Tạp chí Xưa và nay, (292).
42. Phan Thị Mỹ Khanh (1960), “Cha tôi - ông Phan Khôi” (kỳ 1 và 2), Tạp
chí Phổ thông, (số 29, ngày 01-3-1960) và (số 30, ngày 15-3-1960).
43. Phan Thị Mỹ Khanh (2001), Nhớ cha tôi Phan Khôi, Nxb Đà Nẵng.
193
44. C.D (Phan Khôi) (1928), “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu”,
Đông Pháp thời báo, (số 748), ngày 26-7-1928, Sài Gòn.
45. C.D (Phan Khôi) (1928), “Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái
thuyết Âu châu sắp tan nát”, Đông Pháp thời báo, (số 769), ngày
15-9-1928, Sài Gòn.
46. C.D (Phan Khôi) (1928), “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”,
Đông Pháp thời báo, (số 774), ngày 27-9-1928, Sài Gòn.
47. C.D (Phan Khôi) (1928), “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”,
Đông Pháp thời báo, (số 776), ngày 02-10-1928, Sài Gòn.
48. Phan Khôi (1929), Phụ nữ Tân văn, (số 22), ngày 03-10-1929, Sài Gòn.
49. Phan Khôi (1930), “Cuốn sách Nho giáo gợi ý cho chúng tôi”, Phụ nữ
Tân văn, (số 56), ngày 12-6-1930, Sài Gòn.
50. Phan Khôi (1930), “Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long chủ nhiệm Đuốc
Nhà Nam”, Trung lập, (số 6200), ngày 19-7-1930, Sài Gòn.
51. Phan Khôi (1930), “Ý kiến chúng tôi về Đảng Lập Hiến nay sắp sau”,
Trung lập, (số 6205), ngày 25-7-1930, Sài Gòn.
52. Phan Khôi (1930), “Luận lý học cai trị cả mọi sự ở đời”, Trung lập, (số
6217), ngày 08-8-1930, Sài Gòn.
53. Phan Khôi (1930), Phần IV bài “Vấn đề cải cách”, Trung lập, (số 6220),
ngày 18-8-1930, Sài Gòn.
54. Thông Reo (Phan Khôi) (1931), “ Giấc mộng kỳ khôi”, Trung lập, ngày
10-2-1931, Sài Gòn.
55. Phan Khôi (1931), “Đôi điều nên biết về Nho giáo”, Đông Tây, (số 100
ngày 26-8-1931, số102 ngày 02-9-1931, số 103 ngày 05-9-1931; số
108 ngày 23-9-1931), Hà Nội.
56. Thông Reo (Phan Khôi) (1931), “Có phải văn chương quốc ngữ không
đắc dụng đâu”, Trung lập, (số 6559), ngày 07-10-1931, Sài Gòn.
57. Phan Khôi (1931), “Quyền ngôn luận tự do ở nước văn minh”, Đông
Tây, (số 125), ngày 21-11-1931, Hà Nội.
194
58. Phan Khôi (1931), “Quyền ngôn luận của ta nếu có chăng sẽ sản sinh sau
khi lập hiến”, Đông Tây, (số 131), ngày 12-12-1931, Hà Nội.
59. Phan Khôi (1936), “ Cái ác ý bởi nghề nghiệp”, Hà Nội báo, (số 23),
ngày 10-6-1936, Hà Nội.
60. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Văn nghệ.
61. Phan Khôi (1998), Chương dân di thoại, Nxb Đà Nẵng,
62. Phan Khôi (2003), Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.
63. G.V Lazutina (2004), Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
64. G.V Lazutina (2004), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp
nhà báo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
65. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Sài Gòn.
66. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
67. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam. Một số vấn đề
nghiên cứu, Nxb Thế giới, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (1959), Lên án chủ nghĩa thực dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.
69. Nam Phong tạp chí, các số năm 1917, 1918, 1919, 1920, 1921, 1922,
1923, 1924, 1925, 1926, 1927, 1928, 1929, 1930, 1931, 1932, 1933,
1934.
70. Phan Thị Nga (1936), “Lối tự học của những bực đàn anh nước ta”, kỳ 1:
Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận lý”, Hà Nội
báo, (số 10), ngày 11-3-1936, Hà Nội.
71. Võ Văn Nhơn (2006), “Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và
phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”,
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 9 (số 3).
72. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb Khai Trí/Thăng long, Sài Gòn.
73. Phụ nữ Tân văn, các số năm 1929, 1930, 1931, 1932, 1933, 1934, Sài Gòn.
74. Phụ nữ Tân văn, (số 28), ngày 07-11-1929, Sài Gòn.
75. Phụ nữ Tân văn, (số 54), ngày 29-5-1930, Sài Gòn.
195
76. Phụ nữ Tân văn, (số 56), ngày 12-6-1930, Sài Gòn.
77. Phụ nữ Tân văn, (số 62), ngày 24-7-1930, Sài Gòn.
78. Phụ nữ Tân văn, (số 69), ngày 11-9-1930, Sài Gòn.
79. Phụ nữ Tân văn, (số 22), ngày 03-10-1930, Sài Gòn.
80. Nguyễn Quân (2010), “Hai cuộc phục chế”, Báo Lao động cuối tuần,
ngày 09-7-2010.
81. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Nguyễn Ái Quốc (1975), Bản án chế độ Thực dân Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội.
83. RFI, ngày 15-12-1996: Tạ Trọng Hiệp nói về Phan Khôi: người xa lạ.
84. RFI, ngày 05-01-1997: Thụy Khuê giới thiệu những nét chính trong tư
tưởng Phan Khôi và vĩnh biệt Tạ Trọng Hiệp.
85. RFI, ngày 06-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân:
Hoạt động báo chí của Phan Khôi tại Nam Kỳ.
86. RFI, ngày 13-08-2005: Nói chuyện với nhà phê bình Lại Nguyên Ân:
Hoạt động của Phan Khôi trên các báo Thần chung, Phụ nữ Tân văn
và Trung lập.
87. RFI, ngày 15-12-2007: Nói chuyện với Lại Nguyên Ân về sự nghiệp của
Phan Khôi.
88. Thiếu Sơn (2003), "Bài học Phan Khôi", Thiếu Sơn, Toàn tập, Tập II,
Nxb Văn học, Hà Nội.
89. Sông Hương - Huế, các số năm 1936, 1937.
90. Tạp chí Tia sáng điện tử (2007), “Suy nghĩ từ hành trình khai quật quá
khứ", www.tiasang.com.vn, ngày 18-10-2007.
91. Văn Tâm (2004), “Phan Khôi”, Tự điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
92. Tân Việt (1928), “ Thơ viện với nhà làm báo”, Đông Pháp thời báo, (số
768), ngày 13-9-1928, Sài Gòn.
93. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 67), ngày 10-4-1929, Sài Gòn.
94. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 69), ngày 12-4-1929, Sài Gòn.
95. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 76), ngày 20-4-1929, Sài Gòn.
196
96. Tân Việt (1929), Thần chung, (số 174), ngày 18 và 19-8-1929), Sài Gòn.
97. Tạ Ngọc Tấn (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
98. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
99. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
100. Tạ Ngọc Tấn (2009), Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
101. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam 1932-1941, Nxb Văn
học, Hà Nội.
102. Nguyễn Thành (1984), Báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 1945), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
103. Thần Chung, các số năm 1929, 1930, Sài Gòn.
104. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu
thuyết và Thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
105. Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm Xuân Nam,
Bùi Đình Thanh (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
106. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
107. Tràng An báo, các số năm 1935, 1936, 1937, 1938, 1939, 1941, Huế.
108. Trung Lập báo, các số năm 1924, 1925, 1926, 1927, 1928, 1929, 1930,
1931, 1932, 1933, Sài Gòn.
109. Trung Lập, (số 187) ngày 24-5-1930, Sài Gòn.
110. Trung lập, (số 6176), ngày 20-6-1930, Sài Gòn.
111. Trung Lập, (số 6177), ngày 21-6-1930, Sài Gòn.
112. Trung lập, (số 6178), ngày 23-6-1930, Sài Gòn.
113. Trung lập, (số 6179), ngày 24-6-1930, Sài Gòn.
114. Trung lập, (số 6186), ngày 02-7-1930, Sài Gòn.
115. Trung lập, ngày 25-7-1930, Sài Gòn.
197
116. Trung lập, (số 6218), ngày 09-8-1930, Sài Gòn.
117. Trung lập, (số 6220), ngày 12-8-1930, Sài Gòn.
118. Trung lập, (số 6223), ngày 18-8-1930, Sài Gòn.
119. Trung lập, (số 236), ngày 30-8-1930, Sài Gòn.
120. Trung lập, (số 247), ngày 12-9-1930, Sài Gòn.
121. Trung lập, (số 6305), ngày 24-11-1930, Sài Gòn.
122. Trung lập, (số 6338), ngày 03-01-1931, Sài Gòn.
123. Trung lập, (số 6340), ngày 06-01-1931, Sài Gòn.
124. Trung lập, (số 6347), ngày 15-01-1931, Sài Gòn.
125. Trung lập, (số 6351), ngày 20-01-1931, Sài Gòn.
126. Trung lập, (số 6352), ngày 21-01-1931, Sài Gòn.
127. Trung lập, (số 6377), ngày 26-02-1931, Sài Gòn.
128. Trung lập, (số 6385), ngày 07-3-1931, Sài Gòn.
129. Trung lập, (số 6393), ngày 17-3-1931, Sài Gòn.
130. Trung lập, (số 6481), ngày 04-7-1931, Sài Gòn.
131. Trung lập, (số 6559), ngày 07-10-1931, Sài Gòn.
132. Hoàng Tuệ (2003), Tâm hồn và trí tuệ của Phan Khôi trong Việt ngữ
nghiên cứu, Nxb Đà Nẵng.
133. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam,
tập VII (1897 - 1918), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
134. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam,
tập VIII (1919 - 1930), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam,
tập IX (1930 - 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
II. Website:
136. http://thuykhue.free.fr của nhà báo Thụy Khuê (RFI).
137. http://www.viet-studies.info của Trần Hữu Dũng, giáo sư kinh tế đại học
Wright State University tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ.
138. http://www.talaws.org.